SUY NIỆM CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN - C
MỤC LỤC
1. Tiền của
2. Kính sợ Thiên Chúa
3. Sống là chuẩn bị chết
4. Khi đồng tiền lên ngôi? – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
5. Gia tài – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
6. Tiền bạc và giàu sang
7. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
8. Những kho lớn hơn
9. Làm giầu trước Thiên Chúa
10. Cái tạm thời và cái bền vững
11. Nghệ thuật làm giàu – Thiên Phúc
12. Tích trữ kho tàng trên trời
13. Cuộc đời là phù vân
14. Hãy mặc lấy Đức Kitô
15. Đồ dại! – André Sève.
16. Làm giàu vì biết chia sẻ – Achille Degeest
17. Suy niệm của Charles E. Miller
18. Nguy hại của việc tham lam của cải – Veritas
19. Chuyện biết rồi vẫn cứ nói
20. Bao nhiêu mới đủ - McCarthy
21. Hạnh phúc không nơi tiền của
22. “Lấy gì mà đổi được linh hồn mình”
23. Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi
24. Nghèo
25. Kho tàng
26. Khờ dại
27. Sự khôn ngoan đích thực – Lm. GB. Trần Văn Hào
28. Suy niệm của Lm. Uyen Nguyen
29. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
30. Tích trữ của cải - Lm. Giacobê Tạ Chúc
31. Bảo hiểm linh hồn - Lm. Bùi Quang Tuấn
32. Có tiền mua tiên không được?
33. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Nghĩa
34. Đi tìm sự sống đời đời – Lm. An Phong
35. Lòng ham hố của cải - R. Gutzwiller
36. Suy niệm của Gp. Vĩnh Long
37. Chú giải của Noel Quesson
38. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long
1. Tiền của
2. Kính sợ Thiên Chúa
3. Sống là chuẩn bị chết
4. Khi đồng tiền lên ngôi? – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
5. Gia tài – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
6. Tiền bạc và giàu sang
7. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
8. Những kho lớn hơn
9. Làm giầu trước Thiên Chúa
10. Cái tạm thời và cái bền vững
11. Nghệ thuật làm giàu – Thiên Phúc
12. Tích trữ kho tàng trên trời
13. Cuộc đời là phù vân
14. Hãy mặc lấy Đức Kitô
15. Đồ dại! – André Sève.
16. Làm giàu vì biết chia sẻ – Achille Degeest
17. Suy niệm của Charles E. Miller
18. Nguy hại của việc tham lam của cải – Veritas
19. Chuyện biết rồi vẫn cứ nói
20. Bao nhiêu mới đủ - McCarthy
21. Hạnh phúc không nơi tiền của
22. “Lấy gì mà đổi được linh hồn mình”
23. Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi
24. Nghèo
25. Kho tàng
26. Khờ dại
27. Sự khôn ngoan đích thực – Lm. GB. Trần Văn Hào
28. Suy niệm của Lm. Uyen Nguyen
29. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
30. Tích trữ của cải - Lm. Giacobê Tạ Chúc
31. Bảo hiểm linh hồn - Lm. Bùi Quang Tuấn
32. Có tiền mua tiên không được?
33. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Nghĩa
34. Đi tìm sự sống đời đời – Lm. An Phong
35. Lòng ham hố của cải - R. Gutzwiller
36. Suy niệm của Gp. Vĩnh Long
37. Chú giải của Noel Quesson
38. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long
Của cải đời
này Lm Giuse Đinh tất Quý
Những của đời
này Lm Giuse Đinh tất Quý
Làm giàu trước
mặt Thiên Chúa Catholic.org.tw
Những gì
ngươi sắm sẵn đó... Lm. Carôlô Hồ Bặc
Xái
Cách dùng của
đời này Lm Giuse Đinh lập
Liễm
Làm chủ của
cải Nữ Tỳ Thánh Thể
Coi chừng lầm
lẫn Lm. Raphael Xuân Nguyên
Làm giàu với
chỉ một xu PM. Cao Huy Hoàng
Cuộc gặp gỡ
Cha Mark
Link, S.J.
1. Tiền của
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập tới tiền bạc và của cải vật
chất. Tôi muốn dừng lại và suy nghĩ về cách sử dụng, đó là đừng phú phí.
Sự phung phí là một hiện tượng đã có từ lâu đời, vẫn còn và có lẽ
sẽ còn mãi mãi bao lâu con người hiện diện trên trái đất này. Nó là một hiện
tượng phổ quát nhưng lại xuất hiện dưới nhiều hình thức và thường được che đậy
bằng những danh hiệu, nếu không tốt đẹp thì ít ra cũng vô hại. Người ta ít ai ý
thức rằng mình phung phí tiền bạc, nhưng bao giờ người ta cũng có đủ lý do để
phung phí tiền bạc một cách bừa bãi. Điều đáng chú ý là không phải chỉ những kẻ
dư tiền bạc mới phung phí, trái lại, những kẻ nghèo lại là những người phung
phí nhiều nhất. Người ta kể lại, trên miền thượng, có một người đồng bào sắc
tộc trúng số độc đắc, anh ta đã dùng cả mấy chục triệu bạc đó kể tổ chức nhậu
nhẹt cho cả làng: ăn cho đến hết thì thôi. Nghe câu chuyện trên, chắc nhiều
người tác lưỡi tiếc thầm: Giá mình trúng số thì hay biết mấy. Người ta có rất
nhiều những dự định với cái “giá mà” kia. Nhưng điều quái lạ là người ta ít khi
biết sử dụng cho đúng đắn, hợp lý những tiền bạc, không phải là của trời cho,
mà do công lao khó nhọc, mồ hôi nước mắt mà có. Chẳng hạn hiện tượng ăn tết hay
là những hội hè đình đám, những tổ chức làm đám ma, đám cưới, nhiều khi đưa các
gia đình tới chỗ kiệt quệ, hay ít ra cũng lâm vào cảnh nợ nần. Dĩ nhiên việc ăn
tết, tổ chức ma chay cưới hỏi là những việc làm tốt đẹp và cần thiết.
Vấn đề chúng ta đặt ra ở đây không phải là đưa tới cho huỷ bỏ những
tập tục nói trên, nhưng là để cho thấy cách tiêu xài phung phí quá đáng. Nhu
cầu tổ chức những hội hè đình đám là một nhu cầu tự nhiên của con người muốn
thoát ra ngoài cuộc sống tẻ nhạt, thực hiện một thế quân bình tâm lý bằng cách
làm giảm bớt hay quên đi những lao nhọc vất vả. Thực vậy, cuộc sống thường ngày
luôn luôn là một sự tranh sống. Làm để mà ăn. Ăn để mà sống và sống để mà làm.
Nếu cái vòng luẩn quẩn ấy cứ tiếp tục hoài, thì cuộc sống nếu không phi lý thì
cũng buồn tẻ không đáng sống. Bởi đó ở mọi nơi và trong mọi lúc, con người luôn
tìm cách vượt ra khỏi cái vòng lẩn quẩn kia bằng cách làm những gì không trực
tiếp đáp ứng nhu cầu sinh tồn hơn là chỉ để lấp đầy sự đói khát của dạ dày. Do
đó mới có những ngày lễ, những cuộc hội hè đình đám. Làm ở đây không còn là lắm
ăn nữa và ăn ở đây không còn là để sống mà là ăn lấy thơm lấy tho, chứ không
phải ăn cho no cho béo. Làm cho vui, ăn cho sướng.
Ngoài tính cách mua vui trong những hội hè đình đám, đối với người
Việt Nam, thì đó còn là một dịp khoe giàu sang, khoe danh vọng. Từ đó
xuất phát ra cái tục ăn khao ăn mừng. Vô vọng bất thành quan, kẻ làm quan kẻ đỗ
đạt phải được trình diện xóm làng để làm vẻ vang cho gia đình họ hàng. Việc
cưới hỏi ma chay cũng thế, đó thường là dịp cho các gia đình khoe khoang cái
danh vọng, cái chữ hiếu của mình, được đánh giá bằng số mâm số cỗ và những
người được mời. Thú ăn chơi cộng với tính khoe khoang đã làm cho nhiều người
khánh kiệt điêu đứng hay ít ra cũng lâm vào cảnh nợ nần: Kiếm củi ba năm đốt
một giờ. Bao nhiêu tiền dành dụm do mồ hôi nước mắt đổ ra, đổi lấy chút danh
tiếng hão huyền. Tệ hơn nữa, nhiều gia đình thường phải vay mượn để tổ chức ma
chay đình đám, rồi sau đó suốt bao nhiêu ngày tháng phải kéo cày trả nợ. Kẻ
chết trở thành một gánh nặng mà gia đình phải gánh chịu nhiều năm và nụ cười
trong đám cưới trở thành nếp nhăn trên khuôn mặt cặp vợ chồng trẻ trong một
thời gian lâu dài. Bởi đó, cần phải tiều xaì tiền bạc một cách hợp tình và hợp
lý để bảo đảm đời sống vật chất cho gia đình, và nhát là để mua lấy Nước Trời
bằng những hành động bác ái yêu thương.
2. Kính sợ Thiên
Chúa
Như chúng ta đã biết vua Salomon được coi như là người khôn ngoan
nhất ở đời, bởi vì ông đã chỉ xin Thiên Chúa sự khôn ngoan mà thôi. Và Ngài đã
cho ông được toại nguyện. Theo ông thì tất cả những cái chúng ta có đều là hồng
ân của Thiên Chúa. Bởi vậy, khi chúng ta hưởng dùng những niềm hạnh phúc ấy
chúng ta phải biết đem lòng kính sợ Thiên Chúa. Chỉ người nào kính sợ Thiên
Chúa mới thực sự hạnh phúc. Và đầu mối của sự khôn ngoan cũng chính là lòng kính
sợ Thiên Chúa.
Đây cũng là điều Đức Kitô muốn nói với chúng ta qua dụ ngôn người
phú hộ. Ông ta không phải là kẻ hà hiếp bóc lột người khác, cũng không phải là
kẻ gian lận hay có bất cứ hành vi xấu xa nào. Ông ta biết làm ăn và trở nên
giàu có. Ông ta đáng được hưởng công lao do tay mình làm ra. Thế nhưng ông ta
chỉ thiếu có một điều, đó là lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông ta không ý thức được
rằng hạnh phúc mà ông đang được hưởng là một hồng ân của Chúa. Hồng ân này chỉ
được ban cho ông đời này mà thôi, nghĩa là ông ta sẽ chẳng thể đem được những
thứ ông đang có sng thế giới bên kia.
Trong dụ ngôn này, chúng ta không thấy Chúa Giêsu gợi ý nên dùng
của cải dư thừa làm gì, nhưng trong toàn bộ Tin Mừng, nhất là Tin Mừng theo
thánh Luca, chúng ta thấy rõ khuynh hướng của Ngài là luôn khuyên chúng ta chia
sẻ cơm ăn áo mặc cho người khác, thậm chí Ngài còn đòi hỏi những ai muốn theo
làm môn đệ Ngài, phải bán tất cả tài sản mà phân phát cho người nghèo. Kết thúc
dụ ngôn người quản gia bất lương, Ngài bảo các môn đệ: Hãy dùng tiền của bất
chính mà mua bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào gia cư
vĩnh cửu.
Chúa Giêsu không khinh ghét của cải bởi vì chính Ngài cũng đã lao
động để làm ra của cải, nhưng Ngài không bao giờ để cho của cải chi phối, thống
trị mình. Của cải vật chất là những phương tiện cần thiết cho cuộc sống của mỗi
người, nó cũng là phương tiện để chúng ta thực hành lòng bác ái yêu thương. Nó
chỉ trở nên xấu xa bất chính khi vì nó mà người ta chà đạp, bóc lột kẻ khác,
hay là khi người ta sử dụng nó một cách ích kỷ, không đem chia sẻ cho những kẻ
khó nghèo. Chúa Giêsu đã từ chối không làm phép lạ hoá đá thành bánh, nhưng
Ngài lại không do dự làm cho bánh hoá nhiều để nuôi những kẻ đến nghe Ngài
giảng dạy.
Trong thế giới chúng ta đang sống, không thiếu gì những ông phú hộ
và những người ăn mày như Lagiarô. Những ông phú hộ là những kẻ làm giàu cho
mình bằng đủ mọi mánh lới thủ đoạn, làm giàu trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác.
Trong khi đó hơn ba phần tư nhân loại ngày càng nghèo đói thêm. Vấn đề không
phải là bảo những người giàu đừng làm giàu nữa, vì đó là điều không thực tế,
nhưng là đòi hỏi họ phải chia sẻ những của cải dư thừa mà họ đang tích luỹ nhờ
xương máu của chính những người nghèo, để giúp người nghèo khỏi chết đói.
Vấn đề còn là làm sao cho người giàu hiểu rằng bao nhiêu của cải họ
đang khư khư nắm giữ cho mình sẽ vĩnh viễn tuột khỏi tay họ, khi họ nhắm mắt ra
đi. Bởi vì chúng ta vào đời với hai bàn tay trắng, thì chúng ta cũng sẽ ra đi
với hai bàn tay trắn, không còn khả năng nắm giữ nổi dù chỉ một hạt lúa mà
thôi.
3. Sống là
chuẩn bị chết
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có người bi quan bảo rằng: “sống là chuẩn bị chết”. Mỗi ngày sống
là một nhịp cầu tiến gần đến cái chết hơn nữa. Cái chết nó đến cũng thật bất
ngờ. Bất ngờ như tên trộm đột nhập vào nhà và lấy đi sự sống của chúng ta. Cái
chết nó cũng không chờ đợi lứa tuổi để mà có thể sống theo tuần tự: sinh - bệnh
- lão - tử. Cái chết đến với người già cũng như người trẻ ngang nhau. Có người
chết trẻ. Có người chết già. Có người chết bất thình lình. Có người chết từng
giờ vì cơn bệnh nan y.
Vào ngày 10/04/2010 cả thế giới cũng ngỡ ngàng trước sự ra đi đột
ngột của vợ chồng tổng thống Ba Lan cùng đoàn tuỳ tùng gần 200 người. Họ đã tử
nạn trong một chuyến bay đến Nga để dự lễ kỷ niệm 70 năm ngày khoảng 22,000
binh sĩ Ba Lan bị sát hại. Chiếc máy bay đã không đưa họ đến nơi dự định mà đã
đưa họ về với trời cao vào lúc 11g00 trưa cùng ngày. Họ đã kết thúc cuộc đời
vào lúc mà họ không ngờ, và chắc chắn họ vẫn chưa chuẩn bị cho chuyến đi định
mệnh một cách vĩnh viễn này.
Mỗi ngày chúng ta cũng chứng kiến biết bao cái chết tức tưởi bởi
đột quỵ hay bởi tai nạn giao thông. Trung bình ở Việt Nam mỗi ngày có hơn 32 người
chết bởi tai nạn giao thông. Mỗi năm thiên tai lũ lụt cũng gây nên biết bao cái
chết oan khiên đắng cay. Pakistan mới trải qua cơn lũ kinh hoàng đã cướp đi hơn 1500 sinh mạng. Sự
chết dường như không kiêng nể ai. Sự chết có thể đến với bất cứ ai và ở mọi
nơi, mọi lúc.
Xem ra sự sống và sự chết không nằm trong những toan tính dự định
của chúng ta. Chúng ta không có quyền chọn lựa để tiếp tục sống hay chết. Không
có quyền chọn lựa về cách chết. Và càng không có quyền chọn lựa thời gian để
chết. Sự chết dường như vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Sự chết sẽ
chấm dứt mọi sự nơi dương gian của chúng ta. Công danh, sự nghiệp. Giầu có hay
khó nghèo cũng kết thúc như nhau với nấm mồ nhỏ bé bốn tấc đất như nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để chờ
đợi chủ trở về. Sự chờ đợi khôn ngoan là chăm chỉ làm việc bổn phận của mình.
Sự chờ đợi tích cực là tích luỹ kho tàng không bao giờ bị hao hụt hay mối mọt
phá hoại là những việc lành phúc đức. Sự chờ đợi trong kiên nhẫn, dầu là lúc
đêm khuya hay lúc bình minh sắp ló rạng vẫn luôn tỉnh thức vì không biết chủ về
vào lúc nào. Chủ về với hàm ý chính Thiên Chúa sẽ đến viếng thăm mỗi người
chúng ta qua các ơn lành, qua các bí tích... Chủ về cũng có nghĩa là ngày Chúa
đến để đưa linh hồn chúng ta ra khỏi thế gian. Chủ về cũng có nghĩa là ngày
cánh chung, ngày đó sẽ khép lại toàn bộ lịch sử của nhân loại. Chủ sẽ vui mừng
thấy chúng ta tỉnh thức hay chủ sẽ giận dữ thấy chúng ta đang u mê lười biếng.
Chủ sẽ thưởng công hay luận phạt tuỳ theo thái độ sống của chúng ta.
Thế nên, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy sống giây phút hiện tại
một cách tích cực. Hãy sử dụng thời gian một cách hợp lý. Ðừng dùng giây phút
hiện tại để phạm tội. Ðừng lao vào những đam mê mù quáng. Hãy sống tích đức để
mua lấy Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc cho nhân loại hôm nay vẫn còn đó
những người sống thiếu tỉnh thức bằng đời sống lười biếng và thiếu trách nhiệm
trong bổn phận của mình, vẫn còn đó những người sống ngụp lặn trong đam mê tội
lỗi, vẫn còn đó những người sống tham lam bất chính hơn là tích đức cho đời
sau. Họ sẽ mất cơ hội tham dự tiệc của tình yêu mà chính Thiên Chúa sẽ thiết
đãi họ.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống giây phút hiện tại như là giây
phút cuối cùng của đời mình để chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh thức
hơn. Ước gì mỗi người chúng ta cùng được chủ vui mừng đón tiếp trong bữa tiệc
vĩnh cửu nơi quê hương trên trời. Amen.
4. Khi đồng tiền
lên ngôi? – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nếu nhìn vào toàn cảnh Việt Nam, người ta thấy kinh
tế càng ngày càng khó khăn. Đồng tiền kiếm được ít ỏi, lại mất giá. Giá xăng
liên tục tăng, giá vàng lên xuống thất thường. Trong khi thông tin về tình hình
kinh tế không mấy sáng sủa thì đồng thời, trên các phương tiện truyền thông lại
liên tục cập nhật những vụ việc “mẹ tự thiêu vì con rể nợ 2 chỉ vàng”; “Bẻ gãy
tay mẹ vì đòi chia tài sản”...
Ngày 08/7, báo Bà Rịa-Vũng Tàu đưa tin, người dân ở khu phố Hải
Dinh, phường Kim Dinh hết sức bức xúc việc bà Nguyễn Thị Thanh (61 tuổi) bị con
gái là Đặng Thị Thủy, đánh gãy tay, phải vào viện. Bà Thanh nói: “Nỗi đau của
tôi không phải ở bàn tay bị gãy, mà ở sự hỗn hào, bất hiếu của con cái”
Theo lời bà Thanh, gần đây, Thủy muốn bà Thanh bán lô đất trị giá hơn 1 tỷ để chia
cho Thủy một phần, nhưng bà không đồng ý.
Thủy chửi bới, chì chiết, xưng hô mày tao với mẹ. Quá đau lòng, bà
Thanh đã dùng tay tát Thủy, không ngờ bị con gái nắm được tay bà và bẻ ngang
khiến bà Thanh bị gãy ngón tay giữa, phải đi bó bột ở bệnh viện Bà Rịa. “Nếu
không có hàng xóm vào can ngăn thì có lẽ nó đã đánh chết tôi rồi”- bà Thanh xót
xa nói.
Trước hành động quá đáng của con gái, bà Thanh đã gửi đơn lên
phường mong xử phạt và răn đe, giáo dục con gái. “Máu chảy ruột mềm, thật lòng
tôi chỉ muốn con gái tới xin lỗi mình, chứ không ai muốn con dính vào luật
pháp, nhưng con nào có hiểu được lòng mẹ”- bà Thanh ngậm ngùi nói.
Câu chuyện đau lòng phải kể đến là trường hợp cụ bà Nguyễn Thị
Bương (83 tuổi, trú thôn Phước Lương, xã Hòa Xuân Tây, Đông Hòa) đã tự thiêu
bằng xăng ngay tại trước bậc sảnh Toà Án Nhân Dân huyện Đông Hòa (Phú Yên),
ngày 05/7.
Theo người nhà cụ Bương, nhiều khả năng cụ tự thiêu vì bức xúc
chuyện ông Lập, con rể, chưa trả hết 3 chỉ vàng đã mượn, lại còn lấy vợ khác.
Những câu chuyện đắng lòng khiến người ta phải đặt câu hỏi, phải
chăng kinh tế khó khăn khiến tình người càng thêm cạn kiệt?
Đành rằng cuộc sống rất cần tiền, nhưng không phải nhờ tiền mà ta
sống được lâu dài hơn. Không phải nhờ giầu có tiền của mà ta sống giá trị hơn.
Điều quan trọng mà Chúa muốn nhắc chúng ta là phải làm giầu trước mặt Chúa. Làm
giầu ở đây, không phải là giầu của cải vật chất, mà là giầu đức hạnh, giầu việc
lành bác ái với tha nhân. Lòng tham con người vô đáy. Nếu cuộc sống chỉ theo
đuổi tính tham lam của mình, con người sẽ trở nên bủn xín keo kiệt với anh em.
Nếu cuộc sống con ngưởi chỉ biết nghĩ đến mình, con người sẽ sống trong ốc đảo
cô đơn và tuyệt vọng.
Thế nhưng, con người ngày nay chỉ cần tiền. Họ quan tâm tới tiền.
Họ sống vì tiền và họ đặt mọi quan hệ trên đồng tiền. Họ coi đồng tiền là
phương tiện để họ gắn kết với nhau hơn. Thế nên, thế giới càng giầu của cải thì
tình người càng cạn kiệt hơn. Người ta vì tiền mà phản bội nhau, lừa dối nhau
và giết hại lẫn nhau. Vì tiền mà con người đánh mất tình người và đôi khi đánh
mất chính bản thân mình đến nỗi vì tiền mà sống hèn hạ, mất danh dự nhân phẩm
của một con người.
Có lẽ chúng ta đã không còn lạ về những câu chuyện bi thương giữa
những người thân trong gia đình đã tàn sát lẫn nhau chỉ vì tiền, vì của cải, vì
tài sản... Cha mẹ bỏ rơi con cái chỉ vì tiền. Con cái sát hại cha mẹ cũng vì
tiền. Và vợ chồng bất trung với nhau cũng vì tiền. Đồng tiền lên ngôi là lúc
tình người lại xuống thấp. Đề cao đồng tiền cũng đồng nghĩa giảm đi tình người.
Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy xét lại xem “nếu ngay trong đêm
nay ta từ giã cuộc đời này ta sẽ được gì?” Đồng tiền có mua được bạn hữu khi ta
đã nhắm mắt xuôi tay. Sự gian ác, tàn nhẫn, thiếu tình người chỉ vì coi trọng
đồng tiền, có mang ta đi về thế giới đời sau trong an nhàn hạnh phúc hay lo âu
sợ hãi khi phải đối diện với tử thần? Con người sinh ra, rồi cũng sẽ chết,
nhưng cái chết đến, chúng ta sẽ mang theo được điều gì? Là tiền bạc hay việc
làm phúc đức? Điều gì ta mang theo, sẽ mang lại cho chúng ta hạnh phúc ngàn
thu?
Người đời hay có câu giỡn với nhau: “Làm chi cho nhiều, chết rồi
cũng để lại cho ‘dượng’ nó xài, vợ con mình ‘dượng’ nó sai...”. Lời Chúa hôm
nay thì bảo: “Đồ ngốc, Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những
gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy, kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà
không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”
Có lẽ không ai muốn chết mà không có bạn bè, người thân bên cạnh
trong lúc lâm chung? Có lẽ không ai muốn sau cái chết, là mất mát, là đau khổ?
Vậy, chúng ta phải làm điều gì để có bạn bè, có người thân bên cạnh chúng ta
hôm nay và mãi mãi? Thưa, đó chính là một cuộc sống đặt tình người lên trên của
cải, và biết sống vì mọi người và cho mọi người. Một cuộc sống vị tha sẽ mang
lại cho cuộc đời chúng ta thêm ý nghĩa và hạnh phúc. Đúng như Nguyễn Công Trứ
đã nói:
“Người trồng cây hạnh, người chơi.
Ta trồng cây phúc để dành đời sau.”
Xin cho chúng ta luôn biết khôn ngoan chọn lựa cái vĩnh cửu hơn là
những phù vân mau qua, biết chọn tình người hơn là của cải, và biết chọn Chúa
hơn là danh lợi thú trần gian. Amen.
5. Gia tài
– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Người ta kể rằng ở miền rừng núi, dân Thượng có một lối bẫy khỉ rất
đơn giản. Họ làm một cái lồng có nhiều lỗ nhỏ vừa tay con khỉ. Rồi họ buộc lồng
vào một gốc cây và bỏ vào đó ít hạt bắp rang. Các chú khỉ ngửi mùi bắp thơm thì
thò cả hai tay vào bốc. Lúc đó người bẫy khỉ ngồi xa xa cứ việc tiến lại bắt
chú khỉ. Con khỉ cuống cuồng muốn thoát chạy nhưng không rút tay ra được. Lý do
đơn giản là hai tay còn nắm chặt hai nắm hạt bắp.
Tác giả sách Giảng Viên đã suy gẫm sự đời một cách rất sâu lắng.
Phản ánh một triết lý sống. Thực ra cuộc sống con người rất phức tạp và đa
diện. Chúng ta nên quan sát và suy gẫm rất cẩn thận để tìm một hướng đi thích
hợp. Trước khi chúng ta được mở mắt chào đời, vũ trụ và muôn loài đã có đó. Khi
chúng ta nhắm mắt xuôi tay, muôn sự vẫn cứ tiếp tục hiện hữu. Cuộc đời của mỗi
người xuất hiện đó, rồi biến mất. Không có gì tồn tại mãi ở trần gian này.
Giảng Viên đã dạy rằng: Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư
không và mọi sự đều hư không ((Gv 1,2). Hư không diễn tả một khía cạnh vô
thường của cuộc sống này. Có nghĩa là mọi sự hiện hữu như gió thoảng mây bay.
Giảng Viên chia sẻ kinh nghiệm sinh hoạt cuộc sống hằng ngày và gẫm suy: Vì kẻ
này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự
nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao (Gv
2, 21).
Chúng ta không nhìn cuộc sống một cách bi quan hay tiêu cực. Vì sự
sống là một hồng ân. Chuỗi ngày sống là một chuỗi ân sủng nối tiếp. Sống là
hiện hữu. Mọi sự hiện hữu đều hữu ích. Sự sống cần được sinh hoa kết trái. Thể
xác con người cần được lớn lên và phát triển mỗi ngày. Đời sống tâm linh cũng
được bồi dưỡng để tiến tới sự hoàn hảo hơn. Sinh ra là khởi đầu. Bắt đầu bước
vào một cuộc lữ hành trần thế. Cuộc lữ hành cần có hướng đi và cùng đích. Trong
các loài thụ tạo, sứ mệnh của con người thật cao quí. Vì con người được tạo
dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban cho con người có ý
chí, lý trí và tự do. Với những khả năng ưu việt, con người có bổn phận và
trách nhiệm xây dựng một xã hội giầu mạnh, thịnh đạt và an bình. Với khối óc và
bàn tay lao động, con người góp phần làm cho thế giới ngày tốt đẹp hơn.
Con người được trao quyền làm chủ trái đất và cai quản mọi loài.
Làm chủ chứ không làm nô lệ cho của cải vật chất. Của cải trần thế là phương
tiện thiết yếu giúp con người đạt tới cứu cánh. Con người dùng những sản phẩm
do mình tạo ra để phục vụ đời sống. Con người không thể lệ thuôc làm tôi tớ cho
của cải vật chất. Chúng ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi tiền
của. Chúa Giêsu nhắc nhở: “Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham
lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu” (Lc 12,
15). Tất cả vũ trụ đều đang thay đổi, nay còn mai mất. Của cải không thể bảo
đảm kéo dài đời sống hạnh phúc. Các phương tiện vật chất chỉ giúp cho cuộc sống
con người được thanh thản, thoải mái và tiện lợi hơn. Biết rằng ai cũng cần có
tiền bạc của cải để nâng cao mức sống và đáp ứng những nhu cầu cần thiết.
Câu truyện Phúc âm, Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận rõ về giá trị về
việc tìm kiếm và sử dụng của cải trần đời. Cần có thái độ chọn lựa đối với vật
chất phù vân. Chúng ta còn có gia sản tinh thần quí báu hơn. Hãy dùng của cải
hay hư nát để mua Nước Trời. Hãy dùng tiền bạc thế gian để đổi lấy bạn hữu. Hãy
dùng của giả để đổi lấy của thật. Hãy tráo đổi giá trị trần thế để mua gia sản
nước trời. Đổi tiền giả ra tiền thật. Đó là dùng tiền bạc hay của cải để bố thí
hoặc làm việc bác ái, chúng ta sẽ tích trữ được khó báu trên trời. Chúa Giêsu
đã dậy: Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo
lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu
(Lc 16, 9).
Điều quan trọng là chúng ta phải đặt đúng giá trị của sự việc. Tiền
bạc của cải không thể trở thành chủ nhân ông. Đừng qúa tham lam thu tích của
cải phù hoa thế trần, nhưng luôn ý thức hướng tới mục đích sau cùng. Chúa Giêsu
cảnh báo: 'Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì
những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? (Lc 12, 20). Người đời nghĩ rằng
phải cố gắng làm việc để trở nên giầu có và có của ăn của để, phòng khi hữu sự.
Điều này thật phải lẽ! Đối với các tín hữu, chúng ta được mời gọi không chỉ làm
giầu gia sản vật chất nhưng quan trọng hơn là làm giầu trước mặt Chúa. Chúa
Giêsu nói tiếp: Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt
Chúa thì cũng vậy” (Lc 12, 21). Khi lao động làm việc hay kiếm sống bằng mồ hôi
nước mắt, các thành qủa đều có giá trị giúp thăng hoa cuộc sống. Chúng ta không
chỉ tích trữ gom góp tiền bạc để thụ hưởng riêng mình, nhưng sử dụng của cải để
sinh hoa qủa cho tha nhân và xã hội. Biến đổi giá trị vật chất phàm hèn tới giá
trị tinh thần cao siêu trước mặt Chúa.
Những lời huấn dụ trong Kinh Thánh xem ra khó áp dụng cuộc sống đời
thường. Vì chúng ta thấy ai ai cũng đang mải mê lao động kiếm kế sinh nhai và
vun đắp gia sản vật chất. Chúng ta nêu đủ lý do để biện minh cho sự tham lam và
tích trữ của cải. Nói rằng nếu không cực lực lao động, lấy gì mà trả bills và
các món nợ chồng chất. Chúng ta đầu tư mọi vốn liếng và khả năng để lo làm giầu
mỗi ngày. Lòng tham vô đáy. Chúng ta chắt chiu từng đồng và thấy vẫn cần thiếu
một xu. Chúng ta dần bị chìm đắm trong sự ham mê của cải vật chất. Thế là cuộc
sống kéo lôi vào sự kiếm tìm không ngừng nghỉ. Biết rằng lao động kiếm sống là
tốt. Dành dụm tiền bạc để tiêu xài cũng tốt. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng
ta hãy biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa qua việc sử dụng tiền bạc của cải
đúng cách để sinh hoa kết trái đời này và đời sau.
Truyện kể có người giầu có kia chết, chôn chưa được ba ngày, một
tên đạo tặc giữa đêm lén đào mả lên, lột hết vàng bạc trong mình kẻ chết, rồi
lại vác búa đập bể đầu, bể miệng. Sao lại thù hằn dữ vậy? Không, chỉ vì khi
chôn, người ta cho ông ngậm viên ngọc quí đó thôi. Giầu có sống không yên, chết
cũng chẳng yên.
Lợi lộc gì chứ khi chúng ta chỉ biết cắm đầu lo làm giầu sở hữu của
cải vật chất. Hãy ngước nhìn lên và nhắm hướng về cùng đích. Cuộc đời của chúng
ta có những gia trị cao quí hơn nhiều. Vì sự sống của chúng ta được chuộc lại
bởi giá Máu châu báu của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô diễn tả: Anh em thân mến, nếu
anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức
Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa (Col 3, 1). Quê hương đích thực của chúng ta là
trời cao. Tại sao chúng ta xả thân miệt mài thu tích của cải dưới đất nơi mối
mọt rúc rỉa? Hãy tìm kiếm những sự cao siêu hơn: Anh em hãy nghĩ đến những sự
trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất (Col 3, 2).
Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa. Ngài đã trở thành con
người mới hoàn toàn. Sống phó thác và tin tưởng vào Đấng tạo thành vũ trụ.
Phaolô lên tiếng: Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng
các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh
của Đấng đã tạo thành nó (Col 3, 9-10). Theo gương thánh Phaolô, tuy chúng ta
còn khoảng cách rất xa trên con đường trọn lành. Mỗi người chúng ta có thể khởi
đầu từ hôm nay để chọn lựa một thái độ và thực hành sống lời Chúa cách tích cực
hơn.
Lạy Chúa, chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp đời chúng con.
Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và mọi sự Chúa sẽ ban thêm. Có
Chúa, chúng con sẽ có tất cả.
6. Tiền bạc và
giàu sang
Có người đã kết án: Kitô giáo là đạo của những người giàu và Giáo
Hội thì chạy theo tư bản! Vậy đâu là thái độ của Chúa Giêsu và lập trường của
Giáo Hội đứng trước vấn đề của cải và giàu sang? Như chúng ta đã biết Chúa
Giêsu muốn sống thật nghèo hèn. Sinh ra không nơi ẩn trú, lớn lên không chốn
tựa đầu và chết đi một cách trơ trụi trên thập giá, thế nhưng, Ngài cũng đã
chấp nhận quyền tư hữu.
Thực vậy, trong 10 giới răn được công bố có giới răn thứ 7 và thứ
10 cấm chúng ta không được ước ao, lấy hay giữ của người khác một cách trái
phép. Với chàng thanh niên giàu có, trước hết Ngài đã phán: Hãy tuân giữ những
giới luật. Sau đó, Ngài thêm: Nếu con muốn trở nên trọn lành, hãy về bán tất cả
những gì con có, phân phát cho người nghèo, rồi hãy đến mà theo Ta.
Chúa Giêsu luôn tỏ ra thương xót những kẻ nghèo hèn và cùng khốn,
tuy nhiên Ngài cũng có những người giàu ở bên cạnh, chẳng hạn như Giakêu, như
Giuse Arimathia. Ngài cũng đã vào nhà ông Simon, một người biệt phái giàu có.
Tuy nhiên Ngài đã cảnh giác: Sự giàu sang là một nguy
hiểm cho phần rỗi linh hồn và người giàu có khó mà vào được Nước Trời. Ngài nói rằng khó chứ
không bảo rằng không có thể. Theo Ngài, sự giàu có, hay nói đúng hơn lòng đam
mê tiền bạc là như một bụi gai, bót nghẹt hạt giống lời Chúa được gieo trồng
trong tâm hồn chúng ta.
Ngài không kết án sự giàu sang chính đáng, được tạo nên bởi mồ hôi
nước mắt, bởi công lao vất vả của chúng ta. Điều Ngài kết án đó là lòng đam mê
tiền bạc một cách mù quáng, đến nỗi quên mất cả Thiên Chúa và linh hồn của
mình. Chính trong chiều hướng này mà Ngài đã nói: Khốn cho những kẻ giàu sang,
vì không ai có thể vừa làm tôi Thiên Chúa, lại vừa làm tôi tiền bạc được. Ngài
cũng căn dặn chúng ta về việc sử dụng tiền của: Hãy dùng tiền của mà mua lấy
bạn hữu. Đồng thời Ngài đặc biệt nhắc bảo chúng ta hãy thu tích cho mình một
kho tàng thiêng liêng, trộm cắp không thể lấy đi và mối mọt không thể gậm nhấm…
bởi vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi. Và như
thế dưới mắt Chúa Giêsu thì phần rỗi linh hồn quý trọng hơn mọi của cải vật
chất.
Tiếp đến là Giáo Hội, noi gương Thầy chí thánh, Giáo Hội không kết
án của cải tiền bạc nhưng kết án thói xa xỉ phung phá, lòng đam mê tiền bạc quá
đáng, cũng như sự keo kiệt và cõi lòng chai đá. Theo giáo huấn của Giáo Hội,
thì Thiên Chúa là chủ mọi tạo vật. Vì thế, con người sẽ phạm tội nếu không sử
dụng của cải trong tinh thần công bằng và bác ái. Giáo Hội không ngừng khơi dậy
một tình thương: Hỡi người người giàu hãy than khóc vì những tại hoạ đổ xuống,
của cải sẽ mục nát, vàng bạc sẽ bị han rỉ, tiền công của thợ gặt mà các ngươi
đã gian lận đang kêu lên và tiếng kêu ấy đã thấu tới Chúa. Các thánh giáo phụ
cũng đã dùng những lời lẽ gay gắt để chỉ trích những kẻ cho vay nặng lãi và
những kẻ bóc lột người nghèo. Rồi các Đức Giáo Hoàng gần đây không ngừng cổ võ
cho một sự công bằng xã hội. Đức Thánh Cha Léo XIII trong thông điệp “Tân sự” đã bênh vực thợ thuyền và
xác định những quyền lợi của giới công nhân. Tiếp đến, các Đức Thánh Cha Piô
XI, Piô XII, Gioan XXIII, Phaolô VI cũng đi vào con đường đó, các ngài lên
tiếng phải cải tạo xã hội dựa theo công bằng và tình thương Kitô giáo. Như thế
chúng ta thấy cả Chúa Giêsu lẫn Giáo Hội đều không phải là những người chạy
theo tư bản. Mặc dù bênh vực quyền tư hữu, nhưng luôn kết án lòng đam mê tiền
bạc, hoang phí tiền của và cư xử bất công đối với những người nghèo. Vì thế,
hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước đã. Tiền bạc chỉ là phương tiện, chứ không
phải là mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta.
7. Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
Từ khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới ít chú ý đến chính
trị. Mọi nỗ lực đều tập trung vào phát triển kinh tế. Xưa kia, nước mạnh dùng
sức mạnh quân sự để áp chế những nước yếu. Ngày nay những nước giàu dùng sức
mạnh kinh tế để chèn ép những nước nghèo. Kinh tế trở thành một sức mạnh. Tiền
bạc trở thành một vũ khí lợi hại. Chính vì thế ai cũng mong làm ăn phát đạt để
trở nên giàu có. Thế mà Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay dường như đi ngược
chiều với xã hội. Phải chăng Chúa chống lại sự phát triển, sự sung túc thịnh
vượng của xã hội?
Nếu đọc kỹ Lời Chúa và quan sát đời sống của Chúa Giêsu, ta sẽ
thấy.
1) Chúa Giêsu xuống trần gian không nhằm giải quyết vấn đề kinh tế.
Khi người thanh niên đến xin Người phân xử vụ chia gia tài, Người
đã trả lời: “Ai đặt ta làm quan án cho các ngươi?” Người đến không phải để giải
quyết các vấn đề kinh tế. Việc phân chia tài sản là việc giữa con người với
nhau.
Sau khi chứng kiến phép lạ bánh hoá ra nhiều, dân chúng muốn tôn
Đức Giêsu lên làm vua. Nhưng Người đã lánh đi nơi khác. Người muốn cho con
người thoát ra khỏi lãnh vực vật chất trong cuộc sống.
2) Chúa Giêsu muốn nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tuy không quan tâm đến vấn đề kinh tế, nhưng Chúa Giêsu không chống
lại việc làm giàu, tích lũy của cải. Người chỉ muốn cho việc tích lũy của cải
có một ý nghĩa.
Khi nói với đám đông: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ
tham lam, vì dẫu có dư giả thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà
được bảo đảm đâu”, Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu: đời sống đâu chỉ gói gọn trong
vấn đề cơm, áo, gạo, tiền. Đời sống còn là cái gì cao hơn thế, đẹp hơn thế.
Triết học phân chia con người ra hai phạm trù: “avoir” (có) và
“être” (là). Tôi có gì thuộc phạm vi khối lượng. Tôi là gì thuộc phạm vi chất
lượng. Những gì tôi có như của cải, quần áo, chỉ là những gì ở ngoài, không làm
thành giá trị con người. Những gì tôi là mới tạo thành bản thân tôi, gắn bó
thân thiết với tôi, tạo thành giá trị đời tôi.
Khối lượng không quí hơn chất lượng. Đừng lầm tưởng rằng ý nghĩa
cuộc đời sẽ tăng theo khối lượng của cải. Chúa Giêsu muốn đời nghèo khổ, không
của cải, nhưng không phải vì thế mà cuộc sống của Người không có giá trị. Giuđa
chết khi túi đầy tiền bạc, nhưng không phải vì thế mà ông có giá trị hơn người
khác.
Truyện kể: xưa có nhà hiền triết sống rất đơn sơ. Ông không cần
quần áo, nhà cửa. Nhà của ông là một chiếc thùng phuy. Một hôm, vị hoàng đế đến
thăm hỏi xem ông có cần gì không. Ông trả lời: “Tôi chỉ cần nhà vua đứng tránh
ra, kẻo che mất ánh mặt trời của tôi”. Trong hai người ấy, ai cao quý hơn, ai
đáng kính trọng hơn?
Chất lượng cuộc sống làm con người sống nên người hơn, cao quý hơn,
sung mãn nhân cách hơn. Của cải chỉ có ý nghĩa khi giúp con người đạt được chất
lượng cuộc sống. Của cải chỉ là phương tiện. Đừng biến phương tiện thành mục
đích.
3) Chúa Giêsu mở tầm nhìn vô biên
Ông phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay đã coi của cải là mục đích.
Có được của cải rồi, ông không còn biết làm gì hơn là hưởng thụ. Tầm nhìn của
ông quá hạn hẹp. Chỉ biết có vật chất. Chỉ nhìn thấy đời này. Lời Chúa phán:
“Hỡi đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm
sửa đó sẽ về tay ai” đã mở tầm nhìn ra vô biên. Người ta đâu sống mãi mà hưởng
thụ. Khi chết thì của cải dù nhiều cũng tan theo mây khói.
Nhưng chưa hết, chết rồi người ta còn phải ra trước toà Chúa mà
chịu phán xét. Chúa không đánh con người theo khối lượng những gì họ có, nhưng
đánh giá theo chất lượng của đời sống. Theo cách đánh giá của Chúa, những gì ta
thu tích cho bản thân sẽ hết, sẽ qua đi. Nhưng những gì ta cho đi sẽ tồn tại.
Lời Chúa hôm nay dạy ta đừng hạ thấp đời sống con người trong một
tầm nhìn hạn hẹp vào việc thu tích của cải cho riêng mình. Nhưng hay nâng cao
cuộc sống, mở rộng tầm nhìn để biết tích trữ những kho tàng nơi Thiên Chúa, kho
tàng ấy sẽ không bao giờ mất được.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Tiền bạc cần thiết cho cuộc sống, nhưng tiền bạc cũng nguy hiểm.
Theo bạn đâu là những nguy hiểm do tiền bạc?
2- Tham nhũng, hối lộ đang trở thành phổ biến, người tín hữu phải
có thái độ nào đối với tiền bạc?
3- Bạn nghĩ gì về Lời Chúa: “Hãy dùng tiền của phi nghĩa mà mua lấy
bạn hữu trên trời”?
4- Tiền bạc có phải là tất cả? Hay đời sống con người còn cần nhiều
thứ khác cao quý hơn?
8. Những kho
lớn hơn
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Cái kho là quan trọng. Kho bạc quan trọng đối với một đất nước. Kho
lẫm cần cho người làm nghề nông.
Mỗi gia đình, mỗi công ty thường có kho riêng. Có thể là một tủ sắt
để trong nhà hay ở ngân hàng.
Mọi lợi nhuận đều thu vào kho.
Ai cũng muốn cho kho của mình bành trướng.
Sau một vụ mùa bội thu, mối bận tâm lớn nhất của ông phú hộ trong
dụ ngôn là tìm cho ra chỗ để tích trữ hoa màu của mình, vì những kho cũ không
đủ sức chứa nữa. Cuối cùng ông đã tìm ra giải pháp này: phá những kho cũ, làm
những kho mới lớn hơn, rồi bỏ tất cả hoa màu, của cải vào đó, khóa lại cho thật
kỹ, đề phòng kẻ trộm.
Khi nhà kho đã an toàn thì tương lai của ông vững vàng ổn định.
Nhiều của cải cho phép ông sống thoải mái trong nhiều năm. Những cái kho lớn
cho ông tha hồ vui chơi, ăn uống. Ông thấy mình chẳng cần đến Chúa, chẳng cần
đến ai. Của cải trong kho bảo đảm cho ông sống hạnh phúc. Những cái kho là nơi
ông đặt lòng mình (x. Lc 12,34). Xin đừng ai xâm phạm vào chỗ thiêng liêng ấy.
Kho là nơi của cải đổ vào, sinh sôi nẩy nở. Kho không phải là chỗ
chia sẻ cho người khác. Ông phú hộ sống cô độc, khép kín như cánh cửa kho. Ông
sống với cái kho, sống nhờ cái kho.
Ông tưởng mình đã tính toán khôn ngoan, nhưng ông không ngờ cái
chết đến lúc đêm khuya, hay có thể có biết bao rủi ro khác xảy đến. Ông chợt
nhận ra mình phải bỏ lại tất cả. Cái kho không níu được ông, cũng không vững
như ông nghĩ. Những gì ông thu tích như giọt nước lọt qua kẽ tay.
Ai trong chúng ta cũng có một hay nhiều kho. Có thể chúng ta ôm
mộng làm giàu hay đang giàu lên, chúng ta định nới kho cũ hay xây kho mới.
Chúng ta chăm chút cái kho cho con cháu mai này.
Thật ra của cải không xấu, xây kho cũng không xấu. “Nhưng phải giữ
mình khỏi mọi thứ tham lam” (12,15).
Phải mở rộng những cánh cửa kho của mình, để kho không phải chỉ là
nơi tích trữ cho tôi, nhưng là phương tiện để tôi giúp đỡ tha nhân. Đừng để nhà
kho, két sắt, ví tiền thành mục đích.
Người giàu đáng yêu trước mặt Thiên Chúa là người biết mở kho để
trao đi và thấy Thiên Chúa liên tục làm cho kho mình đầy lại. Làm thế nào để
khi ra trước toà Chúa, chúng ta thấy kho của mình trống trơn vì vừa mới cho đi
tất cả.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đất nước chúng ta phải đối diện với nạn tham nhũng. Đất nước nghèo
đi trong khi kho của một số người phình ra. Theo ý bạn, tôn giáo giúp gì để đẩy
lui nạn tham nhũng?
Tiền bạc là điều cần thiết cho cuộc sống, nhưng tiền bạc cũng là
điều nguy hiểm. Theo ý bạn, đâu là những nguy hiểm do tiền bạc của cải đem lại?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về
người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất
giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng
phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau
của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng
nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm về cảnh người nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là
quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng. Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu
hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần
giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương.
Amen.
9. Làm giầu trước
Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đọc câu chuyện dụ ngôn về ‘nhà phú hộ lo thu tích’, tôi trộm nghĩ:
Đức Giêsu đúng là một hiền triết thứ thiệt. Từ cổ chí kim các nhà hiền triết
đều dạy các điều tương tự như thế. Không ai còn lạ gì với tư tưởng uyên thâm:
mọi của cải vật chất chỉ là phù phiếm, có những của cải khác còn đáng giá hơn
nhiều; “Phù vân, mọi sự chỉ là phù vân!” (Gv 1:2 và xem thêm 1:16-18)… Tư tưởng
này biện minh cho thái độ khinh chê giàu sang phú quí được nhiều người đề cao,
hầu có được tâm hồn thanh thoát chuyên chăm vào các việc khác cao thượng hơn,
như thu thập kiến thức, sống lịch lãm quân tử, khổ luyện đắc đạo chân tu… hầu
lưu danh lâu dài cho hậu thế. Tuy nhiên như tất cả chúng ta đều biết, Đức Giêsu
đâu có tới trần gian để chỉ dạy một triết lý sống; người không cần làm điều đó,
vì nó chẳng có gì là mới mẻ cả, biết bao người khác cũng đã từng dạy môn sinh
của mình như thế! Vì thế tôi rất mừng vì: trong một dịp khác Người đã từ chối
trở thành người cầm cân nảy mực cho công lý: “Ai đã đặt tôi làm người xử kiện
hay người chia gia tài cho các anh?” (Lc 12:14), cho dầu vào thời đại của
Người, có lẽ xã hội đang rất cần những con người như thế (thử nghĩ tới những
bóc lột, áp chế của đế quốc Rô-ma thống trị… , hay chế độ nô lệ bất
nhân và hà khắc rất phổ biến). Không, Đức Giêsu không muốn được ai coi mình là
thầy dạy luân lý; vì sứ mệnh của Người hoàn toàn khác!
Cái ‘triết lý’ xem ra Người muốn diễn đạt qua bài du ngôn dứt khoát
phải theo định hướng Tin Mừng: Người muốn dẫn đưa con người tiến vào một tương
quan đích thực với Thiên Chúa là Cha của Người. Theo Người: bất cứ cái gì cản
trở mối tương quan đó đều phải dứt khoát loại bỏ. Dầu không sử dụng thành ngữ
‘làm nghèo trước mặt Thiên Chúa’, nhưng rõ ràng Đức Giêsu muốn ám chỉ điều đó
khi Người nói: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giầu trước mặt
Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó”. Trong nội dung này thì ‘của cải’ ở
đây phải bao gồm luôn cả kiến thức, thanh danh, đạo đức… được các triết lý sống
khác thường đề cao. Ngoài việc nhắc nhở phải tránh lòng tham, bài học Đức Giêsu
dạy còn liên quan tới một điều khác nữa tích cực hơn: làm cách nào để trở nên
‘giầu / nghèotrước mặt Thiên Chúa. Rất tiếc là bài Tin Mừng Chúa Nhật XVIII
dừng lại ở câu 21; lẽ ra nó còn phải được tiếp tục tới đoạn sau, là mục tiêu
chính của bài huấn dụ: sống hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa là Cha.
Qua hình ảnh người phú hộ lo thu tích, nội dung ‘làm nghèo trước mặt Thiên
Chúa’ đã lộ rõ; “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng người, thì
những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?... vì không lo làm giầu trước mặt Thiên
Chúa”.
Thế nhưng thế nào là ‘làm giầu’ trước mặt Thiên Chúa thì đoạn văn
trên vẫn chưa làm sáng tỏ đủ? Ai có thể được coi là ‘giầu có’ trước mặt Thiên
Chúa, phải chăng là các bậc tài cao học rộng, những người đạo đức thánh thiện,
hay các vị chân tu đạo sĩ…? Đối với một thương nhân ‘giầu’ thì ‘làm giầu’ sẽ có
nghĩa là làm ra lắm tiền nhiều của; đối với một nghệ nhân thì giầu là phát triển
tài năng thiên phú; đối với nhà thông thái thì lại là trau dồi học thức uyên
thâm v.v…; còn thì ‘làm giầu trước mặt Chúa’ thì cũng tùy thuộc rất nhiều vào
quan niệm ta có về Thiên Chúa. Cựu Ước đề cao hình ảnh một Thiên Chúa quyền
phép, thánh thiện, khôn ngoan, công minh; và thế là ta có các mẫu người ‘giầu
trước mặt Thiên Chúa’ như Mô-sê hùng mạnh, như Ê-li-a thánh thiện, như
Sa-lô-môn khôn ngoan, như Da-vít công minh…; vậy thì, Đức Giêsu khi kêu gọi ta
‘lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa’, Người đang có trong đầu hình ảnh nào về
Thiên Chúa? Thiên Chúa mà Đức Giêsu phác họa chắc chắn không thiếu các nét trên
vì Ngài bao gồn tất cả; tuy nhiên nét nổi bật và độc đáo nhất mà Cựu Ước chưa
hề có, hoặc mới chỉ được các ngôn sứ phác thảo mờ mờ chưa rõ ràng đó là: Thiên
Chúa nhân ái và đầy lòng xót thương, một Thiên Chúa cứu độ. Đây mới là nét chân
dung trung thực nhất về Thiên Chúa mà Đức Kitô Giêsu, và chỉ duy nhất mình
Người mà thôi, có thể vẽ lên. Đó đồng thời cũng là bản chất của ‘vương quốc’
giầu sang mà Người công bố và mời gọi chúng ta hết lòng chăm lo tìm kiếm cho
bằng được (xem Lc 12:30).
Hiểu như thế: ‘làm giầu trước mặt Thiên Chúa’ theo cách nói của Đức
Giêsu, còn cao xa hơn cả sống thánh thiện, khôn ngoan, công chính, làm phép lạ…,
nó phải là nội dung trung thực nhất của đời sống Kitô hữu; đó chính là đón nhận
lòng nhân ái xót thương vô điều kiện Thiên Chúa ban…, và rồi thực thi lòng nhân
ái đó cách quảng đại đối với tha nhân. Đương nhiên đời sống tín hữu Kitô không
được phép thua kém luật pháp Do Thái trong các khía cạnh luân lý đạo đức, tuy
nhiên nó không dừng lại ở đó! Trong số các giá trị Tin Mừng thì đón nhận và
sống lòng xót thương phải là cao trọng hơn tất cả! Kitô hữu phải đặt điều này
lên tầm cao tuyệt đối, và rồi toàn tâm toàn lực thực thi nó; đó là mục tiêu cao
cả nhất mà chỉ những ai dám đứt bỏ mọi thứ thu tích (=làm nghèo) mới có thể
thực hiện nổi.
Thế nhưng ngay trong công tác ‘làm giầu trước mặt Thiên Chúa’ này,
Đức Giêsu không quên khuyến cáo: không có gì phải lo lắng, phải gò ép, phải
luyện tập…, chỉ cần một điều kiện duy nhất là tín thác trọn vẹn vào lòng nhân
ái của Thiên Chúa: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng
ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12:32).
Ôi, thật an ủi xiết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, cảm tạ Chúa đã đưa con vào vương quốc yêu
thương của Người. Ngay từ khi trở thành Kitô hữu, con đồng thời đã trở nên giầu
có vô song, vì được sở hữu cách trọn vẹn lòng Chúa xót thương; xin đừng bao giờ
để con bị rơi trở lại vào tình trạng nghèo nàn cố hữu, khi chỉ chuyên lo thu
tích các của cải vật chất cũng như tinh thần mong làm cho đời mình thêm phong
phú. Xin cho con biết ngày càng làm cho mình nên giầu sang hơn cho ‘vương quốc
Nước Trời’, nhờ thủ đắc ngày càng trọn vẹn hơn lòng lân tuất vô biên của Thiên
Chúa cứu độ. Amen.
10. Cái tạm thời và
cái bền vững
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Hư không trên các sự hư không”. Đây là lời của ông Cô-he-lét con
vua Đa-vít trong sách Giảng Viên, (Bài đọc I). Cô-hé-let là một vị vua khôn
ngoan, ông nhìn thế giới với cái nhìn hướng thượng và truyền lại cho các môn
sinh. Một trong các môn sinh lấy lại lời dạy của Thầy và đào sâu hơn: “Hư không
trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không” (Gv 1,2). Sự khôn ngoan này đã
trở thành cách ngôn dân gian để mọi người nhìn thế giới mình đang sống với sự
tỉnh táo, không ảo tưởng, với hy vọng những cố gắng của con người sẽ không bị
tiêu tan vô ích trong một thế giới thấp hèn!
Tuy nhiên, đây là dịp để chất vấn chúng ta về vị trí của mình trên
trái đất này và cách thức chúng ta quản lý thế giới. Chính trong bối cảnh này
mà Đức Giêsu ngang qua dòng người, ở giữa đám đông vây quanh, với tất cả khổ
đau và kêu cứu, một người trong nhóm họ lên tiếng thưa: “Lạy Thầy, xin Thầy bảo
anh tôi chia gia tài cho tôi” (Lc 12, 13). Đức Giêsu bỗng dưng bị đặt làm trọng
tài giữa hai người trong tương quan nhân loại. Có người hỏi: vì lý do gì mà
người kia lại thưa với Đức Giêsu một điều như thế, Người đâu phải là một quan
tòa chuyên xử các vụ chia cắt gia tài của các gia đình? Tuy nhiên chúng ta
không vội kết án người này. Anh ta có hai lần đúng khi chạy đến nhờ Đức Giêsu.
Trước hết bởi vì đối với Đức Giêsu không có gì vô nghĩa, thứ đến Đức Giêsu với
tư cách là Thầy, Ngài hoàn toàn có quyền làm trọng tại để giải quyết cho anh
vấn đề anh nêu ở trên, nên chạy đến Người cầu cứu!
Tuy nhiên Đức Giêsu nhanh chóng gạt đi và dứt khoát từ chối can
thiệp vào những chuyện như thế: “Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc
làm người chia gia tài cho các ngươi?” (Lc 12,14). Đức Giêsu không can thiệp,
nhưng Người lại chỉ cho cách cần phải giải quyết những vấn đề đó với tinh thần
nào: “Các ngươi phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không
hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu” (Lc
12,15).
Trở lại bài đọc I ta thấy: “Kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn
ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không,
thì thật là hư không và tai hại lớn lao” (Gv 1,3). Ở đây “kẻ làm việc vất vả
trong sự khôn ngoan” phải kể đến là cha mẹ hai anh, nên hai anh có lý để tranh
dành của cải họ được kế thừa.
Câu “Hư không trên các sự hư không” không thể hiện điều cam chịu
nhưng mở ra con đường ân sủng cứu độ. Thật khôn ngoan khi biết rằng thế giới mà
chúng ta đang sống không mang lại ý nghĩa tối hậu chúng ta tìm kiếm trong cuộc
đời. Nhưng cũng thật sai lầm khi để mình bị giam hãm trong sự phi lí của thế
gian này. Thánh Phaolô trong bài đọc II mời gọi chúng ta tìm kiếm những sự cao
siêu trên trời (Cl 3, 1).
Câu hỏi được đặt ra cho chúng ta: chúng ta đang bám víu vào ai và
cái gì? Dụ ngôn Đức Giêsu kể trên dành cho chúng ta là những kẻ đang ngồi đây,
đang tiêu tán do những dự án và lo lằng mà không biết rằng thế giời này là hư
không (ý nghĩa văn chương hư không có nghĩa là hơi nước đọng lại, phù du),
chúng ta hy vọng sẽ thỏa mãn và ổn định lâu dài. Một ngày kia, người giầu tỉnh
giấc, đau buồn vì của cải thế gian này không còn là của ông nữa.
Người nhà giầu bị trách, không phải vì ông thu góp của cải, những
của cải, vật chất đời này không phải là xấu, nhưng tự bản chất, chúng không có
giá trị bền vững. Xấu là ở chỗ lòng ông bám bíu trọn vẹn vào chúng, ông đã quên
đi cái được cái mất và ý nghĩa cuộc đời. Ông muốn “nghỉ ngơi”, ông muốn bình an
“trong nhiều năm” (x. Lc 12,19). Liệu có phải là mục đích cuộc đời của ông không?
Tại sao? Ông có chắc rằng ông có thể tự cho mình nghỉ ngơi vui chơi không?
Những thứ ông đang sở hữu có mang lại sự nghỉ ngơi, bình an và niềm vui không?”
Đó chính là lý do mà Đức Giêsu cho ông là “kẻ ngu dại” (Lc 12,20). Vì hạnh phúc
bền lâu không đến từ thế gian này mà đến từ Thiên Chúa. Ông đã nhầm khi chọn
cái tạm bợ (đời này) làm chỗ dựa bền vững.
Mỗi lần “kẻ ngu dại” trong Tin Mừng xuất hiện là một lần Thánh
Phaolô hỏi chúng ta về vấn đề này: trong cuộc đời, anh em có “bê tha, nhơ bẩn,
dục vọng, ước muốn sấu và thèm khát hưởng thụ không”? Chúng ta có chắc rằng “Hư
không trên hết các sự hư không”? Trong đời ta có còn những thần tượng tạm bợ ở
đời này không? Đây là lúc chúng ta gạt bỏ “những thủ đoạn của người xưa”, vì
ngu dại chọn lựa sự hư không khi Đức Kitô trao bạn cho chúng ta những phương
tiện để xây dựng trên sự bền vững.
Phải chăng lời của ông Cô-he-lét trong sách Giảng Viên: “Hư không
trên hết các sự hư không” (Gv 1,2), không phải là một tiếng kêu đầy thất vọng
và chán chường sao? Tác giả của Sách Giảng Viên đã bày tỏ nỗi buồn và thất vọng
của mình về sự đời, về những việc làm thuần túy nhân loại, vì chúng không mang
lại lợi ích bền lâu cho những người ra công thực hiện chúng và chúng không hề
có giá trị tồn tại vĩnh cửu.
Đức Giêsu và tác giả Sách Giảng Viên nhắn nhủ chúng ta hay rằng,
tất cả là hư không, là lầm lẫn khi con người chỉ lo tìm địa vị, quyền hành và
đặt hết tin tưởng của mình vào những sự vật chóng qua, mà lại sao nhãng việc
tích trử các của cải thiêng liêng, thực thi các việc lành phúc đức bác ái, thì
chỉ là những kẻ dại dột và thua thiệt. Vì một ngày kia, khi chết, chúng ta sẽ
làm được gì với những thứ của cải vật chất kia mà chúng ta từng ký cóp cả đời?
Chúng ta đã trang bị, sửa soạn cho mình được những gì khi phải ra đứng trước
tòa Thiên Chúa? Mọi vất vả khó nhọc của những kẻ sống như thế sẽ hoàn toàn hư không!
Đây là một lời dạy khôn ngoan luôn mang tính cách thời sự. Vì trong
thời đại chúng ta, con người đang bỏ quên đi các giá trị tinh thần vĩnh cửu và
cố chạy theo tìm kiếm những tạm thời sẽ qua và sẽ hết.
Qua những suy tư trên, chúng ta thấy điều cơ bản cho cuộc sống vĩnh
cửu mà con người cần phải tìm đạt tới, không phải là thế giới hữu hình, nhưng
là những thực tại của Nước Thiên Chúa, những thực tại tinh thần chứa đựng các
giá trị vĩnh cửu.
11. Nghệ thuật
làm giàu – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một ngày nọ, vua Nghiêu đi tuần thú đất Hoa, viên quan địa phương
đất ấy ra nghênh đón và chúc vua rằng: “Xin chúc nhà vua sống lâu”. Vua Nghiêu
nói: “Đừng chúc thế!” Viên quan lại chúc: “Chúc nhà vua giàu có”. Vua Nghiêu
lại nói: “Đừng chúc thế”. Viên quan chúc nữa: “Xin chúc nhà vua đông con trai”.
Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế”. Quan lấy làm lạ mới hỏi nhà vua: “Sống
lâu, giàu có, đông con trai, ai cũng thích cả, sao nhà vua chẳng muốn?” Vua
Nghiêu đáp: “Đông con trai thì sợ nhiều. Giàu có thì việc nhiều. Sống lâu thì
nhục nhiều. Ba điều ấy không mang lại nhân đức nên ta từ chối.
Viên quan tâu: “Nhà vua nói thế thực là bậc quân tử. Nhưng trời
sinh ra mỗi người phải có một việc. Nếu đông con trai, hãy cắt đặt mỗi người
một nhiệm vụ thì có lợi chứ có gì mà sợ? Giàu có mà đem phân phát cho người
nghèo thì còn công việc gì mà lo? Ăn uống có chừng mực, thức ngủ có điều độ,
trong lòng thanh thỏa, thiên hạ tài giỏi thì vui cái vui của họ, trăm tuổi nhắm
mắt về cõi trời. Một đời chẳng gây tai họa gì, hỏi có gì là nhục?”
Đứng trước tiền của, người ta có những thái độ rất khác nhau: Vua
Nghiêu vì quá thận trọng chỉ nhìn thấy mặt trái của đồng tiền, nên của cải
không sinh ích gì cho ông. Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay lại quá cậy
dựa vào tiền của, nên khi thần chết bất ngờ đến thì tiền muôn bạc nén cũng
không cứu được linh hồn ông. Duy chỉ có viên quan địa phương là có thái độ đúng
mực về tiền bạc: Nếu giàu có thì đem chia sẻ cho người thiếu thốn. Đó chính là
sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời
này mà “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,21). Đó chính là
nghệ thuật làm giàu đích thực.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó.
Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân
hàng, cũng chỉ là con số không. Chúng ta chỉ thực sự giàu có trước mặt Thiên
Chúa khi chúng ta dốc cạn kho cho người nghèo khó, mở hầu bao giúp kẻ khốn
cùng. Chúa phán: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền
chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp
không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33)
Quả thật, một kho lẫm dù có được khóa chặt đến đâu cũng không ngăn
cản được kẻ trộm. Nhưng chỉ có những tài sản đích thực mà không ai có thể đánh
cắp, chính là những tài sản thiêng liêng.
Thực ra, khi người giàu chia sẻ của cải cho kẻ nghèo, cũng chỉ là
bổn phận của người quản lý mà thôi. Augier đã nói một câu chí lý: “Trong dự tính của Thiên
Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, những ai “ê hề của cải, dư xài
nhiều năm” mà “cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19) chính là những
kẻ ăn cắp. Thánh Tôma Aquinô quả quyết: “Những người giàu đã đánh
cắp của người nghèo khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.
Có thể nói, chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta thu lợi
quá mức trên sức lao động của kẻ khác.
Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta giữ lại đồ đạc tiện
nghi mà chẳng bao giờ dùng đến.
Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta ăn chơi, mua sắm như
ném tiền qua cửa sổ.
Thánh Basiliô không một chút ngần ngại nói với chúng ta rằng: “Tấm bánh mà bạn giữ lại
là của người đói khổ, chiếc áo mà bạn cất trong vali là của kẻ trần trụi”.
Lạy Chúa, Chúa để 80% của cải trên thế gian này vào tay 20% những
người giàu có, là để họ biết chia sẻ cho những người thiếu thốn, là để họ “làm
giàu trước mặt Thiên Chúa”, chứ không phải để biến họ thành những kẻ đánh cắp.
Xin dạy chúng con chỉ nên giữ lại những gì cần thiết, và biết san
sẻ hồng ân của Chúa cho mọi người, để thế giới này không còn cảnh bất công,
nghèo đói, nhưng sẽ là một thế giới công bằng và yêu thương. Amen.
12. Tích
trữ kho tàng trên trời
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có một vị lãnh chúa rất giàu có, gia sản ruộng vườn bao la. Gần nơi
ông đang ở có một người nông dân nghèo nhưng lòng đầy tham lam. Ngày nọ, vị
lãnh chúa nói với người nông dân: “Tôi sẽ cho anh tất cả những phần đất nào mà
anh có thể chạy bao quanh, tính từ khi mặt trời bắt đầu mọc cho đến khi mặt
trời lặn. Nếu anh trở về đến điểm xuất phát trước khi mặt trời chìm khuất sau
đồi, thì anh sẽ làm chủ tất cả những vùng đất anh đã chạy bao quanh. Nếu không,
anh chẳng được gì.”
Người nông dân nghe lời hứa đó mà tưởng như mơ! Đúng là một cơ hội
ngàn vàng. Thế là đến sáng hôm sau, khi mặt trời vừa nhô lên khỏi rặng núi, anh
bắt đầu cắm đầu cắm cổ chạy trối chết. Trước hết, anh chạy bao quanh một khu
rừng già đầy gỗ quý. Thế là chỉ trong buổi sáng, anh đã trở thành một chủ nhân
của hàng trăm mẫu rừng.
Mặt trời lên cao, nắng như đổ lửa, mồ hôi đầm đìa, nhưng anh vẫn
tiếp tục chạy phăng phăng bao quanh đồng lúa phì nhiêu bao la bát ngát. Thế là
đến trưa, anh đã là người điền chủ giàu có nhất vùng.
Mặt trời sắp lặn, chỉ cách ngọn đồi chỉ chừng một con sào, anh lại
thấy một con suối lớn nước chảy lênh láng tràn bờ. Anh tự nhủ lòng: Nếu ta
không làm chủ được con suối nầy thì toàn bộ cánh đồng mà ta vừa thu tóm được
phải đành bỏ khô. Thế là anh dồn hết hơi tàn lực kiệt, quyết chạy bao quanh con
suối.
Cuối cùng, lồng ngực như muốn vỡ tung ra, anh thở hồng hộc như con
bò bị thọc tiết... Mặt trời bắt đầu lặn, chỉ còn là một vầng bán nguyệt đỏ ối
sắp chìm xuống đỉnh đồi. Anh phải cố chạy nhanh cho tới nơi xuất phát, nếu
không kịp thì chỉ còn là hư không.
Và rồi khi chỉ còn mươi bước nữa là tới đích, anh ngã gục xuống. Vỡ
tim!
Thế là cuối cùng, anh chỉ còn được hưởng vài thước đất để chôn vùi
thân xác!
(Phỏng theo câu chuyện nhan đề: “Chỉ cần ba tấc đất” của Văn Hào
Leon Tolstoi)
* * *
Người phú hộ trong Tin Mừng hôm nay cũng học theo sách đó.
Khi ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, ông “mới nghĩ bụng rằng: 'Mình
phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!' Rồi ông ta tự bảo: 'Mình
sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ
tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình
bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi
cho đã!' Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: 'Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi
lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?' Rồi Chúa Giêsu kết
luận: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt
Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”
Xét cho cùng, trong thế giới hôm nay, những hạng người ngốc nghếch
như vậy không hề thiếu.
Trong tôi vẫn có lòng tham của người nông dân ngu dại trên đây,
hằng thúc đẩy tôi thu tóm, ky cóp cho thật nhiều, không bao giờ thấy đủ.
Trong tôi cũng có một gã phú hộ dại khờ, tìm cách cơi nới thêm kho
lẫm để chất cho đầy của cải chóng qua.
Nếu chỉ biết thu gom, ki cóp của cải vật chất đời nầy, chỉ biết lo
cho nhu cầu vật chất mà lãng quên linh hồn thì chúng ta cũng đang đi vào vết xe
của người phú hộ đáng thương kia.
Tất nhiên là mỗi người cũng cần phải tạo thêm nhiều của cải để bảo
đảm cho đời sống phần xác, cho mình và cho xã hội, nhưng nếu chưa tạo được kho
báu thiêng liêng thì khác gì “dã tràng xe cát biển đông”!
Trái lại, nếu hôm nay chúng ta tích trữ thật nhiều của cải thiêng
liêng, trở nên người giàu có trước mặt Thiên Chúa, thì chúng ta có thể an tâm
tự nhủ lòng mình: Hồn ta ơi, hãy hoan lạc và mừng vui, vì ngươi đã có một kho
báu trên trời. Mai đây tha hồ vui hưởng!
13. Cuộc đời
là phù vân
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc đời là phù vân. Đó là một chân lý mà mỗi người chúng ta đều
nhìn nhận. Không có gì trong cuộc đời là bền vững, là vĩnh cửu. Tất cả đều tàn
phai theo thời gian. Tiền tài, danh vọng và sắc đẹp rồi cũng sẽ có một ngày
vuột ra khỏi tầm tay của chúng ta. Thế nhưng, mỗi người lại sống cuộc đời gọi
là phù vân này rất khác nhau. Có người nghĩ cuộc đời quá ngắn nên tranh thủ
hưởng thụ bằng cuộc sống ăn chơi sa đoạ. Có người lại “tối mày tối mặt” để tích
lũy cho mình thật giầu có. Có người tìm công danh. Có người trau truốt cho sắc
đẹp. Có người đi tìm tình bạn. Có bao nhiêu người là có bấy nhiêu cách sống
khác nhau.
Vua Salomon đã hiểu ý nghĩa cuộc đời là phù vân, nên ông đã thốt
lên rằng: “Phù vân rất mực phù vân, khó nhọc vất vả thế rồi phải trao lại cho
kẻ không vất vả hưởng”.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy hai nhân vật tiêu biểu cho hai
hạng người: tham quyền và tham tiền. Kẻ tham quyền thì dùng quyền bính để ăn
chận tài sản người khác. Kẻ tham tiền thì lo vun quén cho đầy kho. Mẫu số chung
của cả hai loại người này là ích kỷ, chỉ lo cho bản thân và không màng tới tha
nhân, cho dù đó là người thân của mình. Người anh đã dùng quyền bính để khước
từ việc chia gia sản cho người em. Người phú hộ vì tham tiền nên chỉ lo nghĩ
đến việc tích góp của cải đến nỗi không còn thời giờ dành cho tha nhân. Xem ra
cuộc đời của họ không có hạnh phúc vì họ không có tình bạn. Họ coi tha nhân là
kẻ thù, là kẻ đang tranh giành địa vị và tiền tài với mình. Họ không cần tình
bạn, họ chỉ cần tiền. Họ không cần người thân, họ chỉ cần lợi dụng người khác
cho tham vọng của mình. Sống không có tình bạn như cây xanh thiếu lá, chỉ trơ
trụi và khô cần. Cuộc đời của họ sẽ không có niềm vui và hạnh phúc. Cuộc đời
của họ càng không có hậu. Vì họ không có gia sản để dành cho đời sau là những
việc lành phúc đức trong cuộc đời hôm nay.
Nhưng tiếc thay, nhân loại hôm nay vẫn còn đó những con người như
thế. Tiền và quyền luôn làm xa lìa tình người. Tiền và quyền luôn làm cho con
người biến chất đến tha hoá không còn tính người. Xã hội vẫn đầy dẫy những bất
công và bất nhân. Bất công vì kẻ đổ mồ hôi lao nhọc mà vẫn đói nghèo xác xơ
trong khi đó lại có kẻ “ngồi nhà mát ăn bát vàng”. Các quan tham từ nông thôn
đến thành thị đều rủng rỉnh bạc vàng còn dân lành lại lầm than cơ cực. Bất nhân
vì thiếu tôn trọng lẫn nhau, đến nỗi coi mạng người như phương tiện để khai
thác trục lợi. Xã hội hôm nay cho rằng sống là để tranh đấu. Tranh đấu nên có
kẻ được người thua. Tranh đấu nên phải giành giựt lẫn nhau, nhanh thì được chậm
thì mất. Cuộc sống trở nên một bãi chiến trường. Kẻ thắng thì cười. Người thua
thì khóc. Tất cả như những con thiêu thân đang lao vào cuộc chơi mà không hề
biết nguy hiểm đang chờ trước mắt, cái chết gần kề mà lời Chúa hôm nay nhắc
nhở: “Hỡi kẻ dại khờ, nội trong đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi thì
những gì ngươi sắm sẽ thuộc về ai?”.
Có ai đó đã ví von về cách tìm kiếm và sử dụng của cải đời này như
sau:
“Người công nhân thì đổ mồ hôi để có được nó
Kẻ hoang phí thì đốt nó
Chủ ngân hàng đem nó đi vay
Đàn bà xài nó
Kẻ lưu manh làm giả nó
Nhân viên thuế vụ lấy nó
Người hấp hối lìa bỏ nó
Kẻ thừa kế tiếp thu nó
Người tiết kiệm thèm khát nó
Kẻ ăn trộm chộp lấy nó
Người giầu gia tăng nó
Người cờ bạc bị mất nó
Phần tôi thì dùng nó”.
Về phần tôi thì dùng nó, có lẽ đó là sự khôn ngoan mà Chúa Giêsu
cũng mời gọi chúng ta: “Hãy làm giầu trước mặt Chúa”. Hãy sử dụng tiền bạc và quyền bính để mang lại
lợi ích cho xã hội và cho con người. Đừng dùng nó cho bản thân của mình. Cũng
đừng xem nó như cứu cánh đời mình. Của cải và danh vọng không thể sánh với con
người nên đừng vì nó mà bán rẻ lương tri, đừng vì nó mà đánh mất tình người,
đừng vì nó mà lãng quên tình Chúa. Tất cả chỉ là phù vân. Sự sống đời sau mới
là vĩnh cửu. Và sự sống vĩnh hằng không thể mua bằng tiền bạc, càng không thể
tìm kiếm bằng vũ lực mà bằng lòng nhân nghĩa. Lòng nhân nghĩa đối với đồng loại
bao hàm tinh thần yêu thương và phục vụ. Yêu thương nên sẵn lòng dấn thân và
phục vụ vì lợi ích của tha nhân. Yêu thương nên sẵn lòng nhường nhịn và chia sẻ
lẫn nhau. Yêu thương nên sẵn lòng hy sinh bản thân mình để tìm niềm vui trong
phục vụ tha nhân.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết dùng gia sản là tài năng và khả
năng của mình để mua lấy bạn hữu Nước Trời mai sau. Amen.
14. Hãy mặc lấy Đức
Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Đêm Cầu Nguyện 25-7-2013, tại bãi biển Copacabana, Rio de Janeiro,
Đức Thánh Cha Phanxicô nói với giới trẻ rằng: “Hôm nay, cha muốn mỗi người
chúng ta chân thành tự hỏi: Chúng ta đặt niềm tin của mình vào ai? Vào chính
mình, vào vật chất, hoặc vào Chúa Giêsu? Tất cả chúng ta bị cám dỗ đặt mình ở
trung tâm, nghĩ rằng mình là cái rốn của vũ trụ, tin rằng một mình mình, tự
mình có thể xây dựng cuộc đời mình, hay nghĩ rằng đời sống mình chỉ có thể hạnh
phúc nếu được xây dựng trên của cải, tiền bạc hay quyền lực. Nhưng tất cả chúng
ta đều biết rằng không phải như thế! Chắc chắn rằng của cải, tiền bạc và quyền
lực có thể cung cấp cho chúng một cảm giác sung sướng nhất thời, một ảo tưởng
được hạnh phúc, nhưng chúng cuối cùng sẽ sở hữu chúng ta và làm cho chúng ta
luôn luôn muốn có nhiều hơn, không bao giờ thỏa mãn. Cuối cùng, chúng ta được
“đổ đầy” mà không bao giờ được nuôi dưỡng, và thật rất đáng buồn khi thấy những
người trẻ “được đổ đầy” mà yếu đuối. Tuổi trẻ phải mạnh mẽ, phải được nuôi
dưỡng bằng đức tin chứ không phải được đổ đầy bằng những thứ khác”.
Của cải, tiền bạc và quyền lực không phải là cùng đích của đời
người. Tin Mừng hôm nay nói về dụ ngôn ông phú hộ dại khờ. Ông phú hộ nghĩ
rằng: tiền bạc, của cải là tài sản có giá trị tuyệt đối. Với tài sản đồ sộ, ông
tưởng rằng bản thân mình từ nay sẽ được sung sướng, được an toàn mạng sống. Ông
tưởng mình đã tính toán khôn ngoan, nhưng ông không ngờ cái chết đến lúc đêm
khuya, hay có thể có biết bao rủi ro khác xảy đến. Ông chợt nhận ra mình phải
bỏ lại tất cả. Tài sản không níu được ông, cũng không vững như ông nghĩ. Những
gì ông thu tích như giọt nước lọt qua kẽ tay. “Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta
sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã soạn kia sẽ về tay ai?”. Tiền
bạc, của cải, quyền lực, danh vọng, cuối cùng vẫn chỉ là phù vân (Gv 1,2),
chẳng có nghĩa lý gì hết, nếu người ta không biết sử dụng nó. “Vì không phải dư
giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12,15).
Nhưng những dự định ông phú hộ cho là khôn ngoan thì Chúa Giêsu lại
bảo đó dại khờ.
Nhà phú hộ dại khờ vì không phân định đâu là tài sản đích thực và
đâu là tài sản tạm thời chóng qua, mau hư nát. Dại khờ vì ông nghĩ rằng có thể
xây dựng cuộc đời mình trên nền tảng của cải nhưng nó chỉ là những thứ chóng
tàn phai, nay còn mai mất. Dại khờ vì ông chỉ nghĩ đến của cải vất chất mà quên
mất Thiên Chúa.
Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy: Hãy lo làm giàu trước mặt Thiên
Chúa.
Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là trở nên giàu có như Chúa Giêsu,
luôn “yêu thương, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng” (Cl 3,12) và “trên tất cả là
lòng mến, giềng mối của mọi trọn lành”. (Cl 3,14).
“Lắm của cải đâu quý bằng danh thơm tiếng tốt, vàng với bạc nào
trọng bằng được mến được thương” (Cn 22,1). Trong cuộc đời này, có biết bao
người giàu tình thương, chăm lo cho bệnh nhân, chăm sóc trẻ em tật nguyền, tiếp
đón người khổ đau bất hạnh, ưu tư lo lắng cho người sầu khổ, dấn thân phục vụ
cho các hoạt động xã hội, bác ái và thăng tiến con người...
Có thể nói được là không ai giàu có, tự do, và mạnh mẽ hơn ‘người
giàu trước mặt Chúa”, người mà niềm tin vào Chúa giúp họ vượt lên trên mọi tài
sản trần gian, vì đã có “Chúa là nơi họ ẩn náu”(Tv 13,6). Vì thế, mối phúc đầu
tiên được dành cho người nghèo, người “đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức
Chúa làm chỗ nương thân” (Gr 17,7). Người giàu trước mặt Chúa không phải là
người có nhiều tài sản, mà là người tài sản chỉ đủ dùng nhưng biết lo tìm kiếm
Nước Trời: “chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra
được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ”(1Tm 6,7-8).
Phải biết coi trọng con người hơn tiền bạc. Tình người đáng giá hơn
giàu sang phú quý. Tiền bạc rồi sẽ hết. Chẳng ai mang theo gia tài khi chết. Có
chăng là tình yêu thương đã chia sẻ với tha nhân nơi trần thế này để trở nên
“giàu có trước mặt Thiên Chúa” trên Thiên Quốc. Hãy sống quảng đại, mở rộng quả
tim, mở rộng bàn tay để chia sẻ và cảm thông với mọi người, như thánh Phaolô
khuyên dạy: “Hãy làm ơn làm nghĩa, hãy giàu có việc lành, hãy hào phóng, rộng
rãi chia sẻ để tích trữ vốn liếng cho cuộc đời mai sau”.
Để “giàu có trước mặt Thiên Chúa”, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi
các bạn trẻ đến với Đức Kitô, để sống đức tin, hy vọng và tình yêu.
“Hãy mặc lấy đức tin” và cuộc sống của các con
sẽ có một hương vị mới, nó sẽ có một la bàn để chỉ đường cho các con.
“Hãy mặc lấy hy vọng” và mỗi ngày của các con
sẽ được soi sáng và chân trời của các con sẽ không còn tăm tối, nhưng sáng sủa.
“Hãy mặc lấy tình yêu” và cuộc đời của các con
sẽ như một căn nhà được xây trên đá, cuộc hành trình của các con sẽ là cuộc
hành trình vui mừng, bởi vì các con sẽ gặp nhiều bạn bè để cùng hành trình với
các con.
Nhưng ai có thể ban cho chúng ta tất cả những điều ấy? Đó chính là
Chúa Giêsu, Đấng mang Thiên Chúa đến với chúng ta và mang chúng ta đến với
Thiên Chúa. Với Người, toàn thể cuộc đời của chúng ta được biến đổi, đổi mới,
và chúng ta có thể nhìn thực tại với cái nhìn mới, từ quan điểm của Chúa Giêsu,
với đôi mắt của Người (x.TĐ Lumen Fidei,18).
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” trong cuộc sống của các
con, và các con sẽ tìm thấy một người bạn mà nơi Người các con luôn luôn có thể
tin tưởng.
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” và các con sẽ thấy đôi
cánh hy vọng giang ra để các con hành trình với niềm vui hướng về tương lai.
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” và cuộc đời các con sẽ tràn đầy tình yêu của Người; nó sẽ là một
cuộc đời sinh đầy hoa trái. Vì tất cả chúng ta đều muốn một cuộc đời sinh hoa
trái, một cuộc đời nói về sự sống với những người khác!
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” trong cuộc sống của các
con. Trong những ngày này, Người đang chờ các con: hãy cẩn thận lắng nghe Người
và sự hiện diện của Người sẽ làm cho tâm hồn các con được hăng say.
“Hãy mặc lấy Đức Kitô”: Người đang chờ các con
trong Bí Tích Hòa Giải, để lòng thương xót của Người chữa lành tất cả mọi vết
thương gây ra bởi tội lỗi. Đừng sợ cầu xin ơn tha thứ của Thiên Chúa! Ngài
không bao giờ biết mệt khi tha thứ cho chúng ta, như một người cha yêu thương
chúng ta. Thiên Chúa là lòng thương xót tinh tuyền! “Hãy mặc lấy Đức Kitô”:
Người đang chờ các con trong Thánh Thể, Bí Tích của sự hiện diện, và của sự hy
sinh vì tình yêu của Người, và Người cũng chờ đợi các con trong lòng nhân đạo của
nhiều người trẻ là những người sẽ phong phú hóa các con với tình bằng hữu của
họ, khuyến khích các con bằng việc làm chứng cho đức tin của họ, và dạy các con
ngôn ngữ của đức ái, sự tốt lành và phục vụ. Các người trẻ thân mến, các con
cũng có thể làm những chứng nhân vui vẻ của tình yêu của Người, chứng nhân can
đảm của Tin Mừng của Người, để mang đến trong thế giới này một chút ánh sáng
của Người. Hãy để cho mình được Chúa Giêsu yêu thương, Người là người bạn không
bao giờ lừa dối. (x.Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi Cầu Nguyện
ở Copacabana).
Giáo huấn của Thánh Phaolô trong bài đọc 2 gởi tín hữu Côlôsê là:
anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng
Tạo Hoá. Đấng Tạo Hoá là Chân Thiện Mỹ. Hướng về Chân Thiện Mỹ, mọi người đều
được nâng cao, trở nên con người đúng nghĩa hơn, trọn vẹn hơn, gần với Thiên
Chúa hơn, giống Chúa Giêsu hơn.
15. Đồ dại!
– André Sève.
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Tôi lắng nghe người dại này đang suy tính như thể ông là người duy
nhất trên thế giới và hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình: Tôi… tôi… Những kho
lẫm của tôi, lúa gạo của tôi… Tích trữ, lợi dụng cuộc sống lâu dài, luôn mãi.
Ông ta điên, ông ta làm tôi ghê tởm. Ông ta là người duy vật đến độ đó! Ăn uống
phủ phê, từ chối nhìn xa hơn. Tôi vỗ tay khi Chúa la ông ta: “Đồ dại!” Thật là đúng. Nhưng thế
giới đã trở nên một xã hội tiêu thụ trứ danh. Xã hội này có sản sinh loại người
dốt đặc cán mai này hay không? Sự “Khắc Khổ” Tây phương dù sao thì
cũng là sự dồi dào và tôi không thoát được sự tìm kiếm an ninh và tiện nghi như
tất cả mọi người. Những ý tưởng của tôi là gì? Sức khoẻ, lương bổng, căn nhà
phải trả góp, cái máy truyền hình phải đổi, chiếc xe hơi, số tiền hưu…
Những ý tưởng xấu chăng? Đúng, nếu đó là những ý tưởng hoàn toàn
cai trị tôi, xua đuổi dần những ý tưởng Kitô lớn lao của tôi: Yêu mến Chúa,
thay đổi thế giới, hiến thân cho anh em, dùng thì giờ để cầu nguyện.
Chúng ta là một chiến trường thật sự đối với hai loại ý tưởng độ
lượng và ích kỷ, tin tưởng và duy vật. Khi Chúa thấy chúng ta đang sa lầy trong
những dự định trong đó chỉ có vấn đề tham vọng và tiện nghi, làm sao Ngài không
la lên “Đồ dại!” được? May cho người vừa nghe tiếng la này đúng lúc! Bởi vì có câu tiếp
theo: “Đêm nay, linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại”. Điều đó có lẽ không gây
ấn tượng cho chúng ta. Toàn là thấy những người khác chết mà thôi. Tuy nhiên,
rồi chúng ta cũng phải chết!
Nếu chúng ta để mình bị lây nhiễm; có ai mà hoàn toàn miễn nhiễm! -
do thuyết định mệnh của người ngoại đạo, chúng ta hãy xem lời mắng của Chúa
Giêsu là dành cho chúng ta: “Đồ dại!” Một người khôn, một Kitô hữu, không thể sống mà không nghĩ rằng
cuộc sống của mình bao gồm hai giai đoạn: ở dưới thế này và vĩnh cửu. Cuộc sống
trần thế của chúng ta chỉ huy cuộc sống vĩnh cửu của chúng ta. Thực sự là dại
dột khi chỉ nghĩ đến những gì sắp diệt vong mà không chú ý tới những gì sẽ tồn
tại. Chúng ta có nguy cơ chết như người đặt cuộc đời mình trên những vựa lúa: “Đó là điều xảy đến với kẻ
thu tích của cải cho mình thay vì làm giàu trước nhan Thiên Chúa.”
“Trước nhan Thiên Chúa” Điều này cho chúng ta
biết ý nghĩa của từ dại trong Thánh Kinh:“Người dại dột chính là kẻ quên
lãng Thiên Chúa.” Chính vì thế, người ấy mất dần điều mà người ấy có được khi lui tới
với Chúa nhờ sự khôn ngoan. Người ấy dấn sâu vào chủ nghĩa duy vật và sự bế tắc
của tất cả những gì người ấy không thể để vào quan tài của mình.
Vở kịch nhỏ về tâm lý: tôi thấy mình đang nằm
trên giường bệnh viện, đang hấp hối. Tôi mang gì theo lên trời? Người ta chỉ
mang theo tình yêu thực sự đã được sống, thứ tình yêu dần dần dệt nên ở dưới
thế này hữu thể vĩnh cửu của chúng ta. Lạy Chúa, xin hãy làm cho con từ bây giờ
lại trở nên ham mê tình yêu chứ không phải của cải.
16. Làm
giàu vì biết chia sẻ – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Một trong những nét bất biến của tâm lý nhân loại là bất cứ điều gì
cũng quy về mình. Chúng ta để sang một bên những khảo sát công phu chẳng ràng buộc
gì hết, có thể được chú ý như một trò chơi luyện trí. Chúng ta tạm đứng ở tầm
mức người ta cảm thấy cuộc sống cuộc sống mình, quyền lợi mình bị liên quan.
Một lời giảng dạy cao siêu sẽ bị hiểu theo chiều nào thuận cho quyền lợi riêng.
Ở đây cũng vậy.
Đức Giêsu vừa dạy rằng con người sống ở thế gian phải quan tâm đến
sự phán xét của Thiên Chúa sau này. Một thính giả thấy vậy ngỏ lời: “Thưa Thầy,
xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi”. Nghe rõ lời Chúa, nhưng người ấy
giải thích theo lòng tham, cho rằng: Rabbi này nói hay, hình như có uy quyền,
ta xin Thầy can thiệp giải quyết dùm vấn đề tranh chấp gia tài. Lời dạy rất
quan trọng của Đức Kitô lọt vào tai người ấy, biến thành một cách giải thích
lợi cho mình, hợp với quyền lợi riêng tư.
Đức Giêsu trả lời như vẫn thường làm: Phải phân biệt chính yếu và
phụ thuộc, vĩnh cửu và chóng qua, quan trọng và kém quan trọng. Gia tài, tư sản
giúp được gì cho người ta khi đến trước tòa Thiên Chúa? Nguy cơ là muốn áp dụng
lối giải thích vụ lợi, muốn thu hẹp lời dạy cao siêu của Phúc Âm. Chúng ta liệu
có tránh được cám dỗ ấy không?
1) Điều quan trọng là không được biến Phúc Âm thành một bộ luật
cách mạng xã hội, không được định nghĩa sứ mạng dưới thế của Đức Kitô như một cách
mạng định kỳ với mục tiêu phân chia của cải. Phúc Âm chủ trương công bằng, nhưng
đòi hỏi nhiều hơn nữa. Trong quan hệ người với người, công bằng chưa đủ, vì
nhược điểm nhỏ nhất của nó là tính chất bấp bênh. Phúc Âm đi vào vấn đề chính
yếu, bắt buộc con người phải ý thức rõ về mình trước con mắt Thiên Chúa. Đức
Giêsu nói: “Hà tất tranh giành nhau về những của cải chóng qua, chóng hết? Tại
sao có thể tự tại trong tình trạng an toàn vật chất giả dối? Chốc nữa đây, khi
phải trả lời câu hỏi tối hậu của Thiên Chúa về cuộc đời mình, các ngươi sẽ ăn
nói làm sao? Những câu hỏi này của Đức Kitô đặc biệt gửi đến những Kitô hữu và
cả đến những xã hội, những nền văn minh nữa. Những kẻ có trách nhiệm trực tiếp
nhất phải trả lời là những Kitô hữu. Chúng ta nhận xét thêm, sở dĩ một số cách
mạng phát sinh bởi trước kia hoặc hiện nay người Kitô hữu không trả lời đúng
cách những câu hỏi của Đức Kitô.
2) Đức Giêsu nói về sự cần thiết tránh tích trữ của cải cho chính
mình, trái lại phải làm giàu theo ý định của Thiên Chúa. Ở đây Chúa nói ra một ý
tưởng Người thường nhắc tới, là sự chia sẻ trong tình huynh đệ. Công bằng chỉ
đưa ra những đòi hỏi giới hạn, công bằng là một thái độ đối xử tối thiểu. Vấn
đề chính yếu trong con mắt Thiên Chúa là sự công bằng sung mãn liên kết người
với người như anh em ruột thịt, nó hậu thuẫn cho tình yêu, cho bác ái. Không
thể có tình huynh đệ nếu thiếu điều kiện tiên quyết là sự công bằng. Tuy vậy,
công bằng mà tuyệt nhiên không thương yêu nhau thì cách đối xử công bằng cũng
chẳng bền vững.
Chính tình yêu mở rộng tấm lòng để sẵn sàng chia sẻ, tình yêu khiến
chúng ta trở nên giàu có trước con mắt Thiên Chúa.
17. Suy niệm của
Charles E. Miller
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)
CẦU NGUYỆN NHƯ NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO VỚI ĐỨC GIÁO HOÀNG.
Trong cuốn sách Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã trả lời câu hỏi: “Giáo Hoàng đã cầu nguyện như thế nào, cho ai và
cầu nguyện những gì?” Ngài đã trả lời bằng một câu mở đầu của Hiến chế vè Giáo
Hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Vatican II, điều này không có gì ngạc
nhiên bởi vì ngài là Giám mục của Công đồng, ngài có mặt trong một ủy ban soạn
thảo tài liệu này và được viết bằng tiếng Latin là Vui Mừng và Hy Vọng. Đây là
đoạn Đức Giáo Hoàng thuộc nằm lòng: “Niềm vui và hy vọng, đau thường và những
lo âu của dân chúng trong thời đại này, đặc biệt là những người nghèo khổ hoặc
bị đau buồn bởi bất cứ cách nào là niềm vui và hy vọng, những đau thương và lo
âu của những người đi theo Đức Kitô”. Đây là tâm tình và sự hoàn hảo theo phẩm
giá của Chúa Giêsu: “Hãy tránh tham lam trong mọi hình thức”. Tham làm thúc đẩy
chúng ta cầu nguyện cho những lý do ích kỷ hơn là cầu nguyện cho những người có
nhu cầu như Đức Giáo Hoàng đã làm.
Dĩ nhiên Đức Giáo Hoàng như là mục tử của Giáo Hội phổ quát, dĩ
nhiên ngài không được quên bất cứ ai hoặc bất cứ nhu cầu nào có liên quan đến
ngài, đặc biệt trong lời cầu nguyện của ngài. Và những gì là đúng cho Đức Giáo
Hoàng thì điều đó cũng đúng với mỗi người chúng ta theo những cách thế riêng
của mình khi chúng ta mang danh”là người Công giáo”, một danh xưng chỉ định
rằng chúng ta là một Giáo Hội phổ quát và không giới hạn trong một dân tộc nào,
một quốc gia nào, một văn hóa nào.
Chủ nghĩa Công Giáo của chúng ta và những nỗ lực của chúng ta để
lướt thắng những tham lam được tỏ hiện bằng việc chúng ta cầu nguyện trong khi
cử hành phụng vụ Thánh Thể. Điều đặc biệt ý nghĩa là lời kinh của các tín hữu.
Danh xưng này chỉ định rằng, sự cầu nguyện là phần thực hành của chức linh mục
cộng đồng, điều đó được tuôn tràn từ bí tích Rửa tội, chức linh mục cộng đồng
đã được tuôn tràn từ bí tích Rửa tội. Được biết như là”sự cầu bầu phổ quát”.
Danh xưng này chỉ định rằng chúng ta có bổn phận phải cầu nguyện cho tất cả mọi
người chứ không phải chỉ đơn giản những nhu cầu riêng biệt của chúng ta. Chúng
ta phải dâng lời cầu xin cho Giáo Hội tại địa phương cũng giống như trên khắp
thế giới, cho các vị lãnh đạo đời, những người bị áp bức và những người có nhu
cầu, cũng như cho tất cả mọi người được ơn cứu độ. (x.. lời giới thiệu chung
của sách lễ Roma số 45).
Kinh nguyện Thánh Thể cũng liên hệ trong câu mở đầu của Hiến chế về
Giáo Hội trong thế giới ngày nay. Lời kinh nguyện Thánh Thể thứ ba đã cầu
nguyện một cách đặc biệt hầu như không bỏ sót hoặc quên bất cứ ai: “Lạy Chúa
xin cho lễ hy sinh này tuôn đổ bình an và ơn cứu độ cho tất cả thế giới. Xin
hãy cho tăng thêm sức mạnh cho đức tin và lòng mến… cho toàn thể mọi người mà
con của Cha đã tụ họp lại. Trong tình yêu nhân từ và hợp nhất toàn thể con cái
của Cha ở bất cứ nơi nào mà họ hiện diện… Xin hãy tiếp đón vào vương quốc của
Cha… tất cả những ai rời bỏ thế gian này trong tình thân hữu với Cha”.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể và sẽ cầu nguyện trong chính những nhu
cầu của chúng ta, cho những người mà chúng ta yêu mến, chúng ta cũng cần nhắc
nhở về lời của Thánh Phaolô rằng: “Chúng ta phải đưa tâm trí của chúng ta đến
với những lãnh vực cao hơn. Chúng ta sẽ hướng tới những lãnh vực cao hơn khi
chúng ta quảng đại và không ích kỷ trong lời cầu nguyện. Phải thêm rằng chỉ có
kinh nguyện cho những người có nhu cầu thôi thì không đủ. Chúng ta cũng cần
hành động, hành động đó đã được linh hứng và thúc đẩy bởi kinh nguyện. Người
khác có thể lâm vào sự nghèo khổ, coi thường những người lãnh lương hưu trí,
khinh bỉ dân nhập cư, và chọn lựa cuộc sống tách biệt khỏi những khốn khổ của
con người nhưng họ không phải là những người Công giáo. Chúng ta tin rằng”niềm
vui và hy vọng”, đau thương và những lo âu của mọi người trong thời đại này,
đặc biệt là những người nghèo khổ hoặc bất cứ những đau buồn cách nào, là những
niềm vui và hy vọng, đau thương và lo âu của người môn đệ Đức Kitô”.
18. Nguy hại của
việc tham lam của cải – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bài Phúc âm hôm nay tựu trung có thể nhắc chúng ta nhớ lại một điểm
quan trọng, đó là người đồ đệ của Chúa cần phải xây dựng đời sống của mình trên
chính Chúa, chứ không phải trên những của cải lợi ích vật chất. Lời xin của một
người vô danh, một người trong đám đông đến nghe Chúa Giêsu giảng: “Xin Thầy
bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Lời xin này xem ra là một yêu cầu hết sức
hợp lý từ quan điểm của người đến xin Chúa Giêsu.
Theo thói quen trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu, những vị thông
luật, những biệt phái lãnh đạo dân chúng thường có vai trò như những thẩm phán
của xã hội của chúng ta ngày nay. Họ giúp dân chúng giải quyết những tranh tụng
hàng ngày. Vả lại, Chúa Giêsu cũng rao giảng Tin Mừng của công bằng, tình
thương, bác ái. Vì thế, người đến xin Chúa: “Xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài
cho tôi”. Để nhìn về Chúa Giêsu như là một người có uy tín, một vị trọng tài uy
tín có thể giúp anh giải quyết vấn đề với người anh trong gia đình, anh có
quyền nghĩ như thế và đòi như thế. Vì Chúa Giêsu giảng dạy sự khôn ngoan, giảng
dạy lẽ phải và sự công bằng. Nhưng chúng ta hơi ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu
từ chối lời yêu cầu của anh: “Ai đặt tôi làm trọng tài xét xử những việc này”
Nhưng thật ra đây không phải là lời từ chối, nhưng những gì Chúa Giêsu kể tiếp
về dụ ngôn cho chúng ta thấy là Chúa Giêsu giúp anh hay giúp mỗi người chúng ta
giải quyết những vấn đề vật chất của mình.
Chúa Giêsu kể tiếp dụ ngôn về người giàu có chỉ biết xây dựng đời
mình trên của cải vật chất mà quên đi mối liên hệ sâu xa hơn với Chúa, mối liên
hệ của cuộc sống đời này và hạnh phúc đời sau. Chúa Giêsu nhắc lại một sự thật
căn bản là đời sống con người không phải chỉ giới hạn trên trần gian này mà
thôi, và cũng không phải chỉ được xây dựng trên của cải vật chất.
Nếu quả thật đời sống con người chỉ có trần gian này mà thôi thì
nếp sống của chúng ta có thể sẽ phải như là nếp sống mà một nhà hiền triết Hy
Lạp đã nói: “Cà phê đi em, hãy hưởng thụ cho đã rồi thôi”. Nhưng không phải chỉ
có thế, đời sống con người trên trần gian này là một giai đoạn của một cuộc
sống mãi mãi trong Chúa. Đây là sự thật căn bản mà Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho
tất cả mọi người cũng như cho người đến xin Chúa giải quyết một trường hợp cụ
thể trong cuộc sống hàng ngày là chia gia tài cho tôi.
Đặt cuộc sống con người trong viễn tượng đời đời mà mỗi người chúng
ta cần thực hiện điều này luôn luôn trong mọi giây phút. Chúng ta cần đặt cuộc
sống của mình trong viễn tượng đời đời, để rồi từ đó chúng ta mới có thể nhận
được sự soi sáng mà dễ dàng giải quyết những xung đột nhỏ nhoi, những tranh
chấp, ganh tị, thù hận làm mất sự bình an trong tâm hồn.
Chúng ta hãy xác tín rằng, Phúc âm Chúa đòi buộc ta sống công bằng,
chia sẻ và yêu thương. Nhưng đòi buộc này không phải là chỉ đòi buộc những việc
cụ thể bên ngoài mà thôi, mà đòi buộc ăn sâu vào trong lương tâm mỗi người
chúng ta. Phúc âm Chúa không phải chỉ là trọng tài để giải quyết những xung đột
của nhau, nhưng là giúp cho mọi người sống trọn giới luật yêu thương.
Áp dụng vào trường hợp của Giáo Hội hôm nay, chúng ta cũng có thể
nói Giáo Hội trong thời đại chúng ta đang sống cũng bị thách thức như Chúa Giêsu
ngày xưa. Có những người muốn Giáo Hội dấn thân thật cụ thể vào trong một đảng
phái chính trị, bênh vực lập trường của đảng phái chính trị nào đó, trình bày
những giải đáp kỹ thuật cụ thể cho những vấn đề được đặt ra trong xã hội.
Đôi khi đây cũng là những cám dỗ cho những người đồ đệ của Chúa,
cho mỗi người chúng ta. Nhưng ơn gọi và sứ mạng của Giáo Hội là một cái gì sâu
xa hơn, ăn sâu vào trong lương tâm của mỗi người. Giáo Hội được mời gọi rao
giảng, nhắc nhở cho mỗi người sống về sự thật căn bản mà Chúa đã mạc khải. Đời
sống con người không hạn hẹp trên trần gian này, nhưng là một mở rộng hướng về
cõi đời đời và được tiếp tục trong cõi đời đời.
Giáo Hội được mời gọi đề nghị và bảo vệ một tinh thần, tinh thần
Phúc âm và tinh thần này tác động sâu xa nơi từng lương tâm con người. Giáo Hội
mà mỗi người chúng ta không nên để mình bị ràng buộc bởi những chế độ, bởi
những lợi ích của phe nhóm. Chúng ta không đến với Chúa để xin Chúa bảo anh tôi
chia gia tài cho tôi. Mặc dù đây là một yêu cầu hết sức hợp lý, nhưng chúng ta
hãy đến với Chúa để Chúa soi sáng cho mỗi người chúng ta được nhận thức rằng,
đời sống con người của chúng ta trên trần gian này là một chuẩn bị để đi về
trời, để bước vào cõi đời với Chúa.
Trong viễn tượng, mỗi người chúng ta được mời gọi sử dụng những của
cải, những tài năng Chúa ban cho để phục vụ cho anh chị em và xây dựng một xã
hội tốt đẹp. Và cũng trong viễn tượng này mà mỗi người chúng ta được mời gọi
giải quyết những xung đột nhỏ nhoi, những tranh chấp, những ganh tị, những thù
hận làm mất đi sự bình an trong tâm hồn.
Một khi đã đặt cuộc đời mình trong cuộc sống đời đời, trong viễn
tượng cuộc sống đời đời; một khi đã đặt cuộc sống mình trên nền tảng là Chúa
Giêsu thì chúng ta sẽ biết giải quyết dễ dàng những xung đột hằng ngày xảy ra trong
cuộc sống. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin mà
giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
19. Chuyện biết
rồi vẫn cứ nói
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Tiền, bạc, của cải, một đề tài mà tín hữu Kitô dường như nghe đã
quá nhiều. Oái ăm thay, những người thường lên giọng về đề tài của cải, tiền
bạc thì hầu như ít bị chi phối bởi đồng tiền bát gạo kiểu cảnh “bán mặt cho
đất, bán lưng cho trời” hay ‘dãi dầm mưa nắng’ để có cái lót dạ và sinh hoạt cho
bản thân và gia đình.
Cuộc đời thật lắm điều trớ trêu. Chuyện nghịch lý như không còn là
chuyện lý thuyết. Người hô hào “vô sản” thì của tiền hằng hà vô số. Người cam
kết sống khó nghèo thì thật khó mà nghèo. Người chủ trương duy vật thì rất chi
là chủ quan, duy ý chí, lại còn mê tín đủ điều. Người mong được rỗi linh hồn
thì quá lo lắng chuyện nhà cửa, tiện nghi vật chất, cơ sở… Dù nghịch lý hay trớ
trêu, thì chúng ta cũng phải đối diện với Lời hằng sống truy vấn chúng ta về
thái độ của chúng ta với của cải, bạc tiền.
Ngài Côhêlét lớn tiếng: “Phù vân trên mọi phù vân, tất cả đều là
phù vân”(x.Gv 1,2). Của cải, bạc tiền thảy đều chóng qua như gió thổi, như mây
nổi, như chim bay. Thưa Ngài Côhêlét: Phù vân đây, chóng qua đấy, nhưng cuộc
đời này không thể thiếu gió, vắng mây. Hễ bắt tay làm việc gì, dù lớn nhỏ, dù
xây Nhà Thờ, nhà xứ hay lo cho con cái sắp vào niên học mới… thì thảy đều phải
bước qua ngưỡng cửa “đầu tiên” là “tiền đâu?” Phù vân mà rất thân thiết, vì
đồng tiền dính liền khúc ruột.
Thánh Tông đồ dân ngoại nói với tín hữu Côlôxê rằng hãy hướng lòng
trí đến những gì thuộc về thượng giới và đừng chú tâm đến những gì thuộc về hạ
giới. Thưa thánh nhân: “đói thì đầu gối phải bò”; “có thực mới vực được đạo”…
Đôi tay ngài đã không từng sần sùi, chai sạm với nghề dệt lều vải đấy ư? Và
ngài đã không từng kết án những người lười biếng, không chịu lao động đấy sao?
Quả thật vẫn có đủ đầy những luận lý để bào chữa cho thái độ sống
quyến luyến với của cải vật chất. Dĩ nhiên chẳng ai dám to gan nói xóc, nói xỉa
ngài Côhêlét hay thánh Tông đồ dân ngoại, nhưng vẫn có đó những lời nói cạnh,
nói khía đến các “đấng bậc làm thầy” trong Giáo Hội. Các ngài đâu có lo bữa mai
chạy bữa hôm như chúng mình. Các ngài đâu có quặn thắt khi con cái ốm đau hay
phải chịu cái cảnh nợ nần chồng chất. Thế nhưng dù có biện bạch cách này cách
khác thì chúng ta cũng phải chân nhận sự cám dỗ của đồng tiền và sức mạnh của
vật chất. Chúng có thể huỷ hoại hạnh phúc chúng ta ngay trong cuộc đời này và
có thể làm nguy hại hạnh phúc vĩnh cửu. Trong thực tiển, dù lắm khi sức mạnh
của đồng tiền như “là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của tuổi già, là cái
đà của danh vọng…”, nhưng chính Chúa Kitô đã từng minh định: Không được làm tôi
hai chủ. Không được vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của (x.Mt 6,24).
Và Người còn cảnh tỉnh chúng ta rằng người giàu có vào Nước Trời khó hơn cả con
lạc đà chui qua lỗ kim (x.Mt 19,24).
Của cải, tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là tốt đẹp vì đều do
Thiên Chúa dựng nên. Thế nhưng cần phân biệt những cái tốt mang tính giới hạn,
vì nó chỉ là phương tiện chứ không phải là cùng đích. “Anh em phải coi chừng,
phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con
người được bảo đảm nhờ của cải đâu”(Lc 12,15). Và cũng chắc chắn rằng không
phải nhờ của tiền dư giả mà hạnh phúc vĩnh cửu được bảo đảm. Theo thánh Phaolô
thì tham lam là một hình thức thờ ngẫu tượng. Ngẫu tượng chỉ có thể dẫn chúng
ta đến chỗ diệt vong. Xin đừng quên tham lam là mối tội thừ hai trong “bảy mối
tội đầu”.
Thiên Chúa không hề chỉ dạy chúng ta xem thường của cải vật chất và
cũng chẳng bảo chúng ta khinh rẻ các tiện nghi vật chất. Người đã minh nhiên
truyền lệnh cho chúng ta lao tác không chỉ để có cái sinh nhai mà còn để có
điều kiện phát triển và hoàn thiện đúng phận người, loài thọ tạo cao cả nhất
trong các loài hữu hình Người đã dựng nên, vốn là hình ảnh của Người (x.St
1,27). Vấn đề đặt ra là chúng ta cần tìm kiếm vật chất, của tiền với mục đích
gì? Điều đáng trách của người phú hộ trong câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể
đó là đã không biết trả lời câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng
ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”(Lc 12,20).
Cái “ngốc”của người phú hộ là khi ra sức thu tích của cải mà “không
biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Nếu giả như viên phú hộ trả lời rằng của
cải của con sẽ để lại cho con cháu hầu giúp chúng có điều kiện phát triển hoặc
để phần nào đó giúp cho người bất hạnh thoát cảnh nghèo khổ thì có lẽ ông ta
chẳng bị nguyền rủa là “đồ ngốc”.
Làm giàu truớc mặt Thiên Chúa chính là chiếc chìa khoá giúp chúng
ta thoát ra khỏi sự tham lam vị kỷ. Hạn từ giàu khiến chúng ta liên tưởng đến
sự phong phú, đến tình trạng được có nhiều hơn. Ai là người giàu có trước mặt
Thiên Chúa? Không chút ngại ngần, xin thưa đó là người có tấm lòng quảng đại,
vị tha. Vẫn từng có đó những con người lắm tiền, nhiều của cải mà con tim luôn
rộng mở, tấm lòng rất quảng đại, vì Danh Chúa, vì hạnh phúc của đồng loại như
ông Tôbia, hoặc như bà Gioanna, vợ ông Khuda, bà Sudana và nhiều bà khác mà tin
mừng Luca ghi lại (x.Lc 8,3). Tuy nhiên, sự cám dỗ của vật chất cũng đã và đang
làm nhiều người băng hoại. Cha ông chúng ta vốn cảm nghiệm rằng khi của tiền
càng phình ra thì con tim thường bị bó hẹp lại. Biết bao nghĩa tình mẹ cha con
cái, bao nghĩa tình huynh đệ đã nhạt nhoà, đổ vỡ chỉ vì chút của tiền, chút lợi
lộc đang nhan nhãn trước mắt chúng ta đây đó.
Để nên giàu có ở đời này thì hoạ hiếm mới có chuyện đột xuất như
trúng số độc đắc mà thường là do quá trình kinh doanh, tích luỷ có mục tiêu, có
phương pháp và biện pháp thích hợp, hữu hiệu. Cũng vậy, để nên giàu có trước
mặt Thiên Chúa, tức là ngày càng biết sống quảng đại, vị tha, vì Danh Chúa và
vì hạnh phúc đồng loại thì không gì hơn hãy tìm phương thế và biện pháp để mở
rộng tấm lòng của mình. Một kinh nghiệm sống từng được chia sẻ như sau: một
giáo dân thú nhận rằng mình rất ngại ngần với chuyện “làm phúc, bố thí” cho
người ăn xin. Tìm cặn kẻ nguyên cớ mới vỡ lẽ đó là vì trong túi anh ta thường
chỉ có những tờ bạc mệnh giá lớn (50 hay 100 ngàn đồng trở lên). Sau khi được
mách bảo rằng hãy luôn để trong túi một số “tiền lẻ”, thì anh ta đã tập được thói
quen tốt là làm phúc bố thí cho người nghèo. Sau một vài lần sống theo lời
khuyên rằng thỉnh thoảng làm một hành vi quảng đại gấp ba, gấp bốn, thậm chí
gấp mười sự tính toán của bản thân, thì tấm lòng của anh ấy đã rộng thêm và như
đã vượt qua một mức nào đó. Và chẳng biết tự bao giờ, chuyện lấn cấn khi “làm
phúc bố thí” cho người nghèo vốn có trước đây như biến mất. Một nhân đức (thói
quen tốt) đã hình thành. Không biết ở mức độ nào nhưng anh ta đang làm giàu
trước mặt Thiên Chúa.
20. Bao
nhiêu mới đủ - McCarthy
Suy Niệm 1. CĂN BỆNH THÍCH TÍCH TRỮ
Tolstoy kể lại câu chuyện về một người nông dân tên là Pakhom rất
muốn có một ít đất đai. Ông ta dành dụm từng đồng và mua được bốn sào. Ông ta
hết sức vui mừng. Tuy nhiên, ít lâu sau, ông ta cảm thấy còn chật chội, ông bèn
bán bốn sào đất đó đi và mua tám sào ở một vùng khác. Nhưng điều đó không làm
ông thoả mãn lâu, nên ông bắt đầu tìm kiếm ở chỗ khác.
Một buổi tối nọ, một người khách lạ đến. Pakhom đã nói về ước muốn
của ông có thêm nhiều đất đai. Người khách lạ nói với ông rằng bên kia dãy núi
nơi sinh sống của một bộ tộc. Những con người đơn sơ ở đây có rất nhiều đất đai
muốn bán.
Ngày hôm sau, ông ra đi. Người tộc trưởng tiếp đón ông và nói: “Chỉ
cần bỏ ra một ngàn rúp, ông sẽ có được một số đất đai mà ông rảo bước trong một
ngày. Nhưng ông phải quay về điểm xuất phát cũng trong ngày hôm đó, nếu không
kịp, ông phải chịu mất số tiền”.
Pakhom sung sướng rộn ràng. Suốt đêm đó ông không ngủ được mải nghĩ
đến những đất đai sẽ thuộc về ông. Ngay khi mặt trời vừa ló dạng ở chân trời,
người ta cắm một cái mốc trên đỉnh gò, và ông xuất phát. Có những người cỡi
ngựa theo sau và đóng xuống đất những cọc để đánh dấu lộ trình mà ông đã đi
qua.
Ông bước đi nhanh và mỗi lúc một nhanh hơn. Càng đi xa đất càng màu
mỡ hơn. Trong lúc tham lam, ông đi một vòng thật lớn mà quên mất thời gian. Và
rồi ông hoảng hốt khi thấy mặt trời bắt đầu xuống thấp. Ông quay đầu chạy về
cái gò, nơi ông xuất phát thật nhanh. Khi ông vừa lên đến đỉnh gò thì mặt trời
đã lặn. Tuy nhiên, ngay lúc đó ông đã ngã quỵ xuống, úp mặt trên đất.
“Tôi khen ngợi ông” người tộc trưởng nói “Ông đã có nhiều hơn bất
cứ người nào mà tôi còn nhớ”. Nhưng Pakhom không đáp lại. Người ta lật ngửa ông
lên. Ông đã chết.
Một số lượng nào đó về tiền bạc và của cải vật chất là cần thiết.
Dụ ngôn của Đức Giêsu không nói về nhu cầu mà nói về lòng tham. Người phú hộ đã
bắt đầu với sự giàu có, nhưng ông vẫn không thoả mãn. Lòng tham giống như một
ngọn lửa, lửa càng lớn khi người ta càng chất củi vào, người tham có nhiều của
càng tham. Một trong những vấn đề chính của thời đại chúng ta là người ta không
biết khi nào mới sung túc, phong lưu.
Elvis Presley chết ở tuổi bốn mươi hai vì lạm dụng thuốc. Ông có
tám ô tô, sáu mô tô, hai máy bay, mười sáu cái tivi, một lâu đài và một số tài
khoản lớn ở ngân hàng.
Khi một con quạ làm tổ trong rừng, nó chỉ chiếm một cành cây mà
thôi. Khi con hươu ra bờ sông để làm nguôi cơn khát, nó không uống quá nhu cầu
của nó trong lúc đó. Vậy tại sao con người lại lo tích trữ?
Con người khao khát được an toàn. Trong thời đại của Kinh Thánh,
khi nạn đói là một đe doạ thường tái diễn, người ta tìm kiếm sự an toàn bằng
việc tích trữ ngũ cốc. Trong thời đại của chúng ta, người ta tìm sự an toàn
trong việc tích trữ của cải và tài sản. Người ta tích trữ đồ vật và bám chặt
vào chúng, bởi vì chúng cho họ ảo tưởng về sự an toàn. Nhưng sự an toàn không
thể tìm thấy được trong của cải. Nó chỉ có thể được tìm thấy trong Thiên Chúa.
Cùng với sự an toàn, người ta cũng tìm thấy giá trị của bản thân
trong của cải. Trong xã hội chúng ta, người ta đánh giá con người qua những gì
họ có. Có nhiều của cải làm người ta trở thành một cái gì đó. Không có của cải
trở thành không có gì cả.
Mahatma Gadhi là một trong những người vĩ đại nhất của thế kỷ hai
mươi. Tuy nhiên, ông sống trong một căn nhà đơn sơ làm bằng gỗ và bùn. Về của
cải ông chỉ có những vật dụng thiết yếu. Của cải sẽ không bao giờ
cho chúng ta sức mạnh nội tâm. Chúng là những cái nạng cho một người què quặt
tâm linh.
Đức Giêsu nói thay vì tích trữ của cải trong kho tàng, chúng ta
phải tìm cách làm cho mình giàu có trước mặt Thiên Chúa. Điều làm cho chúng ta
giàu có trước mặt Thiên Chúa không phải là điều chúng ta có, cũng không phải là
điều chúng ta đã làm.
Không phải có của cải là có tội nhưng chính là óc chiếm hữu. Từ bỏ
không có nghĩa là dửng dưng hoặc không quan tâm. Từ bỏ là không chiếm hữu. Đời
sống là một quà tặng mà chúng ta phải biết ơn chứ không phải một sở hữu để
chúng ta bám víu. Một đời sống không chiếm hữu là một đời sống tự do.
Của cải duy nhất đáng cho chúng ta tích luỹ là của cải của tâm hồn.
Một tâm hồn quảng đại là một kho tàng. Có tâm hồn quảng đại là giàu có trước
mặt Thiên Chúa. Sợ hãi và tham lam là những kẻ thù thật sự. Nỗi khiếp sợ đói
khát khi kho lẫm đầy tràn là cơn đói khát không bao giờ có thể thoả mãn.
Suy Niệm 2. GIA TÀI TỐT NHẤT
Dù người ta là người khôn ngoan, thành công và khéo léo đến đâu,
người ấy không thể đem theo tài sản của mình lúc chết. Những người khác sẽ thừa
hưởng thành quả sự lao nhọc của người ấy. (Bài đọc 1). Điều làm cho sự việc tệ
hại hơn là của cải mà người ấy để lại sau lưng có thể làm cho gia đình người ấy
chia rẽ, xâu xé. Gia tài có thể là một lời chúc lành hoặc một lời chúc dữ.
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy hai anh em tranh giành gia tài. Quả là đáng buồn
khi nhìn thấy người ta bị lòng tham và ganh tỵ thúc đẩy đã cãi vã; gây gỗ nhau
không tiếc lời.
Ngày trước, có một người làm việc trong ban quản trị một công ty
thịnh vượng. Ông ta sống với vợ và gia đình trẻ ấy cư ngụ trong một căn nhà đẹp
ở vùng ngoại ô thuận tiện. Tuy nhiên, ông không bằng lòng. Ông còn trẻ, đầy
năng lực và tham vọng. Ông dường như có thể làm được mọi việc. Vì thế ông tự
nhủ: “Tôi có thể làm tốt hơn thế này. Tôi chỉ cần làm việc nhiều hơn”.
Ông làm thêm nhiều giờ phụ trội và có được thu nhập gấp đôi. Ông
dọn nhà đến một căn nhà lớn hơn trong khu sang trọng của thành phố. Dù ông đã làm
việc xuất sắc, ông vẫn không hài lòng. Ông đã mơ tưởng đến một căn nhà mà ông
chưa đủ tiền để mua. Nhưng ít năm nữa, ông sẽ có.
Ông đã không bao giờ có được căn nhà mơ ước ấy, bởi lẽ ông đã ngã
bệnh là căn bệnh cuối cùng. Ông thình lình thấy mình ở ngưỡng cửa sự chết. Rồi
ông kinh hoàng thấy rằng ông hầu như không hiểu gì cả về vợ con ông. Tệ hơn nữa
là ông đã nhận ra mình không thật sự sống. Ông đã trì hoãn đời sống cho đến
ngày mọi mục tiêu của ông sẽ đạt được.
Trong con mắt của công ty và của những người láng giềng ông đã trở
thành lớn. Nhưng trong con mắt của riêng ông, ông biết rằng ông đã thất bại.
Ông đã để vuột mất những điều quan trọng nhất trong đời sống, ông cảm thấy
trống rỗng trong tinh thần và trong cảm xúc. Giờ đây khi cuộc hành trình trần
thế sắp chấm dứt, ông cảm thấy tình trạng của ông thật bất hạnh. Ông ao ước bắt
đầu lại lần nữa. Chắc ông sẽ làm những việc khác hẳn.
Và ông để lại cho con cái ông cái gì? Đúng là nhiều tiền bạc. Nhưng
những cái khác? Không hoàn toàn không có. Thực tế là các con ông đã lớn lên
không có ông, và giờ đây chúng sẽ tiếp tục sống mà không có ông.
Ngày nay, nhiều cha mẹ nhận thức rằng họ cần dành nhiều thời gian
cho con cái hơn thay vì chỉ nghĩ đến của cải. Qua sự tiếp xúc thân mật để dạy
dỗ con cái họ, chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng họ thật sự yêu thương săn sóc
chúng. Những đứa con này thừa kế một loại gia tài quan trọng nhất, và là chủ sở
hữu một tài sản mà tiền bạc không thể mua được.
Người điên dại giàu có đã khám phá quá muôn rằng tài sản vật chất
không phải là còn mãi. Bởi vì ông ta đem hết mọi năng lực để tích trữ của cải,
và không có gì có thể nhắc ông nhìn lại chính ông, và cái chết bày tỏ bản chất
nghèo nàn của ông.
Những gia tài đáng phải tranh giành là những gia tài mà cái chết
không thể lấy mất, nhưng trường tồn trong sự sống đời đời.
“Khi giờ sau cùng của bạn giáng xuống, bạn chỉ nên dựa vào điều mà
bạn đã trở thành” (Antoine de Saint Exupery).
Có một người tốt lành đã từ chối làm chúc thư, nhưng ông nói rằng
ông muốn để lại cho con cái điều tốt nhất mà ông có: gương mẫu của đời ông. Bạn
hãy cho đi những tài sản, bổng lộc và tình yêu thương của bạn ngay từ bây giờ.
Đừng chờ cho đến lúc một người nào khác làm chính việc đó khi bạn đã chết.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một ông chủ ngân hàng người Mỹ giàu có nọ đứng trên cầu tàu của một
ngôi làng duyên hải ở Mêhicô thì một chiếc tàu nhỏ với một người ngư phủ cặp
vào bờ. Bên trong tàu là một con cá ngừ to. Ông chủ ngân hàng ngợi khen người
đánh cá về mẻ lưới của ông ta, rồi hỏi tiếp: “Ông ra khơi trong bao lâu?”.
“Ồ, một hoặc hai giờ” người ngư phủ đáp.
“Tại sao ông không ở ngoài khơi lâu hơn để bắt được nhiều cá hơn?”
“Tôi chỉ ở ngoài khơi để kiếm đủ cho nhu cầu trực tiếp của gia đình
tôi”
“Nhưng ông làm gì với thời gian còn lại?”
“Tôi ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với các con tôi, ngủ
trưa vào buổi trưa và buổi tối tôi đi dạo trong làng, nhắm nháp tí rượu, chơi
đàn ghi-ta và nói chuyện phiếm với bạn bè. Tôi dám chắc, tôi có một đời sống
đầy đủ”. Người đánh cá nói.
Ông chủ ngân hàng không thấy có gì ấn tượng: “Ông nên dành thêm
thời gian để đánh cá”, ông nói: “Rồi khi công việc tiến triển, ông có thể mua
một chiếc tàu lớn hơn. Với cái đà đó, ông có thể mua được mấy chiếc tàu. Sau
cùng ông sẽ có một đoàn tàu đánh cá. Kế đó, ông có thể mở mang thêm nhà xưởng và
nhà máy đóng đồ hộp. Lúc đó, ông cần phải rời bỏ ngôi làng này và chuyển đến ở
thành phố Mêhicô, rồi đến Angeles, và sau cùng đến New York, từ nơi này ông có
thể mở rộng việc kinh doanh”.
“Mọi việc ấy cần bao nhiêu thời gian?”. Người đánh cá nói.
“Khoảng hai mươi năm”, ông chủ ngân hàng đáp.
“Và rồi sau đó?” Người đánh cá hỏi.
“Khi gặp thời cơ, ông có thể bắt đầu đăng ký công ty ông vào thị
trường chứng khoán và bán cổ phiếu cho công chúng và trở thành triệu phú”.
“Rồi sau đó?” người đánh cá hỏi
“Sau đó ông có thê rút lui và chuyển về sống trong một ngôi làng
nhỏ miền biển, ở đó ông có thể ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với con
cái ông, ngủ trưa vào buổi trưa, đi dạo trong làng vào buổi chiều tối và có một
vài cuộc vui với bạn bè”.
“Ông nghĩ coi, hiện bây giờ tôi làm gì nào?” người đánh cá hỏi.
21. Hạnh phúc
không nơi tiền của
(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
“Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai!”
Chúng ta thường nói: “Đồng tiền nối liền khúc ruột”. Tiền của cần
cho sự sống, cho việc sống đạo nữa. Có thực mới vực được đạo.
Thái độ của Chúa Giêsu đối với tiền bạc như thế nào? Chúa không
ngại nói đến tiền bạc. Ngài nói đến như một thứ cần dùng, có giá trị nữa. Ngài
nói đến người đàn bà đánh mất một đồng bạc, thắp đèn quét nhà tìm kiếm, kiếm
được vội chạy đi khoe đầu làng cuối xóm. Ngài nói đến người đầy tớ nhận năm nén
bạc làm lợi thành mười và Ngài khen là đầy tớ tốt và trung tín.
Đành rằng Phúc Âm không cho biết Chúa Giêsu có cầm tiền không?
Nhưng không lạ, nếu Ngài cũng dùng tiền như mọi người. Các tông đồ có một túi
tiền chung do Giuđa giữ và Chúa dạy đi mua sắm (Ga 12,6; 13,29). Chúa sống
trong thế giới Do thái tiền bạc và Ngài là nạn nhân tiền bạc, Ngài bị bán với
giá 30 đồng.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy dùng tiền nhưng đừng ham tiền.
Hạnh phúc con người không lệ thuộc vào tiền của. Và Chúa kể câu chuyện người
giàu có thiếu khôn ngoan, xây mộng vàng hạnh phúc trên tiền của rồi chết bất
ưng. Chúa kết luận: “Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn
ngươi, mọi điều ngươi đã soạn kia sẽ về tay ai?”. Và thánh Luca kết luận bằng
một câu, có lẽ lấy ở nơi khác: “Như thế đó, kẻ lo chất kho cho mình, mà không
biết làm giàu nơi Thiên Chúa”.
Năm 1923, tại Chicago, có hội nghị các thương gia Mỹ. Chín người
được coi là thành công nhất, trong số có ông chủ hãng thép, điện, xăng, hỏa xa,
ngân hàng International Settlement. Nhưng mà, gần hết các ông vua tiền ấy đã
kết thúc cuộc đời trong cảnh nghèo túng, thất vọng hay đã tự tử.
Thánh Phaolô nói: “Vì tham tiền là cội rễ mọi sự dữ. Cầu thỏa lòng
tham, thì có kẻ đã lạc xa đức tin và bị bao nỗi đớn đau xâu xé” (1Tm 6,10).
Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng
bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê (Tv
144).
22. “Lấy gì mà đổi được
linh hồn mình”
Tại Palestine người ta thường đem đến những vấn đề tranh cãi đến
xin các rabbi phân xử. Đối với nhân vật trong đoạn này, ông coi Chúa Giêsu là
một vị thầy có thế giá có thể giải quyết vấn đề cho ông, nhưng Chúa Giêsu từ
chối không muốn tham dự vào vấn đề tranh chấp về tiền bạc. Có những người đến
với thẩm quyền tôn giáo không phải để xin những chỉ dẫn về đời sống thuộc linh,
mà lại xin giải quyết những vấn đề vật chất. Chúa Giêsu không đáp lại yêu cầu
này, không phải không nhạy cảm về những bất công có thể có trong phạm vi gia
đình, nhưng Ngài không muốn can thiệp vào những việc không liên hệ trực tiếp
đến sứ mạng cứu rỗi. Câu trả lời của Chúa ngụ ý rằng Ngài chỉ chú trọng đến
công việc thuộc linh và Ngài không muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân sự
hay chiếm đoạt địa vị của nhà cầm quyền: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử
kiện hay người chia gia tài cho các anh?”
Có thể câu trả lời này chứa đựng một thông điệp cho thời đại chúng
ta, cảnh cáo chúng ta đừng lẫn lộn những nhiệm vụ của Giáo Hội và Nhà Nước. Địa
hạt của Giáo Hội là thuộc linh, thẩm quyền của Giáo Hội không phải là để quyết
định những vấn đề kinh tế và chính trị. Tuy nhiên Giáo Hội óc những cống hiến
và ghi khắc những nguyên tắc liên quan đến các vấn đề luân lý và quyết định về
sự công bình và lẽ phải trong mọi lãnh vực nhân sinh.
Chúa Giêsu đã từ chối “chia gia tài”, nhưng Ngài đã nhìn sâu vào
căn nguyên lời yêu cầu và thấy rằng người ấy đã bỏ qua luật lệ dân sự để đến
nhờ một giáo sư tôn giáo giúp đỡ là do lòng tham lam thúc đẩy. Nhân cơ hội này
Chúa chỉ dạy cho kẻ theo Chúa phải có thái độ nào đối với vấn đề vật chất, và
Ngài dạy qua một câu chuyện. Câu chuyện về lão phú hộ ngu dại dạy ta rằng tiền
của không tạo nên nội dung thật của sự sống, cho nên chỉ mải lo tìm kiếm vàng
bạc mà quên Thiên Chúa là điều khờ dại.
Có hai điều đáng chú ý về người giàu này:
- Ông ta không hề nhìn xa hơn chính mình: không có dụ ngôn nào
nhiều chữ “mình” như trong dụ ngôn này: “Hoa màu của mình, kho lẫm của mình.”
Đó là những chữ rất khó nghe mà người ích kỷ hay dùng đến. Người giàu ích kỷ
chỉ biết nỗ lực tập trung vào mình. Có lời phê bình nổi tiếng về người ích kỷ
như sau: “Có quá nhiều cái tôi trong vũ trụ của hắng!” Khi người này đã có của
cải dư dật, ông không bao giờ nghĩ đến việc chia sẻ. Tất cả thái độ của ông đi
ngược lại hẳn với tinh thần Kitô giáo. Thay vì từ chối mình, ông ta lại bảo vệ
mình một cách khiêu khích; thay vì tìm hạnh phúc trong sự san sẻ, ông ta đã cố
sức bám lấy hạnh phúc bằng cách bám chặt của cải. Luật sống của John Wesley
Oxford ông có số lương là ba mươi bảng Anh một năm. Ông tiêu hai mươi tám đồng
và cho đi hai đồng. Khi lương của ông tăng lên sáu mươi, rồi chín mươi, rồi một
trăm hai mươi đồng một năm, ông chỉ tiêu xài hai mươi tám đồng, còn bao nhiêu
thì cho đi. Khi viên kế toán trưởng của công ty đồ gia dụng xin ông gửi bảng
liệt kê những gì cần mua, ông trả lời “Tôi có hai thìa cà phê bạc tại Luân Đôn
và hai cái tại Bristol, đó là tất cả đồ bằng bạc mà tôi có hiện giờ, và tôi
không mua thêm cái nào nữa trong lúc biết bao nhiêu người chung quanh tôi không
có bánh ăn.” Châm ngôn La-mã có câu: “Tiền bạc khác nào nước biển, ai càng uống
thì càng khát thêm.” Bao lâu người ta có thái độ giống như người giàu ngu dại
thì người ta cứ ước ao được giàu thêm mãi – và đó là thái độ ngược với tinh
thần Kitô giáo.
- Ông ta không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình của ông
ta chỉ đặt nền tảng cuộc sống lẩn quẩn trong thế giới của ông ta. Sau đây là
cuộc đàm thoại giữa một chàng thanh niên ham số và một ông lão hiểu đời:
Chàng nói: “Tôi sẽ học buôn bán.” Ông lão hỏi: Rồi sao nữa?
Rồi sao nữa?” – “Tôi sẽ mở hiệu buôn.” Rồi sao nữa? – “Tôi sẽ dựng
nên cơ nghiệp lớn!” “Rồi sao nữa? – Tôi sẽ trở về già, hưu hạ và sống bằng tiền
bạc của tôi!” Rồi sao nữa? – Ờ có lẽ một ngày kia tôi sẽ chết. Rồi sao nữa?
Câu hỏi sau này cũng như một lưỡi dao. Người nào không hề nghĩ rằng
có một thế giới bên kia thì người đó sẽ có ngày phải gặp một bất ngờ và cũng
khủng khiếp.
Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánh Athanasiô đưa ra lời
khuyên: “Ai sống như phải chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này tự nó là
tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một phần
lớn lòng tham lam; trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình
bị dục vọng cai trị.”
Ngu dại của người giàu này là coi tiền có của như là mục đích duy
nhất của đời sống, nó bảo đảm vững bền khát vọng của con người. Có được các cần
thiết để sống và phát triển là chân chính, nhưng coi việc thâu góp tài sản như
là một lý tưởng sẽ đưa đến phá huỷ con người và xã hội: “Đối với một dân tộc
cũng như đối với một cá nhân, có thêm nhiều của cải hơn không phải là mục đích
tối hậu. Mỗi một sự thăng tiến đều có hai mặt: nó cần thiết để con người được
nên người hơn, nhưng đồng thời nó cũng giam hãm con người một khi nó trở thành
giá trị cao cả nhất, không còn cho nhìn thấy giá trị nào khác. Lúc đó lòng
người trở nên chai đá và tinh thần khép kín lại, con người không còn đến với
nhau vì tình nghĩa, nhưng chỉ vì lợi lộc. Lợi lộc dễ làm cho con người chống
đối nhau và chia rẽ nhau.Vì thế nếu chỉ tìm kiếm của cải mà thôi thì không
những sẽ làm cản trở cho sự phát triển của con người, mà còn phản lại sự cao cả
bẩm sinh cảu con người. Đối với một quốc gia cũng như đối với một con người,
tội tham lam là một hình thức lộ liễu nhất của tình trạng luân lý thấp kém.”
(Đức Phaolô VI, Phát triển 19)
Người Do thái hay kể truyện ngụ ngôn cũng về A-lịch-sơn Đại đế. Vị
danh tướng mệt mã vì đi bộ đường xa, bèn ngồi nghỉ bên bờ một suối kỳ lạ. Ông
uống nước và cảm thấy sảng khoái lạ lùng. Ông nhúng cá muối vào nước cho đỡ mặn
và ngạc nhiên khi thấy nước làm cho cá có vị ngon lạ thường. Ông tự nghĩ: chắc
hẳn đây không phải là nước thường, nó phải xuất phát từ một kỳ diệu nào, ta
phải lần đến tận nguồn xem sao.” Ông đi mãi cho tới cổng thiên đàng. Cổng khoá,
ông gõ cổng xin vào, nhưng bên trong chỉ có một tiếng đáp lại: “Ngươi không
được vào đây, vì cổng này thuộc về Chúa.” Vị đại tướng trả lời ngạo nghễ: “Ta
là Chúa của trái đất. Ta là A-lịch-sơn chiến thắng, không mở cửa cho ta sao?” –
Không, chúng ta chẳng biết kẻ chiến thắng nào hết. Chúng ta chỉ biết những
người đã chiến thắng dục vọng thấp hèn của mình, chỉ những người công chính
ngay thẳng, mới được vào thiên đàng. A-lịch-sơn giận dữ như điên cuồng, nhưng
chẳng ảnh hưởng chi hết đến người giữ cổng thiên đình. Ông đổi ra o bế và hối
lộ, nhưng vẫn vô hiệu, bàn nài nỉ lần chót: “Ta là vua lớn và được mọi nước suy
phục. Dầu không cho ta vào thiên đàng, nhưng ít ra cũng cho ta vật gì đem về để
chứng tỏ với người thế gian rằng ta đã được đến nơi chưa từng có ai đến. Người
gác cổng đáp: “Đây, hỡi tên khùng kia, ta cho ngươi điều ngươi xin, cầm về tìm
hiểu ý nghĩa của nó. Nó sẽ cho ngươi bài học khôn ngoan mà chưa từng có ai dạy
ngươi. A-lịch-sơn vồn vã đưa tay nhận gói quà và vội vàng trở về trại quân mở
ra coi. Lạ quá, trước mắt ông, chỉ là một mảnh sọ người. Giận dữ, ông quẳng
mảnh xương xuống đất, la to: Đây là quà tặng cho vua và anh hùng sao? Công ta
lặn lội vất vả chỉ xứng như thế này sao? Nhưng trong đoàn tuỳ tùng có một người
thông thái, ông khuyên vua: “Tâu đức vua, xin chớ khinh vật nhỏ bé này, nó có
tính chất rất lạ kỳ đáng đức vua để ý. Hãy cân nó với vàng bạc báu vật của đức
vua, thử xem bên nào nặng hơn. Theo lệnh vua, họ đem cân tới, mảnh sọ một bên,
còn bên kia chất vàng bạc, bảo ngọc… lạ thay, xương vẫn nặng hơn. Người ta chất
thêm vàng, bạc, bửu thạch nữa… Xương vẫn nặng hơn. Càng thêm bao nhiêu, mảnh
xương càng nặng hơn bấy nhiêu! Vua kinh ngạc: “Một mảnh sọ lại nặng hơn bấy
nhiêu vàng bạc! Có gì nặng hơn mảnh sọ này không? Nhà thông thái đáp: “Thưa có,
chỉ một mất hết trọng lượng, nhảy bồng lên, bên kim khí nặng hạ xuống.
A-lịch-sơn la hoảng: “Cái này còn lạ hơn nữa!” Nhà thông thái giải thích: “Mảnh
sọ này là lỗ mắt con người, dầu nhỏ bé, nhưng sự ham hố của nó không có giới
hạn. Hết thảy của cải trần gian không làm cho nó thoả sự ham muốn của nó. Nhưng
khi nó bị đất bao phủ và chôn vùi trong mồ mả, thì sự ham hố trần thế của nó mới
hết.
Chúa Giêsu phán: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn
nào được ích gì? Hoặc lấy gì mà đổi được linh hồn mình?” (Mc 8,36-37). Tác giả
Thánh Vịnh suy luận: “Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi lắm bạc tiền,
nhưng nào có ai tự chuộc nổi mình, và trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa.
Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời…” (49,7-9). Vậy
chúng ta hãy sống khôn ngoan theo lời khuyên của Thánh Gioan: “Anh em đừng yêu
thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không
có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt,
dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không xuất
phát từ Chúa Cha, nhưng xuất phát từ thế gian; mà thế gian đang đi qua cùng với
dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.”
(1Ga 2, 15-17).
23. Xin Thầy bảo anh
tôi chia phần gia tài cho tôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay, cần biết luật pháp Dothái thời đó.
Luật quy định trong việc thừa kế: Bất động sản thuộc con trai trưởng như nhà
cửa, đất đai. Động sản như tiền bạc, bàn ghế, tủ sập... chia đều cho các con,
con trai trưởng vẫn được gấp đôi và chỉ con trai được hưởng, con gái thì không.
Đó cũng là luật chung cho toàn bộ Đông Phương cổ đại và nhiều nền văn minh
trong dòng lịch sử. Sở dĩ có luật ấy, vì người Đông Phương muốn lập nên
"người gia trưởng" để gìn giữ gia sản của gia tộc.
Trong giới Dothái xưa cũng như nay, người ta thường yêu cầu một
giáo trưởng Dothái danh tiếng đứng làm trọng tài trong các vấn đề lề luật.
Chính vì thế, cậu trai út đã cầu cứu uy tín của Đức Giêsu: "Xin Thầy bảo
anh tôi chia phần gia tài cho tôi". Đối với mọi người, Đức Giêsu sẽ nói
với người anh cả chia lại cho người em, bởi trong suốt Tin Mừng, Đức Giêsu
thường giảng dậy: "Anh em hãy yêu thương nhau", thế nhưng Đức Giêsu
đã hỏi người em út: "Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người
chia gia tài cho các anh?". Phải hiểu và giải thích câu hỏi của Đức Giêsu
thế nào?
Phần đông các nhà chú giải cho rằng, Đức Giêsu đã dùng cách thức
của người Đông Phương, trả lời bằng một câu hỏi hay một ẩn ngữ làm cho người ta
phải suy nghĩ. Khi lạc mất trong đền thờ, Mẹ Người hỏi: "Con ơi! Sao lại
xử với cha mẹ như vậy?", Người trả lời: "Tại sao cha mẹ lại tìm Con?
Cha mẹ không biết là Con có bổn phận ở nhà của Cha Con sao "(Lc 2, 49).
Với các con trai ông Giêbêđê xin được ngồi bên hữu và bên tả trong Nước Người,
Người hỏi họ: Có uống nổi chén Người sắp uống không? (Mt 20,23).
Ở đây cũng thế, từ chối can thiệp vào vấn đề chia gia sản, không
phải là Đức Giêsu không quan tâm đến những vấn đề trần thế. Là Cứu Chúa, Đức
Giêsu cứu chuộc con người cả xác và hồn, quả tim và ý thức, thể chất và tinh
thần. Trong những năm rao giảng, Đức Giêsu không ngừng chú trọng đến con người
toàn diện đó. Người đã nuôi dưỡng hồn họ bằng của ăn Lời Chúa, Người lại nhân
năm cái bánh và hai con cá lên nhiều để nuôi dưỡng thể xác họ. Khi rao giảng,
các bệnh nhân đến, đều được Người chữa lành. Tuy nhiên, không phải mọi bệnh
nhân Dothái thời đó đều được Đức Giêsu cứu chữa, cũng như mọi người bệnh tật
của thế giới sau này, không được Đức Giêsu chữa lành. Công việc đó là của con
người. Người ta phải đào tạo các bác sĩ, phải lo có bệnh viện, phải tìm ra các
thứ thuốc để chữa các bệnh nhân. Cũng vậy, các vấn đề xã hội như chia gia tài,
giải quyết những tranh chấp bất hoà là nhiệm vụ của các quan toà, các thẩm
phán, những nhà phụ trách thế tục... Đức Giêsu từ chối đặt mình vào vị trí của
những người ấy.
Trong chiều hướng đó, công đồng Vatican II đã không ngừng đưa giáo
dân về với ý thức và năng lực riêng của họ: Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và
sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Thế nhưng, họ đừng vì thế, mà nghĩ: Các
linh mục có đủ khả năng chuyên môn về mọi vấn đề. Thực ra có nhiều vấn đề mà
linh mục không biết, nhất là những vấn đề không thuộc lãnh vực của linh mục.
Với những vấn đề ấy, giáo dân phải tìm cách giải quyết, vì đó là trách nhiệm và
thuộc lãnh vực của mình (Gs 43.)
Mặc dù Đức Giêsu không trực tiếp đảm nhận những nhiệm vụ trần thế,
Người uỷ thác cho những vị có chức quyền, nhưng Người đưa ra một nguyên tắc để
các nhà hữu trách áp dụng cho những trường hợp cụ thể. Nguyên tắc đó là không
nên lẫn lộn phương tiện với mục đích. Mục đích là con người, của cải là phương
tiện. Nhà nước cũng như chính quyền tạo ra của cải không phải để tiêu thụ tối
đa, nhưng là phục vụ con người. Chính sự sống con người đứng đầu chứ không phải
của cải. Sự sống con người gồm: Sự sống, thể xác và linh hồn, sự sống đời này
và đời sau. Dĩ nhiên sự sống linh hồn, sự sống đời sau là cơ bản, sự sống thể
xác, sự sống đời này là tạm bợ. Trong hai cái tạm bợ và cơ bản, cái sau quan
trọng hơn cái trước.
Để làm sáng tỏ, Đức Giêsu kể dụ ngôn người phú hộ và những kho lẫm.
Qua dụ ngôn, Đức Giêsu lên án nhà phú hộ, một tay duy vật hoàn hảo, tin vào
những kho lẫm mang lại hạnh phúc cho mình. Thế nhưng, Đức Giêsu cảnh giác:
"Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, những gì ngươi sắm
sẵn đó sẽ về tay ai?"
Ông phú hộ thật sai lầm, ông nhầm lẫn hoàn toàn. Sự giầu sang không
mang lại hạnh phúc... không có mối liên hệ giữa việc có nhiều của cải trần thế
và sự an toàn mạng sống. Sự sống của một người không phụ thuộc vào những của
cải của người ấy. Tiền bạc không mua được thời gian. Ông phú hộ đã bị Đức Giêsu
gọi là "đồ ngốc". "Đồ ngốc" với "dại" không hơn
gì nhau., "dại" với "điên" là một. Trong Tin Mừng, Đức
Giêsu không ngừng đặt đối lập "kẻ điên dại" (nabal) với "người
khôn ngoan" (maskil). Năm cô thiếu nữ không mang theo dầu cho đèn mình, là
dại, năm cô mang theo dầu cho đèn, là khôn (Mt 25,2). Người mù để cho người mù
dẫn đường là dại (Lc 6,39). Người biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại là
khôn (Lc12,56). Nhưng cái khôn ai cũng cần phải có, đó là nhận ra của cải chân
thực, nhận ra ý nghĩa đích thực của đời sống, đó là đời sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu, Người sắp chết trong ít ngày nữa, không muốn làm việc
cho một người dù đó là quyền lợi chính đáng. Việc chia gia tài, không phải là
việc làm đích thực cho anh. Có một tiếng nhỏ âm vang trong chúng ta: "Ngài
có lý". Ngài biết rõ điều Ngài nói: "Anh em hãy coi chừng, phải giữ
mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống
người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu".
Vào thời Chúa Giêsu, cũng như vào thời nay, những người nghèo khó
bao giờ cũng bị khinh chê. Sénèque đã viết như sau: - Lòng thương xót là một
thói xấu của những kẻ yếu đuối. Còn người khôn ngoan sẽ không bao giờ thương
xót.
Có kẻ đã đặt câu hỏi: - Đâu là sự khác biệt giữa một chiếc cày, một
con bò và một tên nô lệ?
Và rồi người ta đã trả lời: - Chiếc cày thì không biết nói, con bò
thì biết rống, còn tên nô lệ thì biết nói. Nhưng cả ba đều là những đồ dùng
không đáng giá.
Còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã nghĩ gì về sự nghèo khó?
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Ngài đã mặc lấy thân phận nghèo khó.
Thực vậy, khi xuống thế làm người, Ngài đã chọn Mẹ Maria và thánh
Giuse, là những người nghèo khó để giúp đỡ mình. Khi mở mắt chào đời, Ngài đã
được sinh ra trong cảnh nghèo khó của hang đá máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem.
Ngài không phải chỉ sinh ra trong nghèo khó, mà còn lớn lên trong
túng thiếu, phải lao động cực nhọc với đôi bàn tay của mình để kiếm tìm chén
cơm manh áo. Thiên hạ đã chẳng bàn tán với nhau rằng: - Há Ngài chẳng phải là
một bác phó mộc, con bà Maria sao?
Trong suốt quãng đời công khai, Ngài cũng đã sống vất vưởng, nay
đây mai đó, như Ngài đã diễn tả: - Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con
Người không có lấy một chốn tựa đầu.
Sau cùng Ngài cũng đã chết trong cảnh nghèo khó với cây thập giá
được dựng lên giữa trời và đất. Ngay cả ngôi mộ, nơi yên nghỉ cuối cùng cũng
chẳng có nữa. Chúng ta có thể đúc kết về cuộc đời của Ngài như sau: - Sinh ra
trong nghèo khó, lớn lên trong túng cực và chết đi trong thiếu thốn.
Ngài đã sống và sau đó đã giảng dạy về sự nghèo khó. Mở đầu bài
giảng trên núi về tám mối phúc thật, Ngài nói: - Phúc cho những ai có tinh thần
nghèo khó, vì nước trời là của họ.
Qua lời xác minh trên, Ngài đã thực hiện một cuộc cách mạng, làm
đảo lộn bậc thang giá trị. Kể từ nay, những kẻ giàu sang sẽ trở thành nghèo
túng và những người nghèo túng sẽ trở thành giàu sang. Ngài đã truyền dạy: -
Không ai có thể làm tôi hay chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng
vậy, các ngươi không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được…
Con lạc đà chui qua lỗi kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước trời.
Nơi khác, Ngài cũng xác quyết mình thực hiện những gì tiên tri
Isaia đã loan báo: - Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài xức dầu cho tôi và sai
tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó…
Ngài đồng hóa mình với nhưng kẻ khó nghèo, bởi vì trong hoạt cảnh
về ngày phán xét, Ngài đã nói: - Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Khi Ta khát,
các ngươi đã cho uống. Khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc. Khi Ta đau yếu và
bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm. Vì mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho
một kẻ hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Giáo hội tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, luôn quan tâm bênh vực
quyền lợi và giúp đỡ những người nghèo khó, bởi vì họ cũng có một linh hồn bất
tử, họ cũng là con cái Thiên Chúa và họ cũng được cứu chuộc bằng giá máu châu
báu của Đức Kitô.
Chúng ta có thể tìm thấy biết bao nhiêu mẫu gương sáng chói trong
lòng Giáo hội. Một Đamiêng đã phục vụ những người phong cùi tại hải đảo xa xôi.
Một Phêrô Claver đã chăm sóc những người nô lệ. Một Vincentê đã lo lắng cho
những người túng thiếu. Một Têrêsa Calcutta đã giúp đỡ những người bát hạnh,
những người hấp hối bị bỏ rơi tại Ấn độ… Và con biết bao nhiêu
dòng tu khác chuyên lo cho những người già cả, đau yếu và mồ côi.
Giáo hội không phải chỉ giảng dạy mà còn thực thi đức bác ái.
Noi gương Chúa Giêsu và Giáo hội, chúng ta hãy có một tinh thần
siêu thoát đối với của cải đã đành, mà còn phải có một tình yêu thương đối với
những người nghèo khó.
Những hành động bác ái của chúng ta sẽ là một cách thức truyền giáo
hữu hiệu nhất vì ngay từ đầu những người ngoại đã phải ngạc nhiên về các tín
hữu sơ khai: - Kìa xem họ yêu thương nhau biết chừng nào.
Thương giúp kẻ khó nghèo là thương giúp cho chính Chúa, là thu tích
cho mình một kho tàng thiêng liêng trên trời.
Năm 1987, Hội đồng quốc gia Hoa Kỳ đặc trách giáo dục, đã thực hiện
một cuộc phỏng vấn các sinh viên sắp mãn đại học, về mục đích cuộc đời của họ
trong tương lai: Họ muốn gì? Họ nhằm điều gì trước hết? Anh chị em có biết kết
quả như thế nào không? 75% trong số 200.000 sinh viên được hỏi ý kiến đã trả
lời cho biết: “Mục đích cuộc đời tương lai của họ là làm sao kiếm được thật
nhiều tiền”. Các sinh viên này cho biết: “Sau khi học xong, họ muốn có một việc
làm tốt với đồng lương cao để sống thoải mái”.
Không phải chỉ có những người trẻ này mới có ý nghĩ về cuộc sống
hưởng thụ những của cải vật chất như vậy. Trong một xã hội thấm nhiễm tinh thần
hưởng thụ và vật chất như ngày nay, nhiều người bị cám dỗ sống chỉ nghĩ đến nhà
cửa, quần áo, ăn uống, tiền bạc, và được hưởng dùng càng nhiều phương tiện càng
tốt. Nhiều người có thái độ giống như ông phú hộ giàu có được Chúa Giêsu mô tả
trong Tin Mừng.
Đây là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, thường được gọi là dụ ngôn người
phú hộ ngu ngốc hay dại dột. Bởi vì ông ta chỉ nghĩ đến đời sống trần gian mà
quên mất số phận vĩnh cửu của mình. Ông ta chỉ lo làm giàu mà không biết rằng:
tất cả sự giàu sang của ông chỉ là hư vô mà thôi, vì tất cả những gì ông đang
có ông không thể đem chúng theo ông vào cuộc sống vĩnh cửu, ông phải để lại cho
những người khác. Hơn nữa, ông lại chỉ tìm sự an nhàn, hưởng thụ vinh thân phì
da mà không nghĩ tới Thiên Chúa, không nghĩ tới người khác, và cũng không nghĩ
tới đời sau. Đó là lý do tại sao ông phú hộ này bị Chúa bảo là ngu ngốc, dại
dột, vì ông tham lam, thích sống hưởng thụ mà quên mất đời sống vĩnh cửu của
mình.
Câu chuyện sau đây cũng tương tự như vậy, minh họa cho chúng ta
hiểu rõ hơn chủ trương sai lầm của ông phú hộ ấy: Có một người kia rất giàu
có, ruộng đất mênh mông thẳng cánh cò bay. Ông có một tên đầy tớ vốn có lòng
tham của và ham danh vọng. Một hôm, ông gọi đầy tớ đến và bảo: “Ta sẽ cho ngươi
ruộng đất của ta như lòng ngươi ước nguyện. Ngươi có thể chạy bao nhiêu tùy ý,
chạy đủ một vòng từ lúc mặt trời mọc cho tới khi mặt trời lặn. Ta sẽ cho ngươi
hết số ruộng đất mà ngươi đã chạy được, nhưng phải nhớ điều này: nếu ngươi trở
về đây chỉ sau một phút khi mặt trời đã lặn rồi, ngươi sẽ không được gì hết,
cho dù chỉ một tấc đất thôi”.
Người đầy tớ rất sung sướng làm theo lời ông chủ. Mặt trời vừa lóe
lên những tia nắng đầu tiên, hắn đã sẵn sàng khởi hành, trong lòng nghĩ rằng:
“Thật là sung sướng biết bao, chỉ trong vòng một ngày thôi mình sẽ trở thành
một người điền chủ giàu có”. Với niềm vui sướng đó, hắn bắt đầu cắm cổ chạy,
chạy không kịp thở, chạy không biết mệt. Mặt trời đã đứng ngọ, lẽ ra đến lúc
phải quay đầu chạy vòng trở về cho kịp trước khi mặt trời lặn mới phải, nhưng
trước mặt hắn, đồng cỏ vẫn còn xanh tươi, ruộng lúa chín vàng. Lòng tham đã
khiến hắn chóa mắt. Thế là hắn cứ cắm đầu chạy mãi, chạy tiếp nữa. Đến khi hắn
quay đầu chạy về thì trời đã xế chiều, nhưng đường vẫn còn xa, hắn ước ao mặt
trời đứng lại để chạy về cho kịp. Hắn lo sợ, gắng sức chạy nhanh hơn. Khi hắn
tới cửa nhà ông chủ, cũng vừa lúc mặt trời lặn. Nhưng tiếc thay cũng là lúc hắn
hết hơi, ngã gục tắt thở dưới chân ông chủ. Thật đúng “Nhân tham tài tắc tử
cũng như điểu tham thực đắc vong”. Và ông chủ cho anh như là phần số một chỗ
nghỉ vừa dài vừa rộng không quá ba tấc đất.
Chúng ta thường nghe nói; “Tham thì thâm” quả là đúng. Trên đời này
không thiếu gì những người có lòng tham và ích kỷ đến nỗi muốn đi mượn hòm để
chôn mình thay vì bỏ tiền ra mua. Cũng có những người vất vả suốt cả đời lo thu
tích của cải đến nỗi không dám ăn no, ngủ ngon, để rồi nửa đời người còn lại
phải dùng của cải đã thu tích để bồi dưỡng lại sức khỏe đã mất chỉ vì lòng ích
kỷ và tham lam quá mức. Thật vậy, những người quá lo thu tích của cải sẽ trở
nên mù qaung, họ liều mình đánh mất không những tự do mà còn mất cả chính đời
sống nữa.
Của cải vật chất, lúa gạo, quần áo, nhà lầu, xe hơi, vàng bạc là
phương tiện cần thiết để sống, nhưng không bao giờ là tất cả. Không thể vì
chúng mà người ta tự cho phép mình làm tất cả mọi cách, kể cả làm gian bán lận,
xâm phạm mạng sống cũng như tiết hạnh của kẻ khác, tham ô, tham nhũng hoặc khai
thác “con người” và “thiên nhiên” cách bất chính. Tiền bạc, của cải tự nó không
phải là xấu. Ai cũng cần có tiền bạc, của cải để sống xứng đáng với nhân phẩm.
Tuy nhiên, tiền bạc, của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được sử dụng như
một phương tiện, tiền bạc sẽ giúp cho con người sống tốt đẹp, hạnh phúc. Trái
lại, nếu chạy theo tiền bạc mà quên mất những giá trị khác trong cuộc sống, thì
thật là nguy hiểm và tai hại. Nó có thể đem lại ấm no hạnh phúc đời này, nhưng
thiệt mất linh hồn thì ích gì? Bởi vì cái chết sẽ đóng dấu chấm hết cho mọi
cuộc sống giàu nghèo, sang hèn. Quan trọng là khi nhắm mắt, số phận đời đời của
chúng ta sẽ ra sao? Của cải trần gian có giúp chúng ta tìm được hạnh phúc bất
diệt hay lôi kéo chúng ta vào chỗ trầm luân?
Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình. Chúng ta phải nhận định
cho đúng bậc thang giá trị của cuộc sống. Trong khi bôn ba vất vả kiếm sống
hằng ngày, chúng ta phải tìm kiếm nước Chúa và những giá trị của nước Chúa trước
hết. Trong khi tìm kiếm nhu cầu vật chất, chúng ta phải dứt khoát khước từ mọi
hành động bất chính, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian dối. Chúng ta phải biết
hài lòng với những gì mình đang có, đồng thời không sống ích kỷ, đóng kín, chỉ
biết có mình, bất cần người khác. Trái lại, hãy sống quảng đại, mở rộng quả
tim, mở rộng bàn tay để chia sẻ và cảm thông với mọi người, như thánh Phaolô
khuyên dạy: “Hãy làm ơn làm nghĩa, hãy giàu có việc lành, hãy hào phóng, rộng
rãi chia sẻ để tích trữ vốn liếng cho cuộc đời mai sau”.
Bài Phúc âm hôm nay có nói tới một người giàu có đã lo tích trữ rất
nhiều của cải, và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được hạnh phúc, bảo đảm. Ông
nghĩ rằng: “Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi hưởng thụ cho đã!”. Nhưng
Thiên Chúa bảo ông ta: “kẻ khờ dại”. (nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng
ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?).
Nếu ông ta sống vào thời đại này, mọi người sẽ xem ông là một nhân
vật vị vọng, một con người có địa vị cao trong xã hội, có thể sai khiến người
khác, được mọi người nể trọng. Thế mà Chúa Giêsu lại gọi ông là kẻ dại khờ.
Chúa Giêsu không lên án ông là kẻ dại khờ, vì có thể ông đã làm giàu một cách
bất chính. Câu chuyện cho thấy ông đã lao động cật lực, đã biết tận dụng thiên
thời địa lợi và hoạch địch một chương trình dài hạn như một nhà doanh nghiệp
tài ba. Vậy tại sao ông lại được xem là một kẻ dại khờ?
Đời sống của ông bị nhận chìm bởi các con sóng là các phương tiện
vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi trong cuộc sống. Đời sống
của ông bị bởi các hành trang vật chất chỉ giúp ông duy trì và phát huy cuộc
sống trong cuộc lữ hành ngắn ngủi của một đời người. Ông ta quên rằng con người
sống nhờ phương tiện nhưng lại sống cho cùng đích, và cùng đích của con người
là “tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ
kia Người sẽ thêm cho. Và thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm
phương tiện, và để cho cùng đích tan biến trong phương tiện.
Người đàn ông này nếu càng giàu có về của cải vật chất thì đời sống
tinh thần và thiêng liêng càng trở nên nghèo nàn. Có thể ông có rất nhiều sách
quí, nhiều đĩa nhạc hay, nhưng chắc rằng ông chẳng bao giờ nghe, và chẳng bao
giờ đọc. Vì ông còn đang mải mê kiếm tiền và giữ tiền. Cho nên đời sống tinh thần
và thiêng liêng của ông trở nên nghèo nàn. Vậy, ông đúng là kẻ khờ dại.
Ông chỉ sống cho cá nhân của ông chứ không biết quan tâm đến người
khác. Có một người nọ thật giàu muốn gì cũng có, tuy vậy ông không thấy hạnh
phúc vì ông chỉ nhận được những cái nhìn soi mói, coi thường và khinh miệt của
người khác. Ông tìm đến hỏi một người nổi tiếng là khôn ngoan: “Tại sao người
ta lại coi thường và khinh miệt tôi cho tôi là kẻ keo kiệt bủn xỉn? Người ta
đâu biết rằng sau khi chết, tôi sẽ hiến tất cả gia tài của tôi cho người nghèo
và cho những công việc từ thiện”. Để trả lời, nhà khôn ngoan kể cho ông một câu
chuyện như sau: Một chú heo than thở cùng chị bò cái: “Tôi cũng như chị, chúng
ta cống hiến thịt mình cho loài người. Thế thì tại sao họ thân thiện với chị mà
xa lánh tôi?” Ngẫm nghĩ giây lát, chị bò cái trả lời: “Thịt chúng ta chỉ cống
hiến cho loài người khi chúng ta chết. Còn bây giờ có lẽ tại tôi hiến cho họ
sữa lúc tôi còn sống nên họ quí mến tôi chăng”.
Thật vậy, nhìn vào cuộc sống hằng ngày thì chúng ta sẽ nhận ra
ngay, những người có điều kiện về vật chất biết quan tâm giúp đỡ chia sẻ với
anh em thì sẽ được nhiều người yêu mến và kính nể.
Ông nhà giàu này mang trong mình căn bệnh vị kỷ, nên không thấy
rằng của cải của ông là do của cải tập thể mang lại, ông cũng không nhận ra
rằng ông đã thừa hưởng một kho tàng ý tưởng và các tiến bộ mà những người đang
sống cũng như đã chết góp phần tạo nên. Ông nghĩ rằng mình có thể sống huy
hoàng trong thế giới nhỏ bé chật hẹp. Ông là một con người sống theo chủ nghĩa
cá nhân và suốt đời ông chỉ có một mình không có ai làm bạn. Ông thật là kẻ khờ
dại.
Ông đã không biết rằng ông có được của cải như ngày nay chính là do
Thiên Chúa đã ban cho ông. Và bây giờ ông nói với chính mình: bây giờ tôi có
nhiều của cải rồi, ta cho xây kho để cất của cải vào đó, giờ ta chỉ có hưởng
thụ, đi du lịch, an dưỡng tuổi già. Nhưng đêm hôm đó Thiên Chúa gọi ông. Vậy
ông quả là một kẻ khờ dại vì khi chết ông đâu mang theo được vật chất gì.
Có lẽ ông nhà giàu này nghĩ rằng của cải, quyền thế ở trần gian này
là một thứ bảo hiểm chắc chắn cho hạnh phúc và sự sống đến nỗi ông quên cả cái
chết rình rập, bất xét đến phần rỗi đời đời. Ông là kẻ khờ dại vì cứ bo bo giữ
lấy của cải cho thật nhiều để tiêu xài, ăn chơi thỏa thích, cung phụng cho bản
thân để rồi không biết khôn ngoan dùng của cải mua lấy bằng hữu trong Nước
Trời.
Ngày nay có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh
phúc; họ mải mê rong ruổi chạy theo cái bóng này, để rồi mau chóng thất vọng
khi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Chúa Giêsu coi người giàu có này là kẻ khờ dại vì ông không phân
biệt được phương tiện và cùng đích cuộc đời; ông không ý thức được mình lệ
thuộc vào người khác; ông không ý thức được mình phải lệ thuộc vào Thiên Chúa.
Thế thì, qua bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta
điều gì? Chúa Giêsu không hề lên án người giàu có chỉ vì họ có nhiều của cải,
nhưng chỉ cảnh báo những người quá coi trọng tiền bạc, của cải và không biết sử
dụng tiền bạc cho đúng. Tiền bạc tự thân không có giá trị đạo đức. Nó có thể sử
dụng cho việc tốt cũng như việc xấu. Nó chỉ là phương tiện, một khí cụ, một đồ
dùng. Như con dao chẳng hạn, cái làm cho nó tốt hay xấu chính là cách sử dụng.
Con dao có thể giúp người mẹ dùng để sửa soạn bữa ăn, hay giúp cho bác sĩ phẫu
thuật để cứu sống bệnh nhận, nhưng nó cũng có thể được dùng để sát nhân. Và
việc sử dụng tiền bạc cũng thế. Nếu chúng ta sử dụng đúng và tốt, như giúp đỡ
anh em khi họ thiếu thốn, hay làm một công việc từ thiện nào đó là chúng ta cứu
sống họ, nhưng nếu dùng đồng tiền mà mua chuộc, đút lót với ý đồ xấu là chúng
ta đã hại người khác.
Dưới cái nhìn của Chúa, làm giàu một cách lương thiện không phải là
xấu, tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm
nhiên hưởng thụ và nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của anh em lại là một tội ác,
dù có ý thức hay không ý thức, mỗi người chúng ta là một con nợ đối với người
khác (người quen biết hay không quen biết). Vậy chúng ta phải trả món nợ thế
nào? Câu trả lời thật giản đơn: cho kẻ đói ăn, cho kẻ trần truồng áo mặc, chăm
sóc người đau ốm.
Chúa Giêsu muốn chúng ta sống một cách sống khôn ngoan. Người khôn
ngoan phải biết đâu là giá trị thật và giả, cái gì trường tồn và nhất thời.
Người khôn ngoan biết nhìn sự vật theo bậc thang giá trị: sẵn sàng hy sinh cái
tạm bợ để theo đuổi cái vĩnh hằng. Cuộc đời Kitô hữu chúng ta là phải sống siêu
thoát, nghĩa là của cải, danh vọng, địa vị, quyền lực, quyền lợi được sử dụng
như phương tiện để đạt đến mục đích tối hậu. Kitô hữu chúng ta không miệt thị
những thực tại trần thế nhưng hướng tất cả các thực tại trần thế vào việc xây
dựng Nước Trời. Thực tại trần thế giúp thăng tiến con người trong xã hội và
Giáo Hội. Như thánh Phaolô đưa ra một xác tín cho chúng ta: Nếu chúng ta cùng
chết với Đức Kitô thì chúng ta sẽ cùng sống lại với Người. Đức Kitô trở thành
Người mẫu, dạy chúng ta sống tốt đạo đẹp đời.
Sống ở đời, ai cũng muốn tỏ ra mình là người khôn ngoan để tồn tại.
Tục ngữ Việt Nam có câu ‘Khôn sống, bống chết’. Kẻ khôn ngoan sẽ sống, còn kẻ khờ
dại sẽ bị đào thải. Cả 3 bài đọc lời Chúa hôm nay đều nói về sự khôn ngoan,
nhưng không theo quan niệm trần thế mà theo hướng đích của Tin mừng. Vậy đâu là
sự khôn ngoan đích thực?
Nguyên lý căn bản của khôn ngoan: ‘Memento Finis’ (hãy nghĩ đến
cùng đích)
Ngay từ thời cổ đại, triết gia Socrates cũng đã nói đến nguyên lý
này. Nhưng ông ta chỉ giới hạn quan điểm trong phạm trù triết học mà thôi. Nền
triết học Hy lạp ngày xưa không thể đưa dẫn con người đến cùng đích tối hậu của
cuộc sống như Kinh thánh mặc khải, mặc dù họ vẫn biết rằng sự khôn ngoan ở đời
là hãy nghĩ đến mục đích sau cùng. Họ không biết và cũng không thể xác định
được đích đến của cuộc sống hôm nay là gì, ở đâu và như thế nào. Trong bài đọc
thứ nhất, tác giả sách Giảng viên từ từ hé mở thực tại này với nhận định ‘Phù
vân, tất cả chỉ là phù vân’. Mọi giá trị trần gian chỉ mang tính tương đối và
rất tạm bợ. Tiền bạc, danh vọng hay sắc đẹp rồi sẽ biến tan như mây khói khi chúng
ta đối diện trước cái chết. Nhưng tác giả vẫn chưa soi tỏ cho chúng ta biết
thực tại sau cái chết sẽ ra sao.
Mãi muộn thời sau này, ý niệm về cuộc sống mai hậu mới từ từ được hé mở. Anh em nhà
Ma-ca-bê (thế kỷ thứ 2 trước công nguyên) đã quyên tiền xin lễ cầu nguyện cho
những người đã chết. Đây là quyển sách đầu tiên trong Kinh thánh Cựu ước nói về
niềm tin vào cuộc sống mai sau. Niềm tin đó được Chúa Giêsu dần dần mặc khải rõ
nét qua các giáo huấn của Ngài. Đặc biệt, Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết và đi
vào vinh quang Phục sinh để diễn bày chân lý mà Thánh Phaolô diễn tả: “Những ai
cùng chết với Đức Kitô, sẽ được cùng sống lại với Ngài”.
Trong cái nhìn thần học ấy về cánh chung, Thánh Phaolô trong thư
gửi giáo đoàn Côlôssê mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, cũng tổng
lược một viễn ảnh cuộc sống tương lai đặt nền tảng trên niềm tin vào Đức Kitô
Phục sinh để giúp chúng ta có một thái độ sống khôn ngoan đích thực. Ngài
viết:”Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì
thuộc thượng giới nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa…Khi Đức Kitô xuất
hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Ngài và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang.”
(Col 3,1-5).
Sự khôn ngoan của Tin mừng: Tinh thần nghèo khó và sống thanh thoát.
Mối phúc đầu tiên trong bát phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài
giảng trên núi, chính là nếp sống khó nghèo. “Phúc cho ai có tinh thần nghèo
khó vì nước trời là của họ”. Mối phúc đó cũng được Chúa Giêsu nhắc lại gián
tiếp qua dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay. Tên nhà giàu bám vào của cải vật
chất và sống cuộc sống hưởng thụ đã bị Chúa kết án một cách gay gắt. Chúa gọi
anh ta là ‘đồ ngốc’ (c 20). Ngài còn răn đe một cách mạnh mẽ: “Kẻ nào thu tích
của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng sẽ
giống như vậy (c 21).
Alexandre Đại Đế (thế kỷ thứ tư trước công nguyên) là một ông vua
rất nổi tiếng trong thế giới Hy lạp ngày xưa. Ông đã chiến thắng lẫy lừng và
chinh phục hầu hết các nước miền Trung Đông. Ông chết lúc còn rất trẻ, mới 30
tuổi. Trước khi chết, ông dặn các cận thần hãy để thi hài của ông trong cỗ quan
tài với hai bàn tay thò ra ngoài. Ông muốn cho mọi người thấy rằng, một con
người như ông với bao danh vọng và của cải giầu sang, khi chết cũng chỉ còn 2
bàn tay trắng. Giai thoại này rất tương thích với nội dung mà lời Chúa hôm nay
đề cập đến. Chúng ta đã nghe nói khá nhiều về tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu
mời gọi, nhưng trong thực tế, tiền bạc vẫn luôn là tên cám dỗ khủng khiếp nhất
ở bất cứ thời đại nào. Nó tấn công tất cả mọi người, không loại trừ ai. Trong
cuộc sống hằng ngày, chúng ta từng chứng kiến nhiều trường hợp, ngay cả cha mẹ
và con cái đem nhau ra tòa chỉ vì tranh chấp một căn nhà hay vài ba thước đất.
Có biết bao nhiêu bài học cay đắng và nghiệt ngã chúng ta đã rút ra từ vấn đề
tiền bạc. Lúc còn nghèo xác nghèo xơ, chẳng ai thèm ngó ngàng tới. Khi trở
thành việt kiều với đô la rủng rỉnh trong túi trở về thăm quê hương, căn nhà
lúc nào cũng đầy ắp bạn bè đến hỏi han. Trong tiểu thuyết ‘Những con chim ẩn
mình chờ chết (les oiseaux se cachent pour mourir)’ tác giả cũng nêu lên một
thực tế phũ phàng đã và đang xảy ra, đó là tiền bạc như một ma lực làm tha hóa
và biến chất rất nhiều người, ngay cả các anh em linh mục.
Kết luận
Ngày xưa có một ông vua nuôi một thằng ngốc trong cung để giải sầu.
Những lúc buồn, ông gọi thằng ngốc đến để mua vui. Khuôn mặt ngờ nghệch và
những cử chỉ ngô nghê của nó cũng giúp nhà vua khuây khỏa đôi chút. Nhà vua
thưởng cho nó một cây gậy bằng bạc và dặn: “Tao thưởng cho mày cây gậy này vì
mày rất ngốc. Khi có ai ngốc hơn mày, mày hãy trao cây gậy cho nó”. Một bữa
kia, nhà vua lâm trọng bệnh và rất nguy kịch. Ông cho gọi thằng ngốc đến để
giải khuây. Ông nói với nó: “Ngốc ơi, ta sắp đi xa rồi”. “Đức vua đi đâu và
chuẩn bị hành trang gì chưa?” Thằng ngốc hỏi lại. “Ta chưa chuẩn bị gì và ta
cũng chẳng biết đi đâu nữa”. Nghe vậy, thằng ngốc nhẩy cẫng lên và trao cây gậy
bạc cho đức vua. Nó nói: “Bây giờ, con đã tìm ra được một người ngốc hơn con
rồi, đó là chính đức vua. Đức vua sắp đi xa mà không biết mình đi đâu và cũng
chưa chuẩn bị gì thì chắc chắn đức vua là người ngốc nhất trên đời”.
Đúng vậy, điều xuẩn ngốc nhất trên trần gian là ta đang sống mà
không biết mình từ đâu đến, sống để làm gì và cuộc sống mai sau sẽ đi về đâu.
Tên nhà giầu trong bài Tin mừng hôm nay cũng được Chúa gọi là ‘đồ ngốc’. Lời
Chúa nhắc nhở để chúng ta biết sống khôn ngoan thực sự theo hướng đích của Tin
mừng.
CỦA CẢI DƯ GIẢ CÓ BẢO ĐẢM ĐƯỢC MẠNG SỐNG CON NGƯỜI
Là vấn đề được Đức Giêsu nêu lên không riêng cho người đòi chia gia
tài mà còn cho mọi người trong đám đông theo Người. Gia tài là gia bảo để lại,
vừa là vật thể, vừa là tinh thần. Vật thể chỉ để sử dụng, tinh thần biểu trưng
công ơn cha mẹ tạo ra giờ các ngài đã khuất. Điều đó, trên nguyên tắc, được
phân chia đồng đều cho các con. Hôm nay giữa đám đông, có người lên tiếng xin
Đức Giêsu lấy quyền ‘chia phần gia tài công bình cho anh’. Có lẽ do Đức Giêsu
dạy cầu nguyện hấp dẫn từ kinh Lạy Cha trước đây. Anh mạnh dạn mạo muội lên
tiếng xin Người phân giải.
Đứng ra chia gia tài? Đức Giêsu không làm được! Vì, ở đây bây giờ,
Người không xử kiện, không là quan tòa ‘chợ đời’. Người đang mang sứ mệnh, dành
cho Người, tuyệt đối cao cả, trên đường lên Giêrusalem chịu chết. Cái chết của
Người sẽ lập nên ‘cơ đồ’ thiêng liêng mà muôn người trần thừa hưởng bất tận. Đó
là điều Người cũng muốn mọi người đồng tâm cùng thực hiện.
Trong câu chuyện kể cho mọi người, Đức Giêsu nêu hai vấn đề đối
chiếu, vật chất dư giả và sự tồn vong mạng sống. Nên khi lấy vật chất dư giả để
bảo đảm mạng sống thật là điều hão huyền. Thế mà không ít người, trong khi miệt
mài lo thu tích gom góp những gì chóng qua, quên mất những gì là trường cửu. Vì
thế Người đã nói: “Ấy người nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu
trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó”(c.21)! ‘Làm giàu’ theo đường lối
của Người là gầy dựng những gì ‘công đức’, sự nghiệp, tài sản thiêng liêng
trường cửu, là sự công chính. Đây là chủ đích giáo huấn của Đức Giêsu như đã
thấy trong Tin Mừng Matthêu: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới
đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ
cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm
không khoét vách lấy đi. (x.6,19-20)
Biết rằng mọi ‘vật chất’ hiện có là do Thiên Chúa tạo ‘chung’ cho
con người hưởng dùng. Chính những vật chất này làm nên cơ sở để con người lấy
năng lực bẩm sinh làm ra nhu cầu cần dùng. Vật chất luôn vô tri. Dù vậy khi ở
trước con người, vật chất đã trở nên duyên cớ phát sinh mọi sự phức tạp rối
ren. Điều đó được trải nghiệm qua bao thời giữa mọi người, mọi nước, mọi dân.
Và Đức Giêsu cũng đã chỉ ra nguyên nhân, duyên do nội tại là ‘mọi thứ tham lam’
của con người đã, thật cụ thể, gây ra bao tiêu cực làm suy suyển tình anh em
đồng loại và cuộc sống chung an bình đấy.
Tuy nhiên, đứng trước tâm địa con người, vật chất cũng đã chịu số
phận đảo điên. Vì con người, dù trong chiều hướng tâm linh nào, cũng có thể có
quan điểm và đánh giá khác nhau về chúng. Ở tiêu cực, một bộ phận cho là phù
phiếm chóng qua; bộ phận khác, cách tích cực, tha thiết gắn bó, như Thần Tài
Thổ địa, có tầm vóc mang lại may mắn vượt cung cầu không hề chấp nhận thiếu
thốn hoặc chỉ đủ. Một bộ phận khác nữa nhìn vật chất là công cụ để thi thố tài
cán nội tại sẵn nơi chính mình. Như tôi đã đọc thuộc câu này, ở đâu bao giờ, mà
không nhớ nổi rằng: “Ngày xưa hạn hán cầu trời, ngày nay hạn hán mời trời xuống
coi”. Không hề không đồng tình điều người xưa nói: Tận nhân lực tri thiên
mệnh”.
Ở góc độ tiêu cực như đã nói, không thể không trích dẫn cụ đồ nho
Nguyễn Sinh Sắc để thấy được quan điểm chung không ít, vì rất gần với thời hiện
đại. Có lẽ trong khi dồi mài kinh sử tiến quan qua nhiều phen thành bại thăng
trầm, đã không khỏi nhìn mọi sự thật đáng tủi buồn chê chán. Qua mấy vần thơ
khá hấp dẫn, cụ đã bộc lộ rõ quan điểm của mình trước mọi sự đời: “Nhân sinh
nhược đại mộng, thế sự như phù vân”. Quan điểm này rất trùng lập với tư tưởng
vua Salomon cách cụ gần mấy nghìn năm trong bài đọc thứ I: “Mọi sự là phù hoa”.
Với Đức Giêsu! Người không đưa ra đánh giá phê phán nào đối với vật
chất. Vì Người quá am tường tính chất cùng mức độ giá trị của chúng, bởi Người
là Đấng tạo dựng nên chúng: ‘mọi sự đều thiện hảo’, thiện hảo theo cung cách
‘Chủ Tác’ tạo thành. Thế vậy, Người thẳng thắn chỉ dạy lập trường sống cho con
người mỗi khi đối diện với vật chất đã tạo thành. Là luôn vận dụng khối óc, con
tim, tình cảm để lọc chọn hành vi tốt, thực hiện hoạch định, sao đạt được điều
độ phải cách, đúng phép và trách nhiệm! Chỉ thế là theo cách hướng dẫn mà Người
nói với đám đông dân chúng trên đường theo Người qua đoạn Tin Mừng được trích
công bố để suy nghĩ và tâm đắc hôm nay.
Với Phaolô, vị tông đồ yêu mến Đức Giêsu chí tình, qua mỗi bước
trên đường rao giảng, đã nghiền ngẫm học hỏi rập khuôn vói Đức Giêsu, xác tín
dạy dỗ các giáo đoàn tòng đạo. Bởi vì ánh sáng Đức Giêsu nhập tâm ngài. Trước
vật chất là những gì con người phải biết tự phòng, nếu còn muốn ở mãi, và tha
thiết bảo toàn đời sống công chính, điều cần thiết là khôn ngoan trong sử dụng,
thức tỉnh trước cám dỗ và chất hấp dẫn hiểm nguy của chúng! Tuy không là tên
cám dỗ, nó vẫn có ma lực cuốn hút vào vòng hấp lực xoáy ốc của nó kích động cái
‘bụng hèn yếu’ ở con người. Không phải chứ, cái bụng con người, nếu không có
tâm linh đạo như ‘vòng khóa kiểm định hãm mở tự động’ thì không là túi tham không
đáy đấy ư?
Điển hình với mọi người, Phaolô luôn có tâm ý khuyên bảo hãy có một
tinh thần tự do và thái độ hưởng dùng mà không để lòng tha thiết gắn bó với của
cải. Ngài viết trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Kẻ hưởng dùng của cải đời này,
hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (x. 7,31). Thánh
nhân cũng không quên nhắc điều như vậy với các cộng sự của ngài, như với
Timôtê, trong vai trò chăn dắt đàn chiên, dạy cho họ biết đặt trọn hi vọng và
niềm trông cậy vào Thiên Chúa Đấng là chủ mọi sự và thấu suốt mọi sự thì hơn,
đặc biệt lưu tâm đến những người giàu của cải:”Những người giàu ở trần gian
này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của
cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng
dùng” (tđd. 6,17).
Nhìn chung, Giáo Hội xưa nay trung thành với giáo huấn của Đức
Giêsu, vị Thầy không ngừng toàn tâm ý hướng dẫn đoàn dân Chúa đón nhận giáo
huấn của Người vì nơi hội tụ Nước trời. Bởi giá trị nhân linh được mua lấy bằng
máu vô giá Đấng Cứu Độ. Giá trị đó đã trở nên vô cùng cao quý. Chỉ còn một điều
mọi người biết trân trọng giữ lời dạy của Đức Giêsu, khi người phán: “Trước hết
hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ
kia, Người sẽ thêm cho”(Mt 6,33). Tâm quyết này là kiên định dành cho những ai,
trên đường lữ hành, diễn tả rực sáng niềm hi vọng.
Lạy Cha! chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến. Xin
Cha cho chúng con lương thực hằng ngày! Chúng con xin cảm tạ Cha.
ĐIỀU LÀM CON NGƯỜI THÀNH VĨNH CỬU
Thu tích kiến thức và học tập những kỹ xảo, tìm cách sở hữu gia tài
một cách công bằng, lo lắng để mình hưởng nhàn sau những cố gắng lao nhọc, cũng
chỉ là phù vân. Vậy cái gì trường tồn?
Cái chết giúp con người nhận ra chân lý
Trong cuộc đời rao giảng, Đức Giêsu đã gặp nhiều loại người. Có
những người tìm đến với Đức Giêsu để nghe Ngài dạy điều hay lẽ phải, nhưng cũng
có người muốn nhờ Ngài giải quyết những tranh chấp, cụ thể là vấn đề chia gia
tài. Đức Giêsu đã từ chối can thiệp vào những việc này. Tại sao Đức Giêsu lại
không giúp anh ta, khi anh ta bị người anh đối xử không công bằng? Phải chăng
Đức Giêsu biết rằng Ngài cũng không thành công nếu Ngài can thiệp vào, hay Ngài
cho rằng điều đó không quan trọng, và không là sứ mạng của Ngài: “Ai đã đặt tôi
làm quan toà hay người trọng tài để phân xử?”? Hơn nữa, Đức Giêsu còn dùng cơ
hội này để giúp con người ý thức về “lòng tham” của mình dưới mọi hình thức.
Người giầu có trong đoạn Tin Mừng sở hữu nhiều của cải, tính toán
để tích chứa những gì ông ta có do lao động một cách hợp lý hợp pháp, đâu có gì
xấu. Thế nhưng Thiên Chúa nói với ông ta: “Đồ khùng, nếu đêm nay anh phải chết,
thì kho tàng đó để cho ai?” Điều khùng ở đây là người nhà giầu không biết dùng
của cải để giúp người nghèo, để thu tích kho tàng không mục nát và không bị mối
mọt đục khoét.
Cái chết, giúp người ta nhận ra chân lý, giúp người ta biết điều
mình toan tính thu tích có giá trị thực sự không? Nếu thu tích, bỏ công sức để
được cái gì đó, mà cái chết sẽ đến đêm nay huỷ diệt tất cả, thì ích lợi gì?
Tất cả chỉ là phù vân
Sách Giảng Viên cho thấy những suy tư của ông về sự đời. “Lợi lộc
gì khi con người phải chịu đựng bao nhiêu gian lao vất vả?” Với Giảng Viên,
việc thu góp được bao nhiêu điều khôn ngoan hơn tất cả những người trước, việc
phân biệt được đâu là khôn ngoan, đâu là tri thức, điên rồ hay khờ dại, cũng
chỉ là phù vân (Gv.1, 16-17).
Khôn lắm cũng khổ, hiểu lắm cũng khổ. Tận hưởng thú vui, nếm mùi
hạnh phúc, cũng chỉ là phù vân. “Tất cả đều chết, người khôn cũng như kẻ dại”
(Gv.2, 16). Cái chết giúp người ta biết con người là ai, những lao nhọc vất vả
của mình có giá trị gì, đâu là điều trường tồn và có gía trị thực sự? Cái chết,
là nỗi sợ của nhiều người, nhưng cũng là một quà tặng cho nhiều người, và nó
cũng có tính giải phóng con người khỏi u muội mê lầm. Cái chết, là khởi đầu của
hạnh phúc.
Đức Kitô là tất cả trong mọi sự
Chỉ một điều quan trọng, điều ảnh hưởng dứt khoát trên cuộc sống
con người, là Thiên Chúa và tình yêu của Ngài nơi Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa
yêu thương con người, làm những vất vả của con người trở nên có ý nghĩa và trọn
vẹn trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Đức Giêsu Kitô. Tất cả những gì được thực hiện
trong Thiên Chúa và trong Đức Giêsu Kitô, sẽ có giá trị vĩnh viễn.
Hành vi bác ái yêu thương, là hành vi “vĩnh cửu” nhờ Đức Giêsu.
“Nếu tôi làm được điều này điều kia, nếu tôi được ơn này ơn kia, mà không có
bác ái, thì cũng như tiếng phèng la vang dội, não bạt vang vang”. Yêu thương,
là hành vi làm con người trở nên vĩnh cửu, là hành vi làm con người trở nên con
Thiên Chúa và nên giống Thiên Chúa.
Đức Giêsu là mẫu gương và thầy dạy con người về yêu thương.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, điều nào quan trọng nhất đối với người đời? Tại sao?
2. Theo cái nhìn của bạn, điều nào làm hành vi của bạn trở thành
vĩnh cửu? Tại sao?
3. Bạn có sợ chết không? Cái chết của những người khác, thường gợi
gì nơi bạn?
Trong thời gian gần đây, báo chí hay đưa tin những doanh nghiệp làm
ăn thành công cũng như thất bại. Thậm chí có những tên tuổi của những người
trong giới văn nghệ sỹ, rất được công chúng hâm mộ, nhưng rồi khi hay tin doanh
nhân này, ca sỹ nọ, người mẫu kia làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất… Rồi cũng
rất nhiều những ông to bà lớn mà tài sản của họ rất kếch sù, không phải là
những con số nhỏ mà là lên đến một vài tỷ mỹ kim. Xem ra của cải vật chất như
là thước đo của khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Người giàu ngày càng muốn
giàu hơn, trong khi kẻ nghèo cũng cật lực để làm cho mình có của cải tiêu dùng.
Ai cũng muốn đầu tư tích trữ, như nhà phú hộ mà Tin mừng Luca giới thiệu, ông
không biết để đâu, hay làm gì nữa, vì ông ta có quá nhiều của cải.
Trước hết, dùng của cải vật chất như là những phương tiện
Khi sáng tạo nên con người, Thiên Chúa đã đặt để Adam canh gác vười
Ê-den, Ngài cho con người tự do canh tác, làm lụng vất vả để có lương thực nuôi
sống bản thân. Con người là chủ tế vạn vật, và cũng là những quản lý vườn nho
cho Chúa. Đức Giê-sa cũng dạy các môn đệ làm việc và Ngài cũng là người tích
cựa làm việc từ sáng sớm cho đến lúc hoàng hôn. Vật chất, tiền bạc tự nó không
xấu, vì đó là điều kiện tối cần cho nhu cầu của con người. Tiền bạc là phương
tiện, nó giúp mỗi người đạt đến cứu cánh là ơn cứu độ. Giáo hội cũng luôn
khuyến khích con cái mình hãy ra sức làm việc, để cải thiện đời sống, để thoát
khỏi cảnh nghèo nàn, và cũng là để có cơ hội chia sẻ và hoạt động cho công cuộc
truyền giáo, bác ái xã hội của toàn thế giới.
Thứ hai, của cải vật chất là ân huệ của Chúa thương ban
Khi Ngài rộng mở tay ban,
Là bao sinh vật, thoả thuê muôn vàn.(Tv 144, 16).
Lời Thánh vịnh nhắc nhở mỗi người hiểu rằng, tất cả những gì mình
đang có, hay đang sở hữu là do hồng ân của Thiên Chúa thương ban, như Chúa
Giêsu khẳng định: “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được gì”. Thật vậy: “Nếu
như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126 (127). Không
phải tôi tài giỏi cho bằng Đấng đã dựng nên tôi, đã cho tôi trí khôn, sức khoẻ
và có điều kiện, cũng như cộng vào đó là một chút may mắn, gặp thời vận. Nên
tôi thành công, tôi có nhiều của cải, nhưng cũng nên nhớ một điều mà chính
người Phú hộ đã ldạy cho chúng ta một bài học, đang khi ông mải mê tính toán,
xây thêm nhiều kho lẫm thì: “Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! nội đêm nay,
người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”(Lc
12, 20).
Sau cùng, hãy làm giàu trước mặt Thiên Chúa
Nhiều lần, Chúa Giêsu đã dạy dỗ mỗi người: “ Chúng con đừng lo
lắng, áy náy…”, hãy kiếm tìm những giá trị vĩnh cửu hơn là những thứ chóng qua
ở đời này. Người môn đệ của Chúa, luôn tìm kiếm những cúu cánh vững bền, đó là
hạnh phúc thiên đàng, chứ không phải ảo ảnh trần gian. Mặc dù đang khi hoàn tất
số mạng lữ hành trần gian, họ vẫn phải chu tất mọi trách nhiệm, sự liên đới đầy
nhân văn trong thế giới hiện đại hôm nay. Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo
lắng của con người không thể tách rời ra khỏi cuộc sống của các Kitô hữu. Thế
nhưng, những tín hữu vẫn luôn ý thức thức rằng: “Chúng con sống giữa thế gian,
nhưng không thuộc về thế gian”.
Những bất thuận bất hoà, những tranh chấp, bất công, đàn áp như là
những trì trệ, nó làm cho con người không thể vươn lên để xây dựng một cuộc
sống văn minh tình thương. Trong khi đó, biết chia sẻ áo cơm cho những người
đói khát, biết cảm thông và giúp đỡ lẫn nhau sẽ thăng tiến con người và đưa họ
đến gần Thiên Chúa hơn.
“Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?” (Lc 12:20)
Nasruddin đang bò gối trên thảm cỏ trước nhà, hình như đang tìm
kiếm vật gì. Người hàng xóm của anhta thấy thế bèn cất tiếng:
- Này Nasruddin, anh đang tìm gì vậy?
- Tôi tìm chiếc chìa khoá. Nasruddin trả lời.
Thế là người hàng xóm liền tỏ lòng hào hiệp. Anh cùng bò gối trên
sân để tìm chiếc chìa khoá cho Nasruddin. Sau một hồi lâu tìm kiếm mà không
được, anh hàng xóm ngước mắt lên hỏi:
- Mà Nasruddin nè, anh làm rơi chiếc chìa khóa ở chỗ nào vậy?
- À, tôi làm rớt ở trong nhà.
Nghe câu trả lời, người hàng xóm ngẩn ra vì tức:
- Rơi ở trong nhà... nhưng tại sao anh lại tìm ở đây?
Nasruddin tỉnh bơ đáp lại: “Bởi vì ở ngoài này sáng hơn, còn trong
kia tối quá.”
Thế đấy! Ở trên đời có không ít người đi tìm hạnh phúc, nhưng lại
chẳng tìm đúng nơi. Cũng có lắm kẻ đã đến đúng nơi rồi nhưng lại không biết
minh nên tìm thứ gì.
Có nhiều người tầm sư học đạo mà tìm mãi không ra, nhưng cũng có
lắm kẻ đang ở trong chính đạo, nhưng lại cứ kiếm những thứ gì đâu! Có bao giờ
bạn đặt câu hỏi với chính mình: “Tôi đã thuộc về chính đạo chưa? Nếu rồi, thì
nơi đó tôi đang muốn điều chi?”
Đặt câu hỏi như vậy là để xác định cho mình một mục tiêu, nếu chưa
có. Hỏi như thế cũng là để chỉnh đốn hướng đi, nếu như mình đang bước không
đúng với tinh thần của đạo.
Khi yêu quí thứ gì thì người ta đâu muốn bị mất mát hư hao. Cho nên
nếu có phương cách để bảo vệ, tất họ sẽ không ngần ngại thi hành. Đây là tâm lý
chung mà nhiều kẻ nhờ biết khai thác và kinh doanh đã trở nên giàu to. Bao dịch
vụ hay công ty mang danh bảo hiểm – insurance – đã xuất hiện để bồi hoàn cho
những mất mát hay hư hao đó.
Kết quả là nhiều thứ bảo hiểm xuất hiện: nhà cửa, xe cộ, vật dụng,
công việc, sức khoẻ, nhân thọ. Thậm chí còn có bảo hiểm cho cả chó mèo chim
chóc trong nhà.
Không có thứ bảo hiểm nào lại không liên quan đến sự sống người ta.
Tôi mua bảo hiểm cho chiếc xe, cài nhà, cửa tiệm, bức tranh, chiếc nhẫn kim
cương... là vì những thứ đó có dính dáng đến cuộc sống của tôi phần nào.
Nhưng thử hỏi có mấy thứ bảo hiểm người ta đang có mà lại không
đụng đến đồng tiền? Phải nói rằng trong thực tế, thứ nào cũng cần có tiền mới
mua được. Thành ra để bảo hiểm cho thứ này vật kia, tôi phải nai lưng ra kiếm
tiền; để bảo vệ sự sống, tôi phải lo lắng vất vả thức khuya dậy sớm cày thêm tí
“job” để có tiền đóng bảo hiểm. Rốt cuộc, tôi đã tiêu hao sự sống để bảo vệ sự
sống. Trực tiếp giữ gìn sự sống thân xác trong khi đã gián tiếp đánh mất nó. Mà
nhiều khi lại đánh mất trong hãnh diện và tự hào mới khốn chứ!
Quả là phù vân tiếp nối phù vân, hư không trên các sự hư không.
Nếu không thoát được bao sự hư không phù phiếm đó thì tôi sẽ chẳng
khác chi gì “người phú hộ giàu có” trong Tin mừng của thánh Luca: gặp năm được
mùa, lúc thóc dư tràn, người phú hộ không biết để đâu cho hết. Sau nhiều hôm
trằn trọc băn khoăn, cuối cùng ông tìm được một kế: phá quách các kho nhỏ, đóng
một kho thật lớn để chất tất cả tài sản thóc gạo vào đó. Thế rồi, khi mọi sự
hoàn tất, được bảo đảm bởi một kho lẫm chắc chắn, ông phú hộ mới nói với linh
hồn: “Hãy ăn đi, uống đi, hãy nếm cho thoả thích mùi đời đi, hỡi linh hồn của
ta.”
Nhưng bất thần có tiếng Chúa phán: “Đồ ngốc,ngay đêm nay người ta
sẽ đòi lại hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ kia sẽ để lại cho ai
đây?” (Lc 12:16-21)
Mới đọc qua dụ ngôn, không ít người thắc mắc: một kẻ làm ăn cần cù,
có lẽ không gian dối lừa gạt bóc lột ai, nhưng sao lại bì kết án “đồ ngốc” nặng
nề như vậy? Thế nhưng, suy nghĩ một chút người ta sẽ phải công nhận người giàu
có kia đã phạm phải ba lỗi lầm chứng tỏ ông ta ngốc thật.
Lỗi lầm thứ nhất: ông tưởng của cải vật
chất là yếu tố căn bản có thể mang lại sự sống cho linh hồn, một hữu thể vô vật
chất. Ông ngây ngô khi nói với linh hồn mình hãy cứ ăn uống những thứ mà ông
thu tích được kia.
Lỗi lầm thứ hai: ông phá được các kho lẫm
ích kỷ nhỏ nhoi của mình để rồi xây lại một cái khác to lớn hơn.
Phải chăng trong thực tế cũng có không ít người phá được hầu bao
của mình để dâng cho Chúa một chút tiền công đức thì lại cứ muốn tên tuổi được
khắc ghi trên bia đồng hay bia đá, hoặc có những người vừa thoát được cái thế
giới thầm lặng khép kín của mình để ra đóng góp cho cộng đoàn tha nhân thì lại
xây ngay một cái kho khác lớn hơn: cái kho của tự cao tự phụ – “mọi người phải
biết đến phần đóng góp của tôi, nếu không thì tôi rút lui.”
Đó không phải là nẻo đường chân chính của Phúc âm. Trái lại, theo
tinh thần Kitô giáo, phá kho là để trao ban cho người chứ không phải xây lên
kho khác để rồi lại tích lũy cho mình.
Điều lầm lẫn thứ ba của người phú hộ là chỉ
biết hướng về những sự dưới đất, những chuyện thế gian, những phạm vi thân xác,
và thiếu quan tâm đến những thiêng liêng hay cuộc sống mai sau.
“Người ta sẽ đòi linh hồn ngươi.” Câu nói này đã bộc lộ một chân
lý: Đến giờ chết thân xác sẽ tiêu tan, trở về với cát bụi, chẳng ai còn tha
thiết với nó. Những gì sẽ được đem đi chính là linh hồn. Cho nên thật là khờ
dại khi chỉ tích trữ, trang điểm, vỗ béo cho thân xác mà quên mất hay coi nhẹ
việc tô điểm hoặc bảo hiểm cho linh hồn.
“Người ngốc” được nói đến trong Phúc âm là kẻ chỉ biết có hiện tại,
tìm kiếm và hưởng thụ những giá trị hữu hình.
Người khôn ngoan chính là người sống trong hiện tại nhưng biết
hướng về tương lai, ở trong thế giới hữu hình nhưng luôn chuẩn bị cho mình
những giá trị và tài sản vô hình thiêng liêng.
Người khôn ngoan “khi còn sống trên địa cầu biết kiềm chế các chi
thể là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là những sự
thờ quấy... (cùng với) nóng giận, gắt gỏng, thâm độc, chửi rửa, thô tục” (Col 3:5,8)
Người khôn ngoan là người biết rằng không có gì quí bằng linh hồn,
không có gì quan trọng cho bằng sự sống mai sau với Đức Kitô. Từ chỗ nhận biết
này người khôn ngoan sẽ lo việc bảo hiểm linh hồn của mình nhiệt thành hơn.
Có rất nhiều phương cách để giúp bảo hiểm linh hồn, nhưng có một
phương cách mà ai chịu khó đầu tư cũng đều nắm chắc phần thắng. Đó là cầu
nguyện. Thánh Anphongsô từng khẳng định: “Ai cầu nguyện nhất định được rỗi linh
hồn.” Bởi vì qua cầu nguyện, người ta sẽ vững bước trên con đường tiến về Thiên
Chúa
(Suy niệm của Lm. Fx. Nguyễn Hùng Oánh)
Theo Đệ Nhị Luật, trưởng nam là kẻ thừa kế gia tài cha mẹ, được
nhận gấp đơi phần của cac em (Đnl 21,17).
Luật quy định rõ ràng như vậy, nhưng người ta vẫn vi phạm. Bài Tin
Mừng (Lc 12, 13-21) kể truyện một người tới thưa với Chúa: “Thưa thầy, xin thầy
bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Có lẽ người anh đã chiếm giữ tất cả, người
em chỉ còn nước đi kiện. Thông thường, người bị thiệt tới xin các thầy
Pharisiêu, ký lục xét xử. Phán quyết của họ có giá trị trước cộng đoàn, bắt đôi
bên nguyên / bị phải tuân theo.
Tới Chúa Kitô xin Ngài xét xử, người ta xem Chúa như một thầy ký
lục hoặc Pharisiêu nghĩa là xem Chúa ở bậc “thầy dạy”. Chúa không phân xử chính
ngay nội dung vụ người ta yêu cầu. Chúa nói: “Này anh, ai đặt tôi làm thẩm phán
hay làm trọng tài giữa các anh”. Qua vụ kiện nầy Chúa vạch ra cho biết nguyên
nhân sâu xa là lòng tham lam tiền bạc và mọi thứ tham lam khác. Chúa đả kích
quan niệm xem tiền bạc là bảo đảm đời sống người ta.
Dụ ngôn Chúa đưa ra rất cụ thể: một phú hộ của cải nhiều, phát đạt
quá, phải làm nhà kho lớn để tích trữ thóc lúa. Ông ta tự thỏa mãn, bảo với
chính mình hãy hưởng giàu sang, phú quý cả đời chưa hết, tiền bạc bảo đảm ơng.
Chúa bảo ông ta là hạng ngốc (Giêremia 17, 11) vì cái chết đến tiền bạc trở nn
vơ ích với ơng.
Dụ ngôn trên cho ta biết hai điều: tiền tài giúp người ta sống, có
thể sống lâu, nhưng không thể sống lâu theo ý muốn người ta. Cái chết đến bất
thình lình, lúc người ta không muốn, khi người ta đang ham sống và tiền của tỏ
ra bất lực trong vấn đề này. Thứ hai lo thu tích nhiều tiền của, khi chết, hai
tay buông xuôi, mọi sự vất lại cả, không có gì mang theo.
Đúng là nhà phú hộ hạng ngốc. Thánh vịnh nói hạng ngốc sống không
cần biết Chúa (Tv 13 (14), 1). Ông này chỉ biết đến tiền bạc và hưởng phú quý
do tiền bạc đem lại. Cái chết đến, đống tiền của,hưởng vinh hoa phú quý trở nn
vơ nghĩa với ơng. Trái lại, người làm giàu nơi Thiên Chúa sống theo ý Chúa, cái
chết đến là lúc họ đạt tới đích của cuộc sống, tới cùng cực ý nghĩa đời sống
trần gian, họ trở thành giàu có trong Thiên Chúa.
Nói như vây, không phải khinh chê tiền bạc. Tiền bạc, của cải vật
chất tự nó có giá trị để phục vụ con người, để con người không bị lệ thuộc,
sống đúng với nhân phẩm của mình. Tiền bạc thực sự không làm thêm tuổi đời, kéo
dài đời người, nhưng giúp con người đạt tới tuổi thọ của mình. Thí dụ, vì nghèo
khổ thiếu dinh dưỡng, người ta chỉ sống đến 30 tuổi, thay vì tuổi thọ 60, 90,
100. Tiền bạc sẽ giúp người ta cải thiện cuộc sống, tạo nên thuận tiện cho cuộc
sống, đạt tới tuổi thọ 100. Rõ ràng tiền bạc, của cải không phải là đảm bảo
tuyệt đối cho đời sống, nó chỉ là phương tiện “gia hạn” cho cuộc sống trần
gian. Người phú hộ đã tưởng rằng tiền của nhiều bảo đảm đời sống ở mức tuyệt
đối, cuộc sống viên mãn ở trần gian, mà không nghĩ cái chết đến chấm dứt tất
cả.
Kẻ sáng suốt biết tính toán đúng, biết giá trị của tiền của, biết
sử dụng nó để làm phong phú đời sống, làm giàu cho đời sống nơi Chúa, không thể
dùng tiền bạc để mua Nước Trời. Có tiền mua tiên cũng được? Chắc chắn tiền bạc
không thể mua Nước Trời, trái lại tiền của có lúc là thần Mammon đối nghịch với
Thiên Chúa (Lc 16, 13). Phải biết sử dụng tiền của để sống theo Ý Chúa, làm
giàu nơi Chúa bằng bác ái. Kẻ chỉ sống với tiền bạc, hưởng thụ mọi thứ không
lành mạnh ở trần gian, cậy tiền của nhiều sống theo dục vọng, thỏa mãn lòng
tham quyền chức làm thiệt hại bản thân, linh hồn và thể xác, họ đã dùng tiền
của mua lấy án phạt đời đời.
CÂU HỎI GỢI Ý:
1. Một số người chủ trương: “Có thực mới vực được đạo.” Điều này có
mâu thuẫn với lời khuyên của Tin mừng: “Hãy tìm những gì thuộc thượng giới”
không?
2. Đừng nhầm lẫn giữa phương tiện và mục đích.
3. Một số phương thế giúp chúng ta luôn hướng thượng.
SUY TƯ GỢI Ý:
1. Xem ra có vẻ mâu thuẫn.
Nếu xét về mặt văn chương thì đoạn văn của Vua Co-he-lét, con Vua
Đavit, đạt đểm rất thấp vì đã sử dụng đến 7 lần chữ PHÙ VÂN. Nhưng về nội dung,
ông đã lột trần được một sự thực phủ phàng là “Tất cả chỉ là phù vân”. Phù là
trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi,
chóng qua, chóng tàn. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống
của mỗi người chúng ta đều là phù vân. Báo chí ngày 26-07-01 đưa tin về vụ hoả
hoạn đã thiêu rụi 92 căn nhà tại chợ Năm Căn với biết bao tiếng rên xiết kêu la
thảm khốc, có trường hợp muốn đi đến quyên sinh vì tiếc của. Ý thức được điều
này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi
Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Rồi đến lượt Đức Giêsu khuyên chúng ta:”
Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai
được dư gia, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu” (Lc 12,
15). Câu nói của Chúa Giêsu rất đúng ngay cả nghĩa đen. Thật vậy, chính những
người giàu có mới bị trộm cướp thanh toán, hãm hại, khi đi đường hoặc lúc canh
khuya. Nhưng có người lại chủ trương “Có thực mới vực được đạo”. Nghĩa là trước
tiên ta cần phải sống, rồi sau đó mới có khả năng làm gì thì làm. Ý tưởng này
cũng đúng vì sống là nhu cầu căn bản của con người. Ai cũng ham sống, sống hạnh
phúc và sống thọ. Điều kiện ắt có và đủ cho sự sống là tài sản. Vậy muốn sống
phải ra sức làm ra tài sản. Như thế, xem ra có sự mâu thuẫn giữa Lời khuyên của
Chúa Giêsu và cuộc sống thực tế cần vật chất của chúng ta?
2. Không lẫn lộn giữa mục đích và phương tiện.
Suy nghĩ kỹ, ta không thấy có chút mâu thuẩn nào giữa thực tế cuộc
sống của ta và lời khuyên của Chúa Giêsu. Ngài còn khuyên chúng ta hãy sống và
sống dồi dào. Đức đương kim Giáo Hoàng Phaolô II, trong bài đáp từ với Tổng
Thống Hoa kỳ G.W. Bush dịp hội kiến ngày 23-07-01 vừa qua, đã nói lên ưu tư của
mình về sự chia sẻ của cải vật chất cho mọi người:”… trong đó, toàn dân chúng
thế giới đóng góp cách tích cực cho nền thịnh vượng kinh tế chung và cũng phải
được chia sẻ hậu quả của chúng …” Không lẽ Đức Giáo hoàng, khi cổ vũ cho việc
phát triển kinh tế vật chất, là đi ngược lại với Tin Mừng? Thực ra, Diều Ngài
phát biểu còn nói lên Tin Mừng là đàng khác:”…phải giữ mình khỏi mọi thứ tham
lam…”(Lc 12, 15a). Tham lam là vơ vén tích lũy của cải về chỉ cho riêng mình,
cho đất nuớc và dân tộc mình. Hãy tạo cho mọi người được quyền hưởng lợi từ quả
đất là mái nhà chung. Như vậy, không có mâu thuẫn giữa nhu cầu vật chất của con
người và lời chỉ dạy của Chúa Giêsu. Chỉ còn một điều là ta không nên lẫn lộn
giữa mục đích và phương tiện. Ai cũng ước ao cuộc sống mình trường tồn mãi mãi.
Vậy cuộc sống viên mãn mai hậu là mục đích. Còn cuộc sống đời này, với nhu cầu
tiền bạc tài sản của nó, phải được xem là phương tiện. Nếu chúng ta xem nó là
mục đích thì tự ta, ta đã mâu thuẫn với chính ta, vì:” Trăm năm nào có gì đâu.
Chẳng qua một đám cỏ khâu xanh rì. (Kiều).
3. Một số phương thế giúp chúng ta hướng thượng.
– Trước hết, chúng ta phải thấy rõ một sự thực là xã hội mà ta đang
sống hết sức thực dụng. Thực dụng có nghĩa la ta chỉ nhắm ích lợi hoặc hiệu quả
trước mắt,không cần suy nghĩ tới hệ quả lâu dài. Người ta có thể đổi lấy một
chút hư ảo của làn khói bạch phiến để suốt đời vật vả vì nó. Người ta có thể
biển thủ để có nhiều tiền cho những canh bạc thâu đêm suốt sáng mà bất chấp
những ngày sau đó có thể vào tù ra khám hay thậm chí dựa cột như ông Phạm Huy
Phước trước đây. Xa hơn nữa, “Con người” có thể đắm chìm theo những đam mê của
cái “CON” (thú tính) mà không đếm xỉa gì đến hậu vận của kiếp “NGƯỜI” sau khi
chết. Chúng ta cần phải lội ngược dòng trong sự lạc quan. Có những thân hình
lúc la lúc lắc theo điệu nhạc cuồng nhiệt dưới ánh đền sân khấu thì cũng có những
con người đang thầm lặng quì chầu trước Thánh Thể để múc nguồn sống vô tận.
– Kế đến, nếu chúng ta nghĩ rằng sự chết đến bất cứ lúc nào, có thể
là trong phút giây sắp tới, ta sẽ bớt tham lam của cải vật chất hơn, bớt ham
muốn giành dân lất đất hơn. Kinh nghiệm cho thấy, sau mỗi lần vào nhà thương
ung bướu, tính tình chúng ta trầm lại, suy tư.
– Cuối cùng, ta nên chiêm niệm Chúa Giêsu trần trụi trên khổ giá.
Ngài đã được nâng lên khỏi đất sau khi vứt bỏ tất cả những gì khong cần thiết.
Ngài chỉ giữ lại một THÂN XÁC PHỤC SINH.
Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã hứa cùng con rằng, khi nào Chúa bị treo
lên khỏi đất, Chúa sẽ kéo mọi sự lên cùng Chúa. Giờ đây xin Chúa thực hiện lời
hứa ấy với con. Xin cho con luôn can đảm dành sự ưu tiên cho những gì thuộc
thượng giới. Sự can đảm này chính là một bảo chứng cho con được vào cõi trường
sinh. Amen.
Chúng ta hiện sống trong một thế giới khủng hoảng nặng nề về nhiều
phương diện. Ta có thể nói được rằng: đứng trước một hoàn cảnh như vậy, nhiều
khi con người không còn biết phương hướng nào mà sống nữa. Con người cảm thấy
mình bị hụt hẫng, chao đảo, hoang mang, ray rứt, bất an...
Thậm chí nhiều kitô hữu như mất hẳn niềm tin, muốn buông thả và để
mình rơi vào cám dỗ, cứ lao mình vào cuộc tìm kiếm cho được nhiều vàng bạc của
cải và thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người... Đang khi đó người kitô
hữu lại được Chúa mời gọi sống vươn lên trong chính nếp sống nhiễu nhương
này...
Lời Chúa của Chủ Nhật 18 Thường Niên hôm nay muốn soi sáng cho
chúng ta...
Trước tiên, căn cứ vào bài đọc Cựu ước và bài Phúc âm, ta thấy Chúa
tha thiết nhắn nhủ ta rằng :
1. Cuộc sống con người tại thế chỉ là cuộc sống tạm bợ, mau qua mà
thôi.
Đây là điều mà trong Thánh kinh, rải rác đó đây Lời Chúa đã nhắc
nhở cho ta. Ta chỉ cần đọc lại một số bản văn tiêu biểu như : Tv 38; Tv 48; G
1,21, v.v. cũng đủ thấy rồi.
Cuộc sống con người chóng qua như hoa đồng cỏ nội : chỉ một cơn gió
thoảng qua cũng đủ làm nó biến đi... Đây là nếp sống chóng qua như làn gió
thoảng, như bóng câu lướt qua cửa sổ. Nhiều danh vọng và vật chất, người ta
thấy mình có được bảo đảm hạnh phúc đâu.
Tóm lại: Trần trụi sinh ra từ lòng mẹ, con người sẽ trần trụi trở
về lòng đất.
2. Nếu kiếp sống con người tại thế mong manh, phù du như vậy mà con
người còn lo lắng, bồn chồn ngày đêm : ăn không ngon, ngủ
không yên, chỉ mong tích lũy được nhiều vàng bạc, của cải vật chất, thì thật là
điên rồ biết chừng nào ! Bởi vì vất vả, lo lắng ngày đêm như thế để rồi khi
phải nhắm mắt lìa đời, thì vàng bạc, của cải vật chất có mang theo được ? Danh vọng,
giàu sang có bảo đảm được sự sống ?
3. Vậy con người tại thế hãy làm giàu cho mình trước mặt Thiên Chúa
bằng cách
- Hoặc là đem chia sẻ cho anh em đồng loại đói khát, nghèo nàn, cần
sự giúp đỡ của ta.
- Hay là dùng của cải tích lũy được để đền bù gấp ba, gấp bốn cho
kẻ ta làm thiệt hại, theo gương của ông Giakêu đã làm...
- Hoặc là cao thượng và quảng đại hơn thì ta hãy đem bán đi tất cả
những gì ta có, để bố thí cho kẻ nghèo đói, rồi đến theo Chúa...
- Sau cùng, căn cứ vào đoạn Thánh thư gởi cho giáo hữu Côlôsê, ta
thấy thánh Tông đồ ân cần nhủ bảo ta thế này : Vì được chỗi dậy với Chúa Kitô,
ta hãy tìm kiếm những sự trên trời. nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha.
Đừng tìm kiếm những của cải vật chất ở đời này.
Tìm kiếm những sự thuộc thiên giới như thế có nghĩa là chấp nhận
như Chúa Kitô, chết đi cho thành kiến, nết hư, cho mọi thứ tội lỗi của con
người cũ và mặc lấy con người mới.
Sống được như thế, người kitô hữu sẽ có được một sức sống mới giấu
kín với Đức Kitô trong Thiên Chúa, và sự sống mới này sẽ đem họ tới vinh quang
toàn vẹn.
Lạy Chúa,
Chúa đã sinh chúng con vào trong cuộc đời mong manh,
đầy cạm bẫy nơi trần thế đây,
là để thử xem chúng con có thật tình tin vào tình thương
và quyền năng của Chúa hay không.
Xin Chúa luôn giúp chúng con
biết sử dụng của cải phù vân
để làm phương tiện đi về với Chúa,
mà vẫn một niềm kiên quyết
tín thác vào Chúa mà thôi. Amen.
Đề nghị dân chúng phải đề cao cảnh giác khỏi men Biệt phái, coi
chừng họ, xem ra còn quá dễ, vì đó là đề phòng người khác; việc đề cao cảnh
giác nói sau đây khó thực hiện hơn: đó là lời cảnh tỉnh nói với mỗi người, vì
cái tham vọng lo tích luỹ ky cóp, ít nhiều gì cũng chi phối cuộc sống con
người.
1. Đầu đuôi câu truyện
Có người đến xin Chúa Kitô chia gia tài dùm. Anh của hắn –có lẽ là
anh cả- là người thừa kế chính thức, nên hắn phận em lo mình phải thiệt thòi.
Hắn xin Chúa như vậy có lý lắm. Vì là con cùng cha, mà bị xử tệ như vậy sao?
Dẫu thế, Đức Giêsu vẫn từ chối không giải quyết. Xét cho cùng những
thỉnh nguyện của bạn trẻ này hợp lý lắm, nhưng chỉ vì hắn bận tâm lo lắng quá
về truyện đó. Cuộc đời hắn để cho vật chất đóng vai trò lớn quá. Hắn khó hội ý
được những lời kỳ diệu của Chúa Kitô về nước Thiên Chúa, một thế giới linh
thiêng và tình yêu Thiên Chúa. Hắn đã bị daỳ vò bởi quá lo lắng đến công kia
việc nọ mà chẳng hề nghĩ đến những lý tưởng cao hơn. Đó là tình trạng cũng
thường thấy thôi.
Nhiều người ‘cũng’ quan tâm đến việc đạo (thậm chí còn quan tâm
nhiều nữa) nhưng thực ra đối với họ việc đó chỉ là thứ yếu. Họ chấp nhận việc
đạo vơí điều kiện họ còn thời giờ, còn sức lực, khi đời sống vật chất còn được
bảo đảm. Trước hết phải là kế sinh nhai, làm ăn sinh sống, của ăn áo mặc, thể
thao giải trí rồi mơí nói đến đạo nghĩa. Vì chẳng những vấn đề đạo nghĩa làm
mất biết bao thì giờ mà còn phải chú ý và mất sức lực nữa.
Cho nên, những việc tôn giáo đó, gác lại đến những ngày cuối đời
–không hẳn là lúc gần chết-. Đàng khác, có những người coi yếu tố kinh tế như
nguyên nhân gốc và ưu thắng của mọi cuộc biến hoá đến nỗi việc thiêng liêng
–thậm chí cả tôn giáo- xem ra chỉ là cái phụ trội, thêm thắt không hơn, không
kém (nếu không muốn nói là dư thừa hoặc nguy hại nữa)…
Tư tưởng đó đã nhiễm vào lãnh vực tinh thần: một số người công bố
rằng con người hãy lo bảo đảm đời sống vật chất trước đã, rồi sau đó mới nói
đến nước Chúa. Còn Tin mừng thì đã mang một thứ ngôn ngữ khác hẳn.
2. Giáo huấn của Đức Giêsu
Chúa trả lời rât minh xác: ‘Vì chẳng phải sung túc mà đời sống được
của cải đảm bảo cho đâu’. Những lời này được coi như một chủ đề được phát biểu
gắt gao và mang hai ý tưởng.
Trước nhất những của cải vật chất không bảo đảm cho đời sống. Điều
này ngày nay là một thực tế trước mắt. Việc phát triển kinh tế đã hoàn toàn rút
mất khỏi cá nhân khả năng định đoạt số mệnh.
Cá nhân lệ thuộc vào chủ mình; và ông chủ, chính ông cũng lại tuỳ
thuộc vào những tương giao kinh tế qui mô của khu vực, mà khu vực kinh tế lại tuỳ
thuộc vào miền Kinh tế. Và cứ thế miền kinh tế vượt khỏi ranh giới xứ sở và đại
lục.
Như thế vận mệnh mỗi người nằm trong tay người khác và những thế
lực vô danh không có chút khả năng cạnh tranh. Ngoài cái bấp bênh về mặt kinh
tế, còn có cái bấp bênh trên thực tiễn vì vào thời đại chúng ta, cuộc chiến nào
cũng mang những chiều kích vĩ đại và đưa đến biết bao đổ nát hoang tàn và tai
ương khốn khó khiến hàng triệu người phải mệnh số. Không còn chi là an toàn
chắc chắn cả.
Thật rất nực cười: chính vì coi vật chất là nhất mà đánh mất đi sự
an toàn đó; bởi vì những hiệp ước, khế ước, bảo đảm, trách nhiệm và lương tâm
là những thực tại tri thức thực tế hôm nay đã biến dạng, vì vật chất đã làm mất
ý nghĩa và bản chất đích thực của những cái đó.
Chỉ có những lợi điểm và sức mạnh vật chất là đáng kể: khi vật chất
làm chủ thì người ta thường hay cười trừ làm lơ với những rắc rối lương tâm,
đạo đức và luật pháp.
Thứ đến, dù cá nhân được đảm bảo về mặt của cải song không phải vì
thế mà cuộc sống thực danh được bảo đảm đâu.
Bằng một ví dụ, Chúa Kitô phản ảnh ý tưởng này thật rõ rệt. Ngài
trình bày một người không thiếu gì cả. Ruộng vườn sinh lợi dư thừa, vừa hoàn
thành kho lẫm mới, mùa màng được nhiều đem chất vào đó. Thế là không lo mất
mát, tổn hại gì nữa.
Hắn được toàn quyền định đoạt mọi sở hữu của mình, tức là hắn biết
cái ưu tiên hy hữu của sự an toàn thực sự vật chất. Tuy nhiên đó chỉ là ảo
tưởng, vì cái chết là một sức mạnh không thể kháng cự.
Do đó, vào giờ đã định, hắn bó buộc phải từ bỏ những thứ hào nhoáng
giả dối kia và dù muốn dù không cũng phải trút bỏ hết khi xuôi tay nằm xuống,
trước mặt Chúa mọi sự đều bị phơi trần. Phán quyết Thiên Chúa sẽ nói hắn là kẻ
‘điên rồ’. Hắn tưởng mình có quyền sở hữu tất cả và ròi quá hiển nhiên là hắn
chẳng giữ được chi hết vì chẳng mang theo được chi. Tất cả những thứ hắn có
thực chẳng giá trị gì. Và cái hắn phải lo tìm kiếm, thì hắn lại không có.
Thực ra, cuộc đời hắn đã đến lúc suy sụp cả phần vật chất lẫn tinh
thần. An toàn đảm bảo chỉ tìm được nơi Thiên Chúa thôi, đó là điều Chúa muốn
giải thích trong phần cuối dụ ngôn. Đức Giêsu khuyên bảo hãy làm giầu cho Thiên
Chúa.
Những kho tàng ân sủng thiêng liêng và những công nghiệp con người
chu toàn bằng việc hợp tác với Chúa: những cái đó mới đáng kể. Cái chết vẫn là
tiêu chuẩn tất yếu của tính xác thực ấy. Khi những gì thuộc phàm trần qua đi
thì những gì thuộc về Chúa sẽ tồn tại. Trò chơi cao giá này người ta chỉ thắng
cuộc khi nhắm đến Thiên Chúa.
Thật là điên rồ cho ai chỉ bù đầu suốt đời vào những cái phàm tục.
Người khôn ngoan là người biết vượt qua của cải phù vân để nghĩ tưởng đến vĩnh
cửu. Chỉ có ai biết tích luỹ tất cả những gì chắc chắn và cất giữ nơi kho cuả
Chúa mới bảo đảm được cuộc sống bất diệt.
SUY NIỆM 1
Anh chị em thân mến.
Các khách du lịch đến thăm Trung Quốc, ai cũng muốn một lần chứng
kiến kỳ quang thế giới, hiện đang tọa lạc trên đất nước đông dân nhất thế giới
nầy. Đó là vạn lý trường thành. Công trình vĩ đại của vua Tần Thủy Hoàng đã lưu
lại cho đến ngày nay, một công trình làm kinh ngạc cho cả thế giới. Tần Thủy
Hoàng là một vị vua đã có công thống nhất đất nước, ông xây Vạn Lý Trường Thành
để phòng thủ. Ông là một vị vua đầy quyền lực và giàu có. Ông cũng muốn dùng
những gì mình đang có để tìm lấy sự sống cho chính mình. Ong đã tìm thuốc
trường sinh bất tử, không ngại tốn kếm và cả sự tàn ác. Nhưng cuối cùng ông
đành bất lực. Quyền thế trong tay không giúp gì được cho ông. Tiền bạc của cải
cũng vô dụng. Ong phải từ giã cõi đời mà ông không muốn xa nó vào tuổi 52. Ông
dường như có tất cả, nhưng ông không có được sự sống như ông mong muốn, nên ông
cũng mất tất cả. Ong cũng là một người khôn ngoan, ông muốn đi tìm sự sống,
nhưng tìm không đúng cách, nên ông không có được sự sống.
Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì
những của cải ngươi tích trử, sẽ để lại cho ai?
Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ và những người thời bấy giờ về cuộc
sống khôn hay dại. Người ta chạy đến với Ngài, không phải để nghe những lời
giảng dạy, cũng không phải để đi theo Ngài. Nhưng muốn lôi kéo Ngài vào những
lợi ích riêng tư của họ, lôi kéo Ngài vào những tranh chấp cá nhân. Họ quên
rằng, Ngài là một Vì Thiên Chúa nên Ngài không bao giờ bị con người lôi kéo hay
khống chế. Ngài mới cho họ bài giáo huấn về cuộc sống, về sự khôn dại trước mặt
Thiên Chúa: Một người chỉ biết gom góp tích trử cho riêng mình, để rồi quá cậy
dựa vào những gì mình có mà tự hào. Ngài gọi những người đó là: “Hỡi kẻ ngu
dại,...” Chúa Giêsu cũng nói như thế với những người của ngày hôm nay, những
người đang quý trọng mạng sống, những người đang tìm đến Ngài. Chúa Giêsu cũng
muốn nói với từng người trong chúng ta, những người môn đệ thân thương của
Ngài, những người đang hướng về cuộc sống đời đời. Ngài nhắc nhở chúng ta, lo
làm giàu trước mặt Thiên Chúa để cuộc sống được bảo đảm.
Chúng cũng đang lo cho cuộc sống, chúng ta cũng đang tìm sự bảo đảm
cho tương lai, đang tích trử, đang thu gom. Có nhiều lúc cũng tự mãn về những
gì mình đang có. Chúng ta cũng thường xuyên đến với Chúa. Nếu nhìn lại và suy
nghĩ một chút, thường chúng ta đến để tìm những gì? Chúng ta nói gì với Chúa?
Còn trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta không sống đúng với những gì
mình cầu xin, chúng ta chỉ biết thu gom góp cho bản thân, tích trử cho thật
nhiều, để rồi vui mừng, tự hào, an tâm. Khi đó Chúa Giêsu cũng lập lại:”Hỡi kẻ
ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi
tích trử, sẽ để lại cho ai”.
Mỗi lần trong cuộc sống mà chúng ta biết ban phát cách tự nguyện,
chịu mất đi một chút của cải, một chút sức lực, chịu thiệt thòi đi một chút
những gì mình đang dự trử, đang thu gom. Đó là những lúc chúng ta đang mua lấy
sự sống đời đời, đang làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta cũng đang cố gắng
để sống, đang dùng tất cả những gì mình có để phục vụ, để đi tìm sự sống. Nhưng
chúng ta có đi đúng hướng để mua được sự sống đời đời. Hay chúng ta cũng đi sai
đường như Tần Thủy Hoàng, nếu như thế, chúng ta cũng sẽ đi vào cõi hư vô mà bỏ
lại tất cả, vì không tìm được sự sống đích thực.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho mỗi người biết năng chạy đến
với Chúa và tìm được sự sống do chính Chúa tặng ban.
SUY NIỆM 2: ĐỪNG THAM LAM TIỀN CỦA
1. “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, kiếp phù hoa trông thấy nực cười”
đó là cảm nghĩ của ông Nguyễn Công Trứ trước đời người ngắn ngủi, mau qua. Bài
đọc I, Sách Giảng Viên từ hàng ngàn năm trước cũng đã cho ta thấy tính tạm bợ
của vũ trụ vạn vật: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là
phù vân”(Gv 1,2). Vâng tất cả đều là phù vân, chóng qua, nay còn, mai mất! Vậy mà
có những người sống như không bao giờ mình phải chết, chỉ lo tranh giành, tham
lam thu tích tiền của và mọi thứ khác cho mình, mà không lo cho sự sống đời
sau, là điều quan trọng hơn, Đức Giêsu đã cảnh giác những người sống như thế.
2. Trong đoạn Tin Mừng được chọn đọc hôm nay kể lại việc một người đến
xin Đức Giêsu phân xử việc chia gia tài. Nhân đó Đức Giêsu nhắc nhở anh, cũng
là nhắc nhở mọi người chúng ta đừng tham lam của cải bằng cách Người kể dụ ngôn
người phú hộ. Qua đó cho thấy tiền của không thể là chỗ dựa vững chắc cho ta
được. Ông phú hộ này xem ra là người thành đạt trong công việc làm ăn và biết
lo xa; nhưng ông chỉ biết thu tích của cải cho mình mà không biết chia sẻ cho
người khác. Cuối cùng ông chết trên đống của cải đó, mà nó chẳng giúp ích gì
cho ông! Vì thế, Đức Giêsu xem ông là kẻ khờ dại: “Đồ ngốc! Nội đêm nay,
người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”,
rồi Người nói thêm “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt
Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó”.
3. Chắn rằng Thiên Chúa không muốn con người phải sống nghèo khổ. Từ
thưở ban đầu, tạo dựng, Thiên Chúa đã giao cho con người làm chủ vũ trụ, vạn
vật và khai thác nó để phục vụ cho đời sống của con người (x. St 1,26.29). Thánh Vịnh 65 cũng cho
ta thấy giàu sang là điều mà Thiên Chúa muốn cho con người:”Thăm trái đất,
Ngài tuôn mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang…” (Tv 65,10). Ai trong chúng ta
cũng dễ thấy rằng tiền bạc của cải, tuy không là trên hết, nhưng rất cần cho
đời sống của con người. Thực ra của cải vật chất, tự nó không tốt mà cũng chẳng
xấu, xấu tốt do ý hướng của người làm ra, sở hữu và sử dụng nó.
Đức Giêsu không chê trách người phú hộ kia vì ông ta có nhiều của
cải. Mà trách ông ta chỉ biết lo thu tích của cải mà mà không nghĩ đến những
giá trị khác cao hơn. Chúa trách ông không biết dùng của cải chóng qua để làm
giàu trước mặt Thiên Chúa như làm phúc, bố thí… Đúng như một danh nhân đã nói “tiền bạc là người đầy tớ
tốt, nhưng là ông chủ xấu”. Biết làm ra của cải, tiền bạc cách chính đáng và dùng nó để làm
sáng danh Chúa, giúp đỡ tha nhân và sử dụng cho những nhu cầu chính đáng của
mình, thì nó trở thành người đầy tớ tốt. Còn ngược lại, khi nào ta bị của cải,
tiền bạc chi phối đến đánh mất cả lương tri, thì nó trở thành ông chủ ác
nghiệt. Đọc Kinh Thánh, bên cạnh những người giàu đáng chê trách, ta còn thấy
không thiếu những người giàu biết dùng tiền của vào việc tông đồ, giúp người
nghèo khổ (x. Lc 8,3; Cv 9,39), thật đáng khen.
4. Lên án người giàu mà không biết dùng của cải, tiền bạc làm ta cũng
nhớ rằng người nghèo không hẳn là đương nhiên được vào Nước Trời! Giuđa
Iscariốt xem ra bỏ nghề nghiệp, nhà cửa mọi sự để theo Chúa, nhưng mà không bỏ
được lòng tham! Cho nên đã can tâm cả việc phản Thầy. Trong cuộc sống, không
thiếu những người nghèo khổ nhưng lương tâm ham hố, keo kiệt sinh ra trộm cắp,
làm những điều bất chính... Vậy Tin Mừng không nhằm kêu gọi người Kitô hữu phải
sống trong cảnh nghèo khổ cho bằng thái độ không lệ thuộc đối với của cải, tức
tinh thần nghèo khó. Chỉ ai có tinh thần nghèo khó thực sự thì mới có thể phục
vụ Thiên Chúa và tha nhân tốt được.
5. Lo lắng về vật chất, tiền của cho bản thân, gia đình là bản tính tự
nhiên của con người, nhất là trong thời buổi kinh tế thị trường, giá cả bất ổn.
Nhưng đừng quên trước hết là hãy lo làm đẹp lòng Thiên Chúa, như chính Đức
Giêsu đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của
Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho (Mt 6,33). Đức Giêsu cũng nhắc bảo
chúng ta: “Các ngươi hãy coi chừng giữ mình tránh mọi thứ tham lam…” (Lc
12,15). Người muốn chúng ta không chỉ tránh tham lam về tiền của, mà còn tránh
mọi sự tham lam khác như danh vọng, chức quyền… bởi vì tất cả đều là “phù vân” và nó không ích lợi gì
cho mạng sống thật của chúng ta(x.Lc 9,25)
6. Hãy luôn trong tâm tình cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta
làm con người, hơn nữa được làm con Chúa và được mời gọi sống hạnh phúc với
Ngài, đó là điều quý nhất. Giàu nghèo ở đời nầy chỉ là chóng qua, hãy cảm tạ
Thiên Chúa nếu như Ngài thương ban cho gia đình chúng ta khá giả; nếu gia đình
chúng ta còn nhiều khó khăn chúng ta đừng buồn mà hãy nhớ rằng chính Đức Giêsu
đã sinh ra trong gia đình khó nghèo để cảm thông với người nghèo. Trên hết, xin
Chúa giúp chúng ta dù giàu, dù đủ tiêu dùng hay nghèo túng, nhưng không bao giờ
làm điều gì sai trái. Nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta quyết không tham lam, không nô
lệ cho tiền của, mà hãy biết dùng tiền của cách chính đáng, làm việc nghĩa
chính là làm giàu trước mặt Thiên Chúa vậy.
SUY NIỆM 3: GIÀU CÓ ĐÍCH THẬT
Anh chị em thân mến,
Câu chuyện dụ ngôn của bài TM ngày chúa nhật hôm nay trình bày: một
anh nhà giàu, chỉ biết thu tích tiền của vật chất; khi anh thấy mùa màn sắp tới
đầy thắng lợi, anh bèn nghĩ ra cách xây thêm kho lẫm mới để dự trữ, xong rồi
ông thấy của cải mình dư dật xài không hết, anh tự nhủ lòng: chà chà nay mình
quá giàu rồi. Vậy từ nay cứ ăn uống vui chơi cho thỏa thích, không còn phải bận
tâm gì nữa…. Nhưng Chúa bảo: này tên ngốc, ngay đêm nay, Chúa sẽ đến để đòi
linh hồn anh. Vậy những gì bao lâu nay anh cố thu tích, sẽ để lại cho ai? Câu
cuối cùng của bài Phúc âm là lời kết cho bài dụ ngôn này: “người nào thu tích
của cải mình mà không làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận sẽ như thế
đó.”
a/. Sức mạnh của đồng tiền: người ta thường nói: “Có tiền chán vạn kẻ theo, nghèotiền
thì bạn cũng đòi bỏ đi..” hoặc: “đồng tiền liền khúc
ruột” hay:
“Ghê thay mãnh lực bạc tiền, tưởng rằng hể có là tiên trên đời.
Biết bao bài học ai ơi, Thân danh lụn bại tiếng đời buốn thay!” Câu nói chơi: “Tiền là Tiên là Phật, là
sức bậc của con người, là nụ cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là
cái đà cho danh vọng, là cái lộng cho tương lại…”
Đồng tiền có sức hút mê hoặc như thế, nên người ta cũng nói: “Tiền là tên đầy tớ tốt,
nhưng lại là một ông chủ xấu”. Khi người ta sữ dụng đồng tiền để phục vụ con người, nó là phương
tiện tối hảo, nhưng khi con người nô lệ nó, coi nó là ông chủ, thì đồng tiền sẽ
trở nên vô cùng xấu xa. Hiểu rõ như thế nên Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ:
đừng để mình thành nô lệ của tiền bạc. Chúa không cấm các ông sử dụng tiền của.
Nhưng rõ ràng, Người muốn họ thoát khỏi nanh vuốt của bạc tiền: “Anh em không
thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được…” Chính bài dụ ngôn hôm
nay cho ta hiểu rõ điều đó.
b/. Một câu chuyện: Một thanh niên nọ tình cờ nhặt được một đồng đô la bằng bạc trên
đường đi, thế là từ đó, khi ra đường, anh đều cúi xuống nhìn dưới đất tìm kiếm,
không nhìn lên trời nữa. Kết quả là sau 30 năm, anh nhặt được: 3 đô la rưởi
tiền bằng bạc - 37 đồng nửa đô la bằng đồng – 18.400 nút áo đủ cở - 14.600 đinh
óc - kim may, kim gút đủ loại. Kết quả đó đổi lại bằng cái tật khòm lưng – tâm
trạng bi quan và tính khí khó thương – kể cả đôi mắt anh không hề nhìn lên bầu
trời xanh, hay nhìn chung quanh ngắm cỏ cây xinh đẹp, cảnh trí hùng vĩ của sông
nước… Chính lòng ham mê của cải đã giết chết con người của anh ta… Bài dụ ngôn
trong Phúc âm hôm nay, giống y câu chuyện trên đây. Chúa đưa ra một giáo huấn
về tính phù du, về tiền của và cả tính mạng con người nữa. Chúa cũng phân định
rõ ràng: Trước hết phải lo tìm kiếm Nước TC trước đã, phải biết sáng suốt lo
thu tích của cải trên Nước Trời. Anh nhà giàu chỉ biết thu tích của cải trần
gian, không lo làm giàu của cải thiêng liêng, nên khi Chúa kêu phải ra trước
tòa Chúa, anh ta đã chưa sẵn sàng gì cả.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Tiền bạc thực ra cũng cần phải có để sống, nhưng không phải cần
thiết nhất. Mấy ai hiểu được điều này? Nếu đã hiểu, người ta sẽ không bỏ cả
ngày giờ, sức khỏe, để chỉ lo tìm nó. Người ta vẫn biết của cải sẽ không theo
mình qua thế giới bên kia, nhưng họ vẫn khư khư bám vào của cải. Tại sao thế?
Vì người ta nghỉ rằng mình không phải chết, hoặc vì không tin có sự sống đời
sau, có thưởng có phạt, hoặc vì biết, nhưng họ làm ngơ giả điếc, như không hiểu
gì. Bài Tin Mừng hôm nay là một bài học thấm thía cho những người đó. Chúng ta
nên thường đọc đi đọc lại câu nói của chúa Giêsu: “ Đồ ngốc, nội đêm nay, người
ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì của cải ngươi có sẽ để lại cho ai?
Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin
Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”
Đây là một vấn đề cụ thể, hiện thực luôn luôn mang tính thời sự.
Hỡi ơi! Anh em xung đột nhau trong lúc chia gia tài là chuyện thường thấy!
Để hiểu câu trả lời của Đức Giêsu, phải biết luật pháp thời đó.
Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng
trọn phần di sản nếu là bất động sản nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con
trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp quy định, phần gấp đôi các động sản.
Chỉ có các con trai mới được quyền hưởng di sản. Luật pháp này chung cho toàn
bộ Đông Phương cổ đại, và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử; luật ấy muốn
gìn giữ di sản của gia tộc với việc lập nên “người gia trưởng” được hưởng đặc
quyền: Đó là quyền con trưởng. Đức Giêsu đối diện với điều đó. Vậy hoàn cảnh
xem ra đúng nhất có lẽ là một người “con trưởng” đã chiếm hết mọi tài sản và từ
chối trả lại cho người em phần nhỏ bé mà người này được hưởng. Ngày nay trong
giới Do Thái, người ta thường yêu cầu một giáo trưởng. Do Thái giáo danh tiếng
đứng làm trọng tài trong các vấn đề về Luật.
Chính trong bối cảnh rõ ràng đó, người ấy đã cầu cứu uy tín đạo đức
của Đức Giêsu. Đối với mọi người, câu trả lời chắc hẳn sẽ sáng tỏ và rõ ràng;
phải nói với người anh ấy chia lại cho người em, đó là công lý đơn giản? Đó
cũng là chính lộ xuyên suốt, Tin Mừng mà Đức Giêsu đã nhiều lần lặp lại: Anh em
hãy yêu thương lẫn nhau... Vả lại, câu trả lời của Đức Giêsu làm người ta ngạc
nhiên.
Người đáp: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia
gia tài cho các anh?
Vậy là một lời từ chối. Đức Giêsu tránh né. Trước một sự bất công
lộ liễu, Đức Giêsu từ khước xem xét trường hợp đó là dường như không muốn quan
tâm đến. Thật là quá đáng. Điều đó đi ngược lại với toàn bộ Tin Mừng, với mọi
lời hướng dẫn của Giáo hội và với cả lương tâm đơn giản và sơ đẳng của con
người. Người Kitô hữu không nên làm mọi việc để chấm dứt những bất công của thế
giới này đó sao? Phải chăng Kitô hữu có quyền thờ ơ những công việc trần thế để
chỉ nghĩ đến Thiên đàng? Vậy phải hiểu sự từ chối này. Có thể có nhiều lời giải
thích và có lẽ chúng bổ túc cho nhau:
1. Theo Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu đang trên đường đi lên
Giêrusalem tức thành phố nơi Người sẽ chết trong vài ngày nữa: Thầy “giáo
trưởng” trẻ này còn có nhiều ưu tư khác trong đầu hơn là những cuộc tranh cãi
phù du ấy, mà sau cùng cũng được giải quyết ổn thỏa không ngày này thì ngày
khác.
2. Với tâm thức cá nhân rất đông phương, Đức Giêsu thường trả lời
bằng một “ẩn ngữ”, một “số ý lộn xộn” để làm cho người ta phải suy nghĩ. Thông
thường, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa ra một câu nghịch lý và gần như thái quá
trong lời Người. Người trả lời một câu hỏi người ta đặt ra bằng cách đặt một
câu hỏi khác. Tính cách này, Đức Giêsu đã có từ khi còn rất trẻ: Lúc mười hai
tuổi, Người trả lời cho mẹ Người một cách bí hiểm. “Con ơi, sao con lại xử với
cha mẹ như vậy?”. Đó là lúc cậu bé Giêsu trốn ở lại Đền Thờ đáp: “Sao cha mẹ
lại tìm con?” Trong nhiều dịp, Đức Giêsu dường như không đáp lại: đó là phương
cách tốt nhất của “người bị hiểu lầm”, thường gặp trong các cuộc tranh cãi giữa
Đức Giêsu với giới trí thức Do Thái giáo, theo thánh Gioan, có sự chênh lệch,
Người nói về các sự việc khác mặc dù cũng dùng những từ ngữ ấy.
Phải đọc lại những câu từ chối bên ngoài của Đức Giêsu. Những câu
nói ấy không phải tình cờ. Ở Cana, Người dường như từ chối mẹ ruột Người, phép
lạ đầu tiên (Ga 2,3-4) Người nói rằng Người không lên Giêrusalem “một cách công
khai”, dù vậy Người cũng lên (Ga 7,3-6) Với các con trai của ông Dêbêđê đã xin
được “ngồi bên hữu và bên tả trong Nước Người”, thì Người hỏi họ có uống nổi
chén Người sắp uống không (Mt 20,23). Người từ chối nói Ngày quang lâm đồng
thời khẳng định rằng Người không biết bởi vì “chỉ một mình Chúa Cha biết mà
thôi” (Mt 24,36).
Khi các người Do Thái xin Người các “dấu chỉ”, Người từ chối nói
rằng Người chỉ cho họ dấu lạ của ngôn sứ Giôna (Mt 16,1.4-12.38-40). Vậy ở đây
cũng thế, từ chối can thiệp vào vấn đề chia di sản không nhất thiết có nghĩa là
Đức Giêsu không quan tâm đến: Đã hẳn, diễn tiến của câu chuyện sẽ đem lại cho
chúng ta tư tưởng sâu sắc của Người.
3. Chính Đức Giêsu đã nêu ra lý do có khả năng đúng nhất của sự “từ
chối” việc can thiệp đó trong một câu hỏi: “Ai đã đặt tôi làm người xử kiện?”.
Phải, qua đó Người nói rằng những việc trần thế, hoặc tiền bạc ấy không phải là
vai trò và sứ mạng của Người. Con người luôn bị cánh dỗ tìm kiếm trong Tin Mừng
một thứ bảo hiểm, một sự thánh thiêng hóa các chọn lựa trần tục: Sáp nhập Tin
Mừng vào phe mình, vào các lợi ích của mình. Đức Giêsu từ chối sự lẫn lộn ấy.
Người từ chối đặt mình vào vị trí của chúng ta. Trút trách nhiệm của chúng ta
qua người khác, hoặc tìm một giải pháp có sẵn là việc quá dễ dàng.
Trong chiều hướng đó, Công đồng Vatican II đã không ngừng đưa giáo
dân về với ý thức và năng lực của riêng họ: “Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và
sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Tuy nhiên họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: Các
chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho
mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng” (G.S. 43). Đức Giêsu đã làm
điều đó. Người trả vấn đề thừa hưởng di sản cho sự xét xử của cấp thẩm quyền.
Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi
thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của
cải đâu”.
Sự từ chối của Đức Giêsu, không trực tiếp đảm nhận một nhiệm vụ
trần thế, do đó không có nghĩa Người không có gì để nói về các vấn đề trần thế.
Đức Giêsu sẽ nhắc lại một lý tưởng cũng là một nguyên tắc chủ yếu. Vai trò của
Người thuộc bình diện này và có tính chính trị theo ý nghĩa sâu xa của từ này;
nghĩa là sứ mệnh và sứ điệp của Đức Giêsu liên quan đến đời sống của thành đô
trần thế. Giáo Hội cũng như Đức Giêsu không trung lập Giáo Hội có bổn phận phải
chuyển giao một sứ điệp, phải đưa ra các phán đoán về những công việc thế trần
nhưng đồng thời phải để cho các quan tòa, các thẩm phán, những người phụ trách
thế tục trách nhiệm áp dụng cụ thể sứ điệp của Giáo Hội.
Nguyên tắc mà Đức Giêsu khẳng định ở đây là phần trách nhiệm của
Người, sứ giả của Thiên Chúa. Các ông không nên lẫn lộn mục đích! Thành đô trần
thế không có mục đích tạo ra và tiêu thụ tối đa của cải! Không, điều chủ yếu
không phải là phục vụ tiền bạc và lợi nhuận, mà là phục vụ “con người”!. Chính
“sự sống con người” đứng đầu chớ không phải của cải! Và sự sống này không phụ
thuộc vào của cải? Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ tư tưởng của Người khi kể lại một
dụ ngôn, đầy sự ngẫu hứng để chế giễu nhấn mạnh đến những lối lo toan của một ông
phú hộ.
Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng
nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ
đâu mà tích trữ hoa mầu!’ Rồi ông ta tự bảo: ‘Mình sẽ làm thế này: phá những
cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải
mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư
xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!
Người đọc ‘kinh tin kính’ của một tay duy vật hoàn hảo: đức tin dựa
vào hạnh phúc do vật chất mang lại? Đức Giêsu lên án ông ta, nhấn mạnh vào tính
ích kỷ của ông ta dẫu sao cũng còn được cái chân thật: “Tôi… Tôi… Tôi… Mình…
Mình… Mình sẽ làm... mình sẽ phá... mình sẽ xây mùa màng của mình; của cải của
mình... kho lẫm của mình... thóc lúa của mình... chính bản thân mình...”.
Nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi! Từ ngữ Hy Lạp dùng ở đây cũng là từ
mà Luca sẽ dùng chỉ bữa tiệc tiếp đãi của “đứa con hoang đàng” (Lc 15,23).
Phải, Đức Giêsu đã biết xung quanh Người các “tiệc tùng”, ở đó người ta “tiêu
tiền như nước” “ăn uống no say” cùng với tiếng đàn, tiếng hát.
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi
lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?
Điên dại! Mọi tính toán của ông phú hộ sai lầm một cách thảm hại.
Ông ta nhầm lẫn hoàn toàn: Sự giàu sang không mang lại hạnh phúc. Không có mối
liên hệ giữa việc có nhiều của cải trần thế và sự an toàn chân thật. Sự sống
của một con người không phụ thuộc vào những của cải của người ấy. Tiền bạc
không mua được thời gian! Kinh Thánh không ngừng đặt đối lập kẻ điên dại
“nabal” với người khôn ngoan “maskil”. Đức Giêsu cũng khẳng định rằng không
biết nhận ra của cải chân thật, ý nghĩa đích thực của đời sống quả là thiếu
khôn ngoan. “Điên”, năm thiếu nữ khờ khạo không mang theo dầu dự phòng cho đèn
mình trong đêm chờ đón Tân Lang (Mi 25,2). “Điên”, những người đồng thời với
Đức Giêsu không biết đọc ra những “dấu chỉ của thời đại” (Lc 12,56). “Dại”
người mù để cho người mù khác dẫn đường là liều mình “rơi xuống hố” (Lc 6,39). “Điên” ông nhà
giàu giới hạn tầm nhìn của mình vào đất đai, mùa màng, kho lẫm, cái bụng của
mình.
Và đây là lý do sâu xa (cũng là lý do thứ tư) khiến Đức Giêsu từ
chối can thiệp vào những công việc trần thế một cách tức thời và trực tiếp: Một
cách mạnh mẽ và khó nghe; Người khẳng định rằng “đời sống” con người không hoàn
tất ở trần gian này. Sứ điệp chủ yếu, sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu là đây:
Phần chính yếu của đời sống, rất hay bị quên lãng thì to lớn vô cùng so với sự
hạn hẹp cố chấp của chủ nghĩa duy vật. Còn, Đức Giêsu -người sắp chết trong ít
ngày nữa- không muốn làm giàu cho một người, dù đó là quyền lợi chính đáng của
anh ta: việc chia gia tài ấy không phải là điều tốt lành đích thực cho anh ta.
Chúng ta phải thành thật thú nhận rằng một cách tự phát, chúng ta suy nghĩ
ngược lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, có một tiếng nói nhỏ trong chúng ta nói với
chúng ta: Người có lý. Người biết rõ điều Người nói.
Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt
Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó
Chúng ta chớ hiểu sai tư tưởng của Chúa. Sự giàu sang tự nó không
là điều xấu. Tiền bạc có thể trở nên tốt nếu nó không chỉ “vì mình” (Lc
12,33-34).
MỨC ĐỘ CỦA ĐỜI SỐNG NHƯ LÀ
GIÁ TRỊ LỚN NHẤT
Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được.Đức Giêsu sẽ minh họa điểm
này bằng dụ ngôn
Ông phú hộ.
1.-
NGỮ CẢNH
Những lời Đức Giêsu ngỏ với các môn đệ trước
mặt một đám đông (12,1-12.22-34) bị cắt ngang bởi lời thỉnh cầu
của một người
trong đám đông để xin Đức Giêsu can thiệp vào một vụ tranh tụng giữa anh ta và
người anh liên hệ đến
chuyện gia tài (12,13-15). Sự cố này lại là dịp để Đức Giêsu kểDụ ngôn Ông phú hộ (cc. 16-21). Như thế, đề tài chuyển đi từ những lời nói về việc thụ hưởng
cho bản thân đến
những thái độ đối với của cải trần thế (12,13-34): “Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (c. 15). Bài dụ ngôn tiếp theo có thể được coi như một bài bình luận cho câu nói của Đức Giêsu về sự tham lam (c. 15).
2.-
BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Một vụ kiện (12,13-15);
2) Dụ ngôn Ông phú hộ (12,16-20);
3) Nhận định kết luận của Đức Giêsu (12,21).
3.-
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Thưa Thầy (13): Bởi vì vấn đề chia gia tài được bàn đến
trong Bộ Ngũ Thư (chẳng hạn Đnl 21,15-17; Ds 27,1-11;
36,7-9), một vị tôn
sư về đạo giáo hoặc một kinh sư là
những con người thích hợp để tham vấn.
- Này anh (14): Dịch sát là “này
người” (hô-cách của anthrôpos,
“người”; x. 5,20). Từ này
thườngđược dùng theo dạng này để từ chối, hay diễn tả sự dè
dặt.
- tham lam (15):
Từ Hy-lạp pleonexia thường có trong những đoạn văn khuyến thiện của Tân Ước (Rm 1,29; 2 Cr 9,5; Cl
3,5; Ep 4,19; 5,3; 2 Pr 2,3.14). Đây
là sự ham muốn có thêm nữa, quá
mức cần thiết (x. 1 Tm 6,10).
- Thiên Chúa bảo ông ta (20): nghĩa là trong một giấc
mơ ban đêm. Ông này được chính vị Chúa tể của
sự sống ngỏ lời với, trong khi ông sắp
xếp chương trình sống không có Ngài.
- ngốc (20): Từ hy-ngữ aphrôn có nghĩa là “kẻ mất trí, ngu dốt, ngu ngốc, điên, rồ dại” (x. 11,40).
- người ta sẽ đòi
lại mạng ngươi (20): Động từ aitousin ở ngôi
thứ ba vô định số phức
tươngđương với một thái
bị động thay tên Thiên Chúa:
“Thiên Chúa sẽ đòi
lại mạng ngươi”.
- cho mình (21): nghĩa là không phải
cho người khác, như người
nghèo, quả phụ, trẻ mồ côi, người ngụ cư (x. Đnl 24,17-22; 2 Cr 6,10b).
4.-
Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Một vụ kiện
(13-15)
Đức Giêsu lấy khởi điểm để giáo huấn là một vụ kiện về vấn đề chia gia tài. Rất có thể đây là mộtngười em trong gia đình không đồng ý với cách quản lý và
thụ hưởng chung gia tài, nên
muốn có phần của mình để dùng theo cách độc lập. Trong những vụ tranh cãi như thế, người ta thường đến gặp các kinh sư, để xin soi sáng vấn đề. Đức
Giêsu dứt khoát từ chối
can thiệp. Yêu cầu của người ấy
và yêu cầu của Đức
Giêsu ở trên hai bình diện khác nhau. Người ấy thì muốn có một phần
sở hữu độc lập.Đức Giêsu thì dựa vào đó để nói
về tương quan của con người với
của cải. Chính các tranh chấp về gia
tài thường đưa ra ánh sáng một liên
hệ chặt chẽ với sở hữu và thường đưa đến
những mối thù nghịch kéo dài suốt đời. Điều này có lẽ khiến chúng ta hiểu vì sao ở đây Đức
Giêsu khuyến cáo chống lại lòng tham lam mạnh mẽ đến thế. Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được. Đức
Giêsu sẽ minh họa điểm này bằng dụ ngôn tiếp theo.
* Dụ ngôn
Ông phú hộ (16-21)
Với dụ ngôn
này, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng
giá trị của các của cải trần thế rất nhỏ bé, nên bám víu vào đó là một tính toán sai lầm.
Theo một quan niệm nào đó về cuộc
sống, hoàn cảnh Đức
Giêsu phác ra có thể coi
là lý tưởng. Con người này giàu có. Không hề có nguy cơ là của cải của ông sẽ giảm thiểu đi, bởi vì ông đang nhắm tới một vụ thu hoạch dồi dào. Vấn đề duy
nhất ông đặt ra là: “‘Mình phải làm
gì đây? Vì còn chỗđâu mà tích
trữ hoa mầu!”. Đây là một vấn đề cũng dễ giải
quyết. Như thế, ông này có trong tay
các phương tiện để sống một cuộc
sống không phải bận tâm lo lắng; ông có thể tự do
sống theo ý thích, trong sự sung
túc.
Đức Giêsu mô tả là Thiên Chúa và cái chết sẽ ập vào cuộc đời ấy như thế nào. Cái chết đột ngộtđảo lộn tất cả các toan tính nhắm thụ hưởng an toàn trong nhiều
năm trời. Tất cả những
gì đã thu tíchđược và tất cả những gì người ta đã dự phóng cách hợp lý trở thành vô giá trị. Đức Giêsu cho biết rằng một cuộc
sống chỉ dành cho chuyện ăn uống và hưởng thụ tiện ích thì chẳng có giá
trị trước mặt Thiên Chúa. Một
người sống như thế thì không giàu có trước mặt
Thiên Chúa. Đức
Giêsu khẳng định
rằng đểđạt được sự sống đời đời, cần có tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận
(10,25-37). Chỉ nhờ đi trên nẻo đường này, người ta mới trở thành giàu có trước nhan
Thiên Chúa.
* Nhận định
kết luận của Đức
Giêsu (21)
Câu kết luận của Đức Giêsu cho hiểu rằng có lẽ đời sống trần thế tùy thuộc các của cải trần
thế, nhưng đời sống này không được đảm bảo hay đạt được
mức thành toàn nhờ các
của cải ấy. Chúng ta phải nhận được sự thành toàn cuộc đời chúng ta từ lòng nhân lành của Thiên Chúa.
+
KẾT LUẬN
Đức Giêsu không quan tâm đến những điểm tranh luận phụ thuộc; Người chỉ cứu xét những câu hỏi lớn liên quan đến sự sống: đâu
là điều quan trọng nhất? Ta có
thể tín nhiệm vào điều gì? Điều gì ta phải tìm cách đạt cho được? Ta phải sử dụng cuộc sống và dấn thân thế nào để đạt được mục tiêu cuộcđời? Đức Giêsu nói rõ ràng các
của cải vật chất không thể đảm
bảo cho cuộc sống và sự sung
túc, thoải mái, không thể là
nội dung của cuộc sống được.
Sự thành toàn chỉ được một mình
Thiên Chúa ban cho mà thôi. Vậy trong cuộc sống này, chúng ta có thể và phải tính sổ với Thiên Chúa. Chúng ta
phải chịu trách nhiệm về cuộc
sống của mình trước mặt Ngài.
5.-
GỢI Ý SUY NIỆM
1. Vấn đề thu hoạch dồi dào đến nỗi người ta không biết để của cải ở đâu đã trở thành
phổ biến, vào thời đại hôm nay. Mỗi người cần
phải tự hỏi theo ý mình, thế nào là cuộc sống lý tưởng,
mình vận dụng sức lực cho chuyẹn gì, nếu lại không phải là “mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi,
cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Ở bên
ngoài các giá trị này,
còn những giá trị và
mục tiêu nào có thể nên được nhắc đến?
2. Cái chết “phá rối”, ai cũng biết. Người ta
tìm mọi cách để đối xử với nó. Người ta cản bước nó tối đa bằng các cách tri liệu y
khoa. Người ta ít nghĩ tới
nó chừng nào tốt chừng đó.
Người ta tránh đểcho
lòng mình bị xúc động trước cái chết của
người khác. Dĩ nhiên
người ta vẫn không tránh được
cái chết. Do đó,
người ta phải khai thác tối đa
thời gian của cuộc sống được
ban cho ta. Cũng phức tạp, nhưng cách nào đó,
người ta có thể “đạt
thắng lợi” trên cái chết. Nhưng làm thế nào đạt thắng lợi trên vị Thiên Chúa “phá rối”? Người
ta cũng tìm cách tránh xa Ngài, quên Ngài đi.
Người ta có thể không
nói đến Ngài nữa và sống y như thể không có Ngài. Tuy thế, người ta không thể tránh né Ngài kiểu tiêu cực.
Phải sống làm sao để cuộc sống của mình có giá
trị trước mặt Thiên Chúa. Người
nào chỉ sống cho những nhu cầu riêng
và những đòi hỏi vật chất, thì đã chết trong cuộc đời này rồi, vì bị cô lập trong tính ích kỷ của mình. Tình trạng cô lập
này trở nên trọn vẹn và được xác nhận bằng cái chết.
3. Cuộc sống viên mãn chỉ hệ tại
tình yêu. Chỉ cuộc
sống nào nhắm đến
tình yêu đối với Thiên Chúa và tình
yêu đối với tha nhân thì mới là
cuộc sống trung thực. Chỉ một
cuộc sống như thế mới có thể được Thiên Chúa chuẩn nhận
và được Ngài đưa đến chỗ thành
toàn với ân ban là sự sống đời đời. Chúng ta đã nhận đời
sống từ Đấng Tạo hóa, thì chúng ta
cũng phải nhận cả ý
nghĩa của đời sống từNgài. Và đối với Ngài, ý nghĩa của đời sống không phải là tiện
nghi, mà là tình yêu.