CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY A
MỤC LỤC
1. Biến hình
2. Những sự việc bình thường
3. Chúa biến hình
4. Núi Tabor hôm nay – ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt
5. Đỉnh cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai
6. Mắt đức tin, mắt của trái tim - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
7. Người biến đổi hình dạng
8. Biến đổi
9. Chúa biển đổi và biến đổi để theo Chúa – Anmai
10. Thiên Chúa vẫn còn hiển dung
11. Chúa hiển dung – Lm. Ignatiô Trần Ngà
12. Vinh quang – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
13. Con yêu dấu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
14. ''Bản tính khó dời'' – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
15. Hãy biết mình – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
16. Chúa Hiển Dung – Radio Veritas Asia
17. Con đường thập giá con đường vinh quang
18. Lên núi cao – Lm Giuse Lê Minh Thông
19. Đức Giêsu - Con đường cứu độ duy nhất
20. Chúa hiển dung bộ mặt nào?
21. Đường về đỉnh vinh quang
22. Biểu lộ chân dung – JM. Lam Thy
23. Biến hình
24. Đức Giêsu biến đổi hình dạng
25. Ý nghĩa đời sống ta là gì? - Achille Degeest.
26. Dõi theo bước Chúa – R. Veritas
27. Nghe Lời Người – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
28. Chúa tỏ hiện vinh quang R. Veritas
29. Biến hình – Richard Gutzwiller.
30. Con yêu dấu
31. Khuôn mặt ngời sáng – Thiên Phúc
32. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
33. Núi vinh quang
34. Mặt Người chiếu sáng như mặt trời
35. Nhỏ bé và tầm thường
36. Phêrô
37. Thập giá
38. Biến hình
39. Xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần
40. Hãy vâng nghe lời ngài
41. Vinh quang Thiên Chúa
42. Chúa biến hình – Lm. Thomas Túy
43. “Dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời”
44. Đây là Con Ta yêu dấu Noel Quession
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Hành trình theo Chúa Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Ơn gọi biến đổi hình dạng Lm Giuse Đinh lập Liễm
Chúa biến hình Lm Giuse Đinh tất Quý
Hãy vâng nghe lời Người Suy niệm của JKN
Người con yêu dấu Fiches Dominicales
Biến hình Học Viện Đà Lạt
Hiển dung Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Cõi phúc Sưu tầm
Theo Chúa đến núi Tabor Dẫn lễ
Con yêu dấu của Cha Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
1. Biến
hình
Chúa Giêsu vừa loan
báo cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giêrusalem. Và tại đây, Ngài sẽ bị giết
chết. Cái tin đột ngột này chắc hẳn đã làm cho các ông lo lắng sợ hãi. Chính vì
thế Ngài cảm thấy cần phải nâng đỡ tinh thần các ông bằng cách cho họ được nhìn
thấy vinh quang của Ngài. Bởi đó, tám ngày sau, Ngài đã đưa ba môn đệ thân tín
nhất lên núi cao và biến hình trước mặt các ông. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt
trời và áo Ngài trở nên trắng như ánh sáng. Lại có Maisen, Elia hiện ra đàm đạo
với Ngài.
Đây là một cuộc hiển
linh, tương tự như cuộc hiển linh trên núi Sinai. Ở đó, Thiên Chúa đã tỏ vinh
quang Ngài cho Maisen và Elia. Hai vị, vào những thời điểm khác nhau, đã được
thấy và nghe Chúa, hôm nay cũng hiện diện bên cạnh Chúa. Các ông ngã sấp xuống
và rất sợ hãi. Rồi từ đám mây có tiếng phán. Tiếng ấy chúng ta đã từng được
nghe bên bờ sông Giođan khi Chúa chịu phép rửa: Đây là Con Ta yêu dấu đẹp lòng
Ta mọi đàng. Các ông ngây ngất vì chưa bao giờ được chứng kiến một cảnh tượng
như thế. Phêrô lên tiếng nói, nhưng không hiểu là mình đã nói những gì.
Sở dĩ Giáo Hội đặt bài
Phúc Âm về sự biến hình vào mùa Chay là để chúng ta thêm tin tưởng vào Chúa,
cũng như để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi trước khi xuống núi, trở về
với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay phủ đầy sóng gió dẫn
tới đỉnh Canvê. Chúng ta cần được Chúa đến gần và đụng tới, như đã đến gần và
đụng tới các tông đồ, để chúng ta thức tỉnh, để chúng ta biết thánh hoá những
đau khổ trên đường đời.
Con đường thương khó
của Chúa khởi đầu khi Người biến hình và xuống núi. Rồi đây, Người cũng sẽ biến
hình, không còn hình tượng người ta nữa, để dạy cho chúng ta biết phải đi qua
con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn và sống lại.
Mục sư Cullman, là một
nhà thần học Tin Lành, đã nói về cuộc khủng hoảng sau Công đồng Vatican II như
sau: Cuộc khủng hoảng hiện nay không phải chỉ xảy ra trong Giáo Hội Công giáo.
Chính Giáo Hội Tin Lành chúng tôi cũng không thoát khỏi. Một trong những lý do
đó là Kitô hữu đã không chấp nhận sự điên dại của thập giá như thánh Phaolô đã
dạy. Họ muốn đua đòi khôn ngoan theo kiểu thế gian. Họ tránh né hy sinh, chạy
trốn khó nghèo. Họ tìm lời khen, họ muốn được tự do theo ý riêng của họ. Họ
muốn bước theo Chúa khi Ngài biến hình trên đỉnh Tabôrê, nhưng dừng lại bên
ngoài vườn Cây Dầu, và nhất định không chịu trèo lên đỉnh Canvê.
2. Những sự
việc bình thường
“Này là con Ta yêu
dấu, hãy nghe lời Ngài.”
Vào lúc Chúa Giêsu
chịu phép rửa, Ngài đã được giới thiệu như là Người Con chí ái và là Đấng cứu
độ của nhân loại. Tại nơi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã lãnh lấy chức vụ người
Tôi Tớ đau khổ, nhưng lại được Thánh Thần hướng dẫn. Còn trong cuộc biến hình
hôm nay, Ngài đã được giới thiệu trong tư cách một vị tiên tri mà mọi người
phải vâng nghe.
Tiếng bởi trời đã tỏ
cho các tông đồ và qua các tông đồ, cho mỗi người chúng ta nhận biết về Đức
Kitô. Thế nhưng sau những giây phút bàng hoàng và sợ hãi, các tông đồ chỉ còn
thấy Chúa Giêsu trở về với vóc dáng cua một con người bình thường, quang cảnh
huy hoàng với Môsê và Elia đã biến mất. Đấng mà các ông vừa mới được chiêm
ngưỡng sự vinh quang, Đấng mà các ông vừa mới được kêu gọi vâng phục chính là
Chúa Giêsu nhưng trong điều kiện làm người của Ngài.
Chúng ta rất dễ bị lôi
cuốn, hấp dẫn bởi những cái ngoạn mục, những cái vượt ra ngoài ranh giới thông
thường. Trong Tin Mừng chúng ta thấy ông Phêrô, sau khi được thấy mặt Thầy
chiếu sáng như mặt trời và áo Thầy trở nên trắng như ánh sáng, rồi Thầy lại còn
đàm đạo cùng Môsê và Elia, đã vội vàng đề nghị: Chúng con được ở đây thì tốt
lắm, nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba lều, một thầy Thầy, một cho Môsê và
một cho Elia.
Nhưng hiện tại vẫn
phải là con đường xuống núi, tiếp tục tiến về Giêrusalem, đối diện với cái
chết. Hiện tại chưa phải là lúc dừng lại trong vinh quang. Cuộc sống vẫn phải
là cuộc hành trình của niềm tin, của sự gắn bó với Chúa Giêsu, dù rằng Ngài
đang tiến đến thập giá. Vinh quang chỉ có thể đến ngang qua đau khổ.
Với sự kiện Chúa biến
hình trên núi, các tông đồ như được thêm sức mạnh để cùng đi với Ngài trong
đoạn đường còn lại. Nhiều người trong chúng ta rất dễ dàng đón nhận những lời
nói của ông thánh này bà thánh nọ phán dạy qua những lần hiện ra ở chỗ này, chỗ
khác, như những lời nói đáng tin cậy nhất với những việc lạ lùng kèm theo. Thế
nhưng trong chương trình của Chúa, Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta,
Ngài đã giảng dạy bằng những hình ảnh hết sức bình thường và quen thuộc, chẳng
hạn hình ảnh chim trời, cây vả, mẻ lưới, tiệc cưới... Chính Ngài cũng đã sống
những điều ngài giảng dạy một cách thật bình thường, cho dù Ngài đủ khả năng
lôi cuốn dân chúng bằng những việc lạ lùng. Chẳng hạn như sau khi làm phép lạ
cho bánh hoá nhiều, thì dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã dứt
khoát từ khước.
Ngày hôm nay, Chúa vẫn
tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc thật bình thường của cuộc sống,
điều quan trọng là chúng ta có biết lắng nghe và vâng phục thánh ý Ngài hay
không?
3. Chúa biến hình
Tại sao Chúa Giêsu chỉ
mang có ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê?
Ngay từ đầu đoạn Tin
Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh em ông
Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy
không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông này được chứng kiến một số hành
động của Chúa Giêsu. Ngoài việc làm chứng nhân cho cuộc biến hình, các ông còn
được độc quyền đi theo Ngài trong những giây phút hấp hối cuối cùng nơi vườn
cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống
lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng Chúa Giêsu về những dấu hiệu báo
trước ngày sụp đổ của đền thờ.
Có thể nói: Phêrô,
Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ lãnh đạo trong Gháo Hội. Việc Chúa
Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội để các ông chứng kiến cho
sự biến hình không phải là không có ý nghĩa cho sự sinh hoạt của Giáo Hội ngày
hôm nay.
Như chúng ta đã biến
vấn đề quyền hành là vấn đề then chốt trong Giáo Hội bởi vì chính Ngài đã xác
quyết trước mặt Philatô:
- Nếu từ trên chẳng
ban cho ông, thì ông chẳng có quyền hành gì trên tôi.
Thế nhưng quan niệm về
quyền hành của Chúa Giêsu hoàn toàn khác biệt với quan niệm về quyền hành của
thế gian. Bởi vì theo Ngài, quyền hành là để phục vụ chứ không phải là để hống
hách, chèn ép và hưởng thụ:
- Thủ lãnh các dân
ngoại thì cai trị và chuyên chế, còn giữa các ngươi thì không được như vậy, ai
muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và trở nên đầy tớ cho mọi người.
Chính Ngài, trong bữa
tiệc ly cũng đã nói với các môn đệ:
- Mặc dầu các con gọi
Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn quỳ
gối rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Cũng trong chiều hướng
đó mà các vị Giáo hoàng vốn tự xưng mình là “servus servorum”, đầy tớ của các
đầy tớ. Ba vị cột trụ của Giáo Hội được chứng kiến việc Chúa biến hình, không
phải là để các ông được hưởng một kinh nghiệm lý thú như Phêrô đã tưởng: Lạy
Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay quá, nhưng là để các ông sau này biết vận
dụng quyền hành theo một ý nghĩa mới mà Ngài đã đề ra đó là phục vụ.
Còn chúng ta thì sao?
Liệu chúng ta đã đổi mới quan niệm của chúng ta theo quan niệm của Chúa Giêsu
hay chưa? Liệu chúng ta đã đổi mới cái nhìn của chúng ta theo cái nhìn của Chúa
Giêsu hay chưa? Có nghĩa là chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương, đã sống
tinh thần phục vụ, đã có được những hành động bác ái an ủi, khích lệ và giúp đỡ
những người chung quanh hay chưa?
Bởi vì trong ngày sau
hết chúng ta sẽ không bị xét xử về địa vị xã hội, mà sẽ bị xét xử về những hành
động bác ái yêu thương mà chúng ta đã làm hay không làm cho những người chung
quanh. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng được tham dự vào cuộc biến hình vinh
quang trong ngày sau hết.
4. Núi Tabor hôm nay – ĐGM Cosma
Hoàng Văn Đạt
Chúa Giêsu dẫn các môn
đệ đi Giêrusalem. Trên đường, Chúa lên một ngọn núi để cầu nguyện. Có lẽ đó là
núi Tabor ở Galilê. Có ba môn đệ thân tín theo Chúa. Chúa đã hiển dung trước
mặt các ông.
Trước núi Tabor, Chúa
Giêsu đã từng lên hai ngọn núi khác. Trước hết là Chúa giảng Hiến Chương Nước
Trời trên núi quen gọi là núi Bát Phúc. Sau khi cho hoá bánh ra nhiều nuôi dân,
họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã lên núi cầu nguyện một mình. Sau núi Tabor,
Chúa cũng lên hai ngọn núi khác: núi Sọ là nơi Chúa chịu chết trên thập giá và
núi Ôliu là nơi Chúa từ biệt các môn đệ mà lên trời. Có thể nói núi Tabor đã
được chuẩn bị bằng hai ngọn núi trước và chuẩn bị cho hai ngọn núi sau. Hiển
Dung là cao điểm của cuộc đời rao giảng và là khởi điểm của cuộc Vượt Qua.
Người xưa tin rằng
Thiên Chúa ở trên trời; núi cao, nên gần trời; vì thế người ta lên núi sẽ dễ
gặp Chúa hơn. Tổ phụ Abraham lên núi hiến tế Isaac. Ông Môsê lên núi nhận bia
giao ước. Ngôn sứ Êlia lên núi gặp Thiên Chúa. Thực tế là lên núi dễ gặp Chúa
hơn thật:
- Thanh vắng, yên
tĩnh, xa gia đình, bạn bè, phố chợ;
- Trên cao, thấy rõ
công trình của Thiên Chúa trong thiên nhiên hùng vĩ hơn: mặt trời, bầu trời,
trăng sao, núi sông, bình minh, hoàng hôn...
- Trên cao, thấy công
trình của con người nhỏ bé hơn, vì thế dễ từ bỏ hơn.
Lên núi là điều không
dễ, nhưng đem lại cho chúng ta những niềm vui mà chỉ những ai lên núi mới cảm
nghiệm được. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta lên núi để chiêm ngắm Chúa
hiển dung: ngay bên cạnh chúng ta, Chúa vẫn đang yêu thương người đau khổ, tha
thứ cho kẻ tội lỗi, hy sinh cho người mình yêu. Đồng thời Chúa cũng mời gọi
chúng ta trở nên núi Tabor mới để Chúa hiển dung. Thánh Phaolô kêu gọi các tín
hữu mặc lấy Đức Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Trong cuộc Vượt
Qua, khuôn mặt thể lý của Chúa không còn hình dạng con người, nhưng khuôn mặt
của Thiên Chúa tình yêu lại chói sáng trước mắt mọi người trong mọi thời đại.
Một thường dân Nhật
Bản được Nhật Hoàng mời vào hoàng cung dùng cơm chung vì đã lấy máu mình vẽ
chân dung Nhật Hoàng. Chúa Giêsu lấy máu mình để vẽ chân dung Thiên Chúa và
được hưởng vinh quang Phục Sinh. Xin Chúa giúp chúng ta dùng cuộc sống của mình
để vẽ chân dung Chúa trong thế giới hôm nay.
5. Đỉnh cao
hôm nay – Đỉnh cao ngày mai
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn Cao Luật)
Bên kia những thực tại
hữu hình
Bản văn của thánh
Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí vượt trên những thực tại hữu hình,
qua những con người và biểu tượng. Bản văn là một mặc khải về một mầu nhiệm:
căn tính của Đức Giêsu.
Nơi chốn: "một nơi
riêng", "một ngọn núi cao". Đây không phải là một địa điểm cụ
thể về địa dư. Có thể lấy làm tiếc vì một truyền thống muôn thời đã muốn xác
định về một nơi rõ ràng, bởi vì việc Tin Mừng không nói rõ nơi chốn có thể có
nghĩa là mặc khải này sẽ xảy ra ở mọi nơi.
Đàng khác, "ngọn
núi cao" luôn luôn là một nơi đặc biệt; tại đó đất dường như nối liền với
trời, và cũng tại đó, con người vừa cảm nghiệm được sự bé nhỏ của mình, đổng
thời vừa muốn vươn mình tới những chiều kích bao la của vũ trụ.
Thời gian: đã được xác định rõ
là 6 ngày sau khi Đức Giêsu báo trước cho các Tông Đổ về cuộc Khổ Nạn. Tuy
nhiên, cuộc Hiển Dung còn có ý nghĩa lớn lao hơn: nối kết giữa quá khứ (Môsê +
Êlia) và tương lai (Đức Kitô phục sinh). Đây là một thời gian vượt-thời-gian.
Các nhân vật: thái độ
của các môn đệ (theo Đức Giêsu, muốn ở lại, sự kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống
đất) cho thấy một sự đảo lộn, một ý thức do một nhận biết không thể diễn tả nổi
về thực tại nơi Đức Kitô. Con đường này trở thành con đường của các môn đệ sau
khi Đức Kitô phục sinh, đổng thời cũng là con đường của tất cả mọi Kitô hữu.
Một bức tranh để chiêm
ngắm
Việc Đức Giêsu biến
đổi hình dạng không phải chỉ là một trình thuật để nghe, nhưng còn là một bức
tranh để chiêm ngắm, tựa như hình ảnh ngắn ngủi về một thế giới thần thiêng và
bí nhiệm, rất gần gũi mà cũng rất xa xăm. Trên dung nhan của con người đang bị
bóng tối tử thần đe dọa, đã bừng lên ánh sáng chói lòa của ngày Phục Sinh.
Biến cố Hiển Dung xảy
ra sau khi Đức Giêsu báo trước cuộc Khổ Nạn của Người cũng như việc dự phần của
các môn đệ: biến cố này nhằm củng cố lòng tin của ba vị tông đổ sẽ có mặt vào
những giờ phút cuối cùng của Đức Giêsu tại vườn cây Dầu (Mc 14,33). Thật ra,
đây không phải là lần đầu tiên ba vị này được "đi riêng" với Đức
Giêsu; ba vị đã từng được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho con gái ông trưởng
hội đường sống lại (Mc 5,37).
Tuy vậy, sự kiện này
còn có ý nghĩa quan trọng hơn với mỗi vị. Trước hết, với Phêrô, người sẽ được
trao quyền lãnh đạo Giáo Hội: từ đây, ông sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo
Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến, với
Gia-cô-bê, vị tử đạo tiên khởi: ông sẽ hân hoan đỗ máu để làm chứng vì ông đã
tận mắt nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Cuối cùng, với Gio-an, người môn đệ
được Đức Giêsu yêu dấu: ông sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của
tình yêu.
Như vậy, ba vị cột trụ
trong sinh hoạt của Giáo Hội thời đầu, nhờ kinh nghiệm sâu xa về vinh quang
Thiên Chúa, sẽ làm chứng một cách sống động về Đức Giêsu, Đấng đã đi qua con
đường đau khổ để bày tỏ lòng yêu mến và đem lại ơn cứu độ.
Thình lình, các ông đã
được chứng kiến Đức Giêsu biến đổi hình dạng. Tác giả đã dùng thuật ngữ khải
huyền để mô tả vinh quang Thiên Chúa xuất hiện trên dung nhan Đức Giêsu. Điều
đáng nói ở đây là ánh sáng vinh quang mà các môn đệ nhìn thấy nơi Đức Kitô,
không phải là điều gì đến từ bên ngoài, nhưng là sự biểu lộ bình thường của vẻ
đẹp vẫn gắn liền với "Đấng từ trời xuống". Do đó, điều gây ngạc nhiên
không phải là ánh sáng rạng ngời đó đã bao phủ Đức Giêsu trong chốc lát, nhưng
là sự che giấu ánh sáng đó trong những lúc khác. Như vậy, Đức Giêsu đã che giấu
vinh quang của Người, và giờ đây, trong một khoảng thời gian ngắn, Người rời bỏ
nhân tính để con người có thể chiêm ngắm vinh quang của Người; và nhờ đó, họ
nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa.
Đang khi Đức Giêsu bày
tỏ Thiên tính của Người, thì Môsê, vị anh hùng của Lề Luật, và Êlia, thủ lãnh
các ngôn sứ, đã đến đàm đạo với Người. Sự hiện diện của hai chứng nhân thời Cựu
Ước cho thấy tính siêu việt của thời đại cuối cùng, đổng thời loan báo Vị Ngôn
Sứ thiên hạ vẫn mong chờ, nay đã xuất hiện.
Ngoài ra, nội dung
cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môsê và Êlia không phải là những điều Người đã
giảng dạy, nhưng là cuộc Khổ Nạn của Người. Đó chính là nhiệm vụ của Người,
Đấng hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các Ngôn sứ. Việc loan báo đã kết
thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công cuộc cứu độ.
Cuối cùng, sự hiện
diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là một xác nhận rõ ràng và dứt khoát
về sứ mệnh của Đức Giêsu.
Ở đây, cũng như trong
biến cố phép Rửa, vẫn là sự giới thiệu sâu sắc về Đấng phải đến để thực hiện
lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân Người. Lời giới thiệu này cho thấy mối hiệp
thông sâu xa và bất khả phân ly giữa Chúa Cha và Chúa Con. Tuy thế, lời giới
thiệu trong biến cố Hiển Dung còn thêm lệnh truyền "hãy vâng nghe lời
Người". Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận tất cả những gì Người sẽ thực
hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn yếu đuối, cả sự chết lẫn sự
phục sinh. Đó là ơn cứu độ.
Hãy rời ngọn núi, tiếp
tục con đường
Một tuần lễ trước khi
xảy ra biến cố này, Phêrô đã thử tìm một con đường dẫn đến vinh quang mà không
có Thập giá. Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể là con đường tắt để thực
hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra, có một cái gì đó rất lớn
lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu đừng đi Giêrusalem, bằng
cách xin dựng lều ở trên núi này. Với Đức Giêsu, vinh quang hôm nay chỉ là chốc
lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ
Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào:
ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau
biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (xem 2 Pr
1,16-20).
Bởi vậy, trước khi đạt
đến vinh quang đích thực, Đức Giêsu phải rời ngọn núi để tiếp tục con đường lên
Giêrusalem. Ngài còn phải đến vườn cây Dầu, còn phải lên đồi Gôn-gô-tha. Mặc dù
bóng tối của đổi Gôn-gô-tha có che khuất khuôn mặt vinh quang, như là chẳng còn
nhìn thấy gì, chẳng còn chi hi vọng; nhưng điều đó chỉ xảy ra trong giây lát,
trong một thời gian ngắn. Ánh sáng đã một lần bừng lên thì không phải là điều
ảo tưởng, điều đã xảy ra trên núi không phải là giấc mơ. Biến cố Phục Sinh sẽ
cho thấy rằng sự sống có thể nảy sinh từ sự chết.
Biến cố Hiển Dung của
Đức Giêsu thực là một kinh nghiệm cho tất cả những ai muốn cùng được tham dự
vào vinh quang của Người: Chính kinh nghiệm này là chìa khóa, là sức mạnh giúp
chúng ta dám chấp nhận những hi sinh, những từ bỏ để càng lúc càng gắn bó hơn
với Đức Kitô. Biến cố này thực là một cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa, xuyên qua
những thử thách. Ai không chấp nhận xuất hành, không cùng đi với Đức Giêsu trên
con đường lên Giêrusalem, người ấy sẽ không được tham dự vào vinh quang vĩnh
cửu. Mỗi người sẽ có thể có một kinh nghiệm nào đó về Đức Giêsu, nhưng đó chưa
phải là tất cả. Đỉnh cao này còn chờ một đỉnh cao nữa.
6. Suy niệm
của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM
Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu,
tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm,
quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu
thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.
Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà
không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo,
hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả
những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao
giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.
Chúa Giêsu xuống thế
làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh
quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra
thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.
Hôm nay, khi Chúa tỏ
mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn
thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân
tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người
trở nên trắng tinh như ánh sáng”.
Thần tính Chúa Giêsu
biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác
thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại
là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.
Ánh sáng thần tính rọi
vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh
lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng
ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của
ta.
Ánh sáng ấy cho tôi
hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của
hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở
bên ngoài”.
Người ẩn tàng trong
mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì
hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc,
là chính Thiên Chúa hằng sống.
Ánh sáng ấy ngầm nói
với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất
cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những
mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.
Nhận thức ấy thôi thúc
tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan
Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần
Chúa.
Nhận thức ấy giúp tôi
kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị,
là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao
quý.
Như thế, sống Mùa Chay
là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.
Ăn chay là đến với anh
em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc
trong các tâm hồn.
Chương trình hành động
trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào
những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại
chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng
thần linh.
Như thế ta đang công
tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa
nhân loại vào hành trình phục sinh.
Lạy Chúa Kitô, xin ban
cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con
trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.
7. Người
biến đổi hình dạng
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong các hình ảnh
người ta vẽ Đức Giêsu, ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu. Thật ra
Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta. Ngài mang khuôn mặt bình thường như ta.
Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.
“Ai thấy Ta là thấy
Cha” (Ga 14,9).
Khuôn mặt con người có
thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa.
Nơi khuôn mặt Đức
Giêsu, khuôn mặt như mọi người, ta có thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình, Đấng
ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.
Ba môn đệ đã quá quen
với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan
chứa mọi thứ tình cảm của con người. Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc khi
thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang. Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.
Tiếng từ đám mây phán
ra như một lời giới thiệu và nhắn nhủ: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng
về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Người.”
Thầy Giêsu vừa là Con,
vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1), vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo
(Đnl 18,15).
Phêrô không quên được
kỷ niệm độc đáo này. Ông viết: “Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm
liệt của Người... Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở
trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).
Đức Giêsu được biến
hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, sau khi thắng được cơn cám dỗ của Phêrô
(Mt 16,23), và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn.
Biến hình là một bừng
sáng ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến.
Thân xác Đức Giêsu sẽ
được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu
Cha và yêu con người đến tột cùng.
Chúng ta cũng được
biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để
cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.
Chúng ta cần có lần
lên núi cao, thanh vắng, để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Đức Giêsu, nhờ đó
chúng ta dễ đón nhận khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi, và khuôn mặt
khổ đau của Ngài trên thập tự.
Thế giới hôm nay không
thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào khi
thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy
vọng.
Sám hối là đổi tâm
hồn, đổi khuôn mặt để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về khuôn
mặt của bạn, đâu là những điểm sáng và điểm tối? Bạn có dám xin một người khác
góp ý về những điểm bạn chưa rõ về bạn không?
Bạn nghĩ gì về khuôn mặt
giáo xứ của bạn, nhóm của bạn, gia đình của bạn? Trong mùa chay này, bạn có thể
làm gì để khuôn mặt ấy ngời sáng hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin
biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời
Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt
con rạng ngời hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy
nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong
lời nói của con.
Thế giới hôm nay không
cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn
nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh.
Amen.
8. Biến đổi
Cuộc sống của con
người và vũ trụ vạn vật là một sự biến đổi liên lỉ. Có những biến đổi tích cực
nhưng cũng có những biến đổi tiêu cực. Những biến đổi tích cực là khi con người
hay sự vật chuyển từ một tình trạng xấu sang một tình trạng tốt hơn do nỗ lực
của chính bản thân con người hay do trợ lực từ bên ngoài (Ơn Chúa, tha nhân, vũ
trụ vạn vật, những biến cố . . . ) Điển hình cho sự biến đổi này có thể kể đến
hình ảnh của một Giakêu, của Phaolô, của các Tông đồ sau ngày lễ Ngũ tuần . . .
Nhưng cũng có những biến đổi mang tính tiêu cực khi con người chọn lựa cho mình
một thái độ sống ích kỷ, tham lam và kiêu căng. Khi đó, họ đang chuyển từ một
tình trạng tốt sang một tình trạng xấu. Đó là hình ảnh của một vua Saul - vị
vua đầu tiên của Israel, của một Giuđa Iscariot . . .Những cuộc biến đổi thật
cần thiết biết bao trong cuộc sống dương thế của con người, nhưng phải là những
cuộc biến đổi tích cực. Khi con người không còn biến đổi nữa thì có thể nói là
họ đã chết rồi, hay có sống cũng chỉ là một sự hiện hữu vô hồn và không có ích
gì cho chính mình cũng như cho người khác.
Bài đọc một hôm nay
tường thuật cho chúng ta về việc Ápraham nghe theo tiếng Chúa gọi để ra đi đến
một miền đất mà Ông không hề biết trước đó. Ông đang ở trong một quá trình biến
đổi, nói đúng hơn là ông đang được biến đổi. Bởi lẽ tác nhân biến đổi cuộc đời
của ông chính là Thiên Chúa , nên cuộc đời của ôn g và tương lai của ông thật
huy hoàng và vững chắc.
Tin mừng hôm nay cũng
tường thuật cho chúng ta nghe về việc Chúa Giêsu biến đổi dung mạo của Ngài
trên núi trước mặt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Cuộc biến đổi
mà Ngài đang thực hiện mang một ý nghĩa tích cực, tiên báo vinh quang phục sinh
huy hoàng sau khi Ngài chu toàn thánh ý của Chúa Cha trong chương trình cứu
chuộc con người sự biến đổi tuyệt vời này làm cho các môn đệ ngây ngất trước vẻ
đẹp của một Thiên Chúa vốn là Chân, Thiện, Mỹ.
Cuộc biến đổi tích cực
nào cũng đòi buộc con người phải hy sinh, phải công tác vào phần của mình một
cách chủ động vào trong đó. Như hạt lúa muốn trở thành cây lúa thì phải chấp
nhận một sự biến đổi âm thầm trong đau đớn vì sự mục nát và thối đi của mình.
Vinh quang phục sinh và phần thưởng trọng đại trên thiên quốc cũng dành cho
những ai biết hy sinh quên mình, biến chấp nhận được biến đổi và thanh lọc bởi
Lời của Chúa và giáo huấn của Hội thánh.
Biết trước sự yếu đuối
và nhát đảm của các môn đệ, Đức Giêsu đã cho các ông thấy và chiêm ngấm trước
vinh quang của Ngài, vinh quang mà Ngài sẽ lấy lại sau khi đi vào cuộc tử nạn
nhằm cứu chuộc con người khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Vinh quang đó cũng sẽ
dành cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta nếu chúng ta tích cực và chủ động
góp phần vào chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã và đang thực hiện vì con
người và cho con người .
Chúa Giêsu biến đổi
dung nhan của Ngài trước nhằm biểu lộ vinh quang vốn có của Ngài trước mặt các
môn đệ và cũng là nhằm biến đổi các môn đệ để các ông trở nên can đảm hơn tin
tưởng hơn và biết tín thác hơn vào Thiên Chúa.
Chúng ta đang sống
trong những ngày Chay thánh. Giáo hội tha thiết mời gọi chúng ta hãy làm một
cuộc biến đổi tích cực cho cuộc đời của mình. Nếu chúng ta đang ở trong một
tình trạng xấu hay một tình trạng tội lỗi, chúng ta hãy can đảm và mạnh dạn
biến đổi và cầu xin ơn được biến đổi để cuộc đời của chúng ta được nhẹ nhàng
thư thái và đảm bảo cho tương lai của chúng ta được huy hoàng như tổ phụ
Abraham của chúng ta. Hay nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng không có gì
tệ hại cho lắm, thì chúng ta cũng cần làm một cuộc biến đổi tích cực để có một
tình trạng tốt hơn, và tiếp nhận một sức sống tốt hơn. Hãy làm cho cuộc đời của
chúng ta trở thành một dòng sông không ngừng chảy về Biển cả và tiếp nhận nguồn
nước sạch tinh từ Biển cả là chính Thiên Chúa của chúng ta.
9. Chúa biển đổi và
biến đổi để theo Chúa – Anmai
Thiên Chúa chọn mỗi
người, mỗi dân tộc mỗi cách; Thiên Chúa gọi mỗi người mỗi dân tộc mỗi cách cách
tùy theo Thánh ý của Ngài. Ngài gọi, Ngài chọn để cho cho người ấy, dân tộc ấy
trở thành con cái, trở thành dân riêng để thừa hưởng sản nghiệp của Ngài.
Hôm nay, qua sách Sáng
Thế, chúng ta được nghe trình thuật Thiên Chúa đã chọn và gọi Áp-ram. Quả thật
là một lối chọn, lối gọi sốc vì lẽ Thiên Chúa bảo Áp-ram lên đường đi theo lời
Chúa chỉ vẽ. Sốc vì lẽ đang sống nơi quê cha đất tổ an bình nhưng giờ phải ra
đi. Đứng trước lời mời gọi ấy Áp-ram cũng hết sức đắn đo vì không biết rằng
mình đi như vậy không biết cuộc đời, tương lai mình sẽ đi về đâu. Tin vào lời
Chúa, Áp-ram đã lên đường. Thiên Chúa hứa sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc
cho Áp-ram và nguyền rủa những ai nguyền rủa Áp-ram.
Nếu chúng ta tiếp tục
đọc lại lịch sử Israel và đọc lại cuộc đời của Áp-ram thì thử thách lên đường
đi đến xứ sở khác chỉ là một trong những muôn vàn thử thách của Thiên Chúa
thôi. Chắc chúng ta không thể nào quên được thử thách cay nghiệt nhất trong cuộc
đời Áp-ram đó là việc sát tế đứa con trai duy nhất, đứa con trai đầu lòng mà
ông bà có trong khi tuổi già hết sức mong manh khi có con. Thế nhưng, vẫn một
niềm tín thác vào Thiên Chúa, Áp-ram đã hiến tế luôn cục cưng I-sa-ác. Sau thử
thách ấy, Thiên Chúa đã đổi tên ông thành Áp-ra-ham và cho ông luôn cả một cái
tên là "cha của những kẻ tin".
Thế đấy ! Áp-ra-ham đã
xác tín và đã tin vào Thiên Chúa. Áp-ra-ham lên đường và lên đường dẫu rằng
không biết mình đi đâu và đời mình sẽ ra sao.
Khi Áp-ra-ham tin theo
Chúa, đi theo Chúa thì cuộc đời của ông hoàn toàn thay đổi. Ông không còn sống
cho mình nữa nhưng ông sống cho Thiên Chúa, trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, qua
trình thuật của Matthêu, chúng ta cũng được thấy được sự biến đổi, được thay đổi
khi bước theo Chúa.
Các môn đệ, chẳng ai
biết Chúa Giêsu là ai cả, chỉ là những ngư phủ hết sức bình thường, đang vá
lưới bên bờ biển và sau khi nghe tiếng gọi của Chúa các ông đã bỏ cha mẹ, vợ
con và đi theo Chúa. Thật ra mà nói, quyết định của các ông là quyết định liều.
Cuộc sống đang ấm êm bên cha, bên mẹ, bên gia đình, bên vợ bên con bỗng dưng đi
theo cái con người mà ngay cả "chim có hang - chồn có tổ" còn Con
Người không có chỗ tựa đầu. Bấp bênh chưa từng có, mông lung hết sức tưởng tượng.
Quen nhau, ở với nhau
một thời gian và rồi hôm nay Chúa Giêsu "mời" bốn môn đệ thân tín đi
theo Ngài. Hôm nay không phải lang thang đây đó ở bờ biển này, đồng bằng kia mà
hôm nay lại đi lên núi. Bảo đi thì đi chứ có biết gì đâu vì đi theo Thầy là lẽ
hết sức bình thường. Thế nhưng, hôm nay lại là một ngày hết sức đặc biệt. Như
Matthêu thuật lại, chúng ta thấy hôm nay Chúa Giêsu cho các môn đệ thân tín
thấy vinh quang của Ngài, Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ thấy về mình:
"Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em
ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn
núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói
lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các
ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phê-rô
thưa với Đức Giê-su rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu
Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và
một cho ông Ê-li-a." Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ
các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta
hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!"
Thật kinh khủng ! Mọi
ngày thì thầy Giêsu của mình hết sức bình thường nhưng hôm nay dung mạo bỗng
khác, y phục khác và có cả Mô-sê và Ê-li-a hiện ra để đàm đạo nữa. Một cảnh
tượng không thể tưởng tượng được và trong cái vinh quang ấy Phêrô đã nhanh nhảu
nói với Chúa Giêsu để ông dựng lều cho Thầy mình ở đây để ông cùng các môn đệ
chiêm ngưỡng cái vinh quang tuyệt vời này.
Sau biến cố hết sức
đặc biệt này, Thầy và trò xuống núi, trở về với cái đời thường loan báo Tin
Mừng. Chúa Giêsu hé lộ cho các môn đệ thấy về con người thật của mình, hé cho
các môn đệ thấy vinh quang thật của mình.
Trong hành trình theo
Chúa, trong hành trình loan báo Tin mừng, vốn dĩ mang trong mình là phận người
mỏng dòn yếu đuối, ắt hẳn các môn đệ cũng ngã lên té xuống vì đức tin mỏng dòn
non yếu. Thế nhưng, được ở gần Chúa Giêsu, được ở bên Chúa Giêsu và đặc biệt
qua Thánh Thể và qua Phục Sinh các môn đệ ở trong Chúa Giêsu nữa. Ở bên, ở
trong để rồi cuộc đời của các môn đệ khác với những người không tin. Cuộc đời
các môn đệ khác với những người không tin. Dù gặp khó khăn, dù gặp thử thách
nhưng các môn đệ đã lấp lánh, đã chiếu sáng cuộc đời của các Ngài ở giữa vòm
trời đen tối như Thánh Phaolô mời gọi "Anh em hãy chiếu sáng như những vì
sao giữa thế gian".
Chiếu sáng giữa thế
gian như Phaolô mời gọi không phải là tẩm xăng vào người để đốt cho người sáng
lên để mọi người được thấy ! Chiếu sáng giữa thế gian không phải là mua dầu,
mua đèn gắn vào trong người để mình tỏa sáng cho thế gian. Chiếu sáng giữa thế
gian có nghĩa là chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Giêsu, ánh sáng của Tin mừng ở
giữa cuộc đời này.
Ánh sáng mà Chúa Giêsu
muốn, mà Thánh Phalô mời gọi còn phảng phất trong I-sa-i-a chương 58. Chúng ta
đọc I-sa-i-a chương 58 sẽ gặp tâm tình như thế này:
Cách ăn chay mà Ta ưa
thích chẳng phải là thế này sao:
mở xiềng xích bạo tàn,
tháo gông cùm trói buộc,
trả tự do cho người bị
áp bức, đập tan mọi gông cùm?
Chẳng phải là chia cơm
cho người đói,
rước vào nhà những
người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì
cho áo che thân,
không ngoảnh mặt làm
ngơ trước người anh em cốt nhục?
Bấy giờ ánh sáng ngươi
sẽ bừng lên như rạng đông,
vết thương ngươi sẽ
mau lành.
Đức công chính ngươi
sẽ mở đường phía trước,
vinh quang Đức Chúa
bao bọc phía sau ngươi.
Bấy giờ, ngươi kêu
lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,
ngươi cầu cứu, Người
liền đáp lại: "Có Ta đây! "
Nếu ngươi loại khỏi
nơi ngươi ở
gông cùm, cử chỉ đe
doạ và lời nói hại người,
nếu ngươi nhường miếng
ăn cho kẻ đói,
làm thoả lòng người bị
hạ nhục,
thì ánh sáng ngươi sẽ
chiếu toả trong bóng tối,
và tối tăm của ngươi
chẳng khác nào chính ngọ. (Is 58, 6-10)
Thế đấy! Những lời mời
trên đây của I-sa-i-a cho chúng ta biết thế nào là ánh sáng của những ai mang
trong mình danh Kitô hữu.
Chúng ta đang sống
trong mùa Chay Thánh, I-sa-i-a vừa nhắc cho chúng ta cách ăn chay mà Thiên Chúa
ưa thích, mà Thiên Chúa mời gọi: rước vào nhà những người nghèo không nơi trú
ngụ;thấy ai mình trần thì cho áo che thân,không ngoảnh mặt làm ngơ trước người
anh em cốt nhục?Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông...
Xin cho chúng ta biết
bắt chước như Áp-ra-ham biến đổi cuộc đời khi bước theo Chúa, xin cho chúng ta
cũng biết bắt chước như các môn đệ cũng biến đổi con người hèn kém của mình để
bước theo Chúa.
10. Thiên Chúa vẫn còn
hiển dung
(Trích từ ‘Cùng Đọc
Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu bạn là một người
từ hành tinh khác vừa mới đáp xuống địa cầu lần đầu tiên, ắt bạn sẽ thấy trái
đất nầy quá đỗi nhiệm mầu: ngay cả mỗi chiếc lá, mỗi chiếc vỏ sò, mỗi cánh
bướm, mỗi bông hoa... đều có một sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng thật quyến
rủ, thật nhiệm mầu và bạn cảm thấy tâm hồn ngây ngất vì vẻ đẹp lạ lùng của
chúng.
Thế nhưng trong thực
tế, không mấy ai có thể cảm nhận được vẻ đẹp nhiệm mầu của những tạo vật như
thế. Tại sao?
Vì mỗi lần nhìn vào
những sự vật chung quanh, chúng ta không nhìn chúng bằng cặp mắt đầy ngạc nhiên
của trẻ thơ, bằng ánh mắt của người mới thấy sự vật lần đầu; chúng ta không
nhìn chúng y như chúng là, nhưng chúng ta để cho những hình ảnh ta có về chúng
(vốn có sẵn trong tâm trí ta) phóng hiện ra bên ngoài và bao phủ lên những vật
đó.
Thế là vạn vật chung
quanh ta trở thành cũ rích và nhàm chán, vẻ đẹp tinh khôi nhiệm mầu của chúng
đã bị hình ảnh ta có về chúng phóng rọi ra che phủ nên không còn hiển dung ra
được nữa. Một trong những nổ lực của thiền nhân là thanh tẩy cái nhìn mang tính
chủ quan của mình về ngoại giới để có thể cảm nhận được vạn vật đúng với bản
chất của nó. Lúc đó, sự kỳ diệu của thế giới sẽ hiện nguyên hình.
Trong cuốn sách The
Golden String, văn sĩ người Anh Bede Griffiths mô tả lại một khám phá diệu kỳ
của ông khi còn là một cậu học sinh.
Một buổi chiều hè,
Bede Griffiths ung dung thư thái dạo chơi ở bìa rừng. Trong lúc thơ thẩn một
mình bỗng dưng cậu nhận ra tiếng hót líu lo của đàn chim trên tàng cây mới
tuyệt vời làm sao! Cậu rất ngạc nhiên vì từ hồi nào đến giờ chưa bao giờ được
nghe chúng hót hay đến thế.
Đang lúc tiếp tục bước
tới, cậu gặp thấy những đoá hoa của những bụi táo gai như đang mỉm cười niềm nở
chào đón cậu trông dễ thương lạ lùng và đang toả hương trong gió. Bede cũng rất
ngạc nhiên vì từ trước tới nay cậu đã từng thấy những bông hoa như thế nở rộ cả
trăm lần mà không hề nhận ra vẻ đẹp tinh khôi và hương thơm dịu dàng của chúng.
Sau cùng cậu tìm đến
một nơi yên tĩnh, đứng tựa vào thân cây, lặng ngắm vầng kim ô đang dần dần chìm
xuống sau rặng núi lam cuối chân trời. Bỗng chốc cậu cảm thấy trời đất vô cùng
huyền diệu và bất giác cậu nghiêng mình quì gối xuống biểu lộ một niềm cảm xúc
rất thánh thiêng: cậu vừa trải nghiệm được sự hiện diện rất nhiệm mầu của Thiên
Chúa trong tạo vật của Ngài.
* * *
Theo Tin Mừng Matthêu
được trích đọc hôm nay, chiều hôm ấy trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Gioan và
Giacôbê cũng có những trải nghiệm tuyệt vời về Chúa Giêsu. Cũng vẫn là Chúa
Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày,
nhưng lần nầy, các ông lại nhìn thấy Ngài dưới một dung mạo mới: thật sáng
ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi, lại có cả Môi-sê và tiên tri Êlia hiện ra
đàm đạo với Ngài.
Lòng đầy hoan lạc, các
ông không muốn cho giây phút mầu nhiệm đó trôi đi. Các ông muốn níu kéo khoảnh
khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: "Lạy
Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái
lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia."
* * *
Hôm nay, Thiên Chúa
vẫn hiển dung dưới thiên hình vạn trạng nhưng vì đôi mắt chúng ta bị che phủ
nên không nhận ra Ngài.
* Vinh quang của Thiên
Chúa vẫn được hiển dung (được tỏ bày) trong các tạo vật của Ngài, qua bầu trời
lung linh ánh sao đêm hay những áng mây rực rỡ ban ngày, qua những cánh đồng,
những khe suối và rừng cây, qua tiếng chim ca, qua bông hoa đang nở, qua mọi
tạo vật chung quanh...
Vua Đavít cảm nhận
được vinh quang ấy rạng ngời lên trong vũ trụ nên đã thốt lên:
"Trời xanh tường
thuật vinh quang Thiên Chúa.
Không trung loan báo
việc tay Người làm" (Tv 19, 2)
* Tình yêu của Thiên
Chúa được hiển dung (được tỏ bày) rõ nét nơi tình thương chan chứa của người
cha ngày đêm lao nhọc vì con, qua sự hi sinh miệt mài của người mẹ, vắt kiệt
sức mình để chăm lo cho đàn con khôn lớn...
* Mầu nhiệm Ba Ngôi
Thiên Chúa cũng được hiển dung nơi các gia đình đấm ấm thuận hoà, chan chứa yêu
thương hiệp nhất.
* Và đặc biệt, Thiên
Chúa vẫn hiển dung rạng ngời nơi những anh chị em cùng sống với ta, nhưng tiếc
thay, chúng ta không cảm nhận được, nên bỏ lơ, nên thờ ơ và không còn muốn dựng
lều chung sống với những hiện thân của Chúa chung quanh chúng ta.
Thông thường, chúng ta
nhìn đời, nhìn người qua cặp kính màu đen nên chúng ta chỉ thấy được khía cạnh
u tối của người đời. Xin Chúa thanh tẩy nhãn quan chúng ta để có thể nhận ra
mọi người là hiện thân của Thiên Chúa, là chi thể của Chúa Giêsu.
Ba môn đệ nhận ra
Thiên Chúa hiển dung nơi thân phận người phàm của Đức Giêsu thì chúng ta cũng
xin Chúa cho chúng ta được nhận ra Chúa hiển dung nơi những anh chị em đang
sống chung quanh, nhờ đó, chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc chan hoà vì được
sống cùng, sống bên nhau và có thể nói như thánh Phêrô xưa: chúng con được ở
chung với nhau nơi đây thì thật là hạnh phúc. (Mt 17,4)
11. Chúa hiển dung –
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Người đời thường mang
hai bộ mặt: mặt thật và mặt nạ. Khi mặt nạ rơi xuống, bộ mặt thật sẽ hiển dung
(biểu lộ ra bên ngoài).
Khi nhập thể làm
người, Chúa Giêsu mang dung mạo con người, mang bản tính và khuôn mặt con
người, hoàn toàn trở nên giống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, người
đồng hương Na-da-rét gọi Người là "Bác thợ" (Mác-cô 6,3) hay
"con Bác thợ Giu-se, con bà Maria" (Lc 4, 22. Mt 13, 55)
Hầu hết người Do-thái
đồng thời với Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhân loại của Chúa Giêsu mà
thôi nên cho rằng Người chỉ là người phàm. Họ trách Chúa Giêsu lộng ngôn khi
Người tỏ ra Người là Con Thiên Chúa. "Ông là người phàm mà tự xưng mình là
Con Thiên Chúa."
Nhưng ngoài bản tính
nhân loại, Chúa Giêsu còn có bản tính Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu hiển
dung
Trước khi bước vào
cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết Người sẽ lên
Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết. Lời tiên báo nầy làm cho tinh thần các
môn đồ bấn loạn.
Để củng cố tinh thần
sa sút của các ông, nhằm giúp các ông vượt qua thử thách đau thương sắp đến và
bền chí theo mình đến cùng, Chúa Giêsu bộc lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân
tướng của Người: Người là Đấng uy nghi sáng láng, là Con yêu dấu của Chúa Cha.
Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại như sau: "Đức Giêsu đem các
ông Phêrô, Giacôbê và Gioan … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình
dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người
trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện
ra đàm đạo với Người." … "Chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông,
và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng
về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!"
Dung mạo Thiên Chúa
được hiển dung nơi Đức Giêsu Na-da-rét trên ngọn núi cao đã làm cho tâm hồn ba môn
đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô biên. Vì thế, Phêrô muốn sống mãi giờ khắc
tuyệt vời ấy và không muốn rời bỏ khung cảnh thần tiên đó. Ông đề nghị dựng lều
ở lại lâu dài trên núi: "Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng:
"Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại
đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia."
Sự hiển dung của Chúa
Giêsu trước mặt ba môn đệ đã khiến cho tâm hồn các vị tràn ngập niềm vui và
hạnh phúc; còn khi chúng ta hiển dung, để lộ chân tướng, để lộ khuôn mặt thật
của ta ra thì người khác sẽ cảm thấy thế nào?
Khi chúng ta hiển dung
Jiddu Krishnamurti,
người Ấn-độ (1895- 1986) là một tác giả và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn
đề triết học và tinh thần, cho rằng, trong mỗi con người có ba "nhân
vật" đang chung sống:
* Một là
"tôi-là". Đây là con người thật của tôi, chân tướng của tôi. Ví dụ: bản
chất tôi (tôi-là) là người tham lam, ích kỷ, lười biếng…)
* Hai là
"Tôi-muốn-là". Đây không phải là bản
chất con người tôi, nhưng là con người mà tôi mong muốn trở thành. Ví dụ: Tôi
hiện là người tham lam, ích kỷ, lười biếng nhưng tôi muốn sống như là người
quảng đại, vị tha, năng động…
* Ba là
"Tôi-tưởng-tôi-là". Đây cũng không phải là
bản chất con người tôi, nhưng là ảo tưởng tôi có về mình. Ví dụ: Một số kinh sư
và Pha-ri-sêu thời Chúa Giêsu thực chất là người tham lam dối trá, nhưng cứ
tưởng mình là người công chính đạo đức.
Đây chính là cái mặt
nạ đẹp mà tôi đeo lên để che đậy khuôn mặt thật u ám của mình. Từ lâu nay tôi
tưởng tôi là người đàng hoàng, đạo đức, mẫu mực… Tôi nhập vai khá tốt nên những
người mới tiếp xúc đều tưởng tôi là người đạo đức chân chính và ngay cả bản
thân tôi cũng tưởng mình như vậy. Nhưng đến một lúc nào đó, ở một nơi nào đó,
tôi vô tình đánh rơi mặt nạ khỏi khuôn mặt mình; lúc bấy giờ tôi mới "hiển
dung", mới hiện nguyên hình là một tên đạo đức giả.
Bài học từ Lời Chúa
Lời Chúa trong Tin
Mừng hôm nay mời gọi tôi nhìn thật sâu vào đáy lòng mình, nhìn xuyên qua vai
diễn mà tôi đang đóng - vai "tôi-tưởng-tôi-là " - để nhận ra bản chất
con người tôi (tôi-là) thật là khả ố. Từ đó, tôi mới tự thấy xấu hổ về mình. Từ
đó tôi mới quyết tâm cải thiện cuộc đời, tô điểm dung nhan, trau dồi cho mình
những phẩm chất cao đẹp.
Nhờ thế, khi phải
"hiển dung" (tức là bộc lộ chân tướng) trước mặt người khác (dù muốn
hay không việc nầy cũng phải xảy ra), chân dung tôi không đến nỗi u ám, xám
xịt, mốc meo… nhưng có được một chút sáng ngời, phần nào giống như chân dung
chói lọi của Chúa Giêsu khi Người hiển dung trên núi với ba môn đệ năm xưa.
12. Vinh quang – Lm. Giuse
Trần Việt Hùng
Để chuẩn bị chương
trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã chọn ông Abram làm tổ phụ một dân tộc.
Vào thời điểm đó, ông Abram và bà Sara còn hiếm muộn, vì tuổi đã cao mà chưa có
con nối dòng. Thiên Chúa đã ban lời hứa: Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn,
Ta sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi, ngươi sẽ được diễm phúc
(Stk 12, 2). Tổ phụ đã bước đi trong niềm tin phó thác và một lòng tin tưởng
tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, ông bà đã rời quê
hương xứ sở đi đến miền đất Chúa hứa. Ông Abram đã trải qua biết bao thử thách
thăng trầm. Ông vâng lệnh Chúa một cách vô điều kiện, ngay cả khi Thiên Chúa
muốn ông hiến dâng đứa con trai độc nhất làm hy tế. Qua sự trung tín, Abram đã
được Thiên Chúa đổi tên thành Abraham. Abraham trở nên tổ phụ của tất cả những
người có niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Ông đã được Thiên Chúa đoái hoài ban
cho có con đàn, cháu đống nối dòng trải qua muôn thế hệ từ đời nọ tới đời kia.
Dân tộc Do-thái thuộc
dòng dõi của tổ phụ Abraham. Một dân tộc đã được Chúa yêu thương chăm sóc dẫn
đường, nhưng cũng là một dân phải chịu nhiều sự đắng cay, khổ đau và thăng trầm
nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng năm 1300 B.C., dòng dõi con cháu của tổ
phụ Abraham đã rời nước Ai-cập để tiến vào Miền Đất Hứa. Năm 996 trước Công
Nguyên, Vua Đavid đã chiếm hữu thành Giêrusalem và đặt làm thủ đô của vương
quốc. Con của vua Đavid là vua Salômôn đã xây dựng Đền Thờ đầu tiên năm 950
B.C. để kính thờ Thiên Chúa. Năm 586 B.C., Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy bởi
Vua Nebuchadezzar và dân chúng đã phải chịu cảnh lưu đầy tại Babylon. Năm 515
B.C., con dân được trở về quê hương xứ sở để xây dựng lại Đền Thờ lần thứ hai.
Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của
đền thờ Giêrusalem. Vào năm 70 A.D., Đền Thờ Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa
bởi Hoàng đế Titô và chỉ còn để lại bức tường than khóc ô nhục cho tới nay.
Trải qua 20 thế kỷ,
dân tộc Do-thái chịu trăm ngàn thách đố dưới sự chiếm đóng và đô hộ của nhiều
quốc gia. Dân chúng phải đi tản mác khắp nơi trên thế giới. Mãi tới năm 1948,
Nước Do-thái mới được công nhận là một nước độc lập và tự trị. Giêrusalem trở
thành thủ đô của nước Do-thái (State of Israel). Và nhờ sự qủa cảm dũng lực của
thần dân Do-thía từ khắp mọi nơi trên thế giới, năm 1967, họ đã mở cuộc chiến
tranh tấn công 6 ngày vào các nước lân bang của Israel, đã nới rộng và tái
chiếm nhiều phần đất của tổ tiên thuở xưa. Gần 2 ngàn năm lưu lạc, giờ đây, dân
tộc Do-thái đã chính thức được sống trên phần đất mà các tổ phụ đã dựng xây.
Miền đất đã ghi dấu tất cả những giai đoạn thăng trầm qua thời các tổ phụ, các
quan án, các vua, các tiên tri và hình thành lịch sử Ơn Cứu Độ. Chính trên miền
đất này, Chúa Giêsu đã xuất hiện rao giảng Tin mừng cứu độ. Một ngày kia, Chúa
đã đưa ba môn đệ lên núi Taborê và biến hình vinh quang trước mặt các ông.
Thiên Chúa vẫn đoái thương con dân mà Người đã chọn: Ta sẽ ban phúc cho ai chúc
phúc ngươi, và chúc dữ cho ai chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ
ngươi mà được diễm phúc" (Stk 12, 3).
Tất cả những lời giảng
dạy uy quyền cùng với những phép lạ kèm theo đã chứng thật Chúa Giêsu là Con
Thiên Chúa. Chúa đã hạ mình nhập thể mặc lấy thân xác loài người để cư ngụ giữa
chúng ta. Chúa biến hình là trở về tình trạng nguyên thủy của Đấng là trung
gian vạn vật. Chúa đã muốn mạc khải bản tính Thiên Chúa cho các môn đệ. Người
đã tỏ hiện vinh quang cao cả đích thực: Người biến hình trước mặt các ông: mặt
Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết (Mt 17, 2).
Chúa biến hình là để củng cố niềm tin và khai mở mầu nhiệm về sự sống vĩnh cửu
cho các tông đồ. Nhưng rồi Chúa Giêsu không dừng lại trong sự biến hình vinh
quang sáng láng, Ngài còn phải xuống núi dấn thân hoàn tất con đường thánh giá
khổ đau để cứu độ nhân loại. Đây chỉ là một khoảnh khắc hé mở một niềm hy vọng
vinh phúc bất diệt.
Cùng hiện diện với
Chúa Giêsu, có ông Môisen và tiên tri Êlia và ba tông đồ Phêrô, Gioan và
Giacôbê đi theo Chúa. Phêrô sung sướng chìm đắm trong nguồn ân sủng cõi thiên
đã muốn lưu lại trong cảnh giới thần tiên: Lúc ông còn đang nói, thì có một đám
mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Đây là
Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt 17, 5).
Thiên Chúa Cha đã chứng nhận sứ mệnh cao cả của Chúa Giêsu Cứu Thế. Kinh nghiệm
trên núi Taborê là nguồn hy vọng sáng ngời cho các tông đồ và cho chúng ta còn
đang lữ hành dưới thế. Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta qua con đường thập giá tới
vinh quang. Chúng ta không thể đi con đường tắt để đạt được triều thiên vinh
thắng. Các tông đồ đã xác tín con đường đi theo Chúa.
Trong Mùa Chay Thánh,
chúng ta có cơ hội trở về nguồn để suy gẫm sứ vụ của Chúa Kitô. Ngài đã từng
bước trải nghiệm những cám dỗ, những đau khổ và vinh quang. Con đường mòn Chúa
đã đi loan báo tin mừng không đơn giản dễ dàng. Cụ thể, Chúa đã phải trèo dốc,
vượt đồi, lên non và với đôi chân trần rảo khắp các làng mạc và thành thị. Chúa
không chỉ giảng dạy nơi Hội Đường, nhưng đã dong duổi khắp chốn qui tụ từng
nhóm nhỏ mời gọi sám hối đổi đời, dậy dỗ sự thật về nước trời và chữa lành bệnh
hoạn tật nguyền cả thân xác và tâm hồn. Trong ba năm giảng dạy, Chúa đã thi
hành sứ vụ từ Galilê, miền Nazareth, qua ngả Samaria và xuống Giuđêa, trọng tâm
là Giêrusalem. Khoảng cách từ Bắc xuống Nam rất xa xôi và núi non hiểm trở.
Chúa đã tận dụng mọi cơ hội để cải hóa lòng người và uốn nắn trái tim của họ
trong tình yêu.
Thánh Phaolô trong thơ
gởi cho Timôthêô đã mời gọi sự cộng tác loan truyền tin mừng cứu độ: Con thân mến,
con hãy đồng lao cộng tác với Cha vì Tin Mừng, nhờ quyền lực của Thiên Chúa,
(2Tm 1, 8). Phaolô tự nhận là đứa con đẻ non trong ân sủng cứu độ của Chúa,
nhưng ông đã hết mình truyền rao chân lý mà ông đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô
phục sinh. Cho dù đối diện với sự khó khăn, bị xua trừ, bắt bớ, đánh đập, tù
đầy và ngay cả sự chết, Phaolô vẫn một niềm tin tưởng và cậy trông vào sự sống
trường sinh và vinh quang bất diệt mà Chúa Kitô sẽ thưởng ban. Tin mừng cứu độ
đã được tiếp tục truyền rao đến khắp cùng bờ cõi, những ai tin vào Chúa Kitô
thì sẽ được lãnh ơn cứu độ.
Chúa Kitô đã đến trần
gian và đã hoàn tất sứ vụ của Ngài. Ngài đã chiến thắng sự dữ và thần chết. Lời
Tin Mừng của Chúa có uy lực giải thoát và dẫn đường chúng ta bước vào miền đất
trường sinh. Chúng ta không còn phải tìm kiếm đâu xa, nhưng hãy trở về múc tận
nguồn ơn cứu độ trong niềm tin vào Chúa Kitô, vào Thánh Kinh và đời sống Bí
tích của Giáo Hội. Tin mừng sẽ giải thoát và dẫn dắt chúng ta tới vinh quang
sáng ngời. Thánh Phaolô viết: Nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của
Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự
chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng (2Tm 1, 10). Sự biến
hình của Chúa Giêsu là dấu chứng kỳ diệu và là niềm hy vọng tuyệt đối cho mọi
kẻ còn đang lữ hành giữa biển đời ô trọc này.
Lạy Chúa, vinh quang
của Chúa chói lòa. Chúa là ánh sáng chiếu dọi vào thế gian u tối. Xin cho chúng
con biết dõi theo ánh sáng của Chúa để tìm về nguồn an lạc và nguồn sống vinh
phúc trường sinh.
13. Con yêu dấu – Lm.
Giuse Trần Việt Hùng
Mầu nhiệm Ngôi Lời
nhập thể đã được tỏa sáng trên đỉnh núi. Chúa Giêsu biến hình, mặt Người chiếu
sáng như mặt trời. Chúa Giêsu tỏ mình: Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh
sáng thế gian."(Ga. 9,5). Đây là hình ảnh Con Thiên Chúa thật. Thánh
Matthêo đã diễn tả sự biến hình một cách ngắn gọn nhưng đã nói lên được ý nghĩa
và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu. Từ khi Chúa Giêsu hạ sinh làm người, Chúa đã
xuất hiện trước công chúng một cách âm thầm như mọi người trong tất cả mọi sinh
hoạt. Chúa chấp nhận sự phát triển tiệm tiến trong thời gian và không gian tự
nhiên.Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa và là Con yêu
dấu của Chúa Cha. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên
Chúa. Ngôi Lời là Con Thiên Chúa (Ga. 1,1). Khi Ngôi Lời xuống trần, thiên thần
đồng thanh ca tụng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho
loài người Chúa thương." (Lc.2,14). Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan
tại sông Giođan: Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của
Cha, Cha hài lòng về Con."(Mc. 1,11). Chúa Giêsu biến hình trên núi có
tiếng Chúa Cha phán: "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy
nghe lời Người" (Mt.17,5). Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu tiếp
tục hiện diện với các tông đồ qua nhiều cách và luôn chúc bình an cho các ông:
“Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "Bình
an cho anh em!" (Lc. 24,36). Chúng ta nhận thấy hình ảnh xuyên suốt qua cuộc
đời Chúa Cứu Thế. Ngài là Con Thiên Chúa đến đem bình an cho nhân loại.
Chúa đã chia sẻ cuộc
sống với con người một cách cụ thể. Chúa lao động để kiếm miếng cơm manh áo như
mọi người. Hằng ngày, Chúa muốn học biết và trải qua những kinh nghiệm của đời
thường. Chúa quan sát mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Khi ra giảng đạo, Chúa dùng
tất cả những câu truyện cụ thể kinh nghiệm trong đời sống. Chúa lấy tất cả
những ví dụ dễ hiểu để truyền rao chân lý Nước Trời. Chúa dùng các tỉ dụ, ngụ
ngôn, dụ ngôn hay câu truyện rất thật đi đôi với cuộc sống nơi vùng quê thôn
dã. Chúa rành rẽ những phương thức gieo trồng, nấu nướng, ép nho và ủ rượu.
Chúa học biết cách xử dụng muối ướp, men trong đấu bột, đèn để trên giá và mang
đèn phải mang dầu theo.
Chúa lôi cuốn quần
chúng lại gần qua lời giảng dậy đơn sơ, thẳng thắn và đầy uy quyền. Chúa không
dùng những triết thuyết cao siêu, trừu tượng hay lý thuyết khô khan khó hiểu.
Lời Chúa thật giản dị và cụ thể dành cho mọi tầng lớp. Ai nghe cũng có thể hiểu
được ý nghĩa, trừ những người nhắm mắt và bịt tai không muốn lắng nghe. Từ
những người chài lưới thất học quê mùa đến những thầy thông luật cũng đã thấm
nhuần đạo lý của Chúa. Lời của Chúa thật trong sáng và có sức thuyết phục sâu
đậm.
Chúa còn thực hiện rất
nhiều phép lạ để chữa lành nọi thứ bệnh họan tật nguyền, cho kẻ mù được thấy,
kẻ điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, xua đuổi tà thần, hóa
bánh ra nhiều để nuôi dân, truyền sóng biển im lặng, mẻ cá đầy tràn và cho kẻ
chết sống lại... Đây là những phép lạ tỏ uy quyền của Chúa trên vạn vật. Chúa
biến hình một sự kiện vĩ đại trong lịch sử cứu độ, Chúa tỏ mình cho các môn đệ
thân tín. Chúa biến hình trở lại nguyên dạng đã có từ nguyên thủy. Một mầu
nhiệm nhập thể không ai hiểu thấu. Chúa mặc lấy xác phàm với thân phận của con
người giới hạn trong thời gian và không gian. Chính Ngài đã tự nguyện tước bỏ
vinh quang và chấp nhận thân phận tôi đòi: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho
đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Ph. 2,8)
Chúa Giêsu có hai bản
tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Một Thiên Chúa thật trong
thân xác phàm nhân. Chính Thiên Chúa đó bị người đời khinh bỉ, tẩy chay, xua
đuổi, chối từ, đánh đập, khặc nhổ trên mặt, nhạo cười, đội mạo gai, vác thánh
giá, bị con người tội lỗi xét xử và kết án tử hình. Chính những con người đã
từng chịu ơn đã giơ tay xin tha cho Baraba và giết Giêsu. Giết Con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là mặt trời
công chính và là ánh sáng thế gian. Chúa Giêsu lại nói với người Do-thái:
"Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga. 8,12). Thiên Chúa cao cả
sáng chói như mặt trời vậy mà bị con người vô tâm xô đẩy vùi dập, đánh đập tàn
nhẫn, máu me dính bết châu thân, nhịn đói nhịn khát, bị đóng đinh chân tay vào
thánh giá và bị treo lên lơ lửng cho chết dần. Ngài chính là Thiên Chúa. Con
người phàm hèn mà dám giết chết Thiên Chúa trong xác phàm.
Tiếng từ trời cao: Đây
là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người (Mt.17,5). Loài
người đã giết người Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Ngày nay nhiều người vẫn
tiếp tục hùa nhau giết Con của Thiên Chúa và loại trừ Ngài ra khỏi đời sống.
Người Con đó bị xét xử như một tội nhân và được xếp vào hàng các tội nhân đem
đi xử tử. Người Con đẹp lòng Thiên Chúa Cha đã hy sinh mạng sống để cứu độ
chúng sinh. Chúng ta suy gẫm và chăm chú nhìn hình ảnh người Con yêu dấu chết
giang tay trên thập giá. Qua hơn hai ngàn năm, Ngài vẫn tiếp tục bị người đời
tẩy chay, khinh bỉ và xua đuổi. Không phải người ta xua đuổi loại trừ một ông
Giêsu nào đó, mà là đang loại trừ chính Con Một Thiên Chúa.
Con Ta yêu dấu chiếu
sáng như mặt trời và áo Ngài trắng như tuyết. Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu dọi
vào đêm tối, nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng: Ánh sáng chiếu soi trong
bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng (Ga. 1,5). Nhìn thấy ánh sáng
chói lòa, các môn đệ sợ hãi và ngã sấp mình xuống đất. Ánh sáng của Chúa Kitô
soi dọi thấu tận tâm can của các tông đồ, các ngài thốt lên rằng: Lạy Thầy,
chúng con được ở đây thì tốt lắm (Mt. 17,4). Thật sung sướng khi được ở bên
Chúa.
Hình ảnh Chúa Giêsu
biến hình trên núi đã hé mở một chút vinh quang của Ngài cho các tông đồ. Sự
vinh quang luôn hiện diện trong Ngài qua lời giảng dậy, qua các phép lạ và qua
chính con người của Ngài. Chúa Giêsu sẽ trở lại với vinh 59
quang đích thực khi
Ngài hoàn tất công trình cứu độ qua con đường thập giá. Chúa Giêsu đã đổ tới
giọt máu cuối cùng trong thân phận con người. Tình yêu trọn vẹn hiến dâng Chúa
Cha để đền bù tội lỗi của chúng ta. Ngài yêu chúng ta tới cùng: Không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình (Ga. 15,13).
Chúng ta được cứu
chuộc bằng giá máu của Con Thiên Chúa. Chúa Con đã hiến tế một lần là đủ để đền
tội thay cho cả thế giới. Chúng ta hưởng nhờ ơn cứu độ mang lại nguồn sống. Chỉ
nơi Đức Kitô chúng ta sẽ có sự sáng và sự sống: Ở nơi Người là sự sống và sự
sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga. 1,4). Chúa Giêsu biến hình mặc khải cho
chúng ta về vinh quang ngày sau mà chúng ta hy vọng sẽ được chung hưởng ánh
sáng ngàn thu với Ngài.
Trong cuộc lữ hành thế
gian còn nhiều bóng tối che phủ và còn nhiều thử thách mà chúng ta phải vượt
qua. Đừng khi nào chúng ta chán nản bỏ cuộc. Hãy nhớ rằng con đường Chúa đã đi
qua là con đường thập giá. Phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang. Nhiều lần
Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: Thầy đây, đừng sợ. Chúng ta hãy khẩn khoản xin
với Chúa như thánh Phêrô: Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu
chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! (Mt. 14, 30).
Sau khi biến hình sáng
chói, Chúa Giêsu và các tông đồ phải đi xuống núi và trở về cuộc sống thực tế
hằng ngày. Chúa Giêsu không muốn đi theo con đường tắt dễ dàng. Ngài muốn đi
trọn con đường và sứ mệnh mà Cha đã trao phó. Sứ mệnh cứu độ không chỉ qua sự
giảng dạy và thực hành các phép lạ, nhưng là chấp nhận đau khổ và cái chết.
Không có một hy lễ nào cao trọng hơn hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Con
Thiên Chúa đã đi đến cùng tận trong tất cả mọi trạng huống của cuộc đời. Từ khi
Chúa hạ thân nghèo hèn trong máng cỏ cho tới lúc thân trần treo trên thập giá.
Không có một con người nào dám bươc xuống thẳm sâu như Chúa. Chúa đã bước xuống
và cứu con người lên.
Chúng ta không thể đi
con đường tắt để đến ơn cứu độ. Chúng ta hãy cố gắng sống tốt từng phút giây mà
Chúa đã ban. Hoàn tất tốt giây phút hiện tại trong yêu thương tha thứ và chia
sẻ bác ái. Hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa để tìm nguồn ủi an và gắn kết
yêu thương. Chúa sẽ dẫn chúng ta đến nguồn ơn cứu độ. Chúng ta biết rằng phải
qua thánh giá mới đạt tới vinh quang.
Đây chính là hồng ân
cứu độ. Đây chính là tình yêu! Chúa đã chết vì yêu! Chúa đã chết vì tội lỗi
chúng con. Chúng con dâng lời ngợi khen, cảm tạ và tán tụng danh Chúa đến muôn
ngàn đời.
14. ''Bản tính
khó dời'' – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tiếng đứa em lanh lảnh
nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể?
+ Vì anh ấy cờ bạc,
rượu chè nên chị không chịu được.
+ Nhưng anh ấy đã có
tật cờ bạc, rượu chè trước khi lấy chị mà.
+ Vì chị tưởng là thời
gian anh ấy sẽ biến đổi, ai ngờ càng ngày càng tệ hơn!
Người xưa thường có
câu: “Bản tính khó dời”, “chứng nào tật ấy” đều nói lên tính cách của một con
người khó mà thay đổi được. Thay đổi một thói quen của con người thì có thể,
nhưng rất khó lòng thay đổi bản tính một khi đã ăn sâu trong con người của họ.
Thói hay chửi của Chí
Phèo là một điển hình. Chí Phèo đã được Nam Cao phác họa như một tên vô lại,
tối ngày say sỉn, chỉ làm được một việc duy nhất là chửi khống và ăn vạ. Về tài
chửi của hắn, Nam Cao tả: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong
là hắn chửi. Bắt đầu chửi Trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn
chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn
chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ
mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết
đi được mất!
Đã thế, hắn phải chửi
cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế
thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ
ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi,
hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến
răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.
Xem ra ở đời ai cũng
có tật xấu. Ai cũng có điều phải sửa, vì “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng
thời gian đã biến chúng ta ra xấu xa bởi biết bao thói hư tật xấu. Sự khôn
ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng
ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của
Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong
sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.
Hôm nay, Chúa biến
hình trở về với căn tính Thiên Chúa của Ngài. Phê-rô đã ngây ngất khi chiêm
ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Phê-rô cùng các môn đệ càng thêm xác tín về
Thiên tính trong con người của Thầy Giêsu. Phê-rô cảm thấy toại nguyện và chỉ
còn mong muốn một điều duy nhất là được ở bên Chúa mãi mãi.
Sứ điệp ngày lễ Chúa
hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người
được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp
tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta
biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về
với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không
thể làm tôi cho ma quỷ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi
kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự
thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người.
Tiếc rằng, con người
hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã
bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người
đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục
vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh
lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.
Ước gì mỗi người chúng
ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân
trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân
trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng
ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành
động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.
15. Hãy biết mình –
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cái quý nhất của con
người là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của
con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và
điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi người là nhận ra tha nhân
cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.
Thế nhưng, nhiều người
đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin rằng có
Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ
đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ
chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là một thế
giới mạnh thắng, yếu thua, và "cá lớn nuốt cá bé". Họ không nhận ra
sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng
và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh
Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy
những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà làm hại lẫn
nhau.
Có một câu chuyện ngụ
ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo,
vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ
nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với
sư tử rằng:
- Thưa ông anh, em vừa
gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: "Trên đời này
nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó". Thằng cha này không
coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo
rằng:
- "Thế mày có
nhắc đến tên tao không?"
Thỏ trả lời:
- Sao lại không? Em
vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó
thôi.
Sư tử càng tức điên
người lên và hỏi:
- Nó ở đâu? dẫn tao
đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra
sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng
vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với
cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia
cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư
tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ
dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế
là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu...
Thất bại của sư tử là
không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ
muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ
có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Nếu con người của mọi
thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em
với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình
ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc
thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại,
hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại. Chồng
đánh đập vợ. Cha mẹ đánh đập con cái. Anh em đầy đoạ nhau. Hàng xóm láng giềng
đáng lẽ "tối lửa tắt đèn có nhau", nhưng lại "bới lông tìm
vết" và làm hại lẫn nhau.
Hôm nay, lễ Chúa hiển
dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh
thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một
dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến
nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy
Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó
chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật
của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy
thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được
chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống "nhân chi sơ tính bản thiện" của
phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời
gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong
để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại
hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh
lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn
muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng
và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi
thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui
sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của
tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta
can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn
trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và
của tha nhân. Amen.
16. Chúa Hiển Dung –
Radio Veritas Asia
(Trích từ ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Trong phụng vụ Chúa
Nhật thứ hai Mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của
Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được Chúa
Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn
Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Ngài bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn
tinh tế ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình, Người biết họ
vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi
theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những
phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta
thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi
của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí,
trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để
chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau:
"Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không
phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người". Còn hai ông Gioan và
Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính nóng nảy, hai ông đã được Chúa
Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi. Hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách
vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp
đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất
về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi
cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài
Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất
phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư
nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì
một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng
Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người; có ông Môsê và ông Êlia xuất
hiên để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá
kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê
sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và
được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Ngài.
Khi nghe đoạn kể lại
Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình ngây ngất, choáng
ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ
Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa
Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt
nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển, nhưng dường như
Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những
chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn
sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà
thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã
từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết
rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá
nhân, bằng những cách thế khác nhau. Qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau,
Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người,
để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên
đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có
thể vì chúng ta chưa đủ bén nhạy trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không
nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.
Quả thật, Chúa Kitô
Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh hào
quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn
có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều này
trong tác phẩm "Lời Dâng" như sau:
"Anh không nghe
thấy ư?
Bước chân Người thầm
lặng
Người tới, tới và luôn
luôn thường tới
Người tới, tới và luôn
luôn thường tới
Hàng giờ, hàng đêm,
hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi".
Lạy Chúa Giêsu, trong
cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con
vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con
đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận
ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để
mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời
ấy mà vững tâm sống đạo.
17. Con đường thập
giá con đường vinh quang
Tuần trước chúng ta đã
cùng với Chúa Giêsu lên núi để chịu ma quỷ cám dỗ. Đáng tiếc cho ma quỷ là nó
không làm gì được Chúa Giêsu. Chỉ vì Người một mực chọn và làm theo lời dạy của
Chúa Cha. Chúa Nhật hôm nay chúng ta tiếp tục cùng ba môn đệ theo Chúa Giêsu
lên núi. Nếu như tuần trước chúng ta thấy Chúa Giêsu có vẻ yếu đuối bao nhiêu
thì hôm nay Người trở nên mạnh mẽ oai quyền bấy nhiêu. Chúa Giêsu đã trở về
tình trạng vinh quang của Người: "Dung nhan Người chói lọi như mặt trời,
và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng" (Mt 17, 2b).
Với vinh quang này, ba
môn đệ cảm thấy rất thích nên Phêrô đã không ngần ngại thưa: "Lạy Ngài,
chúng con ở đây, thật là hay!" (Mt 17, 4b). Liền sau đó là tiếng Chúa Cha
từ đám mây phán: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các
ngươi hãy vâng nghe lời Người!" (Mt 17, 5b). Chúa Cha rất hài lòng về Chúa
Giêsu. Vì Người đã vui lòng đón nhận con đường mà Chúa Cha đã vạch sẵn cho. Con
đường ấy chính là con đường thập giá. Cũng chính con đường thập giá ấy mới là
con đường vinh quang đích thật. Và rồi Chúa Cha cũng muốn mời gọi ba môn đệ và
tất cả chúng ta hãy đi theo con đường Thập giá cùng với của Thầy mình.
Chúa Giêsu cũng là
Thiên Chúa thật nên vinh quang mà chúng ta chiêm ngưỡng là điều bình thường.
Điều đáng nói là vì thương và vì muốn đem lại ơn cứu độ cho con người chúng ta,
nên Chúa Giêsu đã đón nhận con đường thập giá ấy. Chúng ta thấy không bao giờ
Chúa Giêsu kêu gọi người ta làm gì mà chính Người đã không làm trước. Chẳng hạn
khi Người kêu gọi hãy tha thứ thì chính Người cũng đã tha thứ cho những kẻ đã
bắt bớ, đã sỉ nhục mình: "Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết
việc chúng làm". (Lc 23, 34. Cho nên, nếu Chúa Giêsu đã đi con đường thập
giá thì những ai muốn theo Người không thể đi đường khác được. "Ai muốn
theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo Thầy" (Mt 16,
24 ).
Vậy đâu là con đường
thập giá. Đó là con đường từ bỏ những ý riêng của mình mà sống theo thánh ý
Chúa Cha. Bài đọc 1 cho thấy ông Abram được Thiên Chúa mời gọi: "Hãy rời
bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi" (
St 12, 1b). Thật là một lời mời gọi hết sức vô lý theo cái nhìn của chúng ta.
Tuy nhiên, ông đã vâng lời Chúa để ra đi mà không một lời phàn nàn. Nhờ đó mà
ông đã trở thành Tổ phụ của nhiều dân tộc.
Hằng ngày trong cuộc
sống chắc chắn có rất nhiều điều trái ý nhưng nếu biết đó là thánh ý Chúa Cha,
chúng ta hãy tin tưởng mà bước đi. Bước đi như thế là chúng ta đang đi theo
Chúa Giêsu - vị Thầy Chí Thánh của chúng ta. Bước theo con đường thập giá cũng
chính là con đường vinh quang.
LÊN NÚI CAO ĐỂ THẤY
CÁI KHÔNG THỂ MÔ TẢ, ĐỂ NGHE LỜI PHÁT RA TỪ ĐÁM MÂY.
Dẫn nhập
Bài Tin Mừng “Biến đổi
hình dạng ở trên núi” (Mt 16,1-9) nằm giữa hai lần Đức Giêsu báo trước Thương
Khó – Phục Sinh: Lần thứ nhất ở Mt 16,21-23 và thứ hai ở Mt 17,22-23. Chúng ta
vẫn quen gọi: “Ba lần Đức Giêsu báo trước cuộc Thương Khó”, nhưng trong cả ba
lần Đức Giêsu đều nói tới biến cố Phục Sinh bằng một câu ngắn ngủi: “Ngày thứ
ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,23; 20,19).
Có lẽ nói ngắn quá nên
các môn đệ trong bản văn cũng như cộng đoàn Mátthêu cuối thế kỷ I và cả độc giả
ngày nay không để ý, hay xem nhẹ ba lần báo trước sự Phục Sinh. Vì thế, trình
thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng (Mt 17,1-9) nhằm làm lộ ra vinh quang
tiềm ẩn nơi Đức Giêsu và nhất là mặc khải cho các môn đệ và cho độc giả biết
Đức Giêsu là ai và chúng ta phải làm gì.
Trình thuật Đức Giêsu
được biến đổi hình dạng và tiếng phát ra từ đám mây vẽ lên một bức tranh tuyệt
đẹp có một không hai trong sách Tin Mừng với những hình ảnh và ngôn từ rất đặc
biệt. Có thể tìm hiểu đoạn Tin Mừng Mt 17,1-9 qua ba mục:
1) Tách rời khỏi thế
giới thường ngày, thế giới khả giác.
2) Chiêm ngưỡng thế
giới của Thiên Chúa bằng mắt.
3) Lắng nghe mặc khải
của Thiên Chúa bằng tai.
1) Tách rời khỏi thế
giới thường ngày, thế giới khả giác.
Trình thuật bắt đầu
bằng sự tách biệt với đời thường về thời gian, về không gian và về con người:
“Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê
đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt
17,1).
a) Yếu tố thời gian là
“sáu ngày sau”, đánh dấu sự phân cách với những gì đã xảy ra trước đó một tuần.
Người kể chuyện không nói gì về sáu ngày này, như thể sáu ngày im lặng không kể
gì cả để làm cho biến cố xảy ra trên núi cao trở thành một trong những đỉnh cao
của sách Tin Mừng.
b) Trình thuật nói đến
tách biệt về nơi chốn. Ba môn đệ được tách riêng ra một nơi và được đưa lên một
ngọn núi cao. Đó là núi nào? Bản văn không nói rõ. Độc giả không nên tìm cách
đặt tên, vì bản văn nói đến một nơi tượng trưng, núi cao là nơi Thiên Chúa bày
tỏ và gặp gỡ con người. Bản văn cố tình không cho biết núi nào để đưa độc giả
ra khỏi những gì là bình thường. Cần ra khỏi khỏi thế giới thường ngày, thế
giới khả giác để có thể hiểu được một biến cố vượt ra ngoài thời gian và không
gian bình thường. Nơi chốn không rõ, thời gian cũng bị vượt khỏi giới hạn, cụ thể
trong trình thuật là những nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ như Môsê, Êlia
và Đức Giêsu lại có thể đàm đạo với nhau.
(Trình thuật không nói
rõ nơi nào, nhưng truyền thống Hội Thánh cần một nơi để ghi nhớ biến cố này.
Núi Ta-bo ở Ga-li-lê đã được chọn, đây là một ngọn núi riêng biệt, chung quanh
không có đồi núi, nên có thể thấy từ xa. Hiện nay có một ngôi thánh đường trên
đỉnh núi và khách hành hương đến để sống và suy niệm về biến cố này).
c) Tách biệt về con
người, vì chỉ có ba môn đệ được chọn: “Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Đây là Nhóm
thu nhỏ của Nhóm Mười Hai, đại diện cho tất cả các môn đệ khác. Sự tách biệt
này là dấu hiệu văn chương báo trước một biến cố quan trọng, nhưng chưa phải là
lúc phổ biến rộng rãi cho mọi người. Tuy nhiên, những gì ba môn đệ này đã thấy
và đã nghe là để rao giảng cho mọi người qua mọi thời đại được biết. Thực vậy,
nhờ trình thuật, chính độc giả cũng được tách riêng ra, được thấy và được nghe
những gì ba môn đệ ngày xưa đã nghe, đã thấy.
Sau khi được tách biệt
khỏi thời gian và không gian bình thường, những gì xảy ra trên núi thuộc về một
thế giới khác. Đó là thế giới của Thiên Chúa, thế giới không còn khoảng cách
thời gian và không gian, thế giới mà ngôn ngữ không thể diễn tả được. Trong
khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của Thiên Chúa được tỏ bày qua thị giác (để
thấy) và qua thính giác (để nghe).
2) Chiêm ngưỡng thế
giới của Thiên Chúa bằng mắt
Trước hết, Đức Giêsu
không tự mình biến đổi hình dạng mà “Người được biến đổi hình dạng”
(metamorphôthê). Động từ Hy Lạp metamorphôthê ở dạng thụ động và tác nhân được
hiểu là Thiên Chúa (passif divin). Chính Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu được biến
đổi hình dạng.
Sự biến đổi này không
chỉ là biến đổi khuôn mặt. Tiếng Pháp quen dùng động từ transfigurer có nghĩa
là thay đổi (trans) khuôn mặt (figure). Từ figure có nghĩa đầu tiên là mặt.
Trong khi động từ Hy Lạp metamorphoô, tiếng Pháp chuyển âm: métamorphoser, có
nghĩa là biến đổi, biến hoá (méta) toàn thân, từ trong bản chất (morphoser).
Tiếng Việt có thể dùng cụm từ “biến đổi hình dạng”.
Đức Giêsu được biến
đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ. Nghĩa là ba môn đệ được chứng kiến sự kiện
nhưng họ đã thấy gì? Người thuật chuyện kể: “Dung nhan Người chói lọi như mặt
trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” Nếu dung nhan Đức Giêsu
chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ có thể nhìn mà không bị mù mắt.
Nếu y phục của Đức Giêsu trở nên trắng tinh như ánh sáng thì làm sao các môn đệ
có thể thấy được, vì không ai thấy được ánh sáng mà chỉ có thể thấy sự phản
chiếu của ánh sáng nơi sự vật mà thôi.
Thực ra, đây là cách
diễn tả những thực tại thần linh bằng thứ ngôn ngữ thị kiến của sách Khải
Huyền. Ba môn đệ đang đối diện với thế giới của Thiên Chúa, đối diện với những
thực tại thuộc về Thiên Chúa, đối diện với vinh quang của Thiên Chúa, nên ngôn
ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ loài người không mô tả được, chỉ vì
điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc sống thường ngày của con người.
Bằng ngôn ngữ, sách
Khải Huyền chỉ có thể mô tả những thị kiến về thế giới thần linh bằng các từ:
“như”, “giống như”, “tựa như”... còn điều trông thấy thì không thể mô tả được.
Chẳng hạn Gioan mô tả thị kiến ở Kh 4,2-3: “Lập tức tôi xuất thần. Kìa một cái
ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. Đấng ngự đó trông giống như
ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích
ngọc”. Kh 4,6 viết: “Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê.”
“Trông giống như...”, “như...” còn thực sự thế nào thì không mô tả được.
Có thể nói, trên núi
cao, giữa trời và đất, ba môn đệ được thấy “thị kiến” về Đức Giêsu trong thế
giới của Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so sánh “như”: “Chói lọi như mặt
trời”, “trắng tinh như ánh sáng”, nghĩa là dung nhan của Đức Giêsu không phải
là mặt trời, và y phục của Người cũng chẳng phải là ánh sáng, chỉ là “như”,
“giống như” mà thôi.
Trong thế giới thần
linh ấy, các nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo với
nhau. Theo Kinh Thánh, Môsê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII
TCN, Êlia là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp, thế kỷ VIII TCN và Đức Giêsu thế kỷ
I SCN.
Nội dung đàm đạo không
được kể ra, nhưng điều chắc chắn là có trao đổi giữa các nhân vật. Trong thế
giới trên cao, điều nhấn mạnh là tương quan giữa người sống và người đã khuất,
là nối kết giữa các thế hệ với nhau, như thể khoảng cách thời gian không còn
nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm đạo nhưng nội dung lại vượt ra ngoài sự
nắm bắt của người phàm.
Lời Phêrô nói với Đức
Giêsu: “Thưa Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng
tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”
(17,4). Lời đề nghị này vừa cho thấy các môn đệ muốn kéo dài thị kiến vì biến
cố quá hay, quá tốt, quá đẹp, vừa có nét hài hước vì Phêrô đề nghị làm ba lều
cho Đức Giêsu, Môsê và Êlia như thể những nhân vật đã khuất như Môsê và Êlia
không thuộc về thế giới này lại cần lều để ở, còn ba môn đệ là người phàm lại
không cần lều.
3) Lắng nghe mặc khải
của Thiên Chúa bằng tai
Mặc khải bằng thị kiến
kết thúc với sự lên tiếng của con người, cụ thể là Phêrô, và chuyển sang hình
thức mặc khải thứ hai: “Tiếng nói từ đám mây”: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta
hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” (17,5).
Từ kinh nghiệm thị
kiến, thấy bằng mắt, chuyển sang mặc khải bằng lời qua tiếng phát ra. Các môn
đệ chỉ có thể lãnh hội được nội dung bằng cách “nghe”. Tiếng phát ra từ đám mây
không phải là tiếng con người, tiếng này có nguồn gốc từ trời và bí ẩn. Lối
hành văn phù hợp với bối cảnh của biến cố trình bày mặc khải của Thiên Chúa.
Cách thứ nhất, mặc
khải bằng thị kiến là vén bức màn lên (mạc khải) để soi sáng những gì còn ẩn
dấu (mặc khải). Cách thứ hai là mặc khải bằng lời, hàm ẩn sự lắng nghe để hiểu,
ở đây lắng nghe theo nghĩa đón nhận, cho dù chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa của lời
mặc khải. Trong trình thuật biến hình, có cả hai cách mặc khải, nhằm giúp ba
môn đệ và độc giả hiểu được Đức Giêsu là ai.
Lời phát ra từ đám mây
(17,5), nhắc lại tiếng phát ra từ trời sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở đầu
sách Tin Mừng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Mt
17,5 có thêm hai yếu tố mới: (1) “Hãy vâng nghe lời Người”, dịch sát: “Hãy nghe
Người (akouete autou)”, (2) Tiếng phát ra từ đám mây nói trực tiếp với ba môn
đệ và qua đó nói với độc giả qua mọi thời đại về căn tính của Đức Giêsu và
tương quan của Người với Thiên Chúa Cha. Lời nói từ đám mây gồm một lời giới
thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta” và một mệnh lệnh: “Các người hãy nghe
Người.”
Khi gọi ai là Con
(huios) thì người ấy là Cha, như thế lời phát ra muốn các môn đệ và độc giả
biết Đức Giêsu có tương quan “Cha – Con” với Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là Con
Thiên Chúa. Mệnh lệnh nói với ba môn đệ và cho độc giả: “Hãy nghe Người” là một
khẳng định quan trọng nói lên sự thay đổi lớn trong tương quan giữa Thiên Chúa
và con người, như thể Chúa Cha tự xoá mình trước Đức Giêsu là Con yêu dấu của
Người.
Thực vậy, trước khi
Đức Giêsu xuất hiện, Thiên Chúa phán với dân và dân nghe lời Người. Khi Đức
Giêsu xuất hiện, Chúa Cha dặn các môn đệ: Hãy nghe lời Đức Giêsu. Như thế, tương
quan “Thiên Chúa / dân” trong Cựu Ước trở thành tương quan “Đức Giêsu / môn đệ” trong Tân Ước, và đây
là ý muốn của Chúa Cha.
Nghe lời Đức Giêsu là
nghe tất cả những gì Người nói và dạy. Đặc biệt đón nhận lời loan báo Thương
Khó và Phục Sinh đã được loan báo trước đó và Người sẽ báo trước thêm hai lần
nữa để nhấn mạnh biến cố nền tảng và nghịch lý này. Như thế, biến cố trên núi
cao không phải là một biến cố tách rời khỏi các trình thuật khác. Ngược lại,
lời mời gọi “nghe lời Đức Giêsu”, nối kết biến cố trên núi cao với toàn bộ giáo
huấn của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng.
Đối diện với thế giới
của Thiên Chúa và vinh quang của Người, các môn đệ đã “kinh hoàng, ngã sấp mặt
xuống đất” (17,5). Chính Đức Giêsu đã đưa các ông trở lại đời thường bằng cách
chạm vào các ông và nói: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”, các ông ngước mắt lên và mọi
chuyện lại trở về thực tế. Nhưng biến cố ấy, những gì đã thấy, những lời đã
nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông.
Kết luận
Giữa hai lần báo trước
biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để
bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính
của Đức Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Đức Giêsu vì
Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được
Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn
của Đức Giêsu.
Trình thuật Đức Giêsu
được biến đổi hình dạng trên núi cao và lời phát ra từ đám mây là những tia
sáng mạnh mẽ như ánh sáng mặt trời, có khả năng soi sáng cho cuộc đời của độc
giả mọi nơi mọi thời đang bước đi trong đêm tối, đang sống trong khó khăn thử
thách của cuộc sống, đang nghi ngờ về căn tính của Đức Giêsu và chưa biết rõ
Người là ai. Có thể nói, biến cố trên núi cao là hình ảnh của biến cố Phục
Sinh, trước khi biến cố Thương Khó xảy ra. Đây là niềm hy vọng lớn lao cho ba
môn đệ và cho độc giả.
Đọc xong trình thuật,
liệu độc giả, là tất cả chúng ta, có thực sự sống biến cố xảy ra trên núi như
ba môn đệ hay không?
Liệu độc giả có cùng
với các môn đệ tách ra khỏi đời thường để ngây ngất trước vẻ đẹp của thế giới
trên cao hay không?
Liệu độc giả mọi nơi
mọi thời có nghe được tiếng phát từ trời để biết Đức Giêsu là ai (là Con Thiên
Chúa) và biết phải làm gì (Nghe Đức Giêsu) hay không?
Ước gì mặc khải ngắn
ngủi trong bản văn bằng thị kiến để thấy, và bằng lời để nghe có khả năng gây
ấn tượng lâu dài và trở thành một lời mời gọi tin và vững tin vào Đức Giêsu
trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách.
Mong sao mệnh lệnh
“Hãy nghe Người” là lời thúc đẩy chúng ta đến với Tin Mừng, đọc Tin Mừng để
nhận ra lời của Đức Giêsu là Lời sự sống, Lời đem lại ý nghĩa cho cuộc đời này.
19. Đức Giêsu
- Con đường cứu độ duy nhất
(Suy niệm của Lm. Bùi
Quang Tuấn)
"Ngước mắt lên,
các ông thấy chẳng còn ai, trừ ai một mình Chúa Giêsu" (Mt 17:8).
Trong cuốn sách tựa đề
"Gương Hiếu Thảo", tác giả Phan Như Huyên có thuật lại gương chí hiếu
của Công Chúa An Thường như sau: An Thường là con gái thứ tư của vua Minh Mạng.
Nàng rất thông minh và thảo hiếu. Năm lên 9 tuổi, mẹ của công chúa bị bịnh. Lúc
đó vào dịp lễ Vạn Thọ, các hoàng tử công chúa đều được triệu vào cung để chúc
tuổi vua cha. Nhà vua cho các hoàng tử được ăn thịt dê. An Thường chỉ ngậm thịt
trong miệng chứ không nuốt. Vua thấy lạ mới hỏi nguyên do, cô trả lời: "Con
nghe nói thịt dê bổ lắm, nên con ngậm về cho mẹ đang bị bịnh ăn cho mau
khỏe". Nghe vậy, vua cảm động quá, mới truyền đem khay lấy thêm thịt để An
Thường đưa về cho Mẹ. Đến khi Vua Minh Mạng chết, nàng để tang ba năm, sống bên
lăng cha cho trọn đạo hiếu.
Khi đề cập đến đạo
hiếu trong văn hoá Việt Nam, Đức TGM Stephanô Nguyễn Như Thể của TGP Huế tại
Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đã phát biểu: Người Việt Nam chịu ảnh hưởng
sâu đậm của Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo. Cả ba tôn giáo đó đều cho lòng
hiếu thảo là nhân đức căn bản của gia đình và xã hội. Việc sốt sắng tôn kính và
phục vụ cha mẹ khi còn sống cũng như lúc qua đời là một bổn phận ưu tiên. Luân
lý và văn minh đều tùy thuộc vào bổn phận này.
Có lẽ trong những quốc
gia mà đạo hiếu bám rễ sâu vào lòng người như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan,
Ấn Độ..., nơi mà "tứ đại đồng đường", ba bốn đời vẫn ở chung nhau
dưới một mái nhà, thì việc rao giảng hay đón nhận Kitô giáo sẽ không phải là
một chuyện dễ dàng. Tại sao thế?
Lý do là vì nhiều
người cảm thấy băn khoăn muốn phải kháng khi nghe Đức Giêsu nói: "Ai đến
với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không
thể làm môn đệ của Ta" (Lc 14:26).
Vấn đề được đặt ra là:
"Trên thế gian này có gì cao đẹp cho bằng tình cảm cha mẹ con cái, vợ
chồng, anh em, và có gì quí giá cho bằng sự sống, ấy thế mà Đức Giêsu nào đó
lại bảo người ta phải hy sinh từ bỏ để có thế gắn bó với Ngài. Thử hỏi Đức
Giêsu là ai mà đòi hỏi người ta một việc làm quá đáng như vậy? Phải chăng Đức
Giêsu đang dạy con người sống bất hiếu?"
Điều cần xác minh
trước hết, ấy là Chúa Giêsu không hề dạy người ta bất hiếu hay bất nghĩa. Ngài
đã từng nhắc đi nhắc lại điều răn thứ 4 là giới răn dạy người ta thảo kính với
mẹ cha. Khi một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được hạnh
phúc đời đời, câu trả lời của Ngài đã có phần: "ngươi phải thảo kính cha
mẹ". Ngay khi trên thập giá, trước lúc tắt hơi, Ngài vẫn quan tâm đến Mẹ
Maria và lo liệu để Gioan đón Mẹ về nhà chăm nom. Thế nên không thể nào nói
Chúa Giêsu bất hiếu hay dạy người ta sống bất hiếu được.
Vậy thì làm sao để lý
giải được câu nói trên đây của Chúa Giêsu?
Thật ra có gì khó hiểu
đâu nếu như có những con người đã vì một đất nước trần thế, một đất nước nay
còn mai mất, nay vào tay chế độ này mai vào tay chế độ khác, mà họ còn dám dấn
thân và hy sinh cha mẹ anh em cùng sự sống, thì với một đất nước vĩnh hằng, một
đất nước được thống trị bởi Đức Giêsu, vua tình yêu và chân lý, thì có gì là
khó hiểu khi có những con người dám liều bỏ hết tất cả để đi theo vị vua đó và
xây dựng đất nước đó.
Mấy ai lại không biết
một Thomas More dám bỏ vua Henry VIII, chấp nhận xa vợ con, và cuối cùng là mất
mạng sống để bênh vực cho chân lý trung tín yêu thương, một vợ một chồng, mà
Vua Giêsu đã truyền dạy.
Mấy ai lại không biết
một Giêrađô Majella trốn nhà ra đi sau khi ghi vội cho mẹ mấy lời: "Mẹ ở
nhà con đi làm thánh". Hay một Charles Cornay đã can đảm bước qua mình
song thân, lên đường đi rao truyền chân lý Nước Trời cho Việt Nam, chấp nhận
biết bao khốn khó nghèo khổ, và rồi cuối cùng chấp nhận cái chết lăng trì vì
con người có tên Giêsu.
Nhưng không phải là ai
cũng hiểu rõ được bản chất thực sự của Đức Giêsu để dám bước theo Ngài cách can
đảm và quyết liệt. Lắm khi người ta lại cho Ngài chỉ giống như một hiền triết,
hay một vĩ nhân, hoặc một nhà sáng lập tôn giáo nào đó. Nhưng một hiền triết,
một vĩ nhân, hay một người sáng lập tôn giáo như Đức Khổng, hay Đức Lão, hoặc
Đức Phật, thì cũng chỉ là những con người nói về yêu thương và dạy về chân lý,
khuyên bảo chúng sinh làm lành lánh dữ, chứ các ngài không là yêu thương, hay
là chân lý. Nhưng Đức Giêsu thì trái lại, Ngài là yêu thương, là Đường, là Sự
Thật, và là Sự Sống. Quan trọng là chỗ đó! (ĐC Fulton J. Sheen).
Thế thì, một khi nhận
thức và xác tín Đức Giêsu chính là chân lý soi sáng đường đi cho con người, là
tình yêu đưa đến một sự sống phong phú tràn đầy, thì việc bước theo Ngài, làm
môn đệ của Ngài sẽ là bước đi tất yếu cho những ai muốn sống sự thật, muốn sống
yêu thương, và muốn trở nên con người toàn vẹn. Ngoài Đức Giêsu Kitô, sẽ không
còn ai có thể lấp đầy khát vọng đó.
"Ngước mắt lên,
các ông thấy chẳng còn ai, chỉ trừ một mình Chúa Giêsu". Hai nhà đại tiên
tri và lãnh đạo tôn giáo là Êlia và Môisen biến mất. "Chỉ còn một mình
Chúa Giêsu". Theo nhận định của một nhà chú giải: rồi đây "mọi chủ
thuyết triết học, mọi ý thức hệ vang bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng
quên". Các tinh hoa của mọi nẻo đường cũng chỉ qui về một mối trong Đức
Giêsu, Đấng là Đường duy nhất dẫn đến Chân Thiện Mỹ của muôn vật muôn loài.
Thật chí lý thay niềm
xác tín của Giáo hội: "Không có ơn Cứu Độ ngoài Đức Giêsu".
20. Chúa hiển dung bộ
mặt nào?
(Suy niệm của Lm Gioan
Nguyễn Văn Ty)
Tôi được biết: trong
phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương thì biến cố hiển dung (‘sự hóa thân’ theo như
cách nói của họ) chiếm vị trí hàng đầu, và được coi là sự kiện thâu tóm tất cả
mạc khải Tân ước. Xét cho cùng tôi thấy họ không sai chút nào, vì Hiển Dung với
tất cả sự hoành tráng của nó (bao bì) phải gói ghém trong đó một thực tế (sản
phẩm) có tầm mức quan trọng vượt bậc. Hiển Dung chắc chắn không phải là biến cố
vinh quang hào nhoáng nhằm che đậy một thực tại đau đớn là cuộc khổ nạn, như
nhiều khi chúng ta được nghe giải thích: Chúa biến hình để củng cố các tông đồ
khỏi vấp ngã vì cuộc khổ nạn ê chề. Nếu đúng là như thế thì việc biến hình đã
thất bại, vì trong thực tế, các tông đồ nói chung, cách riêng Phêrô - một trong
ba chứng nhân trực tiếp, đã vấp ngã. Hiển dung không nhằm mục đích che đậy bất
cứ một thực tế đau thương nào, ngược lại nó phải làm lộ rõ nội dung vinh quang
đích thực của Thập Giá
Theo lối suy nghĩ tự
nhiên của định luật nhân-quả, người ta luôn có khuynh hướng tách vinh quang ra
khỏi đau khổ: đau khổ chỉ là tiền đề, là điều kiện để đạt tới vinh quang. ‘Per
crucem ad lucem’, người ta thường quan niệm thế, phải qua thập giá đau thương
mới tới được vinh quang phục sinh. Nói như thế thì tự nó Thập giá không bao giờ
là vinh quang, vinh quang chỉ lộ diện như một phần thưởng sau thập giá, trong
ánh sáng phục sinh. Thông thường người ta quan niệm, thập giá chỉ là phương
tiện chứ không thể là mục tiêu, tương tự như đau khổ là con đường dẫn tới thành
công. Do đó người ta chỉ có thể ôm ấp vinh quang phục sinh chứ không thể yêu
thích thập giá, và diện mạo cũng như sức mạnh đích thực của Thiên Chúa chỉ tỏ
hiện trong ánh sáng Phục sinh chứ không thể trong đau khổ thập giá.
Ngược hẳn với lối suy
nghĩ trên, các thánh sử, khi mô tả biến cố Hiển Dung, đều cho thấy vinh quang
Thiên Chúa tỏ rõ nơi biến cố Thập Giá. Hai ông Êlia và Môsê, hiện thân tột đỉnh
của mạc khải Cựu Ước, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu “về cuộc xuất hành Người
sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31). Để thấu hiểu biến cố hiển dung thì
phải lồng nó trong cuộc khổ nạn - phục sinh của Đức Giêsu. “Đừng nói cho ai hay
thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy”. Theo tác giả Gio-an
thì chính cái chết tự hiến (chứ không phải Phục sinh) mới được Đức Giêsu coi
như mục tiêu chính của mạc khải Người, là ‘giờ của Người’, là sự tôn vinh’ của
Thiên Chúa Cha và của chính Người nữa (xem Ga 12,20-33). Chỉ có Đức Giêsu của
hiển dung - thập giá mới được Chúa Cha từ trời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu
của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”
Hiểu được vinh quang
Thiên Chúa nằm trong chính thập giá quả là điều khó. Ngay cả Phêrô cũng còn lâu
mới chấp nhận nổi điều này (xem Mc 8,31-33). Điều đó cho thấy chiêm ngắm và tin
vững chắc vào một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót không phải là
dễ. Chấp nhận một Thiên Chúa oai hùng và công thẳng còn dễ hơn nhiều. Các tôn
giáo đều muốn tôn vinh Thiên Chúa và ca ngợi sự uy nghi cao cả của Ngài mà
không bị bóng thập giá phủ mờ. Trong khi đó Đức Giêsu, bằng trọn cuộc sống trần
thể, và nhất là qua cái chết thập giá, chỉ muốn hé mở một điều duy nhất: vinh
quang vĩ đại nhất của Thiên Chúa, và yếu tính đặc sắc nhất của Ngài chính là tự
hiến và cứu độ, là tha thứ và xót thương. Thập giá là mạc khải toàn diện nhất
về Thiên Chúa, đồng thời cũng biểu lộ tột cùng vinh quang tình yêu của Ngài.
Vì vậy đối với Kitô
hữu chúng ta, mùa chay phải là thời gian của Hiển Dung. Hình như Hội Thánh muốn
nhắc nhở chúng ta điều đó: đây chính là thời gian mời gọi mọi Kitô hữu hãy say
sưa chiêm ngắm thập giá, để phát hiện ra vinh quang và quyền lực lớn lao nhất
của Thiên Chúa, một thứ quyền lực không hề tạo sợ hãi, nhưng chất đầy vui mừng
và hy vọng đích thực của Tin Mừng. Trung tâm của mùa chay phải là Thập giá,
nhưng không phải thứ thập giá thuần khổ đau và chết chóc, mà là Thập giá ánh
lên vinh quang của tình yêu trao hiến và cứu độ của Thiên Chúa là Cha nhân lành.
Hoặc tôi chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa như thế, hoặc như Phêrô, tôi chối bỏ
vinh quang Thập Giá, để đáng bị Đức Giêsu sua đuổi như Sa-tan, tức là kẻ phản
nghịch chối bỏ vinh quang tình yêu tha thứ của Thiên Chúa.
Mùa chay vì thế không
chỉ là thời gian hãm dẹp, nhưng phải là dịp để khám phá và củng cố niềm tin.
Tôi có ý thức điều đó không?
Lạy Chúa, khi mời gọi
con vác thập giá theo chân Chúa là Chúa muốn dành cho con vinh dự được tham gia
vào vinh quang vĩ đại nhất của Chúa. Xin cho con, một Kitô hữu và Linh mục của
Chúa, không còn coi Thập Giá là biểu hiện của khổ nhục và đau đớn, nhưng đã trở
thành biểu tượng của tình yêu vinh quang. Chính vì thập giá hiển dung cho con
diện mạo yêu thương tự hiến của Chúa mà con xin được say mê Thánh Giá. Xin cho
Thánh Giá từ nay trở thành gia nghiệp duy nhất của đời con. A-men
21. Đường về
đỉnh vinh quang
(Suy niệm của Lm Antôn
Nguyễn Văn Tiếng)
Đây là một câu chuyện
xưa có tên “Người kế vị”, nội dung như thế này: Ở ngôi chùa kia có vị cao tăng
với nhiều đồ đệ đông đến hàng trăm người. Cũng như mọi người bình thường, vị
cao tăng biết rõ ràng quy luật “sinh, tử” của Tạo Hóa là không
có ngoại lệ. Nay tuổi cao, sức yếu, vị cao tăng muốn tìm một người kế vị mình.
Ngặt nỗi, người kế vị chỉ có một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị cao tăng nghĩ là
một kế và tiến hành lựa chọn người kế vị.
Cứ khoảng vài ba ngày,
vị cao tăng tự đem giấu một món đồ vật và phàn nàn với đồ đệ rằng nơi đây có
trộm cắp.
Ít lâu sau, vị cao
tăng bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ trộm!
Nghe tiếng thầy kêu,
dù đang ngon giấc, các đồ đệ đều bật dậy, vội chạy tới. A là một đồ đệ rất
siêng năng, nhanh nhẹn, tháo vát, luôn quí trọng thầy, thương yêu sẵn sàng giúp
đỡ bạn, có uy tín vào bậc nhất trong các đồ đệ của vị cao tăng. A chạy đến
trước tiên, hy vọng sẽ giúp thầy tìm bắt kẻ trộm, bảo vệ tài sản.
Thấy A, vị cao tăng
vội túm lấy áo của A và nói lớn: Bắt được kẻ trộm rồi.
Trước đông đảo các môn
đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt
được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không
một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại
Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức)
được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy,
trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như
lòng muốn.
ĐƯỜNG VỀ ĐỈNH VINH
QUANG.
“Vinh quang trên đỉnh
núi” hôm nay, mà truyền thuyết cho là núi Ta-bo, duy nhất chỉ xảy ra một lần
cho đến khi Chúa Kitô hoàn tất Chương trình Cứu Độ.
Đức Giêsu biến hình
rực rỡ cùng với sự xuất hiện của hai nhân vật Cựu Ước, cho thấy tính cách xác
thật và chắc chắn của cuộc hành trình mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trên trần thế:
Con đường Thương Khó và Phục Sinh.
Đang lúc Người cầu
nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa.
Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-lia. Hai vị
hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại
Giêrusalem. (Lc. 9,29-31).
Trong cuộc biến hình
này, có hình ảnh Đức Giêsu vinh quang, và ẩn chứa hình ảnh Đức Giêsu chịu ô
nhục: cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Trong thoáng chốc,
Phêrô - luôn là đại diện cho các môn đệ - “nhận biết” được Đức Kitô vinh quang,
vì Người là con Thiên Chúa, như ông từng tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, con
Thiên Chúa hằng sống”, nhưng ông không thể “nhận biết” được Đức Kitô ô nhục, mà
ngay sau cuộc biến hình này, Đức Kitô sẽ bước vào con đường đó: con đường Thập
Giá.
Xin Chúa thương, đừng
để Thầy gặp phải chuyện ấy! (Mt. 16,22).
Đức Kitô biến hình
trước mặt những môn đệ gần gũi Chúa nhất, để các ông vững tin vào Đức Kitô, vào
Chân Lý, vào con đường mà các ông đang đi. “Thầy là đường, là sự thật và là sự
sống”.
Niềm tin vào Chúa
Giêsu có đó, nhưng bước đi vững vàng trong cuộc hành trình Đức Tin không luôn
luôn dễ dàng. Mỗi người phải biến đổi để trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa
Kitô trong cái chết của Người” (Pl.3,10).
Sự biến đổi ấy đòi hỏi
mọi người phải “thông phần những đau khổ của Người”, bằng sự sám hối, sự điều
chỉnh, sự hoán cải sâu xa cuộc đời mình.
Không trở nên đồng
hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người, thì không thể “đồng hình
dồng dạng với Người” trong vinh quang được.
NHỮNG THỬ THÁCH
Trước đông đảo các môn
đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt
được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không một
lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại
Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy,
trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như
lòng muốn.
Điều gì đã diễn ra trong lòng của đồ đệ
A? Đó là những giờ phút độc thoại, chiến đấu, lắng nghe nội tâm, đối diện với
chính mình.
Một vị “chân tu”,
không thể nào hành động vô lý như vậy. Thế thì, đằng
sau hành động bất thường này, thầy có ý dạy điều gì? Đồ đệ A phải nâng tâm hồn
lên để suy gẫm được điều đó, để ngộ được điều đó. Nếu không, lòng tự ái bùng
lên, danh dự bị thương tổn, đồ đệ A không thể nhận ra tình thương của thầy
mình. Có thể tất cả đã đổ vỡ!
Phêrô và các môn đệ đã
biết Chúa là ai. Thiên Chúa không thể phản bội. Lời Ngài không sai, dù một
chấm, một phẩy. Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình khẳng định cho các môn đệ sự vinh
quang mà Thiên Chúa hứa ban là chắc chắn.
Chúa thành tín trong mọi
lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Chúa làm. (Tv.144, 13).
Đó là sự xác tín căn
bản. Đó là Đức Tin của chúng ta. Từ sự xác tín đó, niềm tin đó, chúng ta tiến
bước theo Chúa. Phó thác trong hy vọng và hạnh phúc.
Thưa anh em, tôi không
nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đinhững chặng đường đã
qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho
những kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giêsu Kitô. (Pl.3,13-14).
Để tiến bước mạnh mẽ,
để “lao mình về phía trước”, để “chạy thẳng tới đích”, đòi hỏi sự chiến đấu nội
tâm anh dũng, đè bẹp “cái tôi” hẹp hòi, “chết đi con người cũ”, đó là “thập giá của đời ta”.
Nếu con người chỉ suy
nghĩ và hành động theo ý riêng, theo bản năng, theo dục vọng, theo khát vọng
thấp hèn, hạn hẹp, nhất thời, trước mắt, con người không thể bước vào lối hẹp,
không thể đi vào con đường Thập Giá! Điều ấy, đồng nghĩa với việc con người
thuộc về thế giới của Sa-tan.
“Xa-tan, lui lại đàng
sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của
Thiên Chúa, mà là của loài người!” (Mt.16,23).
Không phải chúng ta
đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng chúng ta mong ước, mà chúng ta muốn được trở
nên một con người như lòng Thiên Chúa mong ước.
Vì sự sống là từ Thiên
Chúa.
Nên con người phải
được biến đổi, và biến đổi hoàn hảo đến mức hoàn toàn
thuộc về Chúa, là của Chúa, là chính Chúa hiện diện trong ta.
Tôi sống, nhưng không
phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. (Gl.2,20).
Sự biến đổi này, không
phải chỉ là “nhận biết” Thiên Chúa, “ngộ” được Thiên Chúa, mà
biến đổi thành chính Thiên Chúa, “thông phần vào bản tính Thiên Chúa”
(2Pr.1,4).
Người đã trở nên giống
chúng ta, để chúng ta trở nên như Người (Thánh Irénée).
Sự biến đổi ấy, cuối
cùng chính là Phục Sinh cùng Đức Kitô. Được về miền Sáng láng và vinh hiển,
vinh quang và vinh dự cùng với Ngài cho đến muôn đời.
Anh em là giống nòi
được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng Thiên Chúa,
để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối,
vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1Pr. 2,9)
THỰC TẾ HÔM NAY
Chúa Giêsu đã biến
hình sáng láng trên núi. Những môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu đã chứng kiến
giây phút vinh quang của Chúa Giêsu. Giây phút mà ngay lúc đó, sẽ không có gì
có thể lay chuyển niềm tin của các môn đệ.
Đây là Con yêu dấu của
Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! (Mt.17,5).
Nhưng Chúa Giêsu đã
đưa các môn đệ xuống núi. Ánh vinh quang đã tắt, cuộc sống đời thường đã trở
lại trước mắt. “Đỉnh vinh quang” không một sớm một chiều mà có được để tận
hưởng dài lâu. Đường Đến Đỉnh Vinh Quang còn nhiều chông gai thử thách. Người
đi còn gặp nhiều gian khổ. Có những người bỏ cuộc. Có những người lạc hướng. Có
những người chọn bến bờ khác.
Nghe rồi, nhiều môn đệ
của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga.6,60).
Từ lúc đó, nhiều môn
đệ rút lui, không còn đi với người nữa. (Ga.6,66).
Phải biến đổi con
người mình tận gốc rễ để đến bến bờ sự sống vĩnh hằng. Phải biến đổi đến mức tự
hủy diệt mình đi mới “sống lại” một cuộc đời mới, sự sống mới.
Nếu hạt lúa mì gieo
vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó
mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga.12,23-28).
Lạy Chúa,
Xin cho con luôn biết
cố gắng vươn lên,
từng giây phút đổi
thay đời mình,
đến gần sự thiện hảo
hơn,
để con được hưởng vinh
quang đời đời,
trong Tình Yêu của
Chúa. Amen.
22. Biểu lộ chân
dung – JM. Lam Thy
Tiêu đề bài Tin Mừng
Chúa nhật II Mùa Chay có sách Tin Mừng ghi là “Đức Giêsu hiển dung” (Mt 17,
1-9; Lc 9, 28-36), có sách ghi là “Đức Giêsu biến đổi hình dạng” (Mc 9, 2-8).
Tuy có tiêu đề khác nhau, nhưng trong nội dung thì cả 3 sách Tin Mừng nhất lãm
đều dùng cách viết “Đức Giêsu biến đổi hình dạng” để trình thuật biến cố lạ
lùng này (“Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là
em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một
ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông” – Mt 17, 1-2).
Như vậy thì Đức Ki-tô hiển dung hay biến hình?
Hiển dung là biểu lộ
cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng. Còn biến hình là thay đổi
hình dạng. Thưc ra, vấn đề cũng không có gì là khúc mắc cả. Đức Giêsu biến đổi
hình dạng thường ngày sang một hình dạng khác hẳn, rực rỡ hơn, chói loà hơn gấp
bội, là Người muốn cho các môn đệ và mọi người biết ngoài bản tính loài người
chứa trong thân xác phàm tục ra, Người còn một bản tinh nữa là bản tính Thiên
Chúa. Chân tướng sự vịêc là điều Người muốn công nhiên mạc khải: Chân dung của
Người chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, trong cùng
một Con Người là Đức Giêsu Ki-tô có 2 hình dạng: Dung mạo bình thường là bản
tính loài người, còn chân dung – bản chất đích thực của Người – là bản tính
Thiên Chúa. Nói Đức Giêsu biến hình là muốn nói Người đã biến đổi từ hình dạng
bình thường của loài người sang hình dạng Thiên Chúa. Còn nói hiển dung là muốn
nói – qua việc biến đổi hình dạng bên ngoài – Đức Ki-tô muốn biểu lộ chân dung
đích thực của Thiên Chúa (Ngôi Lời nhập thể) vốn ẩn kín bên trong chàng thanh
niên Giêsu Na-da-ret.
Khi ba môn đệ theo Đức
Giêsu lên núi Ta-bo, thì các ngài vẫn thấy Thầy của mình với dung mạo bình
thường như các ngài đã được chứng kiến, được “thực mục sở thị” trong suốt ba năm theo
Thầy đi khắp đó đây. Nhưng đến khi Thầy cầu nguyện thì “... Người biến đổi hình
dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người
trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17, 2). Sự kiện Chúa Giêsu biến đổi hình
dạng đã khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần
này khác với lần được chứng kiến “Đức Giêsu đi trên mặt biển” (Mt 14, 22-32).
Lần trước, thánh nhân cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã tin Thầy
mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo
với ông Mô-sê và ông Ê-li-a (đã khuất bóng từ trước đó mấy trăm năm) được.
Từ hình dạng con người
trần thế bình thường biến sang chân dung Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn cho mọi
người – thông qua các môn đệ thân tín của Người – hiểu rõ được Người chính là
Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, như Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha từ
trong đám mây sáng ngời bao phủ các môn đệ: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta
hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!" (Mt 17, 5). Lời
phán dạy của Thiên Chúa Cha lần này y hệt lần Đức Giêsu chiu phép rửa trên sông
Gio-đan ("Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." – Mt 3,
17). Nhờ thế, giúp củng cố đức tin, đồng thời, cũng chính là giúp biến đổi con
người các môn đệ và những kẻ đến với Đức Giêsu Ki-tô.
Nói Chúa Hiển Dung là
nhằm mục đích củng cố đức tin của các môn đệ, nhưng vì sao lại phải như vậy? Ấy
là vì trước đó không lâu, Đức Giêsu đã loan báo biến cố Thương Khó lần thứ nhất
cho các môn đệ: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng
tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại". Các môn
đệ đã không chịu hiểu và cũng không muốn tin rằng Thầy mình sẽ đi vào con đường
thập giá quá đau khổ và nhục nhã đó. Riêng Phê-rô thì đã kéo riêng Thầy mình ra
và trách Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”;
khiến Đức Giêsu phải nặng lời quở mắng: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy!
Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà
là của loài người." (Mt 16, 21-23).
Một sự kiện minh họa
lòng tin của các môn đệ còn chưa vững là khi Chúa Hiển Dung, thì “… ông Phê-rô
và đồng bạn thì ngủ mê mệt…” (Lc 9, 32); nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy
vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người (là ông Mô-sê và ông
Ê-li-a), thì "các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.” (Mt 17, 6).
Rồi sau đó, tại vườn Ghết-sê-ma-ni, trong khi Thầy cầu nguyện đến độ đổ cả mồ
hôi máu ra mà các ông vẫn ngủ ngon lành, khiến Người phải thốt lên: "Thế
ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và
cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể
xác lại yếu hèn." Cứ tưởng như vậy thì các môn đệ sẽ “tỉnh ngủ”, để hiểu
ra rằng thời giờ đã cận kề, đây là lúc cần phải canh thức và sẵn sàng chờ đón
mọi biến cố (Mt 24, 43-44); nhưng thật không ngờ các ngài lại tiếp tục ngủ, ngủ
miết tới lúc Thầy phải đánh thức lần nữa: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ
sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. Đứng dậy, ta đi
nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!" (Mt 26, 40-46). Cái “thể xác yếu hèn” đó của
các môn đệ vẫn chưa thèm chuyển động dù Thầy đã 5 lần bảy lượt cảnh báo! Thế
đó!
Điều đó cho thấy sau
biến cố Chúa Hiển Dung, các môn đệ có được củng cố lòng tin để vững bước cùng
Chúa trên con đường thập giá hay không? Cứ xem khi Đức Giêsu bước vào cuộc
Thương Khó thì đủ biết: Trong số 12 Tông đồ là những môn đệ thân tín nhất của
Đức Giêsu, thì vị đứng đầu (Phê-rô) đã chối Chúa tới 3 lần trước một người tớ
gái nhà Cai-pha, một Giu-đa It-ca-ri-ốt thì bán Chúa để lấy 30 đồng bạc, các vị
còn lại thì bỏ Người mà chạy trốn hết, để một mình Chúa đơn độc đi vào cuộc
Thương Khó. Duy chỉ có được một Gio-an là theo Thầy tới tận chân thập giá,
nhưng cũng chỉ lẽo đẽo theo từ xa xa, đến độ khi Thầy yếu nhọc quá sức, quân dữ
phải bắt một dân ngoại là Si-mon vác đỡ Thánh giá cho Người (“Đang đi ra, thì
chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của
Người.” – Mt 27, 32). Vậy đó!
Quả thật Chúa luôn
luôn muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, nhưng vấn đề đặt ra là lòng tin ấy
có thực sự được củng cố hay không, còn tùy thuộc vào chủ thể các môn đệ. Một
cách cụ thể là nếu chủ thể không chịu mở cửa tâm hồn ra đón nhận, thì những ân
sủng Thiên Chúa ban cũng chẳng khác gì “nước đổ đầu vịt, nước đổ lá môn” mà
thôi. Vâng, “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng
ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận.”
(Thánh Âu-tinh). Và cũng chính vì quá rõ lòng dạ con người là như vậy, nên Đức
Giêsu luôn dạy các môn đệ phải tỉnh thức và cầu nguyện ("Anh em hãy canh
thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể
xác lại yếu đuối." – Mc 14, 38). Không những Người dạy dỗ, mà còn làm
gương mẫu cụ thể nữa (Người luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là những dịp
Người chịu để ma quỷ cám dỗ như khi Người vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, hoặc
lần cầu nguyện đổ cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-sê-ma-ni).
Mùa Chay chính là thời
gian để người tín hữu chọn lựa một hành động thiết thực: hoặc xé áo, hoặc xé
lòng. Muốn xé áo thì dễ thôi, chỉ cần một động tác nhỏ là khoác lên mình bộ vó
kiêu căng tự phụ, bộ áo lười nhác ích kỷ, không thèm đếm xỉa đến mọi người xung
quanh. Tuy nhiên, để xé lòng thì không dễ dàng đâu, bởi phải quyết tâm không
khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay,
không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi
anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình
không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo
Thầy Chí Thánh. Chỉ có như vậy, kèm theo sự sám hối chân thành, mới thực sự
hoán cải, đổi mới con người của mình, để được biến đổi toàn diện (biến hình)
theo Chúa.
Đúng là rất khó khăn
để có thể làm được như thế. Khó, nhưng không phải là không thực hiện được, khi
biết cậy dựa vào Thần Khí, “Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần
khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta
được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1, 7). Muốn
tránh khỏi mưu ma chước quỷ hằng ngày cám dỗ, người tín hữu không thể ỷ vào sức
mình vì "tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối" mà phải
cậy trông vào Thiên Chúa, cầu nguyện để Người soi sáng và ban thêm sức mạnh và
lòng dũng cảm. Chỉ có như thế mới mong biến đổi con người của mình (như xưa
Chúa đã biến hình trên núi Ta-bo).
Quả thực Tin Mừng về
cuộc Hiển Dung của Chúa đặt trước mắt người Ki-tô hữu vinh quang của Đức Giêsu,
báo trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người. Từ đó giúp người tín hữu ý thức
mình được dẫn lên núi cao (Mt 17, 1) như các Tông Đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và
Gio-an, để tái đón nhận hồng ân được làm con Thiên Chúa trong Trưởng Tử Giêsu
Ki-tô, qua Lời phán dạy: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.
Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 21, 6). Vâng, người Ki-tô hữu luôn được
mời gọi cùng đi lên núi cao để được ngụp lặn trong hào quang vinh hiển của
Thiên Chúa, ngõ hầu hoán cải, biến đổi toàn diện con người của mình sao cho
”trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Pl 3, 10). Trong tâm tình dìm
mình vào mùa Chay thánh, thiển nghĩ không chỉ riêng mình tôi, mà là tất cả
những anh em chung một niềm tin với tôi, đang đồng hành cùng tôi, đều ước được
như vậy. Amen.
23. Biến hình
(Sưu tầm của Linh Xuân
Thôn)
Một nhà giáo dục nổi
tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có
tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là:
"Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này".
Khi đã lớn tuổi và
nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người
nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: "Lạy Chúa,
xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con.”
Giờ đây tôi đã già và những
ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại
được thay đổi một lần nữa như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để
biến đổi chính mình con."
Và ông kết luận: “Nếu
tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả
cuộc đời.”
(Anthony de Mello,
Trích trong “The Song of the Bird”)
***
Bạn thân mến! Tin Mừng
Chúa Nhật hôm nay cũng thuật lại một cuộc biến đổi. Đó là cuộc biến đổi hình
dạng của Đức Giêsu trên núi Tabo. Trong ngày hôm đó, Đức Giêsu đã mang theo các
môn đệ thân tín của mình là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Ngài đưa các ông
đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến
đổi hình dạng trước mắt các ông (Mt.17,2).
Trong cuộc biến hình
đổi dạng đó, Ngài cởi bỏ thân phận con người để mặc lấy Thiên Tính của Thiên
Chúa. Ngài cho các ông được nhìn thấy vinh quang Con Một Thiên Chúa, để thêm
lòng tin cho các ông.
Hơn hai ngàn năm
trước, Đức Giêsu đã biến hình trên núi Tabo. Cuộc biến hình của Ngài vẫn còn tiếp
tục diễn ra hằng ngày cho đến ngày nay. Ngài biến hình qua bàn tay của Linh mục
trong các Thánh lễ. Ngài biến hình từ tấm bánh nhỏ bé để trở thành xương thịt
của Ngài. Ngài biến hình từ những giọt rượu nho để trở thành những giọt máu đào
đã đổ ra trên đồi Golgotha năm nào để cứu chuộc con người.
Ngày nay Đức Giêsu
cũng mang tôi và bạn đi riêng ra một chỗ. Ngài không mang tôi và bạn lên núi
Taboo như mang Phêrô, Giacôbê và Gioan xưa kia, nhưng Ngài mang tôi và bạn đến
trong các Thánh lễ, đến trong các giờ chầu Thánh Thể, đến trong các bí tích mà
ta lãnh nhận… nơi đó Ngài dành cho ta những giây phút thinh lặng thánh thiêng
mà chỉ có một mình ta với Ngài, nơi đó Ngài cũng biến đổi hình dạng để thêm
lòng tin cho ta, và cũng nơi đó, Ngài ban cho ta lòng mến, sự tin yêu cậy trông
phó thác, và nhất là sức mạnh để ta bước đi theo Ngài trên bước đường lữ thứ
trần gian này.
Hôm nay, Đức Giêsu mời
bạn và tôi cùng “biến hình” với Ngài. Biến hình không phải là trở thành cái gì
xa lạ khác thường, nhưng biến hình là để trở về với cái tôi sâu thẳm của chính
mình: “Tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa”. Đó là ơn được làm con cái Thiên
Chúa, là ơn Thánh Sủng, là ơn cao trọng nhất của người Kitô.
Biến hình với Đức
Giêsu là thay đổi cuộc sống của ta, là biến đổi tâm hồn ta, là mang vào lòng ta
một trái tim mới, trái tim của yêu thương, của tin tưởng và cậy trông phó thác.
Biến hình với Đức
Giêsu là vất bỏ ý riêng của ta, là chấp nhận và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa,
là lên đường bước đi với Chúa trong tình yêu và ân sủng Ngài ban.
Biến hình với Đức
Giêsu là từ giã con người tội lỗi yếu hèn của mình, là trở nên giống Ngài mỗi
ngày mỗi hơn.
Lạy Chúa Giêsu! Xin
ban ơn giúp sức cho con để con cũng được “biến hình” với Chúa trong Mùa Chay
Thánh này, để con được trở nên giống Chúa mỗi ngày mỗi hơn, và để con cũng được
Thiên Chúa Cha nói với con rằng: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con…” (Mt.17,5).Amen
24. Đức Giêsu
biến đổi hình dạng
(Suy niệm của Lm. FX.
Vũ Phan Long)
Cuộc Hiển Dung vừa
tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông
đồ.
I. NGỮ CẢNH
Cả ba Tin Mừng Nhất
Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ, tiếp sau lời tuyên xưng của
Phêrô (Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức Giêsu nói về số phận
của môn đệ và vinh quang của Con Người (Mc 8,34–9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).
Riêng Tin Mừng Mt đóng
khung cuộc đời công khai của Đức Giêsu giữa hai ngọn núi:
- Khi chuẩn bị ra đi
thi hành sứ vụ: trên “một ngọn núi rất cao” (4,8), quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu nhận
quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới từ tay nó: “Tôi sẽ cho ông tất cả
những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (4,9). Nhưng Người đã dứt khoát từ
chối.
- Khi kết thúc sứ mạng
của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn đệ, Đức Giêsu gặp Nhóm Mười Một “tại
ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến” (28,16). Tại đây Người tuyên bố là
Người “đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền trên trời dưới đất” (28,18) và dựa
trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng “cho muôn dân”.
Vì Người đã từ chối
nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ Người nhận được mọi quyền hành từ tay
Thiên Chúa.
- Giữa hai biến cố nêu
trên, có một biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn núi cao: Đức Giêsu biến đổi
hình dạng, Người có vinh quang Thiên Chúa: cuộc khải hoàn Phục Sinh đã được
giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy ra sau khi Đức Giêsu gạt bỏ đề nghị của
Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo đường lối của Chúa Cha.
Theo văn cảnh xa, có
thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung vừa tóm lại các cám dỗ vừa đón trước
cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục Sinh và các môn đệ; chúng ta thấy ở đây
có các yếu tố của hai tình trạng ấy của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa vinh quang và
Đấng Mêsia phải chịu đau khổ; nổi bật lên như một gạch nối là sự chọn lựa dứt
khoát, thái độ cương quyết của Đức Giêsu để đi theo thánh ý Chúa Cha. Điểm này
được minh chứng theo văn mạch gần: cuộc Hiển Dung được đóng khung giữa hai lời
loan báo về Khổ Nạn (16,21-23; 17,22-23).
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia
thành phần:
1) Mở (17,1);
2) Thị kiến (17,2-8):
a) Mở đầu: Đức Giêsu
biến đổi hình dạng,
b) Các tình huống:
Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo; Phêrô đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa phán,
c) Kết: các môn đệ sợ
hãi; Đức Giêsu trấn an; mọi sự trở lại như cũ;
3) Kết (17,9).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Sáu ngày sau (1): Theo Xh 24,13-16,
Thiên Chúa tỏ mình ra cho Môsê trên núi Sinai sau sáu ngày; và theo Đnl
16,13-15, đay là ngày cuối cùng của Lễ Lều.
- Phêrô, Giacôbê và
Gioan (1): Ba môn đệ này lại xuất hiện tại Ghếtsêmani (26,37).
- một ngọn núi cao (1): Một quả núi là
biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả núi này là một Sinai khác
tại Galilê. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabo, mà Tabo thật ra chỉ là
một quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Cácmen hay Khétmôn. Đặc biệt trong
Tin Mừng Mt, khi Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan trọng, Người thường lên
núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao (4,8); các Mối Phúc được công bố trên núi
(5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (15,19); và Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục
Sinh trên một ngọn núi (28,16).
- biến đổi hình dạng (metemorphôthê, 2): Sự
cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này là điều rất quen thuộc đối với ngoại
giáo. Có lẽ vì thế mà Lc đã tránh dùng từ ngữ này.
- Môsê và Êlia (3): Đây là hai nhà
linh thị trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với núi Sinai-Khôrép. Môsê
thường được coi là đại diện cho Lề Luật và Êlia đại diện cho các Ngôn Sứ; nhưng
có thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là những ngôn sứ. Và nói
chung, các ngài đại diện cho thiên giới.
- ba cái lều (4): Hẳn chi tiết này
nhắc dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv 23,42; Nkm 8,14-18).
- đám mây sáng ngời
bao phủ các ông (5): Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động từ
episkiazein, “bao phủ; rợp bóng” là động từ cổ điển để lưu ý về sự hiện diện
(Hp shekinah) của Đức Chúa (YHWH) trong đời sống và trong các tình huống của
dân Ngài (x. Xh 40,34-35; 1 V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).
- tiếng từ đám mây
phán (5): Trong Cựu Ước, “tiếng nói” thường xuất hiện trong các bài
tường thuật về ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1 Sm 3,4;
Is 6,8; Gr 1,11 ….
- Đây là Con yêu dấu
của Ta (5): Câu này là một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2.
Từ ngữ “con” trước tiên diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân
tình, kết hợp và hiệp thông.
- Nghe vậy, các môn đệ
rất đỗi sợ hãi (6): Mt cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh Thiên Chúa
truyền, chứ không phải do thấy thị kiến (Mc).
- Đức Giêsu lại gần (7): Động từ
proserchomai, “đi đến, đến gần”, là một động từ Mt thích dùng (52 lần; 5 lần
trong Mc và 10 lần trong Lc), nhưng chỉ có hai lần được áp dụng cho Đức Giêsu
(ở 17,6-7 và 28,18 riêng của Mt). Trong cả hai bản văn, Đức Giêsu đến gần các
môn đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi hoặc hoài nghi:
Mt 17,6-7
6 Khi các môn đệ nghe vậy
họ ngã sấp mặt xuống đất
và hết sức kinh hoàng
7 Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông
và bảo:
“Trỗi dậy đi, đừng sợ”
|
Mt 28,16-20
16 Mười một môn đệ…
17 Khi thấy Người,
các ông bái lạy Người, nhưng có mấy ông hoài
nghi.
18 Đức Giêsu đến gần
nói với các ông: 19 “…toàn quyền…” 20 Thầy ở
cùng anh em mọi ngày”
|
- thị kiến (9): Hoạt
cảnh này vừa là “thị kiến” ([h]orama do động từ [h]oraô) kiểu khải huyền vừa là
một cuộc thần hiển (có thể so sánh với các bản văn khải huyền: Đn 10,1-10 [Kh
1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố thần hiển trong: Xh 19,16; 24,15-16; 40,34-35).
Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức Giêsu hiển vinh là một
“thị kiến” được Thiên Chúa ban cho.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN
VĂN
Bản văn chúng ta đọc
hôm nay có phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho chúng ta biêt về một biến cố
đặc biệt xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, thì hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và rõ
ràng; nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung cấp thông tin. Ngài muốn nói cho
chúng ta biết Đức Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ đầy hình ảnh và
biểu tượng dễ hiểu và rõ ràng cho người thời đại ngài, nhưng lại khó cho chúng
ta hôm nay.
* Mở (1)
Chi tiết xác định thời
gian “sáu ngày sau” muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác giả lại ghi nhớ một
chi tiết không đáng kể như vậy? Và làm sao ngài có thể còn nhớ được chi tiết
này 50 năm sau, khi bắt đầu viết?
Tại sao Đức Giêsu chỉ
đưa ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người lên một ngọn núi?
Chi tiết “sáu ngày
sau” hẳn là muốn đưa độc giả về với Xh 24,16, trong đó kể rằng “sau sáu ngày”,
mây bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa gọi Môsê. Tác giả hướng độc
giả chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì Đức
Giêsu đưa các môn đệ “đi riêng với mình, lên một ngọn núi cao”, bởi vì theo một
cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh, người ta không thể có kinh
nghiệm về Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn độn và ồn ào náo nhiệt. Đức Giêsu
chính là vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại diện bởi ba môn đệ.
* Thị kiến (2-8)
Sau phần mở, tác giả
giới thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận dụng các yếu tố quen thuộc của
những thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y phục trắng tinh). Sau này, khi
mô tả trang phục của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả Mt cũng cho thấy các
yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là một sự “biến hóa; biến
thái” (metamorphein) để cho thấy sự thay đổi xảy ra nơi nhân tính Đức Giêsu. Từ
ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta nghĩ đến sự hóa trang của các thần linh
Hy Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được các Kitô hữu Siri và Paléttina
biết đến. Từ ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa được tất cả mầu nhiệm
Phục Sinh mà các tác giả Tin Mừng còn gọi là “sự tái sinh”, “sự công chính
hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự “biến hóa” nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy
rằng Người là một nhân vật thuộc thế giới khác, là “Con Người” mặc lấy uy quyền
và vinh quang (x. Đn 7,13-14). Đây là một thị kiến về Đức Kitô trong vinh quang
tương lai của Đấng Phục Sinh.
Đức Kitô biến đổi hình
dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề Luật và các Ngôn Sứ (x. 5,17). Sự xuất
hiện của Môsê và Êlia (ngược lại với Mc 9,4) cho thấy các niềm chờ mong của dân
Israel, các lời hứa thiên sai, nay đã nên hiện thực nơi bản thân Đức Giêsu (x.
Lc 24,27; Rm 3,21). Chúng ta không được biết là hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu
về chuyện gì, nhưng dựa theo Lc 9,31, các ngài nói về “cuộc xuất hành” Đức
Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem, thì hẳn là các ngài trao đổi cuộc Khổ Nạn
Đức Giêsu sắp đi vào. Môsê và Êlia tượng trưng cho truyền thống Cựu Ước mà Đức
Giêsu đến để hoàn tất (5,17). Khi chỉ một mình ngài ghi nhận là “dung nhan
Người chói lọi như mặt trời”, hẳn là tác giả Mt muốn ám chỉ Đức Giêsu là Môsê
mới, còn Môsê ngày xưa chỉ có “da mặt sáng chói” mà thôi (x. Xh 34,30).
Phản ứng của Phêrô khi
đề nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một lần nữa sự tương phản giữa các khát
vọng của loài người và kế hoạch của Thiên Chúa. Mới trước đây ít lâu, ông đã
lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, và đã bị Đức Giêsu mắng
là “Satan”. Nay khi đề nghị dựng ba lều, ông đã hiểu sai ý nghĩa của quang cảnh
nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng vinh quang mình không đáng hưởng. Cả ở
đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho “thịt và máu” (16,17), tức người không suy
nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách của loài người (16,23), nên lại ngáng trở
thay vì cộng tác với Thiên Chúa. Lần này, không phải là Đức Giêsu mắng Phêrô là
“người kém tin” (14,31) hoặc là liên minh Satan (16,23), nhưng chính Chúa Cha
can thiệp để điều chỉnh các ước vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời
bao phủ cả các tông đồ. Như thế, các ông đã được tiếp xúc với chính vinh quang
huy hoàng của Thiên Chúa, để được đón nhận một sứ điệp trực tiếp từ Thiên Chúa.
Khi Chúa Cha giới thiệu Con của Ngài, lời lẽ của Ngài không còn dè giữ, không
giới hạn nữa (x. 11,25-27). Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục Sinh) là một tổng hợp
giữa các “bản văn thiên sai” (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như tại phép rửa, “tiếng
nói” từ trời làm sáng tỏ và xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn gọi của Đức Giêsu. Phêrô
đã muốn xóa đi một phần chương trình thiên sai; Chúa Cha đến nhắc rằng chương
trình này không phải là một công trình của loài người, nhưng là một kế hoạch
của Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức Giêsu con đường phải theo (người tôi tớ
đau khổ chứ không phải là một vị vua thuộc dòng dõi Đavít).
Tác giả hoàn tất khung
cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống đất, sợ hãi, im lặng. Đây là
những mẹo văn chương mà các tác giả văn chương khải huyền thường dùng để diễn
tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức Giêsu can thiệp như vai trò thiên
thần trấn an. Các lời “Đừng sợ” thường được nói lên trong các thị kiến tương tự (x. Đn 8,16-17;
10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-13.29-30).
Câu cuối của hoạt cảnh
có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau khi “hóa thân”, Đức Giêsu trở lại với
tình trạng bình thường. Từ nay, “chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi”, bởi vì
Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên Chúa, mà loài người phải quy chiếu
về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến mọi người, nhưng đặc biệt được gửi
đến những người còn tin vào Môsê và chờ đợi Êlia trở lại (x. 17,10).
* Kết (9)
Từ trên núi xuống, lời
nhắc “giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn này song song với các mạc khải kiểu
khải huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các tình huống phức tạp (chính trị–ái quốc)
mà các lời loan báo về Đấng Mêsia đã và sẽ gặp. Lời xác định “cho đến khi Con
Người từ cõi chết trỗi dậy” cho thấy con đường đúng để hiểu được ý nghĩa bài
tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ sẽ nên sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu
được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của Người.
+ Kết luận
Cuộc Hiển Dung là cuộc
tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện trong tất cả những
phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung của Đức Chúa, Mêsia, Con Thiên Chúa,
và với tất cả các liên hệ của Người trong lịch sử cứu độ. Cuộc Hiển Dung vừa
tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông
đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của Nhóm Mười Hai (18,18) lên tới trời
là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng quang, nhằm xác nhận các quyết định
của các ông.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Muốn có một kinh
nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra khỏi
đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn dắt. Người ta vẫn
nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này. Điều này không
sai, và còn cần thiết cho chúng ta là những người thường xuyên sống và dấn thân
giữa lòng xã hội với những vấn đề và biết bao cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng
để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường
xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã
thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.
2. Phêrô đã thưa với
Đức Giêsu: “Lạy Ngài (= Chúa)”, nhưng rất có thể theo nghĩa là đế vương, vị
thống lãnh, hơn là Mêsia vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và hôm nay, Họi
Thánh) giới thiệu là chúa tể, nhưng đặc biệt là ngôn sứ, là nhà lập pháp được
ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng mà loài người phải lắng nghe, nghĩa là vâng
phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa hướng dẫn, nên sai lạc; các đề
nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những lời loan báo về số phận cuối
cùng, trần thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là những đề nghị đúng đắn mà
loài người phải đón nhận.
3. Tất cả những gì
Israel vẫn ước mong nay đã trở thành hiện thực. Điều mới mẻ là nhân vật được
biến đổi hình dạng. Người không từ trời xuống đất, mà chính là trời xuống với
đất. Người không nói, mà chính tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối cùng, điều
chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta phải lắng nghe (vâng phục) không còn phải là
Đức Chúa (YHWH) mà là Đức Giêsu, Đấng đang ở đó. Con người này là Đấng mạc
khải, là chính Đức Chúa.
4. Sự biến hình Thánh
Thể của Chúa Giêsu đối với Người hệ tại không phải là tỏ vinh quang của Người
ra bên ngoài, nhưng là che giấu vinh quang ấy đi dưới những hình bí tích. Tuy
nhiên, vì đã trung thành lắng nghe lời của Con yêu dấu để được Người dạy dỗ về
mầu nhiệm này, chúng ta nhạn ra Người đang hiện diện dưới dạng bánh thánh và
Phêrô có thể kêu lên: “Lạy Chúa, ở đây thật là hay!”. Sau đó, cần có can đảm mà
phụng sự Người trong nếp sống khiêm tốn mỗi ngày.
5. Hội Thánh đang dấn
thân thi hành sứ mạng Đức Giêsu đã giao phó cho Nhóm Mười Một trên núi (x. Mt
28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh luôn nhớ bài học Đức
Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ chối các gợi ý của Satan, cũng như lời
giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi Người giới thiệu Đức Giêsu là Con yêu
dấu của Người, là điển hình cho chúng ta, là Đấng sẽ ban cho chúng ta những
giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của Thiên Chúa.
25. Ý nghĩa đời
sống ta là gì? - Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
Có thể nói rằng trong
câu chuyện về việc Chúa Biến Hình, Chúa Cha mặc khải Chúa Con. Để suy niệm, chúng
ta sẽ dừng lại một đôi khía cạnh đảo ngược, nghĩa là một ít đường nét trong
khuôn mặt của Chúa Giêsu, Đấng mặc khải Chúa Cha. Làm như thế, ta sẽ trung
thành với phần kết luận của câu chuyện, theo đó thì sự chú ý của ta được hướng
về cá nhân Chúa Giêsu.
Việc Chúa Biến Hình là
chứng tá của Chúa Cha về Chúa Giêsu. Cả đời Chúa Giêsu là một chứng tá về Chúa
Cha. Người biết mình bởi đâu đến và đi về đâu, Người từ Chúa Cha mà đến và sẽ
trở về với Chúa Cha. Đến lượt ta, trong Đức Kitô và nhờ Người, ta cũng biết
nguồn gốc và cùng đích ta là đâu. Sau đây là một vài tỷ dụ về khuôn mặt ‘làm
con’ của Đức Kitô.
1) Một chuyển động nội
tâm đem lại ý nghĩa cho đời sống Đức Kitô và soi sáng nó. Người biết mình là kẻ
được Chúa Cha thánh hiến và gởi vào thế gian để đem Tin Mừng Cứu Độ đến người
nghèo khó, rao giảng sự giải thoát (khỏi tội lỗi) cho người tù đầy, và mở mắt
cho kẻ đui mù (Lc 4,18). Là ‘phái viên’ của Chúa Cha, Người đặt sự thành tựu
con người và đời sống mình trong lòng trung tín với ý Cha. Không phải là một sự
trung tín an phận trước một chuyện chẳng đặng đừng, nhưng là một sự trung tín
tích cực, tự phát, quyết liệt. Nó là dấu hiệu của Thánh Thần tình yêu hoạt động
mãnh liệt trong Người.
Có lẽ đã có lần ta tự
hỏi: đời tôi có ý nghĩa gì? Nếu ta sống trong thánh ý Chúa và nếu ta tận tình
chu toàn thánh ý Chúa Cha, thì đời ta có một ý nghĩa và như Chúa Con, chúng ta
cũng được biến hình cách thiêng liêng.
2) Chúa Giêsu muốn để
cho Chúa Cha hiện rõ qua con người và đời sống mình. Ý chí đó đã quy định
mọi hành vi, thái độ của Người. Người nói năng thế nào? Hoạt động ra sao? Người
dám nói rằng lời Người nói không phải là của Người, nhưng của Đấng đã sai Người
đến. Người quả quyết Người không hành động tự ý mình, nhưng chính Chúa Cha hành
động qua Người. Nhìn Chúa Giêsu mà không đếm xỉa đến tương quan của Người với
Chúa Cha, ta sẽ không hiểu nổi Người. Với người Kitô hữu cũng thế. Họ phải để
cho Thiên Chúa ‘lộ dạng’ qua đời sống mình, bằng cách làm như Chúa Giêsu: nghĩa
là thỉnh ý Chúa Cha về việc phải làm, phải nói. Thỉnh ý qua lời cầu nguyện, qua
việc chạy tới Đức Giêsu là Đấng mặc khải Chúa Cha, trong niềm tin tưởng ở Chúa
Thánh Thần và sự tuân phục đối với Hội Thánh.
26. Dõi theo bước Chúa –
R. Veritas
(Trích từ ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Người ta kể rằng năm
ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành
phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ
vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ.
Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu
trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh
như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn
Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban
tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.
Bỗng chốc bầu khí yên
tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi
đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với
cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.
Thưa anh chị em,
Trong truyền thống
Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là
nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải quan
trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi
Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng
rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp
Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên
núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để
cầu nguyện cùng Cha Ngài.
Trong Tin Mừng hôm
này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang
của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được
con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang
của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như
đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.
Thế nhưng, thưa anh
chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường
phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên
Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt
với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ
trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc
đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.
Thật vậy, cuộc tỏ vinh
quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa
Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ
mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã
nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh
một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để
hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình
ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc
mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu
đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa
Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì
ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.
Rồi bây giờ thì lại
cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng
quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi,
mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ
đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi,
đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.
Chính trong giờ phút
biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về
“cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”.
Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của
Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại
xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con
đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.
Anh chị em thân mến,
Không phải hông có lý
do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay
vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm
ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng
vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi,
trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió
đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như
“đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết
chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.
Con đường Thương Khó
của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không
còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập
giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta
chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ
Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm
mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó là quy luật của
muôn đời.
Thưa anh chị em,
Trong cuộc hành trình
đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để
gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu
nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời
với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống
với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống
như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh
em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của
người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi
qua.
Xin ánh sáng Phục sinh
của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và
sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu
dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu
chân của Ngài.
27. Nghe Lời Người –
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Sau khi được tiên báo
về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần
trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.
Tin mừng Nhất Lãm
tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên
Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và
Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ
nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày
thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).
Theo tin mừng Luca và
Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương
khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên
các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các
ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm
Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc
10,32).
Vì không hiểu nên sợ.
Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách
mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến
cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).
Chúa đưa ba môn đệ lên
núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa
loan báo cuộc khổ nạn.
Núi Tabor
Tôi được diễm phúc lên
Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn
cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp,
nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó
phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn
ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên
đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.
Núi Tabor có một ngoại
hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất,
giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ
yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với
rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.
Núi tiêu biểu cho
quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng
đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với
Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một
thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống
lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang
phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn
liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía
trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời
Trung cổ huy hoàng.
Theo sử gia Josephus
thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn.
Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ.
Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ.
Nhà Thờ Hiển Dung xây
dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến
trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là
hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo
nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào
quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía
dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Biến hình
Tường thuật biến cố
biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ.
“Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy
mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy,
các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp
mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.
Các môn đệ không thể
hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao
không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9;
Lc 9,26).
Nếu người ta làm an
toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc
khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải
chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước
Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng
nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên
đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy
Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá
bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về
mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi
bằng con đường tình yêu cứu độ.
Biến cố Chúa biến hình
trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao
sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn
luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho
đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Chúa Biến
hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita
Consecrata” (đời sống thánh hiến). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày
25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994.
Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi
tìm cái đẹp (số 19),hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các
tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say
chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau
khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để
phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số
14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi
phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh
sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và
vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.
Nghe Lời Người
Người sống đời tận
hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn
được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không
chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc
đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.
Cả ba Phúc âm đều
tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa
Con và là lệnh truyền cho chúng ta. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của
Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là
Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
“Các ngươi hãy vâng
nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của
tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời
của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho
nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham
dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Các ngươi hãy vâng
nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay,
vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được
hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.
Chẳng ai gặp Thiên
Chúa thực sự mà lại không biến hình. Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa
làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái
gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với
cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép
Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục
Một nhà giáo dục nổi
tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần
cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa,
xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy
gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết,
nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con
nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua
và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của
tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực
để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế
này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.
Mùa Chay Thánh là mùa
chiến đấu thiêng liêng, giúp mỗi người sống sống chay tịnh và hy sinh, cầu
nguyện và tập nhân đức, chế ngự và làm chủ bản thân. Đây là thời gian thánh
giúp từng người sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành
ăn chay cầu nguyện theo lời dạy của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy
chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng
đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn
thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).
(Trích trong ‘Sống Tin
Mừng’ của R. Veritas)
Trong một trăm chuyện
ngắn hay của Việt Nam, được hội Văn Hóa Hà Nội tuyển chọn và cho xuất bản,
người ta thấy đứng đầu danh sách là chuyện có tựa đề: “Thầy Lazarô Phiền”. Đây
là chuyện ngắn được một tác giả Công giáo, ông Nguyễn trọng Quảng sáng tác vào
năm 1887 và được xem là chuyện ngắn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam.
Mở đầu câu chuyện tác
giả nhắn nhủ như sau:
Nếu có xuống Bà Rịa,
đi ngang qua nghĩa địa ở làng Phước đến gần nhà thờ các Thánh Tử Đạo, hãy vào
thăm một ngôi mộ, đây là ngôi mộ của một tu sĩ tên là Lazarô Phiền.
Tên của nhân vật có
thể gợi lên cả cuộc đời của vị tu sĩ này là một chuỗi những ngày khổ đau, những
phiền muộn. Mẹ ông qua đời vì bệnh dịch tả năm ông mới được ba tuổi. Năm ông
lên mười hai tuổi, cùng với ba trăm tín hữu công giáo khác, cha của cậu bé
Phiền đã bị Văn Thân thiêu sống trong ngục, còn cậu bé thì tay chân bị phỏng
nặng nhưng cậu bé đã cố lết ra ngoài và được cứu thoát. Một sĩ quan Pháp thương
tình đưa cậu bé Phiền lên Sàigòn và giới thiệu cho một gia đình Việt Nam giàu
có. Cùng với người con trai trong gia đình này, Lazarô Phiền đã được cho ăn học
đến nơi đến chốn. Sau khi đã thành tài, được bổ nhiệm đi làm thông ngôn, hai
người thương nhau như là anh em ruột thịt. Tình nghĩa giữa hai người bạn lại
càng thắm thiết hơn khi chính gia đình của người bạn này đã đứng ra lo chuyện
gia đình cho Lazarô Phiền, nhưng niềm vui của cuộc sống hôn nhân không được
trọn vẹn, bởi vì có một người đàn bà khác vì yêu Thầy Lazarô Phiền nhưng không
được đáp trả nên đã tìm cách hãm hại Thầy.
Qua hai lá thư giả mạo
của người đàn bà này, Lazarô Phiền nghi ngờ người vợ của mình có tư tình với
người bạn thân của mình, cho nên không làm chủ được cơn ghen, ông đã lập mưu
giết người bạn thân và dùng thuốc độc để sát hại vợ mình. Hai cuộc mưu sát đã
được tính toán một cách tài tình, cho nên kẻ sát nhân đã tránh được lưới của
pháp luật. Thế nhưng về phần mình, Lazarô Phiền ngày đêm bị tòa án của lương
tâm cắn rứt. Cuối cùng ông xin vào tu trong một tu viện ở Sàigòn. Sau sáu năm
tu luyện, Lazarô Phiền được thực sự trở thành một tu sĩ, mọi người trong tu
viện đều thầm khâm phục sự thánh thiện của thầy, nhưng riêng thầy vì không bao
giờ xưng thú hành động sát nhân của mình, cho nên đêm ngày không bao giờ được
sự bình an trong tâm hồn. Phải cho đến lúc lâm bệnh nặng và ngày trước khi qua
đời, thầy mới xin phép nhà Dòng cho về thăm quê hương ở Bà Rịa, tìm đến vị linh
mục chánh xứ để xưng tội. Chỉ sau khi cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, thầy
mới nhắm mắt lìa đời và ra đi trong bình an.
Câu chuyện trên đây có
thể mang lại cho chúng ta một ánh sáng để nắm bắt được bài đọc của việc Chúa
Giêsu biến hình trên núi Taborê mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe. Có
trải qua đau khổ và sự chết mới được vào vinh quang phục sinh, đó là bài học mà
Chúa Giêsu muốn dạy cho ba người môn đệ thân tín khi cho các ông chứng kiến
vinh quang của Ngài trên núi. Thế nhưng cùng với bài học này, Chúa Giêsu cũng
muốn bày tỏ một chân lý khác, đó là con người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc và
bình an đích thực khi sống thực trọn vẹn với Thiên Chúa mà thôi.
“Đây là Con Ta yêu
dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe Lời Người”. Chúa Giêsu rất đẹp lòng
Chúa Cha, bởi vì Ngài đã vâng phục Chúa Cha, cho nên đã đón nhận cuộc sống cùng
tất cả những hệ lụy của cuộc sống đau khổ và cuối cùng là cái chết trên thập
giá. Bí quyết của Chúa Giêsu chính là sống cho Chúa Cha, sống thuộc trọn về
Chúa Cha, sống vâng phục Thiên Chúa Cha qua cuộc sống vâng phục và vâng phục
cho đến chết.
Chúa Giêsu đã vạch ra
cho nhân loại bí quyết của hạnh phúc và bình an đích thực khi sống và thuộc
trọn về Thiên Chúa mà thôi. Đây là chân lý nền tảng của cuộc sống mà Giáo Hội
muốn mời gọi chúng ta đào sâu mỗi khi chúng ta trở lại với Mùa Chay. Cầu
nguyện, ăn chay, hãm mình, thực thi bác ái, những thực hành này không nhằm một
mục đích nào khác hơn là nhắc nhở chúng ta rằng, cùng đích của cuộc sống không
phải là cuộc đời tạm bợ này nhưng là sự sống vĩnh cửu, nhờ sự kết hợp với Chúa
chúng ta đã có thể cảm nghiệm được ngay từ trần gian này.
Kinh nghiệm hàng ngày
không ngừng nói với chúng ta rằng, tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú,
không bao giờ mang lại hạnh phúc đích thực cho con người. Có tất cả mọi sự
nhưng thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn thì con người không bao giờ có được
hạnh phúc và bình an đích thực trong tâm hồn. Trái lại, khi sống cho Chúa, sẵn
sàng như Tổ Phụ Abraham, từ bỏ mọi ràng buộc để được sống trọn cho Chúa thì con
người mới thực sự sống sung mãn và tìm được bình an trong cuộc sống.
Mùa Chay, chúng ta
được Giáo Hội mời gọi để duyệt xét sự chọn lựa căn bản của chúng ta, trong khi
mưu tìm cuộc sống, chúng ta có đặt Chúa vào trọng tâm của cuộc sống hay không?
Chúng ta có sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta xa lìa Chúa không?
Chúng ta chỉ thực sự hạnh phúc và an vui nếu chúng ta trả lời một cách khẳng
định cho những câu hỏi nền tảng ấy.
29. Biến hình –
Richard Gutzwiller.
(Trích trong ‘Suy Niệm
Tin Mừng Matthêu’)
Quang cảnh trên núi
biến hình tiên báo về Thiên đàng. Đức Kitô đã nói trước rằng: Nhiều người sẽ
không chết trước khi thấy Con Người trong vinh quang. Lời này bây giờ đã hoàn
toàn được thực hiện, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, giống như một tia sáng leo
lét của ánh lửa bùng lên rồi mất hút trên bờ vắng. Đoạn văn Thánh này chia làm
hai phần rõ rệt:
PHẦN THỨ NHẤT: Đầy vẻ huy hoàng rạng
rỡ của Thiên Chúa. Ba môn đệ được chiêm ngắm ánh sáng mỹ miều này: Trước hết
Phêrô, viên chức đầu tiên của Giáo hội, người mà từ đây sẽ phải học ý nghĩa đau
khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ
đến Giacôbê, người tử đạo tiên khởi, hân hoan đổ máu làm chứng vì đã thấy vinh
quang Chúa. Và cuối cùng Gioan, môn đệ yêu dấu sẽ phải học biết rằng, đau khổ
là bằng chứng của tình yêu.
Họ thấy Chúa biến
hình, mặt Ngài rực rỡ như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết. Hình dáng buồn tẻ
của chân dung nhân loại hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả phát huy từ ánh sáng
Thiên Chúa. Sau khi xác sống lại con người ta cũng mặc lấy xác thể, nhưng theo
những luật sinh lý mới. Ánh sáng vẫn là vật chất nhưng chiếu tỏa với tính chất
đặc biệt: Ánh sáng làm thân thể rạng ngời như người ta đã thấy nơi Đức Kitô
vinh quang.
Môisen và Êlia xuất
hiện. Môisen cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập, hướng dẫn họ qua sa mạc, trao
truyền cho họ luật pháp và giao ước của Đấng Thánh siêu phàm. Tuy nhiên, ông
chỉ được phép ngắm nhìn Đất Hứa từ xa. Lúc này ông được gần Đức Kitô, chính
Ngài sẽ giải thoát không những riêng dân Do Thái, nhưng toàn thể nhân loại khỏi
ách nô lệ ma quỷ. Chính Ngài hướng dẫn họ cách vô ngộ qua sa mạc cuộc đời tạm
gửi. Ngài ban cho họ giới răn tình yêu tân kỳ trong Giao Ước Mới của Giáo hội.
Là Môisen đích thực, Ngài dẫn dắt Dân Chúa vào Đất Hứa đích thực, để thực hiện
cuộc biến hình muôn thuở.
Êlia là người thứ nhất
trong các đại tiên tri. Người đã cấm không được dành cho Baal là thần trái đất
những quyền lợi như Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới là Chúa tể của trời cao
và vũ trụ.
Trước hết, người đã
thay việc phục vụ các ngẫu tượng bằng việc phục vụ Thiên Chúa. Với tư cách là
kẻ vô địch của Thiên Chúa, người đã đương đầu với dân Do Thái. Rồi đây, Đức
Kitô đến để giúp con người khỏi rơi vào thảm họa diệt vong của trần tục, vật
chất, xác thịt. Ngài đem đến cho họ nước của Thiên Chúa, là Cha trên trời.
Chính Ngài cũng đã đánh bại Hêrôđê và đại diện của đế quốc Rôma. Êlia làm chứng
về Ngài vì theo lời Kinh Thánh dạy, đại tiên tri được nâng lên trời rồi trở lại
dọn đường cho Chúa. Người đây, sẵn sàng đóng vai trò dọn đường cho Chúa lên
trời, trong cảnh biến hình. Vậy luật pháp và các tiên tri cùng hòa hợp làm chứng.
Từ nay Phêrô thấy trước rằng, tình trạng biến hình như được thiết lập vĩnh viễn
nên đã xin dựng lều để giây lát vinh hiển được trường tồn.
Đó là một thái độ dễ
hiểu, vì con người đã được tạo dựng để hưởng niềm hân hoan. Đau khổ không thể
là cùng đích của con người, nhưng đau khổ chỉ là một bước đường phải qua. Mỗi
lần Chúa nói tiên tri về đau khổ, Chúa đã kết thúc bằng một ám chỉ về phục sinh
vinh quang. Ở đây cuộc phục sinh vinh quang đã được tuyên bố như một yếu tố nền
tảng của giáo lý về đau khổ. Ánh quang chói sáng của việc biến hình, tình trạng
chìm ngập trong ánh sáng, sự chiêm ngắm hạnh phúc vĩnh cửu đã truyền trao cho
các môn đệ một mãnh lực giúp họ cương quyết trên bước đường đau khổ. Họ sẽ nhìn
về tương lai và chờ ngày Chúa đến giữa lúc sống cuộc đời dương thế.
PHẦN THỨ HAI: Đám mây bao phủ làm
tăng vẻ oai nghiêm rỡ ràng. Trên núi Sinai, cảnh trí huyền ảo là dấu hiệu sự
hiện diện của Thiên Chúa. Cũng như đám mây trước kia bao phủ ngọn núi, lúc này
vẻ huy hoàng của Chúa bao trùm muôn vật. Các môn đệ phải tự tìm hiểu để cảm
nhận trước được vẻ uy nghiêm của Thiên Chúa. Trên núi Sinai, phảng phất đám mây
giông bão; ở đây áng mây rực sáng an bình thanh thoát. Trên núi Sinai vang dội
các mệnh lệnh thần linh, vì Môisen là tôi tớ Thiên Chúa mà Do Thái phải vâng
lời. Còn trên núi biến hình cung giọng nhiệm mầu không chỉ thị tôi tớ nhưng là
ấm tử.
Như thế, những đòi hỏi
nghiêm khắc được thay thế bằng sứ điệp yêu thương: Ở núi Sinai, trước vẻ uy
nghiêm Thiên Chúa, dân chúng kinh hoảng rụng rời, ở đây, các môn đệ cũng sợ hãi
chúi mặt xuống đất. Chúa Giêsu nâng họ dậy, và làm cho họ hết sợ. Từ nay họ
biết rằng: với Ngài chung cục thời gian đã điểm; không phải tất cả sẽ bị hủy
diệt, nhưng tất cả sẽ bị vượt qua. Chắc chắn giờ cáo chung sẽ điểm, báo hiệu
một tai họa: Đau khổ, sự chết, Thánh giá sẽ hiện diện. Nhưng đây cũng sẽ là
khởi điểm một thời đại mới quyết liệt khai mào ánh sáng và biến hình. Đức Kitô
hiện đến khai mào thời cánh chung, nhưng thời gian ấy còn kéo dài. Trong giây
lát, Chúa đã cho thấy vẻ huy hoàng của giờ phút hoàn tất với đầy vẻ trang trọng
để các môn đệ không bao giờ quên. Họ được lệnh phải bảo vệ bí mật về biến cố dị
thường vĩ đại này, cho tới lúc Con Người phục sinh từ cõi chết. Bấy giờ người
đầu tiên trong những kẻ chết sẽ thức giấc, sống đời sống mới đích thực. Những
người khác theo sau và cứ thế bắt đầu viên mãn thời gian chung kết.
Đức Kitô còn cao trọng
hơn ngàn lần những gì các môn đệ, và cả Phêrô đã tuyên xưng hay cảm thức về
Ngài. Nhưng chỉ có sự cao trọng siêu phàm, siêu thời gian và phổ biến thực sự
trong cảnh trời mới, đất mới: lúc đó thời gian biến thành vĩnh cửu, định mệnh
đau thương của con người biến thành hạnh phúc; vẻ cao trọng đó đã hiển hiện huy
hoàng trên núi biến hình. Từ đỉnh núi đó, vẻ cao trọng này soi sáng mọi vực
thẳm tối tăm của nhân loại.
Này là Con Ta yêu dấu.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Cha đã tuyên phong Đức Kitô là con yêu dấu
của mình những hai lần.
Thực vậy, lần thứ nhất
là bên bờ sông Giócđan, khi Đức Kitô đến lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền hô.
Phúc âm đã ghi lại khi Ngài lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần Chúa lấy
hình chim bồ câu đổ xuống và từ trời có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu
dấu.
Lần thứ hai là trên
đỉnh Taborê như chúng ta vừa nghe đọc. Hôm ấy Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín
nhất lên đỉnh núi Taborê, tại đây Ngài đã biến hình trước mặt các ông, áo Ngài
trở nên trắng như tuyết, rồi lại có Môisê và Êlia đến đàm đạo với Ngài. Giữa
lúc ấy có một đám mây bao phủ rồi từ trong đám mây có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu dấu.
Thế nhưng, đâu là cái
bí quyết làm cho Đức Kitô trở thành người con yêu dấu của Chúa Cha. Xin thưa:
- Cái bí quyết ấy rất
đơn giản đó là Đức Kitô luôn làm vui lòng Chúa Cha, hay nói một cách khác, Đức
Kitô luôn vâng theo thánh ý của Chúa Cha.
Thực vậy, vì vâng theo
thánh ý Chúa Cha mà Đức Kitô đã xuống thế làm người, sinh ra giữa đêm đông giá
lạnh, lớn lên trong cảnh nghèo túng cơ cực. Rồi trong cuộc đời công khai, nỗi
băn khoăn số một của Ngài là tìm biết và thực thi thánh ý Chúa Cha, như Ngài đã
xác quyết với các môn đệ bên bờ giếng Giacob:
- Của ăn của Ta là làm
theo thánh ý Cha Ta.
Đỉnh cao tuyệt vời
nhất của sự vâng phục đó là cái chết trên thập giá như lời thánh Phaolô đã
viết:
- Ngài đã vâng lời cho
đến chết và chết trên thập giá.
Còn đối với chúng ta
thì sao? Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa.
Chúng ta giống như Môisê, sau ngày được vớt lên khỏi nước. Thực vậy, trước kia
Môisê là một người phải chết, và nếu có sống thì cũng chỉ sống một kiếp sống nô
lệ đọa đầy… Còn sau khi được vớt lên khỏi nước, Môisê được nàng công chúa nhận
làm con nuôi và có một địa vị sáng chói.
Cũng thế, trước khi
được rửa tội chúng ta là những kẻ phải chết do hậu quả của tội Adong, nhưng sau
khi được vớt lên khỏi nước do bí tích rửa tội chúng ta trở thành con cái Thiên
Chúa và có quyền thừa hưởng gia nghiệp nước trời.
Bởi đó chúng ta phải
cám ơn Thiên Chúa vì đã dành cho chúng ta cái địa vị cao cả ấy. Chúng ta hãy
suy nghĩ như bà già nhà quê mỗi khi đọc kinh lạy Cha:
- Lạy Chúa, Chúa là ai
mà con là ai. Chúa là Đấng tạo hóa quyền năng, còn con chỉ là một bà lão già
nua xấu xí, thế mà Chúa ban cho con một đặc ân cao cả, đó là được gọi Chúa là
Cha.
Cám ơn Chúa mà thôi
chưa đủ. Hãnh diện về địa ấy mà thôi chưa đủ. Điều quan trọng là chúng ta phải sống
đúng cái địa vị cao cả ấy, nghĩa là chúng ta phải trở nên là những người con
ngoan, là những người con yêu dấu của Chúa.
Muốn được như thế
chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Kitô, bằng cách luôn vâng theo thánh ý
Chúa Cha. Một đứa con ngoan sẽ không phải là một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi
khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái lại, phải là đứa con mau mắn vâng nghe những
lời chỉ bảo ấy.
Bởi đó, để trở thành
những người con ngoan của Chúa, chúng ta cũng phải mau mắn và vui vẻ vâng theo
thánh ý Chúa Cha, thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười
giới răn, qua Tin mừng Phúc âm và qua những điều giáo huấn của Hội Thánh.
Có mau mắn vâng nghe
thánh ý Chúa Cha, thì rồi Chúa Cha mới tuyên phong chúng ta như đã tuyên phong
Đức Kitô trên đỉnh Taborê:
- Này là Con Ta yêu
dấu.
31. Khuôn mặt ngời
sáng – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy
Đã Yêu”)
Một vị ẩn sĩ nọ suy
niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn, ai ai cũng thấy có
một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày, đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận lễ hy
sinh của ông.
Ngày nọ, vị ẩn sĩ
quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc
ông đang leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ
chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi cùng. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên.
Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé
đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng
ông lại giục cô bé hãy uống nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình,
còn cô gái không nỡ uống một mình.
Họ càng đi, cơn khát
càng dằn vặt. Đến một lúc vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn
quại trong cơn khát. Ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và cô
bé cũng mỉm cười uống nước với ông.
Sau khi đã uống nước,
vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra
mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất.
Thế nhưng, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Ngạc nhiên biết chừng nào, hai
vì sao đang chiếu sáng như mỉm cười với ông.
Sau khi đã chay tịnh
nhiều ngày và chấp nhận vươn lên cao trong sự khổ chế, vị ẩn sĩ đã được trời
cao chứng giám bằng cách cho một vì sao ngời sáng giữa ban ngày.
Đức Giêsu sau khi chấp
nhận cuộc khổ nạn, quyết tâm thi hành thánh ý Cha, liền được “biến hình đổi
dạng” trên núi cao. “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở
nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2). Người còn được Chúa Cha chứng giám cho
việc Người chấp nhận khổ giá vì yêu Cha và vì yêu nhân loại tội lỗi, bằng một
lời ngợi khen long trọng: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các
ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5”.
Đức Giêsu biến hình
sáng láng trước mặt ba môn đệ thân tín, là để các ông cảm nghiệm được trước
vinh quang Phục sinh của Người. Cũng là để dọn lòng trí các ông dễ dàng đón
nhận cuộc khổ nạn cà cái chết thương đau của Người trên thập giá sau này. Vì
qua đau khổ mới tới vinh quang. Có khổ nhục ngày thứ Sáu Tuần Thánh, mới rạng
rỡ sáng Chúa nhật Phục sinh.
Người kitô hữu chỉ có
thể biến hình đổi dạng khi họ sẵn lòng cùng vác thánh giá lên đồi Canvê với Đức
Kitô.
Người Kitô hữu chỉ có
thể bừng sáng rạng ngời khi họ dám hy sinh bản thân để hiến dâng cho Thiên Chúa
và tha nhân bằng một tình yêu trao ban vô vị lợi.
Chúng ta sẽ nhận ra
khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô khi chúng ta đón nhận khuôn mặt đau khổ của
anh em.
Chúng ta sẽ minh họa
được khuôn mặt sáng láng của Đức Kitô khi chúng ta luôn mang khuôn mặt vui
tươi, an bình và hạnh phúc.
Người tín hữu thường
nếm vinh quang Tabo chẳng bao nhiêu, nhưng đón nhận gian nan Núi Sọ lại rất
nhiều. Tuy thế họ vẫn vui tươi và thanh thản, an bình và hạnh phúc? Phải chăng
họ đã cảm nghiệm được khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Như
người lực sĩ điền kinh nhắm chiếc huy chương vàng mà gắng sức về đích để giành
phần thắng, thì người tín hữu Kitô cũng phấn đấu vượt qua những chặng đường
thánh giá cuộc đời, để đạt được phần thưởng vô giá là vinh quang Phục sinh rạng
ngời.
Mùa Chay là mùa sám
hối và canh tân. Sám hối – Canh tân là bỏ đi con người tự mãn tự kiêu để mặc
vào con người nhu mì khiêm tốn, là tháo gỡ khuôn mặt u mê tội lỗi để nhận lại
khuôn mặt ngời sáng thánh thiện, là tẩy chay tâm địa ích kỷ để đón nhận tinh
thần phục vụ yêu thương.
Nước mắt sám hối khép
lại quá khứ để mở cửa tương lai. Nước mắt sám hối luôn tẩy sạch tội lỗi. Nước
mắt sám hối bao giờ cũng có giá trị trong sự tha thứ.
Canh tân là lao mình
về phía trước, trong niềm vui đổi mới. Lúc đó, chúng ta không cần đi tìm mùa
xuân, vì chính chúng ta đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.
32. Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn Thành Long
CHIÊM NGẮM VINH QUANG
THẦN TÍNH CHÚA TIỀN PHỤC SINH
Trận siêu động đất và
sóng thần hôm 11.3 vừa qua đã làm cho Nhật Bản, một đất nước từng thịnh vượng
thứ hai thế giới, phải chao đảo. Nhiều thành phố hoang tàn đổ nát; một số thị
trấn bị xoá sổ; nhiều người mất nhà cửa, tài sản, người thân, lang thang trong
vô vọng. Chỉ trong phút chốc tất cả đều bị thuỷ thần cuốn phăng ra biển.
Các bản tin liên tục
cập nhật con số thương vong theo chiều hướng ngày một tăng làm cho nhiều người
choáng váng. Đặc biệt là tin tức dự báo về các dư chấn mạnh sẽ còn xảy ra nhiều
trong thời gian sắp tới, cũng như tin về mức độ phát tán chất phóng xạ nguy
hiểm trong không khí từ các lò phản ứng hạt nhân bị nổ hay bị hư hỏng... Tất cả
đã tạo ra một bầu khí hoang mang và ảm đạm bao trùm toàn thể nước Nhật, kể cả
thủ đô Tokyo, một thành phố hiện đại bậc nhất của xứ sở Hoa Anh Đào. Đối diện
với hiểm nguy rình rập từ các vụ dư chấn, nhất là phóng xạ hạt nhân, các du học
sinh sinh viên và kiều bào nước ngoài sinh sống tại Nhật đã phải tìm cách tháo
chạy khỏi nước Nhật càng sớm càng tốt. Còn người dân bản xứ cảm thấy hoang mang
và lo sợ não nề.
Trước lời loan báo về
viễn tượng đen tối của cuộc thương khó Chúa Giêsu, tâm trạng của các môn đệ có
lẽ cũng hoang mang và lo sợ não nề không kém người dân Nhật hiện nay. Lo sợ vì
khi Chúa Giêsu cho biết Ngài sẽ phải đương đầu với sự bắt bớ, bách hại, các ông
không còn nhìn thấy được đâu là đấng cứu tinh mà muôn dân đang trông đợi. Hoang
mang vì khi sắp sửa phải đối mặt với thập giá Chúa Giêsu, các ông chẳng còn
nhận ra được đâu là thần tính của đấng mà các ông nhiều lần gọi là Chúa. Não nề
vì khi chạm trán với viễn tượng chết chóc, các ông chẳng còn hình dung được đâu
là sự sống đời đời mà Thầy mình đã từng cao rao.
Hiểu rõ nỗi lòng của
các môn sinh, Chúa Giêsu đã khéo léo đưa họ lên núi để họ được chiêm ngưỡng một
biến cố đặc biệt đầy ý nghĩa, biến cố mở ra cho họ một viễn tượng mới tràn đầy
hy vọng: Biến Cố Hiển Dung.
1. Hiển dung, biến cố
chứng thực cho sự sống sau cái chết.
Quan niệm của người
Dothái về sự sống lại, và sự sống sau cái chết vẫn còn có nhiều bất đồng và mơ
hồ. Thậm chí nhóm Sađốc còn chủ trương không tin là có sự sống lại. Tuy nhiên,
trong biến cố hiển dung, sự xuất hiện rạng ngời vinh hiển của hai nhân vật quá
cố thời Cựu ước xa xưa là Môisê và Êlia, như một bằng chứng hiển nhiên và chắc
chắn nói cho các môn đệ rằng có sự sống lại và sự sống sau cái chết. Nói cách
khác, qua biến cố hiển dung, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng các ông cứ
tin tưởng có thế giới bên kia, nơi mà hai vị đại ngôn sứ đang sống hạnh phúc
ngập tràn. Và rằng các ông cứ an tâm Thầy của họ có chết thì cũng sẽ phục sinh
vinh quang.
2. Hiển dung, biến cố
biểu lộ vinh quang thần tính của Đức Kitô.
Trong cuộc sống thường
nhật, Chúa Giêsu thường chỉ biểu lộ nhân tính của Ngài là một con người như mọi
người, ngoại trừ tội lỗi. Còn thần tính của Ngài vẫn còn ẩn dấu, ẩn dấu trong
một thân xác nghèo hèn dân dã.
Thế nhưng, qua biến cố
hiển dung, vinh quang Thiên Chúa, tức thần tính của Đức Giêsu tỏ hiện rõ nét và
rạng ngời. Rõ nét đến độ, thánh Mathêu mô tả là các môn đệ choáng ngợp, té sấp
mặt xuống đất: "Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, y phục Ngài trắng
sáng như tuyết". Rạng ngời đến nỗi các môn đệ chỉ còn muốn sống mãi trên
núi với Chúa mà thôi. Chính thánh Phêrô xác nhận điều này: "Lạy Thầy,
chúng con ở đây thì tốt lắm lắm. Nếu Thầy muốn, con xin làm 3 lều". Trong
một bài suy niệm của mình, Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt cũng đã viết:
"Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì
ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che dấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tâm
thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang".
3. Hiển dung, biến cố
khích lệ niềm tin cho các môn đệ trước viễn tượng cuộc thương khó của Thầy
mình.
Chúng ta thấy rằng khi
Chúa Giêsu bị bắt, ít là có hai trong ba môn đệ (Phêrô, Giacôbê và Gioan) đã
từng chứng kiến biến cố hiển dung đã không bỏ trốn như các môn đệ khác. Điều
này chứng tỏ niềm tin của ba môn đệ này được củng cố rất nhiều, nhờ thấy trước
vinh quang phục sinh của Đức Giêsu. Đối tượng cụ thể của niềm tin đó chính là
Đức Kitô, Con Một Yêu Dấu của Chúa Cha trên trời. Và vì tin vào Chúa Giêsu là Đấng
Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, các ông cần phải lắng nghe lời dạy của Ngài:
"Đây là Con Ta yêu dấu. Các Ngươi hãy nghe lời Ngài". "Lời
Ngài" mà Chúa Cha muốn nói ở đây là lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương
khó tử nạn và phục sinh của Người. Lời Ngài ở đây là lời tiên báo về sự bắt bớ,
tra tấn, đánh đập và bị giết chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nghe để không bị
chao đảo, nghe để không bị mất đức tin trước những thử thách nặng nề như thế.
ĐTC Bênêdictô XVI,
trong Sứ điệp Mùa Chay 2011, đã nói: "Tin Mừng về cuộc Hiển Dung của Chúa
đặt trước mắt chúng ta vinh quang của Chúa Kitô, báo trước cuộc phục sinh và
loan báo sự thần hóa con người Kitô hữu. Ngài mời gọi chúng ta hãy ý thức mình
cũng được dẫn lên núi cao như các Tông Đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, để tái đón
nhận món quà Ân Sủng của Thiên Chúa là Chúa Kitô" (số 2). Trong ý nghĩa
đó, một khi đối diện với những bế tắc, nghiệt ngã trong cuộc sống vô thường ở
đời này, chúng ta được mời gọi hãy chiêm ngắm biến cố Hiển Dung để hy vọng, để
cậy trông vào một cuộc sống vĩnh phúc đích thực mai sau, cuộc sống mà Chúa đã
hứa ban cho tất cả những ai tin vào Người. Hơn nữa, chúng ta còn được gọi mời
khi gặp những đau thương thử thách của thập giá, hãy hướng lòng trí lên Đức
Kitô vinh quang trên núi Taborê để được khuyến lệ, để được vấn an hầu có thể
vượt qua được những thử thách đau thương ấy trong đời. Amen.
Trong mùa Chay, mùa
dẫn đưa chúng ta tiến về cuộc Khổ nạn, phụng vụ mang lại cho chúng ta một giây
phút an ủi mà Thiên Chúa muốn đưa đến cho các tông đồ đang trong cơn rối loạn.
Vào giai đoạn này của cuộc đời công khai của mình, Chúa Giêsu cảm thấy nổi lên
quanh Ngài sự thù địch của những người lãnh đạo tôn giáo và sự thất vọng của
dân chúng đang chờ đợi một vị Vua Cứu Thế. Từ nay Ngài sẽ dành thì giờ cho việc
đào tạo các môn đệ của Ngài, nhưng chính các ngài cũng mất phương hướng. Các
tông đồ nói với Ngài: “Thầy là Đấng Cứu thế!” và Ngài trả lời: “Phải, nhưng
Thầy sẽ phải chịu đau khổ”. Các tông đồ thắc mắc về con người kỳ lạ này, một
con người dường như nhiều quyền năng như thế mà lại nói đến việc phải chịu đau
khổ.
Chính Thiên Chúa sẽ
nói với các tông đồ của mình đang đứng trên bờ hoài nghi: “Con người đang hiển
dung này là Con Ta!”
Việc hiển dung là một
ân sủng của mạc khải. Bằng tất cả các phương tiện, văn phong hùng tráng, cái
nhìn, tiếng nói, biểu tượng, tác giả Tin Mừng muốn làm cho chúng ta thấy được
vinh quang của Chúa Giêsu: Ngài “là thân phận Thiên Chúa” (Pl 2,6), như thánh
Phaolô đã nói. Đám mây chính là dấu hiệu của Thiên Chúa, y phục trắng và khuôn
mặt chói sáng như mặt trời cũng thế. Núi, cùng với Môisê và Êlia, nhắc lại sự
mạc khải trên núi Si-nai. Đấng sẽ phải chịu đau khổ đúng là một con người như
chúng ta, nhưng được biến đổi do mầu nhiệm ở trong. Chúa Cha ở trong Chúa Con
và Chúa Con ở trong Chúa Cha. Một chốc lát được vén mở: vinh quang của Chúa
Giêsu nói với chúng ta rằng Ngài đến từ trời, Ngài là Đấng Cứu thế duy nhất,
Ngài sẽ tái lâm trong vinh quang này và làm cho chúng ta thành những người được
biến đổi.
Đôi khi chúng ta cần
phải lên đường với Phêrô, Giacôbê và Gioan hướng tới núi vinh quang. Mầu nhiệm
của Chúa Giêsu, vừa là Thiên Chúa vừa là con người, sẽ luôn luôn vượt khỏi trí
khôn chúng ta, nhưng lời ánh sáng này “Đây là Con Ta yêu dấu” làm cho chúng ta
ngẵm nghĩ về điều cốt lõi này là chúng ta được yêu thương. “Thiên Chúa đã yêu
thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một mình” (Ga 3,16). Và đây tình yêu
đã làm điều này: Người Con duy nhất không những đến cư ngụ ở trên trái đất mà
còn cư ngụ trong cuộc đời của chúng ta nữa. Điều đó làm cho thân phận làm người
sáng giá biết bao! Chắc chắn những hình ảnh nặng nề, trống rỗng, đau khổ và
thất vọng nhanh chóng hiện ra khi chúng ta nói: “Đời là thế!”. Chúng ta tìm gặp
lại các hình ảnh đó khi chúng ta nói lại về việc hiển dung được Matcô và Luca
chứng kiến: chúng ta bất cần Vinh quang, kẻ được biến đổi sớm muộn gì rôì cũng
bị biến dạng.
Nhưng Chúa Cha long
trọng tuyên bố rằng người này là Con của Ngài để chúng ta biết rằng dầu sao tất
cả những gì có thể đến với Ngài và đến với chúng ta, Ngài vẫn là Mặt trời của
thế giới ngay từ bây giờ, và Ngài sẽ là Mặt trời của thế giới trong tương lai.
Chúa Hiển dung, bằng một tia chớp ngắn ngủi, đưa chúng ta ra khỏi những mặt
trái thô ráp của cái mà chúng ta đang sống: “Hãy nhìn vinh quang của bạn trong
vinh quang của Ngài”.
34. Mặt Người
chiếu sáng như mặt trời
(Suy niệm của Lm Paul
- Maurice Lâm Thái Sơn)
Cách chung, người Việt
Nam chúng ta rất sùng đạo, vì thế mỗi khi nghe có một phép lạ xảy ra hoặc được
biết Đức Mẹ (hay một Đấng Thánh) hiện ra tại nơi nào đó thì lập tức từng đoàn
người ùn ùn kéo đến để cầu nguyện để xin ơn. Tại sao? Tại vì rất phù hợp với
mộng ước sâu xa của bao người tín hữu, đó là "gặp được Thiên Chúa"
(Thiên Chúa, Đức Mẹ, hay một đấng Thánh nào đó) và được nói chuyện... hoặc ít
ra cũng được chứng kiến cuộc độc thoại, như chuyện ông Stêphanô ở nhà thờ Bình
Triệu trong những năm 75-78 tại Sài Gòn.
Tuy nhiên, sau những
lần như vậy thì phần đông hoặc thất vọng hoặc hoang mang, để rồi những câu hỏi
được đặt ra: tại sao Thiên Chúa phải trốn tránh chúng ta? Tại sao Đức Mẹ không
hiện ra cho chúng ta được thấy để thêm lòng tin nhiều hơn?
Các môn đệ đã từng
sống và nghe Chúa Giêsu giảng dạy, đã bao lần các ông cùng đi với Ngài trên
khắp các thôn làng xứ Giuđêa, các ông tưởng rằng đã biết rõ Đức Thầy của
mình... nhưng rồi một ngày kia, điều mà Phêrô, Giacôbê và Gioan khám phá trên
một núi cao đó là một hiện tượng lạ lùng: các ông được chứng kiến Thiên Chúa
đang gần gũi các ông qua sự biến hình của Đức Giêsu, "mặt Ngài chiếu sáng
như mặt trời và áo Ngài trở nên trắng như tuyết, có Maisen và Êlia hiện ra đàm
đạo với Ngài".
Mặc dù Thiên Chúa vô
hình, nhưng đôi khi Ngài cũng tỏ hiện qua những dấu chỉ bên ngoài, qua những
hiện tượng vũ trụ mang nhiều ý nghĩa tượng trưng. Theo như Cựu Ước: một bụi cây
cháy bừng nhưng không bị thiêu rụi, mạc khải cho Maisen biết rằng Thiên Chúa là
Thanh Khiết và Chí Thánh; cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm dẫn đường cho dân
Hy Bá Lai trốn khỏi xứ Ai Cập biểu lộ Thiên Chúa là Ánh Sáng và Hiện Hữu; còn
Vinh Quang và Quyền Năng Thiên Chúa cũng được bày tỏ qua sức mạnh của lửa và
sấm sét trên đỉnh núi Sinai khi Ngài lập Giao Ước với dân Ít Diên. Và trong Tân
Ước: sự tỏ hiện quan trọng nhứt chính là sự Biến Hình của Đức Giêsu trước mặt 3
môn đệ. Theo như Kinh Thánh, núi cao là nơi đặc ưu giữa đất trời liên hệ với
nhau, nơi mà loài người cảm thấy sự nhỏ bé của mình trước tầm vóc vĩ đại của vũ
trụ. Qua gương mặt rực rỡ và tà áo chói loà, Đức Giêsu tỏ hiện trong hai bản
tính vừa là Thiên Chúa và cũng vừa là con người. Sự hiện diện của Ngài giữa
Maisen (biểu tượng cho Lề Luật được ban trên núi Sinai) và Êlia (tượng trưng
các tiên tri loan báo Đấng Thiên sai) nói lên sự gặp gỡ giữa Cựu Ứơc và Tân
Ước, cả hai ông là chứng tá cho quá khứ tán dương Đức Giêsu Kitô vinh hiển mai
sau.
Sự biến đổi hình dạng
của Đức Giêsu mang ý nghĩa là cuộc sống hạnh phúc có thể có ngay từ trần gian
này. Sự biến hình đó có thể biến đổi chúng ta, và từ đó ta có thể biến đổi kẻ
khác: khi mà chúng ta biết biến đổi trong cuộc sống thường nhật bằng cách nhìn
hoặc cách cư xử của chúng ta, từ ánh mắt tràn đầy thù hận ta biến đổi thành đôi
mắt thương yêu trìu mến, từ lòng tham ích kỷ ta đối xử trong tin yêu chia sẻ,
để ánh sáng trong ta và kẻ khác, đang bị chôn vùi trong hận thù và bạo lực giữa
lòng đau khổ tuyệt vọng, được vùng lên sáng tỏa giúp tất cả luôn vui sống vương
mắt mong đợi một Hạnh Phúc tỏa sáng không bao giờ tàn suy.
Nhưng tại sao
"Chúa Giêsu ra lệnh cho 3 môn đệ không được nói với ai về việc đã thấy cho
tới khi Con Người từ cõi chết sống lại"? Vì một trong những câu giải đáp
là một khi Ngài tiết lộ căn tính Ngài là Con Thiên Chúa thì chính là lúc mà
Ngài sẽ tự ký tên vào bản kết án chính mình. Nên nhớ lại lúc Ngài bị điệu ra
trước Thượng Hội Đồng, thượng tế hỏi: "Ngươi có phải là Đức Kitô, Con
Thiên Chúa không?" và câu trả lời xác nhận "đúng như các ông
nói" sẽ làlý do kết án Ngài (Lc 23:66-71). Vì thế, trong 3 năm rao giảng
Tin Mừng, có biết bao lần Ngài được những đám đông ca tụng và muốn đưa Ngài lên
làm vua, sau những khi Ngài chữa lành các bệnh nhân hoặc hóa bánh ra nhiều để
nuôi hàng vạn người, nhưng Đức Giêsu đã từ chối quyền uy và sức mạnh, Ngài
quyết định thực hiện sứ mệnh thiên sai theo cách thế Thiên Chúa trong tinh thần
khó nghèo và khiêm nhu. Vì vậy, Ngài rất dè dặt trong công trình, và căn tính
của Ngài chỉ được tiết lộ vào cuối cuộc đời, trong giờ chiến đấu quyết liệt,
lúc mà tính cách chân chính của sứ mệnh không còn phải che dấu mập mờ nhưng
ngược lại cần bộc lộ minh bạch căn tính Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng hằng sống,
khi Ngài chiến thắng sự chết.
Ta đừng nên lẫn lộn
Phúc Âm, sứ điệp của Đức Giêsu, với những chuyện phiêu lưu kỳ diệu mang tính
cách thiên anh hùng ca. Có thể hầu hết chúng ta chưa bao giờ được diễm phúc
chứng kiến những phép lạ, nhưng không vì thế mà chúng ta đành loại bỏ tất cả
những gì được viết trong Kinh Thánh và cho đó là những chuyện được sáng tác
theo nhu cầu và hoàn cảnh sống, cũng như đừng cho rằng Tôn Giáo chỉ là những
điều tuyệt vời, những phép lạ phi phàm với những sự hiện ra hoặc những biến đổi
hình dạng không liên can gì đến cuộc sống thường nhật. Chúa Giêsu không thể là
kẻ pha trò hay nhà ảo thuật đối với chúng ta. Sự biến hình của Ngài mạc khải
rằng con đường Ngài đi trên trần thế này phải vượt qua sự cô độc của thập giá
trước khi đạt đến Vinh Quang.
Trong Mùa Chay, kinh
nguyện, ăn chay và bố thí là những phương thế giúp chúng ta sống gần gũi Thiên
Chúa. Những lần tham dự Thánh Lễ và lắng nghe Lời Chúa là những lần chúng ta
sống biến hình kết hợp với Thiên Chúa và hiệp thông với các tín hữu của Giáo
Hội hoàn vũ. Ước gì từ nay cuộc sống chúng ta được biến đổi để luôn phản chiếu
ánh sáng của Đức Kitô cho mọi người khác.
35. Nhỏ bé và
tầm thường
Đoạn Tin mừng hôm nay
kể lại rằng: Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao và tại
đó, Ngài đã biến hình trước mặt các ông. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời. Áo
Ngài trở nên trắng tinh như tuyết. Rồi lại có Môisê và Êlia hiện ra và trò
chuyện với Ngài.
Trước cảnh tượng huy
hoàng ấy, Phêrô đã thốt lên:
- Lạy Thầy, chúng con
được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy muốn, con xin làm ba lều, một cho Thầy, một
cho Môisê và một cho Êlia.
Qua sự việc kể trên,
chúng ta nhận ra một khuynh hướng chung cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi
lúc. Đó là chúng ta vốn ưa thích những sự việc lạ lùng và khác thường.
Đúng thế, dân làng
Nadarét đã khâm phục sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, thế nhưng vì không thấy Ngài
làm một phép lạ nào, nên họ đã tỏ ra bực bội tức tối và muốn xô Ngài xuống vực
thẳm.
Dân Do Thái nhiều
người đã muốn suy tôn Ngài lên làm vua, vì Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa
nhiều để nuôi sống họ trong hoang địa. Thế nhưng, sau khi nghe Chúa Giêsu nói
về một thứ của ăn thiêng liêng là Mình và Máu Ngài, thì họ đã lấy làm chướng
tai gai mắt, nên đã bỏ Ngài mà đi. Và cũng chính họ trước tòa án Philatô, khi
nhìn thấy vóc dáng thiểu não và thân hình tiều tụy của Ngài, đã không ngần ngại
kêu gào:
- Đónh đanh nó đi,
đóng đanh nó vào cây thập giá.
Hêrôđê cũng vậy, ông
ta muốn gặp Ngài chỉ vì tính hiếu kỳ, chỉ vì óc tò mò, mong được xem Ngài biểu
diễn những trò ngoạn mục. Thế nhưng, khi thấy Ngài giữ thái độ yên lặng, thì
ông đã cười nhạo và khoác cho Ngài một chiếc áo trắng để nói lên rằng Ngài chỉ
là một tên điên khùng, mà trao trả Ngài lại cho Philatô.
Thái độ của Phêrô hôm
nay cũng vậy. Trên đỉnh Tabôrê, ông đã say mê ngất ngây trướ cảnh tượng huy
hoàng và ánh vinh quang của Chúa Giêsu. Thế nhưng, khi nghe Ngài nói về cuộc
thương khó sắp xảy ra, thi ông đã lấy làm bực bội và lên tiếng can ngăn, khiến
Ngài đã phải quở trách nặng lời:
- Hỡi Satan, hãy xéo
đi, vì ngươi chỉ biết những việc của người đời, mà chẳng biết chi đến những
việc của Thiên Chúa.
Rồi chính Phêrô trong
sân nhà thầy cả thượng phẩm đã chối Chúa ba lần. Không hiểu trong lúc chối Chúa
như vậy, ông có nhớ tới vinh quang Tabôrê nữa hay không?
Từ những điều vừa
trình bày, chúng ta nhận thấy cách thức hoạt động của Thiên Chúa thật khác xa
với cách thức hoạt động của chúng ta, đúng như lời Ngài đã nói:
- Tư tưởng và đường
nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao
hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và
đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Thực vậy, đang khi
chúng ta đi tìm những sự vinh quang và những việc lạ lùng khác thường, thì Chúa
lại dùng chính những cái nhỏ bé, những cái tầm thường và ngay cả những khổ đau,
những thất bại và ngay cả cái chết tủi nhục của mình để cứu độ chúng ta.
Lịch sử đã cho chúng
ta hay biết về sự thật này. Có ai tầm thường cho bằng Đavít, một cậu bé chăn
chiên, thế mà Thiên Chúa đã dùng cậu bé này để thiết lập một triều đại mới, dẫn
đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim và phồn vinh.
Có ai khiêm nhường cho
bằng Maria, một thôn nữ âm thầm, thế mà Thiên Chúa đã dùng Mẹ để khởi đầu cho
chương trình cứu thế.
Có ai đã thất bại cho
bằng Chúa Giêsu với cái chết ê chề và nhục nhã trên thập giá, thế mà Ngài lại
dùng chính khổ đau của thập giá để cứu chuộc chúng ta.
Và ngày hôm nay, Chúa
vẫn còn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc nhỏ bé, tầm thường và khiêm
tốn như thế. Tuy nhiên, điều quan trọng đó là chúng ta có biết lắng nghe và
thực thi ý định của Ngài được tỏ lộ qua những sự việc nhỏ bé, tầm thường và
khiêm tốn ấy hay không?
Qua đoạn Tin mừng hôm
nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về thái độ của Phêrô.
Như chúng ta đã thấy:
trước sự hiện diện của Môisê và Êlia cùng với ánh vinh quang bao phủ, Phêrô đã
vui mừng hớn hở thưa lên:
- Lạy Thày, được ở đây
thì tốt lắm. Nếu Thày muốn, chúng con xin làm ba lều.
Thế nhưng sau đó, cũng
chính Phêrô đã lên tiếng can ngăn Chúa khi Ngài tiên báo về những khổ đau sẽ
phải chịu, để rồi Ngài đã phải nặng lời quở trách:
- Hỡi Satan, hãy xéo
đi, ngươi chỉ biết những việc thuộc về trần thế mà chẳng biết chi những việc
thuộc về Thiên Chúa.
Rồi cũng chính Phêrô
trong sân nhà thày cả thượng phẩm đã chối Chúa ba lần chỉ vì câu hỏi bâng quơ
của một đứa nữ tỳ. Phải chăng thái độ của Phêrô cũng là thái độ của người đời
như tục ngữ đã nói:
- Khi vui thì vỗ tay
vào,
Đến khi hoạn nạn thì
nào thấy ai.
Đúng thế, khi chúng ta
có tiền và có quyền thì cũng thường có nhiều tình. Người xưa đã từng bảo:
- Bần cư chung thị vô
nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm. Nghèo mà ở ngay giữa phố chợ thì cũng
chẳng ai thăm, còn giàu mà ở tận chỗ núi cao rừng thẳm, thì vẫn khối người tìm
đến.
Hay như tục ngữ cũng
nói:
- Thấy người sang bắt
quàng làm họ.
Thế nhưng khi tiền hết
và quyền hết thì tình cũng thường chắp cánh bay cao:
- Hết cơm hết gạo hết
ông tôi.
Không những hết tình
mà đôi khi vào lúc sa cơ thất thế, những kẻ trước kia đã hàm ơn, không chừng sẽ
trở mặt, phản lại chúng ta, giậu đổ bìm leo, để rồi chính chúng ta sẽ phải âm
thầm và cay đắng ghi nhận:
- Thế thái nhân tình
gớm chết thay,
Nhạt như nước ốc bạc
như vôi.
Hay lẩm bẩm kêu trách:
- C’est la vie, đời là
thế.
Tuy nhiên chúng ta
đừng vội trách người cũng như đừng vội trách đời, mà hãy trách chính bản thân
chúng ta trước, bởi vì đó cũng chính là thái độ của chúng ta đối với những tha
nhân và nhất là đối với Thiên Chúa.
Thực vậy, kinh nghiệm
cho hay: Khi gặp được may mắn và hạnh phúc chúng ta dường như cảm thấy Thiên
Chúa thật gần gũi, thật dễ thương, thế nhưng khi gặp phải những gian nguy thử
thách, những đớn đau buồn phiền, chúng ta lại cảm thấy Thiên Chúa thật xa vời
và độc địa như lời thơ cổ:
- Trẻ tạo hóa đành
hanh chi ngán,
Chết đuối người trên
cạn mà chơi.
Rồi từ đó chúng ta bực
bội tức tối và lên tiếng nguyền rủa Thiên Chúa. Nói cách khác, chúng ta chỉ
muốn bước theo Chúa lên đỉnh Taborê, chứ không muốn bước theo Chúa lên đỉnh
Canvê. Chúng ta chỉ muốn cắm lều trong vinh quang, chứ không muốn đóng đinh
mình vào thập giá. Chúng ta đã nhìn đau khổ qua cặp kính màu đen tuyệt vọng,
chúng ta kéo lê thập giá chứ không vui vẻ vác lấy và coi thập giá như phương
tiện cứu độ.
Tuy nhiên, chúng ta
phải nhớ rằng:
- Đỉnh Canvê mới chính
là nơi để Chúa Giêsu chu toàn sứ mạng cứu độ của mình, mới chính là nơi để Ngài
gieo mầm phục sinh cho nhân loại.
Là môn đệ của Chúa
chúng ta không có một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, như lời Ngài
đã nói:
- Ai muốn theo ta,
phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta.
Chúng ta không dừng
lại tại thập giá và khổ đau, nhưng cùng với Đức Kitô tiến vào vinh quang và
phục sinh. Vì thế, mặc dù vai vác thập giá nhưng mắt chúng ta vẫn luôn hướng
tới trời cao. Trời cao, sự sống và hạnh phúc phải là điểm kết thúc cho con
đường thập giá. Những hy sinh chúng ta gặp phải sẽ kết thành cây thập giá đời
thường, nếu chúng ta trung thành vác lấy, cây thập giá đời thường ấy sẽ là con
đường dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.
37. Thập giá
Anh chị em có biết tại
sao khi nghe hai chữ thập giá, chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có khi còn
dửng dưng nữa, trong khi các môn đệ Chúa Giêsu nghe nói đến thập giá thì nổi da
gà, và ông Phêrô run rẩy can ngăn Chúa đừng đi tới đó? Có lẽ vì chúng ta chỉ
nhìn thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ quí nhẵn
bóng hay bằng xi măng tô đá rửa, đá mài, nên hình ảnh mà hai chữ thập giá gợi
lên trong chúng ta không có gì đáng sợ. Còn các môn đệ Chúa thì trái lại, các
ông chưa bao giờ thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc… và hai chữ này
không chỉ gợi lên một cây khổ giá trần trụi, mà gợi lên hình ảnh một con người
quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và
đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những
con mắt tò mò và dửng dưng. Chính vì thế mà các tông đồ rùng mình sợ hãi khi
Chúa Giêsu nói đến thập giá.
Nhưng Chúa Giêsu không
phải là ông thầy dễ dãi hay nhu nhược. Chúa vẫn nói thẳng, nói thật và Chúa đòi
ai theo Chúa phải nhìn thẳng vào thập giá và chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy,
hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình hằng ngày mà đi đằng sau Thầy”. Ông Phêrô
vừa thay mặt anh em tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, thì Ngài lại
nói đến thập giá. Thập giá Chúa nói ở đây như mặt sau của tấm huân chương. Rồi
sau đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín lên núi, cho các ông thấy vinh quang
chói lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng của Môisê và Êlia: một vị đã được Chúa
dùng để giao ước Sinai, còn vị kia thì được Chúa trao nhiệm vụ tái lập giao ước
Sinai.
Chúng ta có thể đảo
lại thế này: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy cây thập giá làm cho các ông run
sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đằng sau cây thập giá có gì. Cũng vậy, sau
này, trên đường Emmau, chúng ta thấy Chúa quở trách hai môn đệ thất vọng bỏ đi,
vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy mặt sau của cây thập giá: “Chẳng
phải là Đức Kitô phải chịu đau khổ để vào trong vinh quang của Ngài sao?”.
Nếu ôm lấy cây thập
giá và thỏa mãn với nó thì đúng là một kẻ điên khùng hoặc bệnh hoạn. Không,
Chúa Giêsu không kêu gọi chúng ta trở nên điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã nhận
lấy thập giá như đường tới vinh quang. Đàng sau thập giá là vinh quang mà chỉ
có đức tin mới cho chúng ta thấy được. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi
một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa, chúng ta mới tới
được vinh quang ở phía sau cây thập giá.
Cuộc sống có những lúc
êm đềm thanh thản, có những ngày tưng bừng hoa lá, nhưng cũng lắm khi cảm thấy
tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù sì và những lời độc địa, chát chúa của
khách qua đường. Chúng ta cảm thấy nỗi cô đơn của kẻ bị treo lơ lửng giữa trời
và đất. Chúng ta khát khô cổ muốn có một lời an ủi, một chút cảm thông, nhưng
quanh chúng ta chỉ có thờ ơ và thinh lặng, hoặc tệ hơn nữa, chỉ có phỉ báng và
xua đuổi. Những lúc ấy chúng ta mới cảm thấy tất cả sự rùng rợn của cây thập
giá. Có khi chúng ta cảm thấy chán nản muốn buông xuôi tất cả. Chúng ta cảm
thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải kêu lên: “Lạy Chúa, nhân sao Chúa bỏ
con…”.
Những lúc ấy chúng ta
phải vận dụng sức mạnh của lòng tin, hết ánh sáng đức tin, để thấy được đằng
sau cây thập giá. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đấng đang vác thập giá đi đằng
trước chúng ta, chớ rời mắt xa Ngài. Nhưng chúng ta đừng chờ tới lúc đó mới
nhìn vào Ngài. Chúng ta phải giữ tầm nhìn luôn hướng về Ngài trong mọi nơi, mọi
lúc, mọi việc. Chúng ta hãy làm tất cả với Ngài, vì Ngài và trong Ngài. Nếu
chúng ta biết sống với Ngài trong niềm vui, chúng ta cũng biết sống với Ngài
trong nỗi buồn. Nếu chúng ta biết sống trong Ngài khi hạnh phúc, chúng ta cũng
biết sống trong Ngài lúc đau khổ. Nếu chúng ta biết sống với Ngài trong ngày
hội, chúng ta cũng biết sống với Ngài giữa cô đơn. Nếu chúng ta biết sống trong
Ngài lúc đầy tiền của, chúng ta cũng biết sống trong Ngài khi trắng tay…
Điều chúng ta cần ghi
nhớ là chúng ta đừng mang thập giá một mình. Chúng ta sẽ không bước nổi đâu, và
nếu chúng ta có đem tất cả sự kiêu hãnh của con cái Ađam mà lết đi được thì
cũng chẳng ích lợi gì, cây thập giá của chúng ta chỉ là cây gỗ chết mà thôi.
Bởi vì cây thập giá chỉ trở nên xanh tươi và đầy hoa trái khi nó mang con Thiên
Chúa, nguồn mạch sự sống: “Nếu chúng ta cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ sống
với Ngài”.
Như vậy, Chúa Giêsu
hiển dung là để củng cố đức tin của các môn đệ. Bởi vì Chúa thấy các môn đệ quá
sợ các đau khổ, không chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Chúa đã hé mở vinh
quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để đem lại cho các ông một niềm tin
và một hy vọng vào ngày mai. Do đó, việc Chúa hiển dung cũng dạy bảo cho các
môn đệ biết: phải trải qua đau khổ rồi mới vào vinh quang. Chính Thầy của các
ông là Con Thiên Chúa, mà còn phải chịu đau khổ mới bước đến vinh quang thì các
ông cũng phải đi theo con đường đó: không thể đến cõi hằng sống mà không phải
qua đau khổ, thử thách.
Sống ở đời, không ai
trong chúng ta tránh được những đau khổ chúng ta gọi là những thánh giá mà Chúa
muốn chúng ta vác. Dù trong bậc nào vẫn phải vác thánh giá của mình. Ngay chính
lúc này, mỗi người chúng ta đều cảm thấy những lo âu, những buồn phiền, những
khổ đau… Tất cả đều là thánh giá. Nếu biết vác cho nên, với một thái độ khiêm
ngường, với lòng cậy tin, thì Chúa sẽ ở bên chúng ta, và sẽ thưởng công cho
chúng ta. Những công phúc tuy vô hình, chúng ta không trông thấy, nhưng chúng
sẽ là những hạt men, những hạt giống sẽ nở ra trong đời sau và trong thế hệ con
cháu chúng ta.
38. Biến hình
Cách đây vài năm khi
đang đi bộ lang thang khu siêu thị, tôi để ý thấy đám đông chăm chú nhìn vào
một cái gì đó trong tủ kính trưng bày của một cửa tiệm. Tò mò, tôi bước tới
nhìn xem. Người ta ngắm một bức tranh. Bức tranh vẽ đủ mọi màu sắc sáng với
những biểu tượng và hình thù chẳng có ý nghĩa gì. Ban đầu tôi chợt nghĩ: “Chắc
là một loại nghệ thuật trừu tượng. Và mình sẽ không bao giờ có thể hiểu được
loại nghệ thuật này!”
Tình cờ, một trong
những người khách chỉ vào bức tranh và nói: “Tôi thấy Ngài rồi! Tôi thấy Ngài
rồi!” “Thấy cái gì? Thấy ai?” một vài người đứng đó hỏi. “Thủng thẳng đã, tôi
không chắc chắn lắm, và tôi cũng không muốn quấy rầy quí vị”. Sau đó một người
khác cũng la lên: “Rồi, tôi cũng thấy Ngài nữa!”
Một vài người lắc đầu
bỏ đi. Và chỉ còn vài người chúng tôi ráng đứng lại nhìn. “Xin lỗi, bà có thể
nói lại cho tôi biết cái gì vậy?” Tôi hỏi một trong những người đã nói rằng bà
trông thấy “Ngài”. Bà cắt nghĩa: “Đây là một bức hình ba chiều, nếu nhìn vào
bức hình khi có ánh sáng phù hợp vào đúng góc cạnh, sẽ nhìn thấy một bức hình ở
đó”. Thế hả? Tôi đáp lại nhưng vẫn còn nghi ngờ. “Nhưng nó không dễ nhìn thấy
đâu!” Bà nói thêm. “Tôi phải mất gần ba chục phút mới nhìn ra đấy. Nhưng kìa thấy
rồi”. Bà chỉ ngón tay vào bức hình: “Bộ không thấy sao?” Bà hỏi. Tôi cố gắng
nhìn tập trung vào bức tranh muốn chóng cả mặt. “Tôi chẳng trông thấy gì cả”,
tôi phải tự thú như vậy, “Hay là tưởng tượng đấy?” Bà mỉm cười, rồi quay mặt
bước đi, nhưng vẫn không quên khích lệ tôi: “Đừng bỏ cuộc! Cố nhìn thêm chút
nữa!”
Tôi đã phải nhìn vào
bức hình đó hằng chục lần nữa mà cũng không thấy gì. Trên đường trở ra bãi đậu
xe, tôi quyết định trở lại để thử nhìn thêm một lần nữa. Khi tôi nhìn vào bức
tranh, hơi cúi khom đầu xuống một chút, những đường nét trang trí bắt đầu mờ
nhạt, và một khuôn mặt xuất hiện. Một cách rất khoan khoái tôi nhận ra đây là
khuôn mặt của Chúa Giêsu. “Tôi đã trông thấy Ngài! Tôi đã trông thấy Ngài!” Rồi
mất thêm một tiếng đồng hồ nữa để giúp cho những người xung quanh cũng nhìn
thấy Ngài. Thật là thú vị trông thấy khuôn mặt của họ tươi sáng hẳn lên khi
nhận diện ra khuôn mặt của Chúa Giêsu lần đầu tiên sau những nỗ lực vất vả.
Hôm nay, Chúa nhật thứ
hai Mùa Chay, bài Phúc âm thánh Matthêu nói về cuộc biến hình của Chúa Giêsu
trên núi. Phêrô, Giacôbê và Gioan đã nhìn thấy khuôn mặt vinh quang của Con
Thiên Chúa lần đầu tiên. Họ đã ở với Chúa Giêsu hằng ngày trong khoảng thời
gian ba năm. Họ đã nhìn thấy Ngài, lắng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến những
phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài là ai.
Trong cuốn “Jésus: A
Fait De Moi, Un Témoin”, “Chúa Giêsu Đang Sống Qua Nhân Chứng”, cha Emiliano
Tardif chia sẻ như sau: “Một sứ giả Tin Mừng trước tiên phải là một chứng nhân
có một kinh nghiệm cá nhân về sự chết và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và là
người truyền đạt cho kẻ khác, không chỉ là một đạo lý, mà một Đấng-Vẫn- Sống
đang ban sự sống dồi dào”. “Không ai có thể trở thành sứ giả đích thực của Tin
Mừng, nếu người đó không có kinh nghiệm đời sống mới mà Chúa Giêsu ban cho”.
Chúa Giêsu đã cho ba
môn đệ trải qua kinh nghiệm về hình ảnh vinh quang của Ngài để giúp họ học hỏi
và sống đời sống chứng nhân sau này.
1. Thiên Chúa nâng
chúng ta lên.
Trong Cựu ước, ngọn
núi cao thường là nơi mô tả sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa
đã mời gọi Môsê đi lên núi để lãnh nhận Mười điều răn. Phêrô, Giacôbê và Gioan
là những người Chúa Giêsu tuyển chọn, được đưa lên núi cao để hưởng đặc ân của
Thiên Chúa. Họ đã chứng kiến một điều sẽ ảnh hưởng sâu xa trong cuộc đời chứng
nhân sau này như Phêrô đã thú nhận: “Là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô
và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai”.
Ngài cũng có chương
trình riêng cho mỗi người chúng ta. Bằng những cách gọi rất cá nhân và khác
nhau, Thiên Chúa đã mời gọi mỗi người và nâng chúng ta lên. Chúng ta sẽ cảm
nghiệm được điều này nếu biết cầu xin và đón nhận với lòng biết ơn. Cha
Emiliano Tardif đã chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của ngài: “Chúng ta có thể gặp
được chính Tin Mừng là Chúa Giêsu Kitô, Đấng hôm qua và hôm nay vẫn là thế, và
hằng sống muôn đời”.
Sách Giáo lý Công
giáo, số 556 cũng đã viết: “Sự biến hình cho ta nếm trước ngày quang lâm vinh
hiển của Chúa Kitô, “Đấng sẽ biến đổi thân xác khốn khổ của chúng ta, để hóa
nên giống như thân xác vinh hiển của Ngài”.
2. Thiên Chúa đem
chúng ta xuống.
Sau kinh nghiệm cực kỳ
sung sướng vừa thấy Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang sáng ngời của Ngài, thì có
tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các
ngươi hãy nghe lời Người”. “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống
đất”. Vừa mới lên cao đến tột đỉnh sáng ngời, liền bị hạ sấp mặt xuống đất
trong kinh hãi. Thiên Chúa nâng họ lên cao và hạ họ xuống thấp. Đây là những
chi tiết thú vị của câu chuyện.
Dân gian Việt Nam gọi
cái thăng trầm, và thử thách của cuộc đời là: “Lên voi xuống chó”, “Lên bổng
xuống trầm”, “Lên ngàn xuống bể”, “Lên thác xuống ghềnh”. Những thành ngữ rất
gợi hình này nói lên một phần thực tại của cuộc sống lữ hành.
Thánh Kinh cũng thường
diễn tả việc Thiên Chúa hạ những kẻ cao sang và kiêu căng xuống. Tiên tri Isaia
đã viết: “Vì Đức Chúa, các đạo binh đã dành sẵn một ngày để trị tất cả những gì
kiêu căng ngạo nghễ, trị tất cả những gì tự cao tự đại: chúng sẽ bị hạ xuống”. Sách
1 Samuel nói: “Đức Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có, Người hạ xuống thấp,
Người cũng nhấc lên cao”. Thánh vịnh 75 nói rằng: “Chỉ Thiên Chúa mới là thẩm
phán, Chúa hạ bệ người này, cất nhắc kẻ kia”. Trong bài ca “Ngợi Khen”. “Kinh
Magnificat” xác định: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ
khiêm nhường”.
Thánh Phaolô đã trải
qua kinh nghiệm này, đang “hằm hằm những lời đe dọa và giết chóc…” thì “bỗng
nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống
đất và nghe có tiếng nói…”. Và chính Chúa Giêsu cũng đã bước qua những thăng
trầm này: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?”
3. Tin tưởng vào Chúa
Giêsu và tiếp tục cuộc sống:
Thiên Chúa đã đưa ba
tông đồ lên núi, làm họ ngã sấp mặt xuống đất, thì cũng chính Ngài, qua Đức Giêsu
Kitô lại nâng họ lên: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ”. Rồi cùng với họ đi xuống
núi. Trên đường đi xuống núi lòng họ hoang mang, đầy những câu hỏi, nghi vấn,
nhưng Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Các con không được nói với ai về việc đã
thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Bí mật của cuộc biến hình
này tạo nên sự tin tưởng cho các tông đồ khi phải đối diện với đau khổ và sự
chết của Chúa Giêsu trên thập giá và của chính các ông sau này.
39. Xin cho được biến
đổi nhờ Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm Antôn
Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật II
Mùa Chay, Phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một mầu nhiệm vĩ đại,
đó là biến cố biến hình của Chúa Giêsu.
Hôm nay, thánh sử
Matthêu nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan tới chỗ riêng biệt
trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông. Và đây Môisen cùng với Êlia
hiện ra đàm đạo với Người. Những câu hỏi được đặt ra: tại sao Chúa Giêsu biến
hình? Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan
được Ngài đưa lên núi? Tại sao Môise và Êli lại có mặt lúc Chúa Giêsu biến
hình?
Tại sao Chúa Giêsu
biến hình?
Chúng ta biết rằng,
sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người
ăn no lần thứ nhất (x.Mt 14, 13-21) và chừng bốn ngàn người lần thứ hai không
kể đàn bà con trẻ (x.Mt 15, 32-39). Các Tông đồ chưng hửng về tương lai tươi
sáng, dân chúng thì mãn nguyện về Đấng Thiên Sai. Khi thăm dò ý kiến chung
(x.Mt 16, 13-20), Chúa Giêsu loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất (x.Mt 16, 21-23):
“Ngài phải đi Yêrusalem và chịu nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng
tế cùng ký lục, và bị giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21). Như
thế, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ
đưa Ngài đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó
mới rạng ngời ánh sáng vinh quang. Nhưng các ông đâu có chấp nhận, khi nghe vậy
Phêrô liền can ngăn: “Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!” (Mt 16,23). Vì
thế, để củng cố niềm tin các Tông đồ, đồng thời giúp các ông sẵn sàng chấp nhận
và hiệp thông với cuộc khổ nạn của Ngài, nên Ngài đã biến hình sáu ngày sau đó
(x. Mt 17, 1-9). Nhưng vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên
núi cao (x.Mt 17, 4). Và như thế là Phêrô đã muốn biến cái tạm bợ trở thành
vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với thập giá và khổ đau.
Tại sao Chúa Giêsu lại
gọi Phêrô, Giacôbê và em ông là Gioan? Phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những
người khác?
Về vấn đề này, thánh
Gioan Kim Khẩu nói: Vì Phêrô đã từng tuyên xưng Chúa Giêsu là “Con Thiên Chúa
hằng sống” (Mt 16,16) và được Ngài trao cho chìa khóa Nước Trời “Ta sẽ trao cho
ngươi chìa khóa Nước Trời” (Mt 16, 19). Hơn nữa cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa
Giêsu nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!”
(Ga 21, 17)
Phần Gioan, vì Gioan
đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là (người môn đệ Chúa yêu) (Ga 21, 20).
Còn Giacôbê, ông đã cùng với em mình khi Chúa Giêsu hỏi: “Các ngươi có
thể uống chén Ta sắp uống không?” Họ nói với Ngài: “Thưa được” và ông đã giữ
lời, đã đi đến cùng của lời cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử
trảm ông.
Tại sao không phải là
một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?
Sứ vụ công khai của
Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về con người của Ngài. Có
người cho rằng Ngài là Đấng Kitô, là Môisen hoặc Êlia, Giêrêmia hay là một tiên
tri (x. Mt 16,14). Chúng ta biết rằng, người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa
Giêsu là người vi phạm Luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang Thiên
Chúa, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa chứ không thuộc về Chúa
Giêsu. Họ nói: “Con người ấy không bởi Thiên Chúa được, vì hắn không giữ Hưu
lễ!” (Ga 9, 16) Và chỗ khác họ nói: “Không phải vì một việc trọn hảo mà chúng tôi
ném đá ông; nhưng vì một lời phạm thượng! Ông là một người phàm mà dám cho mình
là Thiên Chúa” ( Ga 10, 33). Chúa Giêsu muốn cho mọi người biết, vì nghen tương
mà họ gán cho Ngài hai tội danh ấy. Nên khi biến hình đàm đạo với Môisen và
Êlia, Ngài muốn khẳng định rằng, Ngài còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là
người đã trao ban Lề Luật cho dân chúng, nên người Do Thái không thể nói rằng
vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm Lề Luật. Còn
Êlia xuất hiện với Chúa Giêsu, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng Ngài là Chúa
của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Ngài biến
hình cùng với Êlia là người đã không chết.
Tin Mừng cũng khai mở
cho chúng ta biết, Chúa Giêsu muốn cho các Tông đồ thấy vinh quang của thập
giá, củng cổ niềm tin của Phêrô và các môn đệ trước cuộc khổ nạn sắp đến, giúp
họ thêm can đảm. Vì Môisen, Êlia cùng với Chúa Giêsu, cả ba không im lặng,
nhưng: “đàm đạo với Người...” (Mt 17 9, 3), về khổ nạn và thập giá. Đó chính là
điều mà các tiên tri hay nói đến. Chúa Giêsu cũng muốn các Tông đồ mình noi
theo Môisen và Êlia về những nhân đức trổi vượt trong quá khứ, và Ngài cũng
muốn rằng: “Ai muốn theo Thầy, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
Một điều rất thú vị là
Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, phần Phêrô ông cũng đã
đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng,
xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống
lại, các Tông đồ sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần cũng đã làm cho kẻ chết được
sống lại. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với
mình.
Rút ra bài học
Đối với chúng ta ngày
hôm nay, biến cố Chúa biến hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi
chúng ta mở rộng đôi mắt tâm hồn chiêm ngắm Mầu Nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa
trong lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu
biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế,
nếu chúng ta muốn trong Mùa Chay này biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ
mình vác thập giá hàng ngày mà theo Chúa. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa trao
mới được theo Chúa là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, để được hưởng vinh quang
Phục sinh với Ngài.
Chúa biến hình vinh
quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, giúp chúng ta cũng biết biến đổi: từ
con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; từ con người ích kỷ
tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con
người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Lạy Chúa, xin thương
giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của Thập Giá Chúa và xin ban ơn để chúng con
biết sống Mầu Nhiệm Thập Giá Chúa trong cuộc đời chúng con, hầu mai ngày được
sống lại với Chúa trong vinh quang với. Amen.
40. Hãy vâng nghe lời ngài
(Suy niệm của Lm.
Giuse Đỗ Đức Trí)
Truyền thống giáo dục
trong mọi nền văn hóa đều nhấn mạnh đến sự vâng lời, trong gia đình con cái
phải vâng lời cha mẹ, học trò vâng lời thày cô, người dưới vâng lời bề trên. Có
người hỏi tại sao phải vâng lời cha mẹ và người trên? Thưa vì cha mẹ là người
sinh ra ta và là người yêu thương ta và nhiều kinh nghiệm hơn ta. Đặc biệt với
văn hóa Á đông việc vâng lời ông bà cha mẹ thày cô được nâng lên thành Đạo. Do
đó một người con ngoan, thảo hiếu là người con biết vâng lời và làm theo lời
dạy bảo của cha mẹ, bậc cha mẹ thì cảm thấy vui và hạnh phúc khi có những đứa
con biết ngoan ngoãn vâng lời, và hãnh diện khoe với mọi người về sự thảo hiếu
của con mình.
Cũng trong truyền
thống văn hóa Á đông này, hôm nay có thể nói, Thiên Chúa tự hào về Người Con
của mình là Đức Giêsu, Ngài đã “khoe” với mọi người: Đây là con ta rất yêu dấu,
đẹp lòng ta, các ngươi hãy nghe lời Người.
Thưa quý OBACE, bước
vào Chúa nhật thứ hai mùa chay, Lời Chúa mời gọi chúng ta học nơi Chúa Giêsu,
đó là vâng nghe lời Thiên Chúa và trở thành người con làm đẹp lòng Thiên Chúa,
có thái độ của một trẻ thơ, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa và vâng nghe lời
Đức Giêsu dạy. Nghe là thái độ của một người con đối với lời dạy bảo của cha
mẹ, của học trò đối với thày cô, nhưng nghe cũng có nhiều cấp độ, vì có khi tai
chúng ta cố tình đóng lại thì chúng ta không thể đón nhận được âm thanh, hoặc
có thể có nghe, nhưng không chú tâm, không hiểu, nên lời nói không đi vào được
trong tâm hồn. Hôm nay Chúa muốn chúng ta có một thái độ chú tâm hơn đó là lắng
nghe và tích cực hơn nữa, đó là biết vâng nghe lời Chúa. Lắng nghe là chú ý để
nghe, để hồn tĩnh lặng đón nhận, và vâng nghe, là nghe và đón nhận trong thái
độ khiêm tốn, tin tưởng và thực hành như một em bé vâng nghe theo lời chỉ bảo
của cha mẹ.
Vâng nghe lời Chúa,
đòi phải có một thái độ sẵn sàng, phó thác và từ bỏ ý riêng của mình, hoàn toàn
tin tưởng vào lời của Chúa, và không cần biết lý do tại sao, vâng nghe là thái
độ chấp nhận, thực hành, dù có nhiều điều mình chưa thể hiểu hết. Bài đọc một
đã cho chúng ta một tấm gương về sự vâng nghe Lời Chúa của ông Abraham. Khi đó
Abraham là một người giàu có, nhiều của cải đất đai và súc vật, thế mà Thiên
Chúa đã ngỏ lời với ông: Người hãy bỏ xứ sở, họ hàng nhà cha ngươi, mà đi tới
đất ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, và sẽ chúc phúc cho
ngươi. Với một lời mời gọi dường như mơ hồ như thế, vậy mà Abraham đã dám bỏ
lại tất cả để lên đường đi theo lời chỉ dạy của Chúa, ông chấp nhận bỏ lại đàng
sau ruộng đất, nhà cửa, cha mẹ, anh em, để đi đến một miền đất vô định chưa
biết ở đâu, tất cà còn ở thì tương lai, vậy mà ông cũng không hỏi Chúa
một câu nào, chỉ biết vâng theo để lên đường. Chính từ thái độ ngoan ngoãn vâng
lời như thế mà Thiên Chúa chúc phúc cho ông, trở nên bạn hữu với ông, và còn
bênh vực ông: Ta chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi, và nguyền rủa
những ai nhục mạ ngươi.
Trong Tin Mừng hôm
nay, trước khi bước vào cuộc tử nạn thập giá, để củng cố đức tin cho các tông đồ,
Chúa Giêsu cho các môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến
giây phút hiển dung, chứng kiến gương mặt thánh thiện sáng ngời của mình để
động viên tinh thần và củng cố lòng tin cho các ông. Các tông đồ hết sức ngỡ
ngàng, đang khi còn ngây ngất với vinh quang ấy, thì có tiếng Thiên Chúa Cha,
nói với các ông từ đám mây: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người,
các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài. Thiên Chúa Cha hài lòng về sự vâng phục của
Đức Giêsu, vì Ngài đã không chọn theo ý riêng mình, mà chọn sự vâng phục Thiên
Chúa để đón nhận con đường cứu độ bằng thập giá. Còn các tông đồ, mặc dù đã đi
theo Chúa nhiều năm, nhưng các ông vẫn chọn lựa theo kiểu thế gian, tìm kiếm
quyền lực theo kiểu trần gian, chưa sẵn sàng để chấp nhận một Đấng Mêsia phải
chịu đau khổ nhục nhã. Trong khi đó Chúa Giêsu cũng đã hoàn toàn để cho Thiên
Chúa Cha dẫn dắt và định liệu cho cuộc đời mình, dù có những lúc Chúa Giêsu
cũng bị cám dỗ để tìm một con đường riêng cho mình, như chúa nhật tuần trước
chúng ta đã suy niệm, nhưng cuối cùng Ngài đã dùng Lời của Chúa, lời Kinh Thánh
để chống trả lại cám dỗ đó, và sẵn sàng bước theo con đường của Chúa Cha đã
định.
Các tông đồ khi chứng
kiến vinh quang của Chúa, thì các tông đồ đã hạnh phúc ngây ngất, và muốn kéo
dài tình trạng hạnh phúc này và quên đi thực tế trước mắt, nên các ông đã xin
dựng ba lều để được ở lại trên núi, trốn tránh những thực tại của cuộc sống:
Nếu Thày muốn, chúng con xin dựng ba lều. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho các tông
đồ, qua biến cố này được thêm lòng tin để đón nhận cuộc khổ hình sắp tới mà
chúa sẽ bước vào. Cuộc khổ hình này chắc chắn rất kinh khủng và vượt quá khả
năng tưởng tượng của các ông, và vì thế các ông cần phải có một thái độ sẵn
sàng, vâng phục. Chính vì thế có tiếng Chúa Cha từ trời nói với các ông: Hãy
vâng nghe lời Người. Qua lời này, Chúa Cha một lần nữa muốn các tông đồ tin và
đón nhận lời của Đức Giêsu như một vị Thiên Chúa và là Đấng Mesia cứu thế, như
con cái nghe lời cha mẹ, nhưng học trò vâng lời thày.
Từ trên núi xuống, Đức
Giêsu bắt đầu nói với các ông về việc Con Người sẽ bị khổ hình và sẽ từ cõi
chết sống lại. Chắc chắn lúc đó các tông đồ chưa hiểu hết những điều Chúa nói
trước về cuộc khổ nạn, phần vì các ông không muốn nghe, phần vì dù có nghe,
nhưng không muốn chấp nhận, để đón nhận và vâng nghe lời Đức Giêsu, để loan báo
về Đức Giêsu và cuộc khổ nạn của Người, thì cần phải dựa vào sức mạnh của Thiên
Chúa. Cũng giống như ngày xưa Chúa đã gọi Apraham và làm cho ông trở thành cha
của một dân tộc đông đúc, giống như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng nghe theo lời
của Thiên Chúa để cứu độ nhân loại bằng con đường thập giá, thì chúng ta cũng
được kêu gọi để trở thành dân thánh của Thiên Chúa, trở nên những người thuộc
về Đức Kitô, làm theo gương của Đức Giêsu và lời dạy của Ngài.
Thưa quý OBACE, Vâng
nghe lời Chúa luôn là một thách thức cho chúng ta, vì nhiều khi Lời Chúa không
như ý chúng ta muốn, có khi còn ngược lại với ý của chúng ta, có khi Lời Chúa
đụng chạm đến những góc tối, những vết thương trong tâm hồn, khiến chúng ta sợ không
dám để cho Lời Chúa đụng vào. Lời Đức Giêsu luôn đòi chúng ta từ bỏ và hy sinh,
trong khi cuộc sống và xã hội lại khuyến khích chúng ta chạy theo sự thỏa mãn
dễ dãi, chạy theo tiền bạc và danh vọng. Trong khi xã hội cổ võ lối sống tự do
hưởng thụ, thì Chúa lại đòi chúng ta vác thập giá mình hằng ngày, vì thế mà
chúng ta luôn bị giằng co, và đòi chúng ta phải quyết định chọn lựa.
Trong bổn phận làm vợ
làm chồng, làm cha mẹ, sinh sản và giáo dục con cái, hãy vâng nghe Lời Chúa và
các giáo huấn của Giáo Hội, phó thác tương lai của mình và gia đình cho Chúa để
Chúa dẫn dắt, hãy vâng nghe Lời Chúa để làm chuẩn mực cho đời sống và cho công
việc của mình, đừng để sự gian dối, tham lam điều khiển cuộc sống của mình,
đừng để cho sự lười biếng bê tha rượu chè, cờ bạc làm trì trệ cuộc sống của gia
đình, gây ra bất hòa bất hạnh cho nhau.
Cuộc sống sung túc,
tiện nghi ngày hôm nay cũng đang là một cản trở khiến nhiều bạn trẻ khó có thể
nghe được Lời Chúa, những âm thanh và cuộc sống ồn ào náo nhiệt khiến cho nhiều
người không còn một khoảng lặng nào trong ngày để nhìn lại cuộc sống mình,
những hấp dẫn và mời chào của xã hội khiến cho nhiều người từ chối Lời của
Chúa, không chấp nhận thập giá và không dám vâng theo,… tất cả những điều đó
đang là thách thức cho các bạn trẻ Công giáo trong đời sống đức tin.
Đức Maria đã nêu gương
cho chúng ta trong việc vâng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, xin Mẹ cũng
giúp mỗi chúng ta biết noi gương Mẹ, tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, sống
xứng đáng là những người con ngoan, thảo hiếu, vâng lời Thiên Chúa. Amen.
Anh chị em thân mến,
Ở ngay giữa mùa buồn
(Mùa Chay), Hội thánh lại cho chúng ta nghe một câu chuyện vui mang lại niềm hi
vọng cho người Kitô hữu: Câu chuyện Chúa biến hình trên núi Tabor. Vậy đâu là ý
nghĩa của nó? Cuộc biến hình này xảy ra khoảng tháng 8 năm 29, trên ngọn núi
Tabor (theo truyền thống kể lại; giữa Nadareth và mạn Nam hồ Tibêriađê, miến
Bắc Galilêa...). Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Một vài điểm chúng
ta cần lưu ý.
Đây là một phép lạ
hiếm hoi trong nhiều phép lạ Chúa Giêsu làm; mục đích sau khi công bố cuộc khổ
nạn Người sắp phải chịu, và thấy phản ứng thảm nảo của các môn đệ, Chúa Giêsu
tỏ vinh quang Người qua phép lạ biến hình, để củng cố lòng tin cho các ông, để
họ an tâm theo Chúa và vâng nghe lời Chúa dạy.
Điểm khác: khi Chúa
biến hình, xuất hiện Môisen và Êlia, hai nhận vật trong Cựu Ước. Môisen, sống
cách Chúa Giêsu đến 1250 năm. Êlia, lối 900 năm. Một người đại diện cho Luật
pháp, một người đại diện cho tiên tri, như là sứ giả của Thiên Chúa. Viêc này
xác nhận vai trò của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế đã được loan báo trong Cựu Ứớc,
muôn dân đang trông đợi. Trong khi biến hình, câu chuyện của ba vị nói với
nhau, cũng là nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sắp tới...
Khi các vị còn đang
nói, thì có một đám mây bao phủ, và từ trong đám mây có tiếng phán, đây là Con
Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người. Đám mây nói lên sự hiện
diện của Thiên Chúa, như khi Môisen dẫn dân Do thái qua sa mạc. Tiếng nói của
Chúa Cha, là để xác nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, luôn vâng phục và luôn đi
theo chương trình cứu rổi nhân loại của Chúa Cha đề ra...
b/. Tại sao Chúa Giêsu
để mình biến dạng, tỏ vinh quang Thiên tính mình ra cho
môn đệ được thấy, một điều mà bao lâu nay Chúa Giêsu hằng giấu kín? Đây còn là
mầu nhiệm; tuy nhiên, có điều chúng ta vẫn có thể hiểu được phần nào. Chúa
Giêsu vì sứ mạng được Chúa Cha giao phó, đã che giấu tất cả uy quyền vinh hiển
của một Thiên Chúa, trong thân phận của một con người bình thường. Như bao
nhiêu người khác, Người vẫn gặp thử thách, cám dỗ, khó khăn. Người cũng vẫn lo
buồn, sợ hãi trước ám ảnh của cái chết khủng khiếp mà Người phải chịu. Dù vậy,
Chúa vẫn luôn vui lòng đón nhận và làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Chúa biết việc
mình làm; Chúa quyết tâm hoàn tất chương trình cứu rổi đã được vạch ra...Lúc
này đây, để củng cố niềm tin cho các môn đệ, Người tỏ một chút vinh quang Thiên
Chúa cho họ thấy, để họ an tâm, xác tín vào chương trình tốt đẹp của Thiên Chúa
và sẵn sàng tiến bước theo Người.
Thiên Chúa muốn chúng
ta biến hình như Chúa Giêsu: rõ ràng chúng ta được sinh ra và được cứu chuộc
không phải để hư mất đời đời, mà là để được biến hình vinh quang trong địa vị
là con cái Thiên Chúa. Dĩ nhiên ở trần gian, người ta không thấy không hiểu được
linh hồn sạch tội, đẹp đẽ thế nào, và chắc chắn nó phải đẹp đẽ, vì nó là hình
ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa tinh ròng, sáng láng, tuyệt mỹ, vô tỳ tích.
Các thánh nói: nếu Chúa cho người ta thấy được một linh hồn tinh sạch hoàn
toàn, đẹp đẽ và sáng láng thế nào, người ta sẽ không dám phạm tội, và cũng
không còn ao ước ở trần gian nữa...Vì thế, biến cố Chúa biến hình chính là để
loan báo cho chúng ta cuộc biến hình mai sau sáng láng trên nước trời.
c/. Gợi ý sống và chia
sẻ: Chúa Giêsu vì để cứu chuộc nhân loại, đã đành nhận thân phận một
con người y như ta để gánh lấy tội ta, và thay ta đền tội trước mặt Chúa Cha.
Dù vậy Người chính là Chúa Con, quyền năng ngang hàng như Chúa Cha. Chúng ta có
tin Người là Thiên Chúa không? Câu chuyện biến hình này xác nhận điều đó.
Năm mới nào cũng vậy,
cứ vào thời gian ngay sau tết âm lịch, núi Bà Đen, Tây Ninh, nhộn nhịp hẳn lên
vì khách hành hương từ các tỉnh tuôn đến xin xâm, bói quẻ ở chùa Bà, chùa Hang.
Hai ngôi chùa ở lưng chừng núi, cách nhau hơn vài trăm mét. Nhưng tới được
chúng quả là một hành trình vất vả, phải mất đến cả tiếng đồng hồ, leo các bậc
thang bằng những viên đá đủ kích cở. Vậy mà hàng ngày có đến hàng ngàn hàng vạn
khách đi xe đến viếng thăm. Những thanh niên khỏe mạnh có thể leo tới đỉnh núi,
cao chừng hơn ba trăm mét. Nhưng tới được đỉnh thì quả là một phần thưởng:
Không khí trong lành, mát mẻ, quang cảnh chung quanh bao la bát ngát, tầm mắt
có thể phóng tới chân trời. Bên dưới là một bức tranh toàn cảnh đầy màu sắc:
ruộng vườn, làng mạc, sông lạch, rừng rậm, cây cối xanh tươi, trâu bò làm đồng,
người cầy cấy coi như con kiến. Quả là một bồng lai tiên cảnh. Thiết nghĩ đây
là điểm du lịch hấp dẩn ngoài việc tín ngưởng, tâm linh.
Xin nhập đề như vậy để
quí vị có thể tưởng tượng được nội dung biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor
hôm nay, Phúc âm không định vị rỏ ở đâu. Thánh Matthêu chỉ viết: "Sáu ngày
sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo
mình. Người đưa các ông ra riêng một chổ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến
đổi hình dạng trước mặt các ông". Theo Luca thì việc này xẩy ra khi Chúa
còn đang rao giảng ở Galilêa (Lc 9,28). Mathêu cũng đồng ý với Luca:" Từ
lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ: Người phải đi Giêrusalem, phải
chịu đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết
chết"(Mt 16,21). Truyền thuyết cho rằng ngọn núi đó là núi Tabor, ở giửa
cánh đồng, gần Nazareth, cao chừng 750 mét, đúng như vị trí của núi Bà Đen,
nhưng cao gấp đôi, vì Bà Đen chỉ hơn 300 mét cũng ở giửa đồng bằng chung quanh
là làng mạc, sông ngò và rừng rậm. Ngày nay Tabor có đường xe hơi lên tận đỉnh
núi. Thời Chúa Giêsu làm chi đã có, nên phải leo bộ, chúng ta cùng leo núi với
Chúa.
Chiều cao này có ý
nghĩa biểu tượng và khi lên được tới đỉnh, người ta cũng ở trong tiên cảnh bồng
lai. Thánh Phêrô sau này hồi nhớ lại nên bảo Marcô viết: "Thưa Thầy chúng
con ở đây thật là hay", nghĩa là các ông cũng giống chúng ta ở đỉnh núi Bà
Đen, nhưng theo nghĩa thiêng liêng, tức là các ông đang ở trong toàn cảnh thánh
thiện trước mặt Đấng là sự thánh thiện tuyệt đỉnh. Ai có thể không có ý nghĩ
như vậy?
Nhưng leo lên được
đỉnh núi với Chúa không phải là chuyện dể dàng. Các ông phải lao động vất vả cả
về nghĩa vật chất lẩn tinh thần. Những ai muốn thử kinh nghiệm xin đi Tây Ninh
và leo lên đỉnh Bà Đen. Bảo đảm nhiều người sẽ chào thua mà trở về chân núi.
Leo núi thánh thiện với Chúa cũng vậy, nếu không có ơn Chúa trợ giúp, chứ không
phải như thiên hạ tưởng tượng.
Chắc chắn chúng ta
phải leo cực nhọc, bước những bước khốn khổ trượt ngả trên đường đi đầy sỏi đá
lởm chởm mới tới được ngọn núi thánh thiện. Rồi phải liên lỉ cầu xin ơn trợ
giúp như Luca kể: "Đang lúc Người cầu nguyện, thì dung mạo bổng đổi
khác"(ibi). Cho nên người ta phải vất vả leo núi Tabor thiêng liêng cùng
với Chúa và ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, Gioan.
Vậy thánh thiện là gì,
làm thế nào tới được bậc đó? Hôm qua thứ bẩy, Chúa nói:" Anh em hảy nên
hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện"(Mt 5,48). Như thế
Đức Giêsu định nghĩa thánh thiện là chính Đức Chúa Trời. Chúng ta phải rập theo
khuôn mẩu đó mà sống. Cụ thể lối sống của Đức Giêsu khi còn ở trần gian. Chiều
chuộng xác thịt, ăn cắp ăn trộm, lừa đảo, giả hình chắc chắn không phải là cuộc
sống mà Đức Kito muốn. Chúng ta thường lấy mình ra làm "thước đo" mọi
sự.
Thiên Chúa đã chỉ định
cho ông Môsê ban lề luật cho tuyển dân mù quáng để họ biết đường hoàn thiện và
thờ phụng Thiên Chúa cho phải đạo. Vì chính Thiên Chúa mới là "thước
đo" và mẩu mực cho nhân loại. Bây giờ Môsê cũng ở trên đỉnh núi với Đức
Giêsu trong cương vị ban lề luật để trao quyền lại cho Chúa mà ông đã hằng tiên
tri từ lâu trước. Lúc này Đức Giêsu vừa là người trao ban lề luật vừa là luật
pháp cho nhân loại. Chúng ta vâng phục lời Ngài ra sao? Thật là khó, vì Ngài là
Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, làm sao loài người theo cho nổi?
Vì vậy Ngài phải
"thích nghi" với điều kiện nhân loại trong biến cố nhập thể và Đức
Chúa Cha đã phán: "Này là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng. Các ngươi
hảy vâng nghe lời Ngài". Như thế Đức Giêsu là lời giải thích, là lề luật
cho mọi hành động của con người. Nhân loại phải suy tư về Ngài, học hỏi và bắt
chước Ngài để nên trọn lành đích thực, chứ không giả hình lừa dối. Chính Ngài
tự xưng là đường là sự thật, sự sống để chúng ta đi về với Thiên Chúa.
Việc thay hình đổi
dạng khởi sự khi mổi linh hồn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Lúc ấy chúng ta chết
đi cho xác thịt để sống với Đức Kitô. Đời sống này không phải là tương lai,
nhưng là hiện tại ngay lúc lãnh nhận thanh tẩy và là những nội dung chúng ta
phải sống hàng ngày. Những ai suy nghĩ đời sống thánh thiện thuộc tương lai,
thì hoàn toàn sai lầm và sai lầm thì phải trả giá. Chúa Giêsu không hề tuyên bố
đời sống trọn lành thuộc về tương lai mà thôi. Ngài nhiều lần nhấn mạnh nó là
cuộc sống hiện tại:" Xưa ta đói các ngươi không cho ăn, ta tù đày các
ngươi đâu có viếng thăm ta?". Cho nên vật lộn để sống đẹp lòng Thiên Chúa
như Đức Kitô dạy là cấp thiết. Sự thực thánh thiện và cuộc sống vĩnh cửu đã ở
nơi chúng ta ngay trong Bí tích Thánh Tẩy. Chúng ta phải phát triển nó từ tấm
bé cho đến tuổi già. Giả dụ Thiên Chúa muốn chúng ta phải sáng tỏ sự thánh
thiện của mình như Chúa Giêsu hôm nay trên núi Tabor, thì chúng ta cư xử ra sao
và tiếng từ trời cũng phán: ông A, chị B, em C là những con Ta yêu dấu, đẹp
lòng Ta mọi đàng, liệu mấy ai khoe mình được như vậy? Hay chỉ bằng môi miệng,
lừa dối thiên hạ.
Nói như vậy không phải
là ngoa, nếu nghĩ đến mỗi lần rước lễ xong. Bí tich Thánh Thể là chính sự hoàn
thiện đang ngự trong mỗi linh hồn tín hữu, linh mục, tu, sĩ. Nó phải được chiếu
sáng ra nếu các dục vọng của mỗi người không ngăn cản, phủ lấp đi. Mỗi khi
chúng ta tham dự thánh lễ, làm việc bác ái, lãnh nhận các bí tích là tăng cường
vẻ sáng ngời thánh thiện của tín hữu cho thiên hạ chiêm ngưỡng như một biến cố
biến hình vậy. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi bằng suy nghĩ, lời nói, việc
làm là lớn lên trong cuộc sống thiêng liêng. Mỗi khi cố gắng chu toàn bổn phận
là leo núi Tabor.
Và con đường là thánh
giá. Môsê và Êlia hiện diện trên núi thánh bàn bạc với Đức Kitô về cuộc khổ nạn
của Ngài? Làm sao chúng ta tránh khỏi? Liệu chúng ta được phép xưng mình là môn
đệ Chúa mà không phải vác lấy thập tự hàng ngày? Thánh Phaolô khuyên
Timôteô:"Hãy chịu đựng gian khổ mà Phúc âm đòi hỏi". Qúi vị nghĩ sao?
Tận hưởng cuộc đời dễ dãi đầy tiện nghi và vẫn coi mình là môn đệ Chúa rồi hùng
hồn rao giảng thập giá Đức Kitô! Trớ trêu quá.
Thôi, xin bỏ ngọn núi
vật chất để nói đến quả núi thánh thiện mà Đức Kitô đã leo trong suốt cuộc sống
của Ngài. Quả núi ấy là gì? Chẳng phải là xe hơi nhà lầu, kẻ sai người bảo mà
là yêu thương phục vụ theo ý Đức Chúa Cha cho đến chết, và chết trên thập tự,
chứ không êm ái trên giường bệnh hay nhà thương sang trọng, đắt tiền. Chết nhục
nhã, chịu lăng nhục chửi bới chứ không điếu văn, diễn từ ca tụng. Đó là con
đường người môn đệ Chúa phải nương theo trong cuộc sống để chu toàn theo thánh
ý Thiên Chúa. Cụ tổ Abraham của bài đọc 1, đã 75 tuổi lìa bỏ tất cả, quê hương,
tài sản di theo tiếng gọi vô hình của Đức Chúa Trời, lang thang thiếu thốn nơi
đất khách quê người, không quản ngại điều chi trước tôn nhan Đức Chúa mà ông
hết lòng kính sợ. Chúa Kitô phải chịu đựng nhiều hơn khi chu toàn mệnh lệnh của
Đức Chúa Cha. Ngài ở giữa một đám đông thù nghịch, phản đối, chê cười, hận thù
và giết chết. Hai mẫu gương cho nhân loại noi theo mà nên thánh thiện, chứ
không phải chăn ấm nệm yên, ngày ngày yến tiệc linh đình. Đây là mẫu mực để
chúng ta tuân giữ mùa chay và con đường hoàn thiện. Đức Giêsu cầu nguyện, ăn
chay, chống trả cám dỗ, sống trong cô tịch, phục vụ người nghèo khó bệnh tật,
yêu thương, đau khổ và chết, là khuôn mẫu mùa chay của các tín hữu, xin đừng
cắt nghĩa kiểu khác để trốn tránh con đường thiêng liêng. Đó là bí quyết duy
nhất để leo núi Tabor của chúa. Đường lên núi thánh không đi được bằng xe hơi,
ngủ trong quán trọ nhà lầu, ăn cao lương mỹ vị như thiên hạ ngày nay biện minh.
Con đường của họ chỉ có thể đưa xuống hố sâu của những người mù, như Đức Kitô
đã cảnh cáo.
Cho nên khuôn mẫu để
sống đẹp lòng Đức Chúa Cha không bao giờ thay đổi, từ ông Abraham, các tổ phụ,
các tiên tri cho đến Chúa Giêsu. Bao lâu còn có tội lỗi trên thế gian, thì bấy
lâu kẻ theo con đường thánh thiện của Thiên Chúa còn phải gánh chịu khổ nạn, tử
đạo, chối bỏ từ tay thế gian ngay cả từ tay bạn hữu, người thân như Chúa Giêsu
đã phải gánh chịu.
Đức Giêsu tóm gọn các
giới răn, bát phúc, và các tiêu chuẩn thánh thiện vào cuộc sống yêu thương và
phục vụ. Liệu chúng ta được phép đi con đường khác mà vẫn nên thánh? Quả là
hoang tưởng khi người ta từ bỏ ăn chay, hảm mình, làm phúc bố thí, bác ái, đau
khổ và cái chết nhục nhả để giữ các hình thức khác trong mùa hồng phúc!
Đến đây chúng ta đụng
đến vấn đề cốt lõi: Bí quyết để nên trọn lành. Các vĩ nhân đều có bí quyết để
thành công. Thí dụ: Thương gia, buôn bán phát tài. Không có luật trừ cho việc
nên thánh. Những thiên tài này đều có một cảm tính đặc biệt để thành công, nằm
sâu trong trái tim họ. Riêng trong lãnh vực tôn giáo chúng ta gọi các chuyên
viên này là các thánh và họ đả kín múc cảm tính của mình trong Thiên Chúa nhập
thể. Vậy muốn nên trọn lành như họ, chúng ta phải noi gương họ: Học hỏi, yêu
mến Chúa Giêsu. Con đường ngắn nhất để được gọi là con yêu dấu của Thiên Chúa
Cha đẹp lòng Ngài mọi đàng. Ước chi mùa chay này mọi tín hữu tìm được bí quyết
và con đường ấy. Amen.
43. “Dung nhan Đức Giêsu
chói lọi như mặt trời”
(Suy niệm của Lm.
Giuse Võ Tuấn)
Kính thưa Quý ông bà
và anh chị em,
Giáo hội cho chúng ta
nghe bài Tin Mừng quen thuộc tả lại cảnh Chúa Giêsu biến hình trong quảng thời
gian của Mùa Chay, vừa như muốn chúng ta thấy vẻ vinh quang của Chúa Giêsu, vừa
muốn nhắc bảo chúng ta: cũng chính Chúa Giêsu ấy đã chịu cám dỗ và đã thắng. Đó
cũng chính là con đường mà người tín hữu Kitô sẽ đi qua, nghĩa là chúng ta cũng
phải trải qua những đau khổ, những hy sinh, để rồi trong Đức Kitô chúng ta sẽ
đạt được chiến thắng huy hoàng.
Ngoài điểm liên hệ
giữa bài Tin Mừng và Mùa Chay nói trên, chúng ta còn thấy được nhiều điểm mà
thánh Matthêô đã lồng vào trong Cựu ước để minh chứng Chúa Giêsu là Đấng đến để
giảng dạy như lời các tiên tri đã loan báo, và đặc biệt là ông Môsê đã nói
trước khi lìa đời: “ Từ giữa các anh em ngươi, Thiên Chúa của ngươi sẽ cho chỗi
dậy một tiên tri như Ta, các ngươi sẽ nghe Ngài “ ( Đnl. 18, 15).
Thật vậy, để xua tan
mây mù đen tối về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu đã báo cho các tông đồ ở Xêrasê
Philipphê ( Mt. 16, 21 – 28 ) ; thì Chúa Giêsu hôm nay đã cho các đồ đệ thân
tín được thấy vẻ vinh quang của Ngài, và nhất là được nghe lời trấn an từ trời
cao cùng với sự minh chứng của Cựu ước, hầu an tâm bước theo Chúa và vâng nghe
lời Ngài dạy, cũng như đứng ra kế thừa sự nghiệp Ngài để lại sau nầy.
Theo trình thuật,
chúng ta thấy chỉ có “các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan được Chúa Giêsu gọi riêng
đi theo Ngài lên núi Tabor, là chứng nhân mục kích cuộc biến hình của Chúa hôm
nay”. Thật sự, có một sự liên hệ giữa biến cố trên núi Tabor và biến cố
xảy ra ở núi Cây Dầu. Trên núi Tabor, Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy Chúa Giêsu
biến hình khi thần tính Ngài biểu lộ một cách đặc biệt ; Thì trên núi Cây Dầu,
cũng chính ba môn đệ đó đã chứng kiến Chúa Giêsu hấp hối, trong đó nhân tính
Ngài được tỏ lộ một cách đặc biệt. Vậy hai biến cố nầy đã bổ túc cho nhau để
cho chúng ta thấy Chúa Giêsu toàn diện: là Thiên Chúa thật và là con
người thật.
Và cũng giống như ông
Môsê trên núi Sinai hôm xưa, sau khi đã có cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa của giao
ước: “Dung mạo Chúa Giêsu bỗng rực rỡ như mặt trời, và y phục Ngài trắng tinh
như ánh sáng”. Thật ra, trong trường hợp của Môsê thì đó chỉ là sự phản
chiếu trong chốc lát ánh hào quang của Thiên Chúa; còn đối với Chúa Giêsu
thì lại là sự lan tỏa của chính hữu thể của Ngài, là sự chiếu giãi của vinh
quang Ngài.
Chúng ta thấy cả ba
Phúc Âm Nhất lãm đã ghi nhận có hai nhân vật cùng hiện ra đàm đạo với Chúa
Giêsu, dây là hai con người đầy uy lực và là hiện thân cho cả Cựu ước. Môsê là
biểu tượng của lề luật, Elia là đại diện cho hàng ngũ tiên tri. Người ta tin
rằng: ông nầy sẽ trở lại vào thời sau hết, để đi trước dọn đường cho Đấng
Messia ngự đến. Hai nhân chứng hiện ra rồi chợt biến mất muốn ám chỉ rằng: giao
ước cũ nay đang được hoàn thành nơi Đức Giêsu Kitô.
Thánh Matthêô còn nhắc
đến đám mây sáng ngời bao phủ ba môn đệ, thì trong Cựu ước đó chính là
dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người qua sa mạc (Xh. 13, 21).
Như vậy từ nay, Chúa Giêsu sẽ là sự hiện diện đích thực ấy của Thiên Chúa giữa
loài người. Cũng từ đám mây ấy vang lên một tiếng phán, chúng ta thấy ở đây lặp
lại từng chữ trong tiếng phán với một mình Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa
tại sông Giođan: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người “, nhưng còn
thêm: “Hãy vâng nghe lời Người “, điều nầy nhắc cho chúng ta thấy 3 điểm:
Chúa Giêsu là Con
Thiên Chúa.
Chúa Cha hài lòng về
Chúa Con và rất yêu mến Người.
Những ai tin Thiên
Chúa thì phải nghe lời Chúa Giêsu.
Kính thưa Quý ông bà
và anh chị em,
Cuộc biến hình của
Chúa hôm nay dạy chúng ta nhiều bài học:
Thứ nhất, chúng ta
đừng thích mơ tưởng đến những mặc khải lạ lùng của Thiên Chúa vì Người chỉ dành
cho những ai Người muốn. Giống như ở Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ đem theo
ba môn đệ và dặn họ không được tiết lộ với ai về thị kiến cho đến khi Người
sống lại. Vậy mà đến giờ phút khổ nạn, các ông vẫn là những môn đệ bỏ Thầy,
thậm chí chối Thầy như thường!
Thứ hai, chúng ta thấy
con đường bình thường người môn đệ Chúa phải đi, đó là con đường luôn ngang qua
bóng tối đức tin của đời thường, chứ không như Phêrô cảm thấy quá sung sướng
được ở trên núi và ông đề nghị dựng ngay ba lều để định cư luôn ở đây.
Còn chúng ta, chúng ta
cũng thường thích ở lại nơi đâu mà mọi sự xảy ra có vẻ như ý, nơi đâu mà đức
tin cũng như đời sống đạo của mình xem ra an toàn và chúng ta cảm thấy Thiên
Chúa rất gần, để rồi chúng ta nghĩ rằng, chính khi đó chúng ta mới thực sự là
Kitô hữu. Thật ra, Thiên Chúa không kém gần gũi chúng ta trong giờ phút khô
khan của sa mạc, hơn là trong những lúc dịu êm dưới bóng mát của ốc đảo xanh
tươi.
Lạy Chúa Giêsu vinh
quang, chúng con xin được hiệp cùng ba tông đồ quý yêu của Chúa, chiêm ngắm
Chúa trong ánh sáng thiên đàng để được ghi dấu ấn thật sâu trong Thiên Chúa
Cha; đó là “ hãy vâng nghe lời Chúa “ hầu có động lực thực hiện lời Chúa trong
mọi cảnh huống của cuộc đời. Cũng như ba vị đã chìm sâu trong cơn khổ sầu nơi
vườn Cây Dầu sau đó, thì cuộc đời của chúng con và nhiều anh em chung quanh
chúng con hầu như luôn ngụp lặn trong biển hồ rầu rĩ và oán ghét nhau.
Chúng con ước mơ ánh
sáng sẽ đánh tan bóng tối, và mong chờ Lời Chúa được người người thực hiện để
niềm vui lan tỏa và hạnh phúc tràn về. Chúng con tin ở Lời Chúa, chúng con nghe
Lời Chúa, chúng con sẽ cố gắng thực hành Lời Chúa hầu xứng đáng là con cái
Chúa. Xin Chúa chúc lành chúng con. Amen.
44. Chú giải của
Noel Quession
Mỗi năm, ngay sau
chuyện kể về cơn cám dỗ của Đức Giêsu, Chúa nhật thứ hai mùa Chay cho chúng ta
suy niệm về câu truyện Đức Giêsu biến hình.
Chúa nhật trước, chúng
ta đã ngắm xem Ngài khước từ, không lợi dụng thiên tính của mình, Người khiêm
tốn và dè dặt, và khi Người đói, Người bị cám dỗ như một người thường. Hôm nay,
chúng ta nhìn ngắm sự vinh quang ẩn dấu của Người, thiên tính của Người.
Ba sách Tin Mừng nhất
lãm phù hợp nhau khi đặt đoạn này vào khúc quanh tác vụ của Đức Giêsu. Ban đầu
nhiều đám đông đã theo Đức Giêsu nhưng lại hoàn toàn lầm lẫn về Người. Việc
nhân bánh hóa nhiều. Với nỗ lực của họ muốn biến Người làm vua, đã đưa sự hiểu
lầm ra ánh sáng. Thực sự Đức Giêsu đã thất bại! Người đã không thành công khi
muốn đưa được đám đông đến đức tin chân thật, đồng thời tất cả “tầng lớp trí
thức” tôn giáo thời Người lại khước từ Người nhân danh chính giáo lý tốt đẹp
truyền thống: các kinh sư và tư tế không ngừng gương cao bẫy chơi Người và cáo
giác Người là phá hủy tôn giáo (Mt 12,2; 12,14; 12,24; 12,38; 15,2; 16,1;
16,6). Nhận thấy sự thất bại về chương trình giảng dạy giáo lý của mình. Đức
Giêsu từ nay tập trung vào việc đào tạo các môn đệ của Người với nhóm Mười Hai
nhỏ bé, như Người loan báo thử thách lớn lao sẽ xảy đến. Người đã xa lánh miền
Palestine.
Ở đó tình hình từ nay
đã trở nên nguy hiểm, Người chạy sang tị nạn ở bên Li-băng, về phía miền Xêdarê
Philip. Ở đó cách biệt khỏi đám đông và các kinh sư, Người đã thúc đẩy Phêrô
tuyên xưng đức tin; rồi lập tức Người nói: Tôi phải sang Giêrusalem, chịu nhiều
đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tê và các kinh sư, bị xử tử, và ngày
thứ ba sống lại (Mt 16,21). Phêrô, cũng lại ông, muốn cám dỗ Đức Giêsu khước từ
cái viễn ảnh chết chóc kia. Khi đó Đức Giêsu la mắng ông và hứa rằng vinh quang
sẽ đến, thực sự, nhưng sau khi chịu khổ hình thập giá: “Bởi vì Con Người sẽ đến
với thiên thần của Người trong vinh quang của Con Người...” (Mt 16,27-28).
Chính trong bối cảnh thê thảm này mà cảnh tượng chúng ta sắp đọc, xảy đến.
Sáu ngày sau. Đức
Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người
đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.
Tôi thích tưởng tượng
ra cái cảnh tượng này một cách cụ thể: một lối quanh co trên một con đường núi.
Cả bốn người, họ đều đi chậm rãi. Không gian cứ lớn dần. Không khí trở nên tươi
tắn và mát mẻ. Đồng bằng xa xa dưới thấp kia, các đám dông còn xa. Ôi, chốn cô
liêu hạnh phúc biết bao trên các đỉnh cao! Người ta chỉ gặp được Thiên Chúa
trong chốn thing lặng. Phải chăng tôi đã dành ra những thời gian để sống cô
liêu, trong mùa Chay này?
Nhưng chúng ta cũng
biết rằng núi là một chủ đề Matthêu ưu thích. Núi cám dỗ (Mt 4,8), Núi hạnh
phúc và Luật mới (Mt 5,1), Núi bánh được chia sẻ (Mt 15,29), Núi Biệt ly của
Đấng Phục sinh (Mt 18,16). Ở đây việc Thiên Chúa hiển linh ở núi Siani được tái
hiện trên Núi biến hình; nhưng đó không phải là núi Sinai ở Giêrusalem, nơi đón
nhận vinh quang của Thiên Chúa mà các ngôn sứ đã loan báo (Is 2,2; Tv 2,6);
chính một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê của nhiều dân nước sẽ là chứng nhân của vinh
quang của anh thợ mộc hèn mọn ở Nagiarét, xa những vẻ tráng lệ của Đền Thờ.
Thiên Chúa chỉ tự cho thấy mình ẩn giấu. Thiên Chúa khước từ các danh vọng, các
nghi thức, các trình diễn sân khấu: Đền Thờ do bàn tay con người làm sẽ bị phá
hủy (Mt 24,1-3; 26,61). Còn tôi, tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đâu?
Rồi Người biến đổi
hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục
Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.
Matthêu, hơn hai tác
giả Tin Mừng kia, nói về ánh sáng. Cũng như thế, Mô sê, tại Sinai, đã tiếp nhận
tia sáng phản chiếu của vinh quang Thiên Chúa, và da mặt người tỏa sáng (Xh
34,29-35). Cũng như thế, Con Người (Đn 7,9) được mô tả bằng những hình ảnh có
tính khải huyền: tia sáng, màu trắng. ánh sáng, lửa… Động từ Hy Lạp được
Matthêu sử dụng ở đây, “metamorphoun” có nghĩa chữ là “biến dạng”; đó là một sự
biến hình sâu xa hơn là chỉ biến hình cái mặt mà thôi. Đức Giêsu hiện ra với
một hình thái khác. Và người ta nhớ đến đoạn văn nổi tiếng mà Phaolô tả cho
chúng ta một tác động trái ngược: “Ngài khi ấy ở trong hình dạng Thiên Chúa,...
đã lấy hình dạng con người đầy tớ... (Pl 2,6-7). Nhưng làm thế nào nói được
những thực tại không thể nói được này? Thế thì càng phải dùng thật nhiều hình
ảnh về ánh sáng. Tôi dành thời gian để chiêm ngắm.
Và bỗng các ông thấy
ông Môsê vâ ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.
Từ muôn thuở, người đã
lưu ý rằng ba môn đệ đã được đặc ân về mạc khải siêu nhiên này lại chính là ba
người sẽ phải đụng chạm gần gũi nhất với “hủy dạng” của Đức Giêsu khi Người hấp
hối tại Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37). Đức Giêsu như thế đã cho họ trước một kinh
nghiệm về sự vinh quang sẽ đến của Người, để cố ngừa cho họ khỏi bị cái gương
mù về sự hạ mình của Người.
Bấy giờ ông Phêrô thưa
với Đức Giêsu rằng: lạy Ngài chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con
xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê một cho ông Êlia.
Phêrô, là người mà
quyền ưu tiên của ông vừa được nhìn nhận, sáu ngày trước, sau khi tuyên xưng
đức tin của mình, lên tiếng và nói “tôi” đầy quả quyết, hăng hái, quảng đại,
ông đã nhìn nhận Đấng Mêsia được chờ đợi qua hai nhân vật chủ chốt của Kinh
Thánh đi theo Người: Môsê và Êlia: luật pháp và các Ngôn sứ… Môsê là người đã khởi
dẫn dân Chúa trong sa mạc trên núi Sinai, và Êlia, người phải trở về để chuẩn
bị giai đoạn mới, chấm dứt các thời đại tiên báo về Đấng Mêsia (Mt 17,10-13).
Hoàn toàn vui mừng về
sự khám phá của mình, Phêrô có lẽ muốn ngưng lại cái khoảnh khắc hạnh phúc này
và có thể nói là cố định lại nó trong cái phút hạnh phúc và vinh quang này:
“Tôi sẽ dựng nhiều lều...”. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta có thể bắt được
hạnh phúc và cố định nó lại!
Ông còn đang nói, chợt
có đám mây sáng ngời bao phủ các ông.
Đám mây này, biểu
tượng của sự hiện diện Thiên Chúa (Tv 18,12; Xh 40, 34-35; 1V 8,10-12), cắt
ngang lời nói của Phêrô. Không phải Phêrô sẽ xây một ngôi nhà cho Thiên Chúa;
mà là chính Thiên Chúa đến xây nhà của Người. Đám mây. Có lẽ chúng ta ngạc
nhiên về sự liên kết kỳ lạ này: một đám mây sáng ngời lại tạo ra bóng che.
Chúng ta ở đó thêm một lần nữa, đứng trước một ngôn từ biểu tượng qua đó chứng
minh rằng chúng ta không thể nào hiểu những từ này như thể chúng chỉ mô tả một
cảnh tượng. Động từ ‘lấy bóng mình bao phủ’ bằng tiếng Hy Lạp “Episkiazô”, chỉ
xuất hiện hai lần trong toàn bộ Tân ước; ở đây và vào ngày lễ Truyền Tin, khi
Thánh Thần lấy bóng mình bao phủ Maria (Lc 1,35). Theo các nhà chú giải từ này
ám chỉ đến một trong các từ Do Thái nổi tiếng nhất “shékinah”, nghĩa là “nhà
ở”, “Hiện Diện” của Thiên Chúa.
Và có tiếng từ đám mây
phán rằng: “Đây là con yêu dấu Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng
nghe lời Người!”.
Cái từ ‘Đây là’, bề
ngoài có vẻ không quan trọng. “Đây là” chính nó cũng mang đầy ý nghĩa. Trong
chuyện kể nó được lặp lại ba lần: “đây là một sự hiện ra... đây là một đám
mây... đây là một tiếng nói...”. Trong Kinh Thánh, đó là dấu chỉ có một sự can
thiệp siêu hình được áp đặt. Đây là! Chính ở đó! Chính là thế đấy! Chúng ta ở
đó chẳng để làm gì cả.
Tiếng của Thiên Chúa
này lặp lại sự mạc khải về phép Rửa của Đức Giêsu: Đức Giêsu còn “hơn” cả một
người, Người là Con Độc Nhất và Yêu Dấu. Nhưng điều đã được nói, trong sự thân
tín, đối với một mình Đức Giêsu, Người khởi đầu tác vụ của Người... bây giờ
được nói lại cho các môn đệ với một hậu quả đi theo.
Lạy Chúa, trong thời
gian đặc ân của mùa Chay này, xin giúp chúng con sẵn sàng nghe tiếng Chúa, với
cái nghiêm túc mà chúng con đôi khi biết sống nó là nghe một số những sứ điệp
quan trọng cho chúng con.
Nghe vậy các môn đệ
kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống. Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và
bảo: Trỗi dậy đi, đừng sợ.
Trong khi gục mặt
xuống đất bái lạy (từ ưa thích của Matthêu) các môn đệ nhận ra rằng họ đang ở
trước một sự hiển hiện của Thiên Chúa: phản xạ tôn giáo của con người ở trước
một thực thể linh thánh! Thờ phượng! Tôi có biết thờ phượng không? Đó là hành
vi tối thượng của con người. Sống, Yêu, Thờ Phượng. Con người không được tạo
dựng để thu mình lại với chính mình trong một thứ tự huỷ. Con người được tạo
dựng để mở ra cho người khác bằng tình yêu. Và sự hoàn thành của nó được thực
hiện khi nó mở ra cho Đấng Tha Thể bằng thờ phượng. Và điều đó luôn luôn mang
hình thực một thứ hư vô hóa chính mình: phải chết trước khi được sống. Phải
chết cho chính mình đã, để yêu mến, tha thứ. Nhưng nếu con người tự hư vô hóa,
mặt cúi xuống đất để tới gần Thiên Chúa, thì chúng ta thấy Đức Giêsu tới gần,
đụng chạm, vực các bạn hữu của Người dậy. Những cử chỉ yêu thương. Những cử chỉ
cùng quyền năng Thiên Chúa mà chúng ta lát nữa sẽ thấy ý nghĩa biểu tượng.
Các ông ngước mắt lên,
không thấy ai nữa chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên
núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: đừng nói cho ai hay thị kiến ấy,
cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”.
Sách kinh lễ không dám
dùng từ chính xác. Bởi vì, một cách có chủ ý, Matthêu đã sử dụng cùng một từ Hy
Lạp “Egeirein”, “vực dậy”, để nói rằng Đức Giêsu đỡ các bạn hữu mình dậy và làm
cho sống lại. Nếu Thiên Chúa nói từ đám mây, thì đó không phải để đè bẹp con
người, như chết, dưới đất... mà để làm cho con người sống lại. Nhưng trong khi
chờ đợi, Phêrô và các bạn hữu của ông phải xuống núi lại. Và họ sẽ phải, nếu họ
muốn, biến hình kiểu thường ngày. Phêrô sẽ sống những ngày đều đều, những ngày
cực khổ, những thất bại và những bách hại. “Nhưng, suốt đời, ông sẽ nhớ lại cái
khoảnh khắc thoáng qua này, ở đó ông nghe thấy tiếng gọi này đến từ trời, từ
trên núi thánh (2 Pr 1,16-18). Mỗi một lần thể hiện nhiệm tích Thánh Thể là một
trạm dừng lại để được tưới mát trên núi với Đức Giêsu. Nhưng phải đi lại, vươn
tới những nhiệm vụ của chúng ta, với kỷ niệm...