CÁC BÀI SUY NIỆM
LỄ THÁNH GIA – Năm C
LỄ THÁNH GIA – Năm C
MỤC LỤC
33. Lễ Thánh Gia Lm.
Carôlô Hồ Bặc Xái
35. Lễ Thánh Gia thất Phó
tế Gioan M, Thiên Khải CMC
36. Tình yêu gia thất Phó
tế Roberto Maria, CMC
37. Thiên thần này là ai? Cha
Mark Link, S.J.
39. Thưa vâng với Thiên Chúa mỗi
ngày Achille Degeest
40. Lễ Thánh gia thất Tin
Mừng Chúa Nhật
1. Gia đình
Gia đình là cửa ngõ để Con Thiên Chúa đi vào nhân loại như mọi
con người bình thường khác. Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu không thể không
nỗ lực, mỗi người ở địa vị của mình, xây dựng một gia đình gương mẫu. Thế nhưng
phụng vụ không muốn chỉ đóng khung trong phạm vi gia đình. Thực vậy, Con Thiên
Chúa giáng sinh làm người đâu phải chỉ để làm con Thánh Giuse và Mẹ Maria,
những bậc làm cha làm mẹ của Ngài ở trần gian, nhưng Ngài còn phải thực hiện
nhiệm vụ Cha trên trời đã trao phó. Thánh Giuse và Mẹ Maria đã không thể hiểu
ra ngay điều đó. Sự không hiểu được này đã tạo nên những khổ đau cho cả hai ông
bà.
Tình yêu trong gia đình bao gồm những nỗ lực vươn lên để thông
cảm và hiểu rõ những công việc của nhau, để xây dựng một sự đồng tâm nhất trí ở
mức độ cao hơn. Đoạn Tin Mừng không chỉ mô tả cảnh thân mật, đầm ấm của thánh
gia. Những tâm hồn đạo đức nói về sứ mạng của hài nhi Giêsu, đã tiên báo nỗi
sâu xé nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thâu qua của Mẹ Maria. Vượt thắng
được nỗi đớn đau ấy, như Mẹ Maria đã làm, khi Mẹ đứng dưới chân thánh giá,
chứng kiến hơi thở cuối cùng của người con yêu dấu, trong thái độ dâng hiến,
như Mẹ đã từng xin vâng với sứ thần Gabriel trong hoạt cảnh truyền tin, như thế
mối quan hệ giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu sẽ mật thiết hơn, khắng khít hơn.
Ở đây không chỉ còn là một gia đình ruột thịt, huyết thống mà
còn là một gia đình thiêng liêng, mọi người đều yêu thương, đồng tâm nhất trí
với nhau trong việc tuân giữ những ý định của Chúa và giúp đỡ lẫn nhau để trở
nên tốt lành thánh thiện hơn.
Trong cuộc đời rao giảng của mình, Chúa Giêsu không ngừng kêu
gọi chúng ta hãy vươn tơi loại gia đình này, trong đó sợi dây liên kết mọi
người lại với nhau, sẽ không còn phải là máu thịt, mà là chính Lời Chúa và ý
định tuyệt vời của Ngài. Gia đình là nơi đào tạo con người và giúp đỡ con người
đi vào xã hội. Riêng gia đình Kitô giáo còn phải là nơi đào tạo và giúp nhau đi
vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Cũng như đi vào công trình xây dựng nhân
loại thành một gia đình thánh, một gia đình của những người con được Thiên Chúa
tuyển chọn. Cuộc sống gia đình sẽ không chỉ là một sự xuôi chảy của những bổn
phận tự nhiên, mà còn là một nỗ lực vươn lên không ngừng, dù có phải ngang qua
những mâu thuẫn gay gắt, những giằng co có thể xé nát con tim người cha, người
mẹ, người con.
Thế nhưng chính những hy sinh ấy sẽ làm cho gia đình có được nền
tảng vững chắc trước mọi cơn phong ba bão táp.
2. Gia đình nhân loại.
Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng gia đình Kitô hữu
thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường dạy cho chúng ta những
bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và
thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói của gia đình công giáo.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn đóng khung nhãn giới của
chúng ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết thống. Bài học lớn nhất Ngài
để lại cho chúng ta đó là bài học làm người trong xã hội. Ngài không vun xới
cho gia đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng đại gia đình nhân loại
được cứu chuộc.
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã phải
trải qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng bắt bởi quyền lực thế
gian. Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường dân riêng của Chúa đã
đi qua thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong suốt 400 năm. Nhưng
rồi Ngài cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc xuất hành của dân
riêng khỏi đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc đời Chúa Giêsu và
đặt cuộc đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.
Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa Giêsu đã không chỉ đi với
cha mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết và sống lại của Ngài, một
dân mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được sai đi đến tận cùng trái đất
để mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý thức được mình là con Thiên
Chúa và là anh em với nhau.
Việc xây dựng đại gia đình nhân loại nhiều khi vượt lên trên
quyền lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó
một cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta hiểu rằng Ngài đến không phải
để đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu
khỏi mẹ chồng và làm coh những người trong gia đình trở thành kẻ thù của nhau.
Những lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên chúng ta không thể coi Ngài như
một kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ giá trị gia đình. Nhưng Ngài
muốn cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác lớn hơn phải được xây dựng.
Cái mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần phải quan tâm thiết lập và vun
xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em theo máu huyết. Mà là mối quan
hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh
em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.
Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng nhìn về một phía, cùng
theo đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người trong xã hội. Đó chính
là gia đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin Mừng. Để đạt tới lý
tưởng ấy, mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào sâu những đòi hỏi
của Tin Mừng, thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của Chúa trong xã hội
và trong thế giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu toàn trách nhiệm
ấy.
3. Con có bổn phận.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Mầu nhiệm Nhập Thể bắt đầu từ tiếng Xin Vâng ở Nadarét.
Nadarét là nơi Ngôi Lời làm người sống phần lớn thời gian. Mái
ấm Nadarét thật khác thường, và rất đỗi bình thường. Đây là một gia đình có bầu
khí yêu thương, đạo hạnh.
Nadarét là trường học đầu tiên huấn luyện Chúa Giêsu, chuẩn bị
Ngài gánh vác sứ mạng Cha giao sau này. Nadarét là trường dạy cầu nguyện, dạy
giáo lý, dạy lao động, dạy yêu thương đến hiến mình cho người khác.
Chúa Giêsu đã vâng phục kỷ luật của trường này. Ngài đã chấp
nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ, và Ngài đã lớn lên, chững chạc, trưởng
thành, quân bình cả về thân xác, trí tuệ lẫn tâm linh.
Con Thiên Chúa đã tập làm người ở Nadarét, và nền giáo dục ở
Nadarét đã thành công khi trao cho ta một Giêsu khôn ngoan, đạo đức và nhân
hậu, ở tuổi ngoài 30.
Nền giáo dục gia đình được coi là tốt khi giúp con cái mở ra
trước những đòi hỏi của Thiên Chúa và tha nhân.
"Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà CHA con
sao?" - Từ năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã ý thức mình là Con của Thiên Chúa,
Đấng mà cậu trìu mến gọi là Cha. Cậu đã sống mối tương quan thân tình độc đáo
này và cậu cảm thấy điều đó kéo theo những bổn phận: ở lại trong nhà Cha hay lo
việc của Cha.
Càng lúc Chúa Giêsu càng ý thức về mình, trong tương quan với
Cha và trong sự thúc bách của sứ mạng.
Con Thiên Chúa cần mẹ cha, cần một mái ấm để lớn lên, nhưng cả
mối dây thân thương tự nhiên ấy cũng có lúc phải chịu hy sinh, nếu nó cản trở
sứ mạng Cha trao phó.
Ta không rõ tại sao cậu Giêsu rất mực khôn ngoan đã ở lại Đền
Thờ mà không báo cho cha mẹ. Nhưng chắc chắn sau này cậu sẽ phải chia tay với
Mẹ Maria.
Chúa Giêsu không chỉ là người con hiếu thảo với mẹ cha, nhưng
trên hết và trước hết, Ngài là Con vâng phục CHA. CHA trên trời là ưu tiên vượt
trên mọi ưu tiên khác.
Đức Maria không hiểu câu trả lời của Con mình. Dù Mẹ đã nghe bao
mạc khải về Con từ Gabrien, Simêon, nhưng những biến cố đời thường vẫn làm Mẹ
ngỡ ngàng.
Con vẫn là một mầu nhiệm vừa gần, vừa xa đối với Mẹ. Mẹ không hiểu
nổi, không hiểu hết hay không hiểu ngay, nên Mẹ vẫn cung kính đứng trước mầu
nhiệm bằng thái độ vâng phục của lòng tin và nghiền ngẫm mãi.
Mẹ chẳng giữ Con lại trong vòng tay của mình. Mẹ để Con lên
đường, Mẹ dâng Con trên Núi Sọ.
Chỉ biến cố Phục Sinh mới làm Mẹ thật hiểu Con.
Cha mẹ vừa đùm bọc ấp ủ, vữa tiễn con mình vào đời.
Gia đình cung ứng những công dân tốt và tín hữu nhiệt thành.
Mỗi đứa con là một mầu nhiệm cần tôn trọng. Giáo dục là giúp con
sống cuộc đời rất riêng của nó.
Ước gì mọi bà mẹ đều như Maria, sinh các con như Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc sống gia đình hôm nay gặp nhiều khó khăn (chung thủy, giáo
dục con cái, thiếu thốn vật chất. . . ) Theo bạn, đâu là khó khăn lớn nhất? Làm
sao khắc phục?
Theo bạn, thế nào là một gia đình lý tưởng? Để xây dựng một gia
đình như thế cần có những điều kiện gì?
Cầu Nguyện
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình
sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu
những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười
trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối
trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em
cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp
tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của
thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia
đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của
từng người chúng con. Amen.
4. Gia đình hạnh phúc – Cố Lm. Hồng Phúc
Hôm nay, Giáo hội mời chúng ta đi thăm một gia đình: Gia đình
Thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng. Một gia đình ngàn xưa nêu gương cho các
gia đình soi chung.
Thánh Matthêô thường thích những tường thuật dài có kết cấu,
nhưng ở đây Người chỉ trình bày cho chúng ta một gia đình, gia đình Kitô giáo
đầu tiên. Trong gia đình ấy có ba nhân vật: Giuse bác thợ mộc làm gia trưởng,
Maria, cô nội trợ khiêm tốn, Chúa Hài Nhi là con của gia đình.
Trước mặt xã hội thì Giuse lớn hơn cả vì là gia trưởng, nhưng
trước mặt Thiên Chúa thì người nhỏ nhất lại lớn nhất vì Ngài là Thiên Chúa nhập
thể.
Hạnh phúc gia đình ấy được xây dựng trên 3 yếu tố.
Trước tiên, họ rất hòa thuận khắng khít:
Không có một khó khăn sóng gió nào có thể làm lung lạc tình nghĩa vợ chồng, mặc
dầu họ gặp bao nhiêu trắc trở. Chỉ cần nói đến cuộc di cư gấp gáp qua Ai cập
giữa đêm thâu, chỉ cần nhắc lại cuộc hồi hương trở về trong lo âu và đến định
cư trong làng bé nhỏ Nagiarét.
Họ rất trung tín: Vợ chồng lấy chữ tín
làm đầu. Và chúng ta biết đối với Giuse không phải là dễ, khi nhìn thấy Đức Mẹ
có dấu đã mang thai. Cần có một lệnh truyền bởi trời, mối hoài nghi mới chấm
dứt trong sung sướng, khi biết mình được gọi đễ chia sẻ mầu nhiệm con Thiên
Chúa giáng trần. Và từ đó, cả hai tuân phục Thánh Ý Chúa, sẵn sàng hy sinh tất
cả cho hạnh phúc của con mình cũng là con Thiên Chúa.
Họ sống khiêm tốn, nghèo nàn, theo khả năng, theo gia cảnh.
Giuse là bác thợ mộc thì con nối nghề Cha cũng làm thợ mộc.
Gia đình Nagiarét là một gia đình hạnh phúc vì 2 lý do nữa sau
đây: một là, xét về tương quan nội bộ, vì trong gia đình ấy có trật tự
và đâu có trật tự là ở đó có hòa bình hạnh phúc. Hai là vì trong gia đình ấy có
Thiên Chúa hiện diện, mà đâu có Thiên Chúa hiện diện là ở đó có hạnh
phúc, ở đó là Thiên đàng.
Ngày nay, chúng ta thấy nhiều gia đình xuống dốc vì thiếu trật
tự mà Chúa đặt để an bài. Trong gia đình không có trên dưới, không có quyền
bính, đường ai nấy đi, hạp thì ở, chán thì đi, con mặc kệ con, đã có chính phủ
nuôi!
Vậy muốn có hạnh phúc, trước tiên mỗi người phải biết ở trong
địa vị của mình là chồng là vợ là con cái, ngày nào trật tự ấy bị đảo lộn, bị
lấn át thì gia đình sẽ bị lung lạc tan rã. Một tờ báo ở Luân đôn, Anh quốc, đã
mở cuộc điều tra nơi các ông chồng và xin các độc giả mày râu trả lời câu hỏi
sau đây: Trong gia đình bạn, ai làm chủ thật sự? Kết quả là có 80% trả lời: vợ
tôi làm chủ; 20% trả lời: mẹ vợ tôi làm chủ. Chỉ có một số ít trả lời: chính
tôi làm chủ, vì vợ tôi đã chết! Không lạ gì mà sau nước Mỹ, nước Anh có nhiều
gia đình đổ vỡ nhất. Cứ hai đám cưới thì có một đám ly dị.
Yếu tố quan trọng thứ hai là một gia đình muốn có hạnh phúc phải
có Chúa hiện diện ở giữa, như Chúa Giêsu hiện diện ở trong gia đình Nagiarét.
Có Đức Tin, có lòng đạo mới biết thương yêu nhau, nhường nhịn
nhau. Chồng biết thương yêu vợ, vợ biết thương yêu chồng, con cái biết thương
yêu nhau. Vì thế trong bài đọc II, Thánh Phaolô căn dặn: “Anh em hãy mặc lấy
những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng nhau…
Anh em hãy làm mọi việc vì sáng danh Chúa”. Trong đời sống vợ chồng có lúc vui
và có lúc buồn, có lúc phải chịu đựng nhau, vác thánh giá của nhau, vác cho đến
cùng đến chết, để đền tội. Trong một tuần Đại phúc, Cha giảng phòng tổ chức làm
phép Thánh giá. Cha rao: Ai có Thánh giá mang lên làm phép. Một cụ già đưa vợ
lên và nói: đây là Thánh giá con, xin Cha làm phép cho con chịu khó vác… đến
cùng! Vợ là thánh giá cho chồng thì chồng cũng có thể là thánh giá cho vợ.
Thánh Matthêô viết: “Người sẽ được gọi là Nagiarêô”. Cha Charles
de Foucault đã đến định cư ở làng Nagiarét, sống đời sống Chúa Giêsu như một
người Nagiarêô. Ngài cầu nguyện cùng Thánh Gia: “Lạy Đức Trinh nữ, lạy Thánh
Giuse, là mẹ là cha của con, hãy đưa dẫn con đến cùng Chúa Giêsu. Xin cho con,
sau khi được Chúa ban ơn được chia sẻ hoàn hảo khung cảnh bên ngoài của đời
sống các Đấng thì cũng được chia sẻ đời sống nội tâm các Đấng… trong tình yêu,
chiêm nghiệm và thờ lạy trong tinh thần khó nghèo, gạt bỏ con đi để được tràn
đầy Chúa”.
5. Con đường hạnh phúc
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Những tranh ảnh về Thánh Gia thường diễn tả một gia đình ấm êm
hạnh phúc. Thánh Giuse làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ ngồi may vá. Đức Giêsu phụ
giúp Thánh Giuse. Phải chăng Thánh Gia luôn sống trong êm đềm thư thái, không
hề biết đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình thánh cứ phẳng lặng trôi như
mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải, trái lại Thánh Gia đã biết đến
rất nhiều sóng gió, thử thách.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì
nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải
qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi
phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc
vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh
Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê.
Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê hương đất nước.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế
mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa
Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse đã bị
giày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn
vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và
Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền
Thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn
phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng
người con mà các ngài rất mực yêu quý đã cãi lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ
nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ
được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao
cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi
khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích
của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh
Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý
kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ
muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu
Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ
truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở
lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người
trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết
tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình
là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành
người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng
lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia.
Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi
tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên
thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo
tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi gương Thánh Gia: Bỏ ý
riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa; và hạ mình khiêm
nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta mới hy vọng giữ
được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng
nhiều trong đời sống hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi khi gia đình có việc rắc rối, tôi thường làm gì trước:
cầu nguyện, đọc Phúc Âm, hay là đi xem bói?
2. Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi thường khiêm nhường xét mình,
hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi?
3. Qua tấm gương của Thánh Gia, tôi có quyết tâm gì để xây dựng
hạnh phúc gia đình trong năm mới?
6. Gia đình- mái ấm
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Không có nơi nào thuận tiện cho bằng gia đình, để xây dựng một
tổ ấm gồm những người yêu thương nhau. Nơi gia đình, vợ chồng yêu thương nhau
và sẵn sàng bỏ tất cả để chung sống với nhau, để có thể lo cho nhau một cách
trọn vẹn. Con cái do cha mẹ sinh ra, cha mẹ yêu thương con cái. Con cái thảo
hiếu với cha mẹ vì được sinh ra nuôi nấng yêu thương và dạy dỗ. Nếu những người
trong một gia đình không yêu thương nhau, thì họ còn tìm đâu ra một môi trường
thuận lợi yêu thương như vậy nữa!
Thực tế cho thấy có những cặp vợ chồng sống với nhau không vì
yêu thương; có những người con không được yêu thương ngay từ trong dạ mẹ và
không được sinh ra; có những người được sinh ra, nhưng không được nhìn nhận như
con, và không được cha mẹ nuôi nấng yêu thương cưng chiều; có những người con
được sinh ra, được nuôi nấng nhưng không được yêu thương chăm sóc nên đã bỏ nhà
đi hoang. Có những người cảm thấy gia đình không còn là mái ấm nhưng lại là hỏa
ngục; và như vậy, có những em bỏ nhà sống bụi đời, và cho rằng thà như vậy còn
hạnh phúc hơn ở trong “hỏa ngục trần gian”. Người con rất đau khổ khi thấy cha
mẹ mình không yêu thương nhau: gây gỗ và dùng bạo lực với nhau.
Nếu gia đình gồm những người có tương quan máu mủ ruột thịt mà
không yêu thương nhau, không tạo nổi một mái ấm nơi đó những thành viên trong
gia đình cảm thấy được yêu thương săn sóc, thì làm sao xã hội gồm những người
khác nhau, không có tương quan máu mủ, lại có thể yêu thương nhau cho được! Tạo
một gia đình yêu thương hạnh phúc, đó là điều khó nhưng cũng vẫn khả thi. Tạo
một gia đình hạnh phúc thì dễ hơn tạo một xã hội an ninh hạnh phúc; tạo một gia
đình hạnh phúc thì dễ hơn tạo một thế giới hòa bình yêu thương nhau.
Nếu mình không kiếm chế mình, nếu mình để cho những đam mê và
những xu hướng xấu ảnh hưởng quá mạnh trên mình, để rối ngay cả mình cũng không
chấp nhận chính mình, thì làm sao người khác có thể chấp nhận mình, cho dù
người đó là người thân trong gia đình? “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”. Để có thể có một gia đình hạnh phúc, mỗi người trong gia đình phải tập làm
chủ chính mình. Tu thân, là điều mỗi người phải cố gắng hằng ngày, để vươn tới
mức hoàn hảo hơn.
Mỗi thành viên trong gia đình phải biết yêu thương nhau, nghĩa
là, quan tâm đến nhau với những nhu cầu của nhau, đến những bận tâm của nhau.
Nếu mỗi người trong gia đình, và ngay cả trong một đơn vị, biết quan tâm đến
nhau, săn sóc cho nhau, hy sinh cho nhau, thì đời sống của mỗi thành viên trong
đơn vị đó sẽ mỗi ngày một triển nở và hạnh phúc hơn.
Vợ diễn tả ý Thiên Chúa cho chồng; chồng diễn tả ý của Thiên
Chúa cho vợ; con cái diễn tả ý của Thiên Chúa cho cha mẹ; cha mẹ diễn tả tình
yêu của Thiên Chúa cho con cái. Có người vợ người chồng nào không muốn người
bạn đời của mình triển nở hạnh phúc? Có người cha người mẹ nào không yêu thương
con cái, không muốn điều tốt nhất cho con cái, không tìm cách làm điều tuyệt
nhất cho con cái mình? Nếu người chồng người vợ có một tật xấu, thì người chồng
người vợ người con cũng mong ước người đó bỏ thói hư tật xấu đó. Thiên Chúa
cũng muốn điều đó. Ý của Thiên Chúa được diễn tả qua những người thân yêu trong
gia đình.
Mỗi người hãy cố gắng diễn tả ý của Thiên Chúa cho những người
trong gia đình mình. Mỗi người trong gia đình hãy cố gắng diễn tả tình yêu của
Thiên Chúa cho những phần tử khác trong gia đình. Cha mẹ được trao trách nhiệm
yêu thương chăm sóc dạy dỗ con cái nhân danh Thiên Chúa. Con cái phải vâng phục
cha mẹ, vì cha mẹ đại diện Thiên Chúa yêu thương mình, muốn điều tốt lành cho
mình, dạy dỗ mình trở nên những người tốt nhất theo ý Thiên Chúa.
Mỗi người trong gia đình hãy sống tốt, để trở thành tình yêu của
Thiên Chúa cho người khác. Đừng ảo tưởng: nếu ta không xây dựng được một gia
đình hạnh phúc, thì không thể xây dựng một xã hội hạnh phúc được. Ta cũng chẳng
có thể xây dựng một gia đình hạnh phúc, nếu mỗi người không tự tu thân sửa mình
mỗi ngày. Hãy biến gia đình thành thiên đường hạ giới. Nếu không làm gia đình
mình thành một mái ấm thân thương, thì mình cũng chẳng có thể xây dựng được một
cộng đoàn nào thoải mái và hạnh phúc thật sự được. Nếu ta không tu sửa chính
mình mỗi ngày, thì cũng chẳng có thể sống tốt với người khác, cũng không thể
xây dựng một gia đình hạnh phúc được, cũng không thể xây dựng một cộng đoàn
hạnh phúc thật sự được.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có thể tạo lập một gia đình hạnh phúc không?
2. Theo bạn, làm sao để có một gia đình hạnh phúc?
3. Nếu một người không lập gia đình với người họ yêu họ thương,
thì họ có thể tạo lập một gia đình hạnh phúc không? Bạn có thể chấp nhận lập
gia đình với người bạn không yêu không?
7. Gia đình thánh – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Ai cũng có một gia đình. Trong đó, con cái phát triển và trưởng
thành nhờ tình yêu của cha mẹ, và cha mẹ có thể được trổi trang vinh dự nhờ con
cái. Đối với một vài người, gia đình cũng có thể là nơi người ta cảm thấy bị đàn
áp và muốn thoát ra, nhưng cứ bình thường gia đình là mái ấm mà mọi người mong
ước được trở về. Để gia đình thành tổ ấm thân thương, mỗi người được mời gọi để
noi gương Thánh Gia mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.
Con cái là qùa tặng của Thiên Chúa cho cha mẹ
Anna hiếm mọn không con, bị những người láng giềng cười chê, cho
là người vô phúc, bị Thiên Chúa nguyền rủa. Dù được chồng Elkana cưng chiều
nhưng bà vẫn buồn. Bà thường cầu xin với Chúa, để Chúa cho bà được một người
con. Mỗi năm người Do Thái đều đi lên Giêrusalem để thờ phượng Chúa theo luật,
và bà Anna đã cầu nguyện sốt sắng trong dịp này trước mắt thầy thượng tế Hêli.
Thầy tưởng bà say rượu nói nhảm, nên khuyên bà đi giải rượu. Được bà Anna giải
thích, thầy hiểu và đã chúc lành cho bà. Khi trở về bà có thai và sinh ra
Samuel, một thẩm phán nổi tiếng kế vị Hêli, đã xức dầu phong vương cho cả Saul
lẫn Đavit.
Samuel là qùa tặng Thiên Chúa ban cho bà Anna. Điều bà Anna mong
ước, Thiên Chúa đã ban cho bà, và bà đã dâng Samuel lại cho Chúa như bà đã khấn
nguyện. Con cái là qùa tặng Thiên Chúa ban cho cha mẹ, nên các bậc làm cha mẹ
hãy cố gắng sẵn sàng dâng con cho Chúa, đừng bao giờ ngăn cản con “thuộc về
Chúa”.
Con cái ngoan hiền tài giỏi, là vinh dự và niềm tự hào của cha
mẹ; nhưng con hư lại là mối tủi nhục, thế nên những người làm con đừng làm hổ
danh hoặc đau lòng cha mẹ mình. Hãy cố gắng thành người tốt, để cha mẹ được
hãnh diện về mình.
Cách thức cha mẹ đối xử với con cái
Mỗi năm cha mẹ Đức Giêsu đều đi Giêrusalem dự lễ hội Vượt Qua.
Đây là lễ kỷ niệm Thiên Chúa giúp dân Do Thái vượt qua biển đỏ, thoát khỏi sự
truy lùng của người Aicập. Từ Nadarét tới Giêrusalem xa khoảng trên 100 cây số,
và vì hồi đó chưa có phương tiện di chuyển như bây giờ, cũng như các ngài là
những người nghèo, nên các ngài phải đi bộ khoảng ba ngày đường. Gian nan cực
khổ để đi thờ phượng Chúa. Sự kiện trên cho thấy thánh Giuse và Đức Mẹ đạo đức
như thế nào. Cách các ngài sống đạo rất gần với lối sống đạo của đa số dân quê
Việt Nam.
Khi Đức Giêsu lên 12 tuổi, Đức Giêsu được đi cùng cha mẹ lên
Giêrusalem dự lễ. Sau lễ hội khoảng một tuần, gia đình thánh cùng với tất cả
người làng Nadarét ra về, nhưng Đức Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Ngài
không biết, tưởng Ngài đi chung với những người khác cùng làng Nadarét. Sau một
ngày đường, cha mẹ Ngài mới nhận ra Ngài không có trong đoàn lữ hành, và cha mẹ
Ngài đã lập tức đi tìm. Hãy hình dung để cảm nghiệm nỗi lo lắng của Đức Mẹ và
thánh Giuse như thế nào. “Tại sao con làm thế, này cha con và mẹ phải lo lắng
tìm con”. Đức Giêsu đáp lại: “tại sao lại tìm con, lại không biết rằng con phải
ở nhà Cha con sao?” Đức Maria và thánh Giuse không hiểu lời của Đức Giêsu. Tại
sao con của mình nói như vậy? Tuy vậy Mẹ im lặng, và thánh Giuse không nói một
lời.
Ở vào địa vị chúng ta, nếu con cái của chúng ta làm như Đức
Giêsu đã làm, chúng ta đã đối xử với con cái của chúng ta như thế nào? Chúng ta
học được gì qua cách đối xử với con của Đức Mẹ và thánh Giuse?
Cung cách hành xử của người con
Đức Giêsu trở về Nadarét cùng với Đức Mẹ và thánh Giuse, và hằng
tùng phục các Ngài. Đức Giêsu càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và được nhiều
người yêu mến. Vâng phục cha mẹ, đó là điều dễ nhất và khó nhất mà Ngài không
thua bất cứ ai.
Ngài đối xử rất tốt với các bạn cùng trang lứa, kính trọng các
người lớn tuổi, chu toàn phận vụ làm con: thảo hiếu và giúp đỡ cha mẹ. Ngài đã
sống như tất cả các thiếu niên khác trong làng, nhưng tâm hồn Ngài luôn hướng
về Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa vẫn là nhất đối với Ngài, dù Ngài sống ở đâu và
vào bất cứ thời điểm nào.
Thánh Gia, gia đình gồm những con người thánh, nghĩa là những
người chọn Thiên Chúa trên tất cả, yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Thánh
Giuse tôn trọng và yêu mến Đức Mẹ cùng Đức Giêsu. Đức Mẹ yêu mến và trân trọng
thánh Giuse và con mình. Đức Giêsu luôn yêu mến, kính trọng và tùng phục cha
mẹ. Khi còn sống ở Nadarét, Đức Giêsu không làm cái gì đặc biệt khác người, trừ
chính thái độ sống khiêm tốn và dễ thương đối với Thiên Chúa và con người.
Trong ngày lễ Thánh Gia, mỗi người hãy cầu nguyện cho mọi gia
đình, cho cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, được bắt chước thánh Giuse, Đức Mẹ, Đức
Giêsu, để nên thánh qua cách đối xử với nhau. Nên thánh, nằm trong tầm tay của
mỗi người nhưng dường như mỗi người đều bất lực. Xin Chúa giúp để chúng ta làm
được tất cả, để mỗi người chúng ta nên thánh và làm cuộc sống của mình và của
những người thân được hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, thánh Giuse làm được điều gì đặc biệt hơn một người
chồng và một người cha bình thường? Đức Mẹ làm được gì đặc biệt hơn một người
vợ và một người mẹ bình thường? Và Đức Giêsu làm được gì đặc biệt hơn một người
con bình thường?
2. Theo bạn, thập giá lớn nhất của đời sống gia đình là gì?
3. Theo bạn, “Đức” Giuse và Đức Maria nên thánh bằng cách nào?
8. Sống đức tin theo gương gia đình Thánh Gia
Gia đình hạnh phúc, ấm êm đó là mơ ước của nhiều người. Cũng
vậy, gia đình Công Giáo mong muốn hạnh phúc và người ta thật sự hạnh phúc khi
có Chúa hiện diện trong gia đình mình, khi gia đình mình sống theo gương gia
đình Thánh Gia.
Ai trong chúng ta cũng muốn sống trong gia đình hạnh phúc. Phải,
gia đình chính là cái nôi để con cái phát triển toàn diện. Trong đạo Công giáo
gia đình là nơi để con cái được giáo dục trong đức tin, cha mẹ thực thi quyền
lợi và nghĩa vụ theo tinh thần gia đình Thánh gia. Trong ngày lễ Thánh Gia hôm
nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm, học hỏi và bắt chước gia đình Thánh
Gia Nagiareth, nơi đó có sự hiện diện của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse.
Chắc hẳn ngày nay chúng ta đang chứng kiến và có thể trở thành
nạn nhân của cuộc khủng hoảng trầm trọng về sống gia đình. Rất nhiều gia đình
trong xã hội đang là những gia đình nghèo, nghèo vì thiếu tình thương, què
quặt, tan nát vì nạn ly thân, ly dị và phá thai; những gia đình phân tán, chia
ly vì chiến tranh, bạo lực và áp bức; những gia đình bất hoà vì nạn thất
nghiệp, với đời sống vật chất kinh tế khó khăn eo hẹp hay vì nạn cờ bạc, rượu
chè...
Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy mẫu gương gia đình sống đức
tin. Đây là một gia đình như bao gia đình khác, nhưng họ đã chu toàn bổn phận
của mình là từng thành viên trong gia đình. Đây là một cộng đoàn yêu thương và
hiệp nhất. Như thế, chúng ta bắt chước gia đình Thánh gia sống đức tin.
Gia đình sống đức tin là gia đình luôn tìm kiếm và thực thi
thánh ý Chúa. Nói cách khác gia đình sống đức tin là gia sống đạo theo ý muốn
của Thiên Chúa. Thánh Gia là một gia đình Thánh vì ngoài sự hiện diện của Chúa
Giêsu, gia đình các Ngài còn tuân giữ và sống theo Thánh Ý Chúa, sống gắn bó
với Chúa. Các Ngài thể hiện việc sống gắn bó với Chúa qua việc chu toàn lề
luật, dâng con vào đền thờ, đi hành hương....(Lc 2, 41). Nhờ chính việc
chu toàn lề luật, siêng năng cầu nguyện và sống gắn bó với Chúa nên các Ngài
nhận ra và mau mắn thi hành ý Chúa trong cuộc sống. Gia đình kitô hữu chúng ta
ngày nay cũng là một gia đình thánh. Thánh trong việc sống gắn bó với Chúa qua
kinh nguyện, trong việc giữ các giới răn và qua việc sống bái ái.
Gia đình sống đức tin cần được xây dựng trên tình yêu. Nhưng làm
sao có tình yêu khi người cha, người mẹ không chu toàn bổn phận của mình cũng
như không hết tình thương con cái. Làm sao có được hạnh phúc khi con cái trong
gia đình không thảo hiếu với cha mẹ và làm sao có hạnh phúc khi mọi người trong
gia đình luôn sống bất hoà với nhau. Gia đình là tế bào của xã hội, là trường
dạy đầu tiên, là cơ sở cho cuộc sống xã hội trong tương lai. Nơi gia đình con
cái được học hỏi và sống tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc, sống liên đới
với tha nhân. Hơn nữa, gia đình Kitô hữu là mảnh đất tốt sống đức tin, biết thờ
phượng Chúa cho phải đạo, kính mến cha mẹ, yêu thương tha nhân và biết sống lễ
phép, lễ độ, lễ nghĩa. Điều này trong Chương 3 sách Huấn ca đã nhắc lại điều
răn thứ tư , dạy con cái phải tin yêu và thảo hiếu với cha mẹ và những lý do
luân lý tự nhiên với câu ca dao Việt Nam :
"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Hãy noi gương Thánh Gia, nơi đó Đức Mẹ và Thánh Giuse yêu thương
nhau, cùng hợp sức nuôi dạy Chúa Giêsu. Còn Đức Giêsu thì hằng yêu thương và
vâng phục cha mẹ mình. Nhưng trên hết tình yêu của Thánh Gia đặt nền tảng trên
tình yêu dành cho Thiên Chúa.
Gia đình sống đức tin khi từng thành viên góp phần của mình vào
việc xây dựng gia đình. Mỗi người hãy sống đúng bổn phận của mình trong gia
đình. Thánh Giuse là một người cha mẫu mực, khôn ngoan quán xuyến mọi sự trong
chức vụ gia trưởng nhưng cũng hết tình phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Những
người cha trong gia đình hãy biết học đòi nơi mẫu gương ấy. Người làm mẹ cũng
hãy học hỏi nơi Mẹ Maria mẫu gương về tình yêu, đức nết na, đức tin, sự phục vụ
và khiêm tốn hết lòng. Dù là Mẹ Đấng Cứu Thế nhưng Mẹ Maria đã xưng mình là tôi
tớ của Thiên Chúa. Những người con hãy học nơi Chúa Giêsu đức vâng lời, lòng
tôn kính biết ơn. Là Thiên Chúa nhưng Người đã chấp nhận trở nên một người con
nhỏ nhất trong gia đình hằng vâng phục cha mẹ trong tình yêu.
Thiên Chúa không xa vời, Người hiện diện trong cuộc sống bình
thường mỗi ngày của chúng ta, bởi vì Người đã sống giữa con cái loài người,
đồng hành với con người và chia sẻ mọi niềm vui, mọi âu lo, khó nhọc của cuộc
sống con người. Khi biết nhìn thực tại với đôi mắt của đức tin, thì mọi sự
trong thế giới hữu hình đều được biến đổi là điều nói lên sứ điệp Thiên Chúa
muốn nhắn gởi chúng ta. Một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên
Chúa, biết yêu thương tôn trọng nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống
vì nhau sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiêng linh của
Thiên Chúa.
Như thế, gia đình sống đức tin khi mỗi người trong gia đình biết
noi gương Thánh Gia, sẵn sàng và quảng đại cộng tác với nhau để tạo lập và duy
trì tình thương, sự hiệp nhất. Sống đạo bằng cách thực thi ý Chúa trong cuộc
sống và thể hiện tình yêu qua việc chu toàn bổn phận của mình, đóng góp vai trò
của từng thành viên trong gia đình để quên mình phục vụ người khác trong yêu
thương. Nếu gia đình luôn đặt ý Chúa lên trên và đặt tình yêu trong từng việc
phục vụ thì mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó
với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.
Lạy Thánh Gia Nagiareth, xin giúp từng thành viên trong gia đình
chúng con biết sống đạo, sống đức tin theo tinh thần của Chúa, tìm kiếm
và thực thi ý Chúa, chu toàn bổn phận và sống tình yêu thương như Thiên Chúa
muốn. Amen.
9. Kết hợp (Lễ Thánh Gia)
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Kể câu truyện vui có ý nghĩa: Vào một tối nọ, ông Ađam về nhà
trễ và bà Evà đổ lỗi cho ông là đi lại với người đàn bà khác. Ađam năn nỉ: Tại
sao, em yêu, không thể có một người đàn bà nào khác. Tuy nhiên, sau khi ông
Ađam ngủ say, bà Evà đã hết sức cẩn thận đếm lại những cái xương sườn còn lại
của ông. Thiếu tin tưởng lẫn nhau là một trong những đầu mối gây phiền hà
trong đời sống gia đình. Gia đình là một tổ ấm có cha mẹ và con cái. Cha mẹ là
rường cột và là kiên thuẫn chở che để con cái có chỗ nương thân.
Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Chúa. Chúa đã
kết hợp gia đình đầu tiên giữa người nam và người nữ. Ông Ađam và bà Evà đã
nhận lãnh sự sống trực tiếp từ Thiên Chúa. Chúa trao cho hai ông bà trách nhiệm
truyền sinh giống nòi theo hình ảnh của Thiên Chúa. Sự khác biệt của nam nữ về
sự kết cấu giới tính, lý trí, ý chí, tình cảm, tâm sinh lý và sở thích làm nên
sự trọn hảo khôn lường. Giữa phái nam va phái nữ có sự thu hút tìm đến với nhau
để xây dựng sống chung gia đình. Theo ý định của Thiên Chúa và theo lẽ sống tự
nhiên, trải qua bao đời con người đã và đang sống để hoàn thành sứ mệnh cao cả
này.
Trước khi được làm cha làm mẹ, ai cũng từng là những người con.
Chúng ta biết rằng là con người, ai cũng được cưu mang ngay từ khi khởi đầu
cuộc sống. Có nghĩa là, ai cũng đã được thụ thai trong lòng mẹ và phát triển
theo ngày tháng để trở thành người. Khi suy về sự sống, chúng ta nhận ra vai
trò liên đới quan trọng của mỗi người trong cuộc sống này. Với thời gian và
trong không gian, mỗi người phát triển từ trẻ thơ tới tuổi già. Không thể có
bước nhảy vọt từ loài này sang loài kia hay đột biến vượt thời gian. Lần lượt
từng bước là con thơ, sau trở thành cha mẹ và rồi thành ông bà nội ngoại. Dòng
dõi này nối tiếp dòng dõi kia để truyền sinh sự sống. Ý nghĩa cuộc sống gia
đình quá linh thiêng và tốt lành. Ấy thế mà giá trị hôn nhân gia đình ngày nay
dần dần bị xao lãng. Có nhiều người không còn chấp nhận những giá trị tự nhiên
và truyền thống của gia đình nữa.
Thời đại văn minh tiến bộ, từ ngữ ‘gia đình’ đã bị lạm dụng theo
những suy tư không thuận với luân lý truyền thống. Tại một số nơi, đời sống gia
đình có nhiều khác lạ, bao gồm cả các tín hữu công giáo. Tôi nhận thấy nhiều
lối sống gia đình lạ ngay trong cộng đoàn nơi đang sinh sống và phục vụ. Kìa,
gia đình một cha hay một mẹ sống chung với con cái. Gia đình gồm có bạn trai và
bạn gái sống tạm với nhau không khế ước hôn nhân. Gia đình vợ chồng sống ly
thân hoặc ly dị, con cái nheo nhóc. Gia đình một mẹ với ba bốn người con và có
khi con cái cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ. Trong khi người nam, người
nữ bình thường không còn muốn lập khế ước hôn nhân, thì những cặp đồng tình
luyến ái lại muốn lập hôn thú hợp pháp trước tòa án. Vấn đề đời sống chung gia
đình rất bén nhậy và đầy thử thách! Cách sống này có thể vì ảnh hưởng lối sống
theo văn hóa và quan niệm xã hội riêng. Nhiều người kết hợp lối sống gia đình
theo như thế hệ trước, cha mẹ thế nào và con cái thế ấy. Nhiều bạn trẻ bắt đầu
vào đời, liên hệ nam nữ trước hôn nhân nên đành bước lỡ này kéo theo cái lỡ
khác. Nhiều bạn sợ hãi trước tương lai bất định nên tìm sống hưởng lạc ngay
trong hiện tại. Xảy một ly đi một dặm là thế. Như thế, các thế hệ trẻ lớn lên
trong bầu khí gia đình bất thường như thế sẽ bị ảnh hưởng không ít bởi cách
sống quá ồn ào, tự do và hưởng thụ.
Tự hỏi làm sao chúng ta có thể tìm được sự an lạc, bình an và
hạnh phúc trong đời sống gia đình? Hình như càng đi tìm hạnh phúc, hạnh phúc
càng vượt tầm tay. Câu truyện hay: Chó con hỏi chó mẹ: Mẹ ơi hạnh phúc là
gì? Chó mẹ bảo: Hạnh phúc là cái đuôi con đấy! Và thế là chó con quay lại tóm
cái đuôi của mình, nhưng không tài nào tóm được. Chú ngồi xuống oà khóc và lại
hỏi mẹ: Tại sao con không thể nào bắt được hạnh phúc hả mẹ? Chó mẹ mỉm cười và
nói rằng: Con trai, tại sao con không tiến về phía trước và hạnh phúc sẽ theo
sau con. Vậy tại sao chúng ta cứ phải đi tìm hạnh phúc, khi mà hạnh phúc
luôn đi theo mình. Hãy sống và cảm nhận hạnh phúc mà cha mẹ đã tặng ban cho ta.
Chúng ta hạnh phúc vì được sống bên những người mà mình yêu thương.
Giáo Hội trung thành với lời Thiên Chúa đã ban truyền trong đời
sống gia đình khi một người nam va một người nữ đã kết bạn: Như vậy, họ không
còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp,
loài người không được phân ly. " (Mt 19, 6). Thiên Chúa đã phối hợp con
người trong đời sống gia đình để mong tìm hạnh phúc. Vai trò của mỗi thành viên
trong gia đình rất quan trọng. Cha mẹ phải là mẫu gương tốt cho con cái noi
theo. Thánh Phaolô nhắn nhủ:Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức,
kẻo chúng ngã lòng (Col 3, 21). Còn con cái có những bổn phận quan trọng đối
với đấng bậc sinh thành. Đối với cha: Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm (Hc 3, 3)
và đối với mẹ: Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu (Hc 3, 4). Tất cả sự hiếu nghĩa
là bày tỏ sự tôn kính và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ.
Thánh Phaolô khuyên dạy vợ chồng phải tương kính lẫn nhau sống
cho có đức độ: Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có
điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng
vậy, anh em phải tha thứ cho nhau (Col 3, 13). Cha mẹ có bổn phận và nhiệm vụ
nuối nấng, dạy dỗ và nêu gương mẫu mực trong đời sống. Cha mẹ hiền lành để đức
cho con. Cha mẹ là mái che và lá chắn che chở đời con. Người ta ví rằng: Con có
cha như nhà có nóc hoặc còn cha thì gót đỏ như son, đến khi cha chết, gót mẹ
gót con đen xì. Tình cha nghĩa mẹ thật sâu nặng. Sách Đức Huấn Ca đã khuyên dạy
con cái rằng: Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm
cho mẹ an lòng (Hc 3, 6).
Bài phúc âm tường thuật câu truyện Chúa Giêsu ở lại trong đền
thờ để gặp gỡ các chức sắc và lo lắng cho sứ mệnh. Nghĩ rằng con bị lạc, Giuse
và Maria lo lắng đi tìm:Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với
Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con
và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! "(Lc 2, 48). Cha mẹ đau buồn vì vắng
con. Với những lời trách cứ nhẹ nhàng của cha mẹ, Chúa Giêsu hé mở một chút về
sứ vụ của ơn cứu độ:Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?
"(Lc 2, 49). Nhưng rồi Chúa Giêsu cũng đã vâng lời đi theo cha mẹ trở về
quê hương tiếp tục sống những tháng ngày âm thầm chờ đợi. Một mẫu gương cao cả,
Con Thiên Chúa vâng phục loài người là cha và mẹ. Đây là điều vô cùng đẹp lòng
Chúa và làm hài lòng cha mẹ. Thánh Phaolô viết: Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ
trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa (Col 3, 20).
Chúa Giêsu đã sống an vui trong khung cảnh gia đình. Gia đình là
nền tảng và là vườn ươm mầm sống. Mọi sự tốt lành bắt nguồn trong đời sống gia
đình. Chúng ta hãy qúy trọng mọi vai trò trong đời sống gia đình. Dù biết rằng
đôi khi cha mẹ có thể bị thất học, thấp kém, nghèo nàn, bệnh hoạn tật nguyền
nhưng vai trò làm cha làm mẹ không suy giảm. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng
ta hãy tôn kính hiếu thảo và yêu thương các ngài. Chúa Giêsu đã trải qua từng
ngày sống bên cha cạnh mẹ và Chúa đã trưởng thành: Còn Đức Giêsu ngày càng thêm
khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta (Lc 2,
52).
Lạy Chúa, gia đình là tổ ấm của tình yêu. Chỉ có yêu thương mới
khỏa lấp mọi yếu đuối, hờn ghen và giận ghét. Chỉ có tình yêu mới khơi nguồn
hạnh phúc đích thực trong đời sống gia đình. Thánh Phaolô khuyên:Trên hết mọi
đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo (Col 3,
14). Xin cho chúng con biết yêu thương như Chúa đã yêu.
10. Lễ Thánh Gia Thất.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Sau biến cố năm mười hai tuổi, Chúa Giêsu cùng cha mẹ lên
Giêrusalem dự lễ Vượt Qua và Ngài tự ý ở lại ba ngày. Đức Giêsu đã trở về
Nadaret, thực hiện đúng lời Em-ma-nu-en-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta đã được tiên
tri loan báo. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy Thiên Chúa đang dự phần vào những
công việc thân thiết quen thuộc nhất trong gia đình, đây là Thiên Chúa đang tự
mặc lấy hình người, đang sống cuộc đời chúng ta. Sự thật là như vậy, và chúng
ta có thể nói nhiều điều quý báu về Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa đã bước vào một căn nhà tầm thường và gia đình tầm
thường.
Ai cũng nghĩ rằng nếu Thiên Chúa đến thế gian, chắc Ngài phải
đến với tư cách một nhà vua, đến sống trong cung điện nguy nga của bậc đế vương
đầy thế lực, quyền quý, sang trọng. Nhưng ở Nadaret Chúa Giêsu đã sống như mọi
người khác, nhà Ngài ở và cách Ngài ăn mặc cũng giống như người đương thời (Lc
8, 44), Ngài ăn uống như người đồng hương (mt 9, 19). Ngài dùng tiếng nói nơi
Ngài ở, trong Phúc Âm, không ai tìm được một danh từ chuyên môn nào, Ngài trình
bày những mầu nhiệm tôn giáo cao siêu bằng những từ ngữ thông thường của nơi
Ngài sống, Ngài dùng cách diễn tả tư tưởng cùa người đồng thời và lối văn họ
quen dùng. Ngài biết những bận tâm, những nhu cầu của họ và không ngạc nhiên
khi nghe họ nói: “Chúng ta sẽ ăn gì? Chúng ta sẽ mặc gì?” Ngài dùng những thành
ngữ của họ, dầu có nhiều khuyết điểm và thiếu văn hoa. Tỷ như để định vị trí
cho một người không những không nghe theo những lời khuyên nhủ kín đáo nhưng cả
những cảnh cáo của Giáo Hội, Ngài dùng diễn ngữ này: “Ngươi hãy coi nó như một
dân ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18, 17). Trong mọi sự Chúa Giêsu không có
gì tỏ ra xa lạ với những người đến để được cứu rỗi. Ngài thật sự ở giữa chúng
ta, chung sống với chúng ta, nên giống chúng ta hoàn toàn ngoại trừ tội lỗi.
Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thánh hoá một lần đủ cả việc con người
được sinh ra, thánh hoá mái gia đình khiêm nhượng của giới bình dân và thánh
hoá toàn thể tuổi ấu thơ.
2. Thiên Chúa đã bằng lòng làm công việc của loài người mà không
xấu hổ.
Suốt ba mươi năm trường, Ngài đã không làm một điều gì ngoại
thường, Ngài âm thầm sống như một người dân thường, học nghề nơi cha nuôi và tự
tay làm việc nuôi sống bản thân và gia đình. Ngài hoàn toàn giống mọi người dân
làng đến nỗi họ ngạc nhiên khi Ngài bắt đầu giảng dạy: “Bởi đâu ông ta được
khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ
sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria, anh em của ông không phải là các ông
Giacôbê, Gioxep, Simon và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con
lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13, 54-56).
Thiên Chúa trong Chúa Giêsu đã đến thế gian như một công nhân. Chẳng bao giờ
chúng ta nhận thức đầy đủ sự kiện Thiên Chúa thấu hiểu công việc hằng ngày của
chúng ta tới mức độ nào. Ngài biết nỗi khó nhọc để kiếm đủ sống của chúng ta;
Ngài biết nỗi khó khăn khi gặp khách hàng khó tính hay khách hàng không chịu
trả tiền. Ngài biết tất cả những khó khăn trong cuộc sống chung trong một gia
đình, và Ngài biết từng vấn đề chúng ta thường gặp hằng ngày. Theo Cựu Ước, lời
rủa sả sau khi loài người phạm tội trong vườn Địa đàng: “Ngươi phải đổ mồ hôi
trán mới có đủ mà ăn” (St 3, 19), nhưng theo Tân Ước, sự làm việc thông thường
được khoác lên một ánh hào quang khi có bàn tay Thiên Chúa chạm vào.
3. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy một Thiên Chúa yêu thương.
Lúc tình yêu thương bước vào đời sống thì đau đớn cũng vào theo,
nếu chúng ta có thể sống hoàn toàn tách biệt mọi người, có thể thu xếp cuộc đời
thế nào cho mình dửng dưng được với hết mọi sự, mọi người, thì cũng sẽ không
còn đau đớn, buồn khổ, lo lắng. Nhưng trong Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa
đang hết sức chăm sóc cho loài người và tha thiết với loài người. Ngài cảm thấy
đau đớn cho loài người và với loài người. Thật ra, chính tình yêu là khởi điểm
của sự hiện diện của Chúa Cứu Thế nơi chúng ta. Chính vì Ngài yêu chúng ta nên
Chúa Cha ban Ngài cho chúng ta. Thật vậy, như lời Thánh Gioan: “Thiên Chúa đã
yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Và cùng chính vì tình yêu mà
Chúa Giêsu đã xả diệt thân mình “trở nên hoàn toàn giống anh em Ngài” vì Ngài
“không lấy làm xấu hổ gọi chúng ta là anh em Ngài” (Dt 2, 17. 11). Tình yêu đòi
phải nên giồng. Vì Ngài quá yêu anh em của Ngài sống trong thế gian nên có thể
nói dĩ nhiên Ngài đẩy mạnh đến cùng mức độ nên giống họ (Ga 13, 13). Cécil
Northcott trong quyển “Chúa hiển hiện đời nay” thuật lại một cuộc thảo luận
trong trại hè dành cho thanh thiếu niên đại diện nhiều quốc gia trên thế giới:
“Một đêm mưa khi các trại sinh thảo luận về nhiều phương cách khác nhau làm sao
nói cho người khác biết về Chúa Giêsu. Họ hỏi một nữ trại sinh Phi châu:
“Maria, ở nước cô thì cô làm thế nào?” Maria trả lời: “Chúng tôi không có hội
truyền giáo, cũng không phát truyền đơn về đạo. Chúng tôi chỉ sai một hoặc hai
gia đình tín hữu đến sống, làm việc trong làng. Khi dân làng thấy cuộc sống
Kitô như thế nào, họ đều muốn trở thành Kitô hữu”.
4. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa sống trong trắng và thánh thiện
giữa loài người.
Nếu sau này Ngài có thể quả quyết: “Ai thấy Ta là thấy Cha” thì
trong thời gian sống tại Nadaret, Ngài cũng vẫn luôn mang đặc tính ấy mặc dầu
nhiều người không nhận ra. Ngài quả thật có nên giống chúng ta trong mọi sự,
nhưng không trong tội lỗi. Không những suốt đời Ngài không hề có một khuyết
điểm nào, nhưng qua cuộc sống, Ngài đã biểu lộ thiên tính. Không bao giờ Ngài
thông đồn, dù bằng lời nói hay bằng việc làm, bằng cử chỉ với những tội lỗi nơi
người đồng hương, vì Ngài thấy ở đó khởi đầu để đồng bào Ngài ghét Ngài.
Biến cố Ngôi Lời Nhập Thể là biến cố quan trọng trong lịch sử
nhân loại. Vì thế ngay khi mừng biến cố trọng đại này, Giáo Hội không quên nhắc
nhở chúng ta gương mẫu gia đình Thánh Gia. Nơi gia đình này đã cộng tác tích
cực trong công trình Cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người.
Giáo hội mời gọi ta chiêm ngắm cảnh Thánh gia chạy trốn bạo
vương Hêrôđê giữa đêm khuya. Thánh gia đã nhận ra những hiểm nguy đe doạ hạnh
phúc gia đình và đã biết cách gìn giữ gia đình bình an qua cơn dông tố. Các bài
sách thánh hôm nay trình bày cho ta những bí quyết mà Thánh gia sử dụng để giữ
được hạnh phúc gia đình.
Bí quyết thứ nhất đó là nghe Lời Chúa.
Thánh Giuse nghe lệnh Chúa truyền một cách mau mắn và tuyệt đối. Dường như
chúng ta thấy lệnh truyền này được ban ra không rõ ràng trong đêm khuya, điều
này thật sự không mấy dễ dàng đối với người bình thường; tuy nhiên, khi nghe
lệnh truyền trong đêm khuya, Thánh Giuse thức giấc thi hành ngay. Xem chừng
lệnh truyền khó khăn nhưng Ngài vẫn mau mắn thi hành. Đức Maria và Chúa Giêsu
cũng có một thái độ vâng phục tuyệt đối như thế. Thánh ý Thiên Chúa là tuyệt
đối. Lời Chúa dạy là kim chỉ nam. Thiên Chúa chính là người điều khiển gia đình
các Ngài. Vì thế, dù gặp nhiều gian nan thử thách, gia đình các Ngài vẫn giữ
được hạnh phúc.
Bí quyết thứ hai đó là coi con cái là hồng ân, là báu vật quí
nhất Chúa ban cho gia đình . Con cái là hồng ân,
là báu vật quí nhất nên các Ngài đã đem hết sức lực ra bảo vệ. Khi có những
nguy cơ đe doạ, các Ngài đem con cái chạy trốn tránh xa. Các Ngài sẵn sàng hi
sinh tất cả: thời giờ, nhà cửa, tài sản, nghề nghiệp và công việc làm ăn, mong
đem con cái đến nơi an toàn. Vì con cái là hồng ân, là báu vật quí nhất Chúa
ban cho gia đình nên các Ngài không ngần ngại nâng niu phục vu. Hình ảnh Thánh
Giuse đi bộ dắt lừa cho Đức Giêsu và Đức Maria là hình ảnh của một người chủ
gia đình hết lòng nâng niu phục vụ vợ con. Vì con cái là hồng ân, là báu vật
quí nhất Chúa ban cho gia đình nên Đức Maria đã theo dõi con đến cùng, nhẫn
nhục đứng bên thập giá chia sớt đau khổ với con.
Bí quyết thứ ba đó là con cái luôn hiếu thảo với cha mẹ. Đức
Giêsu là một người con hiếu thảo. Tin mừng tóm tắt cuộc sống thơ ấu của Người
bằng một câu ngắn gọn : "Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về
Na-da-rét và hằng vâng phục các Ngài" (Lc 2, 51). Sự hiếu thảo của Đức
Giêsu được thấy trong tiệc cưới Ca-na. Khi đám cưới thiếu rượu, Đức Maria xin
Người giúp. Tuy chưa đến thời điểm, nhưng Đức Giêsu vẫn làm phép lạ cho nước
biến thành rượu để giúp đám cưới theo yêu cầu của Mẹ. Cảm động hơn hết là giây
phút cuối đời, khi bị treo trên thập giá, Đức Giêsu vẫn quan tâm đến Mẹ nên đã
gửi gấm nhờ thánh Gio-an, môn đệ yêu quí, chăm sóc Mẹ.
Ngày nay, nhiều gia đình đang trong tình trạng báo động. Từ thời
mở cửa, gia đình Việt Nam đã biến chuyển mãnh liệt theo chiều hướng nguy hiểm.
Số cặp vợ chồng li dị tăng nhanh một cách đáng sợ. Con cái không còn vâng lời
cha mẹ như xưa. Theo đà tiến triển kinh tế, nhiều gia đình trở nên giàu có hơn,
nhưng con cái lại bỏ bê học hành, lao vào con đường ăn chơi, vướng vào tệ nạn
xã hội, làm cho cha mẹ buồn lòng, gia đình tan nát.
Để bảo vệ gia đình trước làn sóng văn minh vật chất hưởng thụ và
cá nhân chủ nghĩa, ta hãy học hỏi gương mẫu Thánh gia.
Trước hết, cha mẹ phải coi con cái là hồng ân, là báu vật quí
nhất Chúa ban cho gia đình. Báu vật này cần được quan tâm chăm sóc không phải
chỉ bằng phương tiện vật chất mà quan trọng hơn, bằng tình thương, sự chăm sóc,
dạy dỗ ngay từ khi tuổi còn thơ. Thiết nghĩ sự hiểu biết, cảm thông khi đến
tuổi trưởng thành là điều hết sức cần thiết. Dù thành công trong xã hội mà con
cái hư hỏng thì vẫn là thất bại cả cuộc đời.
Đáp lại, phần mình là con cái thì phải có lòng hiếu thảo với cha
mẹ. Hiếu thảo là một yếu tố nhân bản cần thiết của con người, nó còn vừa là một
đức tính của người có lương tri vừa là một thái độ khôn ngoan của người khiêm
tốn. Có lương tri và có sự khôn ngoan, con người mới phát triển toàn vẹn và trở
nên hữu ích cho xã hội. Quan trọng hơn nữa, hiếu thảo với cha mẹ là điều răn
thứ tư của Thiên Chúa mà người Kitô phải thi hành.
Sau cùng, cả gia đình phải sống theo Lời Chúa dạy. Lời Chúa là
nền tảng của gia đình. Sống theo Lời Chúa là xây dựng gia đình trên nền đá vững
chắc. Gia đình sống theo Lời Chúa sẽ vững vàng qua mọi bão lốc thời đại.
Gia đình Công giáo sống theo Lời Chúa không những giữ được hạnh
phúc cho gia đình mà còn đóng góp vào việc xây dựng xã hội trong hoàn cảnh đạo
đức đang xuống cấp hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin giúp gia đình chúng con sống theo gương lành
của các Ngài. Amen.
12. Trân trọng mái ấm gia đình
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay lễ thánh gia thất. Nói đến thánh gia là nói đến một gia
đình hạnh phúc. Một gia đình luôn đồng cảm với nhau, chia sẻ vui buồn với nhau
và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Gia đình thánh gia nơi
có thánh Giuse, một người cha luôn là lá chắn chở che cho gia đình. Gia đình
thánh gia, nơi có Mẹ Maria luôn sống âm thầm, tận tuỵ trong công việc của mình.
Và nhất là có Chúa Giêsu luôn kính trọng và vâng lời cha mẹ. Chính các ngài đã
tạo nên một mái ấm gia đình. Các ngài đã làm cho gia đình trở thành thiên đường
tại thế khi mỗi thành viên đều sống có trách nhiệm với gia đình và cùng nhau
vun trồng hạnh phúc cho gia đình. Nhất là các ngài luôn tìm kiếm ý Chúa và thực
thi trong cuộc đời.
Là người ai trong chúng ta cũng có một gia đình. Gia đình là chỗ
chúng ta tựa nương. Gia đình là thành trì vững chãi cho cuộc đời chúng ta. Gia
đình mang lại cho chúng ta niềm vui, tiếng cười. Gia đình là chiếc nôi êm ái
cho cuộc đời chúng ta. Thế nên, khi xa gia đình, chúng ta vẫn luôn cảm thấy mất
mát, trống vắng trong cõi lòng.
Có một lời bộc bạch của một người con vừa chập chững bước chân
vào đời đã tâm sự:
“Em nghĩ tới mẹ em lúc em đi học về, lúc em đói bụng. Nghĩ hồi
trước về nhà, đi học về, có mẹ nấu đồ ăn, có cơm sẵn cho mình ăn. Bây giờ, đi
học về, ngồi gặm bánh mì thui thủi một mình hay nấu mì gói.
Em nhớ mẹ trong lúc đi làm, khi bị người ta nói này nói kia.
Mình nghĩ lúc ở nhà, ba mẹ la mình thì mình giận, nghĩ là không thương mình.
Rồi bây giờ, đi ra ngoài đi làm, người ta khó khăn với mình thì mình cũng phải
chịu thôi, không nói lại được. Nên nghĩ lại thấy thương nhớ cha mẹ.”
Lời tâm tình này cũng là tâm sự của nhiều bạn trẻ - những chú
chim non vừa bay ra khỏi tổ, tự một thân một bóng phải vật lộn, chống chọi lại
mọi thứ để tồn tại trong khoảng không gian bao la vô tận mà trước đây bầu trời
xanh trong với những ước mơ bay bổng từng thu hút và đầy quyến rũ để các chú
chim luôn khao khát mau được bay ra khỏi tổ một cách tự do, độc lập.
Chính vì thế mà có nhiều bạn trẻ khi va vấp những khó khăn trong
cuộc sống mới giật mình xót xa:
“Có đôi lúc,
Mải mê quay với dòng đời ồn ã
Những đô hội thị thành
Những phương trời lạ
Chợi giật mình tỉnh giấc nhớ mẹ cha.”
Có một sự thật là khi còn trong mái ấm gia đình chúng ta lại
sống dửng dưng. Chúng ta luôn muốn thoát ra khỏi sự ràng buộc của gia đình.
Chúng ta muốn tự do, tự tại, tự hành xử theo ý mình. Nhưng, đường đời đâu mấy
khi bằng phẳng, dòng đời đâu mấy khi bình yên, đã giúp chúng ta nhận ra không ở
đâu bình yên cho bằng gia đình, không ở đâu có tình yêu chân thành cho bằng
tình cha mẹ yêu con. Lúc này, kẻ xa quê mới cảm thấy xót xa:
“Giữa bể đời, bao la rộng lớn.
Con bơ vơ, phố xá đông người.
Tìm lối về, mênh mông bóng tối.
Con khóc nhiều, số phận thương đau.
Cuộc đời con, cần một hạnh phúc.
Mái ấm gia đình, buổi cơm chung.
Cùng nhau sum vầy, ba ngày tết.
Mười bảy năm rồi. Có được đâu!”
Hôm nay là lễ thánh gia, ngày thánh hoá các gia đình. Chúng ta
xin ơn Chúa thánh hóa từng gia đình chúng ta và ban cho chúng ta một mái ấm gia
đình hạnh phúc yêu thương. Xin cho mỗi thành viên trong gia đình biết trân
trọng những ngày tháng bên những người thân yêu nơi gia đình, biết hy sinh,
biết sống nhường nhịn và thân ái với nhau. Xin cho chúng ta cũng biết xây dựng
gia đình mình hạnh phúc bằng việc chu toàn bổn phận và sống có trách nhiệm với
gia đình. Xin đừng xúc phạm đến nhau khi đang được cùng sum họp trong một mái
ấm gia đình. Và xin cho mỗi thành viên biết lắng nghe tiếng Chúa và đáp lại
thánh ý trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con"
Câu ca dao này dường như là người Việt nam ai cũng thuộc nằm
lòng. Có thể nói bất cứ người Việt nam nào dù sang hay hèn, dù có hay không có
địa vị đều ý thức và tôn trọng chữ Hiếu. Đây chình là một trong những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Việt nam.
Không ai có thể phủ nhận rằng cha mẹ là những người có công lớn
trong việc sinh thành và dưỡng dục ta. Lại nữa, trong đức tin ta biết rằng cha
mẹ được ơn đồng sáng tạo với Thiên Chúa khi sinh ra ta. Do đó, con người dù
thành đạt cách mấy mà không biết hiếu thảo với cha mẹ thì cũng được xem là
thấp. Bởi vì, một trong những tiêu chuẩn để đánh giá một con người đó tấm lòng
hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
Với thân phận làm người, Chúa Giêsu cũng được sinh ra và lớn lên
trong gia đình như ta. Người luôn ý thức và chu toàn tốt bổn phận làm con của
mình. Phải công nhận gia đình Nagiareth là gia đình hạnh phúc và kiểu mẫu. Dù
rằng có thể gia đình này thua sút nhiều mặt.
Trong mười điều răn Đức Chúa Trời sau ba điều về Chúa liền đó là
điều dạy phải thảo kính cha mẹ. Rồi hằng năm vào mùng hai Tết âm lịch cũng như
cả tháng 11 Giáo hội không ngừng nhắc nhở giáo dân nhớ đến ông bà cha mẹ. Ta
không thể nào sống hiếu thảo với Chúa nếu như trước đó ta chưa sống hiếu thảo
với cha mẹ.
Không biết đã có bao nhiêu bài hát, ca dao, tục ngữ, bài thơ...
ca ngợi công ơn cha mẹ. Tuy nhiên, ngày nay do ảnh hưởng lối sống thực dụng nên
có nhiều người dường như xem thường công ơn cha mẹ. Có nhiều kẻ làm con vì quá
ích kỷ nên đã bỏ cha mẹ cô đơn, trong khi đó mình dư khả năng để lo cho các
ngài. Thật đáng tiếc.
Có câu chuyện kể rằng trong gia đình nọ, ngày kia đứa con thấy
cha nó gọt cái gáo dừa mới hỏi cha nó gọt làm chi. Lặng nhìn đứa con hồi lâu
ông ta trả lời: "Để cho ông nội mày ăn cơm. Vì lúc này ông nội mày làm bể
chén hoài, phí quá!". Đứa con suy nghĩ và không nói gì. Vài ngày sau đó,
nó cũng đem gáo dừa khác ra gọt. Tưởng là con cũng đồng tình với mình, người
cha hí hởn hỏi: "Bộ mày tính giúp tao lo cho ông nội mày hả?". Đứa
con trả lời: "Đâu có, cái này con để dành cho cha. Khi nào cha như ông nội
con sẽ cho cha xài". Nghe xong câu trả lời người cha tái mặt...
Như vậy, công ơn cha mẹ không biết làm sao ta có có thể đáp đền
cho cân xứng. Dù rằng ta có thành tài cách mấy đi nữa mà không có lòng hiếu
thảo cha mẹ thì cũng kể bằng không. Hơn nữa, thái độ của ta với cha mẹ như thế
nào thì con cháu sẽ nhìn vào đó để cư xử với ta như vậy.
(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tôi thấy trong các gia đình Công Giáo rất thường trưng ảnh tượng
Thánh Gia trên bàn thờ, và đó là điều đáng mừng. Nhưng nhiều khi tôi tự hỏi, họ
học được điều gì nơi cái gia đình 'siêu phàm' đó? Đối với nhiều người đó chỉ là
một sự tôn thờ, tôn thờ một biểu tượng gần gũi với đời mình để dễ nhận được
điều cầu được ước thấy. Nhưng cũng có nhiều người nói với tôi là họ (được dạy)
coi Thánh Gia là một mẫu gương để họ noi theo bắt chước. Nhưng bắt chước điều
gì mới được chứ? Những 'công dung ngôn hạnh', những cần cù đảm đang, những trên
thuận dưới hòa... tôi đâu có thấy Phúc Âm ghi nhận chỗ nào đâu. Những điều này
trong sách Huấn Ca của Cựu Ước (tư tưởng hao hao như sách Gia Huấn Ca của
Nguyễn Trãi... và có lẽ mỗi dân tộc đều có một vài tác phẩm tương tự) đã có dư
thừa và còn phong phú hơn cả Phúc âm nữa. Lời Chúa của lễ Thánh Gia hôm nay
cũng chỉ trích dẫn trong bài Tin Mừng câu chuyện về 'trẻ Giêsu vị thành niên bị
thất lạc trong đền thờ Giê-ru-sa-lem', một giai thoại chẳng liên quan gì tới
các nội dung luân lý giáo điều về gia đình.
Giai thoại hiếm hoi được ghi nhận trong thời gian thật dài khi
trẻ Giêsu còn chung sống trong gia đình mình, giai thoại được Maria ghi vào ký
ức để suy đi nhẩm lại, có vẻ gì đó tiêu cực, nếu xét theo các tiêu chí luân lý
thông thường: Trẻ Giêsu đã làm phiền lòng chính cha mẹ mình. "Con ơi, sao
con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha và mẹ đây đã phải cực lòng
tìm con!" Như thế thì trong đời sống của Thánh Gia đâu phải mọi sự đều
trôi chảy, đều êm thắm, đều lý tưởng... để có thể trở thành mẫu gương luân lý
tiết hạnh của mọi thời đại. Tôi chắc rằng Thánh Gia cũng có những diễn biến
cuộc sống (tạo nên những hỷ, nộ, ái, ố) giống như mọi gia đình bình thường khác
thôi. Tuy nhiên Thánh Gia đã có một điều gì đó rất khác, rất phi thường: vì đó
là gia đình đầu tiên đã học biết (Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói)
sống những diễn biến bình thường đó trong một tinh thần Tin Mừng thực sự. Trẻ
Giêsu đã đưa ra hướng giải đáp cho vấn nạn chính đáng và thông thường của đời
sống gia đình: khi có những mất lòng nhau vì nhiều nguyên nhân, khách quan hay
chủ quan: hãy lo 'bổn phận ở nhà của Cha'. Bổn phận ở nhà của Cha là gì nhỉ?
Chẳng lẽ chỉ đơn thuần là ở lại trong đền thờ? Chỉ mình Giêsu đấng từ trời
xuống mới biết; và Ngài đã mạc khải qua chính cuộc sống và cái chết của Ngài về
cái bổn phận chưa ai từng biết đó. Thánh Gioan (mà lịch phụng vụ hôm nay 27/12
nói là không cử hành lễ kính) đã dần dần học biết được cái bổn phận căn bản đó.
Và một khi đã học được, vì là người môn đệ được tựa đầu vào ngực Chúa, ngài đã
mạnh mẽ thốt lên: "Anh em hãy thương yêu nhau vì tinh yêu bắt nguồn từ
Thiên Chúa...Tinh yêu cốt ở điều này... chính Người đã yêu thương chúng ta và
đã sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta... Nếu Thiên Chúa yêu
thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau" (1Ga 4,
7-16). Thánh Gia, và mọi gia đình công giáo, đều phải học bài học này. Cả Giuse
cũng phải học, cả Maria nữa. Bài học yêu thương tha thứ cho nhau vì biết rằng
Thiên Chúa đã tha thứ yêu thương trước thì ai cũng phải học, đơn giản vì ai
cũng có thể bực dọc hay phật lòng (cho dầu bực dọc có lý do chính đáng). Và bài
học này không dễ hiểu được đâu, chưa nói đến thực hành, vì nó không dựa trên lý
luận hay hợp lý, nó không công bằng chút nào. Chỗ dựa duy nhất của nó là niềm
tin vào Đức Kitô Giêsu, vào sự điên rồ hay ngu xuẩn của Thập giá. Kể cả Giuse
và Maria cũng thấy khó khăn như thế "Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa
nói... Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng".
Như vậy Thánh Gia thật gần với đời thường, vì là nơi niềm tin tìm được cách
biểu lộ cách chân thực nhất và cũng bị thách thức nhiều nhất. Chính trong các
gia đình (kể cả các gia đình tu sĩ), nơi chung sống những con người bất toàn,
bất hòa hay bực dọc sẽ vẫn là chuyện cơm bữa, thì tình yêu thương xót và tha
thứ (phát xuất từ Thiên Chúa) sẽ có dịp cất lên tiếng nói mãnh liệt nhất.
Lạy Chúa, xin cho con hằng biết chiêm ngưỡng Thánh Gia như nơi đã
học và đã cố gắng sống bổn phận vĩ đại nhất của Thiên Chúa Tình Yêu. Xin cho
con không chỉ biết tôn thờ suy tôn, mà còn biết đồng hành với Thánh Gia trong
tiến trình sống niềm tin. Amen.
15. Lễ Thánh Gia Thất.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Cổ tích vùng Rotal mạn Bắc nước Pháp có kể lại một câu chuyện
sau đây:
Có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một người con sống rất hiệp
nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người ngủ say, một trận
giông bão to lớn chưa từng thấy, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng đều lụt lớn,
nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh. Người cha của gia đình cõng
vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con. Nước càng lúc càng dâng cao, chẳng
bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng mệt mỏi, bà mẹ cố giơ
cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để đứa bé khỏi chết ngộp.
Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu được đứa bé khỏi chết.
Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy cái đầu bé tí nhô khỏi
mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả cha mẹ đứa bé. Thế là nhờ
yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.
Có lẽ chưa bao giờ gia đình lại khủng hoảng trầm trọng trong thế
giới như chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội là những
gia đình què quặt, tan nát, nạn ly thân, ly dị và phá thai, và những gia đình
chia ly vì chiến tranh, bạo lực, áp bức của các chế độ vô nhân. Những gia đình
bất hòa vì nạn thất nghiệp, vì nạn kinh tế khó khăn, eo hẹp hay vì nạn cờ bạc
rượu chè, ma túy, thuốc sái và ham mê buông thả trong lạc thú. Vì thế, những
người phải trả giá mắc mỏ nhất cho hậu quả của các cuộc khủng hoảng này là con
cái, là trẻ em và giới trẻ.
Làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi phải sống trong
các gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng khi các tế
bào nòng cốt của xã hội bị bệnh hoạn như vậy?
Qua ngày lễ Thánh Gia, Mẹ Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư
nghiêm chỉnh trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị với chúng ta một mẫu
gương, đó là mẫu gương của tổ ấm gia đình Nazareth xưa, gia đình của Chúa
Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse.
Chương ba sách Đức Huấn Ca là một bài quảng diễn điều răn thứ Tư
của Mười Giới Luật, dạy con cái phải thảo hiếu cha mẹ. Ngoài những lý do luân
lý tự nhiên như câu ca dao Việt Nam nêu lên:
"Công cha như núi thái sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ kính mẹ cha,
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Tác giả sách Đức Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo nữa.
Đó là thái độ sống hiếu với cha mẹ, với những người đã dày công mang nặng đẻ
đau, sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con
hiếu thảo khi họ kêu khấn lên Ngài.
Suy tư trên đây là một thí dụ điển hình cho thấy người sống đạo,
người đạo đức như tác giả sách Đức Huấn Ca, biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm siêu
việt nằm trong chính cái nhân loại tầm thường của cuộc sống mỗi ngày. Thiên
Chúa không xa vời đối với Chúa Giêsu nhưng Ngài luôn hiện diện ngay trong cái
tầm thường nhất của mỗi ngày sống chúng ta. Bởi vì Ngài đã đến sống giữa con
cái loài người, đồng hành với con người, chia sẻ mọi buồn vui, mọi âu lo khó
nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại bằng đôi mắt của lòng tin
thì mọi sự trong thế giới hữu hình này đều được biến đổi và nói lên được sứ
điệp mà Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta: một gia đình trong đó mọi thành phần
biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng lẫn nhau, hy sinh cho nhau,
sống cho nhau và sống vì nhau thì sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và
sức sống thiên linh của Thiên Chúa.
Sự thật này được nêu bật trong Thánh Vịnh 28. Đây là bí quyết
tạo hạnh phúc cho gia đình, nhưng rất tiếc cũng là điều rất thiếu sót trong các
gia đình của xã hội chúng ta ngày nay. Làm sao gia đình có thể hài hòa hạnh
phúc nếu mỗi người chỉ ích kỷ, sống và tìm hưởng thụ cho riêng mình mà không
muốn yêu thương, không muốn chia sẻ, không muốn dâng hiến, trao ban và lo lắng
cho những người khác. Tình yêu đích thực bao giờ cũng đơm hoa kết trái, và gia
đình chỉ là gia đình khi cha mẹ, con cái xum vầy bên nhau.
Một tình yêu không sinh hoa trái là một thứ tình yêu cằn cỗi,
què quặt, bất bình thường. Một gia đình không có con cái là một gia đình buồn
tẻ và không trọn vẹn. Dĩ nhiên, vì những lý do ngoài ý muốn, gia đình có thể
thiếu vắng thành phần này hay thành phần khác, nhưng tình yêu là nhân tố nòng
cốt không thể thiếu được. Một cuộc hôn nhân không tình yêu là một cuộc hôn nhân
lầm lẫn, bởi vì chỉ có tình yêu chân thành sâu đậm được chăm bón vun xới mỗi
ngày mới khiến cho gia đình trở thành tổ ấm hạnh phúc. Còn lấy nhau vì tiền
của, vì lợi lộc, lấy nhau vì chức tước và địa vị thì sẽ không bao giờ tạo hạnh
phúc cho con người và hôn nhân sẽ đi đến chỗ đổ vỡ. Nhưng tình yêu không chân
thành, không thôi thúc cũng chưa đủ để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình mà cần
phải có những nhân đức Kitô và nhân đức xã hội.
Trong chương III thư gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô khuyên các
tín hữu chu toàn các đòi buộc của lòng tin trong cuộc sống thường ngày. Trước
khi đề cập đến bổn phận của các thành phần khác trong gia đình, thánh nhân nhắc
cho mọi người biết một số các bổn phận căn bản phát xuất tự lòng tin Kitô: Là
những người được chọn làm con cái Thiên Chúa, là thành phần sống động của xã
hội và là công dân Nước Trời, hơn ai hết người Kitô hữu phải noi gương Chúa
Giêsu sống tình yêu thương bác ái trọn vẹn cao độ đến sẵn sàng hy sinh mạng
sống vì người khác. Bởi vì, chính thái độ sống yêu thương là thái độ sống nền
tảng cho người Kitô hữu, giúp họ thực sự trở nên giống Thiên Chúa, và là nền
tảng của mọi nhân đức khác, đặc biệt là các nhân đức xã hội, nhân bản.
Do đó, thánh Phaolô thôi thúc chúng ta hằng ngày biết mặc lấy
tâm tình của lòng thương xót, nhân từ, khiêm tốn, dịu hiền và kiên nhẫn. Tất cả
các nhân đức này đều giúp chúng ta duy trì được bầu khí hài hòa trong nội tâm,
trong gia đình và giữa cộng đoàn. Bởi vì khi có lòng thương xót và nhân từ,
chúng ta sẽ cảm thông với những lỗi lầm thiếu sót và yếu đuối của nhau, và dễ
tha thứ cho nhau hơn bắt đầu bằng các thành phần trong gia đình mình, vợ chồng,
con cái, họ hàng, bạn bè. Khi khiêm tốn, chúng ta cũng biết nhận ra những tội
lỗi, những khuyết điểm, những yếu hèn và thiếu sót của chúng ta chứ không luôn
luôn cho mình là phải, là hay, là giỏi, là nhất, và hung hăng chỉ trích lên án
và kết tội người khác.
Khi khiêm tốn, chúng ta dễ châm chước cho người khác, vì biết
rằng mình cũng như họ thôi, hay đôi khi còn tệ hơn họ nhiều và chúng ta sẵn
sàng xin lỗi, sẵn sàng làm hòa, sẵn sàng đền bù sửa chữa. Khi hiền dịu và khiêm
tốn, chúng ta không nóng nảy gay gắt với người khác, mà biết chịu đựng mọi
thiếu sót, sơ xuất của họ, đồng thời ý thức được rằng người khác cũng đang phải
kiên nhẫn chịu đựng những thiếu sót và sai quấy của mình.
Lời Chúa mà chúng ta tâm niệm và cùng với ơn thánh Chúa ban cho
mỗi ngày, chúng ta có thể tập được các nhân đức trọn lành này. Sau khi khuyến
khích mọi người mỗi ngày hãy mặc lấy tâm tình và tìm sống các nhân đức trên
đây, thánh Phaolô đem nguyên tắc xem ra đơn sơ, nhưng thực hiện được cho đúng
quả thật không dễ. Đó là mỗi thành phần trong gia đình hãy cố gắng sống bổn
phận riêng trong cương vị của mình một cách phù hợp với ý Chúa muốn: "Vợ
hãy phục tùng chồng và chồng hãy yêu thương vợ, đừng gắt gỏng với nàng. Còn con
cái hãy thảo kính cha mẹ và vâng phục các ngài. Cha mẹ hãy biết khoa sư phạm và
rành tâm lý theo kiểu cách dạy dỗ, cư xử với con cái, đừng quá khắt khe đòi hỏi
kẻo chúng chán nản ngã lòng".
Có người coi cái tôn ti trật tự của cuộc sống gia đình như thánh
Phaolô trình bày là bất công, kỳ thị và lỗi thời. Vì trong xã hội nam nữ bình
quyền, đặc biệt ngày nay trong liên hệ giữa vợ chồng với nhau họ được bình
đẳng. Nhưng nếu chúng ta để ý đến nguyên tắc lấy tình yêu thương làm nền tảng
cuộc sống thường ngày như thánh Phaolô đã nêu bật thì sẽ không có vấn đề nữa.
Bởi vì trong yêu thương thì tất cả mọi người đều như nhau, không có phân chia
ngôi vị. Nói như thế không có nghĩa là cuộc sống gia đình sẽ không bao giờ gặp
khó khăn hay khủng hoảng, nhưng có nghĩa là cho dù có gặp những khủng hoảng,
khó khăn trầm trọng đến thế nào đi nữa, nếu mỗi thành phần gia đình đều có tình
yêu thương đích thật thì tất cả đều được san bằng trong yêu thương hợp nhất. và
nếu sống tình yêu thương đó cách cụ thể thì sóng gió nào rồi cũng sẽ êm và con
thuyền tổ ấm gia đình tiếp tục tiến tới. Sống yêu thương chân thành quảng đại
vô vị lợi không phải là chuyện dễ, nhưng là điều có thể làm được và cần phải
làm nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc cho chính mình và cho người khác.
Sự thật này được minh chứng trong trình thuật Phúc Âm thánh Luca
chương II: Sự thường mười hai tuổi vẫn là lứa tuổi thiên thần dễ thương và dễ
mến nhất. Trong dịp cả gia đình đi hành hương ở Jérusalem hôm ấy, Chúa Giêsu đã
khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria một lần phải rụng rời tay chân, khi Chúa
Giêsu tự ý ở lại trong đền thờ mà không nói gì với hai người. Sau ba ngày hớt
hải kiếm tìm và hỏi han khắp nơi, hai ông bà cảm thấy con đang đàm đạo đối chất
với những tiến sĩ luật trong đền thờ.
Câu trách móc nhẹ nhàng của Mẹ Maria cho thấy tất cả tình yêu
thương hiền dịu của Mẹ và của Thánh Giuse đối với Chúa Giêsu là một lời trách
móc đầy yêu thương kính trọng. Sự im lặng của thánh Giuse thật vô cùng ý nghĩa:
nó vừa tỏ nỗi lo âu một cách thầm kín, vừa cho thấy thái độ của thánh nhân tôn
trọng tự do của Chúa Giêsu và biết chấp nhận sự kiện không thể giải thích được.
Bởi vì thánh nhân biết chắc phải có lý do nào kín ẩn lắm mới khiến cho một
người con ngoan ngoãn tuyệt diệu như Chúa Giêsu có thái độ hành xử này.
Câu trả lời lạ lùng của Chúa Giêsu giải thích cho hành động bất
thường ấy đã minh chứng cho thấy tuy còn nhỏ tuổi, Chúa Giêsu đã ý thức được sứ
mệnh và nguồn gốc của mình. Chúa Giêsu thuộc về một thế giới và có sứ mệnh phải
chu toàn mà ít người có thể hiểu nổi, kể cả Mẹ Maria và thánh Giuse. Tuy không
hiểu được câu trả lời của Con, Mẹ Maria ghi nhớ kỹ mọi sự và suy niệm trong
lòng. Cuộc suy gẫm ấy sẽ lâu dài và đau đớn, và Mẹ chỉ hiểu được mầu nhiệm đó
khi đứng dưới chân Thập Giá của Người Con trong ngày Chúa Giêsu tử nạn vì yêu
thương.
Sau biến cố kể trên, Chúa Giêsu lại theo Cha Mẹ về Nazareth, lớn
lên trong khôn ngoan, tràn đầy ơn thánh, yêu thương tuân phục các Ngài cho tới
ngày công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ.
16. Gia đình mẫu mực cho mọi gia đình.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu có ai đặt câu hỏi: gia đình nào xứng đáng là mẫu mực cho mọi
gia đình khác noi theo, thì câu trả lời không gì khác hơn là thánh gia thất
Nadarét.
Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã cùng nhau xây nên một gia
đình rất đẹp, rất thánh thiện và gương mẫu nhất đời.
Thành viên thứ nhất: thánh Giuse, người công chính.
Là người công chính, thánh Giuse đã không hành động cách nông
nổi điên cuồng như bao thanh niên khác khi thấy người bạn trăm năm của mình
mang thai trước khi về chung sống. Ngài đã xử sự đầy bao dung, quảng đại và
khôn ngoan. (Mt 1, 19)
Thánh Giuse là một người cha luôn mau mắn phục vụ gia đình không
quản khó nhọc, không quản ngày đêm: "Đang đêm, sứ thần hiện ra cùng Giuse
trong giấc mơ và bảo: "hãy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai-cập",
thì thánh Giuse tức tốc thi hành (Mt 2, 13-14). Rồi sau khi đã an cư lạc nghiệp
bên Ai-cập, sứ thần Chúa lại báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài
Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en", thánh Giuse mau mắn thi hành không do
dự. (Mt 2, 19 # 21)
Thánh Giuse là người lao động cần cù để nuôi dưỡng gia đình.
Ngài chuyên chăm làm nghề mộc đến nỗi nói đến bác thợ trong làng Nadarét thì
người ta nghĩ ngay đến thánh Giuse. Khi người Nadarét gọi Chúa Giêsu là con bác
thợ, ai chẳng biết bác thợ đó là thánh Giuse. (Mt 13, 55).
Thành viên thứ hai: Mẹ Maria, một người Mẹ tuyệt vời.
Một người Mẹ trổi vượt về khiêm nhường. Cho dù được sứ thần
Gabrien gọi là "Đấng đầy ơn phúc" (Lc 1, 28), được bà Ê-li-sa-bét ca
ngợi là người có phúc hơn mọi người nữ; (Lc 1, 42) thì Mẹ vẫn nhận mình chỉ là
"nữ tì hèn mọn" (Lc 1, 48).
Một Người Mẹ đầy lòng yêu thương và phục vụ: khi vừa hay tin
người chị họ cao niên được Chúa cho cưu mang con trai trong tuổi già, Mẹ tất tả
lên đường tiến lên miền núi, tìm đến nhà bà Ê-li-sa-bét để chúc mừng và ở lại
phục vụ người chị họ cao niên trong thời gian thai nghén và sinh nở ròng rã ba
tháng trời.
Mẹ là người luôn quan tâm đến niềm vui và hạnh phúc người khác,
thế nên khi dự tiệc cưới tại Ca-na, dù không phải là người nhà, Mẹ là người đầu
tiên phát hiện tiệc cưới thiếu rượu và đã tìm cách chữa cháy cho sự việc nầy.
(Ga 2, 3)
Là người Mẹ rất mực hiền lành, nên dù phải nôn nao, lo lắng, cực
lòng tìm con suốt ba ngày ròng, khi gặp được con, Mẹ vẫn giữ được sự dịu dàng
hiếm có: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha
con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!"
Thành viên thứ ba: Chúa Giêsu.
Dù là Thiên Chúa Ngôi hai, Chúa Giêsu đã trở thành một người con
hết lòng yêu thương và phục vụ cha mẹ trần thế. Trong ba mươi ba năm ngắn ngủi
sống thân phận con người, Ngài đã bỏ ra đến ba mươi năm, tức 9/10 cuộc đời, để
cùng với Mẹ Maria và thánh Giuse xây dựng gia đình Nadarét. Ngài đã đổ mồ hôi
với công việc lao nhọc hằng ngày để nuôi dưỡng phục vụ Đức Mẹ và thánh Giuse
cho đến tuổi ba mươi mới lên đường thi hành sứ mạng.
Dù là Thiên Chúa quyền năng nhập thể, nhưng Chúa Giêsu luôn tỏ
ra là một người con hiếu thảo với cha mẹ trần gian. Thánh Luca tóm tắt cuộc
sống tại gia của Ngài như sau: "Người hằng vâng phục cha mẹ. . . ngày càng
thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người
ta" (Lc 2, 51-52)
* * *
Thiên Chúa đã thiết kế và xây dựng một ngôi nhà rất đẹp, rất ấm
cúng và thánh thiện là gia đình Nagiarét. Thiên Chúa nhận thấy đây là một mẫu
nhà đẹp nhất nên Ngài mời gọi chúng ta dựa trên mô hình đó để dựng xây gia đình
mình y như vậy.
Xây dựng gia đình mình theo mẫu nhà Nadarét là mọi người trong
gia đình phải đối xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy, cụ thể là chồng
phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Đức Mẹ
và Chúa Giêsu; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu
mến và phục vụ thánh Giuse và Chúa Giêsu; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho
con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong
gia đình phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như
Chúa Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.
* * *
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình, nhắn
nhủ: "Thiên Chúa đã tự đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong
gia đình. . . Những gì mà các thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho
chính Chúa".
Thế là phần thưởng đời đời sẽ được Chúa Giêsu ưu ái trao tặng
cho các thành viên gia đình biết yêu thương phục vụ lẫn nhau.
Và thế là một phần thưởng vô cùng quý báu đang nằm trong tầm tay
mọi người.
17. Những thánh gia Nagiarét thời đại mới.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có họ đạo nghèo ở vùng duyên hải miền Trung có tên gọi là Thánh
Gia. Sở dĩ đặt tên như vậy là vì họ đạo nầy chọn Thánh Gia Nagiarét làm bổn
mạng.
Phía bên hông nhà thờ họ đạo có một hang đá khá lớn, có bộ tượng
hang đá bằng thạch cao to bằng tầm vóc người trưởng thành.
Hằng năm vào dịp lễ Thánh Gia, bổn mạng của giáo xứ, theo một
truyền thống đã có từ lâu đời, sau khi lễ tan, các gia đình trong giáo xứ tập
trung đông đảo chung quanh hang đá cầu nguyện với thánh gia thất và mỗi gia
đình cử ra một vị đại diện tuần tự tiến lên theo hàng đôi đến trước bộ tượng
hang đá, dâng lên Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse những bông hoa thắm tươi và
thơm ngát để tỏ lòng tôn kính mến yêu của mình.
Thế rồi một biến cố đau lòng xảy ra trong dịp trước giáng sinh
năm ấy, một nhóm trẻ tinh nghịch từ làng bên vì có thù hận với nhóm trẻ trong
xóm đạo, đã kéo đến vào ban đêm đập phá bộ tượng hang đá vỡ ra nhiều mảnh.
Sự việc nầy khiến cho nhiều người hoang mang và bối rối!
Biết làm sao bây giờ, khi ngày lễ thánh gia đã gần kề? Tìm đâu
ra bộ tượng ba Đấng mới thế vào bộ tượng đã bị phá tan? Nghi lễ dâng hoa cho ba
Đấng vào mỗi dịp lễ Thánh Gia là một nghi lễ truyền thống đã được thực hiện
xuyên suốt từ hơn trăm năm qua, không có năm nào bỏ qua, lẽ nào năm nay không
tổ chức được?
Vì giáo dân trong xứ quá nghèo, Cha xứ và hội đồng mục vụ không
thể huy động đủ tiền để đặt làm bộ tượng mới và dù có huy động đủ tiền cũng
không thể đặt một bộ mới trong khi thời gian đã cận kề.
Trước tình thế đó, Cha Xứ có một sáng kiến táo bạo: Ngài cho mời
đôi vợ chồng mới sinh đứa con trai đầu lòng được chừng tháng tuổi và mới được
rửa tội mấy ngày trước, mặc y phục truyền thống thật chỉnh tề, đóng vai Đức Mẹ,
thánh Giuse và Chúa Giêsu thay cho bộ tượng hang đá bằng thạch cao đã bị hư
hại. Ngài sắp xếp cho cặp vợ chồng quỳ bên trong hang đá, chầu hai bên đứa con
thơ ở giữa họ và kêu mời đại diện các gia đình trong giáo xứ tiến lên theo hàng
đôi dâng hoa cho ba vị nầy.
Sáng kiến nầy đã làm cho một số người trong họ đạo cảm thấy bị
sốc. Họ cho rằng làm như vậy là quá đề cao gia đình người tín hữu và xúc phạm
đến ba Đấng thánh.
Cha Sở cố gắng diễn giảng cho họ như sau:
Khi đề nghị gia đình anh chị Năm đóng vai Giuse, Mẹ Maria và
Chúa Giêsu thế chỗ cho bộ tượng ba Đấng bằng thạch cao bị hư, chúng ta không
làm gì xúc phạm đến ba Đấng thánh, nhưng chúng ta xem gia đình anh chị Năm đây
là hình ảnh rất trung thực và cao quý về Thánh Gia của Chúa Giêsu.
Lâu nay, chúng ta quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng thạch cao,
bằng xi măng hay bằng nhựa dẻo, và chưa quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng xương
bằng thịt có sự sống, có linh hồn, có lương tri, có trí tuệ như anh chị Năm
đây, nên chúng ta cảm thấy bị sốc.
Nhưng xin quý ông bà hiểu điều nầy:
Thứ nhất: mỗi một người tín hữu đều có phẩm giá rất cao và được
gọi là thánh. Thánh Phaolô gọi các tín hữu thuộc các giáo
đoàn (nay gọi là giáo xứ) là thánh. Họ được hiến thánh nhờ bí tích thánh tẩy.
Nhờ bí tích nầy họ trở thành chi thể, thành thân mình Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô nói: "Nào Anh em chẳng biết rằng thân xác anh
em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (1Cr 6, 15)
Ngoài ra, các tín hữu còn được Chúa Giêsu cho trở nên cùng một
xương thịt với Người, được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa, được thông phần
bản tính Thiên Chúa nhờ đón nhận bí tích Thánh Thể.
Như vậy, không có một sản phẩm nào do tay người phàm làm ra dù
bằng thạch cao, bằng gỗ, bằng đá hay bằng kim loại quý như bạc như vàng. . .
xứng đáng được chọn làm hình ảnh của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria, của thánh Giuse
cho bằng chính mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Thứ hai: Hội Thánh công giáo xưa nay vẫn nhìn nhận gia đình của
Kitô hữu là gia đình thánh nên Giáo Hội quen gọi
đó là những hội thánh tại gia.
Chúa Giêsu còn lập bí tích hôn nhân để thánh hiến đời sống vợ
chồng. Thế nên không gì thích hợp cho bằng chọn gia đình Kitô hữu làm biểu
tượng cho thánh gia Nagiarét.
Sau khi hiểu được những điều cha xứ giải thích, mọi người vui vẻ
dâng những đoá hoa thật đẹp thật tươi cho anh chị Năm được cử đóng vai thánh
gia Nagiarét.
Rồi qua những năm sau, nhiều người trong giáo xứ đều thấy thật
là thích hợp và đầy ý nghĩa khi chọn một gia đình công giáo trong họ đạo đóng
vai thánh gia Nagiarét thay vì dùng bộ tượng thạch cao, nên cộng đồng giáo xứ
thoả thuận với nhau rằng: đôi vợ chồng nào mới sinh con và được rửa tội sớm
nhất trong tháng 12 dương lịch thì sẽ được chọn đóng vai thánh Giuse, Đức Mẹ và
Chúa Giêsu để cho giáo dân kính viếng. Và cũng từ lúc đó, thay vì dâng hoa cho
ba Đấng như trước đây, người ta dâng cho em bé trong vai Giêsu những hộp sữa;
dâng cho người mẹ trong vai Maria những cuộn chỉ, những chiếc kim, chiếc kéo;
dâng cho người cha trong vai Giuse những dụng cụ làm việc nho nhỏ như những
chiếc kìm, chiếc búa, cái đục, cái bào. . .
Từ sự kiện nầy, các gia đình tín hữu trong xứ đạo đều ý thức
mình là những thánh gia Nagiarét thời mới. Các đôi vợ chồng trong các gia đình
luôn trân trọng và yêu quý nhau như tương quan giữa Mẹ Maria và thánh Giuse.
Cha mẹ biết chăm lo giáo dục con cái như Mẹ Maria và thánh Giuse đã thực hiện
với Chúa Giêsu năm xưa. Con cái luôn vâng phục và thảo hiếu với mẹ cha như Chúa
Giêsu đã làm đối với thánh Giuse và Đức Mẹ. Niềm vui, hạnh phúc và đời sống
thánh thiện chan hoà trong các gia đình.
Ngoài ra, tương quan giữa các gia đình trong giáo xứ được cải
thiện đáng kể vì ai nấy đều biết tôn trọng những gia đình khác vì xác tín rằng
đó thực sự là những thánh gia.
18. Thánh gia, gương sáng của tin yêu.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Lần giở lại những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy
gia đình đầu tiên của nhân loại đã được Chúa chúc phúc. Họ đã có những ngày
tháng thật hạnh phúc bên nhau và bên Chúa. Giữa Thiên Chúa và con người không
có khoảng cách, chỉ có tình thân hữu thật thơ mộng mà Thánh kinh đã diễn tả:
"chiều chiều Thiên Chúa tản bộ đi cùng con người trong vườn địa
đàng". Thế nhưng gia đình đó đã bị rạn nức và bị đổ vỡ. Nguyên do của sự
đổ vỡ chính là họ chối từ Thiên Chúa, hành vi Adam - Eve giơ tay lên hái trái
cấm là hành vi nói lên con người muốn gạt Thiên Chúa ra bên ngoài, muốn loại
trừ Thiên Chúa nên con người cũng loại trừ và kết án lẫn nhau. Adam đã kết án
vợ mình: "Tại người đàn bà này mà tôi đã ăn trái cấm". Hậu quả của
việc bất tuân phục Thiên Chúa là đau khổ và sự chết đã đi vào trần gian.
Nhưng, cho dù con người có ngàn lần phản nghịch, Chúa vẫn yêu
thương con người, Chúa vẫn tìm đến để cứu chuộc con người và phục hồi lại giá
trị của hạnh phúc gia đình thuở ban đầu. Thiên Chúa đã mang xác phàm để ở giữa
chúng ta. Ngài đã sinh ra trong một gia đình, lớn lên trong một gia đình, và
chính Ngài đã thánh hoá gia đình đó trở thành gia đình thánh, mẫu gương cho các
gia đình noi theo. Đó là một gia đình luôn biết tuân phục Thiên Chúa, luôn phó
thác cậy trông vào Chúa. Gia đình đó có thánh Giuse đã vì Chúa mà đón nhận Maria
về làm bạn mình, đã vì Chúa mà lận đận vượt trăm ngàn nguy khó để bảo vệ sự
sống cho hài nhi và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Gia đình đó có Đức Maria, một
người Mẹ của cầu nguyện và hy sinh. Mẹ đã phó thác hoàn toàn cho thiên ý nhiệm
mầu của Thiên Chúa. Mẹ đã tận hiến đời mình như một nữ tỳ nhỏ bé để phụng sự
Thiên Chúa. Gia đình đó còn có Chúa Giêsu, một người con hằng yêu mến cha mẹ,
càng lớn càng khôn ngoan, hằng đẹp lòng Thiên Chúa và người ta.
Và cho đến hôm nay, mỗi khi chúng ta thấy có những người cha,
người mẹ biết sống tôn thờ Thiên Chúa là họ đang để cho Chúa canh tân, gìn giữ
gia đình. Họ đang vui với phận mình trong niềm tín thác vào sự quan phòng của
Chúa. Họ có thể nghèo khó nhưng tấm lòng họ lại thanh thoát, không gian tham
của người. Họ có thể lam lũ, một nắng hai sương nhưng tấm lòng họ lại thanh cao
như đóa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Họ vì Chúa mà đón
nhận nhau trong yêu thương tha thứ, không chỉ một lần mà trải rộng mọi ngày cho
đến suốt cuộc đời. Họ là những gia đình thánh gia cho thời đại hôm nay. Họ vẫn
tiếp tục nêu gương sáng trong bổn phận, trong đời sống thanh cao và giầu lòng
quảng đại.
Song le, giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người chồng,
người cha đang bê tha rượu chè, đang ngoại tình lang chạ, đang đánh mất niềm
tin với Thiên Chúa nên cũng bỏ bê gia đình. Giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó
những người vợ đang bất tín, bất trung, đang thiếu trách nhiệm và hy sinh cho
gia đình, vì họ không còn niềm tin nơi Chúa nên cũng chẳng còn hy sinh cho
nhau. Giữa giòng đời hôm nay, vẫn còn đó những người con đang lao vào những
danh lợi thú trần gian mà lãng quên tình Chúa nên cũng xem thường tình cha,
nghĩa mẹ.
Thực vậy, nếu trong cuộc đời này không còn ai tin tưởng vào
Thiên Chúa, không còn ai tin vào đời sau, có lẽ sẽ chẳng còn ai dám hy sinh cho
gia đình, hy sinh cho tha nhân. Không có đời sau thì người ta sẽ sống vì mình,
vì hạnh phúc của mình, vì đam mê của mình mà chà đạp người khác và thiếu trách
nhiệm với tha nhân.
Nguyện xin Thánh gia nâng các gia đình đang gặp những khó khăn
thử thách. Xin cho các gia đình công giáo biết noi gương thánh gia để sống hy
sinh cho nhau và cùng nhau xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Amen.
19. Có một lý do.
Erma Bombeck là một nhà viết nhật ký. Bài viết của cô đã được
đăng tải trên 900 tờ báo khắp nước Mỹ. Cũng giống như những nhà bình luận, cô
nhận được rất nhiều lá thư của các độc giả.
Đây là đoạn trích thư của một người mẹ: "Cho dù là tòa đã
phán quyết đứa con trai của tôi, nhưng tôi thì vẫn không. Nó là đứa con của
tôi, làm sao mà tôi có thể phán quyết nó chứ? Tôi cầu nguyện cho nó; tôi khóc
thương nó; tôi khuyến khích nó. Và trên hết, tôi yêu thương nó. "
Đây là một ví dụ khác, dựa trên lá thư của một em bé 12 tuổi. Em
viết: "Tôi là một bà mẹ thay thế. Khi người mẹ của tôi làm việc tại nhà
hàng, thì tôi phải trông coi ba người em của tôi. Tôi phải lo vệ sinh cho chúng
nó. Tôi lau nước mũi cho chúng. Tôi cho chúng ăn. Tôi đưa chúng vô giường ngủ.
Tôi làm tất cả mọi việc mà người mẹ thật của tôi làm. Tuy nhiên, thay vì cám ơn
tôi, các em của tôi đã ghét tôi. Một đôi lúc, tôi mong được chết đi. Tôi đã có
ý định bỏ nhà ra đi, nhưng tôi không biết đi đâu và sẽ làm gì. Khi tôi lớn lên,
tôi không muốn làm một người mẹ, bởi vì đó là một cái nghề tệ nhất trên trái
đất này. " (Based on Erma Bombeck, Motherhood: The
Second Oldest Profession).
Hai ví dụ ở trên đều đưa đến một điểm giống nhau, đó là cho dù
làm bậc cha mẹ hoặc làm bậc con cái trong gia đình đều không phải là dễ. Một
đôi lúc, nó thật là nhức nhối.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rằng, cho dù là Gia Đình
Thánh Gia cũng chẳng ngừa được cái đau khổ tương tự.
Thí dụ, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã phải đau khổ khi lạc mất con.
Sự đau khổ cũng không giảm bớt khi họ tìm thấy Chúa Giêsu. Mẹ Maria đã nói với
Chúa Giêsu: "Con ơi, sao con lại làm cho chúng ta như thế? Kìa cha con và
mẹ đây, đã đau khổ tìm con. "
Chúa Giêsu trả lời: "Mà tại sao tìm con? Cha mẹ không biết
rằng con phải lo công việc của Cha con ư?"
Đó là một câu trả lời đau khổ cho câu hỏi của Mẹ Maria. Mẹ Maria
đã phản ứng thế nào?
Mẹ đã không chạm trán với Chúa Giêsu, hoặc bắt Ngài phải giải
thích. Mẹ chỉ đơn giản để những lời đó vào trong lòng và suy ngẫm. Phúc Âm
viết: "Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. . . Maria, Mẹ Người ghi
nhớ những việc đó trong lòng" (Lc 2:48-51)
Một đôi lúc, giữ thinh lặng là cách duy nhất để giải quyết những
cơn giận dữ. Erma Bombeck viết trong cuốn "Tình Mẹ": "Tôi cho
rằng mỗi một người con đều nhớ một đức tính đặc biệt nào đó về người mẹ của
mình. Đức tính đó có thể là một sự khôn ngoan cứu giúp người con khỏi cảnh nguy
hiểm, hoặc là một lời nói chỉ đường để giúp người con đạt tới mục đích cách dễ
dàng. Riêng tôi, tôi yêu mẹ của tôi, bởi vì trong mọi lúc bà ấy chẳng nói điều
gì hết. "
Để có thể giữ thinh lặng trong khi bên trong nội tâm của mình
sôi sùng sục đòi hỏi rất nhiều sự tự chủ. Tuy nhiên, cũng có lúc những thinh
lặng nói lớn hơn là những lời nói phát xuất từ miệng lưỡi.
Nếu vai trò của Mẹ Maria trong gia đình Thánh Gia không phải là
một chuyện dễ dàng, thì vai trò của Thánh Giuse cũng chẳng thua kém gì.
Một người giảng phòng đã kết thúc bài giảng của ngài với các ông
bố như sau: "Thánh Giuse là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta.
"
Sau cuộc nói chuyện, một ông bố đã tiến lên vị giảng phòng và
nói: "Với tất cả lòng tôn kính, thưa cha, trường hợp của Thánh Giuse thì
khác hẳn với chúng tôi, những người bố bình thường. Thứ nhất, Ngài là một vị
thánh. Thứ hai, vợ của Ngài vô nhiễm tội lỗi. Thứ ba, người Con của Ngài là Con
Thiên Chúa. Tôi không phải là thánh, vợ của tôi thì tội lỗi, và con của tôi
không phải là Con Thiên Chúa."
Vị giảng phòng trả lời: "Điều ông nói đúng, nhưng tôi xin
thành thật hỏi ông thế này. Vợ của ông có phải là có thai trước khi đám cưới,
mà ông không biết tại sao không? Hoặc là con của ông có khi nào bỏ nhà ra đi ba
ngày mà ông không biết nó đi đâu không? Cả hai điều này đã xảy ra với Thánh
Giuse. "
Chúng ta thấy rõ, cho dù là một gia đình thánh thiện cũng không
tránh khỏi sự khó khăn.
Chúng ta xin Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse phù hộ chúng ta
sống thánh thiện yêu thương, noi gương Thánh Gia Nazarét.
20. Cầu nguyện
Trong một cuộc thăm dò về gia đình, người ta đã đưa ra một câu
hỏi như thế này:
- Khi dẫn con vô tiệm ăn, bạn có cảm thấy thoải mái khi yêu cầu
chúng làm dấu thánh giá và đọc kinh trước khi ăn hay không?
Câu hỏi này khiến chúng ta phải lưu ý tới một trong những vấn đề
quan trọng, đó là sự cầu nguyện trong gia đình. Thực vậy, đời sống cầu nguyện
trong gia đình phải được thực hiện dưới ba hình thức khác nhau.
Hình thức thứ nhất đó là cầu nguyện riêng tư.
Mỗi người trong gia đình phải cầu nguyện riêng với Chúa. Chẳng
hạn người cha cầu nguyện khi đi đến công sở, người mẹ cầu nguyện khi chăm sóc
đứa con đau yếu, con cái cầu nguyện khi đi đến trường… Có nhiều cách giúp chúng
ta cầu nguyện riêng. Chẳng hạn như kinh Lạy Cha, vừa đọc vừa suy gẫm. Cũng có
thể cầu nguyện bằng cách đọc và suy gẫm lời Chúa trong Thánh Kinh, hay cầu
nguyện bằng chính những lời lẽ riêng tư, nói với Chúa như với một người Cha nhân
từ.
Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện một mình. Sau một ngày vất vả
mệt mỏi thì ban tối Ngài thường lên núi để chìm đắm trong sự kết hiệp với Chúa
Cha…
Một trong những món quà quí giá nhất mà cha mẹ có thể trao tặng
cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích những giây phút cầu nguyện một mình
và không có cách nào thực hiện điều đó tốt hơn bằng chính gương sáng của mình.
Một người ngoại giáo thăm người bạn của mình giữa lúc người bạn
ấy đang cầu nguyện. Hình ảnh này đã làm cho người ngoại ấy cảm động và sau đó
đã xin nhập Kitô giáo
Hình thức thứ hai đó là cầu nguyện chung trong gia đình.
Chẳng hạn những giờ kinh tối sớm hay trước lúc dùng bữa. Chúa
Giêsu cũng thường cầu nguyện như thế. Người Do Thái coi trọng việc cầu nguyện
chung trong gia đình, nhất là trước các bữa ăn. Họ thường nói:
- Ai ăn mà không tạ ơn Thiên Chúa, thì đó là kẻ trôm cắp.
Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện trước khi ăn. Chẳng hạn như
khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, khi ngồi với các tông đồ trong phòng tiệc
ly, hay với hai môn đệ trên đường đi Emmaus.
Một lần nữa chúng ta có thể xác quyết:
- Một trong những món quà quí giá nhất mà cha mẹ có thể trao
tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích việc cầu nguyện chung trong
gia đình.
Tướng Mac Arthur đã viết như sau: Là một quân nhân chuyên
nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn hãnh diện hơn nữa vì được làm
một người cha với niềm hy vọng rằng khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con cái
tôi vẫn nhớ đến tôi với hình ảnh ở nhà, khi tôi cùng với chúng đọc lời kinh:
Lạy Cha chúng con ở trên trời…
Sau cùng, hình thức thứ ba là cầu nguyện với cộng đoàn, với các
gia đình khác trong khu xóm, nhờ đó mà khu xóm trở nên gần gũi, gắn bó, đoàn
kết với nhau hơn.
Chúng ta có thể tổ chức những giờ kinh trong khu xóm hay cùng
nhau đến nhà thờ để tham dự thánh lễ và các việc đạo đức khác, Chúa Giêsu cũng
thường làm như vậy. Khi trở về Nagiarét, Ngài thường đến hội đường để cùng với
dân làng đọc Kinh Thánh và cầu nguyện.
Còn chúng ta, chúng ta đã sống tinh thần cầu nguyện ấy như thế
nào dưới mái gia đình của chúng ta.
21. Gia đình thánh thiện.
Nếu muốn tìm một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, chắc chắn
chúng ta phải tìm nơi thánh gia: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Vậy đâu
là bí quyết dẫn đến hạnh phúc?
Tôi xin thưa:
- Đó là sự thánh thiện, bởi vì chính đoạn Tin mừng hôm nay đã
đem lại cho chúng ta lời giải đáp ấy.
Thực vậy, chúng ta thường hay nghĩ rằng:
- Những con người đặc biệt thì được miễn trừ nhiều việc, kể cả
việc tuân giữ lề luật.
Trái lại, bài Phúc âm hôm nay cho thấy thái độ của thánh gia là
sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa bằng cách tuân giữ những lề luật của Ngài.
Chúa Giêsu thì chịu phép cắt bì. Mẹ Maria thì chu toàn nghi lễ
thanh tẩy. Còn thánh Giuse thì nộp tiền chuộc theo như lề luật đã qui định.
Và hơn thế nữa, thánh Giuse cùng với Mẹ Maria hàng năm vốn
thường dẫn Chúa Giêsu lên đền thờ, đặc biệt là năm Chúa mười hai tuổi, lứa tuổi
chưa bị lề luật đòi buộc. Từ đó chúng ta ghi nhận: cha mẹ đạo đức bao giờ cũng
muốn giáo dục con cái mình trở thành những người đạo đức như vậy.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có thể không cần phải tuân giữ
luật cắt bì và lên đền thời, bởi vì chính Ngài là đền thờ mà con người phải tôn
kính. Mẹ Maria cũng chẳng cần phải chu toàn nghi lễ tẩy uế, bởi vì Mẹ được thu
thai và sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, chứ không theo cách thức thông
thường.
Thế nhưng, các Ngài đã tuân giữ lề luật, đã phục vụ Thiên Chúa
một cách khiêm nhường trong tin yêu.
Việc dâng Chúa trong đền thờ không phải là điều luật buộc, nhưng
là một sáng kiến tự nguyện của Mẹ Maria. Mẹ lợi dụng cơ hội chu toàn nghi lệ
tẩy uế để dâng con mình cho Thiên Chúa.
Việc thánh Giuse cùng đi nhằm mục đích giúp đỡ hai mẹ con, bởi
vì tiền chuộc có thể nộp ở bất cứ chỗ nào. Điều đó cho thấy Mẹ Maria và thánh
Giuse luôn ở bên nhau để che chở cho hài nhi Giêsu, nhờ đó tạo nên một mái gia
đình đầm ấm, đồng thời còn biểu lộ tinh thần trách nhiệm của những bậc làm cha
làm mẹ.
Tiếp đến là những năm tháng dài tại Nagiarét. Cuộc sống của gia
đình này không có gì là giàu sang, bởi vì các Ngài cũng đã phải lao động vất vả
mới có được chén cơm manh áo, nhưng vẫn ngập tràn hạnh phúc, đầm ấm và thánh
thiện, bởi vì giữa Mẹ Maria và thánh Giuse luôn có một chiếc gạch nối là Chúa
Giêsu. Ngài chính là trọng tâm của gia đình.
Có năm chàng thanh niên sang Mỹ tìm vàng. Lúc trở về thì bốn
người đã trở nên cộc cằn và hung dữ, vì ảnh hưởng của những thiếu thốn và cực
nhọc đã phải gánh chịu. Riêng người thứ năm thì vẫn bình thường, vui vẻ và lạc
quan. Người ta hỏi:
- Tại sao anh lại giữ vững được tinh thần như vậy?
Anh ta trả lời:
- Sở dĩ như vậy là vì một hình ảnh tôi đã mang theo. Dĩ nhiên
không phải là hình ảnh của một cô bạn gái, nhưng là hình ảnh của gia đình tôi
vào buổi tối trước khi tôi lên đường. Tối hôm ấy, mọi người đã cầu nguyện và
cha tôi đã chúc lành cho tôi. Chính hình ảnh này đã theo tôi trong suốt cuộc
hành trình đầy gian khổ.
Noi theo mẫu gương của Thánh gia: chúng ta hãy tuân giữ lề luật
của Thiên Chúa và thực tình giúp đỡ lẫn nhau để gia đình của chúng ta sẽ mãi
mãi là một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.
22. Gia đình
Tại những quốc gia Âu Mỹ nào chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Kitô
thì ngày lễ Giáng sinh ngoài ý nghĩa tôn giáo như là ngày lễ cử hành Mầu Nhiệm
Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Lễ Giáng sinh còn mang ý nghĩa văn hóa xã hội nữa,
như là ngày lễ của gia đình, ngày mà mọi thành phần gia đình sum họp bên nhau.
Giáo Hội đã luôn luôn nhắc nhở về mối tương quan giữa mầu nhiệm
nhập thể và gia đình. Vì thế, trong chu kỳ phụng vụ luôn luôn cử hành lễ thánh
gia đình Nagiarét vào Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh. Giáo Hội muốn
đặt gia đình trong ánh sáng của mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa, và gia
đình đầu tiên hưởng lấy ơn của mầu nhiệm Giáng sinh là thánh gia đình Nagiarét.
Con Thiên Chúa nhập thể làm người nhận lấy một thể xác để thánh hóa mọi khía
cạnh của cuộc sống con người. Ngài nhập thể trong một gia đình tại Nagiarét để
thánh hóa thực tại đời sống gia đình.
Sự hiện diện của Chúa trong gia đình là yếu tố căn bản để liên
kết mọi thành phần gia đình chung lại với nhau, để thánh hóa tình yêu con
người, mặc cho tình yêu phàm trần đó một chiều kích thần thiêng được thấm nhuần
trong tình yêu thần thiêng, trong tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu tự nhiên trở
thành tình yêu bác ái.
Bài đọc hai trong thánh lễ của Chúa nhật trong tuần bát nhật
Giáng sinh được diễn tả như là hiến chương của đời sống Gia đình Kitô: “Hãy để
cho Chúa hiện diện trong gia đình. Hãy để cho Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong anh
em. Hãy đọc Lời Chúa trong gia đình”.
Năm thánh 2000, các Giám mục Việt Nam trong bức thư Mục Vụ chung
gởi toàn thể dân Chúa như sau: “Đối với người Việt Nam, gia đình vẫn là rường
cột của Giáo Hội và xã hội. Gia đình phải là một Giáo Hội thu nhỏ, nghĩa là nơi
lấy sự thật của Tin Mừng làm qui luật sống và làm quà tặng cho cộng đoàn rộng
lớn hơn. Gia đình không phải chỉ là đối tượng cho Giáo Hội chăm sóc về mục vụ
mà còn là một trong những tác nhân đắc dụng nhất trong công cuộc loan báo Tin
Mừng”.
Tông huấn đề ra các phương thế thực hiện như gia đình tham gia
vào các sinh hoạt của giáo xứ, lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể
và Bí tích Hòa giải, dấn thân phục vụ các gia đình khác. Bậc cha mẹ phải cố
gắng biến những giây phút của gia đình qui tụ bên nhau thành cơ hội để cầu
nguyện, đọc và suy niệm Sách thánh.
23. Tài sản
Chúng ta mới cử hành ngày sinh của Hài Nhi Giêsu. Hôm nay, chúng
ta mừng toàn thể gia đình của Ngài. Một gia đình mà Giáo Hội muốn đề cao như
gương mẫu cho mọi gia đình chúng ta.
Khi nhìn vào gia đình của Chúa Giêsu này và so sánh với các gia
đình hôm nay, ta có thể tự nhủ: “Ôi khác biệt quá! Gia đình Chúa Giêsu dồi dào
sức khỏe, còn các gia đình hôm nay bệnh hoạn, rất bệnh hoạn!”
Đúng vậy. Các gia đình hiện nay đang đối diện với vô số vấn đề:
cha mẹ ly thân, ly dị, tái giá… Những gia đình chỉ có cha hay mẹ mà thôi… Uy
tín của người cha hay người mẹ giảm sút kinh khủng… Anh hưởng bên ngoài của xã
hội mạnh hơn ảnh hưởng từ chính bên trong gia đình. Giới trẻ hầu như không còn
tin tưởng gì nữa… Những người trẻ rời gia đình rất sớm…
Bao nhiêu cha mẹ than vãn về tình trạng hiện nay! Bao nhiêu
người cha người mẹ thất vọng vì những gì đã xảy đến trong chính gia đình của
họ. Bao nhiêu cha mẹ không còn biết phải nghĩ sao nữa! Quá nhiều lần ta đã nghe
nói: “Nếu có thể làm lại được, tôi sẽ không lập gia đình, tôi sẽ không có con,
như thế tôi sẽ không phải làm việc cựu nhọc để nuôi nấng một gia đình. Thật quá
vất vả, quá bạc bẽo, quá đau đớn! Phải đổ ra biết bao nhiêu là nước mắt!”
Phải làm gì khi tình trạng xấu đi? Khi tình trạng xấu đến thế? Bao
giờ cũng thế, vẫn có hai con đường để chọn lựa: người ta có thể buông trôi hết
hoặc cố gắng chấn chỉnh mọi sự; người ta có thể bỏ cuộc hoặc làm lại; người ta
có thể chiều theo tính thờ ơ và vỡ mộng chán chường hoặc lăn xả vào việc tái
thiết; người ta có thể để cho tình hình xuống cấp hơn nữa hoặc tự trang bị bằng
lòng can đảm để làm cho tình hình biến chuyển khá hơn.
Hai con đường để lựa chọn, nhưng lẽ ra chúng ta không nên mất
thì giờ để xét xem phải chọn con đường nào. Chỉ có một giải pháp có giá trị thôi:
đó là quyết tâm chữa trị gia đình khỏi bệnh tật, dù khó khăn trắc trở vẫn không
ngừng nỗ lực làm cho gia đình trở thành nơi chốn mà người ta học biết làm người
có trách nhiệm; nơi mà người ta tập nhận ra sự tự lập và giá trị của kẻ khác;
nơi mà người ta được rèn luyện để biết sống tập thể, biết kính trọng và yêu
thương kẻ khác, biết giúp đỡ lẫn nhau và chia sẻ bản thân mình, cùng với những
gì mình có và những gì mình sống.
Để đào tạo con người về tất cả những điều này, người ta chưa tìm
ra được môi trường nào tốt hơn gia đình và người ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra
được nơi nào tốt hơn. Gần đây, Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Hôn nhân và gia
đình là một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại” (Tông thư
Familiaris consortio, số 1). Người ta không thể để cho tiêu tan một trong những
tài sản quí báu nhất của nhân loại, người ta phải làm đủ cách để bảo vệ nó. Nếu
nó ốm đau, người ta phải tìm mọi phương dược để chữa lành nó.
Từ miệng một linh mục, một người độc thân, những khẳng định này
có thể làm cho một số người mỉm cười hay làm thất vọng một số người khác. Họ sẽ
nói: “Nếu ngài biết! Nếu ngài đã từng trải qua cuộc sống gia đình, ngài sẽ nói
khác”. Tuy nhiên, những lời mời gọi của linh mục là những lời mời gọi của Giáo
Hội, là tiếng vọng lại từ chính những lời kêu gọi của Thiên Chúa. Theo kế hoạch
của Ngài thì người nam và người nữ kết hợp với nhau, có con cái, mang trách
nhiệm về gia đình mà họ cố gắng làm cho nên giống gia đình của thánh Giuse, Mẹ
Maria và Chúa Giêsu.
Để làm điều đó không phải là không đau đớn, không vất vả, không
gặp khó khăn trầm trọng. Đoạn Tin mừng được loan báo hôm nay mang đầy ý nghĩa
về điểm này. Mẹ Maria và thánh Giuse lo lắng đau khổ: “Con ơi tại sao con làm
cho cha mẹ như vậy? Con xem, cha mẹ đã phải đau đớn tìm kiếm con…” Có biết bao
nhiêu cha mẹ phải thốt lên những lời tương tự như thế.
Tuy nhiên Mẹ Maria và thánh Giuse không nản lòng. Biết rằng cuộc
sống gia đình sẽ vất vả, các Ngài vẫn tiếp tục thương yêu và sống trước nhan
Thiên Chúa bằng cách chu toàn tốt nhất những gì Chúa chờ đợi nơi các Ngài. Nơi
điều này, các Ngài là gương mẫu của tất cả mọi cha mẹ trên thế giới. Và quá
hiển nhiên, Chúa Giêsu con của các Ngài là gương mẫu cho tất cả các con cái
trên thế giới.
24. Thánh Gia
Chỉ cách đây mấy ngày, chúng ta đã mừng sinh nhật của Chúa Giêsu
Kitô, hang đá vẽ cho chúng ta một cảnh gia đình đầm ấm của Thánh Gia với tượng
Chúa Giêsu đặt ở giữa. Lễ Thánh Gia hôm nay giúp chúng ta đào sâu thêm một điểm
nòng cốt khác của gia đình, để gia đình Kitô có thể thực sự là một tổ ấm, mà
trong đó mọi phần tử trong gia đình luôn giúp nhau tìm kiếm và thực hành thánh
ý Chúa.
Ước gì thánh lễ hôm nay giúp mọi thành phầm trong gia đình Kitô
ý thức, đóng góp cho xã hội trong việc cố gắng sống trọn bí tích hôn nhnâ để
chung tay xây dựng một mái ấm gia đình hạnh phúc theo mẫu gương của Thánh Gia
Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Bởi lẽ gia đình có hạnh phúc thì xã hội
mới an vui phồn thịnh.
Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn để lắng nghe và được nuôi dưỡng
bởi Lời và bởi Mình Máu Thánh Chúa bằng cách nhìn nhận những lỗi lầm chúng ta
đã vấp phạm trong những ngày qua, nhất là những lỗi lầm đối với cha mẹ, vợ
chồng và anh chị em trong gia đình.
Trong những ngày lễ Giáng sinh linh thiêng vừa qua, thiết nghĩ
mỗi người trong chúng ta đã một lần đến quì trước máng cỏ để nhìn ngắm Chúa
Giêsu Hài đồng, được tình yêu của Đức Maria và thánh Giuse âu yếm bảo bọc, nâng
niu, cộng với khung cảnh tuy đơn sơ nghèo nàn nhưng an bình thư thái của những
gia súc, chiên, bò, lừa quây quần bên máng cỏ, chúng ta dễ dàng để ý tưởng
tượng vẽ ra hình ảnh gia đình đầm ấm, trên dưới thuận hòa, mọi người yêu thương
đùm bọc, hy sinh nâng đỡ nhau.
Nhưng bài Phúc âm dành cho lễ Thánh Gia hôm nay có lẽ dẫn chúng
ta ra khỏi bầu khí ấm cúng của tổ ấm gia đình để trở về với thực tế của những
sinh hoạt hằng ngày, nơi cả trong gia đình cũng có thể xảy ra những mâu thuẫn,
những vấn đề, những hiểu lầm, những ngày tháng dường như cha mẹ con cái lạc mất
nhau.
Thực tế nhiều khi phũ phàng nhưng nó vẫn là sự thật. Sự thật của
cuộc sống ngày hôm nay là gia đình dễ dàng gặp những cơn khủng hoảng, đời sống
kinh tế của hầu hết các gia đình chúng ta ngày nay đều khó khăn, sinh hoạt
trong xã hội ngày nay tăng vận tốc, bắt mọi người ai nấy phải sống hối hả, sống
vội vàng. Và vì kế sinh nhai khó khăn vất vả, theo họ dầu muốn dầu không cũng
thiếu thốn vật chất và tinh thần để giáo dục con cái cũng trở nên trong những
việc xa xỉ phẩm. Cộng vào đấy là sự đánh mất những giá trị cổ truyền trong gia
đình, thí dụ như lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, sự kính trên nhường
dưới giữa anh chị em, tinh thần hy sinh, nhịn nhục… đã bị các trào lưu tân tiến
và nhất là đã bị ý thức hệ phủ nhận, những nền tảng gia đình bị phá vỡ mà không
đề ra những giá trị mới thay thế vào.
Trên bình diện của niềm tin, nền tảng của gia đình cũng bị lung
lay tận gốc rễ, vì thiếu đất đai màu mỡ của một đức tin có chiều sâu, thiếu
phân bón của buổi đọc kinh chung trong gia đình, thiếu cả nước với những cố
gắng sống với thực tại và những bổn phận do các Bí tích Thanh tẩy, Thêm sức và
nhất là bí tích Hôn phối đòi hỏi. Đó là một trong những khó khăn mà các gia
đình Kitô giáo Việt Nam ngày nay đang chạm trán.
Lễ Thánh Gia thất hôm nay mời gọi mọi người, mời gọi bạn và tôi
đặt câu vấn nạn: “Có phải gia đình chúng ta lạc mất Chúa Giêsu rồi không?”,
đồng thời lễ Thánh Gia thất hôm nay cũng mời gọi mọi người, mời gọi bạn và tôi
noi gương và nối gót Đức Maria và thánh Giuse lên đường tìm lại Chúa. Chúng ta
phải ý thức rằng: đây không phải là một con đường bằng phẳng dễ đi, vì hai Ngài
đã phải trải qua những giây phút hớt hả tìm kiếm, trải qua những đêm trằn trọc
mất ngủ, trải qua những lo lắng bồn chồn để khi gặp lại Con phải nghe câu trả
lời khó hiểu: “Tại sao cha mẹ lại tìm Con. Cha mẹ không biết rằng Con phải lo
công việc của Cha Con sao?”.
Đức Maria là người đã ghi nhớ những việc đó trong lòng, chắc hẳn
đã phải dần dần tìm hiểu ý nghĩa câu trả lời của Chúa Giêsu trong suốt khoảng
thời gian ẩn dật của Chúa, để cuối cùng dưới chân thập giá mới hiểu nòng cốt
của niềm tin Kitô, nòng cốt của người Kitô là tìm hiểu sống trọn thánh ý Thiên
Chúa, và nòng cốt của gia đình Kitô là giúp nhau tìm hiểu và thực hành thánh ý
của Ngài.
25. Lễ Thánh Gia
Câu Kinh Thánh: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết
là con có bổn phận ở nhà Cha Con sao?" Chính là câu nói mà Chúa Giêsu đã
trả lời cho Đức Mẹ và Thánh Giuse khi tìm được Ngài. Thú thật khi còn bé tôi
không thể hiểu được tại sao Đức Giêsu lại nói vậy, có rất nhiều câu nói dễ nghe
hơn sao Ngài lại không nói. Cho đến ngày hôm nay tôi mới hiều và càng khâm phục
hơn về lời nói rất thâm sâu và co ý nghĩa về sự vâng phục phục tuyệt đối của
Đức Giêsu. Thật hay là lúc đó Đức Mẹ và thánh Giuse cũng không hiểu nhưng các
ngài cũng không tỏ ra giận, hay khó chịu, mà chấp nhận theo ý con một cách vui
lòng. Do đó để hiểu rõ về ý nghĩa của ngày lễ Thánh Gia hôm nay chúng ta hãy
nhìn lại hoàn cảnh và tâm tình khi Đức Giêsu lên 12 tuổi.
Vào năm đó Đức Giêsu cũng như các gia đình Do thái khác cùng
nhau lên Giêrusalem để mừng lễ vượt qua. Khi trở về được một ngày đàng, Đức Mẹ
và thánh Giuse mới biết mình đã lạc mất Chúa Giêsu. Hai ông bà lo buồn trở lại
Giêrusalem tìm suốt ba ngày trường mới thấy Đức Giêsu trong đền thánh, Ngài
đang cắt nghĩa Kinh Thánh cho những nhà thông luật. Khi gặp Ngài Đức Mẹ nói:
"Này con, sao làm như vậy?" Hẳn là câu nói đó như có phần khiển
trách. Chúa Giêsu trả lời lại hơi có vẻ ngạc nhiên và che dấu một sự trách cứ
nhẹ nhàng. Cha mẹ tìm con làm chi, cha mẹ không biết rằng con không như các trẻ
con khác, nhưng con phải ở nhà Cha Con để làm tròn thánh ý Người ư? Làm tròn
thánh ý Thiên Chúa đây không chỉ là giảng dạy cho các thầy thông luật, nhưng
cũng là sửa soạn cho Đức Mẹ và Thánh Giuse quen chấp nhận hy sinh về tình cảm
tự nhiên để chấp nhận sứ mệnh mà Thiên Chúa sẽ trao phó đòi hỏi một sự can đảm
và hy sinh. Lúc đầu hai ông bà hơi bỡ ngỡ, nhưng dần dần các ngài nhờ đức tin
và sự suy ngắm, nhận biết Chúa Giêsu thật ra không thuộc về mình, vì thế từ lúc
này về sau các ngài thêm lòng hy sinh, sẵn sàng chịu sự chia ly với Ngài hơn.
Là cha mẹ Công Giáo chúng ta có sẵn sàng hy tình cảm và lợi lộc
đời này để cho con cái chúng ta dâng mình theo tiếng gọi của Chúa làm linh mục,
tu sĩ không? Gương Đức Mẹ và thánh Giuse thật là mậu gương cho mọi người chúng
ta noi theo. Qua bài Tin Mừng, ta thấy không những Chúa Giêsu vâng lời Chúa
Cha, sẵn sàng hy sinh tình cảm gia đình để thánh hóa các thành viên trong gia
đình ấy, mà Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng sẵn lòng quy phục thánh ý Chúa, cho dù
lúc đó hai người vẫn chưa biết thánh ý đó.
Chúa Giêsu chưa bao giờ làm mất lòng Mẹ Người, Ngài hằng tỏ ra
vâng phục hết tình. Thế mà nay Chúa lại làm như vậy, chắc chắn phải có lí do.
Nhưng Đức Mẹ không hiểu, vì thế lời tự nhiên có vẻ hơi trách móc, khó mà chấp
nhận được. Câu trả lời của Chúa tuy giải thích cho Đức Mẹ hiểu nguyên do vì đâu
Ngài làm vậy, nhưng vẫn còn giữ cả một huyền nhiệm sâu xa của nó: chính vì cha
mẹ biết Con hằng vâng phục cha mẹ, mà trong việc này cha mẹ khỏi lo. Cha mẹ nên
biết Cha ở trên trời có những ý định mà mội người chúng ta phải tuân theo. Nếu
Chúa nói rõ ý định của Thiên Chúa từ trước thì cha mẹ Ngài không còn lo lắng gì
nữa và sẽ ở lại Giêrusalem chờ Ngài. Nhưng Ngài đã không nói và Đức Mẹ nhìn
thấy đó là một huyền nhiệm về sứ mệnh của Ngài, Đức Mẹ tạm yên lòng nhưng vẫn
không hiểu rõ về vấn đề. Thái độ của Đức Mẹ và thánh Giuse không đòi Chúa cho
biết rõ ràng, nhưng sẵn lòng vâng phục trong tối tăm là một tấm gương cao cả
cho chúng ta. Kể cà khi: "Ông bà không hiểu lời Chúa nói", nhưng mỗi
người đều giữ lời Chúa trong lòng của mình mà suy niệm. Riêng Đức Mẹ người đã
hiểu dần dần qua các biến cố lời đã hứa khi thụ thai: "này tôi là tôi tớ
Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền".
Trong cuộc sống gia đình chắc chắn mỗi người chúng ta đều có
những ưu tư, sầu khổ, lắm lúc không thể hiểu tại sao hoạn nạn tai ươn luốn đến
với mình, tại sao ở hiền mà không gặp lành. Những lúc đó ta hãy noi gương gia
đình thánh phục tùng và tuyệt đối vâng theo thánh ý Chúa. Vì Thiên Chúa luôn
yêu thường và quan phòng, nếu Ngài để cho ta chịu những bài học đau đớn, đó là
vì lợi ích phần hồn của ta và của người khác.
Lạy Chúa trong cuộc sống ai cũng muốn đời mình được êm ả, được
như ý mình muốn. Nhưng chính những sở thích đó lại không là Thánh Ý Chúa muốn.
Xin cho con biết noi gương gia đình thánh hôm nay để biết hoàn toàn chấp nhận
theo ý Chúa. Amen.
26. Suy niệm
Đây là lời phê bình ngắn gọn về các bài đọc trong ngày lễ này:
Bài đọc 1: Samuen là một đứa trẻ rất đặc biệt. Bà Anna nhìn thấy con trai mình
như là một ân sủng đến từ Thiên Chúa, một dấu hiệu về đặc ân mà Thiên Chúa dành
cho bà. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên, khi bà dâng hiến con trai bà cho
Chúa. Đến kỳ hạn, Samuen tự mình thực hiện việc hiến thân đó, và tiếp tục đóng
vai trò chính yếu trong lịch sử Israen.
Thật vậy, mỗi đứa trẻ đều là quà tặng của Thiên Chúa. Tất cả các
bậc cha mẹ đều có hy vọng và mơ ước cho con cái của họ. Nhưng cha mẹ không thể
xác định được tương lai của con cái. Con cái phải tìm kiếm con đường của bản
thân chúng. Ngoài ra, có thể Thiên Chúa có những kế hoạch khác dành cho chúng
ta, trái ngược với kế hoạch của các bậc cha mẹ.
Tin Mừng: Bài đọc này kể lại câu chuyện về con trẻ Giêsu 12 tuổi
tại Giêrusalem. Bài đọc này cho thấy rằng sự hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, ngay
cả trong những gia đình tốt lành nhất. Chúng ta có khuynh hướng cho rằng Chúa
Giêsu bị thất lạc tại Đền thờ. Nhưng Chúa Giêsu không bị thất lạc tại Đền thờ.
Nói đúng hơn, Người ở nhà của Người tại đó. Chính tại nơi đó, Người bắt đầu tìm
kiếm bản thân, và phát hiện được căn tính đích thực của mình. Người không chỉ
là con của Đức Maria, mà còn là Con duy nhất của Thiên Chúa nữa.
Những tâm hồn cô đơn, lạc lõng, không nhà đã đến với nhà của
Thiên Chúa, hầu như do tình cờ, họ đã đến đây, cảm thấy nơi đó như ở nhà mình,
tìm được sự bình an và gặp được chính bản thân mình tại đó. Bất kể thế giới có
thể nghĩ gì về chúng ta, khi ở trong nhà của Thiên Chúa, chúng ta biết rằng
mình là những người con trai và con gái của Thiên Chúa.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu có căn tính kép, Người vừa là con của Đức
Maria, và cũng vừa là Con của Thiên Chúa. Chúng ta cũng có căn tính kép. Chúng
ta không chỉ là con của cha mẹ chúng ta, mà còn là con cái của Thiên Chúa nữa.
Thánh Gioan nói rất rõ ràng về điều này. Chúng ta thuộc về gia đình của Thiên
Chúa.
Chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước. Chúng ta không cần
phải làm gì, để đạt được tình yêu của Thiên Chúa. Chính bản thân chúng ta đã đủ
để Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chính sự hiện hữu của chúng ta là một dấu
hiệu về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Con cái đáp ứng lại tình yêu
của cha mẹ bằng cách vâng lời cha mẹ. Cách chúng ta đáp ứng lại tình yêu mà
Thiên Chúa dành cho chúng ta, là tuân theo những huấn lệnh của Người, đặc biệt
là giới răn yêu thương.
Trong sự kiện Chúa Giêsu bị thất lạc và tìm thấy ở Đền thờ,
chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà Đức Maria và thánh Giuse dành cho Chúa
Giêsu. Sau đó, Người trở về nhà Nagiarét cùng với các ngài và vâng lời các
ngài.
Mái nhà là một nơi mà trong đó, chúng ta được chấp nhận như là
chính con người của mình, với những mặt mạnh và mặt yếu của chúng ta. Sự chấp
nhận theo kiểu này giúp chúng ta có được khả năng để phát triển, với tư cách là
con người nhân loại và là con cái Thiên Chúa.
Trong bài tường thuật của thánh Luca về thời thơ ấu của Chúa
Giêsu, Đức Maria là người duy nhất sẽ hiện diện trong sứ vụ công khai của
Người, và cho đến tận lúc bắt đầu có Giáo Hội. Mẹ được giới thiệu cho chúng ta
như là gương mẫu của người Kitô hữu.
27. Noi gương.
Ngày hôm nay chúng ta cùng họp nhau đây mừng kính lễ Thánh Gia.
Vậy các em có hiểu chữ Thánh Gia là gì không? Nghĩa là gia đình thánh. Vậy gia
đình thánh gồm bao nhiêu người? Có ba người: Thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu.
Gia đình thánh có thương yêu nhau không? Chắc chắn là có rồi. Các em vừa nghe
Tin Mừng kể gì về gia đình thánh này? Có phải là các ngài hành hương lên đền
thờ Giêrusalem, rồi khi trở về thì lạc mất Chúa, khiến thánh Giuse và Đức Mẹ
phải chạy ngược chạy xuôi tìm kiếm đến ba ngày mới thấy. Thế rồi khi gặp được
Chúa Giêsu, Đức Mẹ chỉ hỏi: tại sao con làm cho cha mẹ phải lo lắng kiếm tìm?
Và sau đó, các ngài trở về Nagiarét chứ không hề thấy Tin mừng nói thánh Giuse
và Đức Mẹ la mắng Chúa Giêsu phải không?
Chắc hẳn các em nói rằng: nếu chúng mình mà như vậy thế nào cũng
bị ba mẹ đánh đòn, hay ít ra cũng bị mắng cho một trận nên thân. Chúa Giêsu
thật sướng, cha mẹ Ngài hiền quá và thương Ngài quá. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ
chúng ta sẽ thấy ba mẹ chúng ta cũng rất hiền và cũng rất thương chúng ta. Có
cha mẹ nào mà chẳng thương đứa con mình đã sinh ra và nuôi lớn với biết bao vất
vả nhọc nhằn: Suốt cả cuộc đời mỗi người chúng ta từ khi sinh ra cho đến khi
lớn khôn, lúc nào cũng được cha mẹ yêu thương, ân cần chăm sóc, dạy dỗ. Có ai
trong chúng ta không được hưởng những lời ru êm ái của mẹ đâu: Dù ta đi trọn
kiếp người, cũng không đi hết những lời mẹ ru. Ngoài mẹ ra, chúng ta còn có ba
nữa. Và với ba thì có lẽ còn vui hơn: ba làm tàu lửa, ba làm xe hơi, ba làm con
ngựa để con cưỡi con chơi…Ít có người con nào lại không có niềm vui được cha
cõng trên vai, tay chân nhún nhảy…Các em thấy đó, ba mẹ là lá chắn che chở suốt
đời cho con.
Vậy tại sao thỉnh thoảng ba mẹ cứ phải la rầy, có khi còn đánh
mắng chúng ta nữa? Những lúc áy ba mẹ có còn thương chúng ta không? Chắc chắn
là còn chứ. Các em thử nghĩ coi: một đứa trẻ hay gây gỗ, phá phách có được ai
thương mến không? Không. Một em học sinh lười, có được thầy cô và bạn bè thương
mến không? Cũng không luôn…Như vậy là vì không muốn chúng ta bị mọi người ghét
bỏ mà ba mẹ phải la rầy. Không muốn chúng ta bị bệnh, bị tai nạn mà ba mẹ phải
đánh đòn để chúng ta biết sửa lỗi…
Còn về Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, tại sao không bị
thánh Giuse và Đức Mẹ la mắng? Thứ nhất vì các ngài tìm được Chúa Giêsu trong
đền thờ, như vậy là Chúa Giêsu rất ngoan, rất vâng lời. Ngài không chạy chơi
ngoài đường như chúng ta. Thứ hai vì khi được hỏi Chúa Giêsu không hề chối
quanh để chạy tội, nhưng Ngài nhận ngay: Con ở lại để lo việc của Cha Con, tức
là việc của Chúa Cha. Như vậy Chúa Giêsu rất thật thà và đạo đức. Thứ ba vì khi
tìm được Chúa Giêsu, các ngài thấy Chúa đang ngồi nghe và hỏi các thầy Rabbi.
Như vậy Chúa Giêsu cũng rất chăm học phải không?
Các em thấy: một đứa trẻ vâng lời, thật thà, đạo đức và chăm học
như vậy thì chẳng có lý do gì để cha mẹ phải la mắng cả. Vậy nếu các em muốn ba
mẹ mình luôn hiền lành dịu dàng như thánh Giuse và Đức Mẹ, thì các em cũng phải
luôn cố gắng sống ngoan ngoãn như Chúa Giêsu.
28. Mẫu gương gia đình hạnh phúc.
“Phúc thay người ở trong thánh điện họ luôn luôn được hát mừng
Ngài” (Tv 84, 5)
Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Gia, chúng ta cảm thấy thật hạnh
phúc khi được sống dưới sự bảo trợ của Thánh Gia. Xét về phương diện quyền thế,
không ai sánh được với ba Đấng. Chúa Giêsu chính là “Thiên Chúa ở cùng chúng
tôi”. Ngài là ‘hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử giữa mọi thụ sinh,
vì trong Ngài vạn vật đã được tạo thành…’ Ngài có ưu thắng trên mọi sự, và mọi
sự tồn tại nơi Ngài. Và Ngài là đầu của Thân Mình tức là Hội Thánh. Ngài là
khởi nguyên, là trưởng tử giữa các vong nhân, ngõ hầu trong mọi sự Ngài là đệ
nhất vô song… Và Ngài đã giảng hoà cả vạn vật nhờ Ngài và cho Ngài, đã ban lại
bình an nhờ Bửu Huyết đổ ra nơi Thập Giá, cho mọi vật trên trời, dưới đất (Cl
1, 15-20). Bản văn này gợi lên trong chúng ta niềm hân hoan tin tưởng, bởi vì
Đấng bảo trợ chúng ta là Thiên Chúa, là Vua vũ trụ, mọi quyền trên trời, dưới
đất đều ở trong tay Ngài. Chính Ngài nắm trong tay chìa khoá tử thần và âm phủ.
Chính Ngài là Đấng ngự bên hữu Chúa Cha để cầu bầu cho chúng ta. Hơn thế nữa,
Ngài còn là nguồn mạch sự sống, Ngài đã đến để ta được sống và sống dồi dào (Ga
1, 4; 14, 5)
Đức Maria chính là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương các thiên thần và
các thánh, nhưng đồng thời Người cũng là Mẹ nhân loại, là Mẹ của từng người
chúng ta. Người chính là tình yêu xả kỷ, hy sinh, thương xót và tha thứ. Sống
bên Người bao giờ chúng ta cũng tìm được ơn nghĩa cùng Chúa, vì theo lời thánh
Bênađô: ‘tất cả mọi ơn lành đến với chúng ta đều qua tay Đức Maria’.
Còn thánh Giuse là người đã được nhìn tận mắt, sờ tận tay Đấng
mà các tổ phụ và các tiên tri hằng mong đợi. Hơn nữa, trước mặt Thiên Chúa và
nhân loại, công lao của Ngài thật vĩ đại, vì chính Ngài đã tận tâm bảo vệ, nuôi
dưỡng Chúa Giêsu là của lễ hy sinh đền tội thế gian và là Bánh nuôi sống linh
hồn tín hữu cho đến ngày tận thế.
Dĩ nhiên chúng ta nhận Thánh Gia làm bổn mạng là để cậy nhờ,
nhưng nhất là để noi gương, như mẫu mực cho đời sống chúng ta.
Gia đình là tế bào nền tảng của xã hội. Tội đã nhập vào gia đình
thứ nhất và phá hoại nhân loại. Thiên Chúa muốn cải tạo xã hội nhân loại khi
phái Con Một Ngài đến trong một gia đình nhân loại. Nagiarét là trường học lý
tưởng cho mọi gia đình. Ở đó có mọi nhân đức cao quý của đời sống gia đình: cả
ba đều hoàn toàn trinh khiết, cả ba đều cao trọng nhưng lại tuyệt đối khiêm tốn
và vâng phục, bởi vì cả ba đều tìm thánh ý Thiên Chúa.
Nagiarét cũng là trường học của đức bác ái. Vì trong đó cả ba
đều quên mình để nghĩ đến người khác, tận tuỵ phục vụ người khác. Thánh Giuse
âm thầm làm việc không quản nhọc nhằn, Đức Maria chăm lo việc nội trợ, Chúa
Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và san sẻ vất vả với cha mẹ.
Cũng tại Nagiarét chúng ta tìm lại được giá trị siêu việt của
lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của Chúa trong nhà Nagiarét
không hề kém giá trị cứu rỗi hơn việc rao giảng Tin Mừng hay cuộc tử nạn của
Ngài, vì trong mọi sự Ngài đều tìm đẹp lòng Thiên Chúa.
Chúng ta cũng có thể và phải tham gia công cuộc cứu rỗi nhân
loại bằng chính đời sống chúng ta, trong việc thực thi thánh ý Thiên Chúa,
trong sự dấn thân phục vụ, trong cầu nguyện âm thầm và hy sinh. Sống được như
thế chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc chân thật.
29. Mái ấm tình thương
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ, nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào,
chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế,
nói: “Chỗ này không phải chỗ con ta ở”. Rồi dọn nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà
cũng bắt chước cách buôn bán đảo điên. Bà mẹ thấy thế, lại nói: “Chỗ này cũng
không phải chỗ con ta ở”. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ
phép, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói:
“Chỗ này là chỗ con ta ở”
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết heo, về nhà hỏi mẹ:
“Người ta giết heo làm gì thế?” Bà mẹ nói đùa: “Để cho con ăn đấy”. Nói xong,
bà nghĩ lại, hối hận: “Ta nói lỡ rồi. Con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta
nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao?”. Rồi bà đi mua thịt heo,
đem về cho con ăn thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ
đang ngồi dệt cửi; trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên
khung, mà nói rằng: “Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như mẹ đang dệt tấm
vải này mà cắt đứt như vậy”. Từ ngày đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần.
Về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ công giáo dục quý báu của bà mẹ
hay sao?
Thánh Gia là mẫu gương giáo dục tuyệt vời cho các gia đình cũng
như cho các cộng đồng tu viện. Thánh Gia là trường huấn luyện cho Chúa Giêsu,
chuẩn bị ngày lãnh nhận sứ mạng Chúa Cha trao phó.
Thánh Gia là chuẩn mực chính xác nhất cho các người cha, người
mẹ và con cái trong gia đình.
Thánh Giuse đích thực là một người cha: sáng ngời trong đức tin
mạnh mẽ, nêu cao niềm phó thác cậy trông và tận tình chăm lo cho trẻ Giêsu cùng
Mẹ Maria. Người làm chủ gia đình với tinh thần trách nhiệm cao và siêng năng
cần cù lao động, trong làng quê nghèo Nagiarét.
Maria chính là người mẹ: Gương mẫu trong đời sống nội tâm, và
sâu lắng trong tâm tình cầu nguyện. Mẹ chính là người nội trợ đảm đang, chu
toàn công việc gia đình, và chăm sóc dạy dỗ con trẻ Giêsu.
Chúa Giêsu là người con thảo hiếu: “Hằng vâng phục cha mẹ” Giuse
và Maria, lớn lên mỗi ngày trong sự khôn ngoan và nhân đức, nhất là luôn lo
việc “bổn phận ở nhà Cha”.
Gia đình là nền tảng của xã hội: Gia đình có thuận hoà, thì xã
hội mới an vui. Lễ Thánh Gia chính là lễ của mọi gia đình. Noi gương Thánh Gia,
các gia đình chúng ta luôn sống có trật tự trên dưới, liên đới trong tình hiệp
thông, và chăm lo cho nhau trong tình yêu thương đầm ấm.
Con Thiên Chúa chỉ ra giảng đạo có ba năm, nhưng đã phải chuẩn
bị ở mái trường Nagiarét suốt ba mươi năm. Nagiarét là trường dạy cầu nguyện,
dạy lao động, dạy yêu thương. Nagiarét là một vùng quê nghèo hẻo lánh, nhưng
lại mang một mái ấm tình thương. Mái ấm Nagiarét rất đỗi bình thường, nhưng
cũng rất khác thường.
Một mái ấm luôn chan hoà bầu khí yêu thương và đạo hạnh.
Một mái ấm luôn ngập tràn tiếng cười vui vì hạnh phúc.
Một mái ấm mà các thành viên luôn để ý quan tâm cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, trước tiên phải có Chúa
hiện diện.
Mái ấm Nagiarét luôn hạnh phúc vì lúc nào cũng có Chúa ở giữa
thánh Giuse và Đức Maria. Nếu mỗi gia đình chúng ta đều mời được Chúa đến ở
trong gia đình, thì chính Người sẽ là dây liên kết để chúng ta yêu thương nhau,
là sức mạnh để chúng ta vượt thắng mọi sóng gió, là mẫu gương để chúng ta nhẫn
nhịn và tha thứ cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, mỗi người chúng ta cũng
hãy sống cho đúng cương vị của mình là cha, là mẹ, là chồng, là vợ, là con cái.
Thánh Phaolô khuyên: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng
là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với
vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa.
Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3,
18-21).
Lạy Chúa, là nguồn mọi tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã cho
chúng con tấm gương Thánh Gia, làm khuôn mẫu cho mọi quan hệ giữa vợ với chồng,
giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình, và giữa cộng đoàn tu
viện với nhau.
30. Bí quyết hạnh phúc gia đình
Khi còn sống, trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài BBC, công
chúa Diana của Anh quốc đã không ngần ngại bộc bạch hết câu chuyện đổ vỡ của
gia đình bà. Sự đổ vỡ của gia đình vương giả này khiến nhiều người phải tiếc
xót. Bởi vì, nếu xét theo những tiêu chuẩn thông thường, thì quả thực cặp vợ
chồng này có mọi sự để được hạnh phúc, như danh vọng, tiền tài, địa vị. Thế
nhưng tại sao họ không tìm được hạnh phúc trong gia đình? Đâu là nguyên nhân
dẫn đến sự đổ vỡ này? Có lẽ họ còn thiếu một cái gì đó mà sự giàu sang phú quý
không thể mua được cũng như khiến họ không thể vượt qua được khó khăn thử
thách.
Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia để múc
lấy bí quyết hạnh phúc gia đình. Cũng như bao gia đình khác, Thánh Gia cũng đã
trải qua nhiều sóng gió, thử thách. Chúng ta hãy nhìn lại cảnh bối rối mà có lẽ
ít có đôi vợ chồng trẻ nào phải trải qua: vợ sắp sinh đi tìm một quán trọ để
qua đêm nhưng không có, cuối cùng phải vào một chuồng súc vật và sinh con ở đó,
và rồi sau đó đã phải vội vã đi lánh nạn trong một cuộc hành trình cam go và
sống giữa những người xa lạ. Bí quyết đã giúp Đức Maria và thánh Giuse vượt qua
khó khăn thử thách, đó là có Chúa Giêsu bên cạnh. Sự hiện diện của Chúa Giêsu
chính là nền tảng của gia đình Nagiarét.
Cũng như Thánh Gia, ngày nay các gia đình Việt Nam cũng đang
trải qua bao khó khăn thử thách. Trước tiên là cái nghèo và rồi từ nghèo khổ
sinh ra dốt nát, dốt nát kéo theo bao hệ lụy khác. Tuy nhiên, nhìn vào gương
Thánh Gia, chúng ta thấy rằng nghèo khổ không đương nhiên gây nên bất hạnh và
đổ vỡ cho gia đình. Tỷ lệ những đổ vỡ của các gia đình tại các nước công nghiệp
tiên tiến là bằng chứng cho thấy giầu có chưa hẳn đã là một bảo đảm cho hạnh
phúc gia đình.
Không những trải qua cảnh nghèo, Thánh Gia còn phải đương đầu
với bạo chúa Hêrôđê nữa. Ngày nay, các gia đình cũng phải đương đầu với nhiều
thứ bạo chúa, như các phương tiện truyền thông quảng bá lối sống đồi phong bại
tục nhằm lung lạc và đầu độc giới trẻ, hoặc những luật pháp áp đặt những luật
lệ nhằm phá đổ chính nền tảng thánh thiêng của gia đình, chẳng hạn luật cho
phép phá thai, ly dị…
Thánh Gia đã vượt qua được sóng gió nhờ niềm tin vững chắc vào
sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Đó cũng là bí quyết mà Giáo Hội đề ra cho
chúng ta khi mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia. Lấy sự hiện diện của Chúa
Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là mặc lấy tâm tình từ bi, nhân
hậu, tha thứ cho nhau; lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc
cho gia đình chính là lấy sự cầu nguyện trong gia đình làm mối giây liên kết
mọi người: một gia đình cầu nguyện chung với nhau là một gia đình đứng vững, và
đó là điều chúng ta phải cầu xin cho nhau.
31. Kiểu mẫu của mọi gia đình
Trong sứ điệp Giáng Sinh gửi toàn thế giới, Đức Gioan Phaolô II
nêu cao: Con Thiên Chúa đã chọn lựa đi vào trần gian trong một gia đình là gia
đình Nagiarét. Trong mùa Giáng Sinh, đôi mắt chúng ta vui mừng khi chiêm ngắm
mầu nhiệm Thánh Gia, cũng như trẻ em hân hoan khi nhìn về máng cỏ và nhận ra
nơi đó một kiểu mẫu cho gia đình chúng.
Gia đình Nagiarét quả là kiểu mẫu của mọi gia đình. Chúa Giêsu
đã có một khung cảnh thích hợp để trưởng thành, Ngài đã được nuôi dưỡng và giáo
dục bởi hai vị thánh là Đức Maria và thánh Giuse. Nói như thế không có nghĩa là
gia đình này không có vấn đề. Chúa Giêsu đã không được sinh ra trong những điều
kiện bình thường, cha mẹ Ngài đã phải đi gõ cửa từng quán trọ; không bao lâu
sau ngày Chúa Giêsu sinh ra, cả ba lại phải lên đường trốn sang Ai cập; mười
hai tuổi Ngài lạc mất trong Đền thờ; cuối cùng thảm thương nhất đối với gia
đình này hẳn phải là cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Cũng như mọi gia đình trên trần thế này, Thánh Gia đã phải trải
qua nhiều vấn đề. Tuy nhiên Thánh Gia là một gia đình đặc biệt. Ngày nay các
nhà xã hội học đưa ra một lý do giải thích: Đây là một gia đình Do thái. Quả
thế tại Mỹ cũng như tại hầu hết các nước thế giới, gia đình Do thái là gia đình
trong đó mức phạm pháp của vị thành niên được coi là thấp nhất. Nhưng đâu là
chìa khoá giải thích sự kiện này? Thưa chính là niềm tin. Các trẻ em Do thái
luôn nhìn vào người cha như một đại diện của Chúa, người cha chúc lành cho con
cái. Lớn lên, con cái có thể chê trách người cha của họ về nhiều thiếu sót,
nhưng không bao giờ chối bỏ vai trò đại diện Chúa của người cha.
Có bao nhiêu người cha Công Giáo đóng trọn vai trò trong gia
đình như thánh Giuse đã từng làm đối với Chúa Giêsu? Có bao nhiêu người cha
Công Giáo chủ toạ các buổi cầu nguyện trong gia đình? Có bao nhiêu người cha
chúc lành cho con cái trước khi chúng đi ngủ? Có biết bao người cha hy sinh cho
gia đình, cho con cái, nhưng họ chỉ là những bóng mờ trong gia đình. Trái lại,
nơi nào người cha đóng trọn vai trò trong gia đình, thì quả thực niềm vui trong
gia đình đó lớn lao chừng nào. Chúng ta có thể nói đó là bí quyết của Thánh
Gia: tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa như người cha trong gia đình.
Lời Chúa Giêsu nói với cha mẹ Ngài đáng cho chúng ta suy nghĩ:
“Cha mẹ không biết là con phải ở trong nhà cha con sao?”. Được ở trong nhà cha,
luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình, đó là bí quyết
hạnh phúc gia đình mà Chúa Giêsu muốn chỉ cho mọi gia đình. Thật thế, chỉ trong
niềm tin, con người mới có thể vượt qua được mọi khó khăn thử thách trong đời
sống gia đình; chỉ trong niềm tin vào Thiên Chúa là Cha, nói như thánh Phaolô,
con người mới có thể sống hiền lành, khiêm nhường, chịu đựng lẫn nhau.
Chúng ta hãy hướng về Nagiarét, nơi Chúa Giêsu đã từng lớn lên
như một con người biết vâng phục cha mẹ và càng khôn lớn thì càng được Thiên
Chúa và người đời thương mến. Sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với cha mẹ Ngài
là một thể hiện của chính sự vâng phục của Ngài đối với Chúa Cha: Ngài đã vâng
phục và vâng lời cho đến chết. Đó là bí quyết của đời sống gia đình mà Chúa
Giêsu đã để lại cho nhân loại: Ngài luôn sống kết hiệp với Chúa Cha. Chính sự
kết hiệp này đã giúp Chúa Giêsu sống vâng phục cha mẹ Ngài, và chính ý thức về
sự hiện diện của Thiên Chúa trong con người Chúa Giêsu đã giúp cho Đức Maria và
thánh Giuse vượt qua được bao khó khăn của cuộc sống gia đình.
Chúng ta cầu xin gì trước Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, nếu không
phải là niềm tin, một niềm tin vào sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa, nhờ
đó chúng ta có thể thắng vượt mọi cám dỗ thử thách trong cuộc sống.
32. Đức Giêsu tại đền thờ
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đặt vào trong cấu trúc tổng quát của Tin Mừng về thời thơ ấu,
truyện Tìm được trẻ Giêsu trong Đền Thờ bổ sung cho những truyện song song
trước đây (chào đời, cắt bì, tỏ mình của Gioan và Đức Giêsu). Bản văn này có vẻ
giống truyện Đức Maria đi thăm bà Êlisabét (Lc 1,39-56). Tuy nhiên, trong khi
truyện Thăm viếng được liên kết chặt chẽ với những truyện loan báo các cuộc
chào đời (1,5-25; 1,26-38), truyện Tìm lại Đức Giêsu trong Đền Thờ chỉ được nối
kết khá lỏng lẻo. Thật ra, truyện này là một đơn vị độc lập.
Cho đến nay tác giả Lc chỉ nói đến Đức Giêsu với những động từ ở
thái bị động: cuộc chào đời của Người được loan báo; Người được đặt nằm trong
một máng cỏ; được đưa lên Đền Thờ; được hai cụ già bồng ẵm trên tay; được công
bố và ca ngợi vì ý nghĩa Người đang mang nơi mình. Đức Giêsu không hành động,
Người chỉ là một em bé yếu đuối, được người khác hành động giúp cho. Bây giờ
lần đầu tiên Người tỏ ra như là nhân vật chính, và tác giả ghi nhận những lời
đầu tiên của Người. Lối xử sự của Người gây ra một hoàn cảnh đau đớn. Câu nói
đầu tiên của Người bắt đầu với một từ “tại sao?”, như để trả lời cho một từ
“tại sao?” của mẹ Người. Trong những lời đầu tiên của Người, Đức Giêsu đã gọi
Thiên Chúa là “Cha Người” và khẳng định rằng đối với Người, liên hệ với Cha
quan trọng hơn tất cả mọi sự khác.
Ta cũng có thể tự hỏi vì sao tác giả Lc đã ghi lại sự cố này.
Dường như có ba lý do:
a) Lý do 1 (chủ đề): Sự cố xảy
ra tại Đền Thờ (2,46). Thế mà chúng ta biết rằng tác giả Lc quan tâm đến chủ đề
Đền Thờ. Tin Mừng đã bắt đầu với việc thiên thần Gabriel hiện ra với Dacaria
trong Đền Thờ. Rồi đến việc cha mẹ dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ. Bằng truyện
2,41-52, tác giả Lc có thể kết thúc phân đoạn đầu bằng một lời nhắc đến Đền
Thờ, cũng như sau này khi kết thúc Tin Mừng (24,53). Lời Đức Giêsu nói: “Con có
bổn phận ở nhà của Cha con” , nghĩa là ở trong Đền Thờ, đưa lại cho sự hiện
diện của Đức Giêsu trong Đền Thờ chiều kích biểu tượng, là cuộc trở về nhà Cha
Người.
b) Lý do 2 (văn thể): Tác giả Lc
cũng khác với các Tin Mừng khác ở điểm ngài muốn giới thiệu cho chúng ta một
bản “tiểu sử” của Đức Giêsu đúng với các quy tắc của thể loại tiểu sử (haggada
Do Thái và khoa tiểu sử Hy Lạp). Thể loại này lưu tâm đến thời niên thiếu của
nhân vật. Do đó, Lc đã lấp đầy khoảng trống giữa các bài tường thuật về chào
đời và các bài về đời sống công khai bằng truyện này. Nội dung của truyện được
giới thiệu bằng hai câu đóng khung bài tường thuật (2,40 và 2,52): vấn đề là sự
tăng trưởng của Đức Giêsu về sự khôn ngoan (sophia). Vì ngữ cảnh của Tin Mừng
về Thời thơ ấu là sự tăng trưởng về khôn ngoan, ta hiểu vì sao Lc đã chọn một
bản văn minh họa sự khôn ngoan của Đức Giêsu.
c) Lý do 3 (tín lý): Rất sớm
trong Kitô giáo đã xuất hiện một luồng tư tưởng cho rằng Đức Giêsu là một người
như biết bao người khác, chào đời từ cuộc hôn nhân của Maria và Giuse, nhưng
được Thánh Thần ngự xuống trên mình, vào dịp nhận phép rửa, để trở thành vị
ngôn sứ ưu việt (quan niệm của một số Kitô hữu gốc Do Thái, phái Êbiônít, một
số người theo thuyết Ngộ đạo). Có thể quan niệm này xuất phát từ TM Mc (khởi
đầu với phép rửa). Do đó, Lc tìm cách cho thấy rằng Đức Giêsu ý thức Người là
Con Thiên Chúa ngay khi còn thơ ấu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành sáu phần:
1) Khung cảnh (2,41-42);
2) Bị lạc mất Đức Giêsu (2,43-45);
3) Tìm ra Đức Giêsu (2,46-48);
4) Câu nói của Đức Giêsu (2,49);
5) Kết luận nguyên thủy (2,50);
6) Kết luận thứ hai của Lc (2,51-52).
3.- Vài điểm chú giải
- Lễ Vượt Qua (41): Lễ Vượt Qua
được cử hành vào lúc mặt trời lặn đánh dấu ngày 15 Nisan, là tháng đầu năm theo
lịch Babylon/Do Thái (tháng Ba/Tư; tên cũ là tháng Aviv: x. Đnl 16,1). Dịp này
người ta giết chiên Vượt Qua vào chiều ngày 14 Nisan, nướng lên và ăn trong gia
đình vào lúc mặt trời lặn (Lv 23,6). Tất cả những gì có men đều phải loại ra
khỏi nhà trước khi giết chiên (Đnl 16,4). Không những hôm ấy, người ta phải ăn
với bánh không men (Xh 12,8), mà con tiếp tục ăn như thế bảy ngày sau đó (Xh
12,17-20; 23,15; 34,18). Thời gian bảy ngày này được gọi kiểu chuyên môn là “Lễ
Bánh Không Men”. Tuy nhiên, với thời gian, “Lễ Vượt Qua” trở thành tên gọi cho
cả bảy hoặc tám ngày (Đnl 16,1-4; Ed 45,21-25). Dường như trước khi có Israel,
lễ Vượt Qua là một lễ của dân du mục (Xh 5,1; 10,9), còn lễ Bánh Không Men là
lễ của dân định cư nguồn gốc nông dân (Xh 23,15-16).
- mười hai tuổi (42): Theo Xh 23,17
và Đnl 16,16, mọi người nam ở Paléttina, không phân biệt tuổi tác, phải ra
trình diện trước nhan Đức Chúa vào ba đại lễ trong năm: lễ Bánh Không Men (tức
lễ Vượt Qua), lễ Mùa Gặt và lễ Lều. Nhưng truyền thống Do Thái giáo chỉ buộc
một trẻ em Do Thái tham dự các cử hành phụng tự ở hội đường khi được mười ba
tuổi (em được gọi là bar miswâh, “con của điều răn”; nghi thức đưa em vào tuổi
giữ luật cũng được gọi như thế). Tuy thế, dường như không có liên hệ gì rõ rệt
giữa nghi thức “gia nhập” hội đường và việc hành hương. Nếu tác giả cố tình ghi
lại chi tiết 12 tuổi thì hẳn không chỉ để chứng tỏ rằng Thánh Gia đạo đức, tuân
giữ quá Luật. Có lẽ nên nghĩ đến một ý hướng biểu tượng. Con số 12 có nghĩa là
“toàn thể”, hoàn tất”. Ghi nhận rằng khi ấy Đức Giêsu được 12 tuồi chính là quy
hướng tâm trí về lúc kết thúc hoạt động của Người nơi trần thế, về cái Ngày mà
Người sẽ trở về với Chúa Cha. Nơi Lc, ý tưởng về “hoàn tất” này luôn được kết
nối với Thương Khó – Phục Sinh (x. 12,50; 18,31; 22,37; 9,31; 22,16; 24,44…) là
biến cố được coi như điểm tới và sự hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giêsu
(9,51). Và chính là lời loan báo ẩn giấu này về cuộc Phục Sinh là ý hướng đầu
tiên của bài tường thuật.
- Xong kỳ lễ (43): dịch sát là “và
khi các ngày ấy đã mãn” (NTT). Như vậy, Giuse và Maria đã ở lại Giêrusalem từ
bảy đến tám ngày mừng lễ Vượt Qua và Bánh Không Men (x. Lv 23,5-6).
- Đang ngồi giữa các bậc thầy (46):
Kathezomai có thể có nghĩa là “ngồi” hay là “ngự”. Các thiếu niên đến muốn học,
các thầy cũng không ngăn cản. Do đó, có thể hiểu chi tiết “ngồi” (kathezomenon)
này cho biết Đức Giêsu muốn học hỏi với các thầy. Tuy nhiên, hẳn là tác giả Lc
không chỉ ghi lại một chi tiết chứng tỏ Đức Giêsu hiếu học. “Ngồi” cũng là cung
cách của một vị thầy: như thế, động từ này hẳn là báo trước việc Đức Giêsu
giảng dạy như một vị thầy (x. 5,3; 19,47–21,38). Ở đây Đức Giêsu đã chứng tỏ
một trí thông minh khiến các vị thầy phải kinh ngạc. Điều này sẽ thường xuyên
xảy ra vào thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai. Nói chung, Đức Giêsu xuất
hiện trong trong các TM như nhà chú giải (x. 4,32). Ở đây, Đức Giêsu tỏ ra một
khả năng hiểu Kinh Thánh, một khả năng được chính các bậc thông luật nhìn nhận.
Như vậy, Người là một vị thầy đáng tin cậy.
Đàng khác, theo Ml 3,3, vào Ngày của Đức Chúa, Đức Chúa sẽ vào
trong Đền Thờ của Ngài và “ngồi/ngự [= hiển trị]” (kathieitai, LXX) trong tư
cách thẩm phán. Ta có thể hướng tới cả nghĩa này, bởi vì toàn khối Lc 1–2 đã
cho thấy bằng những nét chấm phá kín đáo tính siêu việt mà cuộc sống ẩn dật của
trẻ Giêsu mạc khải ra. Sự kết nối kathezomai với “giữa các bậc thầy” khiến phải
nghĩ đến nghĩa mạnh là “ngự [= hiển trị]” như trong Ml 3,3; với lại bản văn này
cũng như bài tường thuật trước có gợi đến lời sấm này. Như thế, về phương diện
thể lý, cho dù Đức Giêsu có ngồi bên chân các thầy thông luật, như bất cứ em bé
nào, Người vẫn là tác nhân chính mà toàn cảnh phải xoay quanh. Một cách mầu
nhiệm, Người đã là Con Thiên Chúa “ngự trong Đền Thờ Người”, theo lời sấm Ml 3,3.
- kinh ngạc về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu (47):
Đây là một câu được viết theo “phép thế đôi” (hendiadys), có nghĩa là: “các lời
đối đáp thông minh của cậu”.
- con có bổn phận (49): Dịch sát là
“cần thiết (dei) là con ở nhà của Cha con”. Từ dei không chỉ diễn tả một sự cần
thiết tổng quát, nhưng là điều nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa có
liên can đến Đức Giêsu. Từ ngữ này được dùng 7 lần trong TM Lc, luôn được kết
nối với cuộc Thương Khó như cách hoàn tất các sấm ngôn (2,49; 13,33; 17,25;
22,37; 24,7; 24,26; 24,44).
- ở nhà của Cha con (49): Câu en tois tou
patros mou cũng có thể dịch là “(can dự đến) các công việc của Cha con” hoặc “ở
giữa những người thuộc về Cha con”. Dịch là “ở nhà của Cha con” thì được hỗ trợ
bởi các bản văn như St 41,51; Et 7,9; G 18,19 và một số bản văn ngoài Kinh
Thánh. Trên môi miệng của một em bé, ý nghĩa cụ thể này dường như hợp lý hơn;
đàng khác, Đền Thờ Giêrusalem được gián tiếp coi là nhà Thiên Chúa ở Lc 19,46.
Với câu này, cũng rõ ràng là Đức Giêsu coi Thiên Chúa là Cha trên trời của
Người.
- Nhưng ông bà không hiểu (50): Hơn ai hết, hai
ông bà biết nguồn gốc siêu phàm của con mình. Nhưng ông bà không hiểu ngay được
là Người nói về Cha Người trên trời theo nghĩa xác thực nhất. Nhất là ông bà
không thể đoán ra được những gì nằm dưới lời nói của con trẻ: một tương lai mà
ông bà hoàn toàn không thể nắm bắt được. Nếu không giải thích như thế, chúng ta
sẽ khiến Lc mâu thuẫn, bởi lẽ Đức Maria đã biết tư cách Con Thiên Chúa của Đức
Giêsu vào ngày Truyền Tin. Trong Lc, đề tài “không hiểu” (9,45; 18,34 và 24,25)
luôn liên hệ đến các lời Đức Giêsu nói cách huyền bí về cuộc Thương Khó của
Người. Vậy sự không hiểu của Maria ở đây không do lỗi Mẹ, nhưng do chỗ lời Đức
Kitô loan báo về Thương Khó phải bị che giấu với những người được loan báo. Họ
chỉ hiểu sau khi các lời này được ứng nghiệm.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bằng câu truyện dâng trẻ Giêsu vào Đền Thờ, tác giả Lc cho thấy
Đức Chúa đã trở lại theo các lời sấm Cựu Ước mà chiếm lấy Đền Thờ của Người.
Bằng câu truyện hôm nay, tác giả cho thấy Người “ngự trị” trong Đền Thờ. Tuy
nhiên các ý nghĩa này chìm dưới những truyện rất tầm thường trong đời thường.
Đức Giêsu ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Người
ở lại Đền Thờ, nghe các cuộc đối thoại của các vị thầy, đặt câu hỏi và làm
người ta kinh ngạc vì sự khôn ngoan trong các câu trả lời của Người. Ở tuổi 12,
khi “ngồi giữa các bậc thầy”, Người đã tự loan báo mình như là người sau này sẽ
giảng dạy với uy quyền trong toàn xứ sở và ngay trong Đền Thờ (19,47–21,38).
Nhưng Người cũng đang sống tư cách là “Đức Chúa hiển ngự” trong Đền Thánh của
Người.
Trong khi đó, Maria và Giuse đang trên đường về Nadarét. Sau một
ngày đàng, các ngài mới nhận ra là Đức Giêsu không có ở đây, các ngài rất lo
lắng. Các ngài phải mất “ba ngày” mới tìm ra Đức Giêsu: ba ngày là khoảng thời
gian đi từ cái chết đến cuộc sống lại của Đức Giêsu (“vào ngày thứ ba”); chính
Đức Giêsu diễn tả điều đó khi nói là “cần thiết phải”, một công thức được Lc gắn
liền với cuộc Thương Khó như sự hoàn tất các sấm ngôn. Khi tìm ra Người, Maria
đã bộc phát nói lên một câu hỏi mà cũng là một lời than thở: “Này con, tại sao
con làm thế? Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con!”. Đây là một phản ứng bộc
phát của một người mẹ đang phải đau khổ và cho biết là bà đã phải đau khổ đến
độ nào. Maria ngỏ lời với Đức Giêsu trong tư cách là con. Bà chưa bao giờ thấy
và chờ đợi là con có một hành vi như thế. Đức Giêsu, trong tư cách Con Thiên
Chúa, hoàn toàn độc lập với mọi người. Sự độc lập này được diễn tả qua thế
tương phản giữa từ ngữ “cha con” trên môi miệng Maria và “Cha Con” trên môi
miệng Đức Giêsu.
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng gây ngạc nhiên như lối xử sự của
Người vậy: “Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở nơi nhà Cha
con sao?” (NTT). Đức Giêsu đã gọi Thiên Chúa là “Cha Người”. Cho đến nay, trong
Tin Mừng, không có một ai gọi Thiên Chúa như thế cả. Maria đã ngỏ lời với Thiên
Chúa như là “Đức Chúa và Thiên Chúa” (1,46t); Dacaria gọi Thiên Chúa là “Đức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en” (1,68); Simêôn thưa với Thiên Chúa là “Đức Chúa”
(2,29). Cả sau này Đức Giêsu cũng sẽ gọi Thiên Chúa là “Cha” (10,21; 22,42) và
sẽ dạy các môn đệ thưa với Thiên Chúa như thưa với một người “Cha”. Nhưng thiên
thần đã loan báo về Đức Giêsu như là Con Đấng Tối Cao” (1,32), Con Thiên Chúa
(1,35). Người ở trong một quan hệ hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa: Thiên Chúa
là Cha Người và Người là Con Thiên Chúa. Hành động đầu tiên của Người mà tác
giả ghi nhận là một hành động nhằm diễn tả bí mật thâm sâu đó trong cuộc đời
Người. Người biết Người là Con Thiên Chúa và nhất là Người biết rằng Người được
liên kết với ý muốn của Thiên Chúa. Trong tư cách là Con Thiên Chúa và trong
quan hệ hết sức chặt chẽ với Thiên Chúa, được biểu lộ ra nơi sự vâng lời của
Người với ý muốn của Chúa Cha, Người sẽ đi theo đường lối của Chúa Cha.
Tác giả ghi rằng Maria và Giuse không hiểu các lời ấy. Những lời
Đức Giêsu nói đây là một câu nói huyền bí, chẳng giải thích gì cả, cũng chẳng
phải để biện minh cho cách xử sự của Người. Những lời ấy chỉ mời Maria và Giuse
vượt lên trên bình diện của những lo toan đời thường để gặp bình diện của Thiên
Chúa, là nơi mà Người vẫn ở. Ngay cả hôm nay nữa cũng không dễ gì mà hiểu các
lời ấy, không những trong các từ ngữ mà cả trong ý nghĩa. Điều này thúc đẩy
chúng ta đặt ra các câu hỏi: Phải chăng Maria và Giuse không được đi tìm Người?
Làm thế nào các ngài có thể hiểu được rằng Thiên Chúa muốn rằng Người phải ở
lại trong Đền Thờ? Phải chăng Thiên Chúa lại không muốn điều này được thông tri
cho các ngài? Phải chăng ý muốn của Thiên Chúa là cứ bỏ mặc các ngài ba ngày
trong tình trạng lưỡng lự và để các ngài phải đi lòng vòng mà tìm Đức Giêsu?
Không dễ gì mà trả lời các câu hỏi như thế. Ý nghĩa của biến cố này phải được
tìm ra trong chiều hướng này: Maria và Giuse phải trải nghiệm một cách hết sức
sâu xa, đau đớn và không thể quên được rằng Đức Giêsu quy phục một quyền bính
cao hơn. Tương quan đặc biệt của Đức Giêsu với Thiên Chúa đưa Đức Giêsu đến một
lối xử sự có vẻ cứng cỏi không sao hiểu được và có một sự chia cắt đau đớn, do
chỗ nó không tương ứng với các chờ đợi của cha mẹ Người. Đức Giêsu sẽ đi theo
con đường của Người, con đường đã được Chúa Cha vạch ra từ trước rồi. Kể cả
Maria cũng phải chấp nhận con đường ấy như thế. Kể cả bà cũng không được mong
là biết ngay mọi sự cách rõ ràng và được khai mở ngay vào mọi sự.
Bà phải làm gì khi bà không hiểu? “Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất
cả những điều ấy trong lòng” (2,51). Ghi nhớ điều ấy và chờ đợi, tôn trọng điều
ấy và kiên nhẫn, thái độ này là một hình thái đức tin, một hình thái tin tưởng
vào Đức Giêsu và vào Thiên Chúa.
+ Kết luận
Sự cố này, được tác giả Lc kể trong khung cảnh những bước khởi
đầu của Đức Giêsu là sự cố duy nhất qua đó ta không ghi nhận được các nét vui
tươi hân hoan. Con trẻ, đã được đón tiếp với biết bao niềm vui và lời ca ngợi
Thiên Chúa, sẽ đi theo con đường vâng phục đối với Chúa Cha. Niềm vui và lời ca
ngợi vẫn có giá trị và ngày càng nhận được nền tảng vững chắc và lý hữu vững
vàng hơn. Ở đây ta thấy Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa, ơn cứu độ của Israel
và của mọi dân tộc không là gì khác ngoài Con Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chọn ở
lại với chúng ta và cách tốt nhất để thực hiện điều này là sự hiện diện của Con
của Người. Nơi Chúa Con, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và không có lý do nào to
lớn hơn để mà vui lên nữa. Nhưng ở đây ta cũng thấy rằng chúng ta không thể áp
đặt cho Chúa Con nẻo đường Người phải theo, trái lại chúng ta phải chấp nhận
con đường của Người, cho dù trong chúng ta phát sinh ra nhiều câu hỏi “tại sao”.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Ngay từ thuở niên thiếu, Đức Giêsu đã ý thức rằng Người sẽ
phải trở về nhà Cha Người trên trời bằng một cái chết dữ dội, đã được Kinh
Thánh tiên báo (Is 53; Tv 22; Tv 69…) và, vẫn theo Kinh Thánh (Hs 6,2; 2 V
20,5), người ta chỉ gặp lại Người (đang sống) vào ngày thứ ba. Truyện này cho
thấy Người muốn cho Maria và Giuse sống cách biểu tượng mầu nhiệm Thương Khó –
Phục Sinh, trước khi sống thực sự mầu nhiệm này. Thật ra mọi sự cố trong cuộc
đời Đức Giêsu đều nói về mầu nhiệm trung tâm này. Chúng ta được mời gọi nhận
biết rằng các biến cố thông thường của đời ta chỉ có ý nghĩa khi chúng giúp
chúng ta sống mầu nhiệm Phục Sinh (Vượt Qua), nghĩa là đi từ cuộc sống này mà
vào sự sống của chính Thiên Chúa.
2. Như Đức Maria đã hiểu, các cha mẹ hôm nay cũng cần phải hiểu:
họ không bao giờ được chống lại ơn gọi của con cái họ, khi chúng đã nhận ra (ơn
gọi linh mục, tu sĩ, hoặc ơn gọi lập gia đình). Muốn giữ con cái lại cho mình
bằng mọi giá là một hình thái ích kỷ không tương hợp với tình yêu chân chính mà
các cha mẹ phải có đối với con cái. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh lại: đi theo
ơn gọi phải là sống một sự vâng phục đối với Đấng Cao Cả, chứ không phải là một
sự đào thoát để tránh một quyền bính. Đức Giêsu vâng lời Chúa Cha, nhưng Người cũng
vâng lời cha mẹ trần thế.
3. Maria và Giuse bị lạc Đức Giêsu, không do lỗi các ngài. Nhưng
các ngài vẫn đi tìm vì không thể sống thiếu Đức Giêsu. Khi người ta cảm thấy
mình khô khan, sầu khổ thiêng liêng, không do lỗi mình, sự ngờ vực, bóng tối
hoàn toàn, thì phải xem có phải do lỗi mình không, hay là do Thiên Chúa muốn
đào luyện chúng ta (x. Lc 24,28). Cứ đi tìm Người cho đến khi tìm ra Người.
4. Điều ta không hiểu, ta có thể phớt lờ đi hoặc tìm cách quên
đi. Ta có thể tuyên bố rằng điều ấy chẳng có nghĩa gì và triệt để từ chối nó.
Ngược lại, Đức Maria ghi giữ điều ấy và làm cho nó thành lực thúc đẩy bà kiên
trì suy nghĩ (x. 2,19). Thật ra một điều gì đó có thể không nói cho tôi biết
mọi sự vào lúc này. Tôi cũng chẳng có thể tự phụ cho rằng vào mọi lúc tôi hiểu
tất cả những gì có một ý nghĩa. Mức độ hiểu biết giới hạn không phải là một lý
do để loại bỏ hoặc xua trừ một điều gì đó.