SUY NIỆM LỜI CHÚA
CN 5 MÙA CHAY C
CN 5 MÙA CHAY C
MỤC
LỤC
1. Thiên Chúa khoan dung
Câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình khơi dậy trong chúng ta tâm
tình sám hối trước tấm lòng khoan dung của Thiên Chúa.
Thực vậy, hôm ấy Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, thì bọn
biệt phái dẫn đến trước mặt Ngài một người thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội
ngoại tình. Và chiếu theo luật Maisen thì nàng sẽ bị ném đá cho chết. Chúa
Giêsu xem ra không mấy chú ý tới lời tố cáo của họ. Người cúi xuống lấy tay
viết trên cát. Đó là cử chỉ muốn từ chối xét đoán, muốn tránh né câu trả lời.
Nhưng vì họ cứ một mực lên án, cho nên Ngài cảm thấy bắt buộc phải nói với họ
đôi lời: Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi. Câu trả lời
của Chúa Giêsu vừa khôn ngoan, vừa công bằng, lại vừa nhân ái. Người đã dùng
các thành ngữ của lề luật, bởi vì lề luật quy định chứng nhân phải ném đá kẻ có
tội đầu tiên. Như vậy, Người cho thấy lề luật còn nhân từ và công bằng hơn họ
đã tưởng. Hãy tìm kiếm tinh thần của luật, sau những hàng chữ khô khan của nó.
Lề luật chỉ là phương tiện để thực thi ý định tình yêu của Thiên Chúa. Người
không vi phạm luật Maisen nhưng dựa vào lề luật ấy, Người kêu gọi họ hãy trả bị
cáo về cho toà án lương tâm của mỗi người. Như thế, lời mời gọi ấy tóm kết tất
cả giáo thuyết của Chúa Giêsu: chỉ trích hạng người chuyên kết án kẻ khác, chỉ
thấy những lầm lỗi của kẻ khác mà không đếm xỉa gì đến những tội lỗi của mình.
Sống trên đời, chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ
trước ngực thì đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ sau lưng thì đựng
những sai lỗi của chính bản thân. Vì thế, chúng ta chỉ nhìn thấy những sai lỗi
của người khác mà chẳng bao giờ nhận ra những sai lỗi của mình. Chính vì thế
Chúa Giêsu đã dạy: Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt mình trước đã, để trông thấy rõ
và có thể lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em. Hãy đối xử khoan dung với người
khác và nghiêm khắc với chính bản thân mình, chứ đừng khoan dung với bản thân
mình và nghiêm khắc với người khác.
Trước thái độ của Chúa Giêsu họ bắt đầu rút lui từng người một, từ
người cao tuổi nhất. Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người thiếu phụ. Thánh
Augustinô đã nói: Chỉ còn lại tình thương và tội lỗi. Chúa Giêsu đứng trước tội
lỗi. Lòng khoan dung đứng trước sự khốn cùng. Chúa Giêsu nhìn đến sự khốn cùng
của tội nhân để rồi tha thứ và kiến tạo lại hình ảnh nguyên thuỷ của con người.
Khi tha thứ cho người thiếu phụ, Chúa Giêsu đã không đồng hoá tội với kẻ có
tội. Người ghét bỏ tội, nhưng lại khoan dung với kẻ có tội, nên Người đã phán
với người thiếu phụ: Ta không kết án con. Còn chúng ta thì trái lại, nhiều khi
chúng ta đã kết án kẻ khác, nhất là kẻ có tội, một cách nặng nề, vô lý và quá
đáng.
2. Lòng thương xót của Chúa.
Người Do Thái là những kẻ xác tín rằng con người chỉ có thể được
coi là công chính nếu tuân giữ trọn vẹn luật Maisen. Thực ra, nếu họ là những
người sống công chính theo lề luật, thì điều đó tự nó không phải là một chuyện
xấu, mà còn tốt nữa là đàng khác. Nhưng cái làm cho họ trở thành những kẻ xấu
và thậm chí có thể là những kẻ ác, đó là vì họ vênh vang tự đắc về cái thành
tích giữ luật của mình, và nhất là tự biến mình thành những “cảnh sát” của đạo,
những loại chó săn, chuyên môn đi rình mò, đánh hơi để tố cáo những người phạm
luật. Và họ không ngại nhân danh lề luật, nhân danh lòng nhiệt thành bảo vệ
luật pháp mà lên án và ném đá những kẻ lỗi luật.
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình hôm nay thật là tiêu biểu cho
cái thái độ đạo đức giả của những tín đồ Do Thái cuồng tín và cái ác ý của họ.
Thực ra ở đây họ không chỉ nhằm tố cáo những phụ nữ yếu đuối đáng thương, nhưng
chủ yếu là giăng trước mặt Chúa Giêsu một cạm bẫy: Họ tố cáo người phụ nữ ngoại
tình để gài bẫy bắt lỗi chính Chúa Giêsu và như vậy để có bằng chứng tố cáo
Ngài.
Chúng ta biết rằng luật Maisen truyền ném đá giết chết những kẻ
ngoại tình. Nhưng vào thời Chúa Giêsu, thì quyền xử tử đã bị tước khỏi người Do
thái, vì chỉ có tổng trấn Rôma, đại diện hoàng đế tại Giêrusalem mới có quyền ấy.
Vậy nếu Chúa Giêsu tuyên bố là phải ném đá người phụ nữ, thì họ sẽ đi tố cáo
với quan tổng trấn là Ngài đã phạm pháp. Còn nếu như Ngài tuyên bố là tha bổng
thì điều đó có nghĩa là Ngài không tôn trọng luật Maisen.
Chúa Giêsu đã phá vỡ cạm bẫy của họ bằng cách giăng trước mặt họ
một cạm bẫy tinh vi hơn nhiều. Ngài bảo họ: Ai trong các ông vô tội thì cứ việc
lấy đá mà ném trước đi. Thế là “dĩ đào vi thượng sách”, bọn biệt phái liền đánh
bài chuồn. Tác giả Kinh Thánh đã hóm hỉnh ghi lại một chi tiết: Họ bỏ đi hết,
kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Sở dĩ như thế là vì câu
thách thức của Chúa Giêsu khiến cho mỗi kẻ trong bọn họ phải ngó lại chính
lương tri của mình và khám phá ra rằng: mình càng già thì càng lắm tội.
Lời nói của Chúa Giêsu là ánh sáng chân lý vạch trần sự đạo đức giả
của họ. Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người. Như thế
toà án nhân dân bỗng trở nên vắng lặng, chỉ còn lại có tội nhân được dùng như
con mồi, như cái bẫy, và Chúa Giêsu mà bọn biệt phái muốn gài bẫy để đưa ra
trước vành móng ngựa. Toà án chỉ còn lại một phạm nhân và một người cũng đang
bị kẻ khác muốn luận tội, hay nói cách khác, đối với bọn biệt phái thì cả hai
đều là những kẻ có tội đứng trước luật pháp của Maisen. Phiên toà kết thúc một cách
nhẹ nhàng với lời lẽ đầy từ bi của Chúa Giêsu: Tôi cũng vậy, tôi không lên án
chị đâu. Thôi chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa.
Có người nói Chúa Giêsu đã giải tội mà quên cả việc đền tội, quên
cả công thức giải tội. Thái độ của Chúa Giêsu thật khoan dung độ lượng với
người tội lỗi, còn chúng ta thì ssao, chúng ta đối xử như thế nào đối với những
kẻ tội lỗi?
3. Làm mới con người – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Khi người Do Thái đang bị lưu đày tại Babylon, ai trong họ dám nghĩ
rằng có ngày họ được trở về quê cha đất tổ? Ngay cả khi còn quyền lực và độc
lập còn chưa giữ được đất nước quê hương, còn chưa bảo vệ được mình, thì làm
sao một khi đã bị lưu đầy sang nơi đất khách quê người lại có thể nổi dậy và
trở về quê hương, trừ phi Thiên Chúa can thiệp làm những việc kinh thiên động
địa như Ngài đã làm cho dân Do Thái thời ở Aicập qua Môsê.
Sách tiên tri Isaya cho dân một niềm hy vọng. Thiên Chúa phán: “Ta
sẽ cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn,
cho dân Ta tuyển chọn được giải khát.” Thiên Chúa thỏa mãn khao khát của dân
Ngài. Ngài đã đưa dân Do Thái đang lưu đầy ở Babylon được trở về quê cha đất tổ
qua vua Kyrô, một vua người Ba Tư đã chiến thắng và đang nắm quyền trên khắp
vùng. Kyrô, một vua người ngoại, nhưng đã được coi là Đấng Kitô của Thiên Chúa
(Is.45, 1). Một người ngoại được coi là Đấng Kitô, là một điều người Do Thái
không bao giờ ngờ tới. Như vậy, hoặc Thiên Chúa đã dùng một người ngoại để giải
phóng dân của Ngài, hoặc người ngoại không phải là người ngoại trước mặt Thiên
Chúa. Người ngoại vẫn là con dân của Thiên Chúa như người Do Thái, và họ đã
được Thiên Chúa yêu và dùng như Ngài đã yêu thương người Do Thái vậy.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa còn làm những điều kỳ diệu hơn tất cả
những điều Ngài đã làm từ trước tới nay. Tin mừng Chúa Nhật thứ năm mùa chay
cho thấy Đức Giêsu đã làm một điều đặc biệt: Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình
thoát chết và làm cho những người biệt phái cùng kinh sư trở nên khiêm tốn và
nhận biết mình có tội. Khi những người biệt phái và kinh sư bỏ đi không ném đá
chị phụ nữ ngoại tình nữa, hàm chứa họ đã được ơn nhận biết chính mình. Đức
Giêsu nói với chị phụ nữ: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Chị cứ về
đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.” Một cuộc đời mới đã khai mở với chị phụ nữ phạm
tội ngoại tình. Chị tạ ơn Thiên Chúa đã cứu sống chị qua Đức Giêsu; chị bắt đầu
một đời sống mới trong niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người. Một khi gặp gỡ
được Thiên Chúa, người ta trở nên nhân hậu hơn, chấp nhận chính mình và tha
nhân hơn, tha thứ cho người khác và tha thứ cho chính mình.
“Không ai có quyền tha tội trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7). Thiên
Chúa đã dùng Đức Giêsu để tha tội cho người bị bại liệt. Đức Giêsu đã tha tội
cho chị phụ nữ ăn năn sám hối (Lc.7, 34). Đức Giêsu cũng không kết án chị phụ
nữ ngoại tình (Ga.8, 11). Thiên Chúa không chỉ không kết án, mà còn tha tội cho
con người qua Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể giao hòa con người với Thiên
Chúa, nếu không phải là chính Thiên Chúa muốn giao hòa với con người. Thiên
Chúa đã giao hòa với con người, nhờ và qua Đức Giêsu Kitô. Tạ ơn Thiên Chúa đã
làm những điều kỳ diệu cho con người. Thiên Chúa đang làm điều mới qua Đức
Giêsu Kitô.
Con người ngày nay không thể gặp gỡ Đức Giêsu vì Ngài đã lên trời,
tuy nhiên nhờ đức tin con người vẫn có thể gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh. Thánh
Phaolô đã được biến đổi hoàn toàn nhờ biết Đức Giêsu Phục Sinh. “Kể từ khi biết
Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi trước cái lợi tuyệt vời là được
biết Đức Giêsu Phục Sinh.” Phaolô sẵn sàng mất tất cả để chỉ được Ngài mà thôi.
Phaolô đã có cái nhìn khác về vạn sự vạn vật. Ngày xưa, Phaolô miệt mài đi bắt
bớ các Kitô hữu, tưởng rằng như thế là làm vinh danh Thiên Chúa, nhưng biến cố
trên đường Đamát đã giúp Phaolô nhận ra sự thật. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh,
đã làm cho Phaolô thành con người mới, thành người công chính không cậy dựa vào
sức riêng mình nhằm chu toàn lề luật nhưng nhờ đức tin vào Đức Giêsu Kitô.
Với Phaolô, Thiên Chúa là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa
đã làm tất cả trong Đức Giêsu: Ngài tái tạo mọi sự, đưa mọi sự tới với Thiên
Chúa. Lề luật không giúp người ta tới gần Thiên Chúa nhưng chỉ giúp con người
nhận biết mình là tội nhân; chính niềm tin vào Đức Giêsu mới cho con người có
nhận thức đúng đắn hơn về mọi sự, mới cho con người có sức sống, mới giúp con
người thực hiện được điều mình thấy đúng, mới làm con người được hạnh phúc.
Nhận thức rõ Thiên Chúa làm tất cả trong Đức Giêsu Phục Sinh, Phaolô đã miệt
mài rao giảng tin mừng: “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.” Đức Giêsu
Phục Sinh thật sự là tin mừng cho tất cả mọi người. Tin nhận Đức Giêsu Phục
Sinh, là tin Thiên Chúa đang hoạt động và yêu thương con người vô cùng, là có
thể phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Thiên Chúa tình yêu, là có thể sống an
bình hạnh phúc.
Tâm tình của Kitô hữu, là tạ ơn Thiên Chúa đã cho được nhận biết
Đức Giêsu Phục Sinh. Tín hữu nhìn lên Đức Giêsu để dõi bước theo Ngài. Ngài đã
sống thế nào, Kitô hữu được mời gọi để sống như vậy. Trong mùa chay, Kitô hữu
được mời gọi để sám hối. Sám hối, là nhận biết chính mình cách thật sự, là nhận
biết mình có lỗi lầm và mong ước quay về với Thiên Chúa, làm hòa với anh chị em
mình. Sám hối đòi người ta phải có cái nhìn mới về Thiên Chúa, về tha nhân, về
chính mình và về sự vật. Thật không dễ để thay đổi chính mình, thay đổi cái
nhìn của mình, quan điểm và chọn lựa của mình; nhưng Thiên Chúa là Đấng có thể
làm mọi sự. Không gì mà Thiên Chúa không làm được. Ngài đã giúp những kinh sư
và biệt phái muốn ném đá chị phụ nữ ngoại tình được nhận biết họ cũng là tội
nhân, để họ thay đổi không còn kết án chị phụ nữ nữa. Thiên Chúa đã làm mới
những người đến với Đức Giêsu, kể cả chị phụ nữ ngoại tình lẫn những kinh sư và
biệt phái.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Niềm tin vào Đức Giêsu làm Kitô hữu có cái nhìn mới về tất cả. Bạn
có đồng ý không? Tại sao?
2. Mùa chay này, bạn có biết hơn về con người của bạn không? Xin
chia sẻ nếu được.
4. Thiên Chúa đang làm điều mới.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Tiên tri Isaia nói với dân Do Thái: không còn cần nhìn vào qúa khứ
để nhận biết Thiên Chúa nhưng có thể nhìn vào hiện tại, vì Thiên Chúa đang làm
điều mới cho con người. Ngày đó Thiên Chúa đang giải phóng họ khỏi ách lưu đày
ở Babylon; hôm nay, Đức Giêsu là điều mới Thiên Chúa đang làm cho con người.
Chị phụ nữ ngoại tình
Hãy nhìn chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đây là lần
đầu tiên chị phạm tội này, hay đã nhiều lần? Phải chăng người ta đã rình rập để
bắt qủa tang, và họ đã thành công, để chị không còn có thể chối cãi được?
Không còn nét kênh kiệu, không còn thái độ thách thức! Chị biết
mình không thể thoát cái chết bởi bao người “đạo đức”, bao người “có trách
nhiệm bảo vệ cương thường” đang vây quanh chị. Sợ hãi, hối hận hiện lên gương
mặt và thái độ của chị.
Không ai có thể cứu chị trừ phi có một phép lạ, trừ phi chính Thiên
Chúa ra tay! Nhưng liệu Thiên Chúa có còn thương người tội lỗi như chị, có nghe
tiếng van xin của chị không?
Những kinh sư và biệt phái
Những kinh sư và biệt phái nghiêm khắc. Cứ theo luật thì chị ta
phải chết. Phải ném đá chị ta, để bảo vệ sự công bằng của xã hội, để bảo vệ sự
trong sáng của đạo giáo, và ai cũng phải làm như vậy thôi.
Họ giải chị ta tới với Đức Giêsu, người hay giảng dạy yêu thương
tha thứ, người hay nói Thiên Chúa là Thiên Chúa của những tội nhân. Xem ông ta
dạy gì? Đây cũng là dịp để cho thấy con người thực và những giáo huấn của ông
ta. Có thể họ cũng chẳng muốn gài bẫy Đức Giêsu, nhưng để làm “cho ra lẽ” một giáo huấn “nhân từ” hay “Thiên Chúa thương xót” không thể có chỗ
đứng trong xã hội.
Hãy chờ xem.
Đức Giêsu- Đấng thương cảm và tha thứ
Đức Giêsu cảm thấy khó giải quyết. Ngài cúi xuống và bắt đầu viết.
Có người nói Ngài viết tội của từng người hiện diện. Có thể, nhưng cũng có thể
giải thích: đó là thái độ bối rối không biết giải quyết ra sao.
Vì người ta tiếp tục ép Ngài phải trả lời, Ngài đứng lên và nói:
“ai trong các ông vô tội, hãy là người đầu tiên ném đá chị ấy đi”, rồi Ngài lại
cúi xuống viết trên đất. Ngài không thách thức ai. Ngài trách ánh mắt thách
thức họ, để có thể vì tự ái họ “làm liều.” Có thể Ngài cầu nguyện cho họ được
trung thực với chính mình. Vì chính khi trung thực với chính mình, thì họ không
thể ném đá chị phụ nữ.
Tạ ơn Chúa. Không có ai ném đá chị phụ nữ. Đức Giêsu đã thành công.
“Không có ai kết án chị ư?” Thưa thầy: “không”! Tôi cũng không kết án chị, hãy
đi và đừng phạm tội nữa. Chỉ có mỗi một người có thể ném đá chị, mà người đó
lại không muốn ném đá chị. Bởi vì người đó nhân từ, cảm thương con người tội
lỗi hơn là lên án họ.
Hãy đi và đừng phạm tội nữa. Có lẽ từ đó trở đi, chị ta là con người
mới vì chị ta đã cảm nhận được một tình yêu. Tình yêu tha thứ và tôn trọng.
Tình yêu mời gọi chị làm lại cuộc đời. Thiên Chúa làm mới chị, và cũng là một
phép lạ đối với những người kinh sư và biệt phái, vì hôm nay họ trung thực với
chính họ, hôm nay họ gặp gỡ Thiên Chúa qua hành vi “nhận biết chính mình.”
Phaolô trở thành con người mới nhờ biết Đức Giêsu
Với Phaolô, mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu. Phaolô sẵn
sàng mất tất cả, để được Đức Giêsu. Tương lai của Phaolô ở trong tay Chúa, sự
công chính của Phaolô cũng tuỳ thuộc Chúa. Phaolô không cậy dựa vào sức riêng
mình. Hiện tại Phaolô không cho mình là người thành toàn, nhưng Phaolô vẫn tiếp
tục tiến bước trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng đã làm và sẽ làm những
điều tốt nhất cho Phaolô.
Một điều rất quan trọng với Phaolô: quên phía sau và lao mình tới
trước, nhắm đích Thiên Chúa kêu gọi ngài trong Đức Giêsu. Đức Giêsu đã là tất
cả cho Phaolô.
Ngài là ai đối với tôi?
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Điều gì đánh động bạn nhất trong trình thuật “chị phụ nữ ngoại
tình”?
2. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu chi phối đời Phaolô đến thế?
3. Đức Giêsu có chi phối đời bạn không? Tại sao? Đến độ nào?
5. Ghét tội, chứ không ghét kẻ có tội
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau khi Giáo hội tạm dừng để (Laetare), nghỉ ngơi và chúc mừng con
cái mình đã hăng hái tiến bước được nửa Mùa Chay Thánh, nghỉ để cảm tạ và xin
ơn Chúa để có thêm can đảm bước tiếp vào tuần thứ I của giai đoạn II, thời gian
mà toàn bộ nhà thờ sẽ chuẩn bị cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô.
Vì Trước cuộc cải tổ phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Chúa nhật thứ Năm Mùa
Chay được gọi là Chúa nhật thứ I mùa Thương khó, kéo dài 2 tuần lễ cho đến lễ
Phục sinh. Sau Công đồng Vaticanô II, lịch phụng vụ chỉ còn một tuần Thương khó,
trùng với Tuần thánh, và Chúa nhật thứ V Mùa Chay là gia đoạn tiếp tục các đề
tài huấn giáo tuỳ theo chu kỳ. Nếu các Chúa nhật Mùa Chay năm A trình bày Chúa
Giêsu là Nước Hằng Sống, là Anh Sáng, là Sự Sống dựa theo Tin mừng thánh Gioan.
Thì các Chúa nhật Mùa Chay năm C đề cao lòng thương xót của Thiên Chúa và kêu
gọi con người hoán cải heo Tin mừng thánh Luca. Tuy nhiên, bài đọc của Chúa
nhật thứ V trích từ Tin mừng Gioan. Trong các bản văn của các Giáo phụ, trình
thuật về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ ngoại tình lúc được đặt
trong Tin mừng thánh Luca lúc được đặt trong Tin mừng thánh Gioan, và mãi đến
thế kỷ thứ II, tức khoảng năm 150 mới có được vị trí cố định như hiện nay.
* Lời Chúa Phụng vụ năm A
- Ez 37, 12-14: Dân đã chết sẽ được sống lại
- Tv 130, 1: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và rất giầu ơn cứu độ
- Rm 8, 8-11: Đấng làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ cho anh em
được sống
- Ga 11, 1-45: Lagiarô chết và sống lại
* Lời Chúa Phụng vụ năm B
- Gr 31, 31-34: Thiên Chúa ký Giao Ước mới với Dân Ngài
- Tv 51, 3: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch!
- Dt 5, 7-9: Người đã học vâng phục, và trở nên căn nguyên ơn cứu
độ đời đời
- Ga 12, 20-33: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thôi đi, thì nó sẽ
sinh nhiều bông hạt
* Lời Chúa Phụng vụ năm C
- Is 43, 16-21: Đây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta
nước uống
- Tv 126, 1: Đức Chúa đã làm những điều kỳ diệu: ta thấy mình chứa
chan niềm vui
- Phil 3, 8-14: Vì Đức Kitô, tôi đành chịu thua thiệt để trở nên
giống Người
- Ga 8, 1-11: Đức Giêsu và người phụ nữ ngoại tình
Bước vào Tuần Thương Khó, nhiều nhà thờ hiện nay vẫn giữ lại hình
thức lấy khăn tím che đậy Thánh giá và các ảnh tượng [ trừ Đàng Thánh giá]. Nếu
Thánh giá và ảnh tượng thánh được che kín, là vì Giáo hội muốn tập trung vào
mầu nhiệm được cử hành: Hy Lễ Thánh đẫm máu của Chúa Giêsu Kitô. “Lạy Chúa
Trời, xin xử cho con, biện hộ cho con chống lại phường bất nghĩa; Xin cứu con
thoát khỏi người xảo trá gian tà, chính Ngài là Thiên Chúa bảo vệ con” (Ca nhập
lễ).
Đức Giêsu luôn thể hiện Ngài là Đấng nhân từ thương xót khi mạc
khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng xót thương. Thánh
Gioan viết: “Thiên Chúa, không ai đã thấy bao giờ”, Gioan đưa ra dẫn chứng đầy sức thuyết phục “Con
Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri.” (Ga 1,18)... Chân lý
về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô “Cha đầy tình thương xót” (2Co
1,3). Đức Giêsu ghét tội và yêu thương kẻ có tội. Ngài không dung túng tội lỗi,
nhưng khoan nhân với tội nhân. Vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết,
nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (Ez 33,11).
Bài Tin Mừng Chúa nhật V Mùa Chay là một bằng chứng hùng hồn về
lòng xót thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người
ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chúa
Giêsu không kết án người phụ nữ này, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá. Chúa không
nói với người phụ nữ: chị không có tội, nhưng nói: “Ta không kết tội chị. Vậy
chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” ( Ga 8,11). Thật vậy, chỉ có một mình
Chúa Giêsu Kitô mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Ngài mang lấy tội lỗi
của con người và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống. Đoạn Tin Mừng này
cho thấy rõ ràng rằng sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với một sự
dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua
sự dữ, hay tệ hơn nữa, là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng
tha thứ cho con người, và Ngài dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành
động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và
là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống làm lại cuộc đời.
Trong khi con người chúng ta có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với
tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng
Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã
sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu
thoát. Chúa Kitô chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Chúa Kitô đã
cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời
đại rằng: “Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội
nữa.”
Khi nghe những lời trên trong đoạn Tin Mừng hôm nay, làm sao mà
chúng ta không cảm nghiệm một niềm tín thác trào dâng trong tâm hồn chúng ta?
Làm sao mà không nhìn thấy nơi đó một "Tin Vui Mừng" cho cả và nhân
loại ở thời đại chúng ta, những con người đang mong ước khám phá lại ý nghĩa
đích thật của lòng nhân từ và sự tha thứ? Thời đại chúng ta đang cần đến sự tha
thứ của Thiên Chúa, một sự tha thứ làm phát sinh niềm hy vọng và phó thác, mà
không làm yếu đi cuộc chiến chống lại sự dữ. Cần trao ban và lãnh nhận sự tha
thứ. Nhưng con người chúng ta không trở nên có khả năng tha thứ, nếu trước đó
chúng ta không để cho mình được Thiên Chúa thứ tha, vừa nhìn nhận mình là đối
tượng của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ trở nên kẻ sẵn sàng tha
nợ cho người khác, chỉ khi nào chúng ta ý thức về mòn nợ to lớn mà chúng ta đã
được tha cho. Chúng ta hãy cố khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua bí
tích Hòa Giải, và hãy tỏ ra nghiêm khắc đối với tội lỗi nhưng khoan nhượng đối
với con người tội lỗi.
Chúng ta hãy nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria mà cầu khẩn Mẹ như là Mẹ
của lòng từ thương xót. Nơi Mẹ, Tình thương nhân từ của Thiên Chúa được nhập
thể, và tâm hồn vô nhiễm của Mẹ là nơi trú ẩn an toàn cho người tội lỗi. Được
Đức Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta hăng hái tiến vào Tuần Thương Khó, và nhớ
lại lời Đức Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình, nay Ngài nói với mỗi người
chúng ta rằng: Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa. (Ga 8,11). Xin Mẹ Maria
giúp chúng ta tiếp nhận với niềm vui đã được canh tân, (tiếp nhận) hồng ân cứu
rỗi, ngõ hầu chúng ta gặp lại được sự tin tưởng và niềm hy vọng để bước đi trên
con đường mới. Amen.
6. Khiết tịnh và lòng nhân ái
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tôi biết là bài Tin Mừng không nói gì về đức khiết tịnh, ngược lại
là đàng khác, nó đang thuật lại câu chuyện về người đàn bà ngoại tình, tức là
người lỗi phạm một điều nghịch với sự khiết tịnh ngay trong bậc vợ chồng. Các
kinh sư và Pha-ri-sêu rõ ràng đang nhân danh luật Mô-sê để bắt mọi người Do
Thái phải sống trung thủy. Nhân danh luật lệ khắt khẽ thì, bất cứ ai không
trung thủy nhất là phụ nữ, sẽ lập tức bị lên án; và trong trường hợp bị bắt quả
tang có thể lãnh án phạt nặng nề là ném đá cho tới chết. Tạo nên một xã hội
lành mạnh có nền luân lý vững chắc là mục tiêu của luật Do Thái, cũng như của
luật pháp mọi tôn giáo hay quốc gia. Riêng về diện này thì luật Mô-sê rõ ràng
rất cao đẹp, vượt trội so với luật pháp của các dân tộc cùng thời; và đã từng
là niềm kiêu hãnh của Do Thái trước các dân tộc khác (xem Đệ Nhị Luật
26:16-19). Khiết tịnh trong đời sống vợ chồng quả là một giá trị lớn cần được
bảo vệ trong bất cứ xã hội lành mạnh nào!
Nhưng đối với Tin Mừng mà Đức Giêsu đến để rao giảng, và còn minh
chứng bằng chính mạng sống mình, thì giá trị của sự trung thủy vợ chồng, cũng
như bất kỳ một giá trị luân lý nào, đều không thể nào sánh được với lòng nhân
ái và xót thương. Sự khác biệt chính (thậm chí đối đầu) giữa Đức Giêsu và các
kinh sư Pha-ri-sêu, giữa Cựu Ước và Tân Ước chính là hệ tại ở việc đặt giá trị
nào lên trên, lòng nhân ái hay luân lý (khiết tịnh hôn nhân trong trường hợp cụ
thể này)? Các kinh sư và Pha-ri-sêu thì đã dứt khoát: “Thưa Thầy, người đàn bà
này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho
chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.” Đức Giêsu cũng dứt khoát không kém: “Tôi
không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ này đừng phạm tội nữa!”
Cựu Ước chọn giá trị luân lý và đặt nó lên hàng đầu, ngược lại Tân
Ước thì đặt lòng nhân ái thương xót lên hàng đầu; sự khác biệt đối chọi như vải
mới / áo cũ, rượu mới / bầu da cũ!
Đức Giêsu không hề có ý muốn phế bỏ các giá trị luân lý! Không đời
nào! Người đã chẳng long trọng tuyên bố: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ Luật
Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ…
nhưng là để kiện toàn” (Mt 5:17-18) là gì? Điều duy nhất mà Người muốn loan
truyền và khắc ghi vào tâm khảm các môn đệ chính là: ‘sự vĩ đại tuyệt đối của
lòng nhân ái’, “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9:13). Đúng thế, sự chết và phục sinh của
Người đâu có mục đích bảo vệ một giá trị luân lý nào, nhưng là tiếng nói tuyệt
đối của tình yêu nhân ái của Thiên Chúa!
Như vậy chúng ta mới nghiệm ra rằng: bao lâu mình còn đặt các giá
trị luân lý lên thế thượng phong thì mình vẫn cứ luẩn quẩn trong Cựu Ước. Cựu
Ước tất nhiên là không xấu, rất tốt nữa là đàng khác, có điều Kitô hữu phải là
Tân ước của Tin Mừng Đức Kitô Giêsu; mà đã là Tân Ước thì giá trị của lòng nhân
ái phải được đặt lên hàng đầu. Trước hết là đối với Thiên Chúa: nắm giữ các
giới răn Chúa truyền là điều quan trọng, nhưng còn quan trọng hơn gấp bội khám
phá và đi sâu vào lòng từ bi - thương xót của Người trong Đức Giêsu Kitô. Còn
trong việc mục vụ (trong tư cách linh mục), tôi dành nhiều thời giờ và sức lực
cho việc giáo huấn luân lý là điều cần thiết, nhưng còn quan trọng hơn nhiều,
nỗ lực ghi khắc vào tâm khảm các tín hữu (nhất là người trẻ) nhận biết lòng
thương xót vô biên của Thiên Chúa, và cũng đối sử như thế đối với tha nhân; nếu
không làm điều này, ta sẽ không phải là một Kitô hữu đích thực, một môn đệ đích
thực của Đức Kitô Giêsu. Riêng Linh Mục, trong tư cách là một ‘Kitô thứ hai’ –
alter Christus, chứ không phải là ‘alter Mosis’, nếu tôi không trở thành ‘dấu
chỉ và người mang tình yêu Chúa đến cho mọi người’ (như Don Bosco vẫn nhắc nhở
các tu sĩ Sa-lê-diêng của người như thế) thì quả là một phản bội đấy: dạy dỗ và
sửa bảo luân lý là điều cần làm… nhưng tỏ lòng nhân ái là điều còn cần thiết
hơn. Giai thoại về người đàn bà ngoại tình cho thấy: theo gương Đức Giêsu, điều
cần làm hơn hết khi phải giáp mặt với một lỗi phạm luân lý (đặc biệt trong lãnh
vực khiết tịnh) là hãy tỏ lòng thương xót, từ nhân. Chắc chắn đó không phải là
thái độ xuề xòa dễ dãi cho qua, vì phải là “từ nay đừng phạm tội nữa”, nhưng
còn đi xa hơn thế, là thái độ thương cảm của chính Thiên Chúa được Đức Giêsu
diễn tả: “Tôi không lên án chị đâu!” Bởi vì xét cho cùng, ai trong chúng ta
cũng cần được Thiên Chúa xót thương và tha thứ cả, có lẽ mình cần hơn bất cứ ai
khác: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ lấy đá mà ném trước đi.”
Tất cả chúng ta đều cần tới ơn cứu độ của Thập Giá và lòng thương
xót vô biên của Thiên Chúa!
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin cho con biết, mỗi khi giáp mặt
với lỗi phạm nơi bản thân mình cũng như nơi tha nhân, quyết tâm không ngừng vun
trồng nơi mình và nơi những người con phục vụ không những các giá trị luân lý
cao đẹp, nhưng còn biết quyết liệt hơn sống lòng nhân ái và xót thương của
Chúa. Xin giúp con không bao giờ kết án bất cứ ai chỉ vì các lỗi phạm của họ,
nhưng luôn biết xót thương như Chúa hằng thương xót. Amen.
7. Đổi mới – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
Con người được sinh ra hiện hữu trong thời gian và không gian. Cuộc
sống con người được gắn kết với môi trường xã hội, văn hóa, chính trị và tôn
giáo riêng biệt. Mỗi người mang một dòng máu, một quốc tịch và định mệnh khác
nhau. Tiểu sử của mỗi người liên kết với lịch sử của một bộ lạc, một dân tộc và
một quốc gia. Có một mối tương quan liên đới số phận chung của con người cùng
thời đại. Vận nước kéo theo vận người. Vì thế mỗi người có trách nhiệm và bổn
phận chung trong xã hội, cũng như riêng tư trong đời sống cá nhân gia đình.
Trong chương trình cứu độ, dân Do-thái trở thành dân tộc trung gian và máng
chuyển ân lộc của Thiên Chúa. Một dân tộc được tôi luyện đã trải qua nhiều gian
nan thử thách. Thiên Chúa luôn hiện diện đồng hành để khuyến khích và thức
tỉnh: Người phán như sau: "Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa,
chớ quan tâm về những việc thuở trước (Is 43, 18). Đây làmột lời khuyến khích
yêu thương đổi đời. Cho dù dân từ bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại và quay
lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa, Chúa vẫn giữ mối tình trung kiên.
Dân ngưỡng vọng về một tương lai tươi sáng, Thiên Chúa sẽ thực hiện
những sự đổi mới và khơi nguồn những phúc lộc chan hòa. Tiên tri Isaia đã loan
báo cho dân những dự phóng tương lai đầy hy vọng: Này Ta sắp làm một việc mới,
việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con
đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn (Is 43, 19). Hy
vọng chính là nguồn sống. Hy vọng ngày mai tươi sáng hơn, thành công hơn và
sinh hoa kết qủa nhiều hơn. Mỗi ngày sống là mỗi cơ hội tốt để hoàn thành những
ước mơ. Mong chờ Đấng Cứu Độ đến giải thoát khỏi vòng u mê tội lỗi và sự chết
là mơ ước tuyệt đỉnh của dân người. Trong cuộc sống, chúng ta thường có những
hy vọng nho nhỏ nối kết từng ngày giúp chúng ta sống vui. Sống là một cuộc lữ
hành hoàn thành các ước mơ. Kết thúc dự tính này lại hy vọng ước tính khác. Đời
chỉ đẹp khi còn dang dở.
Chính sự dở dang tạo nên uẩn khúc cuộc đời. Bài Phúc âm hôm nay kể
truyện người phụ nữ không may bị người ta bắt gặp đang khi có những liên hệ
tình dục bất chính. Một hành động trái đạo lý luân lý, không đúng lúc và không
đúng nơi. Chị ta bị phát hiện khi sự kiện còn dang dở. Chị ta không thể chối
cãi và chỉ biết cúi mặt xấu hổ. Một phút giây lầm lỡ đã hủy phá danh dự cả một
đời. Chị biết lỗi mình. Đứng đó, không có nơi nương tựa để giấu mặt hay trốn
lánh. Sự thể đã rồi, biết làm sao bây giờ. Chúng ta cũng biết chị ta đâu phạm
tội gì đến danh dự của các luật sĩ, biệt phái hay ai khác. Họ tố cáo chị với
Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình.
Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn
Thầy, Thầy nghĩ sao?(Ga 8, 4-5). Họ hiểu biết Luật của Môisen, nhưng vẫn muốn
thử sự xét đoán của Chúa Giêsu. Đá đã cầm sẵn trong tay và chỉ chờ lời phán
quyết kết tội của Chúa là họ ném đá người phụ nữ cho chết. Họ giữ luật vị luật
và thiếu lòng nhân ái. Chúa đã cứu chị ta với một câu hỏi tuyệt vời: "Ai
trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi."(Ga 8, 7). Ai
là người vô tội. Bằng một lời, Chúa Giêsu dẫn mọi người trở về với lòng mình.
Những người tố cáo chị vẫn còn chút lương tâm nhậy cảm. Họ nhận ra
ý nghĩa lời chỉ dậy của Chúa Giêsu ngay. Tâm phục khẩu phục. Qua vài câu đối
thoại với Chúa Giêsu, mọi người đã thức tỉnh và những cục đá thù ghét rơi xuống
khỏi lòng bàn tay. Họ đã bỏ đi từ kẻ già đến người trẻ. Có lẽ tâm hồn của họ
cũng cảm thấy vơi bớt nỗi hờn ghen. Cuối cùng, Chúa Giêsu đầy lòng thương xót
đã lên tiếng: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi,
và từ nay đừng phạm tội nữa! "(Ga 8, 11). Một lời nhắn nhủ rất nhẹ nhàng
và thuyết phục. Về đi. Như vậy Chúa đã tha thứ rồi. Chúa có uy quyền trên cả
Luật Môisen. Chúa đã cất nỗi tủi hổ và nhục nhã cho người phụ nữ phạm tội. Chúa
đã cứu sống người phụ nữ cả thân xác lẫn linh hồn.
Khi cầm đất hay đá ném người khác thì tay chúng ta đã dơ và lòng đã
bẩn. Tâm chúng ta đã thuận theo để kết án người khác. Có biết bao lần chúng ta
đã xét đoán và kết tội người khác, trong khi chúng ta chỉ nghe có một chiều và
biết một phần rất nhỏ của câu truyện. Vấn đề này xảy ra thường ngày như cơm
bữa. Chúng ta nghe truyện xấu và rồi thêm mắm thêm muối cho câu truyện thêm đậm
đà ý vị. Truyện xấu giật gân lây lan nhanh chóng như một thứ vi khuẩn xâm nhập.
Cục đá kết án đã nằm sẵn trong tay chỉ chờ cơ hội là ném. Ném mạnh, ném nhanh
và ném cho chết, thế là hả dạ. Chúng ta chẳng muốn tìm hiểu nguyên nhân, lý do
hay hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng thế nào. Chúng ta biết rằng ai cũng có nhiều
tâm tư nỗi khổ cần được thông cảm và giãi bầy chia sẻ. Hãy học lời khuyên của
Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh, ai trong anh chị em sạch tội, thì ném đá trước
đi.
Chúng ta không nên nghi ngờ và đổ lỗi vội vàng. Có khi sẽ bị bé cái
lầm. Truyện kể: Có người mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm.
Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa. Nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn
cắp búa. Mọi cử động của nó, tỏ rõ là tên đạo tặc. Ông bị yên trí. Sau khi ông
tìm thấy búa, thì từ đó lại thấy thằng bé hiền lành, không có vẻ chi là ăn cắp,
ăn trộm nữa. Ở đời không nên vội nghi ngờ, kẻo gây chia rẽ hay làm mất thanh
danh người khác. Càng nghi kỵ thì càng nhen nhúm sự dữ trong lòng. Sự đời dối
trá dễ lôi kéo chúng ta vào cuộc. Giống như câu truyện của chị phụ nữ, có thể
chúng ta không dám ném đá người khác trước đâu. Một mình tôi thì chẳng dám ném,
nhưng có vài người vào hùa, tôi sẽ hùa theo. Và cuối cùng chúng ta lại đổ lỗi
cho người khác, tôi thấy người ta nói và làm như vậy. Kiểu ném đá giấu tay.
Người ta là ai chứ! Dùng chữ ‘người ta’ làm hỏa mù để dấu tội mình và trốn tránh
trách nhiệm. Như thế, truyện của người khác mà lại làm cho chúng ta trở nên dơ
tay, bẩn lưỡi và xấu lòng. Thật là không đáng!
Thánh Phaolô đã có Chúa Kitô làm gia nghiệp. Ngài có thể hy sinh và
từ bỏ tất cả vì danh Chúa. Mối lợi của ngài là chính Chúa Kitô. Đôi khi chỉ vì
cái tôi kiêu ngạo và vì tự ái, nhiều người lấy danh nghĩa Chúa Kitô để kết án
và loại trừ lẫn nhau. Lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua sự ly khai của các
giáo phái và các nhóm trong lòng giáo hội. Niềm tin của chúng ta là chỉ có một
Chúa, một phép rửa và niềm hy vọng. Thánh Phaolô đã xác tín: Hơn nữa, tôi coi
tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô
Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác, để
được Đức Kitô(Phil 3, 8). Dù sống đạo hay hành đạo cách nào, nếu chúng ta chưa
kết hợp được với Chúa Kitô, chúng ta vẫn còn lang thang chưa có đích điểm.
Sau khi gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, Phaolô đã trở thành một con
người hoàn toàn mới. Một sự đổi mới đức tin kỳ diệu: Thưa anh em, tôi không
nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường
đã qua, để lao mình về phía trước (Phil 8, 13). Saulôthay đổi từ một người hăng
say bắt bớ và giam tù các Kitô hữu, đã trở thành tông đồ Phaolô rao giảng tin
mừng nhiệt tình cho Nước Chúa. Ngài đã cam chịu cực khổ trăm bề để làm cho danh
Chúa Kitô cả sáng. Mùa Chay là cơ hội cho mỗi người chúng ta thay đổi cách
sống. Học hỏi, lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Gắn bó kết hợp với Chúa
qua các Bí tích và việc cử hành phụng vụ. Chúa Kitô là trung tâm của tất cả các
sinh hoạt sống đạo.
Lạy Chúa, chúng con đang còn lữ hành dưới trần thế để hướng về quê
thật. Xin cho chúng con biết chuẩn bị những hành trang cao quí xứng hợp với cõi
thiêng. Niềm hy vọng chính là ánh sao soi đường dẫn chúng con đạt tới sự sống
bên Chúa đời đời. Amen.
8. Gặp gỡ Đức Kitô.
Gặp gỡ người khác trong cuộc đời là chuyện thường ngày. Tuy nhiên
có những cuộc gặp gỡ đã ghi lại dấu ấn sâu xa. Chẳng hạn gặp người bạn khác
phái để rồi yêu thương và cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình. Gặp thầy gặp
thuốc trong cơn bệnh nặng để tồi được chữa lành. Gặp người bạn biết an ủi khích
lệ để rồi tìm thấy niềm vui mừng và hy vọng. Đó là những cuộc gặp gỡ cứu sống,
biến đổi toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta.
Còn với Đức Kitô thì sao? Cuộc gặp gỡ với Ngài có phải là cuộc gặp
gỡ cứu độ như một bài hát quen thuộc: Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình.
Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh… Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau
dừng lại để suy nghĩ về những cuộc gặp gỡ với Chúa.
Trước hết là cuộc gặp gỡ Chúa của bọn biệt phái. Họ đến gặp ngài để
hỏi Ngài xem có nên ném đá người đàn bà ngoại tình, mà chiếu theo luật Maisen,
sẽ bị ném đá cho chết. Thế nhưng bên trong, họ muốn gài bẫy làm hại Ngài. Bấy
giờ Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Ngài thinh lặng và bình
tĩnh làm như không có chuyện gì xảy ra. Ngài không giận dữ, vạch mặt chỉ tên
những kẻ giả hình. Ngài kiên nhẫn chờ đợi. Một sự im lặng dành cho những kẻ
đang hung hăng đòi lên án, đang mưu đồ ám hại người lành. Một sự im lặng như để
mời gọi họ hãy tự xét về chính hành động của mình. Song họ đã không hiểu được ý
Ngài. Vì họ cứ hỏi mãi, nên cuối cùng Ngài mới nói: Ai
trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Rồi Ngài lại cúi xuống
viết trên đất như chẳng có chuyện gì xảy ra cả.
Thế nhưng có chuyện đã xảy ra, bởi vì họ bắt đầu bỏ đi, kẻ trước
người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất. Chúa Giêsu đã tỏ ra hiền lành
và khiêm nhường, kiên nhẫn và khoan dung. Ngài luôn trân trọng đối với những
bậc thầy trong dân, những người trí thức, có một tinh thần đạo đức nào đó.
Không có chuyện kết án, phạt tội nhãn tiền. Trong thái độ yên lặng và kiên
nhẫn, Ngài mời gọi họ hãy trở về với cõi lòng của mình, với chính cuộc sống của
mình mà suy xét và hành động cho xứng hợp. Ngài mời gọi họ
sống ý thức chân thật, chứ đừng hung hăng mà đánh mất chính mình. Như thế chẳng
phải là Ngài đã cứu họ sao? Ngài cứu họ khỏi mưu kế giết chết hai người, là
người đàn bà và chính họ nữa.
Tiếp đến là cuộc gặp gỡ của người đàn bà ngoại tình. Chị bị dẫn độ
đến gặp Ngài. Chị thật xấu hổ, đứng im như tượng đá, mặt cúi xuống, sẵn sàng
đón nhận hình phạt nặng nề nhất do hành vi sai phạm của mình.
Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn im lặng làm ra vẻ không có chi quan trọng để phải dùng
đao to búa lớn đối với con người hèn yếu này. Ngài cúi xuống và viết trên cát.
Ngài hiền lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và đợi chờ, cho đến khi chẳng còn một
ai, mới ngẩng đầu lên và hỏi: Họ đâu cả rồi, không ai kết án chị sao? Phải
chăng Ngài muốn mời gọi chị đích thân kiểm tra sự thay đổi tình hình đang xảy
ra, một sự thay đổi do chính thái độ của Ngài gây nên. Và sau đó, Ngài mới kết
luận, mới tỏ thái độ của mình: Tôi không lên án chị đâu. Chị hãy về và từ nay
đừng phạm tội nữa. Qua đó Chúa muốn nói: chị đã phạm tội và đáng bị lên án.
Nhưng chị đã gặp được Ngài, là tình yêu tha thứ. Ngài tin tưởng ở chị một sự
thoát xác, một sự đổi đời. Chị đã được thoát chết, thì kể từ giờ, chị hãy tỉnh
ngộ và hướng dẫn đời mình theo một chiều hướng tích cực hơn.
Chúng ta không biết điều gì đã xảy ra cho bọn biệt phái và người
đàn bà sau cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Nhưng qua bài đọc thứ hai, chúng ta biết
được sự chuyển biến nơi thánh Phaolô sau khi gặp được Đức Kitô trên đường đi
Đamas. Trước kia, Phaolô đã coi Đức Kitô như kẻ thù không đội trời chung và
Phaolô đang lùng bắt những người tin theo Ngài. Cuộc gặp gỡ với biến cố ngã
ngựa đã khiến cho Phaolô trở về với chính mình. Và sau một thời gian ẩn mình
trong hoang địa, Phaolô đã bị Đức Kitô chinh phục và đã hoàn toàn đổi thay
hướng đi cho cuộc đời mình.
Xuyên qua những cuộc gặp gỡ trên, Chúa Giêsu đều mời gọi chúng ta
bước đi trên con đường cứu độ, trở lại với chính mình để rồi từ đó xác định
hướng đi mới cho cuộc đời, như bài hát chúng ta thường nghe: Gặp gỡ Đức Kitô,
biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh…
9. Đừng phạm tội nữa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bị bắt quả tang phạm tội là điều đáng xấu hổ. Nhưng nếu tội đó là
tội ngoại tình thì thật là kinh khủng.
Ta cần hình dung người phụ nữ ấy, xốc xếch, rối bù, bị lôi đi, mắt
cúi xuống tránh những cái nhìn khinh miệt.
Trời tang tảng sáng, nơi Đền Thờ Giêrusalem, Đức Giêsu đang ngồi
giảng dạy cho đám đông. Chị ta bị đặt trước mặt Ngài, đứng ngay giữa. Các kinh
sư và pharisêu hí hửng với cái bẫy của mình. Người phụ nữ này thật là một cơ
may hiếm có để họ có bằng chứng tố cáo Ngài.
"Luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng người này.
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?.”
Quả là một câu hỏi bất ngờ, lịch sự và nham hiểm.
Đức Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê, và cũng không thể nói
ngược với trái tim của mình. Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất.
Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu
trả lời thích hợp.
Thời gian thinh lặng trôi qua, các kẻ tố cáo sốt ruột. Họ đắc thắng
gặng hỏi, tưởng Ngài bị dồn vào thế bí.
"Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi." Ngài
trả lời, rồi lại cúi xuống viết trên đất. Câu trả lời của Ngài bất ngờ vang
trong tĩnh lặng, bắt người ta phải trở về đối diện với lòng mình. Ai dám tự hào
mình vô tội?
Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội ngoại tình.
Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn.
Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình. Không
thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình. Họ lần lượt rút lui,
gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Chúng
ta trân trọng thái độ chân thành của họ. Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố
cáo và định tố cáo. Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình
Thương.
Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm hơn cho cuộc đối thoại.
Đấng duy nhất có thể ném đá lại nói: "Tôi không lên án chị
đâu! Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa."
Lắm khi việc áp dụng luật lại dẫn đến bế tắc.
Ném đá quả là một hình phạt răn đe hữu hiệu, nhưng lại không ích
lợi gì cho người phạm tội.
Đức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người, Ngài còn làm sống lại
một đời người.
Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu
mến và hy vọng vào họ.
Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt còn đang
yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các kinh sư.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chỉ có tình thương mới biến đổi được con người. Bạn có tin điều đó
không? Bạn có tin người phụ nữ ngoại tình sẽ đổi đời không?
Để sống với nhau cần có luật lệ và nguyên tắc. Có khi nào bạn thấy
luật lệ bóp chết con người không? Cần phải làm gì để tránh rơi vào những nguyên
tắc cứng nhắc?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim
con quảng đại như Chúa: vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy
tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm
xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi
gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù
ghét con.
10. Lòng thương xót của Thiên Chúa
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên
Chúa. Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha nhân
hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của Chúa Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ
nữ. Nguyên cáo là các Kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là tội ngoại
tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ không cần đến Chúa Giêsu
làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến
Chúa Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài bẫy Người. Tha cho người phụ
nữ là Người chống lại luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn với
chính mình vì Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm
độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là bản án dành cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không
đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời gian lắng đọng
tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả
lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu hỏi khác cơ bản hơn.
Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để
những Kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn mình. Người cúi
xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên
tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai trong các ông
sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Họ mời Chúa Giêsu làm quan toà xét
xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi
chờ Chúa Giêsu kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang
đá đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào
lương tâm họ.
Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa
Giêsu lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết người
phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ sống lại, bừng
tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã lần lượt rút lui không dám
kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các Kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét
xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa ra lời phán
xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội
nữa.” Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn
độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét
nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng
ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục
hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá
khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm
lỗi của ta. Chúa không nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng
khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội
nữa.”
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ
của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng con đáng
quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là
nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá
khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin
tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương
xót của Chúa là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không
lên án những người tố cáo chị.
Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào nhiều hơn?
2. Mỗi khi xét người, bạn có xét mình trước không?
3. Bạn có cảm nhận được lòng thương xót của Chúa trong đời sống của
bạn không?
4. Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí
của người đó không?
11. Tình thương và tội lỗi – Cố Lm Hồng Phúc
Phụng vụ đặt bài Phúc Âm của Gioan ở đây để khơi động tinh thần sám
hối Mùa Chay, trước tình thương bao la của Chúa.
Chúa Giêsu đang giảng dạy ở tiền đường Đền thờ, có dân chúng bao
quanh thì nhóm Pharisêu và luật sĩ kéo sành sạch một phụ nữ đến trước mặt Chúa.
Họ đứng thẳng đó và nói: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội
ngoại tình, theo Luật Moisê hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy
sao?”
Thật ra luật Moisê có khoản trừng phạt những người dâm phụ hoặc các
kẻ đã hứa hôn như vậy, nhưng từ lâu rồi, khoản ấy không được áp dụng khắc khe
nữa, nhất là người Lamã cai trị có lệnh cấm ném đá giết người. Tuy nhiên, đây
là cái cớ để bắt bẻ Chúa. Câu trả lời khôn ngoan đến đâu cũng có kẽ hở, không
lỗi luật Moisê thì cũng phạm đến lịnh của chính quyền.
Chúa Giêsu có vẻ không mấy chú ý đến cáo trạng và thái độ đắc thắng
của nhóm Biệt phái. Ngài cúi xuống lấy tay viết trên nền đất. Thời gian trôi
qua trong im lặng nặng nề, như mời gọi mọi người nhìn vào chính nội tâm của
mình.
Rồi Chúa đứng thẳng lên, nhìn vào đối thủ và từ từ nói: “Ai trong
các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi.” Và Người lại ngồi xuống và
viết trên đất. Bầu khí im lặng lại càng nặng nề hơn.
Đã nhiều lần, vị Rabbi trẻ chứng minh rằng Ngài có quyền đọc tận
thâm tâm, biết cả những việc thầm kín nhất. Họ biết như vậy, nên khôn ngoan hơn
cả là lẫn đi-dĩ đào vi thượng sách! Giữa người thiếu phụ lỡ lầm và những người
được tiếng đạo đức đó, chưa hẳn ai tội lỗi hơn ai.
Vì thế, Phúc Âm nói: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ những
người nhiều tuổi nhất.” Nhiều tuổi thì khôn ngoan hơn, chuồn lẹ hơn là phải.
Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và thiếu phụ. Thánh Augustinô nói:
“Chỉ còn lại Tình thương và tội lỗi.”
Người thiếu phụ đứng đó, bẻn lẻn, nhưng trong lòng tràn ngập trông
cậy. Chúa Giêsu nhìn bà và phán: “Ta không kết tội con.” Thật là một lời đầy an
ủi. Chúng ta hay kết tội kẻ khác và nhiều khi thật nặng nề và vô lý. Nhưng
chúng ta là ai mà dám kết tội kẻ khác? Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng vô tội. Ngài
không kết tội. Ngài tha thứ và nâng đỡ người sa ngã bằng một câu đầy nhân hậu:
“Con hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa.”
Trên đoạn Phúc Âm này, trải qua bao thế hệ, có bao nhiêu dòng nước
mắt đã chảy xuống chan hòa ướt đẫm. Vì qua người thiếu phụ đó, chúng ta nhìn
thấy hình ảnh chúng ta. Chúng ta là kẻ tội lỗi, nhưng rồi, trong tòa cáo giải,
lời Chúa còn vang vọng lên: “Cha tha tội cho con. Con hãy đi và đừng phạm tội
nữa.”
“Lạy Chúa, nguyện thương tôi theo lòng nhân hậu Chúa, xóa tội tôi
theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa tôi tuyệt gốc lỗi lầm và tẩy tôi sạch lâng tội
ác” (T.v 50).
12. Tội bắt quả tang – Thiên Phúc.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Vua Quang Vũ nhà Đông Hán có người chị là Hồ Dương, công chúa goá chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm, liền
đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị. Công chúa nói: “Tất cả bá
quan trong triều đình chỉ có Tổng Hoằng là người có tư cách khác thường, những
người khác không sao bì kịp, vua Quang Vũ biết ý chị đã vừa lòng Tổng Hoằng,
liền bảo chị hãy ra ngồi phía sau tấm bình phong, rồi cho đòi Tổng Hoằng đến.
Nhà vua bảo:
- Ta nghe tục ngữ có câu: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ” có phải thế không? Tổng Hoằng liền quỳ xuống tâu:
- Bạn bè giao du với nhau còn nghèo hèn không nên quên nhau, người
vợ trong cảnh hàn vi không nên cho xuống ở nhà dưới.
Vua Quang Vũ biết Tổng Hoằng là người thuỷ
chung, nhân nghĩa, không thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu mến
hơn. Rồi nhà vua nói với chị: “Việc hôn nhân không thành được, con người này
không thể đem danh lợi và phú quí để mê hoặc.”
Câu chuyện trên đây là một tấm gương cao đẹp về lòng chung thuỷ, khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang
phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.
Gia đình là nền tảng của xã hội, một khi vợ chồng đã đánh mất lòng
chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ, mà còn
băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư và nhóm Pharisêu dẫn người phụ
nữ ngoại tình đến xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê cũng
truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ là cái bẫy để có bằng chứng tố cáo
Người mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Người
truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của mình là “Các con hãy yêu
thương nhau.” Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay
Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều
chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột
nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và
mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời
đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi.”
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng
chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm
chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ
bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Vâng, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung
bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong
ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả
tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta
tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội lỗi để không ai bị bắt quả
tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm
thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang
phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ để gián
tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại
không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án
tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!.”
Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn
đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta.
Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng
nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
Lạy Chúa, chúng con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm tội. Nhưng có
tội nào chúng con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin cho chúng con biết cởi bỏ
những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân thật và trong sáng trước mặt Chúa và
anh em.
Nếu Chúa đã không lên án chúng con, thì xin Chúa giúp chúng con
đừng bao giờ kết án anh em của mình. Amen.
13. Tình thương cứu độ
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn hào Ngài Léon Tolstoi có kể câu chuyện: Có một người hành khất
nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay
một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu
có. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.
Đến một lúc, không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì
lời bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm
trong miệng: “Ta mang hòn đá nầy cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ
dùng nó để ném đá trả lại ngươi.”
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc
nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật:
Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào
ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu
vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải.
Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười
mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng
bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng
thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự
nhủ: Tại sao ta phải mang nặng hòn đá nầy từ bao nhiêu năm qua? Con người nầy,
giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ đáng thương như ta!”
Chúa Giêsu hôm nay cũng không ném đá người thiếu phụ ngoại tình. Và
những người tố cáo chị ta cũng không ai dám ném hòn đá đầu tiên. Câu chuyện kể
về người thiếu phụ ngoại tình như sau:
“Khi ấy, Đức Giêsu đang ngồi tại hành lang Đền Thờ Giêrusalem thì
bỗng có một nhóm đàn ông điệu đến trước mặt Ngài một thiếu phụ run lẩy bẩy, mặt
mày tái mét. Họ trình với Ngài rằng: họ đã bắt được quả tang người thiếu phụ
nầy đang phạm tội ngoại tình. Theo lề luật, Môisê truyền phải ném đá mụ nầy. Về
phần Ngài, Ngài nghĩ sao?.”
Dĩ nhiên là họ muốn gài bẫy Chúa Giêsu: Nếu Ngài nói ngược lại với
luật Môisê thì những người Do Thái sẽ chống lại Ngài, còn nếu Ngài khuyến khích
họ ném đá người thiếu phụ, điều mà luật lệ Rôma không cho phép, thì chắc chắn
Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền Rôma lúc đó đang chiếm đóng. Thực sự, Đức
Giêsu đã không trả lời ngay câu hỏi của họ. Tin Mừng thuật lại là: Ngài cúi
xuống lấy ngón tay viết trên đất. Chẳng ai biết Ngài viết gì. Có lẽ Ngài muốn
nhắc cho chính nhóm đàn ông kia là muốn phạm tội ngoại tình thì phải có hai
người, và Lề Luật đã quy định là cả hai đều bị phạt chịu ném đá cho đến chết.
Thế mà họ chỉ điệu đến trước mặt Ngài có một mình người thiếu phụ nầy. (Còn
người đàn ông kia đâu?). Vậy thì chính họ, nhóm đàn ông ấy, đã phạm tội bất
công, kỳ thị nam nữ, phân biệt đối xử và phạm tội giả hình… (chứ thì phái mày
râu các ông không phạm tội ngoại tình sao?)
Sau khi viết xuống đất một hồi, Đức Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ:
“Ai trong các ông không có tội thì hãy ném viên đá đầu tiên đi!.”
Rồi Ngài lại cúi xuống viết tiếp… Ngài còn đang viết thì có một sự
kiện thật ngoạn mục xảy ra: nhóm đàn ông nầy bắt đầu lặng lẽ rút lui có trật
tự, những người già hơn rút lui trước. Có lẽ vì họ đã phạm tội nhiều hơn những
người trẻ. Cuối cùng, chỉ còn lại có hai người: Đức Giêsu và người thiếu phụ.
Lúc nầy, Đức Giêsu mới ngẩng đầu lên và cùng đối thoại với người thiếu phụ.
Ngài hỏi chị ta:
- Những người kia đã đi đâu cả rồi? Không có ai lên án chị sao?
- Thưa Ngài, không có ai, thiếu phụ đáp lại.
- Vậy thì Ta cũng không lên án chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội
nữa nhé!”
Chúng ta có thể tưởng tượng: lúc đó, người thiếu phụ vui mừng như
thế nào? Và chắc chắn chị không quên cảm tạ Chúa và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đang sống trong một thế giới của những kẻ ném đá. Người ta
chỉ thích phê bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục hoặc chống đối người khác. Chúng
ta quên đi một câu nói rất có ý nghĩa của người Anh: “Những ai đang sống trong
nhà bằng kính thì đừng nên ném đá” (ném đá vỡ kính hết).
Tất cả chúng ta đều đang sống trong những căn nhà bằng kính, bởi vì
tất cả chúng ta đều rất mỏng dòn, dễ vỡ, đã không đáp ứng đúng mức đòi hỏi của
Thiên Chúa và tất cả chúng ta đều rất cần đến sự tha thứ của Ngài.
Cũng như nhóm đàn ông kia ở Giêrusalem, chúng ta thường tự đặt mình
vào hạng những người công chính. Chúng ta sáng mắt nhìn thấy điều sai trái của
kẻ khác, nhưng lại quá đui mù chẳng nhìn thấy các lỗi lầm của chính mình.
Tuy nhiên, anh chị em thân mến,
Câu chuyện trên đây không chỉ đề cập đến những kẻ ném đá, những kẻ
tự cho mình là kẻ công chính, những kẻ tự đặt mình vào chức vụ bảo vệ nền luân
lý công cộng, những kẻ luôn nghĩ rằng tất cả những điều mình làm đều đúng, đều
tốt, những kẻ vẫn tự hào rằng mình tốt lành và nhân đức hơn những người khác…
Câu chuyện còn đề cập đến chính người thiếu phụ bất hạnh ấy nữa. Đức Giêsu đã
không nhắm mắt làm ngơ trước tội ngoại tình. Ngài đã không nói rằng: điều người
thiếu phụ đã làm đó chỉ là một chuyện vặt, một chuyện nhỏ mọn, hoặc là một
chuyện có tính cách riêng tư không dính líu gì tới ai. Ngài cũng đã không
khuyên nhóm người kia hãy bỏ qua chuyện nầy, hoặc hãy chấp nhận mà sống với
những yếu đuối của mình, nhưng Ngài đã khẳng định Ngài không lên án thiếu phụ
nầy. Nói cách khác, Ngài đã sẵn lòng chấp nhận người thiếu phụ bất hạnh nầy
trong chính tình trạng hiện nay của chị – Chị là người có tội đấy-Chị hãy chừa
cải, sửa đổi nên người mới.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta dù cho tội đó nặng
đến độ phải tử hình như tội ngoại tình nơi anh em Do Thái ngày xưa. Lòng Chúa
hải hà vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng so với
thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh
mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước
đọng: một bên thì bình tĩnh thản nhiên, nhẹ nhàng đón nhận cục đá lớn ném xuống,
còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng một biến cố ấy. Thiên Chúa
vẫn đối xử với chúng ta như thế, không phải để ta coi thường tội lỗi, mà là để
ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt
hơn.
Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá
đầu tiên hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại
lệnh truyền: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa.” Có nghĩa là: “Con hãy về đi và
từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con.” Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia
thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng trái lại
phần Đức Giêsu, Ngài đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu
hoàn toàn mới mẻ: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa.”
Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi
người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình nầy. Trên
thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn triệu người được cứu
thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn
vào cõi lòng mình vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là
kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.
14. Chiến thắng sự dữ và tội lỗi – R. Veritas.
Người ta kể lại dưới thời các hoàng đế trị vì xưa kia. Cứ sau thánh
lễ Phục sinh, bên cạnh cây nến phục sinh cháy sáng, hoàng đế cho thắp thêm một
cây đèn lớn khác gọi là "Cây đèn ân xá Phục sinh.” Cho tới khi nào ánh đèn
còn cháy, tất cả mọi người có tội nặng đáng xử tử mà đến đặt tay trên cây đèn
ấy xưng thú tội lỗi mình thì được ân xá, không phải chịu án phát. Từ một phía
cửa hông nhà thờ, các tội nhân xếp hàng dài. Nào là những người cướp của giết
người, ngoại tình, phá thai, gian dối, lừa đảo, làm tiền bạc giả. Sau khi đặt
tay trên Cây đèn ân xá Phục sinh xưng thú lỗi lầm, công khai trước mặt hoàng đế
và đông đảo tín hữu tò mò đến xem, họ sang chiếc bàn bên cạnh ghi tên tuổi và
nhận chứng thư tha tội, trong đó có những lời khuyên phải cải tà qui chánh.
Người sau cùng tiến đến Cây đèn ân xá Phục sinh là một phụ nữ trong
sắc phục sám hối. Trong số các tín hữu tò mò đứng xem có cả ông chồng, tay cầm
tờ đơn tố cáo tội bà vợ và xin hoàng đế đừng khoan hồng đối với bà. Trong nhà
thờ im lặng như tờ. Người đàn bà đưa tay lên chạm đến Cây đèn ân xá Phục sinh,
bà lớn tiếng thú tội: "Tôi đã phạm tội ngoại tình với tất cả những người
đàn ông nào tôi ưa thích. Tôi không xứng đáng được khoan hồng.” Nói xong, bà
thổi Cây đèn ân xá Phục sinh tắt ngấm. Rồi bà nhắm mắt nói về đứa con mà bà đã
có với một sinh viên, sau cùng bà kết luận: "Tội tôi thì quá lớn không
đáng được tha thứ.” Bà mở mắt ra. Thì ô kìa! Cây đèn ân xá Phục sinh đã lại
cháy sáng từ bao giờ. Chồng bà đứng gần đó đã dùng tờ đơn tố cáo bà, đốt trở
lại Cây đèn ân xá Phục sinh mà chính bà đã thổi tắt. Thấy thế, hoàng đế nghiêm
mặt hỏi: "Ngươi là ai mà dám tự tiện thắp Cây đèn ân xá Phục sinh?"
Ông ta thưa: "Tâu hoàng đế, hạ thần là chồng của phụ nữ này. Với tờ đơn tố
cáo tôi tự tay mình viết, hạ thần đốt bỏ nó trên ánh nến ân xá Phục sinh để lấy
lại ánh sáng cho Cây đèn ân xá Phục sinh đã tắt.” Nghe vậy hoàng đế nghiêng
mình trước người chồng và nói: "Ngươi đã hành động rất đúng, theo mẫu
gương của Chúa Giêsu Kitô.”
Không kết án, không vào hùa kết tội người khác, rút đơn tố cáo, bỏ
hòn đá xuống đất. Mỗi người hãy nhìn sâu vào trong tâm lòng mình để nhận ra các
tội lỗi, lầm lẫn thiếu sót của mình trong cuộc sống. Thống hối ăn năn và cải
thiện, đó là sứ điệp mà Giáo Hội trao gởi chúng ta qua các bài đọc hôm nay.
Người đàn bà bị bắt quả tang đang lúc phạm tội ngoại tình như kể
trong Phúc Âm theo thánh Gioan, là một ví dụ chứng minh cho chúng ta thấy cung
cách hành xử và lòng nhan từ của Chúa Giêsu đối với những người có tội. Chiếu
theo luật Do Thái, như ghi trong sách Lêvi chương 20 câu 10 và sách Đệ Nhị Luật
chương 22 câu 22: "Phụ nữ có chồng bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại
tình phải bị ném đá cho chết cùng với người đàn ông đang phạm tội ngoại tình
với bà.” Đây là cách thức người xưa khử trừ cuộc sống hoang dâm khỏi cộng đoàn.
Theo bài Phúc Âm, các biệt phái và những luật sĩ chỉ dẫn đến cho Chúa Giêsu
người đàn bà mà thôi. Trong thâm tâm, họ muốn kết tội hai người: người đàn bà
bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và Chúa Giêsu, mà họ đang tìm mọi dịp để
lên án.
Tuy nhiên, cung cách hành xử của Chúa Giêsu theo cái lôgíc của
Thiên Chúa, không theo tâm địa hẹp hòi gian ác và giả hình của con người, lại
cho thấy, Thiên Chúa luôn mở ra cho người tội lỗi một lối thoát, lối thoát của
cuộc đời hoán cải. Qua cách hành xử của Thiên Chúa đối với người tội lỗi là còn
nước còn tát, nghĩa là luôn cống hiến ơn tha thứ và ơn cứu độ cho họ. Không ai
biết Chúa Giêsu đã viết trên cát điều gì hay Ngài đang cần phải qui chiếu theo
một thứ luật lệ khác: luật lệ của tình yêu thương tha thứ. Chúa Giêsu không
chối bỏ những cái nặng nề và những hệ lụy do cuộc ái tình trong cuộc sống con
người. Nhưng Ngài muốn ném cho người phạm tội một sợi dây của lòng trông cậy.
Bởi vì đối với Thiên Chúa, quá khứ tội lỗi của con người không quan trọng, điều
quan trọng là nỗ lực tìm lại sự trong trắng, thơ ngây, vô tội trong tâm hồn từ
giây phút này trở lên. Nói cách khác, trước mặt Thiên Chúa điều quan trọng duy
nhất là ý chí hoán cải tâm lòng và cách mạng cuộc sống của chúng ta.
Kiểu cách giải quyết vấn đề của Chúa là một tiếng sét cách mạng
quật ngã mọi người hiện diện. Theo sách Đệ Nhị Luật 17,7: "Những ai đã bắt
được quả tang người phạm tội ngoại tình, nghĩa là đã chứng kiến tận mắt, thì
hãy ném viên đá đầu tiên khai mào cuộc xử kẻ có tội.” Nhưng đây Chúa Giêsu nói:
"Ai không có tội, hãy ném đá trước đi", mà có ai trong gia đình nhân
loại là người vô tội đâu? Bởi vì ai trong chúng ta cũng có tội cả. Và phạm tội
mỗi ngày, cho nên càng nhiều tuổi thì lại càng phạm tội nhiều. Đủ thứ tội và đủ
cỡ, đủ cách: tội lớn, tội nhỏ, tội kín, tội hở. Tâm lòng và thân xác chúng ta
rỗ chằng rỗ chịt, và mọi thứ vi trùng tội lớp dưới đội lớp trên, lớp trên đè
lớp dưới.
Say giây phút im lặng làm choáng váng mặt mày, mọi người tố cáo
người đàn bà ngoại tình bắt đầu bỏ rơi viên đá xuống đất và rút lui có trật tự,
già trước trẻ sau. Được phép dạy phải sửa chữa tội lỗi, nhưng mỗi một người
phải bắt đầu từ chính mình trước. Nếu Chúa Giêsu đã mở ra cho người đàn bà
ngoại tình con đường mới của cuộc sống hoán cải thánh thiện: "Tôi cũng
không kết án chị. Hãy ra về và đừng phạm tội nữa.” Thì Ngài cũng chỉ cho tất cả
mọi người đã hăng hái tố cáo và đòi ném đá xử tử chị ta một con đường mới, con
đường của lòng khiêm tốn, từ nay biết nhận mình là người có tội.
Hãy cảnh giác với lương tâm mình để tìm thấy cái mặt lọ lem của
mình, để nhìn thấy tâm hồn đen đủi, xấu xa của mình. Hãy cầm lấy cục đá, không
phải để ném người khác mà là để vạch lên ngực, lên tim của mình cho chảy máu ăn
năn sám hối, rồi bỏ nó xuống đất. Phải làm điều đó một cách công khai trước mặt
mọi người. Nói cách khác, lời nói và cách giải quyết vấn đề của Chúa Giêsu đã
khiến cho mọi thứ mặt nạ che giấu gương mặt tâm hồn bệnh hoạn, phong cùi của
mỗi người hiện diện rơi xuống đất cùng với viên đá trong tay họ. Chúa Giêsu
muốn dạy cho chúng ta biết rằng, chỉ khi nào chúng ta ý thức được tội lỗi yếu
hèn của chính mình, chúng ta mới có thể bắt đầu sống trong sạch, vì không còn
phải đeo mặt nạ, để đóng kịch, để bênh vực vai trò của chúng ta để khỏi mất mặt
nữa. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta hãy biết có một cái nhìn mới để hiểu rằng,
một tâm hồn dầu có tội lỗi và xấu xa đến đâu đi nữa, cũng vẫn còn một góc nhỏ
xíu tinh tuyền, sẵn sàng rộng mở cho những người biết thương mến họ, và con
đường duy nhất giúp tiến vào đó là con đường của lòng kính trọng, cảm thông, chấp
nhận và yêu thương.
Đó là phương thế duy nhất giúp con người biến đổi từ bên trong, để
bắt đầu một cuộc xuất hành mới ra khỏi tình trạng sống tội lỗi và tiến bước
trên con đường công chính, thánh thiện. Cuộc xuất hành mới ấy cũng được tiên
tri Isaia nói đến trong chương 43, tình yêu thương mà Thiên Chúa dành để cho
dân Israel là tình yêu thương giải phóng khỏi kiếp nô lệ, tôi đòi, đày ải, buồn
thương.
Trong lịch sử cứu độ, nước và sa mạc có ý nghĩa đặc biệt. Nước biểu
hiệu cho chướng ngại cản bước xuất hành của dân Do Thái, biểu tượng cho mọi sức
mạnh chống đối với Thiên Chúa và với con người. Còn sa mạc khô cằn không cây
cối, không nước uống, biểu tượng cho sự chết. Nhưng cũng như xưa kia trong lần
xuất hành thứ nhất khỏi Ai Cập, Thiên Chúa dùng bàn tay uy quyền của Ngài dẹp
nước Biển Đỏ thế nào, thì giờ đây trong lần xuất hành thứ hai khỏi Babylon,
Ngài cùng giơ tay dũng mạnh loại bỏ sa mạc như vậy. Nói cách khác, tiên tri
Isaia muốn khẳng định với dân Israel rằng, các biến cố lịch sử cho thấy Thiên
Chúa chiến thắng mọi chướng ngại, mọi biển sâu, mọi sa mạc mà loài người đã tạo
ra với cuộc sống tội lỗi của mình. Nhưng trong lịch sử cứu rỗi, tình yêu thương
nhân thứ và chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với con người khi tạo dựng lên
loài người sẽ chiến thắng sự dữ và tội lỗi.
Chương trình cứu độ đó Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của từng
người trong chúng ta, như thánh Phaolô cho thấy trong thư gởi tín hữu
Philipphê, nhắc lại ơn đời đời mà Chúa Giêsu Kitô Phụcsinh đã trao ban cho
thánh nhân trong cuộc gặp gỡ trên đường đến thành Đamas xưa kia. Thánh Phaolô
nhấn mạnh rằng: Lòng tin mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta phải giúp chúng ta
sống theo một tâm thức mới, với một cái nhìn mới. Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng
của Ngài phải trở thành trung tâm điểm và là điểm qui chiếu duy nhất, hướng dẫn
kiểu cách sống và hành xử của chúng ta. Tâm thức mới ấy phát xuất từ cuộc cách
mạng mà lòng tin vào Chúa Giêsu khơi dậy trong tâm lòng chúng ta, nó giúp chúng
ta đảo lộn bậc thang giá trị cuộc sống và biết đánh giá mọi sự dưới ánh sáng
Tin Mừng mà thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta noi gương Ngài. Cố gắng chạy,
nghĩa là sống tâm thức mới ấy trong tươi vui, không nghi ngờ tình yêu của Chúa
Giêsu và lời Ngài, không hối hận vì đã từ bỏ cuộc sống và kiểu cách suy tư cũ,
không chấp nhận dàn xếp lắt léo với sự dữ và đi ngược lại giáo huấn Tin Mừng
của Chúa.
15. Phiên tòa của Lòng Thương xót
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Ông Nietzche, một triết gia vô thần đã từng ngạo mạn tuyên bố:
“Thiên Chúa đã chết rồi.” Trong xã hội hiện nay, nhiều người ngay cả những kẻ
mang danh Kitô hữu cũng đang dần khai tử Thiên Chúa bằng chính cuộc sống vô
thần trong thực hành của họ. Chính lối sống mang sắc thái duy vật như thế sẽ
làm mất đi cảm thức về tội lỗi. Nhiều bạn trẻ buông mình vào một lối sống hưởng
thụ, sơ cứng lương tâm và đang dần đào thải Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình.
Ông Nietzche còn khuyên lớp thanh niên:“ Các bạn đừng tin có tội lỗi, các bạn
hãy mạnh dạn tống khứ ý niệm tội lỗi ra khỏi đầu óc của các bạn.”
Nhưng chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp trọng tâm mà các bài đọc trong
phụng vụ hôm nay gợi nhắc để nhớ rằng tất cả chúng ta đều là tội nhân. Hãy can
đảm nhìn thẳng vào nội tâm của lòng mình để khám phá ra biết bao những bẩn thỉu
và xấu xa mà chúng ta không thể nào che giấu khi đến trình diện trước mặt Thiên
Chúa. Chúng ta đừng vội vã kết án người này người nọ, giống như đám đông vây
quanh người phụ nữ. Chúa nói với họ, đồng thời Chúa cũng đang nói với chúng ta
hôm nay: “Ai trong các ông vô tội, cứ việc ném đá chị ấy đi.”
Phiên tòa thứ nhất: Xét xử người đàn bà tội lỗi.
Người phụ nữ này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Không
biết chị ta phạm tội cách cố ý hay chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc phải bán trôn nuôi
miệng. Thánh Luca không quan tâm đến điều đó. Thánh ký chỉ mô tả lại phiên tòa
như một truyền thống theo tập tục Do thái. Một đám đông bao quanh người phụ nữ,
trên tay mỗi người lăm lăm vài cục đá để chờ ném vào tên tội phạm cho hả dạ.
Tình cờ, Chúa Giêsu cũng được mời đến tham dự. Có lẽ các đầu mục Do Thái đã mời
Chúa đến để thử xem Ngài xử trí ra sao. Họ đặt ra một tình huống rất khó xử.
Nếu Chúa Giêsu hành xử theo luật, thì có khác gì họ. Còn nếu không, thì Chúa
lại không tôn trọng luật lệ của tiền nhân, thứ luật mà người Pharisiêu rất
trọng thị và tuân giữ tỉ mẩn. Nhưng, Chúa Giêsu hoàn toàn thinh lặng. Ngài
không nói một lời và lặng lẽ cúi xuống viết trên đất. Dường như động thái của
Chúa nhằm nhắc nhở mọi người, hãy nhớ thân phận bụi đất và đầy tội lỗi nơi
mình, đừng kết án kẻ khác. Cuối cùng, khi mọi người từ già đến trẻ tuần tự
‘biến’ một cách có trật tự, Chúa mới nhẹ nhàng nói với chị ta: “ Tôi không kết
án chị đâu, hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa.”
Phiên tòa thứ 2: Tòa án của Philatô
Phiên tòa mà Thánh Luca thuật lại hôm nay khởi dẫn chúng ta đến với
phiên tòa thứ 2: tòa án của Philatô. Trong phiên tòa thứ nhất, Chúa được mời
thủ vai chánh án, còn nơi phiên tòa thứ 2, Chúa đứng trước vành móng ngựa như
một tên tội đồ. Ở phiên tòa đầu tiên, phạm nhân bị bắt quả tang đang phạm tội
với nhân chứng vật chứng rõ ràng. Còn nơi phiên tòa sau, Chúa bị điệu đến như
một can phạm, cho dù Ngài hoàn toàn vô tội. Trong cả 2 phiên tòa Chúa đều im
lặng tuyệt đối. Sự thinh lặng mà Chúa biểu tỏ là một loại hình ngôn ngữ phong
phú nhất diễn bày lòng thương xót vô hạn đối với các tội nhân. Đồng thời, đó
cũng là sự im lặng trong vâng phục sâu thẳm để Thánh ý Chúa Cha được nên trọn.
“Ngài hiền lành như một con chiên bị đem đi xén lông mà không kêu ca mở miệng”
(Is 53,7). Con chiên vô tội ấy gánh lấy tội lỗi của cả trần gian và đã bị phân
thây, hầu khai mở kỷ nguyên ơn cứu độ. Cả 2 phiên tòa này hoàn toàn tương phản
nhau, nhưng có một mẫu số chung. Đó là những phiên tòa bày tỏ lòng thương xót
vô bờ của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi, là chính chúng ta.
Phiên tòa thứ 3: Tòa cáo giải.
Đây là phiên tòa do chính Đức Giêsu thiết định. Ngài đã tham dự
phiên tòa thứ nhất để nói với đám đông: “Ai trong các ông vô tội cứ việc ném đá
đi.” Ngài đã bị xét xử cách oan ức trong phiên tòa thứ 2 để đồng phận với con
người tội lỗi và mở toang một chân trời mới, đem lại ơn công chính hóa và sự
giải án tuyên công cho những tội nhân. Ơn cứu độ ấy được diễn bày cách cụ thể
nơi phiên tòa thứ 3 là chính tòa giải tội. Đây là phương thức tuyệt hảo để tái
diễn lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong phiên tòa này, chúng ta được mời đến
như những phạm nhân, còn chính Chúa Giêsu sẽ đóng vai thẩm phán để xét xử. Phán
quyết cuối cùng trong phiên tòa này luôn là sự tha bổng, tha một cách tuyệt đối
và vô điều kiện. Việc đền tội được đưa ra không phải là một hình thức đái tội
lập công do công sức của con người, nhưng chính là tâm tình hoan vui và cảm tạ
vì chúng ta đã được tha thứ. Không phải chúng ta đọc một vài kinh chiếu lệ để
‘đền tội’ theo ý niệm thông thường, nhưng đúng hơn chúng ta dâng lên Thiên Chúa
những tâm tình tạ ơn vì tội lỗi chúng ta được xóa sạch do lòng yêu thương và
tha thứ vô điều kiện của Ngài.
Nhiều người trong chúng ta từng tham dự các phiên tòa ngoài xã hội.
Có những tội rất nặng, nhưng con người dễ luồn lách dựa vào kẽ hở của luật
pháp. Hoặc có không ít các vị quan tòa bẩn thỉu đã nhận ăn hối lộ trắng trợn để
giảm án hoặc tha bổng cho phạm nhân. Nhưng, cả 3 phiên tòa chúng ta vừa nêu
trên không hề có những trò mánh khóe hay bịp bợm giống như vậy. Nơi các phiên
tòa ấy đều có sự hiện diện của Đức Giêsu. Dung mạo của Ngài lúc nào cũng phản
chiếu lòng thương xót của Chúa Cha. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải nhìn
ra thân phận tội lỗi xấu xa nơi mình và tín thác tuyệt đối vào tình yêu tha thứ
của Thiên Chúa. Chúng ta đừng vội kết án người khác giống như đám người Do Thái
đang toan tính ném đá chị phụ nữ cho đến chết. Chúng ta cũng đừng hèn hạ và nhu
nhược như Philatô, đã kết án một con người hoàn toàn vô tội chỉ vì sợ đám đông.
Chúng ta vẫn thường đeo nơi mình 2 cái bị, một cái phía trước đựng những lỗi
lầm của người khác và cái bị phía sau chất đầy tội lỗi to đùng của chính mình.
Chúng ta cứ thích bới tìm nơi cái bị trước mặt để bới móc tha nhân và ít khi
chịu ngoái cổ lại phía sau để lục soát những tội lỗi tầy đình của chính chúng
ta. Chúng ta nhớ lại lời nhắc nhở của Thánh Giacôbê tông đồ: “Chỉ có một Đấng
ra lề luật vàxét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn bạn là ai
mà dám xét đoán tha nhân (Gia 4,12).
Kết luận.
Mỗi lần tham dự thánh lễ, việc đầu tiên mà Giáo hội mời gọi mọi người
là hãy biểu tỏ tâm thức sám hối. Chúng ta vẫn đấm ngực thình thịch và đọc thật
to: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Nhưng, nhiều khi vừa bước
chân ra khỏi nhà thờ chúng ta lại vội ‘đấm nhầm’ qua ngực người khác, bằng việc
chỉ trích, nói hành nói xấu và kết án anh em. Trong mùa chay, chúng ta hãymạnh
dạn lục soát lương tâm, bới tìm những rác rưởi và bẩn thỉu nơi nội tâm của cõi
lòng. Có khiêm tốn tín thác tuyệt đối vào Chúa, chúng ta mới hưởng được Lòng
Thương xót và ơn tha thứ nơi Ngài.
16. Suy niệm của Radio Veritas Asia
THIÊN CHÚA BÊNH VỰC NGƯỜI YẾU ĐUỐI VÀ PHÂN TRẦN SỰ BẤT CÔNG
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Theo luật người Do Thái như được trình bày trong sách Lêvi 2,10 thì
bất cứ ai phạm tội ngoại tình với một người phụ nữ đã có chồng và bất cứ ai
phạm tội ngoại tình với vợ của người khác, thì cả người đàn bà ngoại tình và
người đàn ông đó đều bị tử hình. Tuy nhiên về sau trong chiều hướng kỳ thị phụ
nữ, người ta bóp méo luật pháp và chỉ ném đá trước người đàn bà ngoại tình, còn
người nam ngoại tình thì không bị hình phạt nào cả hoặc chỉ bị phạt một số tiền
tượng trưng.
Cử chỉ của Chúa Giêsu trong trường hợp Phúc Âm trên đây gọi là cách
mạng đối với tâm thức xã hội và luật pháp thời đó. Ngài bênh vực người yếu và
phân trần sự bất công của người phụ nữ phải chịu, cũng như thái độ giả hình của
những kẻ muốn trừng phạt người phụ nữ tội lỗi. Trong chiều hướng đó, đoạn Phúc
Âm này vẫn giữ được tính cách đặc biệt thời sự ngày nay.
Cũng vì thế, trong Tông thư "Mullieris dignitatem" (Về
phẩm giá người phụ nữ), công bố nhân dịp năm Thánh Mẫu năm 1988, Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã dành chương V để chú giải về đoạn Phúc Âm này. Sau khi nhắc
đến thái độ kỳ thị nữ giới như một hậu quả của tội nguyên tổ, Đức Thánh Cha ghi
nhận rằng, theo tường thuật Phúc Âm, Chúa Giêsu đã khơi dậy nơi tâm hồn của
những kẻ muốn ném đá người phụ nữ ngoại tình, ý thức về chính tội lỗi của họ.
Qua đó Chúa Giêsu cho thấy Ngài muốn đánh mạnh vào lương tâm và các hành động
của con người, đồng thời dường như Ngài muốn nói với những người tố cáo rằng:
Phụ nữ này với tất cả tội lỗi của nàng, đã chẳng cho thấy những vi phạm của
chính các ông, những bất công nam giới và những lạm dụng của các ông hay sao?
Đức Thánh Cha viết: "Đây là một sự thật có giá trị cho tất cả mọi người.
Câu chuyện mà Phúc Âm theo thánh Gioan đã kể lại: người đàn bị bỏ một mình, bị
phơi bày trước dư luận quần chúng với tội lỗi của nàng. Nhưng sau tội lỗi của
riêng nàng, còn có người đàn ông tội lỗi nữa đồng chịu trách nhiệm về tội lỗi
đó. Vậy mà tội lỗi của người đàn ông thì không lôi kéo chú ý. Được trôi qua
trong im lặng như thế, người đàn ông không có trách nhiệm gì về tội lỗi ngoại
tình ấy. Đôi khi người đàn ông còn nhắm mắt trước tội lỗi của chính mình và đã
trở thành người tố cáo người khác như Phúc Âm kể lại. Có biết bao lần người nữ
đã phải trả giá cho tội lỗi mình như thế và phải đền tội một mình, mặc dầu tội
cả hai người phạm chung. Biết bao nhiêu lần người phụ nữ bị bỏ rơi với bào thai
trong bụng, vì người cha của thai nhi không muốn chấp nhận trách nhiệm làm cha
của mình. Và bên cạnh nhiều bà mẹ độc thân trong xã hội ngày nay, chúng ta còn
phải nhớ tới số phận phụ nữ bị trục xuất bào thai của mình rất nhiều, khi vì
những áp lực khác nhau kể cả áp lực của người đàn ông tội lỗi tác giả bào thai
đó. Dư luận quần chúng ngày nay tìm nhiều cách để xóa bỏ cách thức xấu xa của
cuộc phá thai đó, nhưng nhiều khi lương tâm người phụ nữ không thể quên rằng
mình đã tước đoạt sự sống của đứa con mình.”
Trong phần kế tiếp, Đức Thánh Cha nhấn mạnh sự bình đẳng của nam
giới và nữ giới, theo ý định nguyên thủy của Thiên Chúa, khi tạo dựng loài
người và Ngài kết luận rằng: "Mọi người nam phải nhìn nhận người nữ như
một người chị em của mình và không bao giờ được coi người nữ như đối tượng cho
mình thỏa mãn và khai thác hoặc như đối tượng của tội ngoại tình trong tâm hồn
của mình hay qua hành động bên ngoài.”
17. Dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Cách đây khá lâu, tình cờ tôi đã đọc được một mẩu tin từ hãng tin
quốc tế AFP phổ biến một sự việc xảy ra bên Trung Quốc. Và hãng tin quốc tế này
lấy tin từ tờ nhật báo Trung Quốc, nói rằng chính phủ mới ra lệnh tử hình cho
một người cha vì đã can tội giết đứa con gái của mình mới ba tuổi. Và lý do, vì
ông ta muốn có con trai.
Theo luật của Nhà Nước Trung Quốc được thiết lập từ năm 1978, thì
mỗi gia đình chỉ được phép có một đứa con mà thôi. Vì thế người cha này là một
công chức của nhà nước làm việc trong ngành lâm sản, đã giết đứa con gái của
mình mới lên ba tuổi để hy vọng sau đó có thể có được một đứa con trai. Việc
làm sát nhân này đã bị tòa án Nhà Nước kết án tử hình vào tháng 11 năm 1988, và
hôm mùng 10 tháng 3 năm 1989 thì bản án được thi hành.
Đọc qua bản tin vừa kể, tôi không khỏi bồi hồi xúc động và thấy đây
là một thảm trạng gia đình có thể xảy ra bất cứ nơi nào khác trên thế giới này.
Thử hỏi ai là người có trách nhiệm trong thảm trạng này? Dĩ nhiên người cha đã
vô tâm giết chết đứa con gái mới lên ba. Nhưng thử hỏi, còn ai khác có trách
nhiệm khiến cho người cha đã nhẫn tâm hành động như vậy không? Những kẻ có
trách nhiệm ca tụng xã hội cho phép phá thai, phải chăng họ không đáng tội chết
hơn người cha đã giết đứa con gái của mình mới lên ba tuổi hay sao? Tại sao họ
lên án những kẻ khác mà quên lên án chính mình? Phải chăng đây là một thái độ
sống giả hình. Thái độ sống giả hình của thời đại mới chúng ta hôm nay không
khác gì với thái độ giả hình của những người biệt phái vào thời Chúa Giêsu.
Phúc Âm hôm nay kể lại cho chúng ta: những người biệt phái có quyền
thế trong dân Do Thái, họ là những kẻ nắm giữ luật lệ hay đặt thêm những luật
lệ cho dân Do Thái, đã gắt gao lên án một người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại
tình và muốn Chúa Giêsu cũng lên án theo. Điểm trớ trêu là chính những người
biệt phái này cũng là những kẻ tội lỗi, nhưng họ không kết án chính mình trước
mà đi kết án kẻ khác.
Thái độ của Chúa Giêsu mở ra một viễn tượng mới đó là sự tha thứ.
Thiên Chúa tha thứ cho con người tội lỗi nhưng đồng thời cũng muốn cho con
người tội lỗi đừng lạm dụng lòng nhân từ của Ngài, nhưng hãy dốc quyết từ bỏ
tội lỗi, canh tân đời sống: "Ta không kết án con.” Đó là lời Chúa Giêsu
nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình. "Nhưng từ nay đừng phạm tội
nữa.” Mỗi người Kitô chúng ta, đồ đệ của Chúa Giêsu đều ý thức về thân phận yếu
đuối tội lỗi của mình, dốc quyết canh tân đời sống và noi gương Chúa mà tha thứ
cho những lầm lỗi của anh chị em, như chính Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy xét
lại thái độ sống của mình đối với anh chị em xung quanh, đừng kết án anh chị em
nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ anh chị em trở về với Chúa. Hơn nữa mỗi người
Kitô chúng ta cần được mời gọi cầu nguyện, cầu nguyện cho người tội lỗi được ơn
ăn năn trở lại.
Các vị thánh trong mọi thời đại đã thực hiện điều này. Cầu nguyện
cho chính mình và cầu nguyện cho anh chị em xung quanh được ơn ăn năn trở lại,
đừng làm phiền lòng Chúa, đừng phạm tội nữa. Cầu nguyện với những hy sinh, cầu
nguyện với những đánh tội, hãm mình.
Và trong bài đọc thứ hai hôm nay mà chúng ta vừa nghe qua, trích
thơ của thánh Phaolô cũng đề ra cho chúng ta một bí quyết, có thể nói được là
bổ túc cho những gì chúng ta mới vừa nói, đó là sống kết hiệp với Chúa Giêsu
Kitô, và kể từ nay ngài không nhìn về quá khứ tội lỗi của ngài cũng như của
những kẻ khác nhưng hãy nhìn tới tương lai. "Chính tôi chưa tin rằng tôi
đã chiếm được Ngài. Nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳng đằng sau, quên đi
quá khứ tội lỗi của mình mà hướng về phía trước hướng về tương lai. Tôi cứ nhắm
đích đuổi theo để được đoạt giải ơn kêu gọi của Thiên Chúa đã ban cho từ trời
cao trong Đức Giâsu.” Đó cũng là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta, quên
đi quá khứ tội lỗi của mình, quên đi quá khứ tội lỗi của anh chị em xung quanh.
Để rồi cố gắng tiến lên mãi đạt đến lý tưởng mà Chúa đề ra cho mỗi người chúng
ta và sống kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô. "Vì Chúa tôi đành chịu thua thiệt
mà coi mọi sự như phân bón để được lợi Đức Kitô và được ở trong Người.”
Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng ta được luôn luôn sống kết hiệp
với Chúa, và từ nay không nhìn về quá khứ của mình nữa nhưng nhìn đến tương
lai, để có những dốc quyết mới canh tân đời sống của mình, từ bỏ những tội lỗi,
để giữ vững niềm tin mà chúng ta đã lãnh nhận.
18. Hãy về và đừng phạm tội nữa – R. Veritas
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
"Tin Mừng sự sống.” Đó là tựa đề một thông
điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được ký ban hành ngày 25 tháng 3 năm
1995.
Như chính Đức Thánh Cha đã giải thích, đây là một bài suy niệm của
ngài về sự sống. Đứng trước nền văn hóa chết chóc đang lan tràn trên thế giới
ngày nay, bên cạnh những tiến bộ vượt bực về khoa học kỹ thuật và ý thức mỗi
ngày một gia tăng về nhân quyền, về bình đẳng, về liên đới huynh đệ... Nhân
loại ngày nay lại đang đứng trước một đe dọa khủng khiếp nhất, đó là đe dọa của
sự tự hủy. Mối đe dọa ấy có lẽ không đến từ chiến tranh, từ khoa học, vũ khí
hạt nhân mà chính là từ sự đánh mất ý thức, về sự thánh thiêng của sự sống con
người.
Một cách cụ thể chúng ta hãy nghĩ đến nạn phá thai và làm cho chết
một cách êm dịu đang lan tràn trong thế giới ngày nay. Hai hành động giết người
này đã được luật pháp của không biết bao nhiêu quốc gia nhìn nhận và hợp thức
hóa. Cái mâu thuẫn lớn nhất của nhân loại ngày nay chính là, trong khi mạng
sống của thú vật càng ngày càng được đề cao thì sự sống của những thai nhi và
những người vô phương tự vệ lại càng ngày càng bị khinh rẻ. Điều khủng khiếp
nhất chính là những hành động tội ác ấy lại được hợp thức hóa. Hành động xúc
phạm đến mạng sống con người được đưa vào pháp luật. Từ nay nhân danh luật pháp
do chính mình làm ra, con người tự cho mình có quyền sinh sát trên người khác.
Con người dựa vào luật pháp do chính mình làm ra để chối bỏ lẫn nhau, đó là
thảm trạng của nhân loại ngày nay.
"Tin Mừng sự sống.” Chọn lấy đề tài này cho
thông điệp của ngài, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hẳn muốn ban cho con người
thời đại Tin Mừng của chính Chúa Giêsu. Tin Mừng mà Chúa Giêsu mang lại cho
nhân loại là Tin Mừng của sự sống, Tin Mừng ấy được cụ thể hóa qua sự tiếp cận
thiết thân của Thiên Chúa làm người, với các trẻ thơ, với những người tàn tật
bệnh hoạn, với những cô gái điếm, với những người thu thuế tội lỗi, với những
người bị xã hội đẩy ra bên lề. Tin Mừng mà Giáo Hội muốn cho chúng ta lắng nghe
hôm nay là một trong những trang cảm động nhất của Tin Mừng sự sống ấy.
Đối với thái độ đầy sát khí của đám đông nhất là của các luật sĩ và
biệt phái, Chúa Giêsu đáp lại bằng thái độ của thinh lặng, cảm thông và tha
thứ. Đám đông các luật sĩ và biệt phái nhân danh luật pháp để xử lý người đàn
bà bị bắt quả tang phạm tôi ngoại tình, còn Chúa Giêsu lại kêu gọi tình thương.
Đám đông các luật sĩ và biệt phái đặt mình vào ghế thẩm phán để xét xử người
đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu lại đặt chính họ vào hàng bị cáo. Đám đông các
luật sĩ và biệt phái xây dựng quan hệ giữa người với người trên luật pháp, còn
Chúa Giêsu thì nói với họ rằng, tương quan với tha nhân sẽ được xây dựng trên
sự cảm thông, lòng tha thứ, tình yêu thương. Và để có thể xây dựng được mối
quan hệ yêu thương ấy, thì trước tiên con người phải cảm nhận được chính tình
yêu của Thiên Chúa.
Những giây phút thinh lặng khi Chúa Giêsu cúi mình viết trên cát là
lúc để cho mỗi người trong cái đám đông hung hãn ấy nhìn sâu vào tận đáy thẳm
tâm hồn của mình. Ở đó con người sẽ nhận ra thân phận tội lỗi xấu xa của mình
và đồng thời cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa.
Đám đông đã từ từ kéo nhau về sau khi đã nhìn sâu vào trong tâm hồn
tội lỗi yếu hèn của mình. Họ ra về chắc chắn với một ý thức mới, không phải ý
thức về sức mạnh của luật pháp do con người làm ra, mà về chính thân phận tội
lỗi của mình. Ít nhất đó cũng là bước đầu của sự sám hối. Riêng người đàn bà
cũng ra về, nhưng ra về với lời vỗ về yêu thương, tha thứ và cổ vũ của Chúa
Giêsu: "Con hãy về và đừng phạm tội nữa.” Đó cũng là lời vỗ về mà Chúa
Giêsu đang nói với mỗi người chúng ta. Đó là Tin Mừng của sự sống.
Người đàn bà đang đứng bên bờ vực thẳm của chết chóc và thất vọng,
đã được Chúa Giêsu kéo lên và ban cho một sức sống mới, một niềm hy vọng mới.
"Con hãy về và đừng phạm tội nữa.” Lời Tin Mừng sự sống này cần phải được chúng
ta cảm nhận như một lời sai đi, cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa. Chúng
ta được sai đi để loan báo, làm chứng và chia sẻ tình yêu ấy với mọi người.
Chúa đã ban cho chúng ta một cơ may để bắt đầu lại, chúng ta cũng được mời gọi
để cảm thông, để tha thứ không ngừng và mang lại một cơ may mới cho người khác.
Có sống như thế, chúng ta mới thật sự góp phần vào việc kiến tạo nền văn minh
của tình thương, một nền văn minh không phải chỉ dựa vào khoa học kỹ thuật hay
luật pháp của con người, mà được xây dựng trên tình yêu và lòng tha thứ.
19. Bắt đầu lại cuộc sống mới trong ân sủng
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta hãy dứt khoát giở qua trang lịch
sử đời mình, quên đi những ngày đã qua của tội lỗi, của âu sầu, của đau khổ,
của bất hạnh. Bắt đầu lại cuộc sống mới trong ân sủng, trong tình yêu của Chúa,
thể hiện qua đời sống vui tươi và an bình.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia loan báo
cho dân Chúa thời lưu đày ở Babylon sắp chấm dứt. Ngài nhắc lại cho họ thấy
trong quá khứ, Chúa đã thương họ, đã cứu họ ra khỏi Ai Cập bằng cuộc vượt qua
Biển Đỏ lạ lùng. Dầu hành động uy hùng đó đã xảy ra, nhưng Chúa phán: "Các
ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng và đừng để ý tới việc thời xa xưa nữa. Đây Ta sẽ làm
những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện.” Những cái mới đó là mở đường
trong hoang địa, đồng hoang khô cằn trở thành vùng đất phì nhiêu mầu mỡ, có
đường đi lại tấp nập, có sông thấm nhuần tươi mát. Và với tư cách là tiên tri,
Isaia cũng loan báo tất cả những sự cứu thoát kia vẫn chưa lạ lùng bằng sự cứu
thoát khỏi làm nô lệ tội lỗi, trở thành con cái Chúa.
Vậy hãy quên đi quá khứ vì Chúa đang làm những việc mới lạ phi
thường, không biến cố, không sự kiện nào so sánh được. Từ cõi lòng tội lỗi chai
đá, khô khan của con người, ơn Chúa như dòng sông tươi mát tình yêu, Chúa mở
lối đi vào để xâm nhập, để hoán cải. Còn gì lạ lùng bằng và bỡ ngỡ bằng những
việc kỳ diệu đó của Thiên Chúa, đến nỗi con người chỉ còn biết thốt lên với
thánh vịnh 125 dùng làm đáp ca: "Chúa đã đối xử đại lượng với tôi, nên tôi
mừng rỡ hân hoan.”
Nơi bài đọc thứ hai, thánh Phaolô tâm sự
cùng các tín hữu thành Philipphê rằng: Từ khi biết được Chúa Giêsu Kitô người
coi mọi sự ở đời này không còn giá trị đích thực gì cả, nhưng giá trị đích thực
của đời sống chính là làm sao được ở trong Chúa Kitô và sinh lợi ích cho đời
sống ân sủng. Thánh Phaolô còn dạy chân lý đó một cách thật rõ ràng và cụ thể.
Đó là dầu những ngày còn sống trên trần gian chúng ta đã sống trong Chúa, nhưng
không phải là đã đạt đến mục đích đuổi theo để chiếm lấy, và ngài so sánh công
việc tiến đến cùng Thiên Chúa đó như một cuộc chạy đua nước rút. Đừng bao giờ
nhìn lại phía sau, hãy quên đi từng khoảng đường bước chân mình đang bỏ lại,
chỉ biết hướng về phía trước mắt, đăm đăm nhìn về mục đích, vận dụng cả sức lực
từng bắp thịt, từng hơi thở để băng mình tiến tới, để đạt được mục đích Chúa
hứa ban từ trời cao. Dưới nét họa của Phaolô, chúng ta thấy mỗi tín hữu là một
lực sĩ đang tham dự cuộc chạy đua, nhưng khác ở điểm là phần thưởng không phải
chỉ dành riêng cho người đến trước mà cho tất cả những người trung thành bền
chí chạy theo đến cùng. Đến trước đến sau không thành vấn đề, miễn đừng bỏ,
cũng đừng thất vọng ngã lòng là được, là chắc chắn rồi sẽ đến nơi. Tóm lại
thánh Phaolô dặn: Có được đức tin là chúng ta dang chạy đúng đường. Muốn đến
nơi đừng bận tâm đến dĩ vảng, hãy hướng mắt về tương lai nhắm đến mục đích và
kiên tâm tiến bước.
Trong bài Phúc Âm, ý tưởng từ bỏ quên đi
dĩ vãng đau buồn, tội lỗi bắt đầu lại cuộc sống mới được chỉ dạy thật một cách
rõ ràng với câu Chúa Giêsu nói với người đàn bà phạm tội ngoại tình bị dân
chúng định ném đá. "Ta không kết tội chị, vậy hãy về và từ nay đừng phạm
tội nữa.” Thật là một sự sống lại trong đời sống thứ hai của người đàn bà tội lỗi
đó. Không phải sống lại vì những người muốn ném đá bà còn có lương tri là nhìn
nhận mình là kẻ tội lỗi không dám cầm viên đá để ném vào đầu bà, nhưng sống lại
vì sự tha thứ của Đấng Cứu Thế và lời dặn: "Từ nay đừng phạm tội nữa.”
Chắc chắn người đàn bà đó sẽ không phạm tội nữa, sẽ ăn năn sám hối không phải
vì được tha chết, nhưng vì được chính Đấng Cứu Thế tha tội "Ta tha tội cho
chị, vậy chị hãy về bình an và từ nay nhớ đừng phạm tội nữa.” Dĩ vảng đau buồn
tối tăm tội lỗi kia ra sao? Đừng nhìn lại nữa, đừng bận tâm nữa, đừng lo âu
nữa. Từ nay hãy sống đời sống mới trong ân sủng, trong tình yêu, trong an bình,
trong hạnh phúc, trong niềm vui Nước Trời. Tất cả những ân lành đó chỉ những ai
dứt khoát được với dĩ vảng tội lỗi, trở về sống với Chúa mới cảm nghiệm được.
Hạnh phúc thiên đàng không phải chỉ được hưởng ở đời sau nhưng ngay cả ở đời
này khi con người biết sống và nếm thử. "Lạy Chúa, Chúa là ánh sáng thế
gian, xin cho con bước theo Chúa để được hưởng ánh sáng ban sự sống.”
Để có việc làm cụ thể trong tuần, tôi sẽ chuẩn bị tâm hồn mừng lễ
Phục sinh bằng cách tưởng tượng rằng: đời tôi là một trang giấy, những ngày qua
tôi đã tự tay viết đủ thứ vào đó. Hôm nay nhìn lại thấy đủ thứ lem luốc bẩn
thỉu, tôi hãy giở qua trang và một trang giấy mới trắng tinh sạch sẽ đang trải
ra trước mắt tôi. Tôi hãy ngước nhìn lên Chúa, xin Người cầm tay tôi, soi sáng
cho tôi, chỉ dẫn cho tôi để viết lên đó những dòng vàng son tươi đẹp làm vui
lòng Chúa, làm hài lòng những người cùng chung sống với tôi.
20. Nhìn vào nội tâm để nhận biết tội mình
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Người ta thường nhìn ra ngoại giới nhưng rất ít khi nhìn vào nội
giới, nhìn vào nội tâm mình. Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào.
Khuôn mặt duy nhất trên đời chúng ta không bao giờ có thể nhìn thấy trực diện,
đó là khuôn mặt của chính chúng ta. Thế nên một nốt ruồi nhỏ trên mặt người
khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên trán mình, ta không thấy được. Lỗi
lầm nho nhỏ của người khác thì mình thấy rõ ràng, còn lỗi lầm to lớn nặng nề
của mình thì lại không hay. Thế rồi, chúng ta dành nhiều thì giờ để phê phán
người khác mà chẳng bao giờ biết phê phán bản thân.
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng
thế. Họ nhìn thấy rõ ràng tội lỗi của người phụ nữ phạm tội ngoại tình, nhưng
không nhìn thấy tội lỗi của mình. Họ bận tâm đến việc kết án người khác, nhưng
không quan tâm đến việc sửa chữa lầm lỗi của mình. Chính vì thế, Chúa Giêsu
muốn nhân cơ hội để dạy cho họ một bài học tâm linh cần thiết là hãy nhận ra
tội lỗi của mình trước, hãy trách phạt mình trước rồi lo trách phạt người khác
sau. Cổ nhân cũng thường dạy ta như vậy: "Tiên trách kỷ hậu trách
nhân."
Khi các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại
tình đến với Chúa Giêsu, họ hối thúc Chúa Giêsu ra ngay một phán quyết định
đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Thế nhưng Chúa Giêsu không vội phán xét
ai. Trước hết, Ngài muốn cho những người tưởng mình vô tội hãy xét lại chính
mình.
Thế nên, đứng trước những con người đang lăm le kết án người phụ nữ
và mưu toan ám hại mình, Chúa Giêsu lặng thinh không nói một lời.
Ngài thinh lặng và tạo nên bầu khí vắng lặng để cho mọi người tự
vấn lương tâm. Ngài muốn kéo dài sự thinh lặng bằng cách ngồi xuống viết, viết
trên đất.
Khi người ta cứ hỏi mãi, phá tan sự im lặng cần thiết cho sự rà
soát tâm hồn, Chúa Giêsu lên tiếng kêu mời họ hãy xét lại mình: "Ai trong
các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!.”
Rồi Ngài ngồi xuống trong thinh lặng. Ngài cứ viết, viết trên đất để
tạo bầu khí thinh lặng cho mọi người hồi tâm.
Nhìn lại nội tâm mình trong thinh lặng, những con người hăm hở kết
tội người khác giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi mình, có khi còn nhiều hơn, còn
nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là các viên đá trên tay lần
lượt rơi xuống, họ xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giêsu và người
thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người
có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm kết án người khác cũng
tội lỗi như mình!
Nhìn lại mình để thấy được tội lỗi của mình là điều hết sức quan
trọng để cải thiện bản thân.
Nếu tôi biết được là mình hôi hám, tôi sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi
không nhận ra mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi tôi vẫn là người hôi hám.
Nếu tôi thấy được mặt mình dơ bẩn, tôi sẽ lau rửa tức khắc không
chần chừ. Còn nếu không thì chẳng có gì thay đổi.
Nếu tôi thấy được sự xấu xa của nội tâm mình, sự bê bối của đời
sống mình, tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.
Sự chuyển hóa bản thân, cải thiện cuộc sống chỉ thực sự bắt đầu lúc
ta tự nhận biết tội lỗi mình.
Nhìn lại mình, nhìn vào mình để thấy được những tội lỗi của mình là
khởi điểm, là bước đầu cho việc cải thiện đời sống. Không có bước nầy, chẳng
thể có bước thứ hai, chẳng có gì được cải thiện.
Lạy Chúa Giêsu, nhìn lại mình để rà soát chính mình, để thấy được
tội mình là điều rất khó mà cũng là việc không mấy ai muốn làm. Xin Chúa thương
giúp đỡ chúng con.
Xin cho Lời Chúa trở nên gương soi cho chúng con, giúp chúng con
nhận ra những vết nhơ trong tâm hồn chúng con, những nết xấu trong cuộc đời
chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, xưa kia, Chúa Giêsu đã giúp đám người Do Thái nhận
ra tội lỗi của họ thì nay xin Ngài cũng giúp chúng con nhận ra lầm lỗi của mình
để sửa đổi ăn năn.
21. Ném đá – Lm. Anphong Trần Đức Phương
Bài Đọc I (Isaia 43:16-21) đem lại niềm hy vọng trong Mùa Chay:
“Hãy quên đi những việc đã qua và đừng quan tâm đến các việc xa xưa nữa…Thiên
Chúa hứa sẽ đổi mới mọi sự, khai mở đường đi và cho dân Chúa có nước uống…”
Trong Bài Đọc II (Philiphê 3:8-14) Thánh Phaolô cũng nói Ngài quên
hẳn những gì ở đàng sau và chỉ hướng về phía trước “để chạy đến đích cuối cùng
là phần thưởng Nước Trời, trong sự hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Giêsu và
sự Phục Sinh của Người.”
Bài Phúc Âm (Gioan 8:1-11) ghi lại một câu chuyện rất cảm động về
người phụ nữ bị kết án là phạm tội ngoại tình đáng phải ném đá cho đến chết
theo luật Môise ( Thứ Luật 22:23-24); nhưng chẳng ai dám ném đá chị, vì Chúa
bảo “ai hoàn toàn sạch tội hãy ném đá chị đó đi!” Mọi người đều sợ hãi bỏ đi,
vì nhận thấy chính mình cũng đầy tội lỗi. Đứng lại ném đá, sợ Chúa Giêsu là
“Đấng thấu suốt mọi sự, đã có thể làm cho người chết sống lại, người bệnh được
chữa khỏi,” sẽ vạch tội họ ra chăng. Chưa kể còn có những người có đời sống xấu
xa mà ai cũng biết! Chúa Giêsu đã tha thứ cho người phạm tội ngoại tình và bảo:
“Cha cũng không kết án con. Con hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Trong Chúa Nhật trước, chúng ta đã có dịp đọc và suy niệm về Dụ
Ngôn rất cảm động “Người Cha Nhân Hậu” (Luca 15:1-3,11-32). Chúa Giêsu kể dụ
ngôn đó để trả lời những nguời Biệt Phái và Luật Sĩ cứ tự cho mình là người
công chính, giữ luật đầy đủ và phàn nàn là Chúa Giêsu cứ “đón tiếp những người
tội lỗi và còn ngồi ăn uống với họ…”
Qua Dụ Ngôn “Người Cha Nhân Hậu” và thái độ tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình
trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa luôn
yêu thương và mời gọi những người trót “sa ngã phạm tội vì yếu đuối” hãy ăn năm
sám hối, chừa bỏ đời sống tội lỗi, cải thiện đời mình , để trở nên những con
người mà Chúa “đã dựng nên theo hình ảnh Chúa” (Khởi Nguyên 1:27). Vì thế, Chúa
Giêsu đã nhấn mạnh “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà để kêu
gọi người tội lỗi. (Matthêu 9:13).
Thực sự, Chúa Giêsu không bao che tỗi lỗi. “Tội vẫn là tội,” vẫn
đáng bị kết án (Matthêu 5:27-30); người đàn bà ngoại tình hôm nay, thực sự vẫn
là một tội nhân . Nhưng Chúa Giêsu đã phải chịu khổ nhục và chết trên Thánh Gía
để chuộc tội chúng ta. Ngài luôn muốn cho tội nhân có một cơ hội để “làm lại
cuộc đời!” Ngay trước khi chết trên Thánh Gía Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho
chính những kẻ đã lên án bất công, hành hạ và giết Ngài:“ Xin Cha tha tội cho
họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Luca 23:34).
Tội luôn là điều xấu phải xa tránh. Nhưng trên trần gian này, ai
dám tự vỗ ngực mình và tuyên bố “ Tôi hoàn toàn sạch tội” để mà lên án người
khác, để mà “ném đá người khác!”
Mùa Chay là “thời gian rất thuận tiện” (2 Côrintô 6:2) ) để chúng
ta ăn năn sám hối lỗi lầm, chừa bỏ tội lỗi. Chúng ta hãy lo ăn năn sám hối và
“đấm ngực mình, đừng lo đấm ngực người khác” để xin Chúa thứ tha tội lỗi và
giúp chúng ta chừa bỏ tội lỗi.
Xin cùng cầu nguyện chung cho nhau để trong những ngày trọng đại
này, chúng ta biết hy sinh dành nhiều thời giờ hơn để cầu nguyện, dự các cuộc
Tĩnh Tâm Mùa Chay, hy sinh hãm mình thắng vượt những đam mê tội lỗi, thanh tẩy
tâm hồn qua Bí Tích Hòa Giải (Xưng Tội) và dành dụm tiền bạc giúp người nghèo
khó trên thế giới. Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu cùng Chúa
cho chúng ta được chết đi với tội lỗi, cải thiện đời sống để được cùng sống lại
thật với Chúa trong đời sống trong sạch, hòa hợp yêu thương và nhiệt thành
phụng sụ Chúa và mọi người trong cuộc sống hàng ngày.
22. Đừng kết án anh em
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Nếu có lúc nào đó chúng ta sa ngã vì yếu đuối, vì lầm lỡ, chúng ta
cần điều gì nơi tha nhân? Cần trừng trị cho thích đáng hay cần khoan dung tha
thứ? Cần những lời kết án cay nghiệt hay cần những lời cảm thông nâng đỡ? Có lẽ
ai cũng cần được khoan dung để có cơ hội làm lại cuộc đời. Có lẽ ai cũng cần sự
cảm thông để tìm lại sự bình an tâm hồn. Thế nhưng, giòng đời thường không đối
xử tốt với chúng ta như vậy. Người đời thường dễ kết án hơn tha thứ. Người đời
thường tìm cách xa lánh kẻ phạm tội hơn gần gũi để cảm thông. Có biết bao nhiêu
lý do để người ta luận tội và kết án lẫn nhau, và chắc chắn cũng có rất nhiều
lý do để họ xa tránh kẻ phạm tội để khỏi lụy vào thân.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một quang cảnh rất đời thường.
Có một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chị đã phạm phải trọng
tội mà theo luật Do Thái phải chịu ném đá tử hình. Các luật sĩ và biệt phái đã
dẫn người phụ nữ này đến trước mặt Chúa Giêsu. Mỗi người một hòn đá. Mỗi người
một khuôn mặt mang đầy sát khí hôi tanh. Họ sẵn sàng trị tội một người để làm
gương cho nhiều người. Tất cả đang sẵn sàng một án tử hình cho người phụ nữ
thấp cổ bé miệng, lại cô thân cô thế. Kẻ đã từng tòng phạm với chị cũng đã được
tẩu thoát. Vì phúc âm nói rằng: "người ta dẫn tới trước mặt Chúa một người
phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.” Ngoại tình phải là hai người. Quả
tang tức là bắt tại chỗ. Thế mà chỉ có một mình chị bị dẫn ra trước đám đông,
còn kẻ đồng phạm với chị đâu? Có thể anh ta là người có thế lực và giầu có nên
đã mua chuộc các hương chức trong làng? Có thể anh ta là loại người "vừa
ăn cướp vừa la làng" chăng? Và như thế, có thể anh ta cũng cùng đứng chung
với nhóm người đang chờ đợi ném đá người phụ nữ tội lỗi này. Chị cúi đầu chẳng
dám nhìn ai. Chị biết tội mình đã làm nên chẳng thốt lên lời van xin. Chị đã
sẵn sàng cho một cái chết dành cho một người phụ nữ lăng loàn.
Nhưng phúc đức cho chị, những kẻ chủ mưu ném đá chị lại muốn
"mượn gió bẻ măng.” Họ muốn dùng một mũi tên mà "bắn chết hai con
nhạn.” Họ đòi Chúa Giêsu làm trọng tài để nhân cơ hội này, hãm hại chính Chúa
Giêsu. Nếu Chúa bảo tha, là chối bỏ luật của tiền nhân. Nếu Ngài bảo phải chết,
lại vi phạm quyền xét xử của Đế quốc Rôma đang cai trị nước Do Thái.
Chúa Giêsu đã không kết án, nhưng cũng không dung túng sự xấu mà
chị ta đã phạm. Ngài đã im lặng lấy tay viết trên cát. Có nhiều người cho rằng
Ngài đã viết lên những tội lỗi của con người đã từng phạm. Ngài đã viết trên
cát chứ không ghi khắc vào bia đá hay giấy vở. Cát sẽ bị xoá nhoà. Tội lỗi con
người luôn được Chúa khoan dung tha thứ, vì "nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi
được, nhưng Chúa luôn rộng lượng thứ tha.” Có nhiều ngừơi cũng cho rằng: Ngài
muốn trì hoãn thời gian, để mỗi người tự vấn lương tâm. Có cần kết liễu một đời
người mà thanh danh đã bị bôi nhọ bởi hành vi lăng loàn của mình hay không?
Ngài muốn có một khoảng thời gian tĩnh lặng để những cảm xúc: hỉ, nộ, ái, ố
được lắng dịu hầu có thể đối xử công bằng với nhau hơn. Cuối cùng, Ngài đã nói
với đám đông rằng: "ai trong các ông trong sạch, thì hãy ném đá người này
đi.” Sự trong sạch không chỉ là không làm những điều xấu, mà còn đòi hỏi sự
trong sạch trong tâm hồn chưa một lần ước muốn phạm tội. Sự trong sạch không
chỉ là không phạm tội mà còn là không làm gương mù gương xấu cho người khác.
Tất cả đều lặng lẽ bỏ cuộc. Từ người lớn tới người nhỏ, xem ra không ai là
người trong sạch đủ để có thể thi hành một lề thói dã man này. Họ đã bỏ đi hết.
Một quang cảnh thanh bình đã đến với chị. Chân trời mới đã mở ra với chị. Chúa
Giêsu đã mở ra cho chị một con đường sống, bằng một giọng nói dịu dàng nhưng
chứa đựng một nguyên tắc sống cho cả cuôc đời của chị: "Ta cũng không kết
án chị phải chết đâu! chị hãy về bình an và từ nay đừng phạm tội nữa.” Một làn
gió của yêu thương đã xoá bỏ quá khứ tội lỗi của chị. Làn gió của yêu thương đã
mang lại cho chị một niềm hy vọng những điều tốt đẹp sẽ đến trong cuộc đời của
chị.
Kính thưa, quý Ông Bà Anh Chị Em, Có bao giờ chúng ta đã từng nói
điều đó với anh em chúng ta chưa? Có bao giờ chúng ta đã đối xử khoan hồng với
nhau chưa? Có bao giờ chúng ta đã can đảm xoá bỏ đi những thành kiến xấu về
người anh em hay chưa? Nếu chưa, chúng ta hãy tập để đối xử tốt với nhau hơn.
Nhiều người vẫn biết rằng "nhân vô thập toàn", thế nhưng vẫn để
"bụng" và cố chấp về những lầm lỗi của anh em. Nhiều người vẫn đầy
rẫy khuyết điểm nhưng lại dễ dàng la rầy, kết án anh em. Nhiều người đã quên
cái đà trong mắt mình, mà lại chỉ thích tìm kiếm bới móc, bêu xấu, những cái
rác của tha nhân.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: "đừng kết án để khỏi bị
kết án.” Hãy sống độ lượng với nhau để xây dựng một thế giới thanh bình. Và hãy
nhớ rằng: "điều gì anh em không muốn người khác làm cho mình thì cũng đừng
làm cho người ta như vậy.” Amen.
23. Làm chứng cho lòng từ bi vô biên
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Vụ người đàn bà ngoại tình cho thấy thành kiến dễ đưa đến thái độ
đê tiện phi nhân tới mức nào –mà tư tưởng và tâm hồn Đức Kitô thì quảng đại vô
cùng. Người Do Thái đưa ra một thảm kịch con người để định lừa Chúa. Họ không
chú trọng đến thảm trạng người phụ nữ tội lỗi bị bắt quả tang, mà chỉ cốt làm
Chúa lúng túng. Họ tự phụ là hiểu luật, họ nghĩ thế nào cũng loại được một kẻ
gây trở ngại. Chúa biết rõ dã tâm họ, Người đem một vụ thuộc tầm mức nhỏ nhen
của họ đặt thành vấn đề lương tâm. Chúa bắt buộc mỗi người phải đối diện với
Thiên Chúa, chỉ có thể bỏ chạy, hoặc ăn năn trở lại. Từ một vụ tai tiếng nhỏ
đáng buồn trong đó các địch thù của Chúa, thưởng thức một sự khoái trá xấu xa,
Chúa Giêsu đổi thành một “cánh hoa đơn” tuyệt vời (nói theo kiểu Phan sinh) của lòng từ bi của Chúa. Người đàn bà ngoại tình đã
gặp đại lượng khoan dung và có được dịp may phục hồi nhân phẩm. Bọn người ưa
bắt bẻ, thích lên án, thấy vậy rút lui. Cho hay, chỉ hạng người tội lỗi nào
trốn tránh lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, hạng đó mới không được tha thứ.
Chúng ta có thể suy đoán mấy nét về tôn nhan Đức Giêsu.
1) Trước hết, sự điềm tĩnh của Chúa. Người
không do dự dù trong giây phút, khi trả lời kẻ vấn nạn. Lên án người phụ nữ
ngoại tình là trái với chủ thuyết của Chúa, mà tha là trái với Lề Luật. Thế mà,
như theo một phản ứng tự nhiên, Đức Giêsu trả lời không lưỡng lự, để làm chứng
cho lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Hơn nữa, Chúa cho thấy con mắt Thiên
Chúa xuyên qua dáng vẻ bên ngoài, thấu tới thâm tâm người ta. Tính điềm tĩnh
của Người bắt nguồn mạch từ Thiên Chúa. Người nhìn nhân loại và sự việc theo
con mắt Thiên Chúa. Khi nào chúng ta nhìn theo con mắt Thiên Chúa, chúng ta chẳng
cảm thấy sao, dưới một nguồn sáng mới, chúng ta điềm tĩnh lạ lùng nhờ tâm hồn
được thanh thản sáng suốt?
2) Quyền tha tội của Chúa không những không buộc tội người đàn bà
hư hỏng, Đức Giêsu nói thêm: Hãy đi và chớ phạm tội nữa. Hiểu
theo bối cảnh tổng quát Phúc Âm, có nghĩa là Chúa ban cho người đó ơn tha thứ
của Thiên Chúa. Chúa tỏ ra có quyền tha tội, an ủi, khuyến khích, phục hồi nhân
phẩm cho kẻ có tội –và Chúa làm công việc ấy một cách nhân từ, vì Người hiền
lành và khiêm nhượng trong lòng. Tha thứ, nhưng cương quyết bài trừ sự tội.
Chúa nói: chớ phạm tội nữa. Đối xử từ bi với kẻ có tội không phải là nhân
nhượng với sự dữ. Sự dữ trước sau vẫn là sự dữ, phải xua đuổi. Đức Giêsu xét xử
theo đường lối Thiên Chúa, tự cho mình đặc quyền Messia cứu vớt kẻ có tội nhưng
kết án sự tội. Đức Giêsu thân thiết với Chúa Cha nên biết rõ sắp tới giờ Người
đổ máu ra chuộc tội cho nhân loại, để nhân loại được tha thứ. Đàng sau Lời Chúa
nói với người đàn bà tội lỗi, chúng ta đoán thấy Tình yêu từ bi nhân lành nóng
cháy biết chừng nào.
24. Khuất tất trong một vụ án "bất thường"
(Trích trong website của Tổng Giáo Phận Hà Nội)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay, trình thuật vụ án hy hữu
và bất thường. Đó chính là phiên tòa sử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội
ngoại tình.
Các Kinh Sư và Pharisiêu mang đến cho Đức Giêsu để xin Ngài phân
xử. Nếu đọc thoáng qua, chúng ta sẽ thấy họ tôn trọng Đức Giêsu và nhờ Ngài
phán quyết một vụ án mang tính di động này. Thật bất ngờ, Đức Giêsu bỗng dưng
trở thành thẩm phán. Bị cáo là người phụ nữ ngoại tình. Các người tố cáo chính
là Kinh Sư và Pharisiêu.
Phiên tòa bắt đầu với lời tố cáo: "Thưa Thầy, người đàn bà này
bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng
tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" Họ hỏi câu hỏi
đó không phải để chờ Đức Giêsu phán làm sao, mà đúng hơn, họ đã có sẵn bản án
trong tay, bởi vì họ biết rõ luật. Nhưng điều đáng nói ở đây chính là cái tâm
đen tối của họ, họ muốn gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu lên tiếng phán:
"phải ném đá" thì ngay lập tức, Đức Giêsu không phải là một vị Thiên
Chúa từ bi nhân hậu, bao dung với người nghèo và yêu thương người tội lỗi. Tất
cả những gì Đức Giêsu rao giảng đều tự mâu thuẫn nội tại với Ngài. Bởi vì Ngài
đã từng nói hãy tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy
(x.Mt 18,21-22). Hơn thế nữa, Đức Giêsu phạm vào cái tội gọi là "tội khi
quân" phản loạn và chống lại triều đình.
Còn nếu Đức Giêsu nói "không được ném đá", thì ngay lập
tức Đức Giêsu lãnh nhận án tử trong tay. Bởi vì luật Môsê truyền phải ném đá
hạng người phụ nữ ngoại tình này. Những ai đi ngược lại với những điều khoản
trong luật của Môsê thì kể như là vi phạm và phản bội với truyền thống của tiền
nhân. Mặt khác, Đấng đã từng tuyên bố rằng "đến không phải để hủy bỏ lề
luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn"(x.Mt 5,17) không lẽ giờ này
lại phá luật?.
Quả thật họ đã quá nham hiểm, họ đã dùng phương pháp: nhất tiễn
diệt song điêu. Một mũi tên giết hai con chim. Bầu không khí thật ngột ngạt
ngay trong khoảng không chống trải giữa trời. Họ nín lặng chờ vị thẩm phán bất
đắc dĩ tuyên án. Trong thinh lặng, thay vì nói lời tuyên án, Đức Giêsu đã âm
thầm, tế nhị viết trên đất, hành động này theo một số nhà chú giải thì cho rằng
Đức Giêsu viết tội của những người tố cáo chị phụ nữ trên đó. Sau đó Đức Giêsu
lên tiếng: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước
đi.” Một câu nói tưởng chừng như êm đềm, trôi vào khoảng không vô tư của những
người đang hung hăng tố cáo và thực hiện dã tâm...Không! Đức Giêsu đã lật ngược
ván cờ. Bị cáo lại chính là những Kinh Sư và Pharisiêu, thẩm phám không phải là
một ai hay một nhóm người hiện hữu nào, mà là một vị thẩm phán vượt lên trên
thời gian và không gian, một vị thẩm phán có thể thấu suốt những những điều mà
chỉ có họ biết họ. Vị thẩm phán đó là "Lương Tâm.” Chính vị thẩm phán
"Lương Tâm" này đã lên tiếng kết tội của họ trong thinh lặng cõi
lòng, đã xoáy sâu vào tận nội căn tâm hồn để vạch trần tội ác của họ. Quá bất
ngờ, họ bị chưng hửng, không dám đứng đó, nên đã lần lượt ra về, bắt đầu từ
những người lớn tuổi.
Khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại mình Đức Giêsu và chị phụ nữ.
Bấy giờ, Đức Giêsu mới hỏi: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị
sao?" và giờ đã điểm, Đức Giêsu tuyên án: "còn tôi, tôi không lên án
chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!.” Lời tuyên án của Đức
Giêsu đã phá tan màn đen của một vụ án Khuất tất và những bất thường của nó.
Đây là một trong những câu nói tuyệt đẹp và rất nhân văn. Nhưng xét
về chiều sâu đức tin, thì đây còn là một lời nói được phát xuất ra từ cung lòng
Thiên Chúa, thể hiện một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu từ bi và hay thương
xót. Sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi. Một vị Thiên Chúa luôn đứng về
phía người nghèo, bị bỏ rơi và thấp cổ bé họng để yêu thương, nâng đỡ và phục
hồi nhân phẩm cho họ. Quả thật, Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan thật sâu xa để
cho mỗi người chúng ta suy niệm: "Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người,
vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài
người, để họ còn ăn năn hối cải." (Kn 11,23).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng
ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội
lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để
làm bàn đạp cho ta tiến lên.
Nhưng sâu xa hơn cả, Lời Chúa hôm nay muốn đi sâu vào tận nội tâm
mỗi người, để mời gọi đương sự hãy tự cật vấn lương tâm của chính mình, nhằm
thấy được những lỗ hổng tốt lành, thánh thiện để lấp cho đầy những bác ái, yêu
thương và bình an, lo sám hối và quay trở về với Chúa và với nhau. Đồng thời
phải nhận ra những ứ đầy tội lỗi của tham lam, ích kỷ, ghen tỵ nơi chính mình,
để có được sự cảm thông thay vì kết án, để yêu thương thay hận thù.
Lạy Chúa, xin cho chúng con mặc lấy tâm tư, hành động của Chúa. Xin
cho chúng con biết gớm ghét tội, nhưng không ghét những người có tội. Ước gì,
trong những ngày này, mỗi người chúng con biết sám hối chân thành, biết nhìn
vào trong sâu thẳm đời sống nội tâm của mình hầu thấy được khuôn mặt thật của
mình, để trở về với Chúa và với nhau. Xin tha thứ những lỗi lầm mà thời niên
thiếu chúng con vươn lên trong dại khờ. Amen.
25. Người phụ nữ ngoại tình – McCarthy
Suy Niệm 1. KHÔNG AI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải
ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy
nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với viên cai ngục
rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh ta chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng
khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và
làm cho nó mọc lên trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật
đáng tiệc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh, và sẵn lòng
bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi
hành án, và giải tù nhân trở lại trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một
cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: “Thưa bệ hạ, hạt giống
này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ
thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó
được.” Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói
“Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ?.”
Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng “Khi còn trẻ, tôi đã giữ một
vài thứ không phải là của tôi.” Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ
kho tàng của nhà vua và nói “Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ?.” Nhưng
người canh giữ kho tàng cũng từ chối “Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền
bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi.”
Và cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại một mình nhà vua. Quay sang nhà
vua, người ăn trộm nói “Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này.” Nhưng nhà
vua nói “Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của
cha ta.”
Sau đó, người ăn trộm nói “Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền
lực, và không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài
có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ
vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.”
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn,
nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của
nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không ai phải
chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.
Bối cảnh của Tin Mừng có thể có một kết thúc rất tồi tệ. Nếu Đức
Giêsu thuận theo ý của các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ nữ phụ nữ
ngoại tình sẽ phải chết một cách bi thảm. Ai sẽ được ích lợi từ cái chết này?
Thay vào đó, nhờ sự hiểu biết và lòng thương xót mà Đức Giêsu đã bày tỏ cho
người phụ nữ này, mà chị ta có thể bỏ lại tội lỗi của mình phía sau, và có một
bước khởi đầu mới.
Sự kiện Đức Giêsu không kết án chị ta không có nghĩa là Người coi
thường tội ngoại tình. Người nhận ra rằng chị ta đã bị kết án rồi. Điều mà bây
giờ chị ta cần đến đó là lòng thương xót. Cách thức Người đối xử với người phụ
nữ này đã làm cho chị ta muốn đổi mới cuộc đời của mình. Điều mà Thiên Chúa
mong muốn không phải là cái chết của tội nhân, nhưng Người mong muốn rằng người
đó sẽ cải tạo và được sống. Thiên Chúa thấu hiểu sự yếu đuối của chúng ta, và
trong lòng thương xót của Người, Người tha thứ những tội lỗi của chúng ta.
Người không chỉ giúp chúng ta bỏ lại những tội lỗi của chúng ta ở phía sau,
nhưng còn rút ra được điều tốt đẹp từ các tội lỗi đó. Và điều chắc chắn là bởi
vì tất cả chúng ta đều là tội nhân, vì vậy, chúng ta luôn luôn cần đến lòng
thương xót của Thiên Chúa, điều này sẽ làm cho chúng ta biết tự kiềm chế mình,
trong việc ném đá người khác.
Suy Niệm 2. ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA
Không một người nào đáng bị phê phán và kết án cho bằng kẻ tự mạo
nhận là người công chính. Điều gì liên quan đến người khác, thì người đó tạo ra
những tiêu chuẩn thật cao, rất hay đòi hỏi, không chấp nhận lời xin lỗi, không
đặt ra trường hợp ngoại lệ, không khoan dung cho bất cứ một sai lầm nào. Nhưng
đối với những gì liên quan đến bản thân, thì họ lại có thể rất mù quáng và tha
thứ tất cả.
Cũng có thể xảy ra điều trái ngược lại. Không người nào có lòng
thương xót và hiểu biết đối với những người lỡ bị sa ngã, cho bằng người thực
sự thánh thiện. Đây là gương mẫu của các thánh, và đặc biệt là trong cuộc đời
của Đức Giêsu. Chúng ta có một ví dụ tuyệt vời về điều này, trong cách thức
Người đối xử với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Xét về bề mặt, chúng ta chỉ nhận thấy người phụ nữ đó phạm duy nhất
một tội –tội ngoại tình. Nhưng còn có những tội khác nữa, và là tội rất nặng.
Theo các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ nữ này đã phạm
một tội kinh khủng. Họ phơi bày chị ta ra, với nỗi ô nhục đáng khinh bỉ nhất
–nỗi ô nhục trước công chúng. Có người thà tự tử, còn hơn bị đương đầu với nỗi
ô nhục trước công chúng. Họ không hề nhìn đến những cảm xúc
của chị ta, cũng không hề có một chút quan tâm đến chị ta, với tư cách là một
con người. Chị ta chỉ được coi như một con người nào đó, mà họ có thể sử dụng
để đánh bẫy Đức Giêsu. Đối với họ, chị ta giống như một con mồi đối với người
câu cá. Để bắt được Chúa, người câu cá sẵn sàng hy sinh con mồi. Việc sử dụng
người khác theo cách này đúng là một thủ đoạn hèn hạ.
Thế rồi thái độ của họ đối với Đức Giêsu cũng là một tội. Ở đây, họ
là những con người đang theo đuổi một ý đồ đen tối. Họ chỉ có duy nhất một mục
đích –loại trừ Đức Giêsu. Nói cách khác, họ đã giết người trong tư tưởng.
Tuy nhiên, bất chấp cách thức mà cách Kinh sư và người Pharisêu
muốn buộc tội và hạ nhục người phụ nữ đó, và những thái độ giết người mà họ che
giấu đối với chính Người, cách thức Đức Giêsu đối xử với họ vẫn có nét gì đó ân
cần và tế nhị một cách tuyệt vời. Người không hề kết án họ. Người giãi bày với họ, nhưng không tuyên bố điều đó ra trước công
chúng. Thậm chí Người cũng không phê phán họ. Người kêu gọi họ tự nhận xét bản
thân mình. Thay vì trả lời thẳng câu hỏi của họ. Người lại bắt đầu viết trên
mặt đất. Người làm công việc này, để tạo cho họ có thì giờ xem xét lương tâm
của họ.
Có sự trái ngược nhau trong cách cư xử của Đức Giêsu và người
Pharisêu đối với người phụ nữ ngoại tình. Người khước từ việc kết án chị ta.
Người sửa sai chị một cách rất tinh tế. Phương pháp của Người giống như của một
bác sĩ phẫu thuật tài tình: có một sự kết hợp giữa sự lịch thiệp, tinh tế và
nhẹ nhàng trong khi sử dụng con dao mổ. Sứ mạng của Người chuyên về lòng thương
xót và ơn tha thứ, chứ không phải là chuyên phán xét và kết án. Người không đến
nỗi phơi bày những đau khổ của ngài, nhưng là để chữa lành cho họ.
Trong bối cảnh tối tăm, Đức Giêsu đã chiếu toả ra tia sáng của lòng
thương xót. Ở đây, có một bài học tuyệt vời cho chúng ta. Để kết án người khác
thì thật là dễ dàng. Chúng ta phải học hỏi từ gương mẫu không kết án của Đức
Giêsu. Chính hành động kết án người khác lôi kéo theo tội lỗi. Chắc hẳn là
chúng ta vẫn có đủ thời gian để sửa lỗi cho người khác. Nhưng để làm được điều
đó, là cả một nghệ thuật. Công việc này bao gồm đồng thời cả thái độ hoàn toàn
tử tế lẫn chân thành. Nhưng sự chân thành chỉ vì mục đích chân thành mà thôi,
thì lại có thể mang lại tác dụng xấu.
Chúng ta phải nhìn vào chính bản thân mình. Chúng ta phải sẵn lòng
cởi mở tâm hồn mình cho người khác, với cùng một tấm lòng cảm thương, mà chúng
ta mong muốn được đón nhận, nếu chúng ta cũng bị lâm vào hoàn cảnh tương tự như
vậy. Trong cuộc đời, không có gì quan trọng hơn là bày tỏ lòng thương xót đối
với người đồng loại.
“Hãy cứ để cho ai không phạm tội ném hòn đá đầu tiên. Quả thật là
đáng sống để có được câu nói đó” (Oscar Wilde).
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Có một câu chuyện kể về Vua Salômôn. Từ trong Kinh Thánh, chúng ta
được biết rằng ông là một thẩm phán khôn ngoan. Hết năm này sang năm kia, ông
ngồi ở vị trí phán xét dân chúng. Nhưng dường như năm tháng trôi qua, dần dần
ông trở nên khắc nghiệt và vô cảm. Thật vậy, ông đã trở thành một con người cực
kỳ nhẫn tâm và lạnh lùng đối với thần dân. Một ngày nọ, trong khi ông đang ngồi
trên ngai, trước khi bắt đầu một phiên toà xử án, thì chiếc vương miện mà ông
đang đội tụt xuống tới mắt của ông. Ngay tức khắc, ông kéo nó lên, thì đồng
thời nó lại tụt xuống nữa. Điều này diễn ra đến 8 lần. Cuối cùng, ông nói với
chiếc vương miện “Tại sao nhà ngươi cứ rơi xuống tới mắt của ta như vậy?.”
Chiếc vương miện đáp lại “Tôi phải rơi xuống thôi. Chừng nào mà quyền lực mất
đi sự thương xót, thì tôi vẫn còn phải cho ngài thấy được tình trạng đó ra
sao?.” Nói cách khác, đó là sự mù quáng. Vua Salômôn thấu hiểu ngay được sự
thật. Và bằng lòng tin, ông liền quỳ gối cầu xin Thiên Chúa tha thứ. Ngay tức
khắc, chiếc vương miện tự ở yên trên đỉnh đầu của ông.
Khi có điều gì bất ổn, trước hết, bạn hãy nhìn vào thái độ cư xử
của chính mình, để xem xét có thể nguyên nhân nằm ở nơi bản thân bạn. Ngay cả
sự khôn ngoan của Vua Salômôn vẫn có thể biến thành sự mù quáng.
26. Hãy đi, đừng phạm tội nữa.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Các Kinh sư và các, đạo sĩ Do Thái cố tìm một lời tố cáo để hạ uy
tín của Chúa Giêsu; và đây là một sự việc mà họ nghĩ có thể lợi dụng để đưa
Ngài vào ngõ bí. Động lực của họ không phải là lòng tôn thờ Thiên Chúa, tuân
giữ luật ngài, hay ước muốn sống thánh thiện, nhưng chỉ muốn gài bẫy Chúa
Giêsu. Khi có một vấn đề khó khăn liên hệ đến luật pháp xảy ra, theo thói quen,
tự nhiên người ta tìm đến một vị thầy, một vị ra-bi để nhờ giải quyết. Xem Chúa
Giêsu như một ra-bi, các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái đã đem đến Ngài một phụ nữ
bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình.
Theo luật pháp Do Thái, ngoại tình là một trọng tội. Các ra-bi dạy:
“Người Do Thái phải bị xử tử khi phạm tội thờ hình tượng, sát nhân và ngoại
tình.” Ngoại tình là một trong ba tội lớn nhất và phạm nhân phải chịu chết, mặc
dù cách xử tử có thể khác nhau. Kinh Mishnah, bộ luật thành văn của người Do
Thái quy định một phụ nữ đã hứa hôn mà phạm tội ngoại tình thì phải bị xử tử
bằng cách ném đá. Theo quan điểm thuần tuý pháp lý thì các Kinh sư và đạo sĩ Do
Thái hoàn toàn đúng. Người phụ nữ này đáng bị ném đá chết.
Các Kinh sư và đạo sĩ này muốn Chúa Giêsu phải đối đầu với một vấn
đề nan giải: Nếu Chúa Giêsu bảo người đàn bà này phải bị ném đá cho chết sẽ có
hai hậu quả: thứ nhất, Ngài không còn được nổi tiếng là người đầy yêu thương và
nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là người đầy yêu thương và nhân từ, sẽ
chưa bao giờ còn được gọi là bạn thân thiết của tội nhân. Thứ hai, nếu ra lệnh
xử tử, Ngài sẽ đi ngược với luật pháp La mã, vì người Do Thái không có quyền
kết tội tử hình hay xử tử bất cứ một ai. Còn nếu Ngài bảo tha cho người đàn bà
ấy thì Ngài sẽ bị tố cáo là dạy người ta phá bỏ luật pháp Môsê, là chẳng những
dung tha mà còn khuyến khích người ta phạm tội ngoại tình. Đó là cách mà các
Kinh sư và đạo sĩ đã gài bẫy Chúa Giêsu. Nhưng Chúa đã khiến cuộc tấn công này
đổ ngay lên đầu họ. Trước hết Ngài cúi xuống lấy tay viết trên đất. Tại sao
Ngài làm thế? Có thể có bốn lý do:
1. Ngài muốn trì hoãn trong chốc lát để khỏi phải quyết định vội
vàng. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Ngài có thể vừa suy nghĩ, vừa trình vấn
đề lên Thiên Chúa.
2. Có vài cổ bản Kinh Thánh thêm câu: “Như thể Ngài không nghe họ
nói gì.” Có thể Chúa Giêsu cố tình buộc phải lập lại lời tố cáo, để trong khi
nhắc lại, họ nhận thức được sự tàn ác của họ.
3. Trong quyển Ecce Homo, Seeley có một gợi ý rất hay: “Chúa cảm
thấy xấu hổ vô cùng, Ngài không thể nào chịu được cái nhìn của đám đông, của
những người buộc tội, và có lẽ ít hơn hết, của người đàn bà đó. Trong lúc bối
rối và xấu hổ cực độ đó, Ngài cúi xuống dường như giấu mặt đi và bắt đầu viết
trên đất. Rất có thể những cái liếc mắt đầy dục vọng của bọn Kinh sư và đạo sĩ
Do Thái, cái nhìn trừng trợn và tàn bạo của họ, sự tò mò dâm đãng của đám đông,
sự xấu hổ của người đàn bà, tất cả đã kết hợp lại giày vò
tấm lòng vừa đau đớn, vừa thương hại của Chúa Giêsu, cho nên Ngài che giấu đôi
mắt của Ngài.”
4. Nhưng điều gợi ý thú vị hơn hết phát xuất từ một số thủ bản sau
này. Bản Tân Ước tiếng A-mê-ri dịch như sau: “Chính Ngài cúi xuống, lấy ngón
tay viết trên mặt đất để tuyên bố tội lỗi họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ
viết trên đất.” Ý ở đây là Chúa Giêsu đã viết trên mặt đất các tội lỗi của
chính những kẻ đang tố cáo người phụ nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì từ viết
“Katagraphain” được dùng ở đây có nghĩa là viết (một bản cáo trạng) chống lại
một người nào. Có thể Chúa Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người khác phải đối
diện với bản liệt kê các tội lỗi của chính mình.
Dầu vậy các thầy luật sĩ và đạo sĩ vẫn một mực đòi hỏi Chúa Giêsu
phải trả lời, và họ đã được trả lời. Ngài nói đại khái như sau: “Được rồi! Ném
đá đi! Nhưng phải để người nào vô tội ném đá trước!.” Chữ vô tội chẳng những có
một nghĩa là không có tội, mà còn có nghĩa là không có một ước muốn tội lỗi nào
cả. Chúa Giêsu nói rằng: “Phải, các ông có thể ném đá bà ta, nhưng với một điều
kiện là chính các ông phải chưa bao giờ muốn làm như bà này đã làm.” Mọi người
đều im lặng, và những người tố cáo lần lần rút lui.
Chúa Giêsu còn lại một mình với người đàn bà. Thánh Âu tinh đã
viết: “Bây giờ chỉ còn lại một nỗi đau khổ tràn đầy và một tấm lòng thương xót
vĩ đại.” Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: không còn ai buộc tội ngươi sao? Bà
ta đáp: “thưa không.” Ngài phán: “Ta cũng không định tội ngươi. Hãy đi, làm lại
cuộc đời và từ nay đừng phạm tội nữa.”
Đoạn Kinh Thánh này cho chúng ta biết hai điều và Kinh sư và đạo sĩ
Do Thái.
1. Quan niệm của họ về thẩm quyền:
Các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái là những chuyên viên về luật pháp
thời đó. Các vấn đề khó khăn đều được đưa tới cho họ quyết định. Đối với họ,
thẩm quyền là để phê phán, khống chế và kết tội. Họ hoàn toàn không thể thấy
rằng thẩm quyền phải được xây dựng trên tình thương, thông cảm và nhằm mục đích
cải hoá kẻ phạm tội. Họ quan niệm vai trò của họ là có quyền đứng trên mọi
người khác, như những giám thị nghiêm khắc tìm ra từng lầm lỗi, từng hành động
trái pháp luật, và thẳng tay giáng xuống những hình phạt không dung thứ. Họ
chẳng bao giờ thấy họ có nhiệm vụ cứu giúp tội nhân.
Ngày nay vẫn còn nhiều người xem địa vị cầm quyền cho mình quyền
kết án và nhiệm vụ trừng phạt. Họ nghĩ thẩm quyền của họ đã cho phép họ làm
những người bảo vệ chân lý, được huấn luyện để trừng trị tội nhân. Nhưng thẩm
quyền chân chính phải được xây dựng trên sự cảm thông. Khi thấy một tử tù đi
trên đường đến nơi hành quyết George Whitefeld đã thốt ra lời bất hủ này: “Nếu
không nhờ ân sủng của Chúa thì tôi cũng đi đến đó.”
Nhiệm vụ đầu tiên của người cầm quyền là cố tìm động lực thúc đẩy
tội nhân phạm tội, và hoàn cảnh đưa đẩy, lôi cuốn vào tội lỗi. Không ai có
quyền phê phán kẻ khác, trừ phi đã cố gắng tìm hiểu hoàn cảnh của kẻ bị phê
phán. Nhiệm vụ thứ hai của người cầm quyền là phải tìm cách cải hoá người làm
sai. Cầm quyền mà chỉ quan tâm tới việc trừng phạt là sai lầm; cầm quyền mà
khiến kẻ làm sai tuyệt vọng hay ấm ức là thất bại. Nhiệm vụ của người cầm quyền
không phải là để lưu đày hay loại trừ kẻ phạm tội ra khỏi xã hội lành mạnh,
nhưng để khiến tội nhân trở thành người tốt. Người cầm quyền phải giống như
lương y, chỉ có một ước ao duy nhất là cứu giúp người khác.
2. Biến cố này cho thấy cách sống động thái độ thô bạo của họ đối
với dân chúng.
Họ không xem người phụ nữ này là một con người, nhưng như một đồ
vật, một dụng cụ nhờ đó họ có được lý cớ để tố cáo Chúa Giêsu. Họ dùng bà như
một dụng cụ để thực hiện ý đồ riêng của mình, bà chỉ như một con chốt trong một
ván cờ được dùng để tìm cách diệt trừ Chúa Giêsu. Đối với họ, bà không là gì
cả, ngoại trừ là một trường hợp ngoại tình trắng trợn và có thể được dùng như
một dụng cụ để thoả mãn chủ đích của họ. Họ sẵn sàng sử dụng bất cứ phương tiện
nào để đạt cho được mục đích họ mong muốn. Ta thấy tâm tính của con người
thường biểu lộ bằng những phương tiện họ sử dụng để đạt mục
đích.
Biến cố này cho chúng ta biết nhiều về Chúa Giêsu.
1. Nguyên tắc đầu tiên Chúa là chỉ người vô tội mới được quyền đoán
xét lỗi lầm của kẻ khác. Chúa đã phán: “Các ngươi đừng xét đoán ai, để mình
khỏi bị đoán xét” (Mt 7,1). Người đoán xét anh em mình chẳng khác gì kẻ có cả
một cây đà trong mắt mình lại muốn tìm cách lấy cái rác nhỏ trong mắt người
khác (x.Mt 7,3-5). Một trong những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là,
chúng ta đòi hỏi kẻ khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng
đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính
mình đã mắc phạm. Không thể dựa trên kiến thức để đoán xét người khác, vì ai
cũng có tri thức. Phải dựa trên sự thành đạt đạo đức để đoán xét, nhưng không
ai trong chúng ta là người toàn thiện cả. Thực trạng của con người cho thấy chỉ
có một mình Thiên Chúa có quyền đoán xét, lý do hết sức giản dị là, không một
ai lành đủ để đoán xét người khác.
2. Một nguyên tắc khác không kém quan trọng đối với Chúa Giêsu là
khi đối diện với người lỗi lầm, trước tiên phải có lòng thương cảm. Có người
bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là “Thỉnh thoảng chữa lành, thường thường làm bớt
đau đớn, và luôn luôn an ủi.” Khi một bệnh nhân được đưa đến một bác sĩ, thì
một lương y chẳng bao giờ ghê tởm bệnh nhân, cho dù người ấy đang mắc phải
chứng bệnh đáng ghê tởm. Thật ra, sự ghê tởm, nhờm gớm thường khó tránh được,
nhưng nó bị lòng ước muốn trợ giúp, chữa trị lấn át. Khi đối diện với người
phạm lỗi, trước tiên chúng ta không nên có cảm nghĩ: “Đối với hạng người như
vậy mình không nên tiếp tục liên hệ”
nhưng phải nói “mình có thể làm gì để giúp người ấy? Mình có thể làm gì để hoà
giải những hậu quả của lỗi lầm?.” Nói cách đơn giản, ta phải dành cho người
khác sự thương cảm mà chúng ta vẫn mong chờ người khác dành cho, khi chúng ta
lỡ sa vào cùng một hoàn cảnh ấy.
3. Điều quan trọng chúng ta phải thấu triệt là cách Chúa Giêsu đối
xử với phụ nữ này. Từ việc này, chúng ta dễ rút ra bài học hoàn
toàn sai lầm là Chúa Giêsu tha thứ cách nhẹ nhàng, dễ dàng như tội này chẳng có
gì đáng quan tâm. Điều Ngài nói: “Lúc này Ta cũng không định tội ngươi, hãy đi
và đừng phạm tội nữa.” Trong một cách Chúa Giêsu đã không huỷ bỏ việc xét đoán
và nói: “Đừng lo, không sao đâu!.” Điều Ngài làm là hoãn lại lời kết án, Ngài
phán: “Bây giờ Ta chưa xét đoán ngươi. Hãy đi và chứng minh rằng ngươi có thể
sống tốt lành hơn. Ngươi đã phạm tội, hãy đi và đừng tái phạm. Ta sẽ luôn giúp
đỡ ngươi. Đến ngày tận thế Ta sẽ xét lại xem ngươi đã sống như thế nào.” Thái
độ của Chúa Giêsu đến với tội nhân bao giờ cũng bao gồm một số điều sau đây:
a. Một dịp thuận tiện thứ hai.
Chúa ban cơ hội để sửa chữa lỗi lầm, như thể Người đến bảo người
đàn bà ấy rằng: “Ta biết ngươi lộn xộn lắm, nhưng cuộc đời vẫn chưa chấm dứt.
Bây giờ Ta cho ngươi thêm một cơ hội để chuộc lấy mình.” Trong Chúa Giêsu, có
Tin Mừng về một dịp thứ hai, Ngài luôn tha thiết quan tâm đến một người, không
những đã sống như thế nào, mà còn có thể trở nên như thế nào. Ngài không hề bảo
những gì người ta đã làm là không quan trọng. Vi phạm luật pháp và làm người
khác đau khổ luôn luôn là việc hệ trọng. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ mỗi người đều
có một tương lai cũng như đã từng có một quá khứ.
b. Một sự thương cảm.
Điều khác nhau căn bản giữa Chúa Giêsu và nhóm Do Thái là họ muốn
kết tội, còn Chúa Giêsu muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu truyện chúng ta sẽ thấy họ
chỉ muốn ném đá người đàn bà này cho chết, và họ cảm thấy rất thích hợp được
làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết tội, còn Chúa Giêsu vui
sướng khi hành quyền tha thứ. Chúa Giêsu nhìn tội nhân với sự cảm thương phát
xuất từ tình yêu thương, còn các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái nhìn tội nhân với
thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ việc coi mình là thánh thiện.
c. Một niềm tin vào bản tính con người.
Nghĩ cho kỹ chúng ta phải bàng hoàng khi nghe Chúa Giêsu nói với
người đàn bà xấu nết: “Hãy đi, đừng phạm tội nữa.” Điều lạ lùng và phấn khởi là
Chúa Giêsu tin vào con người. Đối diện với một người từng làm ác, Ngài không
bảo “ngươi thật là một kẻ xấu xa, chẳng còn hy vọng gì nữa.” Ngài tin rằng với
sự trợ giúp của Ngài, tội nhân có thể trở thành bậc thánh. Phương pháp của Chúa
Giêsu không phải là tống cho con người, ý thức, mà họ đã có, rằng họ là tội
nhân khốn nạn, nhưng ban cho họ một niềm hứng khởi để khám phá một điều mà
trước đây họ chưa hề trông thấy, đó là toàn năng trở thành thánh nhân.
d. Một hàm ý cảnh cáo.
Tại đây chúng ta đối diện với sự kiện vĩnh cửu, đời đời. Ngày hôm
ấy Chúa Giêsu bắt người đàn bà phải lựa chọn, hoặc trở về đường lối cũ, hoặc
cùng Ngài tiến trên con đường mới. Đây là câu truyện chưa kết thúc, vì mỗi đời
sống chưa kết thúc cho đến khi ra đứng hầu toà trước mặt Thiên Chúa.
27. Tha thứ trong thinh lặng
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình diễn ra khi Chúa
Giêsu bắt đầu bài giảng của Ngài. Thánh Gioan không nói rõ nội dung của bài
giảng của Chúa Giêsu, nhưng khi đặt phiên tòa vào khởi đầu của bài giảng của
Chúa Giêsu, thánh nhân hẳn đã muốn nêu bật một cung cách rất đặc biệt trong sự
giảng dạy của Chúa Giêsu. Khi các biệt phái đưa người đàn bà bị bắt quả tang
phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài. Chúa Giêsu đã
giữ thinh lặng. Ngài không còn nói nữa mà lại cúi xuống lấy ngón tay viết trên
đất. Từ hàng bao thế kỷ qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã nhọc công nghiên
cứu mà vẫn không ra, đối với thánh Gioan, người ghi lại biến cố này, điều quan
trọng không phải là nội dung của những lời Chúa Giêsu đã viết ra mà chính là sự
thinh lặng của Ngài.
Cử chỉ không lời của Chúa Giêsu trong bài
Tin Mừng hôm nay cũng có thể được xem như một bài dụ ngôn bằng hành động mà
Ngài muốn dạy cho dân chúng. Ngài muốn cho dân chúng thấy rằng những gì Ngài
làm còn quan trọng hơn là những lời Ngài nói. Chúa Giêsu đã dạy bằng nhiều dụ
ngôn. Có những dụ ngôn bằng lời nói nhưng cũng có những dụ ngôn bằng hành động.
Khi Ngài đến ngồi đồng bàn với các tội nhân, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho
các môn đệ, đó là những dụ ngôn bằng hành động, qua đó Ngài muốn nói lên tình
yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Chỉ trong thinh lặng, con người mới có thể trở về với cõi lòng và
nghe được tiếng nói của Chúa trong lương tâm. Đây là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn
nói với các biệt phái và đám đông đến nghe Ngài giảng dạy. Người ta ồn ào và
hung hãn bao nhiêu khi lôi người đàn bà ngoại tình tới trước mặt Chúa, thì giờ
đây trong thinh lặng do Ngài gợi lên người ta lại càng nhận ra chính bản thân
tội lỗi của mình hơn. Trước đó, người ta càng mạnh bạo để kết án người khác bao
nhiêu, thì giờ đây người ta lại càng rụt rè xấu hổ bấy nhiêu.
Có thinh lặng con người mới đi sâu vào cõi lòng mình.
Có thinh lặng con người mới nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Có
thinh lặng con người mới có thể tha thứ cho người khác. Có thể đó là bài học mà
đám đông dân chúng đã tiếp thu được trong phiên tòa xử người đàn bà phạm tội
ngoại tình ngày hôm đó.
Mọi người đều rút lui, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Họ rút lui
trong thinh lặng. Có lẽ đây là lần đầu tiên đám đông dân chúng ra về trong
thinh lặng. Họ đã nắm bắt được nội dung của bài giảng ngày hôm đó. Hôm ấy Chúa
Giêsu không chỉ tha thứ và giải cứu cho người đàn bà ngoại tình. Ngài cũng đã
loan báo chính số phận của Ngài, rồi đây Ngài cũng bị điệu ra trước tòa án để
xét xử. Nhưng như Ngài đã cúi xuống và thinh lặng trong phiên tòa xử người đàn
bà ngoại tình, Ngài cũng phải giữ thinh lặng trong suốt phiên tòa của Ngài. Và
tuyệt đỉnh của sự thinh lặng ấy là cử chỉ tha thứ của Ngài khi bị treo trên
thập giá. Ngài đã thể hiện sự tha thứ bằng thinh lặng. Không phải chỉ có ấn
phẩm mới đáng kể, im lặng cũng là nói lên một cách phát biểu, đó là im lặng của
cái chết, im lặng của phẩm cách, im lặng của tĩnh tâm, im lặng của quá trình
tăng trưởng, im lặng của thận trọng và nhất là im lặng của tha thứ.
Ngày nay, có quá nhiều những lời nói suông. Trong nền văn minh tràn
đầy những ấn phẩm và trào ứa thông tin, những thứ tiếng ồn ào phát ra từ các
phương tiện truyền thông, từ lãnh vực thương mại và chính trị. Ngay cả tình yêu
cũng được diễn tả bằng những lời nói suông.
Trong những ngày này, Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng
của cõi lòng và lắng nghe sự thinh lặng của Chúa Giêsu trên thập giá. Từ trên
thập giá Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở về với cõi lòng để nhận ra thân phận
tội lỗi của chúng ta, để nghe được lời tha thứ của Ngài và nhất là để tha thứ
cho người khác.
28. Lòng Chúa khoan dung
Trong kinh Tin kính, chúng ta hằng tuyên xưng: Tôi tin phép tha
tội. Phải chăng đó là một sự tưởng tượng, một giấc mơ, hay một sự thật? Kinh
nghiệm cho thấy: Nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi và
khuyết điểm của mình. Phải chăng chúng ta cứ mãi mãi vùng vẫy trong chốn bùn
nhơ tội lỗi, không có cơ may trỗi dậy để được thanh tẩy?
Đoạn Tin mừng hôm nay đem lại cho chúng ta niềm xác tín: Thiên Chúa
luôn tha thứ cho chúng ta vì Ngài là một người cha nhân từ và giàu lòng thương
xót khoan dung. Mọi tội lỗi của chúng ta sẽ được Ngài xoá
bỏ, nếu chúng ta biết trở về với Ngài.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy khi nói về sự tha thứ tội lỗi, Chúa
Giêsu đã dùng những ngôn từ thật phong phú và những hình ảnh thật cảm động.
Thực vậy, Ngài đã xuống trần gian để làm gì, nếu không phải là để giải phóng
con người khỏi sự trói buộc của tội lỗi.
Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân lành, lên đường tìm kiếm
con chiên bị là mất và khi tìm thấy, liền vác nó lên vai,
đem về nhà, mời bạn hữu đến chia vui với mình. Ngài không phải chỉ nhắm mắt làm
ngơ trước những tội lỗi của chúng ta, mà hơn thế nữa, Ngài còn xoá
bỏ và tha thứ, như lời Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả
thiên đàng vui mừng hơn chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn
năn. Ngài sánh ví mình như người đàn bà đốt đèn tìm kiếm đồng bạc đã bị đánh
rơi và Ngài nhấn mạnh: Không phải những người khoẻ mạnh, mà
là những kẻ đau yếu mới đến thầy thuốc. Ngài không đến để
kêu gọi người công chính, nhưng đến để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn
năn. Ngài sánh ví mình như người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hang đàng, để
khi cậu trở về thì liền tha thứ và mở tiệc ăn mừng.
Ngài không phải chỉ giảng dạy về lòng nhân hậu khoan dung, mà hơn
thế nữa, Ngài còn biểu lộ lòng nhân hậu khoan dung ấy qua những hành động cụ
thể. Ngài đã tha thứ cho Mađalêna, người đàn bà tội lỗi. Ngài đã tha thứ cho
Phêrô, người môn đệ đã chối bỏ Ngài. Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành vào
những giây phút cuối cùng trên thập giá. Và hôm nay, Ngài đã tha thứ cho người
thiếu phụ ngoại tình, mà chiếu theo luật Do Thái, thì sẽ bị ném đá cho chết.
Dựa vào những sự kiện trên, chúng ta có thể vui mừng tuyên xưng:
Tôi tin phép tha tội. Kể từ nay, chúng ta không còn phải mang gánh nặng tội lỗi
trong tâm hồn, nếu chúng ta biết chạy đến nơi toà cáo giải,
bí tích của lòng nhân từ và khoan dung. Vật bí tích giải tội là gì?
Tôi xin thưa, bí tích giải tội trước hết là sự quét tước lau chùi
cho sạch sẽ. Thực vậy, để dọn dẹp một căn phòng, chúng ta thường phải mở cửa,
quét dọn mọi xó góc và lau sạch mọi bụi bẩn. Sau đó, chúng ta kê lại bàn ghế, sắp xếp lại mọi đồ đạc và rồi chúng ta sẽ có được một bầu khí trong lành và ấm cúng. Thánh Bernađô đã coi những giọt
nước mắt của cõi lòng sám hối ăn năn là như một bí tích rửa tội. Chúng ta được
rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi bởi những giọt nước mắt ấy. Và tôi có thể đưa ra
một so sánh: Kẻ chạy trốn tiếng nói lương tâm cũng giống như một người đàn bà
già. Đúng thế, thuở trước khi còn trẻ người ấy thích soi gương để chiêm ngắm
nhan sắc của mình, nhưng từ khi khám phá ra những nếp nhăn trên khuôn mặt,
người ấy đã đập bể tấm gương để không còn nhìn vào đó nữa. Cũng vậy, kẻ có tội
không bao giờ muốn tự vấn lương tâm, không bao giờ muốn nhìn vào tận đáy tâm hồn
mình vì hắn sẽ khám phá ra những vết nhơ của tội lỗi. Hắn không muốn đi xưng
tội, cũng giống như người đàn bà già không muốn nhìn thấy khuôn
mặt mình trong gương.
Ngoài ra, bí tích giải tội còn là một sự thức tỉnh, kéo chúng ta ra
khỏi cơn mộng dữ, giải thoát chúng ta khỏi gánh nặng tội lỗi và bảo đảm cho
chúng ta sự sống ơn sủng. Thực vậy, bởi một người mà tội lỗi đã đột nhập vào
thế gian. Và hậu quả của tội lỗi là sự chết. Sự chết được truyền
thông cho mọi người, bởi vì tất cả chúng ta đều phạm tội. Nếu tội lỗi là
nguồn gốc sinh ra cái chết, thì việc tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta sự sống ân
sủng. Nếu tội lỗi sinh ra lo âu và buồn phiền, thì sự tha thứ sẽ đem lại bình
an và hạnh phúc. Nếu tội lỗi là những con sâu cắn hại lá cây, thì sự tha thứ sẽ
là những giọt sương mai làm cho cây cối xanh tươi.
Sa ngã, vấp phạm là chuyện thường tình của thân phận con người yếu
đuối. Nhưng sám hối ăn năn mới là chuyện đáng kể do lòng nhân từ và thương xót
của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều có thể sa ngã vấp phạm, đó là bi kịch của
đời sống con người. Nhưng tất cả chúng ta cũng đều có thể trỗi
dậy, đó là niềm an ủi của đức tin Kitô giáo. Nếu biết ăn năn sám hối, chúng
ta sẽ không còn phải lo sợ, vì máu Đức Kitô sẽ mạnh hơn mọi thế lực: Nếu chúng
ta xưng thú tội lỗi, thì Thiên Chúa trung thành và công chính sẽ tha thứ cho
chúng ta và xoá bỏ khỏi tâm hồn chúng ta những bồn chồn lo
lắng. Hãy đến quì bên toà cái giải để được Chúa tha thứ.
Tâm hồn chúng ta là một tấm gương phản chiếu hình ảnh Thiên Chúa, đừng làm cho
nó bị lu mờ. Tâm hồn chúng ta là một chiếc bình quí giá, đừng làm cho nó bị vỡ
ra thành từng mảnh. Tâm hồn chúng ta là một cây đàn, đừng làm cho nó trở thành
ngang cung. Tâm hồn chúng ta là một cánh hoa tươi xinh, đừng vùi dập nó trong
đống bùn nhơ. Tâm hồn chúng ta là một ngọn lửa, đừng dập tắt nó.
Đavít đã khóc thương cho tội lỗi của mình và đã được Chúa tha thứ.
Mađalêna đã quỳ gối lấy tóc lau chân Chúa và đã được Chúa
tha thứ. Phêrô đã đấm ngực ăn năn và đã được Chúa tha thứ. Chúng ta cũng vậy,
với tâm tình sám hối, chúng ta hãy chạy đến nơi toà cáo
giải để được Chúa thứ tha, bởi vì Chúa chẳng bao giờ chê bỏ những tấm lòng tan
nát khiêm cung.
29. Lòng thương xót
Trong cuộc đời của mình, chúng ta có khuynh hướng đưa ra một giá
trị cao hơn về nhân đức tốt lành – sự tử tế rõ rệt, thông thường và diễn ra
hằng ngày. Khi nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta cảm thấy tiếc nuối, khi
nhớ đến những hành vi thiếu sự tử tế. Nhưng khi nhớ lại những hành động ân cần
tận tuỵ của mình, thì đó thật là những giây phút đáng yêu.
Sự tử tế chủ yếu là lẽ công bằng đích thực. Đức Giêsu đặc biệt thương cảm đối
với những kẻ mà người ta đưa ra cho Người phán xét. Một ví dụ kinh điển là câu
chuyện nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Câu chuyện này cảnh báo chúng ta chống lại thói quá vội vã trong
việc đưa ra phạm vi luân lý cao. Ai trong chúng ta là người vô tội? Chúng ta
phải học hỏi từ ví dụ của Đức Giêsu. Người kết án tội lỗi của người phụ nữ đó,
nhưng Người từ chối không kết án bản thân chị ta. Không phải là tội lỗi đó
không thành vấn đề đối với Người. Có chứ. Nhưng Người phân biệt giữa tội lỗi và
tội nhân. Người kết án tội lỗi, nhưng lại tha thứ cho tội nhân.
Và động cơ quan trọng nhất trong tất cả hành động này của Người, đó
chính là tấm lòng thương xót. Vấn đề không phải là hào phóng, nhưng là biết
thương xót. Một người thánh thiện,, thì càng ít có khuynh hướng phán xét người
khác. Trong mỗi con người, đều có khuynh hướng muốn tránh né quyền phê phán của
bất cứ người nào khác.
Đức Giêsu từ chối việc phán xét người phụ nữ ngoại tình. Nhưng
Người nói với chị ta “Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!.” Nói cách
khác, Người không hề phủ nhận tội lỗi của chị ta. Người bảo chị ta hãy thừa
nhận và chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình. Thật là dễ dàng hơn nhiều, khi người
ta chối tội, biện hộ, hoặc đổ tội cho người khác. Khi người ta biết trực diện
với tội lỗi và giải quyết nó, thì không còn gì để đổ tội, hối tiếc, ân hận,
hoặc thất vọng nữa.
Lòng thương xót và sự tha thứ của Đức Giêsu mang lại sự sống. Người
phụ nữ đó đã được tự do ra đi – tự do để thay đổi thái độ sống của mình, và lấy
lại được lòng tự trọng. Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng con người có khả năng
thay đổi, nếu được tạo cho cơ hội.
Sứ vụ của Giáo Hội phải là một nơi dành cho sự tha thứ, sao cho
những kẻ đã bị sa ngã (tất cả chúng ta đều đã từng sa ngã, theo nhiều cách thức
và mức độ khác nhau) đều cảm nghiệm được tình yêu thương và lòng thương xót của
Đấng đã khước từ việc kết án. Giáo Hội phải trở thành một cộng đoàn của ân
sủng, một cộng đoàn không câu nệ vào luật lệ, một cộng đoàn sẽ không kết án,
nhưng sẽ yêu thương, một cộng đoàn quan tâm đến lòng thương
xót, hơn là sự công bằng.
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho
người con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ
rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải
thi hành công lý. Nhưng bà mẹ nài nỉ “Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương
xót của ngài, không phải vì công lý.” Hoàng đế Napoléon trả lời “Nhưng hắn ta
không xứng đáng được thương xót.”
Bà mẹ nói “Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không còn gọi là lòng
thương xót nữa.”
Hoàng đế Napoléon đáp “Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó.” Và
ông sai thả người thanh niên đó ra.
Về bản thân, sự thương xót thuần tuý là một quà
tặng. Đây là điều gì đó mà tất cả chúng ta đều cần đến, và do đó, chúng ta phải
sẵn sàng mở lòng ra với người khác. Chúa nói “Phúc cho kẻ có lòng thương xót.”
Những người Pharisêu và kinh sư thời Chúa Giêsu luôn cố gắng tìm
mọi cách để tố cáo và hạ bệ Ngài. Ngài là một chướng ngại, một cái gai rất khó
chịu trước mắt họ, vì họ thấy Ngài đối xử nhân từ với những người thu thuế,
những người tội lỗi, những phụ nữ xấu nết và những người sống ngoài luật Môsê.
Để đối đầu với Ngài, nhiều lần họ đã giương cao cạm bẫy, nhưng lần nào cũng
vậy, họ đều thất bại và phải xấu hổ bỏ đi. Vì thế, lần này, họ nhất định ăn
thua đủ với Ngài. Họ đã kinh nghiệm rồi, họ không đặt ra những vấn đề lý thuyết
như việc đóng thuế cho hoàng đế Xêda hay những trường hợp giả tưởng như chuyện
người đàn bà goá lấy bảy anh em làm chồng. Trái lại, lần
này là một việc cụ thể, với những vai chính sống động, rõ ràng, chắc chắn.
Đó là trường hợp một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang.
Theo luật Môsê thì tội này bị kết án tử hình ném đá. Như vậy, người phụ nữ này
có thể bị giết chết mà không cần một lời tố cáo nào và cũng chẳng cần cho người
có dịp bào chữa, vì đã trở thành đồ bỏ rồi. Vậy tại sao họ còn đem người phụ nữ
này đến để hỏi Chúa Giêsu về cách trừng phạt, vì tội bà ta đã rõ ràng và hình
phạt đã được luật pháp qui định cũng rõ ràng? Thưa, họ muốn gài bẫy Chúa để
loại trừ ảnh hưởng của Ngài và bêu xấu Ngài. Hoặc là Ngài phải đứng về phía
luật pháp với tất cả sự gay gắt của nó, điều đó trái ngược với thái độ nhân từ
Ngài thường có. Hoặc là Ngài xác định sự biệt lập của mình để trở thành kẻ bất
trung và lạc giáo vì chống lại luật Môsê. Nói rõ hơn, nếu Chúa tuyên bố không
ném đá, tức là Ngài chống lại luật Môsê. Còn nếu Chúa tuyên bố ném đá, thì họ
sẽ tố cáo Ngài là phạm đến quyền của đế quốc Rôma, vì người Do thái lúc đó đang
sống dưới sự đô hộ của Rôma, họ không có quyền xử tử ai, chỉ quan toàn quyền
Rôma mới có quyền đó. Thật không dễ gì trả lời. Chống lại luật Môsê thì sẽ bị
dân phản đối, chống lại quyền của đế quốc thì sẽ bị đế quốc trừng trị. Chúa
Giêsu sẽ chọn đàng nào? Chúa xử trí vụ này ra sao?
Chúa không nói lời nào, Ngài im lặng và cúi xuống lấy ngón tay viết
trên mặt đất. Đây là lần đầu tiên Tin Mừng ghi lại Chúa Giêsu viết nhưng không
nói Ngài đã viết gì. Người ta đã tìm đủ cách để đoán xem Chúa viết gì. Có người
cho rằng Chúa chỉ nguệch ngoạc, không viết rõ chữ gì để tỏ thái độ không muốn
dây mình vào việc xét xử ai. Có người cho rằng Chúa viết những lời than trách
của ngôn sứ Giêrêmia về tội dân Do thái phản bội Chúa còn nặng tội gấp mấy
người phụ nữ này. Có người cho rằng lần nhất Chúa viết số thứ tự của mười điều
răn, lần hai Ngài viết các tội nặng của những kẻ đứng ra tố cáo về ngày giờ,
nơi chỗ và lý do phạm tội với ai. Nhưng tất cả chỉ là phỏng đoán mà thôi. Bản
văn Tin Mừng đã cố ý không nói Chúa Giêsu viết gì. Có thể Chúa chỉ lấy tay vạch
vẽ trên đất mà chẳng viết chữ gì cả. Đây chỉ là cách Chúa tạo một khoảng thinh
lặng chờ đợi để cho những kẻ tố cáo người phụ nữ này kịp suy nghĩ lại.
Những người Pharisêu và kinh sư thấy thái độ của Chúa có vẻ như
không quan tâm gì đến vấn đề họ đặt ra, nên họ phải nhắc đi nhắc lại câu hỏi.
Và bây giờ Chúa mới đưa ra quyết định. Ngài không trả lời câu hỏi của họ, nhưng
lời Ngài nói ra làm cho họ ngạc nhiên đến choáng váng. Chúng ta thấy Chúa không
nói: “Đừng ném đá chị ta”, vì Ngài không muốn tỏ vẻ chống lại luật pháp. Và
Ngài cũng không nói: “Hãy ném đá chị ấy”, vì Ngài đến không phải để làm mất đi
những gì Ngài đã tìm lại được, nhưng là để tìm kiếm những gì đã hư mất. Vì vậy
Chúa nói với họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước
đi.” Chúa không phủ nhận tội của người đàn bà kia, cũng không phủ nhận luật
Môsê, nhưng Chúa đưa ra một quan điểm mới: hãy tự xét xử mình trước khi xét xử
người khác. Họ đang dựa vào luật Môsê để xét xử người khác, thì Chúa bảo họ hãy
dựa vào đó mà xét xử chính mình trước đã. Ngài yêu cầu họ hãy trở về với chính
mình. Họ mưu toan bên ngoài nhưng họ lại không nhìn vào đáy lòng mình. Họ trông
thấy người ta ngoại tình nhưng họ không nhìn vào chính mình, vì hễ ai chú ý xét
mình, người ấy sẽ thấy mình là kẻ tội lỗi. Vậy hoặc là trả tự do cho người phụ
nữ ấy, hoặc hãy cùng với bà ta chịu sự trừng phạt của lề luật đi. Nói rõ hơn,
họ đang đòi xử tội người đàn bà này vì tội ngoại tình, nhưng thật sự ý đồ của
họ là đang tìm cách mưu giết Chúa. Những lời của Chúa Giêsu đã đánh trúng tim
đen của họ. Thế là họ lần lượt bỏ đi, vì họ nhận ra rằng chính họ cũng là những
kẻ có tội.
Cuối cùng, chỉ còn lại một mình người đàn bà đứng trước mặt Chúa,
chỉ còn lại hai bên: kẻ đáng thương đối diện với tình thương. Kẻ đáng thương
chờ đợi tình thương xót; và tình thương xót chờ đợi kẻ đáng thương. Chúa Giêsu
ngẩng đầu lên và nói với người đàn bà: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án
chị sao?.” Chị ta thưa lại: “Thưa ông, không có ai cả.” Chúa Giêsu nói tiếp: “Tôi cũng vậy, tôi không
lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.” Đó là lời của
tình thương, tôi đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn sám hối chứ không phải để
lên án.
Tóm lại, Chúa Giêsu đến trần gian để kêu gọi người tội lỗi ăn năn
sám hối chứ không phải để kết án. Câu chuyện người phụ nữ ngoại tình là một
bằng chứng. Và Chúa dạy chúng ta hãy theo gương Chúa mà đối xử với nhau như
thế: đừng bao giờ kết án ai hay vào hùa với ai để kết án người khác; đừng đấm
ngực ai, nhưng hãy đấm ngực mình, nhìn nhận mình cũng chẳng khá hơn ai, mình
cũng đầy những tội lỗi và thiếu sót, cần ăn năn sám hối để được tha thứ. Đó
cũng là lời kêu gọi tha thiết cho mỗi người trong Mùa Chay này.
31. Thức tỉnh
Hôm nay Tin Mừng dẫn chúng ta tham dự vào một vụ xử án có thật xảy
ra cách đây hơn 2000 năm. Vụ án “Người phụ nữ ngoại tình.” Một vụ án được xét
xử thật kỳ lạ: vụ xử kết thúc mà không có một bản án. Chỉ một lời thẩm vấn của
Đức Giêsu, các nguyên cáo bỏ đi hết chỉ còn lại bị cáo.
Vụ án không oan uổng đối với bị cáo với chứng cứ rõ ràng, tưởng
chừng nắm chắc cái chết trong tay, nhưng bị cáo lại tìm được con đường sống.
Phải chăng mấu chốt của sự kỳ lạ ấy nằm ở con người vị thẩm phán tên
Giêsu?
Từ sự kỳ lạ ấy giúp chúng ta khám phá ra sứ điệp của Tin Mừng hôm
nay đó là: Đến với Thiên Chúa lương tâm ta được thức tỉnh, ta biết thật về con
người mình, và ta được mời gọi sống đời sống mới.
Căn cứ trên trang Tin Mừng trước hết chúng ta thấy các nguyên cáo
có vẻ hăm hở đắc thắng khi mang bị cáo đến trước Đức Giêsu, với những chứng cớ
rõ ràng: “Thưa Thầy, người phụ nữ này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình.
Theo luật Môsê thì người đàn bà này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy xử thế
nào?.” Thế nhưng sự việc đã không xảy ra như dự đoán và mong muốn của họ.
Sự thinh lặng của Đức Giêsu cùng với cử chỉ viết trên đất cho câu
trả lời, đó như một sự nhắc nhở khéo léo nhẹ nhàng và tế nhị đối với những
người kết tội. Một khoảng lặng để cho họ bình tĩnh nhìn lại mình. Một khoảng
lặng để họ xét lại những việc họ đang làm. Thế nhưng họ như không hay biết điều
đó hoặc cố tình lờ đi để rồi tiếp tục ép buộc Chúa lên tiếng.
“Ai sạch tội thì hãy ném đá người này trước đi.” Đức Giêsu trả lời.
Một câu trả lời thay vì xét xử và kết tội phạm nhân thì lại là một câu thẩm vấn
đánh sâu vào lương tâm các nguyên cáo để họ có thể nhận ra chân tướng của mình,
con người thật của mình với đầy tội lỗi chẳng kém. Chính họ cũng đã đồng loã liên kết với nhau, dùng mưu mẹo để hại người, để loại trừ
kẻ mà họ không ưa, một người đang có ảnh hưởng trong dân có vẻ như lấn át vị
thế của họ. Lại một khoảng lặng nữa bắt đầu.
Và thái độ “bỏ đi hết, kẻ trước người sau bắt đầu từ những người
lớn tuổi” cho thấy rõ lương tâm của các nguyên cáo đã được đánh động và thức
tỉnh họ như đã dần dần nhận ra con người thật của mình.
Còn với bị cáo: Người phụ nữ ngoại tình? Tội đã rõ rành rành, chẳng
cần chứng cớ, không chạy đâu được. Nếu như ta thử đặt câu hỏi: giả như chị ta
không bị bắt quả tang phạm tội, thì hỏi rằng chị sẽ còn làm sự tội ấy nữa
không? Điều đó sẽ cho chúng ta nghĩ rằng: có lẽ chị cho rằng chuyện tội lỗi chị
làm trước đây khi chưa bị phát hiện, chẳng tội lỗi gì? Khi đến trước Đức Giêsu
lương tâm của chị cũng đã được thức tỉnh bởi lời của Ngài: “Chị hãy về và đừng
phạm tội nữa.” Đừng phạm tội nữa, một lời khẳng định cho chị thấy rõ chuyện chị
làm là tội lỗi.
Vâng! Con người ngày hôm nay cũng đang có những cách sống và thái
độ sống không khác gì các kinh sư và Pharisêu hoặc như người phụ nữ ngoại tình.
Đó là thái độ dửng dưng trước tội. Làm sự tội mà không biết mình tội. Sống
trong sự tội mà cho rằng mình không mắc tội. Lương tâm của họ xem ra như chai
lì hoặc bị ngủ mê. Hầu như vô tư trước những tội lỗi của mình xúc phạm đến
Thiên Chúa và tha nhân.
Thật vậy có những người bỏ việc thờ phượng Thiên Chúa nhất là thánh
lễ Chúa nhật với những lý do biện hộ rất đơn giản khi nại vào công việc hoặc
đạo tại tâm, hoặc có tham dự cũng chỉ máy móc cho qua.
Có những người đang sống thiếu thành thật trong lời nói, thiếu ngay
thẳng trong công việc làm ăn: gian lận thủ đoạn, lừa gạt… nhưng vẫn coi đó là
bình thường chẳng tội lỗi gì.
Có những bạn trẻ hôm nay đang lao đầu vào những thú vui giải trí
thiếu lành mạnh nhưng vẫn nghĩ rằng xã hội nhiều người làm được như thế, nên
tôi làm cũng chẳng sao. Họ tự do yêu đương, tự do quan hệ, tự do luyến ái.
Có những người cho rằng rất bình thường chẳng có tội lỗi gì khi nói
xấu, lên án người khác hoặc có thái độ cố chấp không cho rằng mình có lỗi khi
gây ra những tổn thương cho tha nhân.
Ngay trong cuộc sống gia đình cũng vậy, chồng hoặc vợ xúc phạm đến
nhau mà chẳng ai chịu nhận lỗi về mình.
Vâng, còn rất nhiều nếu đi vào từng chi tiết ngõ ngách của cuộc
sống, chúng ta sẽ thấy chẳng thiếu những cung cách sống và thái độ sống thiếu ý
thức về tội như vậy, đến nỗi Đức Thánh Cha trong Tông huấn “Sám hối và hoà giải” đã phải lên tiếng: “Con người ngày nay gần như mất
cảm thức về tội, họ làm điều tội mà không biết là tội, họ sống trong tội mà
không biết mình mắc tội.”
Trước mặt Thiên Chúa, không ai không là tội nhân. Chẳng ai có thể
tự vỗ ngực nói rằng mình không có tội, như thánh Gioan nói: “Ai bảo mình không
có tội là kẻ nói dối tự lừa dối mình.” Điều quan trọng tôi có ý thức mình là
tội nhân không? Hãy có những khoảng lặng để gặp Chúa, để cho lời Ngài thức tỉnh
chúng ta như Ngài đã thức tỉnh các kinh sư, người Pharisêu và người phụ nữ
ngoại tình để chúng ta có thể nhận ra mình là tội nhân.
Thiên Chúa không chỉ thức tỉnh lương tâm chúng ta, nhưng Thiên Chúa
còn mời gọi và đề nghị chúng ta sống một đời sống mới.
“Ta không kết tội chị, chị hãy về và đừng phạm tội nữa.” Một lời
thức tỉnh, tha thứ nhưng cũng là một lời đề nghị.
“Hãy đi và đừng phạm tội nữa” cũng là lời đề nghị và mời gọi của
Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay khi đã nhận ra lỗi lầm và sám hối rồi,
chúng ta không chỉ dừng lại ở đó, nhưng phải tiến xa hơn, vượt lên trên bằng
một sự thay đổi tận gốc rễ với một cuộc sống mới. Một lời xin lỗi xong chưa đủ,
nhưng là đừng để cho điều lỗi xảy ra nữa. Đời sống mới là đời sống không còn
như đời sống cũ trước đây đang sống tội nữa. Ví như trước đây tôi sống gian
dối, nay tôi sống thành thật và ngay thẳng. Trước đây tôi hay vu khống kiện
cáo, nay tôi sống khiêm tốn hoà nhã với tha nhân.
Mùa chay đã bước vào tuần thứ năm. Những ngày đại thánh mừng cuộc
khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô sắp đến gần. Thiên Chúa đang rộng mở bàn tay
đón chờ và mời gọi chúng ta đến với Ngài để lãnh nhận ân phúc. An phúc trước
hết đó là chúng ta được Thiên Chúa đánh động và thức tỉnh lương tâm; ân phúc
được ơn giao hoà với Thiên Chúa và được mời gọi sống đời
sống mới qua việc tham dự các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và Giải tội.
Chúng ta hãy xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm, lòng khiêm nhường để
chúng ta mạnh dạn đến gặp Chúa.
32. Chuyện người đàn bà 2000 năm trước
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc sĩ Song Ngọc viết ca khúc "Chuyện Người Đàn Bà 2000 Năm
Trước" từ trang Tin Mừng hôm nay.
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước
Áo rách tả tơi, xác thân mệt nhoài.
Chuyện người đàn bà nơi thành phố đó
Dấu tích hành thân.
Vì đâu? Vì đâu? Vì đâu,
Nên tội tình mang nhục hình.
Vì yêu, tội yêu, tội tình yêu.
Đoàn người cổ thành vây chặt khu phố
Thế giới hiền lương ánh mắt cuồng căm.
Nhìn người đàn bà đang chịu tội chết
Đống đá ngổn ngang.
Chờ ai?
Chờ tay người ném chết một người không hận thù.
Người ơi vì sao đoạ đầy nhau
Ai, ai người vô tội. Ai, ai người không tội
Hãy mạnh tay ném đá ném đá ném trước đi còn đợi gì?
Ai, người vẹn toàn, Ai người trong sạch
Còn chờ chi?
Ném chết ném chết
Ném chết tội đồ nhân gian.
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước
Sách cổ đã ghi, đống đá còn nguyên.
Vì người vô tội hay đời giả dối,
Thế giới giả nhân chào thua
Người ơi, tình ơi.
Ai tội đồ, ai tỉnh ngộ
Người ơi, đời ơi, cũng vậy thôi....
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước
Sách cổ đã ghi, đống đá còn nguyên.
Nhạc sĩ khéo léo dùng những chữ tương phản như "Thế giới hiền
lương, ánh mắt cuồng căm" và đặt câu hỏi, có phải vì người đời giả dối, sợ
phải đối mặt với tòa án lương tri với tội của chính mình nên đã lẵng lặng bỏ
đi: "Vì người vô tội hay đời giả dối? Thế giới giả nhân? Chào thua! Người
ơi, Tình ơi! Ai tội đồ? Ai tỉnh ngộ?....” Nhưng dù sao thì "cũng vậy
thôi", ca khúc có kết thúc tốt đẹp và câu hỏi dành riêng cho lương tâm mỗi
người.
Với giai điệu chậm buồn, nhạc phẩm kể về một câu chuyện thật lạ
lùng, xảy ra hơn hai ngàn năm về trước tại xứ Do thái. Một phụ nữ bị bắt quả
tang đang phạm tội ngoại tình. Các kinh sư và những biệt phái dẫn người đàn bà
ấy đến trước mặt Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài: "Trong sách Luật, ông Môsê
truyền chúng tôi phải ném đá hạng người này, còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" Một
câu hỏi bất ngờ, nham hiểm và lịch sự.
Có lẽ sau khi hỏi Chúa như thế, họ hí hửng với những nụ cười hóm
hỉnh ranh mãnh. Họ thì thầm với nhau cách thích thú: lần này thì đừng hòng mà
thoát. Cái bẫy đã giăng ra. Nếu Chúa bảo cứ ném đá đi thì đó là một lời nói sẽ
xoá nhoà tất cả lòng nhân hậu của Chúa: tôi đến để cứu vớt chứ không phải để
kết án. Những người tội lỗi,thu thuế, đặt niềm hy vọng vào Chúa, nếu nghe lời
kết án chắc chắn họ sẽ thất vọng và xa lánh, thế thì chỉ có thất bại, mất uy
tín. Nhưng nếu Chúa bảo, không được ném đá, họ càng vui hơn vì Chúa dám chống
lại Luật Môsê, chỉ chờ thế là họ có dư bằng chứng để bắt và lên án Ngài rồi.
Thái độ Chúa Giêsu thật trầm tĩnh "cúi xuống lặng lẽ vẽ trên
đất.” Họ cứ hỏi mãi. Chúa ngẫng lên nói với họ một đề nghị nhỏ nhẹ ôn hòa nhưng
ngầm chứa một thách thức sinh tử quyết liệt " ai trong các ông sạch tội
thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Họ lặng lẽ rút lui, bắt đầu từ những người
lớn tuổi. Công bằng mà nói, những người đàn ông có mặt hôm ấy, ngoài Chúa Giêsu
ra, đều là những kẻ còn có liêm sỉ và tự trọng.
Chúa Giêsu bị đẩy vào thế làm quan tòa bất đắc dĩ, buộc phải ra một
bản án xét xử thật nặng, bỗng nhiên trở thành Trạng sư với một bài biện hộ vỏn
vẹn có mỗi một câu rất ngắn. Chỉ một câu nói mà Chúa đã hoá giải bẫy giăng sẵn.
Hoá giải, bởi lẽ Chúa mời gọi họ hãy nhìn vào bên trong tâm hồn.
Còn lại một mình Chúa với người phụ nữ. Ánh nắng buổi sáng đang
lung linh nhảy múa trên bậc thềm.Với giọng nói ấm áp, Chúa hỏi: "Họ đâu
hết rồi? Không ai lên án chị nữa hay sao?.” Lần đầu tiên từ lúc bị lôi tới đây,
người phụ nữ ngẩng mặt lên. Chị nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, Ngài đôi mắt
chứa chan tình người,long lanh ánh sáng thiên đàng, đôi mắt hiền dịu sáng lên
niềm cảm thông. Chị bưng mặt, giọng nghẹn ngào: "Thưa Thầy, không còn ai
nữa. Họ bỏ đi hết rồi.” Bình minh chiếu sáng rạng ngời khuôn mặt, Chúa nói thật
nhẹ nhàng: "Tôi không lên án chị đâu! chị về đi, và từ nay đừng phạm tội
nữa. Tội nhân bị luận tội trước tòa, rõ ràng nằm trong khung án tử hình, nay
ngơ ngác thấy mình được tha bổng, kèm một lời dặn dò: từ nay thôi đừng phạm tội
nữa! Chúa Giêsu không kết án nhưng là mở cho chị một con đường đi về phía tương
lai, về phía trước.
Hai câu nói của Chúa Giêsu với hai hạng người đều nhẹ nhàng mà sâu
xa thấm thía. Với các người kết án, Chúa mời họ nhìn vào phía bên trong. Với
người bị kết án, Chúa mở ngõ về phía tương lai.
1. Nhìn về phía bên trong
Một phiên tòa lạ lùng, xử lưu động theo kiểu nói ngày nay. Phe công
tố nhao nhao buộc tội và hằm hè chất vấn, không ngờ sau đó lại lần lượt cúi đầu
lặng lẽ rút lui. Chỉ vài phút trước đó, họ hung hãn tố cáo đòi ném đá, và bây
giờ họ âm thầm ra về. Một sự chuyển biến bất ngờ phát sinh từ lời mời gọi của
Chúa Giêsu: "ai trong các ông sạch tội hãy ném đá người phụ nữ này đi.”
Khi người ta đòi ném đá tha nhân, người ta tự cho mình là kẻ sạch tội và có
quyền lên án kẻ có tội. Nhưng khi người ta khám phá ra mình cũng là tội nhân,
người ta không dám lên án nữa vì như thế cũng là tự lên án chính mình. Sự khám
phá có được là do cái nhìn về phía bên trong chính mình. Chi tiết mà Thánh
Gioan ghi nhận "bắt đầu từ những người lớn tuổi" rất ý nghĩa. Vì càng
lớn tuổi càng có bề dày cuộc sống, càng dễ nhận ra bề dày tội lỗi. Càng lớn
tuổi càng có cái nhìn nội tâm nhiều hơn.
Có những cái gần mình nhất mà mình lại khó thấy nhất. Đó là bản
thân mình. Có những sự thật người ta tìm cách trốn chạy nhiều nhất là sự thật
về chính mình. Sự thật ấy chỉ khám phá ra được khi nhìn vào phía bên trong.
Nhìn vào bên trong là đi vào nội tâm để nhìn lại chính mình, soi gương tâm hồn.
Nhìn lại cuộc sống, lời nói, việc làm mình đã làm, đã sống. Giáo hội luôn
khuyên con cái mình xét mình mỗi ngày. Các linh mục, tu sĩ, giáo dân đều có
thời gian tĩnh tâm, linh thao để biết mình mà sửa mình. Biết mình là đầu mối
của sự khôn ngoan.
Nhìn vào phía bên trong là một đòi hỏi cần thiết giữa cuộc sống xô
bồ, ồn ào với quá nhiều tranh đấu vất vả mưu sinh. Có khi chúng ta ngại vì sợ
phải đối diện với chính mình, đối diện với sự thật về mình. Cần có thời gian
tĩnh lặng để dâng lễ, cầu nguyện, viếng Chúa. Khi có thời gian nhìn lại chính
mình, chúng ta có gương soi và một khoảng cách ngắm nhìn. Tấm gương tốt nhất là
Chúa Giêsu. Ngài là mẫu mực. Nơi Ngài và nhờ Ngài mà chúng ta nhận ra những lỗ
hổng cuộc đời, nhận ra lý tưởng cần vươn tới.
2. Nhìn về phía trước.
Người ta đòi ném đá người phụ nữ, đóng khung cuộc đời chị trong quá
khứ. Quá khứ được đóng dấu bằng tội lỗi. Người ta đánh giá, phán đoán, hành
động trên quá khứ đó. Chúa Giêsu không chấp nhận lối nhìn và cách đánh giá ấy.
Ngài không đồng loã với tội lỗi. Ngài nhìn nhận người phụ nữ có tội. Nhưng Ngài
mở ra một tương lai, gieo vào lòng chị niềm tin tưởng rằng chị có khả năng xây
dựng một tương lai mới, một cuộc đời mới,một con người mới:"Chị hãy về đi,
và từ nay đừng phạm tội nữa.” Chúa Giêsu không kết án cũng như không giảm án,
không ân xá cho tội nhân. Chúa mở cho chị một con đường hướng về tương lai, làm
lại cuộc đời. Đó là con đường sám hối trở về với tình yêu, trở về với đời sống
là con cái Thiên Chúa, trở về với tâm hồn bình an. Người phụ nữ ra về lòng tràn
ngập niềm vui hoán cải, quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai. Ngài không khoá chặt cuộc
đời một con người cũng như lịch sử nhân loại vào quá khứ, cho dẫu quá khứ ấy có
bi thảm và tàn tạ đến đâu chăng nữa. Thiên Chúa luôn luôn mở ngõ và vạch lối
cho tương lai.
Vẫn biết tội lỗi trái với đạo giáo, trái với luân thường đạo lý,
nhưng đâu chỉ căn cứ vào đạo giáo luân lý để khinh khi, coi thường, kỳ thị sự
sống con người được. Đạo giáo luân lý giúp con người sống thăng tiến về mặt
tinh thần chứ không bao giờ là bước cản trở nhận chìm con người xuống bùn đen.
Đã là người, ai cũng có những khuyết điểm, ai cũng có lúc làm điều lầm lỗi.
Nhưng ai cũng có khả năng ý chí ước muốn làm điều lành thánh thiện tốt đẹp.
Thiên Chúa dựng nên con người với khả năng như thế.
Chúa Giêsu đã sống và đã nêu gương. Ngài không kết án, không giảm
án, nhưng là mở ra con đường hướng về tương lai cho con người tội lỗi làm lại
cuộc đời. Lêvi, Giakêu, Mađalêna, Augustinô...và còn biết bao con người đã được
Chúa mở ngõ tương lai tươi sáng. Niềm tin đó tạo nên nơi người tín hữu một lối
nhìn mới. Đó là nhìn về phía trước, băng mình về phía trước như thánh Phaolô
diễn tả: "Tôi chỉ chú ý tới một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao
mình về phía trước" (Pl 3,13). Đối với Phaolô quên đi chặng đường đã qua
là qua khứ bắt bớ Giáo hội Chúa để lao mình về phía trước, phía tương lai mà
Chúa Giêsu đã mở ra, đặt ngài làm khí cụ, làm tông đồ dân ngoại. Và Phaolô đã
sống hết mình cho tương lai mới.
Trong cách nhìn về tha nhân, có khi người ta khoá chặt người khác
trong quá khứ lỗi lầm của họ. Đã một thời "chủ nghĩa lý lịch" khoá
chặt con người trong quá khứ, cái quá khứ đâu có do họ!!! Vì lẽ đó mà nhiều
nhiều người trẻ tài năng không có cửa cho tương lai, họ bị loại trừ. Con người
vốn vẫn hay nhìn phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi niềm
tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai lại luôn thúc bách chúng ta nhìn
về phía trước
Nhìn vào phía bên trong để khám phá sự thật về chính mình. Người
Hylạp đã từng gắn trên cổng Đền Thờ Deiphes câu châm ngôn " Bạn hãy biết
chính mình" và coi sự biết mình như là khởi điểm của khôn ngoan.
Nhìn về phía đàng trước để luôn hy vọng và tin tưởng. Tin vào chính
mình, vào con người, vào cuộc đời. Và trên hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở
ngõ cho tương lai chúng ta.
33. Án tử hình bị hủy bỏ – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Người Phụ Nữ Ngoại Tình. Câu chuyện ấy đã sảy ra trong thời Chúa
Giêsu, khi Ngài đang trên đường rao giảng Tin Mừng Tình Yêu. Lúc bấy giờ danh
tiếng Ngài được đồn thổi khắp nơi. Nhiều người mộ mến. Nhưng cũng lắm kẻ ghét
ghen. Nhất là hạng thượng tế, luật sĩ, và biệt phái. Bao cuộc tranh cãi gay go
về luật lệ đã nổ ra. Người ta muốn tố cáo, truất phế Ngài khỏi tâm hồn quần
chúng, nhưng chưa đủ khả năng. Đã bao lần gài bẫy và nêu các vấn đề hóc búa,
đều bị Ngài hoá giải dễ dàng. Bẽ bàng. Xấu hổ. Nhưng giới chống đối vẫn ngấm
ngầm tìm cách.
Cơ hội thuận tiện chợt đến. Một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội
ngoại tình. Họ lập tức tóm ngay con người khốn nạn đó. Lại đang lúc Chúa Giêsu
có mặt trong đền thờ Giêrusalem. Dân chúng đông đảo bao quanh Ngài. Bằng miếng
mồi mới bắt được, người ta chắc mẩm chuyến này Đức Giêsu phải sa lưới. Bởi lẽ
theo luật Môisen ghi lại trong sách Lêvi: “Người nào ngoại tình với đàn bà có
chồng, người nào ngoại tình với vợ của tha nhân, tất phải chết. Cả gian phu lẫn
dâm phụ”
(Lv 20:10). Cách xử tử những kẻ phạm tội ngoại tình sẽ là “kéo ra khỏi cổng
thành mà ném đá chúng cho chết đi” (Đnl 22:24).
Lâu nay, giới chống đối cứ thấy Đức Giêsu giao du với phường thu
thuế, đàng điếm, tội lỗi. Nhắc chuyện thì Ngài lại phán: “Ta không đến để kêu
gọi những người công chính mà là hạng tội lỗi.” Nghe nhức tai quá. Chịu không
được. Trong khi đó, Ngài cũng dạy người ta về sự công minh của Thiên Chúa: Cây
nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt xuống mà quăng vào lửa đời đời. Thành ra,
hôm nay, khi giương chiếc bẫy với miếng mồi “con mụ ngoại tình”, và câu hỏi
“Thầy dạy sao, có nên ném đá con dâm phụ này không?”, nhóm luật sĩ biệt phái
cầm chắc ưu thế trong tay.
Họ nhủ thầm: Nếu Đức Giêsu trả lời “Ném đá hắn” thì còn gì là yêu
thương nữa. Giáo lý Ngài truyền dạy bấy lâu cũng chẳng có mới lạ. Bọn thu thuế
đàng điếm sẽ mở mắt ra mà thấy Giêsu cũng chẳng thương xót gì họ.
Như thế là tạo mối nghi ngờ, rạn nứt ngay từ bên trong. Hạng tội
lỗi sẽ mất tin tưởng vào Đức Giêsu. Còn Ngài sẽ không đi đi lại lại với chúng
được nữa. Đó là chưa nói đến việc chính quyền đô hộ Rôma sẽ trừng phạt gắt gao
người Do thái nào dám lên án tử cho kẻ khác.
Song nếu câu trả lời là “Đừng ném đá” thì lập tức Đức Giêsu sẽ lãnh
viên đá đầu tiên, vì Ngài đã công khai chống lại luật Môisen, và dám dung túng,
bao che cho phường ngoại tình, tội lỗi. Lúc này, nếu có trốn thoát được cái
chết của “mưa đá” thì Đức Giêsu cũng bị khai tử nơi tâm hồn người ta. Ngài sẽ
không còn mặt mũi nào để gặp gỡ dân chúng nữa.
Thật thâm độc! Miếng mồi không thể trốn chạy mà con mồi cũng chẳng
thể chạy trốn. Chuyến này, có lẽ bất cứ lời nói nào của Đức Giêsu cũng sẽ trở
thành bản án cho chính Ngài. Chiếc lưới đã giương lên chỉ còn chờ giờ sụp
xuống.
Nhưng kìa, tại sao Ngài không nói gì cả? Câu hỏi dồn dập đổ xuống,
ấy thế mà Ngài vẫn lặng im? Trước đây khi nêu vấn đề nộp thuế cho hoàng đế,
Chúa Giêsu đã trả lời tức khắc, và nhanh chóng khoá miệng đối phương. Nhưng sao
hôm nay Ngài lại thinh lặng? Có phải vì đây là vấn đề của lương tâm nên cần
thời gian suy xét? Hay sự thinh lặng của Ngài thúc giục người ta nhìn lại chính
mình? Nhìn lại để thấy sự giả dối núp bóng chân lý, lòng nham hiểm ẩn mình dưới
lọng dù công chính. Tố cáo người phụ nữ ngoại tình nhưng lại nhằm lên án Chúa
Giêsu. Hỏi “Thầy dạy sao?” nhưng vẫn cứ muốn ý gian của mình được thực thi.
Nhìn lại chính mình phải là thái độ tôi cần có trong mọi hành xử
với tha nhân. Nhìn lại chính mình để biết cảm thông và tha thứ. Bởi lẽ, khi
thinh lặng nhìn sâu vào cõi lòng, người ta sẽ không thể không khám phá ra sự
thật này: Không có ơn Chúa thì đời tôi cũng chẳng hơn gì đời người; e rằng có
khi còn tệ hơn. Khám phá được như thế chắc chắn người ta sẽ không hà khắc và
tàn bạo với tha nhân.
“Ai trong các ông vô tội?” Lời mời gọi nhìn lại chính mình đó đã
đưa đến quả: không còn ai lên án hay kết tội nữa, nhưng “kẻ trước người sau họ
rút lui hết” (Gn 8:9). Thế mới hay khi con người biết thinh lặng xét mình, sự
sống sẽ tồn tại. Những gì là độc ác, máu me, chết chóc, hận thù, la lối phải
rút lui, nhường chỗ cho tình thương bộc phát và tràn lan.
Ở đâu có tình thương, ở đó có sự sống. Ở đâu có thứ tha ở đó có an
bình. “Ta cũng không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga
8:11). Tình thương không kết án, nhưng luôn mở ngỏ cho sự sống mới được lớn
lên.
Từ lâu lắm, tại một làng bên nước Ý, người ta có thông lệ ném từ
đỉnh núi cao xuống cho tan xác những người đàn bà phạm tội ngoại tình.
Một hôm, có người phụ nữ không may bị bắt quả tang phạm tội khi
chồng vắng nhà. Dân làng chuẩn bị hành quyết người đàn bà trước sự chứng kiến
của người chồng. Thế nhưng, ngay hôm trước ngày xử tử, người chồng bỗng biến
mất. Giờ hành quyết đã đến mà ông chồng vẫn biệt tăm. Mọi người chờ đợi. Đợi
chờ.
Cuối cùng, dân làng cũng đưa người đàn bà lên núi. Và sau vài tiếng
trống đưa hồn, bà ta bị đẩy xuống vực sâu.
Mấy hôm sau, dân làng vô cùng bỡ ngỡ khi thấy người đàn bà đó lại
đang ra vào ngôi nhà của bà ta. Ai nấy lo sợ vì tưởng rằng hồn ma quay về phá
phách. Nhưng rõ ràng họ thấy người chứ đâu phải ma. Mãi sau người ta mới khám
phá ra. Số là, vì biết không thể nào phá bỏ được tục lệ để cứu vợ, nên trước
ngày xử án, người chồng âm thầm vào rừng tìm những sợi dây mây nhỏ, bền, và đan
thành một tấm lưới. Sau đó anh đem giăng dưới chân núi nơi thân xác người vợ sẽ
bị xô xuống. Nhờ vậy mà nàng còn sống để trở về mái nhà xưa. Anh đã làm thế vì
muốn tha thứ và cứu vợ mình khỏi án chết.
Trước tình yêu và hành vi tha thứ cao cả, dân làng đã nhất trí huỷ
bỏ thông lệ tử hình vốn đã kéo dài bao trăm năm.
“Ta không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa.”
Noi gương Đức Giêsu, bạn và tôi cũng hãy mở đường cho hy vọng, thứ tha, và sự
sống vươn lên. Nhưng trước hết chúng ta hãy cùng khởi đi từ gia đình và cộng
đoàn của mình.
34. Một câu truyện phổ biến
Một câu chuyện cổ tích Do thái kể rằng có một thầy Rabbi nổi tiếng
thường hay vắng mặt tại hội đường vào mỗi ngày Sabbath vài tiếng đồng hồ. Sự
vắng mặt này làm cho các học sinh của ông thắc mắc. Nhiều học sinh cho rằng
thầy Rabbi của mình đã tìm được một chỗ mà ông có thể gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng
toàn năng. Sau cùng, bọn học sinh đã đồng ý cử ra một người đi theo thầy Rabbi
của mình để xem ông làm gì. Anh ngạc nhiên thấy thầy mình mặc một bộ áo cũ kỹ
của một người ăn xin và đi ra một ngõ hẻm rồi đi vô một căn nhà hoang. Qua khe
cửa sổ, người học sinh nhìn thấy thầy mình cặm cụi dọn dẹp, và chuẩn bị bữa ăn
cho một cụ già bị tàn tật. Sau đó, người học sinh đã chạy về, và bạn bè của anh
đã hấp tấp hỏi anh, "Sao, ông ấy có bay về trời không?" Người học
sinh trả lời, "Có, không còn chỗ nào cao hơn nữa!" Chứng kiến việc
làm nhân đạo của thầy mình mà người học sinh đã vô tình khám phá ra ánh sáng
của trời cao.
Phúc âm kể lại nhiều truyện Chúa Giêsu lên án những kẻ đạo đức giả.
Họ hay đi nhà thờ mà không bao giờ biết tỏ lòng nhân hậu và nhạy cảm với người
khác. Trong Phúc Âm Thánh Marcô, có một đoạn gây chú ý, tả lại cảnh Chúa Giêsu
tức tối với loại người như thế. Chúa Giêsu "nhìn quanh họ một lượt vừa
thịnh nộ vừa buồn phiền vì lòng chai đá của họ" (Mc 3,5). Đáng tiếc thay,
vấn đề vẫn còn ở trong chúng ta.
Bài Phúc Âm hôm nay tả lại cảnh Chúa Giêsu đương đầu với những thầy
thông luật và Pharisiêu, những người đáng kính trong tôn giáo, nhưng có
"lòng chai đá." Họ đem đến trước mặt Chúa Giêsu một người đàn bà và
hỏi, "Thưa Thầy, phụ nữ ngoại tình này bị bắt tại trận. Theo Luật, Maisen
truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà như thế. Vậy, Thầy dạy sao?"
(Ga 8,4-5). Phúc Âm đã kể lại cho chúng ta rằng những người đã định tâm để gài
bẫy Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu không đồng ý với họ để ném đá, thì họ có quyền
tố cáo Ngài là không tôn trọng lề luật. Tuy nhiên, nếu Ngài nói là ném đá, thì
họ sẽ nói là Ngài mâu thuẫn với luật yêu thương Ngài dạy. Câu trả lời của Chúa
Giêsu đã làm cho họ phải ngạc nhiên, "Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném
đá trước đi" (Gn 8:7). "Nghe thế rồi, kẻ trước người sau, họ rút lui
hết, các kẻ cao niên dẫn đầu mà để lại một mình Ngài, và phụ nữ kia. Ngẩng lên,
Chúa Giêsu nói với người ấy, "Bà kia, họ đâu rồi? Không ai xử tội bà sao?
Người ấy đáp, Thưa Ngài, không ai cả! Đức Giêsu lại nói, "Ta cũng không xử
tội bà! Đi đi! Và từ nay đừng phạm tội nữa! (Gn 8:10-11).
Vấn đề của chúng ta là ở chỗ chúng ta nghĩ mình là những người tốt,
đáng kính, thường hay đi lễ, nhưng đồng thời chúng ta cũng thường có chiều
hướng nghĩ rằng lời Chúa Giêsu nói về tội lỗi và sự dữ là để cảnh cáo người
khác. Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu coi việc ngoại tình là
một tội lỗi. Người đàn bà ngoại tình đó cần phải được tha thứ, và chúng ta hiểu
điều đó. Bà còn cần phải thống hối, chúng ta cũng hiểu điều đó. Sau cùng, khi
Chúa Giêsu cho bà đi, Ngài còn dặn, "Đừng phạm tội nữa", chúng ta
cũng biết điều đó. Tuy nhiên, chúng ta có hiểu rằng Chúa Giêsu cũng nhìn sự
thiếu lòng nhân ái và thương xót của những thầy thông luật và bọn Pharisiêu như
là một tội lỗi không? Chúng ta có biết rằng những thầy thông luật và bọn
Pharisiêu cũng cần phải được tha thứ không? Chúng ta có biết rằng những người
mà tự xưng là công chính cũng cần phải thống hối không?
Qua cách đối xử của các thầy thông luật và bọn Pharisiêu, nó nhắc
nhở cho chúng ta một điều, đó là nếu chúng ta tự cho mình là công chính thì
chúng ta sẽ huỷ diệt lòng trắc ẩn của mình. Cái lúc mà
chúng ta bắt đầu áp dụng luật luân lý của bản thân mình trên người khác, là
chính lúc chúng ta bắt đầu bị mất đi khả năng để có thể cảm nghiệm và thông cảm
cho người đó. Sự tự cho mình là đúng đắn không phải là một ảo tưởng, mà là một
sự huỷ diệt tình yêu.
Chúa Giêsu đến thế gian không phải là để đem con người lên thiên
đàng, nhưng là đem thiên đàng đến với con người. Qua lòng nhân ái đối với người
phụ nữ ngoại tình, Chúa Giêsu đã cho chị ấy thấy được một tia sáng của thiên
đàng. Cũng giống như thế, Chúa Giêsu đến không phải là để cứu con người ra khỏi
hoả ngục, nhưng là để xoá bỏ hoả ngục ra khỏi loài người. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu muốn nhắc cho những thầy thông luật và Pharisiêu một chút ánh nhìn về hoả ngục mà họ đang đâm đầu xuống chỉ vì sự tự cho mình là
đúng, là đạo đức, rồi phán xét kẻ khác một cách độc ác, đối với những người
khác. Khi nào chúng ta cho phép cá nhân của mình xa cách Thiên Chúa, chúng ta
sẽ để cho hoả ngục đi vào cuộc sống của chúng ta. Cách đi
ra khỏi cái hoả ngục này là, "Hãy nhân ái như Cha các
con trên trời là Đấng nhân ái."
Chúng ta không đến nhà thờ để qua đó chúng ta muốn chứng minh cho
người khác sự đạo đức của mình. Chúng ta tụ họp nơi đây bởi vì ở đây chúng ta
tìm thấy Chúa Giêsu ở giữa chúng ta và Ngài ban cho chúng ta một chút ánh nhìn
về sự sống đời đời với Thiên Chúa.
35. Lòng khoan dung của Thiên Chúa
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Các em thiếu nhi trong Giáo xứ thường xem trước bài Tin Mừng Chúa
Nhật, đọc và tìm hiểu. Hôm nay, Bé Hữu đọc to đoạn tin mừng Ga 8, 1-11. Mẹ hỏi:
“con hiểu thế nào?” Bé trả lời “Chúa Giêsu cứu một mạng người” “cứu ai” “Cứu bà
kia”? “Ai định giết?” “Mấy ông luật sĩ định ném đá cho chết luôn” “Sao không
ném?” “Ai cũng có tội mà ném gì, Mẹ? Họ rút êm hết rồi”
Còn Chúa thì sao? “Chúa bảo bà ấy về đi, đừng phạm tội nữa. Thế là
bà ấy thoát chết”
"Thưa Thầy, phụ nữ ngoại tình này bị bắt tại trận. Theo Luật,
Môise truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà như thế. Vậy, Thầy dạy
sao?" (Gn 8:4-5)
Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội tình được đề cập trong bài
Tin Mừng hôm nay đang đau khổ vì xét theo luật, phải bị công khai ném đá cho
đến chết. Thực ra, chị không phải là nhân vật chính trong vụ xét xử theo yêu
cầu của các luật sĩ. Nhưng chính là Chúa Giêsu. Họ đang muốn xử Chúa Giêsu. Và
họ sẽ xử Chúa Giêsu nếu Ngài không xử người phụ nữ này đúng theo luật của Môise
đã định. (Lv 20:10).
Thật tội nghiệp cho thân phận thiệt thòi của người phụ nữ. Không
thấy người đàn ông tòng phạm bị ném đá!
Chúa Giêsu biết họ đang thử thách Ngài về lòng bác ái và việc thi
hành lề luật. Ngài đã thinh lặng đến độ khó hiểu. Và khi Ngài lên tiếng, thì họ
mới hiểu ra là Chúa Giêsu đứng về phía tội nhân. Ngài không bảo đừng ném đá,
nhưng Ngài bảo ai đó cứ ném đi nếu tự thấy mình vô tội. “Trong các ông, ai vô
tội thì hãy ném đá trước đi" (Gn 8:7).Ngài không bào chữa cho tội nhân,
nhưng Ngài tha thứ và với ơn tha thứ Ngài khuyên người phụ nữ đừng phạm tội
nữa. "Ta cũng không xử tội bà! Đi đi! Và từ nay đừng phạm tội nữa! (Gn
8:10-11).
Tin mừng đưa ra hình ảnh người đàn bà ngoại tình không có ý làm
giảm nhẹ giá trị phụ nữ thời xưa hay thời nay, nhưng có ý nhắc đến “người phụ
nữ là Dân Riêng Thiên Chúa” mà Thiên Chúa đã kết ước như một cuộc hôn phối diệu
kỳ giữa Thiên Chúa như người chồng, và dân riêng như người vợ: “Vì ngươi sẽ
được ĐỨC CHÚA đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như tài
trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu
là niềm vui cho chú rể.”(x.
Is 62, 4- 5). Và Ngôn sứ Hôsê: “Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu. Ta sẽ
lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót
thương. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết ĐỨC
CHÚA. ( Hôsê 2,21-22)
Còn trong Tân Ước, Chúa Giêsu Kitô là chàng rể và Giáo Hội chính là
hiền thê của Ngài. “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người” (Mt 25, 6). Cũng vậy,
trong Giáo Hội mỗi thành phần đều là những người yêu quí của Chúa Kitô, thuộc
về Chúa Kitô, trong ý nghĩa đã được hôn phối đời đời với Ngài.
Như vậy hình ảnh người vợ ngoại tình có ý nói đến việc dân riêng
Thiên Chúa bỏ Thiên Chúa mà lang chạ với ngẫu thần ngẫu tượng, việc mỗi người
chúng ta cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa khi để lòng chúng ta yêu chuộng các
sự thế gian hơn yêu mến Thiên Chúa, khi sống trong tình trạng tội lỗi.
Đâu chỉ có các bà!
Dân Chúa hôm nay có trong đó có tôi, có chị, có nam có nữ, có ông
già bà già và cả con nít..thảy đều phạm tội ngoại tình.. xét theo nghĩa, ngoại
tình là không chung thủy lời hứa hôn phối với Thiên Chúa qua bí tích rửa tội,
qua lời hứa từ bỏ ma quỉ và các việc của nó…
Có người ngoại tình chạy theo lời dụ ngọt của lợi nhuận vật chất,
của sự bảo bọc bao che cho những sai trái của mình mà phải làm tay sai cho một
thế lực chống lại Thiên Chúa.
Có ông ngoại tình hết mình lo tiền bạc là vì xem tiền bạc là cứu
Chúa đời mình mà quên việc phục vụ tha nhân.
Có ông vì run sợ trước họng súng để vào tai, trước lưỡi dao kề bên
cổ, trước những đe dọa bắt bớ bỏ tù mà đành phản bội với Chúa Kitô và Thập giá
của Ngài.
Có người muốn kết duyên với “chức trọng quyền cao” mà không chu
toàn bổn phận đầy gian nan khổ ải, đòi hỏi những hiến thân phục vụ cho chân lý.
Cũng có những người ngoại tình vì những khát vọng khoái lạc chóng
qua mà bỏ rơi Thiên Chúa muôn đời hằng hữu.
Có ông ngoại tình “bắt cá hai tay” không mất chuyện trong đạo mà
được cả chuyện ngoài đời, trong ngoài đều có lợi……
Ma quỷ khôn ranh tạo ra muôn hình vạn trạng cách phạm tội ngoại
tình đối với lời thề hứa chung thủy với Thiên Chúa và còn đưa dẫn chúng ta cách
tài tình đến chỗ phải làm thân nô lệ cho tội lỗi.
Không ai vô tội. “Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước
đi.”
Lời Chúa xoáy vào tâm can mỗi người. Từng người rút êm. Không ai
dám cầm viên đá mà quăng vào người phụ nữ.
Cách đây không lâu, chỉ vài chục năm thôi, tôi còn nhớ như in hình
ảnh những cô “ăn cơm trước kẻng”, những bà có chồng công khai chung sống với
người khác, đứng trước cộng đoàn đọc bản tự thú để được tha vạ mà xưng tội rước
lễ. Tôi cũng thấy có các cô thôi, không thấy các anh, các ông. Các cô, các bà
ấy bị những biện pháp chế tài vì là tội nhân công khai -có lẽ công khai vì cái
bầu - Có nơi còn phải bị nộp phạt cho giáo xứ nữa.
Những dịp ấy, có nhiều tiếng xì xào trong nhà thờ. Ra khỏi nhà thờ,
cả cô và bà đều cúi gầm mặt xuống mà đi vì xấu hổ trước mặt mọi người. Rồi, nếu
có lễ cưới, thì Bí Tích Hôn Phối bị gọi là Phép Giao, cử hành trong phòng thánh
mấy phút là xong.
Tưởng là khủng khiếp cho một não trạng phân biệt đối xử như thế,
nhưng ít nhiều cũng đã bảo đảm được cho lớp trẻ một thời biết gìn giữ đức khiết
tịnh tiền hôn nhân, lớp già biết gìn giữ đặc tính đơn hôn trong hôn nhân công
giáo.
Xin một chút tản mạn ngoài lề…
Còn thời nay… “Mẹ lạy con đừng phá cái thai ấy. Đã lỡ phạm tội, lỡ có bầu rồi,
con đừng phạm thêm cái tội giết người nữa con ơi! Phá thai là giết người không
có sức kháng cự, không có khả năng tự bảo vệ, là giết chính con mình… Tội tày
trời. Mẹ năn nỉ con…”
Còn thời nay…. người trẻ chưa sống đời vợ chồng, đòi sống thử đã
đành, người già cũng sanh tật tìm hoa thơm cỏ lạ, thành ra tội lỗi khắp nơi
khắp chốn, tội lỗi đủ mọi lớp tuổi, mọi thành phần. Sống thử, ngoại tình, phá
thai, ly dị…
trở thành đại dịch để lại những hậu quả khủng khiếp về đời sống luân lý cho
không chỉ một thế hệ, và chắc chắn cũng là hậu quả vô cùng tệ hại đối với sự
tồn vong của một dân tộc ….
Nhưng xin đừng kết án. Xin đừng ném đá. Chúa Giêsu bảo: “Anh em
đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án,
thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa
thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em
bằng đấu ấy" (Lc 6,36-38).
Thực tế, lòng người quá hẹp hòi ích kỷ, như bà De Girardin đã nói:
“ đàn bà chỉ tha thứ sau khi đã trừng phạt”, hoặc như Tennyson: “đàn bà rất cay
nghiệt với đàn bà.” Vâng tính đàn bà ấy lại ngự trị ngay trong lòng những người
đàn ông tưởng như là độ lượng. Ngược lại, không thiếu những phụ nữ còn độ lượng
hơn cả đàn ông.
Đối với Chúa Giêsu, tha thứ tuyệt đối là điều kiện tiên quyết để
phục hồi tình trạng nguyên tuyền của hôn ước thánh thiện giữa Thiên Chúa và con
người, giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúa Giêsu là tấm lòng bao dung của Thiên
Chúa. Lòng bao dung của Thiên Chúa được nhắc đến trong bài đọc 1, Is 43, 18-19:
"Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc
thuở trước. Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không
nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng
sông tại vùng đất khô cằn.”
Vâng, Thiên Chúa không nhắc lại chuyện xưa, không dằn xé đay
nghiến, không trừng phạt tức khắc, nhưng chỉ biết khoan dung kiên nhẫn chờ đợi
và thứ tha vô lượng. Ngài còn mở ra một con đường của bình an hy vọng: “Đừng phạm
tội nữa.”
Và để có một hướng định quyết liệt cho việc không tái phạm tội,
thánh Phaolô chỉ dẫn: “Thưa anh em, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với
mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi
đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô…….
Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý
đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. (Pl
3,8-14)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là lòng khoan dung của Thiên Chúa, xin cho
chúng con giữ lòng chung thủy với Chúa, và khi lỡ lầm, xin cho chúng con biết
vững tin vào lòng tha thứ vô lượng của Chúa, mà quyết tâm nối lại duyên tình
hạnh phúc vô biên với Chúa, và dứt khoát nói “không” với tội lỗi. Amen.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Tuần trước
chúng ta được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa qua dụ ngôn người cha
nhân hậu (x. Lc 15,11-32).
Tuần này chúng ta lại được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên
Chúa, qua lời nói và thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện người phụ nữ phạm
tội ngoại tình (x. Ga 8, 11-32).
1. Tha thứ sẽ cứu sống, kết án sẽ giết chết
Tội thì đáng phạt và hình phạt nặng nhất là phải chết. Nhưng Thiên
Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, trái lại Ngài muốn nó ăn năn sám hối và
được sống(x. Ed 18,23). Vì vậy, Chúa Giêsu thường lui tới với người tội lỗi
không phải tìm cách kết án nhưng tìm cách để tha thứ. Tha thứ để cứu sống họ.
Ngài đã từng tha thứ cho Mathêu, cho Mađalêna, cho Phêrô, cho kẻ trộm lành và
cho những kẻ đóng đinh Ngài. Ngài cũng dạy Phêrô tha thứ cho anh em không phải
bảy lần mà bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,22). Biết được tinh thần tha thứ của Chúa
Giêsu như vậy, nên những người luật sĩ và biệt phái mới giăng bẫy để làm hại
Ngài. Họ dẫn đến với Ngài một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, để
nhờ Ngài xét xử. Cái bẫy họ giăng ra, nhằm mục đích làm cho Chúa phải tiến
thoái lưỡng nan. Nếu Chúa Giêsu kết tội người phụ nữ, thì dĩ nhiên Ngài đi ngược
lại với tình thương tha thứ mà lâu nay Ngài rao giảng. Mặt khác, Ngài sẽ vi
phạm quyền xét xử của Đế quốc Rôma đang cai trị nước Do Thái lúc bấy giờ. Còn
nếu Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, thì Ngài lại đi ngược lại với Luật của
tiền nhân. Vì theo luật Do thái, người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại
tình sẽ bị ném đá cho đến chết (x. Lv 20,10; Đnl 22,22). Nhưng, khi có lòng
thương xót thì luôn tìm kiếm cách thế để cứu thoát. Cách thế của Chúa Giêsu lúc
này là gì? Tin Mừng kể lại, sau khi nghe người Do Thái tố cáo, Chúa Giêsu cúi
xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Có lẽ Ngài muốn làm thế là để giúp
họ có thời gian xem xét lương tâm của mình. Đó cũng là thời gian để Ngài tìm
cách giải cứu phạm nhân. Thánh Giêrônimô thì cho rằng Chúa Giêsu đang viết tội
của họ. Nhưng vì họ cứ hỏi mãi, nên Chúa Giêsu đứng lên và bảo họ: “Ai trong
các ngươi sạch tội thì hãy ném đá chị này trước đi”(Ga 8,7). Nhưng rồi, không
thấy ai ném đá, tức là không ai trong bọn họ sạch tội. Lạ lùng hơn nữa, họ im
lặng và “Rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất”(Ga
8,9). Như vậy, Lòng thương xót của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Khi chỉ còn Ngài
và người phụ nữ, Ngài nói: “Tôi cũng không kết án chị đâu”(x. Ga 8,11). Không
kết án, đó là bản chất của Lòng Thương Xót. Như vậy, bài học mà Chúa muốn dạy
chúng ta đã rõ ràng: Nếu có Lòng Thương Xót thì sẽ tìm ra cách thế để giải
quyết, cho dù sự việc có bế tắc đến đâu. Bởi vì, tình thương tha thứ bao giờ
cũng cứu sống, còn kết án thì sẽ giết chết.
2. Cần sửa mình trước khi sửa anh em
Đối nghịch với Chúa Giêsu, là hạng người biệt phái và luật sĩ. Họ
luôn tìm cách để kết án. Kết án có nguy cơ giết chết. Họ bắt được một người phụ
nữ phạm tội ngoại tình. Theo luật Môsê, họ có quyền ném đá người phụ nữ này cho
đến chết. Nhưng, họ muốn bắn một mũi tên mà trúng hai đích. Đối với họ, đây là
một cơ may để họ gài bẩy Chúa Giêsu. Cho nên, với thái độ đầy sát khí, họ lôi
kéo người phụ nữ đến với Chúa Giêsu để gài bẩy người. Chúa Giêsu nói với họ:
“Ai trong các ngươi sách tội thì hãy ném đá chị này trước đi” (Ga 8,7). Lời mời
gọi xem ra nhẹ nhàng nhưng đã xoáy vào lương tâm của họ. Bởi vì, đã là con
người thì ai cũng phạm tội: Không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ. Tội trong
tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Thông thường, càng nhiều
tuổi thì lại càng nhiều tội. Chính câu chuyện Tin mừng này thôi cũng cho ta
thấy những người Do Thái đã mắc hai thứ tội rất nặng: Tội thứ nhất là “Bêu xấu
người phụ nữ”; tội thứ hai là “Gài bẩy” để âm mưu giết chết Chúa Giêsu. Vì vậy,
Thánh Luca kể: “Họ im lặng và rút lui từng người một, bắt đầu là những người
nhiều tuổi nhất” (Ga 8,9). Hành động rút lui của họ, chứng tỏ họ biết nhận ra
tội lỗi của mình. Đó là bước đầu của sự sám hối. Hy vọng, sau đó họ sám hối
thực sự để trở về với Thiên Chúa tình thương.
Bản chất của con người thường hay che dấu tội mình, nhưng lại thích
khuếch trương tội người khác. Tội của mình thì bỏ vào túi đeo sau lưng, còn tội
người khác thì đeo vào chiếc túi trước ngực. Người xưa nói không sai: “Chân
mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người.” Bài học chúng ta rút
ra cho bản thân là: Phải sửa mình trước khi sửa người khác với nguyên tắc người
xưa rằng: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân.”
3. Từ nay đừng phạm tội nữa
Chúa Giêsu đã từng nói với người thanh niên, muốn được hưởng sự
sống đời đời thì một trong những tội cần phải tránh là tội ngoại tình (x. Mt
19,18). Tội ngoại tình cũng là một trong những thứ tội phạm đến điều răn thứ 9
trong 10 điều răn của Chúa. Tội ngoại tình gây ra những hậu quả hết sức nặng nề
trong đời sống gia đình, đặc biệt là trong mối quan hệ vợ chồng. Người ngoại
tình sẽ đánh mất niềm tin và sự kính trọng của người phối ngẫu, dẫn đến việc
đánh ghen, cãi vã, đuổi ra khỏi nhà và ly dị. Có lẽ vì lý do đó mà theo luật Do
Thái, ngoại tình là một trong ba tội lớn nhất và bắt buộc phạm nhân phải chết.
Hình thức xử tội ngoại tình là ném đá cho đến chết. Tại Việt Nam chúng ta,
ngoại tình dẫn đến ly hôn bị phạt tù 1 năm là nội dung được quy định tại Điều
182 Bộ luật hình sự 2015 (Có hiệu lực từ ngày 01/7/2016).
Việc Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, không có nghĩa là Ngài coi
thường tội ngoại tình, nhưng để chị ta khi đối diện với “Lòng Thương Xót” mà
hoán cải đổi mới cuộc đời. Vì vậy, Ngài nói với người phụ nữ: “Ta không kết án
chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11). Chúng ta không biết
sau đó cuộc sống của người phụ nữ này như thế nào. Nhưng ai cũng hy vọng chị sẽ
đổi mới cuộc đời của mình giống như Mathêu, Giakêu, Mađalêna sau khi gặp Chúa
Giêsu. Tức là cái mới thay thế cho cái cũ, đời sống tốt lành sẽ thay thế cho
đời sống tội lỗi, như lời mời gọi của Bài đọc thứ nhất: “Các ngươi đừng nhớ đến
dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ
đây chúng sẽ xuất hiện”(x. Is 43, 18-19). Chính Thánh Phaolô đã thực hiện triệt
để lời mời gọi này. Sau cú ngã ngựa trên đường Đamát, Ngài đã quên đi quá khứ
tội lỗi của mình và hướng tới tương lai để sống trọn ơn kêu gọi của Thiên Chúa.
Ngài nói: “Tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước,
tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời
cao trong Ðức Giêsu Kitô”(Pl 3,13-14). Ước gì mỗi người chúng ta cũng luôn biết
quên đi quá khứ tội lỗi để hướng tới tương lai, với một lòng dốc quyết mạnh mẽ
“Từ nay tôi sẽ không phạm tội nữa.”
Lạy Chúa Giêsu, vì lòng thương xót, Chúa đã tìm cách để cứu người
phụ nữ ngoại tình trước cái bẩy mà người Do Thái giăng ra. Xin cho mỗi chúng
con có được lòng thương xót của Chúa, luôn biết nghĩ cách để cứu anh em mình
hơn là kết án họ. Xin cho chúng con biết nhận ra tội lỗi của mình để thống hối
ăn năn xưng tội và quyết tâm từ nay không còn phạm tội nữa. Amen.
37. Đức Giêsu và người phụ nữ ngoại tình
(Chú giải và suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)
Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng chúng ta cũng
là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón tiếp Đức Giêsu.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV ("Sách các Dấu lạ của
Đức Giêsu", tức ch. 2–12), nhưng được coi như một bản văn không thuộc về
bản gốc TM IV. Lý do: bản văn này không có trong những thủ bản Hy Lạp quan
trọng phát xuất từ Đông phương (chẳng hạn bản Papyrus Bodmer II = P66, năm
200); các tác giả Hy Lạp viết về TM Ga thuộc thiên niên kỷ I không hề bình luận
bản văn này; nó chỉ xuất hiện vào khoảng năm 900 trong bản văn Hy Lạp chuẩn.
Ngoài ra, còn có những tiêu chuẩn văn chương: bản văn có từ vựng và văn phong
của các TMNL, đặc biệt của TM Lc; nó có vẻ không ở đúng chỗ, dù là tại chỗ hiện
nay (giữa Ga 7,52 và Ga 8,12), hay ở trong ngữ cảnh tổng quát là TM IV.
Giai thoại này được đặt ở đây có lẽ để minh họa lời khẳng định của
Đức Giêsu ở Ga 8,15: "Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả.” Chúng ta thấy
như thế trong một số thủ bản chữ hoa Hy Lạp, nhất là bản D (Codex Bèze), trong
các thủ bản La-tinh cổ và tốt, và dĩ nhiên trong bản Phổ thông.
Bản văn này chứa một truyền thống Tin Mừng về cuộc sống công khai
của Đức Giêsu: cách thức xử sự của các người tố cáo được các đoạn khác của TM
làm chứng; thái độ quen thuộc của Đức Giêsu khi đối diện với Luật Môsê, và sự
tha thứ Người ban cho những kẻ tội lỗi. Do đó, ta không thể hoài nghi về sử
tính của bản văn. Đàng khác, từ vựng cũng như xu hướng thần học khiến ta nghĩ
rằng đây là công trình của tác giả Luca. Chính vì thế, có một loạt thủ bản chép
đoạn văn này vào sau Lc 21,38.
Người ta cũng đoán lý do khiến bản văn này không thuộc về các TM
ngay từ đầu: rất có thể lý do mạnh nhất, đó là khó mà dung hòa sự tha thứ quá
trọn vẹn Đức Giêsu ban cho người phụ nữ với việc đền tội nghiêm khắc mà Hội Thánh
sơ khai quy định cho tội ngoại tình.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Khung cảnh (8,1-2);
2) Vụ "Người phụ nữ ngoại tình" (8,3-11):
a)
Các kinh sư/Pharisêu – Người phụ nữ "đứng ở giữa" – [Đức Giêsu] (c.
3),
b)
Các kinh sư/Pharisêu – Đức Giêsu – [Người phụ nữ] (cc. 4-6),
c)
Đức Giêsu và các kinh sư/Pharisêu: câu nói tạo khúc quanh (cc. 7-8),
b')
Đức Giêsu – Các kinh sư/Pharisêu – [Người phụ nữ] (c. 9a),
a')
Đức Giêsu – Người phụ nữ "đứng ở giữa" – [Các kinh sư/Pharisêu] (cc.
9b-11).
3.- Vài điểm chú giải
- vừa tảng sáng (2): Ngoại trừ chỗ này
trong TM IV, từ orthros, "bình minh" (orthrou, "lúc bình minh,
lúc tảng sáng") chỉ xuất hiện trong TM Lc và Cv thôi (x. Lc 24,1; Cv
5,21). Riêng Lc 21,38 dùng động từ orthrizô, "dậy sớm.”
- các kinh sư và người Pharisêu
(2): Đây là một công thức quen thuộc của các TMNL, còn TM Ga thì chuộng kiểu
nói "các thượng tế và người Pharisêu" (x. 7,32.45; 11,45.57); ngoài
đoạn văn này, TM Ga không bao giờ nói đến các kinh sư.
- bị bắt gặp đang ngoại tình (3): Câu 4 sẽ xác định
rõ hơn: "bị bắt quả tang đang ngoại tình.” Theo Đnl 19,15, phải có ít ra
hai người làm chứng rằng đã thấy sự việc, không kể người chồng. Không chỗ nào
nói đến anh tình nhân, có lẽ anh này đã trốn mất. Có thể so sánh truyện này với
truyện bà Susanna (Đn 13,36-40 Vg).
- Thưa Thầy (4): Danh xưng didaskalos ở hô-cách[1] này rất
quen thuộc với truyền thống Nhất Lãm; còn trong Ga, tác giả thường dùng từ
Rabbi để thưa với Đức Giêsu (Ga 1,38).
- trong sách Luật, ông Môsê truyền
(5): Các kinh sư và người Pharisêu đang quy chiếu về Lv 20,10 và Đnl 22,22-24
để lý luận.
- Họ nói thế nhằm thử Người (6): Câu này hầu như
cũng là câu Ga 6,6 trong tiếng Hy Lạp.
- để có cớ tố cáo Người (6): Câu này hầu như
cũng là câu Lc 6,7 trong tiếng Hy Lạp.
- viết trên đất (6): Có nhiều gợi ý về
điểm này.
1) Thánh Giêrônimô cho rằng Đức Giêsu đã viết tội của những người
tố cáo người phụ nữ. Ngài nghĩ như thế vì dựa trên Gr 17,13;
2) Theo J.D.M. Derrett, người chồng đã lập mưu với các người chứng
để bắt quả tang vợ phạm tội; do đó dựa theo c. 6, Đức Giêsu đã viết lên đất câu
Xh 23,1b: "(để làm chứng gian)", và dựa theo c. 8, Người đã viết Xh
23,7a. Với lại sách Đn đã quy chiếu về câu Xh này trong truyện bà Susanna (Đn
13,53);
3) T.W. Manson lưu ý rằng trong cách thực hành của Luật Rôma, trước
tiên vị thẩm phán viết bản án ra, rồi mới đọc to lên. Như thế, hẳn là c. 6 cho
thấy Đức Giêsu đã viết bản án ra, rồi công bố ở c. 7; rồi ở c. 8, Người lại
viết những gì sẽ công bố ở c. 11.
Cách giải thích hợp lý nhất, đó là Đức Giêsu chỉ vạch các đường nét
trên mặt đất trong khi Người suy nghĩ, hoặc muốn tỏ ra không nao núng hay Người
đang kềm hãm các cảm giác chán ngán về sự hăng hái đầy gian ác của những người
tố cáo. E. Power ghi lại nhiều trường hợp từ nền văn chương Ả-rập cho thấy thói
quen Sê-mít vẽ trên đất khi không muốn can thiệp vào vụ việc nào đó. Dù sao,
chúng ta có cảm tưởng là nếu là chuyện quan trọng hơn, thì nội dung của những
nét vẽ đó đã được kể lại.
- Ai trong các ông sạch tội,... ném trước...
(7): Đức Giêsu cũng trích dẫn Đnl 13,9-10 và ch. 17. Đnl 17,7 nhìn nhận rằng
người làm chứng chống lại bị cáo có một trách nhiệm đặc biệt đối với cái chết
của kẻ ấy.
- họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?
(10): Đức Giêsu hỏi vì ngạc nhiên hay là có ý châm biếm? Có lẽ phải nói lời này
vừa có ý minh giải hoàn cảnh vừa tạo sự yên tâm cho người phụ nữ, và như thế
tương đương với câu: "Như vậy, họ đã bỏ rơi vụ này rồi.” Vì những người
chứng và những người tố cáo đã bỏ đi, vụ việc đã hỏng rồi. Động từ "lên
án" ở đây là động từ chuyên môn katakrinein; ở những chỗ khác, khi nói về
sự phê phán, phán đoán, tác giả Ga luôn luôn sử dụng động từ trung lập hơn, đó
là krinein (Ga 3,17.18; 5,22.30; 8,15.16...).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Cách thức Đức Giêsu đối xử với những người tội lỗi lâu nay chắc
chắn không được các đối thủ của Người chấp nhận. Người đã ăn uống đồng bàn với
những người tội lỗi, đã loan báo cho họ biết Thiên Chúa từ bi thương xót, sẵn
sàng tha thứ cho họ. Trong khi đó, các đối thủ của Người tỏ một thái độ khinh
bỉ, giữ khoảng cách với những người tội lỗi, không muốn bị họ làm cho ra
"nhơ uế.” Họ phản đối cách thức xử sự của Đức Giêsu và muốn chứng tỏ cho
Người thấy rằng chỉ lối sống của họ mới tương ứng với Lề Luật, nghĩa là với ý
muốn của Thiên Chúa đã được mạc khải.
Hôm nay, lại có một sự cố xảy ra để cho thấy những điểm này.
* Khung cảnh (1-2)
Đức Giêsu đang giảng dạy tại Đền Thờ trong tuần lễ cuối cùng của
đời Người. Nhiều chi tiết cho biết như thế: Núi Ôliu, Đền Thờ, giảng dạy có uy
quyền chung quanh Đền Thờ. Dân chúng vây quanh, lắng nghe Người. Tác giả nói
"toàn dân" để cho hiểu là lời rao giảng của Đức Giêsu gây một ảnh
hưởng lớn trên người Do Thái.
* Vụ "người phụ nữ ngoại tình" (3-11)
Lần này, các kẻ thù của Người tưởng là cuối cùng họ đã có thể đưa
Người vào bẫy để tiêu diệt Người. Họ không tranh luận với Người nữa, mà họ điệu
đến cho Người một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Vụ việc đã quá
rõ: bà này có tội. Để xác định tội trạng, thì đã có những người có uy tín nhất
trong xã hội, những người biết giải thích Luật. Ở đây chúng ta thấy có các kinh
sư và người Pharisêu: các kinh sư là những chuyên viên về Luật; còn các
Pharisêu là những người ra sức bảo vệ việc áp dụng Luật theo mặt chữ. Họ trích
Luật liên hệ đến trường hợp này. Lề Luật tuyên bố minh nhiên: "Khi người
đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại,
thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử" (Lv 20,10;
x. thêm Đnl 13,7-10; 17,2tt). Trường hợp ở đây thì quá rõ, vì đây là ca bắt quả
tang.
Các đối thủ của Đức Giêsu tận dụng tình thế này để gây khó khăn cho
Người. Họ đưa người đàn bà ngoại tình đến và xin Người cho ý kiến: "Trong
sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy,
Thầy nghĩ sao?" Đức Giêsu còn có thể làm gì nếu không phải là đồng thuận
đi theo cách thực hành của các đối thủ, tức là yêu cầu ném đá người đàn bà tức
khắc? Hoặc là Người ưng theo cách thực hành của họ, hoặc là Người chứng tỏ
Người khinh thường Lề Luật. Tất cả mọi chuyện này xảy ra nơi thanh thiên bạch
nhật, trước sự chứng kiến của dân chúng đang nghe Đức Giêsu. Nếu Người đồng
thuận với các xử sự của các đối thủ, Người cũng đồng thuận với lập trường của
họ đối với những người tội lỗi, Người sẽ bị buộc phải phủ nhận cách xử sự của
Người và thế là Người sẽ bị lật mặt nạ ra như là vị thầy giả hiệu. Ngược lại,
nếu Người không chấp nhận lối xử sự của họ, Người sẽ phủ nhận một khoản luật
rất rõ ràng và cũng sẽ bị toàn dân coi là kẻ vị phạm Lề Luật. Đức Giêsu sẽ ứng
xử thế nào trong hoàn cảnh có vẻ không ngõ thoát này?
Hết sức bình thản, Đức Giêsu cúi xuống viết, hoặc vẽ những dấu trên
mặt đất. Người chẳng hề liếc nhìn họ hay trả lời họ gì cả. Dường như Người hoàn
toàn chỉ lo làm công việc là dùng ngón tay vẽ trên đất. Mọi người cứ chờ một
lời nói của Người: các đối thủ thì rất tự tin, người phụ nữ thì cam chịu, dân
chúng thì căng thẳng. Người vẽ như thế để làm gì? Người muốn làm cho các đối
thủ phải mệt mỏi hoặc bực bội chăng? Đây là một cử chỉ biểu tượng chăng? Ở Gr
17,13, chúng ta đọc được: "Ai tráo trở với Người sẽ có tên viết mặt đất,
vì chúng đã bỏ Yavê, mạch nước hằng sống" (Bd NTT). Phải chăng Đức Giêsu
muốn nhắc cho họ nhớ rằng họ đã thất trung với Thiên Chúa, nên tên họ đáng bị
viết trên mặt đất để rồi xóa đi? Dù sao, họ cũng nôn nóng, thúc bách Người cho
câu trả lời.
Từ đầu đến giờ Đức Giêsu chưa nói lời nào. Đến đây câu chuyện
chuyển sang hướng khác, do lời đầu tiên Người nói với các kinh sư và người
Pharisêu. Bấy giờ Đức Giêsu mới ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các ông
sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi" (8,7). Họ đã chỉ nhìn đến Lề
Luật và tội lỗi của người đàn bà; họ tự tin, họ ngạo nghễ dương dương tự đắc.
Ngược lại, Đức Giêsu lại nhắc họ nhớ đến tội lỗi của họ: họ không thể đề mình
ra như những kẻ vô phương trách cứ và không có tội; chính họ cũng cần chạy đến
xin Thiên Chúa kiên nhẫn với họ và thương xót họ. Làm sao mà họ có thể vội vã
yêu cầu xử tử người đàn bà này như thế, mà không hề nghĩ lại? Họ đã chỉ muốn xử
người phụ nữ chỉ như một "ca" đơn thuần, cách lạnh lùng, y như một
bài toán thôi. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của họ; trái lại,
Người kéo họ chú ý đến một sự kiện họ đã quên mất, đó là tình trạng thật của họ
trước mắt Thiên Chúa: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà
ném trước đi" (c. 7). Đức Giêsu bắt họ phải đưa bản thân ra mà xét đoán.
Và Người cho họ có thì giờ: Người lại cúi xuống, và viết nữa. Thế là xảy ra một
kết quả: các đối thủ của Đức Giêsu đủ lương thiện để chấp nhận lời Đức Giêsu
trong lòng. Không một ai dám khẳng định là mình không có tội; không một ai dám
cầm đá mà ném trước cả. Tất cả đã bỏ đi.
Khi Đức Giêsu ngẩng lên lần nữa, thì chỉ còn lại người phụ nữ đứng
đó. Cho tới đây, Người chỉ quan tâm đến các kẻ tố cáo người phụ nữ; bây giờ
Người ngỏ lời với bà. Hai câu hỏi của Người đã làm sáng tỏ hoàn cảnh mới này:
"Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" (c. 10). Tất cả
mọi kẻ tố cáo đã bỏ đi, không ai kết án bà phải chịu ném đá. Đến đây Đức Giêsu
mới lấy lập trường: chính Người cũng không kết án bà phải chịu ném đá, nhưng
Người khuyến cáo: "Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa" (c.
11). Đức Giêsu không hề chuẩn nhận cho lối sống của người phụ nữ này hoặc giảm
thiểu mức độ của lối sống đó. Những gì bà đã làm là tội lỗi, là những điều đi
ngược lại thánh ý Thiên Chúa. Đức Giêsu mạnh mẽ khuyến khích bà tránh đi lối
sống đó. Người tha thứ cho bà và chỉ cho bà thấy trách nhiệm mới của bà.
+ Kết luận
Một giai thoại thật tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và
cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo cũng như người phụ
nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giêsu lòng từ bi thương xót của Thiên
Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng từ bi thương
xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng từ bi với
người thân cận. Người phụ nữ đã được Đức Giêsu cứu thoát khi bà rơi vào hoàn
cảnh nguy hiểm và qua Đức Giêsu, đã trải nghiệm được ơn tha thứ từ bi của Thiên
Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác
tín về giáo lý cứu độ của Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua vụ việc này, chúng ta thấy rằng các kinh sư và người
Pharisêu thiếu lòng từ bi thương xót: họ nằng nặc tố cáo người phụ nữ; họ nôn
nóng đưa Đức Giêsu vào bẫy. Khi mục đích là tiêu diệt kẻ khác, thì mọi sự việc,
kể cả con người, đều có thể trở thành phương tiện cho người ta thực hiện ý đồ
gian ác. Luật lệ có thể trở thành phương thế để gây áp lực; con người có thể
trở thành cái bẫy để ám hại kẻ khác. Các kinh sư và người Pharisêu coi người
phụ nữ ngoại tình như một "ca" đơn thuần, cách lạnh lùng, y như thể
là một bài toán phải tìm ra đáp án. Đức Giêsu mời gọi chúng ta: khi hành động,
cần phải xem ý hướng chúng ta thế nào. Ở đây, chúng ta gặp lại các giáo huấn
của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi (Mt 7,1-5).
2. Bài Tin Mừng này cũng cho thấy rằng Đức Giêsu đã đưa mạc khải về
lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa trong Cựu Ước đến chỗ hoàn tất. Là Con
Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đến để làm chứng về tình thương này; là Đấng Cứu Thế,
Người đã đến để cứu những gì đã mất; là thầy thuốc, Người đã đến để chữa các
bệnh nhân. Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng chúng ta cũng
là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón tiếp Người.
3. Là những con người cũng mắc vô số thiếu sót và lầm lỗi, chúng ta
cũng cần chạy đến với lòng kiên nhẫn và từ bi thương xót của Thiên Chúa. Thế
thì vì sao chúng ta lại có thể vội vàng và không hề áy náy xin kết án kẻ khác?
Chúng ta có chia sẻ thao thức của Đức Giêsu là cứu chữa, hay chúng ta có một
niềm vui thiếu lành mạnh trong lòng khi kết án kẻ khác, vì lúc đó chúng ta có
cảm tưởng mình không có tội (x. 1 Cr 13,6)? Chúng ta khó chịu với các kinh sư
vì họ định ném đá người phụ nữ, nhưng chúng ta lại không giống họ sao? Chúng ta
lại không nói với người ta những điều y như ném đá vào họ đó sao? Chúng ta cần
ý thức rằng ơn gọi của chúng ta vừa là ra đi đưa lại ơn cứu chữa như Đức Giêsu
đã làm xưa kia, vừa là làm chứng về ơn cứu chữa mà chính chúng ta liên tục đón
nhận.
4. Đã có những lần chúng ta được Đức Giêsu tha thứ. Điều đó không
có nghĩa là Người chuẩn nhận cho cách sống chúng ta vẫn theo lâu nay. Ơn tha
thứ cũng kèm theo một khuyến khích mãnh liệt, thậm chí một đòi hỏi, hãy thay
đổi đời sống. Nếu hôm nay, chúng ta vẫn còn thấy nơi mình một xu hướng mãnh
liệt kết án người khác, thì cách chữa trị xu hướng bệnh tất đó hay nhất là xem
chúng ta đã đi xưng tội bao nhiêu lần, đã bao nhiêu lần nhận được ơn tha thứ,
và rồi đã sống theo lời khuyến cáo của Đức Giêsu đến đâu: "Hãy đi, và từ
nay đừng phạm tội nữa.” Tại sao lại có khá nhiều Kitô hữu có vẻ thích thú khi
tìm ra và công khai hóa các lỗi lầm của người khác?
5. Tội là điều nghiêm trọng, vì nó làm cho chúng ta không hạnh phúc
và phá hỏng cuộc đời chúng ta. Đức Giêsu không bảo người phụ nữ: "Chị cứ
đi bình an, chị có lý khi phản bội chồng chị, cứ tiếp tục đi!", nhưng
dường như muốn bảo: "Chị hãy ngưng gây hại cho chính chị, đừng phá hỏng
đời sống chị nữa chỉ vì một ít khoảnh khắc lạc thú.” Không ai ghét tội cho bằng
Đức Giêsu, bởi vì không ai yêu thương chúng ta cho bằng Đức Giêsu. Thế nhưng
Người không kết án những kẻ phạm lỗi, cũng không góp thêm phần tàn phá vào
những gì kẻ tội lỗi đã làm nơi chính họ. Người bảo: "Từ nay đừng phạm tội
nữa!"
-------------------------
[1] Vocative: một sự thay đổi về ngữ pháp trong danh từ để diễn tả
việc xưng hô.
38. Chú giải của Noel Quesson
Còn Đức Giêsu thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền
Thờ
Ngài có thói quen, nhất là trong tuần lễ cuối cùng, đến vườn
Ghếtsêmani và trải qua đêm tại đó, để tìm sự yên tĩnh và cầu nguyện.
Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các
kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp
đang ngoại tình.
Vừa tảng sáng, Đức Giêsu đã ngồi trong sân Đền thờ, có đám dân vây
quanh Ngài. Tự nhiên, ở đằng kia ồn ào nổi lên. Một nhôm người Pharisêu cố kéo
một phụ nữ đang vùng vẫy. Đám đông giãn ra và làm thành vòng tròn. "Người
ta đã bắt gặp người phụ nữ này nơi nhà một người đàn ông… Chị ta phản bội chồng
mình... Chị ta đáng chết... luật lệ đã rõ ràng" (Đnl 22,22-24; Lv 20, 10).
Làm sao họ chỉ dẫn đến có một người đàn bà? Trong bất cứ một vụ ngoại tình nào,
cũng có đàn ông nữa chứ và luật lệ cũng lên án đàn ông rõ ràng, như đàn bà vậy!
Nhưng chúng ta biết rằng, các Thánh sử (nhất là Luca, vì theo thủ bản cổ nhất,
có lẽ ông là tác giả trang Tin Mừng này hơn là Gioan). Không ngừng nhấn mạnh về
thái độ mới lạ của Đức Giêsu trước quan niệm đương thời về phụ nữ. Trong khi
phụ nữ bị xã hội khinh bỉ và gạt bỏ ra ngoài, thì Đức Giêsu lại làm tảng giá
trị và luôn phục hồi danh dự cho họ.
Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người
đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền
cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó
Quả thực, ngoại tình là một lỗi nặng, mà mọi nền văn minh đều lên
án cách nghiêm khắc. Một xã hội không thể coi thường lâu đài vấn đề này mà
không tự huỷ diệt. Có cần bao dung cho sự dữ và bất công mà
một người phối ngẫu phải chịu không? Trong một bối cảnh quá phóng túng và lệch
lạc về dục tính như thế, nếu gia đình, con cái có thể phát triển mà không gặp
thương tổn sao?
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?
Mọi người đều biết rằng, Đức Giêsu tái biểu dương tính bất khả phân
ly của hôn phối để cứu tình yêu khỏi những tình trạng bất trung (Mt 5,31-32).
Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ lên án việc ngoại tình bằng cách khẳng định,
dù chỉ ưng thuận trong lòng đối với ý muốn xấu xa đó thì đã có tội rồi:
"Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người
ấy rồi” (Mt 5,28). Lòng nhân lành của Đức Giêsu không có nghĩa là Ngài chấp
nhận tình trạng phóng đãng.
Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người
Những người pharisêu và kinh sư biết rằng, Đức Giêsu thương yêu các
tội nhân và họ cũng yêu thương Người. Họ vì giao du với người tội lỗi.
"Ông ấy ăn uống với người tội lỗi.” Thực sự, vụ xét xử người đàn bà ngoại
tình chỉ là cớ để họ lên án Đức Giêsu, để họ gài bẫy Người. Nếu người lên án tử
hình người đàn bà này, Ngài sẽ xoá bỏ hình ảnh xót thương
mà Người đã để lại trong tâm trí kẻ tội lỗi: Nhờ đó, Người được quần chúng mến
phục, vì tình yêu, vì sự tốt lành của Người. Nếu người tha bổng người đàn bà
tội lỗi này, Người sẽ vi phạm luật Chúa, và cổ thể bị tử hình vì đã xúc phạm
đến Thiên Chúa, Đấng đã cấm phạm tội này. Như vậy, đây là "vụ xử án của
Đức Giêsu” đang diễn ra sau vụ xử án người đàn bà này.
Vụ án biểu tượng:
Bị cáo: Một người phụ nữ.
Người tố cáo: Kinh sư và những người pharisêu
Tội phạm: Ngoại tình, bị phạt theo luật Môsê.
Bản án: Tử hình
Vụ án thực sự:
Bị cáo: Đức Giêsu
Người tố cáo: Cũng nhóm kinh sư và Pharisêu
Tội phạm: Phạm thượng
Bản án: Tử hình
Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất
Sư im lặng này khởi đầu cho sự im lặng quan trọng của Đức Giêsu
trong vụ xử án chính Người.
Nhưng ở đây, phản ứng trên rất gây ngạc nhiên. Người không làm gì
cả. Người không trả lời gì hết. Người đang vẽ Như thể một người muốn lờ đi
không gì chung quanh mình. Đó không phải là một thứ tế nhị sao? Người không
ngước mắt lên nhìn người đàn bà, vì Người biết chị ta xấu hổ. Nhưng cũng nhận
ra việc Đức Giêsu khước từ phán quyết các biến cố dựa trên những phân tích của
con người. Chẳng hạn, Người đã có thể điều tra, đặt câu hỏi, tìm xem những
trách nhiệm? Liệu có những trường hợp giảm khinh hay không? Quá khứ của người
đàn bà này có giải thích được thái độ của chị ta không? Chồng chị đối xử với
chị như thế nào? Có nên phân biệt trường hợp ngoại tình trơ trẽn, công khai và
lâu dài thường xúc phạm, làm nhục người phối ngẫu, làm con cái đau khổ...Với
trường hợp ngoại tình kín đáo, tuy cũng có tội nhưng do yếu đuối chóng qua, chỉ
gây nhục nhã trong tâm hồn? Luật lên án tử hình một tội như vậy có quá đáng
chăng? Người ta có nên mở một chiến dịch để xin bãi bỏ luật này không? Những
câu hỏi như thế, con người và xã hội vẫn thường đặt ra. Nhưng Đức Giêsu tự ý
đặt mình trên một bình diện khác. Hình như Người không quan tâm gì. Người đang
viết trên cát. Đó có phải là một thái độ thoái thác không? Hẳn là không. Vì Đức
Giêsu sắp đề cập đến "lãnh vực khác.”
Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ
Chính họ cứ vẫn hỏi mãi. Lạy Chúa, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lúc
này, con đang hình dung ra Chúa đưa mắt nhìn từng người trong bọn họ. Con ngắm
nhìn đôi mắt đang di động, khi Chúa ngửa mặt lên. Trước tiên, Chúa nhìn người
đàn bà đáng thương, rồi những người tố cáo, rồi tới đám đông…
Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi
Chúa đòi hỏi họ phải trở về với lương tâm của mình. Cũng ngày nọ,
người ta tìm thủ phạm trong cuộc “Philatô tàn sát những người Galilê" hay
trong tai hoạ do “tháp Silôa” đổ xuống.
Đức Giêsu đặt cuộc tranh luận trên một bình diện khác: Dưới mắt
Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ? anh em
hãy có lòng nhân từ, như cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì
anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị
Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh
em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em
bằng đấu ấy" (Lc 6,36-38). Vâng, lạy Chúa, con đang cần lòng nhân hậu
thương xót của Chúa và của kẻ khác. Vậy xin Chúa hãy ban cho con, một trái tim
biết thương xót.
Ngôn sứ Hôsê (2,4-25) đã so sánh dân ít-ra-en với một người vợ được
Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình" bằng những hành động "điếm đàng.”
Mọi sự lìa bỏ Thiên Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên
Chúa dễ bị tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách
không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Đó là
điều khác hẳn với những cuộc tranh cãi nới toà án, dù những cuộc tranh cãi đó
hữu ích đến đâu cũng thế. Tội lỗi của tôi đã gây tổn thương cho Chúa, cho Đấng
yêu mến tôi. Chính Đức Giêsu đã nói điều đó. Ngài đã đến để mạc khải như thế!
Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ
trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi
Lạy Chúa Giêsu, lần thứ hai này, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lạy
Chúa, thực sự Chúa chứng tỏ lòng thương xót với những người Pharisêu nữa. Chúa
cũng không nỡ ném đá họ. Sau này, trên thập giá Chúa sẽ cầu xin: "Lạy Cha,
xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34). ôi! Sâu thẳm
thay lòng Chúa. Thay vì lột mặt nạ họ ở chỗ công khai, Chúa đã cho phép họ
"lần lượt" âm thầm rút lui, nhờ thái độ im lặng của Chúa.
Trong một lúc lâu im lặng, người đàn bà cũng có thời giờ suy nghĩ
vì tội lỗi của mình. Nhiều điều đang diễn ra trong đầu óc của Chị. Có thể chị
đã không bao giờ thực sự nhận ra tính nặng nề của tội chị phạm? Nhưng tình yêu
xót thương của Thiên Chúa, "không lên án" chị, sẽ phút chốc mạc khải
cho chị biết thế nào là tình yêu thực sự. Giờ chị đang nhìn Đức Giêsu. Ngài là
một con người nhân hậu. Có lẽ chị ta đang khóc... Chị ta đã thoát chết... Chị
không còn là người “ngoại tình" nữa. Chị ta đã được thanh tẩy.
Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa
Sự “khốn khổ”
đối với "lòng xót thương", Thánh Âutinh đã bình luận như vậy. Đó là
một hình tượng mà con muốn chiêm ngắm lâu giờ. Lạy Chúa Giêsu, xin tạ ơn Chúa.
Người ngẩng lên và nói: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên
án chị sao?" Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai cả." Đức
Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và
từ nay đừng phạm tội nữa!"
Tất cả những người tội lỗi khác, các kinh sư và người pharisêu đều
không hiểu gì nổi Đức Giêsu, không hiểu gì nơi Thiên Chúa cả! Nếu họ ở lại với
Đức Giêsu hẳn là họ cũng được tha thứ như người đàn bà này. Vì Đức Giêsu vẫn
thường nói: "Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả" (Ga 8,l5). "Tôi
đến để tìm và cứu những gì đã mất" (Lc 19,10). Thiên Chúa sai Con của
Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ
Con của Người mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Lạy Chúa, con cũng vậy, lúc này con đang cầu xin Chúa, con cần được
cứu độ. Con ở lại với Chúa. Trong cuối Mùa Chay này, con sẽ lãnh nhận dấu chỉ
nhạy cảm và hữu hiệu, đó là bí tích tình yêu thương xót của Chúa. Con muốn nghe
từ nơi vị đại diện của Chúa, như thể chính Chúa, những lời sau đây: "Tôi
không lên án anh chị, cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.”
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thầy và là người Anh của chúng con, Chúa
tốt lành và hài hoà tế nhị biết bao! Chúa vô cùng thông cảm
và đối xử nhân hậu với chúng con, là những người tội lỗi. Xin tạ ơn Chúa! Chúa
tuyệt đối không thoả hiệp với tội lỗi và sự ác.
“Đừng phạm tội nữa.” Tạ ơn Chúa! Chúa là Đấng không bao giờ giam
hãm chúng con trong quá khứ. Đứng tước người này người nọ mà chúng con thường
nói tới. “Không thể làm gì cho hắn được nữa… Tôi đã thử hết cách rồi…Đành chịu
thôi... " Thì chắc Chúa sẽ dừng lại trước con người đó với lòng tin cậy,
Chúa sẽ thương yêu người đó với thái độ trìu mến, Chúa sẽ nhìn họ với một cái
nhìn hoàn toàn mới mẻ, đến nỗi có thể làm phát sinh trong họ một trái tim mới.
Vậy Chúa là ai mà yêu thương chúng con như thế? Là Đấng vô cùng cao cả, là Đấng
rất dễ bị tổn thương, là Đấng hết sức nghèo nàn ư? Chúa là tình
yêu vô biên. Chúa là tình Yêu!