CÁC BÀI SUY NIỆM
LỄ HIỂN LINH – Năm C
LỄ HIỂN LINH – Năm C
1. Đi theo ánh sao
Rất nhiều người đã tới nhà thờ trong đêm Giáng sinh, nhưng thử
hỏi có mấy ai đã thực sự gặp gỡ Chúa như ba nhà đạo sĩ phương đông?
Chúa Giêsu không phải là người khó tính, đến như các trẻ mục
đồng, thuộc hàng khố rách áo ôm, cũng có được một chỗ đứng bên máng cỏ. Nhưng
rõ ràng là qua đoạn Tin Mừng chúng ta thấy được rằng sự kiện Chúa ra đời đã
thực sự khuấy động khá nhiều người từ vua Hêrôđê, các thượng tế và luật sĩ, đến
quần chúng nhân danh thành Giêrusalem và cả những nhà đạo sĩ xa xôi.
Tuy nhiên những người đã để cho sự kiện Chúa ra đời khuấy động
tới cùng lại chỉ có ba nhà đạo sĩ vốn bị liệt vào hạng những kẻ ngoại, những
người ở ngoài. Hêrôđê quả có đi tìm Chúa, nhưng là để thủ tiêu Ngài chứ không
phải để gặp Người. Các thượng tế và các luật sĩ thuộc giới đền thờ, là những
người có đầy đủ các điều kiện tạm gọi là khách quan rát thuận lợi để gặp Chúa.
Họ là những nhà thông hiểu thần học và Thánh Kinh. Kẻ khác còn phải nhờ đến họ
để biết được Người sinh ra ở đâu. Nhưng theo Tin Mừng thì xem ra họ không rời
đền thờ nổi. Trong khi đó Chúa lại sinh ra nơi máng cỏ Bêlem. Làm sao họ có thể
gặp được Người? Còn những người dân khác của kinh thành Giêrusalem thì lại
hoảng hốt, thay vì vui mừng trước cái tin Đấng mình mong đợi đã sinh ra.
Và cuối cùng chỉ còn lại ba nhà đạo sĩ đã đến được bên máng cỏ
cùng với những trẻ mục đồng. Các nhà đạo sĩ tới được với Chúa là vì các ông đã
nhận ra dấu lạ, hay cái mới trong lúc các ông làm công việc thường ngày của
mình. Các ông đã tìm hiểu ý nghĩa của cái mới và chân thành theo dõi, cho dù
phải thực hiện một cuộc hành trình ngàn dặm với bao nhiêu là vất vả.
Ai gõ thì sẽ mở cho, ai tìm thì sẽ gặp. Đến nhà thờ mà thôi chưa
đủ, chúng ta còn phải có cả một cuộc hành trình tìm kiếm Chúa. Ngài mời gọi
bằng những dấu chỉ của thời đại. Phải tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ ấy,
hay đúng hơn, để biết được giữa muôn vàn sự kiện của cuộc sống thường ngày,
giữa muôn vàn vì sao lấp lánh trên bầu trời, sự kiện nào có giá trị của một ánh
sao lạ, dẫn chúng ta đến với ơn cứu rỗi.
Chúa đến cho tất cả mọi người, thế nhưng Tin Mừng cho chúng ta
thấy không phải tất cả mọi người đều đã được gặp Ngài.
2. Theo ánh sáng của ngôi sao
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung
điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh
thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang... Nhưng
thực ra không phải thế. Khi ba vị hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện
ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng
tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê đâm ra hoảng hốt vì sợ rằng ngai
vàng của mình có nguy cơ lung lay nếu có vị vua thứ hai xuất hiện.
Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và
kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả
lời: "Tại Bêlem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: 'Phần
ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa,
vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời."
Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện
ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bêlem là phần đất nhỏ
nhất của miền Giuđa.
Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả
triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng
sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy
và dâng lễ vật cho Ngài, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không thể
ngờ trước được.
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi
đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn
giúp ta tìm gặp Ngài. Đó là ánh sáng của Lời Chúa. "Lời Chúa là ngọn đèn
soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Tv 119, câu 105)
Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi
đâu?
Ở nơi mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong gia đình chúng ta.
Thật là điều bất ngờ!
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt
hẵn phải sinh ra trong cung điện Hêrôđê, không ngờ lời Chúa lại chỉ cho họ tìm
gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một
trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên
chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các
thánh đường... Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong
thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình
đã viết: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia
đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con
cái... trong gia đình. Những gì chúng ta làm cho cha cho mẹ cho anh chị em cho
con cái trong gia đình là làm cho chính Chúa."
Và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định với chúng ta như thế:
"Tất cả những gì anh em làm cho một người trong những anh em hèn mọn nhất
của Ta đây là làm cho chính Ta." (Mt 25, 40)
Chính những lời dạy nầy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bêlem
năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng
xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ Ngài và dâng lễ vật cho Ngài.
Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược
nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái
học hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta.
Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi.
Nếu chúng ta vui lòng trao dâng, thì đến ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ nói với
từng người trong chúng ta: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa
hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa" vì
các con đã cho Ta tấm áo, cho Ta bát cơm, cho Ta sách vở để học hành, đã đào
tạo Ta nên con người có phẩm chất cao đẹp... (xem Mt 25. 34).
3. Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người
(Gợi ý suy niệm của ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt)
Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi
sao của Chúa Giêsu.
Có thể không ngôi sao nào trên trời dẫn chúng ta đến với Chúa
Giêsu, nhưng nếu chúng ta đã đến được với Chúa Giêsu thì cũng nhờ một hay nhiều
ngôi sao nào đó dẫn đường. Có thể là cha mẹ, một người bạn, một quyển sách, một
biến cố... Điều quan trọng là chúng ta biết đọc những tín hiệu. Giữa trăm ngàn
đĩa phim, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể xem được và phân biệt được
phim về Chúa Giêsu với các phim khác. Giữa trăm ngàn đĩa ca nhạc, nếu chúng ta
có một đầu đĩa thì có thể nghe được và phân biệt được đĩa thánh ca với các đĩa
khác. Đầu đĩa ấy có thể là vũ trụ, có thể là Hội Thánh. Đặc biệt là Thánh Kinh.
Nhưng điều cốt yếu vẫn là tôi phải xem, phải nghe. Thiên nhiên và lịch sử không
bao giờ thiếu những ngôi sao tín hiệu để con người đến được với ánh sáng.
Chúa Giêsu là ánh sáng. Một khi đến được với Chúa Giêsu, chính
chúng ta được soi sáng và trở thành những ngôi sao dẫn đường cho người khác.
Trong lịch sử đã từng có những vì sao sáng rực: thánh Phêrô, thánh Gioan, thánh
Phaolô, thánh Têphanô, thánh Inhaxiô Antiôkia, thánh Âutinh, thánh Gioan Kim
Khẩu, thánh Phanxicô Assisi, thánh Phanxicô Xavier, thánh Têrêxa, thánh Anrê
Dũng Lạc, thánh Philipphê Phan Văn Minh, thánh Matthêu Lê Văn Gẫm, thánh Anê Lê
Thị Thành... Ngay trong thời đại chúng ta cũng không thiếu những vì sao: thánh
Maximilianô Kolbe, chân phước Têrêxa Calcutta... Và ngôi sao sáng chói trong
mọi thời đại: Mẹ Maria. Chung quanh chúng ta vẫn có những người đang đi tìm một
ngôi sao dẫn đường. Chính chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi nhận lấy ánh sáng của
Chúa để trở thành một ngôi sao, cho bạn bè, cho con cái, cho hàng xóm láng
giềng. Có thể chúng ta chỉ là một ngọn đèn dầu, nhưng vẫn hữu ích cho một ai đó
đi tìm nguồn sáng trong một đêm tăm tối.
Lạy Chúa Giêsu, Ánh Sáng thần linh giữa trần gian, luôn ban cho
chúng con cũng như mọi người những ngôi sao dẫn đường.
4. Ánh nến toả sáng trong gia đình
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Giữa ban ngày, chỉ cần một tấm bảng nhỏ vẽ mũi tên chỉ đường
cũng đủ để giúp bộ hành tìm được hướng đi, nhưng giữa đêm đen, dù có cả một
rặng núi sừng sững được sử dụng như tín hiệu chỉ đường, cũng không ai nhận
thấy. Trong khi đó, chỉ cần một ánh sáng le lói giữa màn đêm cũng đủ để cho
khách bộ hành tìm thấy mục tiêu cần tiến đến. Trong đêm tối, một đốm sáng nhỏ
có khả năng dẫn đường chỉ lối hơn cả một ngọn núi cao.
Chính vì thế, khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa đã
cho xuất hiện một ánh sao đặc biệt giữa bầu trời đêm để soi dẫn cho ba nhà
chiêm tinh từ phương Đông đến gặp Chúa Cứu Thế. Nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ
nầy, ba nhà chiêm tinh mới có thể tìm gặp Hài Nhi Giêsu mới hạ sinh.
Đoạn Tin Mừng Matthêu (2, 1-12) trích đọc trong phụng vụ lễ hiển
linh mời gọi chúng ta trở thành những ngôi sao nhỏ để dẫn đưa anh chị em lương
dân đến với Chúa. Nói cách khác, Lời Chúa mời gọi chúng ta làm ánh sáng chỉ
đường cho lương dân.
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ I-sa-i-a mà phán dạy dân
Người: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi mang ơn cứu độ của
Ta đến tận cùng trái đất." (Is 49,6)
Chúa Giêsu cũng trao sứ mạng nầy cho các môn đệ: "Chính anh
em là ánh sáng cho trần gian... ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt
thiên hạ..." (Mt 5, 14):
Và Thánh Phaolô tiếp tục kêu mời chúng ta: "Giữa một thế hệ
gian tà sa đoạ, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời." (Pl
2,15)
Ít ra, xin được là ánh nến toả sáng trong gia đình
Trở nên ánh sáng soi đường là một sứ mạng tuy cao trọng nhưng
đầy khó khăn nên không ai muốn đảm nhận. Tuy vậy, là con cái Chúa, không ai
được quyền thoái thác chối từ. Mấy câu thơ sau đây của thi sĩ Éliot sẽ khích lệ
chúng ta:
"Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng giữa trời,
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu bạn không thể là ánh lửa non cao,
Xin hãy làm ánh nến toả sáng trong gia đình."
Có lẽ chúng ta không dám làm ngôi sao sáng giữa trời, vì thấy
mình yếu đuối và tội lỗi. Có thể chúng ta cũng chẳng dám mơ ước trở thành một
ánh lửa non cao cho nhiều người từ phương xa nhìn tới. Vậy thì ít ra, xin cho
mỗi người chúng ta cố sức trở thành một ánh nến toả sáng trong gia đình. Ánh
nến nầy rất quan trọng vì 'gần mực thì đen và gần đèn ắt phải sáng.' Ánh sáng
của cuộc đời mẫu mực nơi người cha, người mẹ toả chiếu trên con cái chắc chắn
sẽ làm cho con cái được nên người. Và ngay cả ánh sáng của con cái cũng có thể
làm cho cha mẹ nên sáng.
Sự kiện sau đây minh chứng điều nầy:
Ngày 12 tháng 12 năm 1999, tôi ban bí tích rửa tội cho hai em
nhỏ. Người chị là Têrêxa Huỳnh thị Bích Hằng, mười lăm tuổi, còn người em là
Maria Huỳnh thị Bích Nga, mười hai tuổi. Vì hai em mồ côi cha mẹ sớm, chẳng
được học hành, nên được gia đình người cô ruột thương tình đem về nuôi.
Điều oái oăm là cô dượng của hai em tuy là người có đạo nhưng
không mấy khi bước đến nhà thờ. Mỗi tối, gia đình nầy bán phở đến 12 giờ đêm.
Hai người cháu cũng lo phục dịch đến giờ ấy.
Thế rồi từ ngày hai cháu được dẫn đến nhà thờ, được các nữ tu
dạy cho biết Chúa và giáo lý, hai cháu bỗng nhiên yêu mến Chúa cách nhiệt tình
và yêu thích học giáo lý cách đặc biệt. Cứ mỗi ngày chúa nhật, hai cháu cảm
thấy mừng vui rộn rã trong lòng vì được đến với Chúa. Lòng nhiệt thành của hai
cháu đã làm bừng lên nhúm đức tin như tro tàn nguội lạnh trong lòng cô dượng.
Thế rồi cô dượng cũng sốt sắng đi thờ phượng Chúa trong các ngày chúa nhật, sau
khi đã vắng bóng ở nhà thờ gần đến mười năm! Người cô nói với tôi: "Thấy
hai cháu sốt sắng quá, thét rồi hai vợ chồng con cũng sốt sắng lây."
Hai cháu đúng là hai ánh nến nhỏ trong gia đình đã chiếu soi cho
Cô Dượng.
Vậy giờ đây chúng ta cùng cầu nguyện với Chúa Giêsu bằng lời thơ
của thi sĩ Éliot:
"Lạy Chúa, nếu con không thể là ngôi sao sáng giữa trời,
Thì xin hãy là ánh lửa non cao.
Và nếu con không thể là ánh lửa non cao,
Xin cho con được làm ánh nến toả sáng trong gia đình."
5. Mỗi người là một ánh sao cho nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta vẫn thường ví von mỗi người là một ánh sao. Mỗi một con
người sẽ tương ứng với một ánh sao trên trời. Bài hát sinh hoạt thiếu nhi cũng
ví von: con người là một ánh sao, có ánh sao xanh, có ánh sao hồng nhưng không
có ngôi sao nào là ngôi sao đen. Bởi vì công dụng của sao là toả sáng, là soi
dẫn, thế nên phải là ánh màu lung linh, không thể là ngôi sao đen chẳng có tác
dụng gì với con người.
Hôm nay, ba vua cũng nhờ một ánh sao dẫn lối đưa đường đến triều
bái Đấng cứu tinh nhân loại. Ánh sao đã dẫn họ đến hang Belem, nơi hài nhi, Con
Vua Trời mới hạ sinh. Họ đã tin vào ánh sao để nhận ra thân phận vị cứu tinh
nhân trần từ chính khung cảnh nghèo nàn của kiếp người. Họ đã tin vào ánh sao
để có thể cúi mình thờ lạy một hài nhì yếu ớt con của một gia đình nghèo khó.
Họ đã nhờ ánh sao để tìm thấy chân lý trong nghịch cảnh đời sống.
Vâng, Đấng cứu tinh mà họ mong gặp là một hài nhi được bọc trong
khăn, đặt nằm trong máng cỏ. Đấng ấy đáng lẽ phải được toàn dân Giê-ru-sa-lem
đón chào như vị cứu tinh duy nhất của họ, nhưng lạ lùng thay, họ không chỉ thờ
ơ mà còn muốn loại trừ. Ngay cả những con người được coi là người quyền cao
chức trọng vẫn không thể gặp được Ngài. Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật.
Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo về truyền thống.
Hêrôđê thì tìm kiếm nhưng không phải để triều bái mà là để tìm cách huỷ diệt.
Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế.
Họ là đại diện cho những con người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý và khao
khát an bình. Họ đã nhận ra thân phận hài nhi yếu đuối nằm trong máng cỏ lại là
Vua Cả Trời Đất. Đấng phải đến trong thế gian để đem lại công lý và hoà bình
cho trần gian.
Ánh sa từ trời cao hôm nay vẫn chiếu xuống nhân trần. Ánh sao
hôm nay vẫn là ý Chúa mà con người phải thực hiện, vẫn là tiếng nói lương tâm
mời gọi con người sống ngay lành, đừng làm điều dữ, đừng sống quanh co giả dối.
Hãy từ bỏ lối sống đam mê lầm lạc của bóng tối tội lỗi để bước đi trong ánh
sáng lề luật. Nhưng tiếc thay, nhiều người vẫn sống chai lỳ trong bóng tối tội
lỗi. Biết bao bạn trẻ vẫn lao mình trong những đam mê lầm lạc của xì-ke ma tuý
và thác loạn. Biết bao người vì danh lợi thú trần gian mà đánh mất lương tri
con người. Biết bao người vì đam mê bất chính mà sống thiếu trách nhiệm với gia
đình và bản thân. Biết bao người vẫn tìm kiếm thú vui trần thế mà bán rẻ nhân
cách, nhân phẩm của chính mình.
Sứ điệp của ngày lễ hiển linh còn là tiếng mời gọi con người hãy
là ánh sáng của nhau. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo
quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để đối xử khoan dung nhân ái với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần ánh sáng của niềm tin để xoá tan nghi kỵ, hiểu lầm.
Ánh sáng của tình yêu để cảm thông nâng đỡ nhau. Ánh sáng của bao dung để xoá
bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà
các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể
thiếu ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng của niềm tin để
mọi người tin tưởng lẫn nhau. Không có niềm tin gia đình sẽ không có thuận hoà,
chỉ có đố kỵ và ghen tương. Gia đình cần có ánh sáng tình yêu và tha thứ để mọi
người biết cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm
người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì đời sống của người ky-tô hữu chúng ta luôn toả sáng những
hành vi bác ái, yêu thương, những nghĩa cử nhân ái bao dung để nâng đỡ những ai
đang cô đơn, thất vọng, đang sống trong cảnh lầm than tìm được niềm vui và hạnh
phúc trong cuộc sống. Amen.
6. Gặp gỡ Chúa.
Những hạng người nào đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi
máng cỏ Bêlem? Trước hết là các mục đồng, những người canh giữ
đoàn vật. Họ là những người nghèo và hơn thế nữa, họ còn là những người bị
khinh dể bị coi thường. Các luật sĩ và Biệt phái thường gọi họ là bọn dân đen.
Cái đám người không biết đến lề luật, họ là những kẻ bị chúc dữ. Thế nhưng,
chính đám người bị chúc dữ ấy, chính đám người không biết đến lề luật ấy lại là
những người đầu tiên được đón nhận Hài Nhi Giêsu.
Tiếp đến là những nhà bác học xa lạ. Đường
không quen, nẻo không thuộc. Họ từ xa mà đến, dám chấp nhận mọi hy sinh gian
khổ. Cái nghèo của những người này chính là thái độ sẵn sàng của họ. Các Luật
sĩ và Biệt phái coi họ là dân ngoại. Thế nhưng, cái đám dân ngoại này lại được
diễm phúc gặp được Hài Nhi Giêsu.
Từ những sự kiện trên chúng ta rút ra được hai nhận định. Nhận
định thứ nhất đó là sự gặp gỡ giữa người giàu và kẻ nghèo nơi Hài nhi Giêsu.
Đúng thế, từ xưa cho đến nay vẫn có một hố ngăn cách giữa giàu và nghèo. Sự
ngăn cách này được tạo nên bởi những nghi ngờ và thù oán. Mỗi bên đều có cái lý
của mình. Tuy nhiên trong lịch sử đã có một khoảnh khắc trong đó giàu và nghèo
không còn đố kỵ nhau, đó là khoảng khắc Chúa Giêsu sinh ra. Bởi vì có những
người giàu, giàu về tiền bạc cũng như giàu về kiến thức đã đến viếng thăm một
Hài nhi nghèo nàn, sinh ra không cửa không nhà.Thế nhưng, cái nghèo của Hài Nhi
Giêsu mà ba nhà đạo sĩ khám phá ra đã không đẩy lùi họ, trái lại còn hấp dẫn
họ, không làm cho họ hổ thẹn, trái lại còn làm họ cảm thấy được tôn vinh. Vì
vậy, không ngỡ ngàng, không nghi vấn, họ tự dâng của lễ cho một Hài Nhi của
người nghèo, như triều cống cho một hoàng tử của đế vương.
Nhận định thứ hai đó là các mục đồng và dân ngoại là những người
ít được chuẩn bị nhất lại nhận ra Chúa. Trong khi đó các Luật sĩ, Biệt phái và
tư tế, là những người đã được chuẩn bị nhiều nhất, đã được thông tin hoàn toàn
nhất, bởi vì chính họ đã cho các đạo sĩ biết rõ nơi gặp gỡ đích thực của vị Vua
mới sinh ra, thế nhưng cuối cùng họ đã không nhận ra Ngài. Họ có dư khả năng để
biết nhưng lại không có khả năng để hiểu. Đúng thế, họ biết được bằng trí tuệ,
bằng những phương tiện thông tin đầy đủ có trong tầm tay, nhưng muốn hiểu thì
còn cần đến tấm lòng, cần đến con tim nữa.
Các mục đồng là những kẻ thiếu học, còn các nhà đạo sĩ là những
người thiếu thông tin. Họ không có khả năng để biết, nhưng lại có khả năng để
hiểu. Không phải chỉ sáng trí, có học là đủ để đi vào những mầu nhiệm của Thiên
Chúa. Trái lại, cần phải có thiện chí, cần phải có tấm lòng, dám chấp nhận
những hy sinh, dám từ bỏ cái tự cao tự đại của mình, thì mới có thể đến gần và
gặp gỡ Chúa.
Bởi đó, là những người có đức tin, thế nhưng chúng ta đã gặp gỡ
Chúa như các mục đồng và như ba nhà đạo sĩ phương đông hay chưa?
7. Thiên Chúa tỏ mình – Lm. Giuse Phạm
Thanh Liêm
Ngày xưa người ta quen gọi lễ Hiển Linh là lễ Ba Vua, sở dĩ vậy
vì trong Tin Mừng đọc trong Thánh Lễ hôm nay, ba nhà đạo sĩ tìm kiếm để bái yết
hài nhi Giêsu. Ba nhà đạo sĩ là những người trổi trang về kiến thức uyên bác;
họ có thể đọc dấu chỉ thiên nhiên để nhận ra sự xuất hiện của những người đặc
biệt. Từ ngữ “vua” được dùng trong “ba vua” là để chỉ người trổi trang hơn
người khác về phương diện nào đó.
Qua biến cố mục đồng tới viếng hài nhi, người ta nhận ra Thiên
Chúa đã tỏ mình cho những người Do Thái nghèo nhưng có tâm hồn mở rộng sẵn sàng
đón nhận Thiên Chúa. Với biến cố ba nhà đạo sĩ đi viếng hài nhi, Giáo Hội nhận
ra Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Người Do Thái cho rằng họ là dân được tuyển chọn, còn các dân
tộc khác là dân ngoại. Với biến cố Đức Giêsu và việc các dân tộc khác đón nhận
Tin Mừng, người ta nhận ra rằng tất cả mọi dân tộc đều thuộc về Thiên Chúa, tất
cả các dân tộc đều được Thiên Chúa yêu thương như dân tộc Do Thái. Hôm nay với
trình thuật các đạo sĩ tìm kiếm và bái lạy Đức Giêsu, Kitô hữu nhận ra Thiên
Chúa cũng mặc khải cho dân ngoại. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại như Ngài đã
từng yêu thương dân tộc Do Thái. Mọi dân tộc đều bình đẳng trước Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc, mọi con người, chứ không phải chỉ riêng dân
tộc Do Thái.
Kitô hữu phải là người cảm nghiệm sâu xa tình yêu Thiên Chúa
dành cho con người, và đặc biệt cho chính mình. Kitô hữu cũng phải là người
sống bình an và hạnh phúc, vì ý thức mình là tạo vật được Thiên Chúa yêu
thương. Ngài tha thứ mọi lỗi lầm, và không chỉ vậy, còn mời gọi mọi người vào
chia sẻ sự sống vĩnh cửu hạnh phúc với Thiên Chúa. Một khi phần nào cảm nghiệm
tình yêu của Thiên Chúa và bình an hạnh phúc, Kitô hữu thấy mình phải chia sẻ
niềm vui này, tin mừng này cho những người anh em của mình chưa biết Đức Giêsu,
ngõ hầu họ cũng có niềm vui này. Bản chất Kitô hữu là rao giảng Tin Mừng, làm
cho muôn dân được nghe, hiểu và sống đáp trả tình yêu Thiên Chúa.
Ngày nay nhiều người “dị ứng” với từ ngữ truyền giáo, vì từ ngữ
này gợi lên nơi người ta ấn tượng rao giảng để kéo người khác bỏ đạo của họ để
theo Kitô giáo. Nếu có ý hướng như vậy, người ta mang nặng tính phe phái và
giành giựt nhiều hơn là chia sẻ tin mừng. Một Kitô hữu đúng nghĩa phải là người
muốn chia sẻ tin mừng với người khác, vì mình nghĩ rằng biết Đức Giêsu là điều
rất tốt và ích lợi cho mọi người. Tuy nhiên, Kitô hữu phải là người luôn tôn
trọng người khác, tôn trọng tự do và tín ngưỡng của tha nhân; nếu ai đó đón
nhận Tin Mừng, thì đó là vì chính họ thấy sự thật, họ cũng được bình an và hạnh
phúc hơn khi trở thành Kitô hữu.
Khi một Kitô hữu muốn rao giảng tin mừng, họ phải tự vấn chính
mình: “niềm tin vào Đức Giêsu mang gì lại cho tôi? Tin vào Đức Giêsu, có làm
cho tôi sống bình an và hạnh phúc hơn không? Nếu tin vào Đức Giêsu Phục Sinh
không giúp gì cho tôi, thì tại sao tôi lại muốn làm cho người khác trở thành
Kitô hữu như tôi?” Lời mời gọi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh đòi Kitô
hữu phải xét lại niềm tin của mình, lối sống của mình. Nếu đời sống của tôi
không là đời sống toát lên nét tươi vui của một người hạnh phúc, thì làm sao
tôi có thể rao giảng tin mừng được! Nếu tôi sống u buồn thất vọng, tôi là phản
chứng cho Tin Mừng Phục Sinh. Tôi phải sống sao, để đời sống của tôi không trở
thành phản chứng.
Kitô hữu là người có Chúa Kitô nơi mình, là người bạn của Đức
Giêsu Kitô, là người muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cách sống của
Đức Giêsu Kitô phải là cách sống của mỗi Kitô hữu. Kitô hữu phải là người có
cùng chọn lựa với Đức Giêsu Kitô, phải biết yêu thương con người hôm nay như
chính Đức Giêsu đã yêu, phải là người yêu đến cùng anh em mình, người thân
mình, những người mình gặp gỡ, và thậm chí cả những kẻ không ưa và ghét mình.
Đức Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ giết Ngài, Kitô hữu cũng phải tha thứ cho
những người làm hại họ.
Kitô hữu phải là người trung thành như Thiên Chúa là Đấng Thành
Tín. Thiên Chúa không bao giờ phản bội, và Kitô hữu cũng không bao giờ được
phản bội ai. Không làm hại ai. Chỉ muốn điều tốt cho tha nhân, chỉ tìm lợi ích
cho người khác chứ không làm hại họ, đó phải là cách sống của Kitô hữu. Có được
như vậy, nhiều người sẽ ngạc nhiên và sẽ tìm hiểu niềm tin của Kitô hữu; để rồi
nếu họ muốn họ có thể chia sẻ niềm tin Kitô hữu, để họ cũng được bình an và
hạnh phúc như những Kitô hữu. Kitô hữu phải là men trong bột, phải là ánh sáng
cho thế gian. Kitô hữu tuy có cùng nỗi bận tâm và gian nan như bất cứ con người
nào sống trên đời, nhưng ánh sáng đức tin đã soi sáng cho họ, giúp họ tuy sống
giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có muốn người khác có cùng niềm tin với bạn không? Tại
sao?
2. Nếu không tin vào Đức Giêsu, bạn có được như hiện tại không?
Tại sao?
3. Phải rao giảng thế nào để con người ngày nay dễ đón nhận Tin
Mừng Đức Giêsu Kitô?
8. Hiển Linh – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Lễ Hiển Linh ngày xưa thường được gọi là lễ Ba Vua. Tin Mừng hôm
nay cho thấy các đạo sĩ đi tìm để dâng lễ vật lên vua người Do Thái. Các đạo sĩ
là những người có học, họ đại diện cho những người luôn quan sát thiên nhiên và
truy tìm chân lý. Họ đã không quản ngại đường xa để tìm đến với Sự Thật.
Nhận biết Thiên Chúa nhập thể là một ân sủng
Các mục đồng được Thiên Chúa cho biết về Đấng Cứu Thế, Đấng là
qùa tặng của Thiên Chúa cho tất cả loài người, qua các thiên thần. Còn những
người học thức, được Thiên Chúa cho biết về Đấng Vua đặc biệt của người Do Thái
qua ánh sao, qua những dấu chỉ tự nhiên. Các mục đồng đơn sơ được gặp Đức Giêsu
cách dễ dàng và giản dị, còn ba nhà đạo sĩ uyên thâm đã phải trải qua khoảng
đường dài, những cuộc truy tìm qua những trung gian, chẳng hạn với vua Hêrôđê,
mới có thể gặp được Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.
Tất cả đều nhờ ân sủng của Thiên Chúa, nhờ sự can thiệp đặc biệt
của Thiên Chúa để các vị đạo sĩ có thể tìm được và nhận ra vị Vua đặc biệt
nhưng bình thường này. Vì làm sao chỉ với ánh sao, các vị đạo sĩ có thể biết
đâu là em bé giữa bao nhiêu em bé ở Bêlem? Vua Hêrôđê không thể nhận ra đâu là
vị vua đặc biệt này, nên đã giết tất cả các em bé, còn các vị đạo sĩ làm sao
nhận ra được “chính là Ngài”? Dù là người đơn sơ hay người có học, nhận ra được
Thiên Chúa, đều là ân sủng.
Đón nhận con người, là đón nhận Thiên Chúa
Người làng Bêlem không đón nhận Đức Mẹ, thánh Yuse, là không đón
nhận Thiên Chúa. Vua Hêrođê không đón nhận hài nhi “vua người Do Thái”, là
không đón nhận Thiên Chúa. Dân chúng và những người lãnh đạo dân tìm cách giết
Đức Giêsu, là họ giết Thiên Chúa.
Dân Do Thái không biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể nên đã
giết Ngài. Người Bêlem không biết hài nhi trong dạ người phụ nữ trẻ đói nghèo
là Thiên Chúa nhập thể, nên đã từ khước cho các ngài một chỗ trú chân. Người
làng Nazarét không biết em bé Giêsu là Thiên Chúa làm người, nên không nhận ra
ân sủng mà họ đang được hưởng: sống gần bên Thiên Chúa nhập thể. Không biết,
nên không đón nhận. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho con người về điều này, ngay
cả với những người giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng
biết” (Lc.23, 34).
Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người, nhưng những mục đồng thì
nhận biết còn người giầu làng Bêlem thì không nhận biết, các đạo sĩ nhận biết
nhưng Hêrôđê và những người thông luật ở Yêrusalem không nhận biết, ông già
Simêon nhận biết nhưng tư tế dâng tiến Ngài cho Thiên Chúa thì không nhận biết
Ngài. Xin cho chúng ta có tâm hồn đơn sơ khiêm tốn để nhận ra Thiên Chúa đang
hiện diện với chúng ta trong từng giây phút của cuộc đời.
Mầu nhiệm dấu kín nay được tỏ lộ
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, mọi tầng lớp dù vô học
hay trí thức. Ba nhà đạo sĩ là những người có học, quan sát thiên nhiên để truy
tìm chân lý, và Thiên Chúa đã tỏ lộ cho họ qua thiên nhiên. Vì thế rất có lý để
tin rằng những người nghiên cứu khoa học xã hội hay tự nhiên đều có thể gặp gỡ
Thiên Chúa qua công việc của họ.
Thiên Chúa dùng mọi cách để đến với con người. Có thể là ánh
sao, có thể là lời thỉnh vấn, có thể là dấu chỉ đơn sơ đối với người tin chất
phác như “hài nhi vấn tã nằm trong máng cỏ” (Lc.2, 12). Trong mọi trường hợp,
đều cần tấm lòng đơn sơ, dù là người chất phác vô học hay người trí thức. Một
người ít học hay có học, nhưng không có lòng sẵn sàng đón nhận chân lý thì
không thể gặp gỡ Thiên Chúa được, cụ thể như người làng Bêlem hay các luật sĩ ở
Yêrusalem.
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Đây là mầu nhiệm vô cùng lớn,
được ẩn dấu từ muôn thuở nay tỏ lộ cho con người. Làm sao Thiên Chúa lại có thể
thành người? Làm sao Đấng vô hạn lại có thể thành con người “hữu hạn”? Làm sao
Thiên Chúa duy nhất lại có thể là ba? Người Hy-Lạp không thể chấp nhận điều
này, vì không hợp lý. Người Do Thái không thể chấp nhận Đấng Thiên Sai có thể
bị giết trên thập giá. Kitô-hữu là người “không logic” theo một nghĩa nào đó,
vì đã chấp nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, đã tin Thiên Chúa duy nhất Ba
Ngôi Vị.
Xin cho con người vâng phục Thánh Thần, để có thể đón nhận mặc
khải của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, người ít học và người học cao hiểu rộng, ai dễ tin
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể hơn? Tại sao?
2. Làm sao con người biết rằng Thiên Chúa yêu thương con người?
3. Thiên Chúa có yêu thương những người ngoại không? Tại sao?
9. Tỏa sáng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Lễ Hiển Linh theo nguồn gốc văn tự Epiphaneia (Epiphany:
manifestation or striking appearance). Tiếng Hy-lạp cổ dùng chữ Theophaneia
(Theophany meaning ‘vision of God’). Theo truyền thống, Lễ này được cử hành vào
ngày 6 tháng Giêng. Dịp Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ
thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự hiển linh của Con Chúa cho các Dân Ngoại.
Trong khi các tín hữu Đông Phương tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại
sông Giođan, được xem là sự hiển linh của Con Chúa cho toàn thế giới. Từ năm
1970, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nghi thức Latinh đã cử hành Lễ Hiển Linh vào
ngày 6 tháng 1 và là Lễ buộc. Các quốc gia khác có thể cử hành vào Chúa Nhật,
sau ngày 1 tháng 1. Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua.
Từ 700 năm trước Công Nguyên, tiên tri Isaia đã loan tin vui về
sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi
đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi (Is 60, 1).
Ánh sáng sẽ bừng lên trong đêm tối và con dân sẽ đón nhận vinh quang Thiên
Chúa. Đấng Cứu Thế là ánh sáng đến trong thế gian để xua trừ bóng tối của tội
lỗi và gian tà. Mọi dân sẽ hướng về nguồn ánh sáng để dõi tìm ơn cứu độ: Chư
dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi
mà tiến bước (Is 60. 3). Theo truyền thuyết, những nhà chiêm tinh, nhà khôn
ngoan, còn gọi là các đạo sĩ hay ba vua, đã chiêm ngắm bầu trời và nhận ra vì
sao lạ. Họ đã dõi theo ánh sáng của vì sao lạ để tìm đến bái thờ Đấng đã được
sai đến.
Tiên tri Isaia đã tiên báo về việc các bậc quân vương tiến về để
thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các nhà Đạo Sĩ Phương Đông cùng đến dâng Chúa của lễ là
vàng, nhũ hương và mộc dược. Isaia đã có thị kiến về đoàn người từ các phương
xa tìm đến bái thờ: Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả
những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền
lời ca tụng Đức Chúa (Is 60, 6). Các biến cố được ghi lại như một câu truyện
xảy ra gọn gàng trong một thời gian ngắn ngủi. Thật ra lịch sử ơn cứu độ được
mạc khải một cách tiệm tiến qua từng biến cố trong thời gian dài. Trong đêm
hồng phúc, trước tiên Chúa tỏ hiện cho những mục đồng đơn sơ và nghèo nàn, tiếp
đến là Chúa bày tỏ mình cho những người đại diện bên ngoại giáo đến từ xa và
sau cùng Chúa đã tỏ mình cho toàn thể nhân loại trên thế giới.
Dựa vào Kinh Thánh và lịch sử của ơn cứu độ, chúng ta biết có
nhiều tâm hồn khao khát đi tìm kiếm và mong chờ Chúa. Khi thời gian chuẩn bị đã
mãn, dấu chỉ đã tỏ hiện, lòng con người thôi thúc khát mong và mùa hồng ân đã
cận kề, các Đạo Sĩ tìm hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?
Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến
bái lạy Người."(Mt 2, 2). Các nhà Đạo Sĩ đã miệt mài kiếm tìm qua dấu chỉ
mà không quản ngại gian khó. Các ngài đã được Thiên Chúa đáp trả như lòng mong
ước. Chúa Giêsu đã dậy: Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ
cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7, 8). Hồng ân Chúa bao la tuyệt vời, đoàn người dân
ngoại đã được chứng kiến tận mắt ơn Cứu Độ đã tỏa sáng: Họ vào nhà, thấy Hài
Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp,
lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (Mt 2, 11).
Truyện kể có một bé gái cùng với mẹ đi viếng hang đá. Bà mẹ giải
thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ
hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay
sang hỏi mẹ: Tại sao họ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏ? Một
tấm lòng và một sự quan tâm thực sự, cô bé cảm nhận được nhu cầu của cuộc sống
thật. Sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy được tâm tư
và sự cảm thông của lòng người. Chúa đến trong nghèo nàn để mời gọi chúng ta
cùng chia sẻ tâm tình với những người cùng khổ nghèo đói. Nhu cầu thực tế của
cuộc sống là miếng cơm manh áo và nơi chỗ nương thân. Chúa Hài Nhi Giêsu đã
chạm đến cái cùng cực của thân phận con người. Từ đó, Chúa mời gọi chúng ta:
"Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những
anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."(Mt
25, 40).
Hình ảnh Ba Vua hay các Đạo Sĩ bái quỳ dâng tiến lễ vật và thờ
lạy Chúa Hài Nhi bày tỏ lòng tin kính và bái phục. Họ không nghĩ về thân phận
hay địa vị của mình nhưng thần phục trước Đấng được sai đến. Vất vả đường xa
lặn lộn kiếm tìm nguồn sự sáng, các nhà đạo sĩ đã thỏa tâm. Sau khi gặp được
Chúa Hài Nhi, họ đã theo đường khác để trở về quê hương xứ sở. Chúng ta chắc
rằng họ là những người khôn ngoan biết ngước nhìn lên để tìm hướng đi. Mỗi
người chúng ta cũng có những ước vọng và khao khát những điều cao thượng. Sự
cao siêu phải từ trên dọi chiếu. Chúng ta không thể cúi mặt chỉ đi tìm những
của cải trần gian mau qua chóng hết. Cuộc đời của con người không chỉ tìm kiếm
của ăn, áo mặc, danh vọng, địa vị và tìm thỏa mãn bản năng, nhưng có sứ mệnh và
mục đích cao cả hơn bội phần. Chúng ta cần phải hướng tới, nhìn lên và khát
mong niềm vui bất diệt của cuộc sống thật mà Thiên Chúa đã an bài: Hẳn anh em
đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên
quan đến anh em (Eph 3, 2).
Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho Dân ngoại. Chúng ta
thuộc về dòng dõi những người dân ngoại, nhưng lại được thừa hưởng ân sủng ơn
cứu độ. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa
Kitô để cùng chia phần sự sống. Thánh Phaolô đã diễn tả mầu nhiệm cao siêu được
truyền ban cho các thế hệ. Nay Chúa cũng đang tỏ mình ra cho toàn thể nhân loại
qua đời sống của Giáo Hội: Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người
thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải
cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người (Eph 3, 5). Tuy không phải là dân
Do-thái, như những kẻ được chọn, nhưng chúng ta hãnh diện tuyên xưng niềm tin
vào Chúa Kitô qua ân sủng của Ngài. Chúng ta trở thành dưỡng tử và được dự phần
trong tiệc cưới Nước Trời.
Cùng đến máng cỏ Bêlem, ngắm nhìn Chúa Hài Nhi, các mục đồng và
các đạo sĩ tiến dâng lễ vật, hôm nay chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa Hài Nhi? Kể
câu truyện của thánh Giêrôm. Chúa Giêsu hỏi: Giêrôm, con lấy gì mừng Ta nhân
ngày Ta sinh ra? Thưa, con xin dâng lòng con. Được, nhưng còn gì nữa? Con xin
dâng mọi kinh nguyện và tất cả tâm tình của con. Còn gì nữa? Con xin dâng tất
cả những gì con có và tất cả con đây. Ta muốn nữa? Thưa Chúa Hài Nhi, con chẳng
còn chi cả? Chúa muốn con dâng gì nữa đây? Hãy cho Ta các tội của con. Ủa, để
làm gì? Hãy cho Ta các tội của con, để Ta có thể tha thứ cho con tất cả. Ôi Chúa
Giêsu, Chúa làm con phát khóc lên được.
Lạy Chúa, con có nhiều quà lắm nhưng không biết dâng Chúa món
gì. Món quà mà con thích thì Chúa lại không ưa. Những món qùa Chúa mong, con
lại muốn giữ lại cho mình. Xin cho con biết rộng mở tâm hồn để biết cho đi mà
không cần phải so đo tính toán. Con xin dâng Chúa khả năng, thời giờ, của cải
và cả những điều con ưa thích. Con dâng cả tội lỗi yếu hèn và sự bất toàn của
con, xin Chúa đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung.
10. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt.
CHÚA TỎ MÌNH RA CHO NHỮNG TÂM HỒN THIỆN CHÍ
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những chi tiết tương phản lạ thường.
Tương phản giữa Giêrusalem và Bêlem:
Giêrusalem, thủ đô hoa lệ, trung tâm văn hoá chính trị của nước Do thái, nhưng
đã khước từ, không đón tiếp Đấng Cứu thế. Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé
nhỏ, nghèo nàn lại là nơi đón tiếp Đấng Cứu thế hạ sinh.
Tương phản giữa những người có đạo và những người ngoại đạo: Các
bậc chức sắc thông thạo Kinh thánh, nhưng chỉ ngồi im tại kinh thành, không
chịu lên đường, nên không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba nhà đạo sĩ mà ta
quen gọi là Ba Vua, là những người ngoại đạo, không am tường Kinh thánh, nhưng
đã biết tìm tòi học hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp được Chúa.
Tương phản giữa Vua giả và Vua thật: Hêrôđê
được gọi là Vua, nhưng lại cứ nơm nớp lo âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm cách
tiêu diệt người khác. Trong khi đó, Đức Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản nhiên
bình an trong cảnh khó nghèo, mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người xa gần.
Tất cả những tương phản ấy đáng cho ta suy nghĩ. Đấng
Cứu thế không đến theo cơ chế, nhưng rất bất ngờ. Người không đến trong những
cung điện sang trọng nhưng đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người
không đến trong quyền lực nhưng trong sự yếu đuối, khiêm nhường.
Tất cả những tương phản ấy khiến ta phải lo sợ. Không
phải cứ có đạo là gặp đựơc Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn
gặp được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải dấn thân lên
đường.
Ba Vua là những người ngoại đạo đến từ rất xa, nhưng đã trở nên
gương mẫu cho ta trong việc đi tìm và hiểu biết Chúa. Các Ngài là những tâm hồn
thiện chí.
Là những tâm hồn thiện chí, luôn luôn khao khát điều lành, nên
các Ngài luôn để tâm tìm kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên trời cố dò tìm dấu vết
thần linh. Chắc chắn không phải chỉ trong phút chốc mà các Ngài phát giác ra
ngôi sao lạ, nhưng phải trải qua nhiều năm tháng kiên trì chiêm ngắm bầu trời,
cặn kẽ theo dõi đường chuyển dịch của các vì tinh tú, các Ngài mới có thể nhận
biết ngôi sao lạ khi nó xuất hiện.
Việc đi theo ngôi sao lạ cũng không giản đơn. Trước hết việc lên
đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh
hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện
trên đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các
Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi
cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã
cho các Ngài được gặp Chúa.
Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta
phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận
hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.
Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường.
Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ, loan báo tình thương
của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng
trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh
sáng ấm áp tình người. Qua những làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và tìm
về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.
Để kết thúc, tôi xin kể một câu chuyện có thật. Một buổi chiều,
một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. ở một khúc quanh,
người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối, họ lo âu sợ
hãi vì đó là đoạn đường thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa chữa xe, nên người ấy
đỗ xe, xuống giúp sửa chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải chui vào gầm xe, tháo
ra từng bộ phận. Tối mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng rỡ, muốn trả công cho
người ấy. Nhưng người ấy không lấy công. Cả gia đình cám ơn rối rít và xin địa
chỉ hẹn ngày lên thăm. Khi lên thăm, gia đình mới biết đó là một vị giám mục.
Gia đình đem lòng cảm phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám mục ấy chính là một
Đức Cha ở cao nguyên Trung phần vào những năm 60.
Nhân dịp đầu năm mới, tôi xin cầu chúc tất cả anh chị em có một
đời sống đạo trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn về với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Ba Vua thiện chí ở những điểm nào?
2. Bạn có gặp thử thách trong đời sống đạo không? Khi gặp thử
thách, bạn đã ứng xử thế nào?
3. Theo bạn, cách nào hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa: giảng
giáo lý, tranh luận, sống bác ái?
4- Tuần này, bạn quyết tâm làm gì để thực hành Lời Chúa?
11. Thành tâm thiện chí sẽ gặp Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Việc Chúa sinh ra được loan
báo cho mọi người biết dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời các ngôn sứ loan
báo từ nhiều thế kỷ trước, đạo binh thiên thần ca hát, ngôi sao lạ xuất hiện…
Tuy nhiên không phải ai cũng gặp được Chúa.
Có những người không gặp Chúa, dù biết rõ những
chỉ dẫn về Người.
Đó là những kinh sư, biệt phái. Họ hiểu biết Thánh Kinh.
Khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi thăm, họ đã đọc vanh vách lời ngôn sứ loan báo Đấng
Cứu Thế sinh ra tại Bêlem. Nhưng họ không gặp được Chúa, vì họ hiểu biết lý
thuyết mà không thực hành. Ngồi một chỗ mà không chịu lên đường. Chỉ chú ý tới
chữ nghĩa sách vở mà không chú ý tới cuộc sống con người. Chỉ tìm trong sách vở
mà không tìm những dấu chỉ trong đời thường.
Đó là Hêrôđê. Bạo vương này muốn tìm Chúa nhưng không gặp
Chúa, dù ông có binh hùng tướng mạnh trong tay. Ông không gặp Chúa vì ông tìm
Chúa không phải vì Chúa mà vì quyền lợi của ông. Ông tìm Chúa không phải để thờ
lạy nhưng để giết chết. Ông tìm Chúa không phải để tôn vinh Chúa nhưng để tôn
vinh bản thân. Ông tìm Chúa không phải để làm theo ý Chúa nhưng để bắt Chúa
phải theo ý ông. Vì thế Chúa đã vượt thoát khỏi tầm tay của ông. Vĩnh viễn ông
không gặp được Chúa.
Những người xem ra gần gũi nhất, hiểu biết nhất, có phương tiện
nhất đã không gặp được Chúa. Trái lại, những người có vẻ nghèo hèn, thiếu thốn
phương tiện, xa xôi cách trở lại gặp được Chúa. Đó là các mục đồng và đặc
biệt ba nhà đạo sĩ mà ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay.
Họ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết
lời tiên tri loan báo, không biết lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi
thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ
ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên
đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt
được điều mơ ước.
Họ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát.
Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh
sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận
biết. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã
vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến
mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho ra.
Họ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi
tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ
không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ
không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa
chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù
Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất
tồi tàn của chuồng bò hôi hám.
Đời sống đạo của tôi cũng là một cuộc đi tìm Chúa. Tôi sẽ chỉ
gặp được Chúa nếu tôi noi gương ba vua, có tâm hồn đơn sơ thành thực, có lòng
khao khát Chúa vì chính Chúa, và dám dấn thân thực hành những điều Chúa truyền
dạy, đặc biệt là giới răn bác ái, phục vụ Chúa trong những anh em nghèo khổ.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tại sao những kinh sư, biệt phái và Hêrôđê không gặp được
Chúa?
2) Có những người ngoại đạo thành tâm thiện chí như ba vua. Bạn
đã gặp ai như thế chưa? Bạn nghĩ gì về họ?
3) Muốn gặp Chúa, bạn phải làm gì?
4) Ba vua nhờ ngôi sao dẫn đến gặp Chúa. Bạn phải làm gì để trở
thành ngôi sao đưa người khác đến với Chúa?
12. Gọi tên ngày lễ - ĐGM Giuse Vũ Duy Thống.
(Trích trong ‘VỚI CẢ TÂM TÌNH’ – Trg. 31)
Trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã
nêu lên câu hỏi liên quan đến Thánh Lễ hôm nay: “Tại sao ngày nay Phụng Vụ
không sử dụng tên gọi lễ Ba Vua nữa? Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông vua nào
đến viếng Hang đá cả?”.
Câu hỏi ấy trực tiếp về mặt kiến thức, không khó trả lời; nhưng
gián tiếp về mặt tâm linh, lại hé mở cho thấy đức tin hôm nay xem ra đang có
nhu cầu tìm hiểu. Đã đành, hiểu chưa phải là tin hay chưa hẳn đã tin, nhưng một
phần nào cũng góp phần dẫn tới đức tin cho người chưa tin, đào sâu đức tin cho
người đã biết, và cũng quan trọng không kém là củng cố sức mạnh cho những niềm
tin đang ở trong tình trạng nhạt nhòa.
Niềm tin là một công trình còn phải dựng xây và là một hành
trình còn phải tiếp tục. Trên cơ sở ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.
1) Từ tên gọi “lễ Ba Vua”…
Đây là tên gọi quen dùng đối với tín hữu Việt Nam, để chỉ về
việc các Đạo sĩ Đông Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì
họ là những bậc quyền quý đến từ phương Đông theo nhãn giới của bài đọc thứ
nhất; và xác định con số ba vì có ba sắc dân được nói đến trong Isaia 60, mà
cũng vì lễ vật tiến dâng được liệt kê ba món rành rành là vàng, nhũ hương và
mộc dược, như chuyện kể của Phúc Âm. Để rồi cứ thế theo truyền thống, Ba Vua đã
trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là lo xác định họ là vua hay
không phải là vua, họ có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy
nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng
khát khao chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành,
để rồi với sự trợ giúp của ơn thánh, tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn cách
thế linh động theo sáng kiến của Ngài, họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ nỗ lực
tìm kiếm.
Dưới cái tên gọi “lễ Ba Vua”, chính là một thiện chí tìm kiếm
đức tin. Nhưng cũng dưới tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin Mừng, người
ta lại còn thấy cả một đối chứng đau lòng. Trong khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng
hề biết đến lời hứa để mà hy vọng, chẳng hề có được giao ước để mà tin tưởng,
và cũng chẳng hề được dẫn đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành tìm kiếm và
sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân
Do Thái ở gần, dẫu có tất cả thuận lợi của một truyền thống dài lâu chờ mong
Đấng Cứu Thế, lại không mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về
chính việc Chúa đến, không phải vì hối hận về việc mình không sẵn sàng, mà vì
lo ngại rằng Chúa đến sẽ đặt dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã bao đời gầy
dựng. Không lạ gì nếu cơ chế ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như Hêrôđê!
Hóa ra, Ba Vua tìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi về đã thấy
mình là những kẻ tin; còn Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi mãi sẽ thấy mình
chỉ là một bạo chúa.
2) … Đến tên gọi “lễ Hiển Linh”…
Mặc dù tên gọi “lễ Ba Vua” vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng
ngày nay Phụng Vụ thích sử dụng tên gọi “lễ Hiển Linh” hơn, chẳng phải vì tên
gọi đó nghe kêu hơn hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu
hỏi không cần thiết về những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm
rà; mà thật ra là để làm nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa
trong Mùa Giáng Sinh. Đó là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi
thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.
Nếu “Ba Vua” là tên gọi nói lên thiện chí của con người, thì
“Hiển Linh” là danh xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa. Thiện chí thôi, dẫu
rất lớn, vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở
ra những mùa gặp gỡ. Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình,
lại là một khởi điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới
nhằm vươn lên những đỉnh cao mới. Và gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời. Vì
thiện chí luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện chí
biến đổi cuộc đời. Ba Vua gặp Chúa với cả tâm tình được thể hiện qua những lễ
vật tiến dâng, họ đã được soi sáng để theo đường khác mà về nhà. Và ở đó sẽ là những
cuộc Hiển Linh mới trong đời sống thường ngày.
Gặp ai thì cũng có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí con người một
khi đã gặp được Thiên Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì sẽ không thể
gỡ ra được nữa. Người ta thành người nhà của Thiên Chúa, và trong mắt nhìn của
Phaolô, người ta dẫu xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng nên quen, dẫu gốc gác thế nào
đi nữa “cũng cùng được thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành
một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (bài đọc thứ hai). Hiển Linh
chính là tên gọi khác của mầu nhiệm Nhập Thể, của danh xưng Emmanuel và của bốn
mùa gặp gỡ.
3) … Để dẫn tới sứ điệp đời sống.
“Lễ Ba Vua” hay “Lễ Hiển Linh”, mỗi tên gọi có những bước nhấn
riêng, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao
thuở đã mở ra cho những kẻ biết kiếm tìm. Thế nên đây không chỉ là một biến cố
của ngày đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ
tới. Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài
không.
Hôm qua đã có một nghịch lý là những kẻ đến gặp Chúa đều là
những kẻ thành tâm như các mục đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon tại Đền Thánh,
như những Đạo sĩ hôm nay từ xa đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo Do Thái lại
hầu như vắng bóng, hay nếu có thì chỉ như một lực cản đáng buồn. Thế đấy! điều
tưởng như thuận lợi lại là một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn điều tưởng
chừng như bất lợi lại trở nên lợi thế cho việc gặp Chúa. Liệu nghịch lý ấy hôm
nay còn có mặt trong đời sống đức tin của cộng đoàn cũng như của mỗi cá nhân?
Trả lời câu hỏi ấy với quyết tâm khởi hành trên con đường mới,
thiết tưởng sẽ là một điều tích cực trong Mùa Giáng Sinh. Nhưng điều tích cực
hơn của ngày lễ hôm nay không chỉ là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời mời gọi
mở rộng tấm lòng, mà trân trọng tất cả những người không cùng chia sẻ một niềm
tin với mình, bởi lẽ họ cũng có chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của Chúa. Ơn
cứu độ là phổ quát. Và nếu nét đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao dẫn đường,
thì trách nhiệm của những kẻ đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp
trong đời sống cá nhân tu thân tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với những
kẻ lân cận mình. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia
đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể
soi đường truyền giáo.
Nếu mỗi kẻ tin là ánh sao, con đường gặp gỡ biết bao sáng ngời,
và lời tiên báo của tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh cho đời.
Tóm lại, khởi đi từ cách hiểu về tên gọi của ngày lễ để dẫn tới
đời sống đức tin, đó là chủ đích của những điều chia sẻ trên đây. Nhưng từ hiểu
biết đến đức tin, khoảng cách vẫn không nhỏ. Chính Phúc Âm hôm nay là một kinh
nghiệm. Xin đừng để kinh nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý không thể vượt qua.
Nhưng hãy để kinh nghiệm ấy biến thành những kinh nguyện quyết tâm mở sang cuộc
sống mới. Và đó chính là cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
13. Gặp được Chúa Cứu Thế.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Hôm nay chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ Hiển Linh. Dựa vào Thánh
Kinh và Thánh Truyền kể lại việc tìm kiếm Chúa của Ba Vua từ Phương Đông miền
đất Palestina, theo sự hướng dẫn của một vì sao lạ. Các ngài đã khám phá ra dấu
lạ, rủ nhau lần mò dò dẫm tìm đến Bethlem, và cuối cùng sau cuộc lộ trình đường
xa nhiều gian khổ và nguy nan, các ngài đã gặp được Chúa Cứu Thế.
Như ngày lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh biểu lộ một niềm vui, đó là
những hình ảnh, những gói quà, lạc đà, Ba Vua, ngôi sao, nhưng còn vui hơn vì ý
nghĩa quan trọng chứa đựng trong ngày lễ này, đó là việc Chúa tỏ mình ra cho
các dân, các nước. Ngài là Vua các vua và mọi dân tộc khắp bờ cõi trái đất đều
phải tôn thờ Ngài.
Nơi bài đọc I, Giáo hội dùng bài ca trở về của dân Do Thái nơi
sách tiên tri Isaia để diễn tả niềm vui của người được cứu thoát khi vinh quang
của Chúa bừng dậy. Một số những người nô lệ ở Babylon thuộc dân Do Thái nghĩ
mình đang sống trong đêm tối, họ mất hết niềm vui, không còn hứng thú gì để đàn
ca xướng hát. Họ đặt những nhạc khí, họ treo những cây đàn nơi gốc cây, nơi
cành cây dọc bên bờ sông Babylon, và nơi bờ sông họ ngồi khóc nhớ Sion, nhớ về
Thành Thánh Jérusalem.
Nhưng vui mừng biết bao ngày cứu thoát đến, ngày trở về quê
hương, ngày được gặp lại Jérusalem, được lên đền thờ dâng lễ tạ ơn Chúa. Và
điều đặc biệt là ánh sáng bừng lên ở Jérusalem. Đây không phải là ánh sáng của
trần gian mà là ánh sáng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là ánh sáng và khi
Chúa là ánh sáng thì Ngài không phải chỉ là ánh sáng của Israel mà thôi nhưng
Ngài còn là ánh sáng của muôn dân, muôn nước. Từ đó những kho tàng bể khơi tuốn
đến Jérusalem, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới Jérusalem. Tất cả muôn người lũ
lượt từ các nơi tuôn đến Jérusalem. miệng cao rao những lời ngợi khen Thiên
Chúa.
Nếu bài đọc I trình bày một hình ảnh vui tươi của Jérusalem ngày
đại lễ, ngày muôn dân tiến đến trong huy hoàng rực rỡ sang trọng, thì nơi bài
đọc II thánh Phaolô đưa hình ảnh ấy lên hàng siêu nhiên. Nơi bài I sự giàu sang
phú quí từ các nơi được đưa về để tung hô Chúa, thì nơi bài đọc II đáp lại ân
sủng Chúa ban phát dư tràn cho mọi người qua các tông đồ, các tiên tri, nhờ
Chúa Thánh Thần thánh hóa. Nhờ lòng thương xót bao la ấy của Thiên Chúa, tất cả
dân tộc trên mặt đất đều trở nên người thừa tự, trở nên người cùng một thân thể
và thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Nhìn chung cả hai bài đọc đều diễn tả tình yêu thương hài hòa
giữa Thiên Chúa và con người với nhau. Con người một lòng một dạ nhìn nhận
Thiên Chúa là Vua. Chúa ban ơn cho con người, nhất là ơn được làm nghĩa tử
trong Đức Giêsu Kitô, không phân biệt ai cả.
Bài Phúc Âm diễn tả rõ ràng hơn, cụ thể hơn và sinh động hơn
trước mắt ta cuộc tìm kiếm Chúa, rồi được Chúa giúp đỡ ban ơn hướng dẫn. Con
người không ngại gian lao cực nhọc và cuối cùng gặp được Chúa. Con người quì
gối sụp lạy và dâng lễ vật cho Ngài. Xong trở nên con người mới, đi con đường
khác, trở nên với đời sống hằng ngày của mình.
Dựa vào đoạn Phúc Âm duy nhất của thánh Matthêu diễn tả cuộc
viếng thăm kỳ diệu này, người ta hay trưng bày vao hang đá trong ngày lễ Hiển
Linh ba vị vua. Thật ra, không có chỗ nào nói đó là các vị vua, cũng không có
chỗ nào cho biết con số của họ là bao nhiêu. Nhưng truyền thống gọi là ba, vì
dựa vào ba lễ vật thánh Matthêu kể ra: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Về tên của ba vua là: Kalbar, Manthior và Bankasa, nhưng đến thế
kỷ IX người ta mới đề cập đến. Thật ra, tất cả những chi tiết nhỏ này không có
nền tảng trong Kinh Thánh và ngôi sao lạ hiện vẫn còn là đối tượng của những
giải thích khác nhau. Dầu vậy những điểm chính đã dễ cho chúng ta suy niệm đó
là những con người đến từ những xứ xa xôi để tìm vị Vua Do Thái mới sinh ra và
khi gặp được Ngài, họ quì gối xuống sụp lạy Ngài.
Hình ảnh ấy cho chúng ta thấy mãi mãi bao lâu Phúc Âm còn rao
giảng đều luôn luôn có những đạo sĩ, đó là những người tìm kiếm Chúa bằng cách
này hay bằng cách khác. Và khi đã gặp được Chúa, thì thành tâm thực lòng thờ
lạy Chúa, nhìn nhận Người là Vua, là Chúa của mình, của đời sống mình, của gia
đình mình và cuối cùng là của toàn thể nhân loại.
Cùng với Ba Vua bên máng cỏ, chúng ta hãy tôn thờ uy quyền tối
cao của Hài Nhi Giêsu và xin cho chúng ta luôn nhạy cảm đối với những cảm hứng
khích lệ của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình.
Để có việc làm cụ thể, trong tuần này tôi hình dung ra những tác
động của Ba Vua trên con đường tìm Chúa. Đó là để tâm, để ý tìm hiểu sự kiện.
Dám chấp nhận dấn thân quyết chí tìm gặp cho được Chúa. Khi gặp được Người thì
phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật. Rồi sau cùng, từ bỏ con đường cũ, đi theo con
đường mới, con đường của tin yêu và hy vọng, con đường của sự sống bất diệt
trên thiên quốc.
14. Lễ Giáng Sinh của muôn dân.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề: “Còn một nhà đạo
sĩ khác nữa” (The Other Wise Man), kể về một nhà đạo sĩ thứ tư là người đáng lẽ
đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra ở Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên
là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban đã chọn ba viên ngọc quý nhất
trong kho tàng của ông để dâng tặng Hài Nhi Giêsu. Thế nhưng trên đường đến gặp
ba nhà đạo sĩ kia để cùng đi, gặp bất cứ ai xin, ông cũng đem ra tặng hết.
Người thứ nhất mà ông đã gặp được là một bà cụ già rét run vì lạnh. Động lòng
trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ già viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa,
ông gặp một toán lính toan làm nhục cô gái. Ông đành đem viên ngọc thứ hai ra
thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt
Bêlem, ông gặp một người lình do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong
một ngôi làng lân cận. Ông đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho
người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, nhà đạo sĩ thứ tư này chỉ còn lại hai
bàn tay trắng. Ông bối rối và kể lại cuộc hành trình của mình. Nghe xong câu
chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra nhận quà của ông. Nó không
phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử
đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp
đỡ. Chính nhờ những nghĩa cử này mà Thiên Chúa mới được tỏ mình ra cho mọi
người.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên
Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó,
mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh
sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi
người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả
một viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên
Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương
hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Nội dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả
một cách sống động qua câu chuyện về Ba Vua, đúng hơn là ba nhà đạo sĩ đi tìm
gặp Chúa Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là Ba Vua, do đó
Lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn
nhấn mạnh đến là: các đạo sĩ, có thể là các nhà bác học hay thiên văn học, đã
từ Phương Đông mà tới (Phương Đông vẫn thường được coi là phương trời của những
dân ngoại), họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do
Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng
này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đối với Dân riêng của
Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại độ của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng
trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai
vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui
mừng khi hay tin “Vua người Do Thái mới sinh”, Đấng họ trông chờ như Vị Cứu
Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ.
Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay
đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết
rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng,
chỉ có những người bị liệt vào hàng “dân ngoại” lại hăm hở đến với “Vua người
Do Thái”, cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.
Thưa anh chị em,
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua
bài Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên
Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con
duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính
con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập
thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ
khước Thiên Chúa.
Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức
Kitô, nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, hãy tự vấn rằng bản thân
chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định chúng ta chỉ biết Ngài với
một mức độ thật giới hạn. Xét về việc giảng giải bằng lời nói, chúng ta có thể
bập bẹ đưa ra một số chi tiết về con người của Đức Kitô, về giáo thuyết, về
thân thế và sự nghiệp của Đức Kitô; những điều mà người thiện chí không thể
không nhìn thấy. Còn nếu chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ
ai, như Thánh Phaolô đã nói: “Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi
đã sống noi gương Đức Kitô”, thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói.
Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói
cách khác, bản thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói:
Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi
người. Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử
chỉ tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế,
chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ
ràng như vậy.
Thật vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng
liêng; họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ
không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?” hoặc:
“Đức Giêsu là ai vậy?. Vậy thì, hỡi các Kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi: “Đức
Kitô là ai?”. Nhưng xin đừng mở cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái.
Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là
một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác
đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã
vạch, đó là con đường yêu thương. Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm
tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong
nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của
xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là
quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ
khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
May mắn là vào thời đại chúng ta, có Mẹ Têrêsa Calcutta. Qua
chính cuộc sống đầy hy sinh vì mọi người, Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy
Thiên Chúa. Thật kỳ diệu: ngay Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ Têrêsa đến thăm và
cho phép lập Dòng các chị em Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập sinh, đang
khi các Dòng khác đã có mặt từ lâu, vẫn chưa được phép này. Tại sao? Cuộc đời
hy sinh của Mẹ Têrêsa, từ khi là nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo hiểm, mạo
hiểm trong khiêm tốn nhưng lòng đầy tình yêu Thiên Chúa và con người. Sống
trong tập thể tu viện với đầy đủ tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái nhà
giàu, được bảo đảm hơn là cô đơn giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian dài,
nữ tu Têrêsa là con người lang thang trên các nẻo đường ở Calcutta, vì Têrêsa
thấy rõ Chúa Giêsu đang sống trong những người nghèo bên các vỉa hè của những
người dư giả, giả vờ quên rằng có Lazarô đang nằm chết đói ngoài cửa nhà mình,
đang chờ một phần ăn rất nhỏ, vất đi từ một bàn tiệc linh đình sang trọng. Tình
yêu, yêu Thiên Chúa, yêu Chúa trong mọi người, đã biến đổi sự yếu hèn của nữ tu
Têrêsa nên sức mạnh vô địch. Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ Têrêsa phải nới
rộng, nới rộng đến nhiều quốc gia trên thế giới, cả đến nước Liên Xô. Đoàn Thừa
Sai Bác Ái chưa đầy 40 năm đã chóng lớn như phép lạ, và Mẹ Têrêsa được trao
tặng cả vinh dự lớn nhất của người đời: “giải thưởng Nobel Hoà Bình”. Mẹ Têrêsa
đã làm cho mọi người thấy thế nào là Thiên Chúa.
Thiên Chúa của những năm cuối thế kỷ 20 là như thế đó. Thiên
Chúa trong viễn tưởng năm 2000 phải như thế đó. Thiên Chúa của những cá nhân
ích kỷ, của những tập thể ích kỷ, Thiên Chúa của người “tôi” ích kỷ đã chết, và
phải chết đi với cái người “tôi” ích kỷ. Như thế sẽ chiếu tỏ một Thiên Chúa,
thực sự là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con Một cho nhân loại phản bội. Thiên
Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.
May mắn là trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, trong
những giờ này, có những mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ,
nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Những con
người Kitô hữu đó được công khai bầu lên là người mẫu của tình yêu vị tha,
những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.
Có những người, giờ này, đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm
thăm những bệnh nhân bại liệt tại giường, không gia đình thăm viếng, chăm sóc;
anh chị em đó đã đến, hỏi thăm sức khoẻ, chạy dùm một số việc, giặt giũ, vệ
sinh cá nhân… Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa
với những việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho đồng bào
được thấy Thiên Chúa, và ước gì những chứng nhân ấy lại là chính chúng ta. Ước
gì được như vậy!
15. Gặp Chúa – Lm Tạ Duy Tuyền.
Một cậu bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp bằng được Thiên Chúa. Cậu
biết rằng chuyến đi sẽ dài và vất vả lắm nên xếp vào túi xách bánh và thức
uống.
Khi đã đi qua ba dãy phố, cậu bé gặp một bà lão. Bà ngồi trong
công viên, đôi mắt dừng lại ở những chú chim bồ câu. Cậu bé đến ngồi cạnh bà và
mở túi xách của mình. Hình như bà lão đang đói, cậu bé nhận ra điều này và mời
bà một chiếc bánh. Bà lão cười với cậu. Nụ cười dịu dàng đến nỗi cậu bé muốn
nhìn thấy nó hiện ra một lần nữa. Cậu lại mời bà thức uống. Nụ cười lại hiện ra
trên khuôn mặt phúc hậu của bà làm cậu cảm nhận được sự ấm áp. Họ ngồi suốt
buổi chiều ăn uống và không nói một lời.
Mãi đến khi trời sụp tối cậu bé mới rời chổ. Rồi bất ngờ cậu
quay lại, chạy đến chỗ bà lão và ôm lấy bà từ biệt. Món quà mà bà lão đã tặng
cho cậu là nụ cười đẹp và rộng mở nhất của mình.
Khi cậu bé mở cửa vào nhà, người mẹ vô cùng ngạc nhiên vì nét
rạng rỡ còn ngập tràn trong ánh mắt cậu: - Điều gì hôm nay đã làm con hạnh phúc
vậy?
Cậu bé đáp:
- Con đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt
đẹp trên đời!.
Trong khi đó bà lão cũng bừng tỉnh với niềm vui và trở về nhà.
Đứa con trai nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ và hỏi:
- Điều gì hôm nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão đáp:
- Mẹ đã ăn bánh cùng với Chúa bên cạnh những chú chim bồ câu.
Con biết không, Chúa trẻ trung hơn chúng ta ngỡ rất nhiều.
Khi làm người, Con Thiên Chúa đã sinh ra trong thân phận người
nghèo. Ngài đã chọn chốn hang bò lừa làm nơi để sinh. Ngài đã chọn gia đình
nghèo làm gia đình của mình. Ngài đã hoà mình như bao người lao động nghèo làng
quê Nagiaret. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ không có nơi gối đầu.
Ngài còn tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài còn hứa
ban hạnh phúc Nước Trời cho những ai đón nhận Ngài qua những người đói, rách,
tù đầy...
Cậu bé trong câu chuyện đã tìm gặp Chúa nơi bà lão nghèo ngoài
công viên. Và bà lão cũng tìm gặp được Chúa qua tình yêu của cậu bé dành cho
bà. Có thể nói tình yêu đã nối kết họ nên một trong tình yêu Chúa. Tình yêu đã
giúp họ nhận ra Chúa nơi người mình đang tiếp xúc. Ước mơ của cậu bé là mong
được nhìn thấy Chúa đã thành hiện thực khi cậu trao ban miếng bánh thơm ngon
cho bà lão. Cậu cũng đâu ngờ rằng tình yêu của cậu làm cho bà lão nhận ra Chúa
đang hiện diện nơi tấm lòng nhân ái của cậu.
Năm xưa, ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp Chúa không phải nơi cung điện
nguy nga, nhưng lại là nơi đồng hoang mông quạnh. Họ đã gặp vị quân vương vừa
mới hạ sinh nơi máng cỏ hôi tanh của đám bò lừa. Họ đã bái quỳ trước một hài
nhi bé nhỏ con của một gia đình nghèo khó. Họ đã dâng cho hài nhi những lễ vật
quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho quyền bính của vị quân
vương.
Hôm nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là
hình ảnh của Chúa. Chúa còn hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó,
những người già neo đơn, những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt vọng.
Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân phục vụ tha
nhân một cách quảng đại. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi
anh em đang sống bên cạnh chúng ta. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy dâng tặng cho
Chúa món quà quý hoá nhất chính là tấm lòng biết yêu thương.
Ước gì mỗi người chúng ta biết dâng tặng cho Chúa món quà của
yêu thương để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
16. Đi tìm Chúa hôm nay – Lm. Damien
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Bài Tin Mừng hôm nay cho
thấy: Đấng Messia không còn là của riêng người Do thái nữa, nhưng Ngài tỏ mình
ra cho mọi dân tộc.
Ngôi sao dẫn đường.
Do thái thuộc đông phương; và theo văn hóa và khoa chiêm tinh
của người đông phương thì mỗi vị vua sinh ra đêù có một ngôi sao chiếu mệnh. Ba
nhà đạo sĩ có lẽ là những nhà chiêm tinh học, nên đã nhận ra ngôi sao chiếu
mệnh của vua người Do thái mới sinh ra.
Ngôi sao chiếu mệnh nầy không như những ngôi sao chiếu mệnh của
các vị vua khác, vì nó còn là ngôi sao đi trước ba nhà đạo sĩ, dẫn đường cho họ
đến với Chúa. Thiên Chúa đã dùng các thiên thần để báo cho các mục đồng biết
Chúa đã đến trong thế gian. Nay Thiên Chúa dùng một tinh thể làm dấu chỉ cho sự
hiện diện của Chúa Giêsu và dẫn ba nhà đạo sĩ đến với Chúa. Xưa trong sa mạc,
Thiên Chúa cũng đã dùng cột mây và cột lửa để nói với dân về sự hiện diện của
người giữa dân. Thiên Chúa có thể dùng thiên thần, con người(các mục đồng) hay
một vật(ngôi sao) để làm dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa.
Ngày nay, ai là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa?
Ngôi sao đó trước hết la Giáo Hội(“chúng con là ánh sáng thế gian”), là một vị
thánh, là một linh mục, là một kitô hữu gương mẫu…Và ngôi sao soi sáng và dẫn
đường cách đặc biệt là Phúc Âm.
Với lời dạy của Chúa Giêsu: “Chúng con là ánh sáng thế gian…
ngọn đèn phải để trên đế, để soi sáng cho mọi người trong nhà”, mỗi người kitô
hữu phải là một ngọn đèn, nghĩa là một ngôi sao dẫn đường cho kẻ khác. Cha mẹ
là ngôi sao dẫn đường cho con cái, những người có trách nhiệm phải là ngôi sao
dẫn đường cho những người mình chịu trách nhiệm; linh mục tu sĩ phải là ngôi
sao dẫn đường cho dân Chúa; và mỗi người kitô hữu phải là ngôi sao dẫn đường
cho những ai chưa biết Chúa.
Tính phổ quát của vì Vua mới.
Sự hiện diện của các mục đồng, của ngôi sao và của ba nhà đạo sĩ
nói lên rằng: Đấng Messia mới sinh ra không còn là của riêng của những kẻ tử
tế, Biệt Phái và Kinh sư nữa, nhưng trước hết Ngài là của những kẻ thấp hèn tội
lỗi hay bị khinh chê, như các mục đồng, vì họ là những người đầu tiên được vinh
dự đến với Chúa. Ngài không còn là của riêng của dân Do thái mà thôi, nhưng còn
là vua của những kẻ ngoại giáo, xa xôi mà ba nhà đạo sĩ là ba đại diện; sự hiện
diện của ngôi sao cũng nói lên rằng, Ngài còn là vua của cả vũ trụ nữa. Ngôi
sao cũng phải phục vụ Chúa.
Vua Herôđê bối rối
“Nghe nói thế,vua Herôđê bối rối, và tất cả Giêru- salem cùng
với nhà vua”: Chúa sinh ra, các thiên thần ca hát, các mục đồng vui mừng, ba
nhà đạo sĩ từ phương đông xa xôi đến thờ lạy, còn vua Herôđê và cả Giêrusalem
thì bối rối. Hêrôđê bối rối lo lắng vì sợ mất ngôi vua của mình. Các giáo
trưởng và luật sĩ bối rối vì vị vua nầy đến mà không thông báo gì cho họ lại tỏ
mình ra cho dân ngoại. Họ thấy chỗ đứng của mình bị lung lay. Thế là họ tìm
cách tiêu diệt Ngài.
Họ không hiểu rằng vị vua nầy đâu có thèm gì ngôi báu một khi đã
chấp nhận sinh ra trong chuồng bò. Họ không hiểu rằng vị vua nầy, đâu phải để
cai trị nhưng để cứu vớt.
Ngày nay cũng thế, người kitô hữu phải hiểu rằng Thiên Chúa
không phải là của riêng người công giáo mà là Thiên Chuá của mọi người, và Giáo
Hội không chỉ là của riêng người có đạo mà là Giáo Hội của mọi dân tộc, của kẻ
lành cũng như người bất lương. Vì Con Thiên Chúa đến để cứu vớt chứ không phải
để lên án hay cai trị. Chúa sinh ra trong ngheo khó và sau nầy bị khinh chê và
bắt bớ. Nên phải bỏ đi cái mơ ước hảo huyền một Giáo Hội giàu sang và quyền thế
trước mặt người đời. Phải bỏ đi cái quan niệm một thứ đạo phô trương. Đừng lặp
lại cái lỗi lầm của người Do thái, mơ ước một vị vua quyền thế và cao sang. Nếu
không thì Chúa sẽ làm cho chúng ta thất vọng vì ngài không hề đáp ứng những mơ
ước hảo huyền của ta. Và rồi chúng ta cũng sẽ bối rối như Herôđê, các Biệt Phái
và kinh sư xưa trước sự hiện diện khiêm tốn của Chúa.
Đi tìm Chúa hôm nay.
Chúng ta đã thấy, một những ngôi sao dẫn đường cho chúng ta hôm
nay đến với Chúa là Lời Chúa.Chính nhờ đọc và suy gẫm Lời Chúa mà chúng ta nhận
ra Chúa trong cuộc sống. Phúc Âm sẽ vẽ lên cho chúng ta gương mặt đích thực của
Chúa Kitô chứ không phải khuôn mặt theo những mơ ước trần tục của chúng ta.
Phúc Am sẽ là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa Giêsu.
Vị vua thứ tư.
Chuyện kể rằng, khi Ba vua Gaspar, Melchior, Balthazar và đoàn
tùy tùng vừa đi khỏi làng Bêlem, thì vị vua thứ tư hớt ha hớt hải chạy đến. Ông
cũng đã thấy ngôi sao, ông dắt vào lưng ba viên ngọc quí, gia sản quí nhất của
ông và vội vã lên đường cho kịp Nhưng ông đến trễ, ba vua kia đã về mất
rồi!…Ông đến trễ và nhất là đến với hai bàn tay không… ông không còn các viên
ngọc quí nào nữa…
Ông từ từ nhẹ tay mở cửa chuồng bò, nơi có Con Thiên Chúa, Mẹ
người và người cha nuôi của Người. Trời tối, Giuse đang trở mớ rơm để qua đêm,
bé Giêsu nằm trên tay Mẹ.
Rón rén, vị vua thứ tư tiến lại gần, phục mình dưới chân bé
Giêsu và Mẹ Người và bắt đầu nói qua giòng nước mắt:
- Lạy Chúa, con đến để dâng lên ngài lễ vật như ba vị vừa rồi,
dâng cho Chúa ba viên ngọc to như trứng bồ câu, ba viên ngọc thứ thiệt. Nhưng
giờ đây không còn nữa…Con thấy ba vị kia đi trước con trên lưng lạc đà, con
định tiến lên đi với họ. Nhưng rồi rượu ngọn, tiếng chim họa mi hót làm con say
mê. Đêm đó con ở lại trong một quán trọ. Khi con bước vào, con thấy một cụ già
lên cơn sốt rét, nằm co quắp bên lò sưởi. Không ai biết ông ta là ai. Túi tiền
ông rổng tuếch. Ông không có tiền trả tiền thuốc và những thứ cần thiết. Ngày
mai, ông sẽ bị đuổi ra ngoài. Lạy Chúa, đó là một cụ già, rất già, nước da sậm
và có bộ râu trắng. Ông làm con nhớ đến cha con. Lạy Chúa, xin tha cho con, con
lấy một viên ngọc trong túi và đưa cho chủ quán để ông lo tìm thầy chạy thuốc
và nếu ông ấy chết, thì có một cỗ quan tài che xác ông.
Ngày hôm sau, con ra đi, dục con lừa của con chạy cho kịp ba vị
kia vì lạc đà họ đi chậm. Con đường con đi qua vắng vẻ, có nhiều bụi rậm. Bổng
con nghe tiếng kêu cứu từ một bụi rậm. Con nhảy xuống lừa và thấy mấy chú lính
đang bắt nạt một thiếu phụ trẻ. Họ đông quá, con thấy mình không đủ sức đọ lại
với họ. Hơn nữa con đã già rồi. Lạy Chúa, xin tha cho con lần nầy nữa. Con đưa
tay vào túi lấy một viên ngọc thứ hai và chuộc lại người thiếu phụ. Cô ta hôn
tay con rồi chạy như bay vào miền núi như một con sóc.
Giờ đây chỉ còn lại có một viên nữa thôi, nhưng con nghĩ, có còn
hơn không. Lúc đó đã quá trưa, và con nghĩ mình có thể đến Bêlem trước lúc trời
tối. Nhưng kìa lính Hêrôđê đang hung hăng đốt cháy một làng gần Bêlem. Con chạy
tới và và hỏi thăm thì con biết lính tráng đang thi hành lênh của vua: giết tất
cả các con trẻ từ hai tuổi trở xuống. Ngoài một căn nhà đốt cháy, một tên lính
to khỏe, đang nắm trong tay một em bé trần truồng, đưa đi đưa lại. Đứa bé hết
sức dãy dụa và khóc thét lên vì sợ. Người mẹ thì đang quì lạy và khóc ngất. Anh
lính nói với mẹ nó ”Bây giờ tao sẽ cho nó vào lửa và nó sẽ cháy như một con heo
sữa quay!” Mẹ nó la lên thảm thiết…
Lạy Chúa, xin tha cho con! Không chịu nổi, con lấy viên ngọc
cuối cùng trao cho tên lính để nó trao em bé cho mẹ nó. Mẹ nó ôm chặt lấy con,
áp cứng vào lòng, không một tiếng cám ơn, chạy trốn như một con chó tìm được
miếng xương. Lạy Chúa thế là con đến đây với hai bàn tay không. Xin Chúa tha
cho con, xin tha cho con…
Nói xong ông sấp mặt sát đất hồi lâu. Thinh lặng bao trùm chuồng
bò. Rồi ông ngước đầu lên, thấy Giuse đã trở rơm xong, Chuá vẫn nằm trong tay
Đức Mẹ. Từ từ, Chúa quay về phía ông, gương mặt Ngài rạng rỡ. Chúa chìa đôi tay
tí hon cho đôi tay trống không của vị vua thứ tư, bé Giêsu và Mẹ đều mỉm cười…
17. Hành trình đức tin
Truyện kể trong một khu rừng kia có con cáo mù bị lạc đường.
Đamg lúc lo âu sốt ruột, đột nhiên nghe tiếng bước xa xa đến gần, con cáo vội vàng
hỏi trong vui sướng: - Chào anh bạn, xin hỏi đường về nhà tôi đi bằng cách nào?
- Anh không thấy đường sao?
- Thấy thì còn hỏi anh làm gì
Đối phương lần chần một chút rồi trả lời: - Được rồi, anh đi với
tôi.
Con cáo đi sau lưng anh bạn ấy, bảo sao nghe vậy. Đi không bao
lâu, hai đứa tập tễnh tiến vào ngõ cụt, đi mãi mà không ra khỏi đó, cuối cùng
con cáo chịu không nổi phải thốt lên: - Anh dẫn đường nhưng rốt cuộc anh dẫn
như thế nào đấy chứ?
Hồi lâu, chỉ nghe đối phương biết lỗi nói: Xin lỗi bởi vì tôi
cũng mù như anh vậy
(Hàn Lâm Tử)
Câu chuyện trên cho ta thấy con cáo mù rất muốn tìm đường về
nhà, chắc chắn là nó rất lo lắng bối rối và sợ lắm. Khi gặp được người bạn dẫn
đường thì cáo mừng lắm, nhưng cuối cùng thì cả hai đều bị đi vào ngõ cụt vì
không có ai thấy ánh sáng thấy đường để mà đi. Trong cuốc sống rất có thể chúng
ta đang là một con cáo mù, vì không biết mở mắt ra để đón lấy ánh sáng. Chúng
ta không khác gì dân thành Giêrusalem xưa, trong cùng một cảnh ngộ mà các nhà
đạo sĩ từ phương xa lại nhìn thấy ánh sáng để đi tìm Đấng Cứu Thế. Còn họ thì
lo mãi mê yêu đời, sống cuộc sống hưởng thụ, vui chơi với tất cả tiện nghi, một
cuộc sống không thiếu thốn sự gì. Ngày nay với nên khoa học tiên tiến, đưa con
người đến ánh sáng hiện đại nhưng lại đẩy họ vào ánh sáng tội lỗi; biết những
nơi ăn chơi thác loạn mà không bao giờ tìm tới nhà thờ, ham thích nhảy múa ca
hát mà không bao giờ biết dùng lời kinh cầu nguyện dâng lên Chúa. Các đại gia
dám bỏ ra hàng triệu dollar để ăn chơi trác táng, mà không dám bỏ ra 500 đồng
để làm việc bác ái... rất nhiều, còn rất nhiều việc làm của chúng ta đang ở
trong bóng tối, ngôi sao sáng của Chúa vẫn đang sẵn sàng chiếu tỏa ánh sáng,
chỉ cần chúng ta đừng vô tình, đừng dửng dưng nữa mà hãy quyết tâm bằng cả
thiện chí đứng lên và bước ra khỏi đời sống tầm thường đó, cùng đi với các đạo
sĩ theo ánh sao lạ dẫn đường tìm Đấng Cứu Thế.
Con cáo mù không về nhà được vì người bạn dẫn đường cũng bị mù.
Nhiệm vụ truyền giáo là công việc của tất cả những người Kitô hữu, đó là dẫn
mọi người "bị mù" tìm gặp ánh sáng Chúa Kitô. Con đường truyền giáo
hoàn toàn không dễ như ta tưởng, nếu không khéo ta cũng giống như người bạn của
con cáo mù, không những đưa bạn về không được mà cả mình cũng không thể về.
Điều cần thiết là mỗi người chúng ta phải là ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và trong tâm hồn những người thiện chí vì như Chúa Giêsu đã nói: "Các con
là ánh sáng trần gian" (Mt 5, 14). Khi nghe câu nói đó, tôi nhận ra ngay
một điều là Thiên Chúa muốn gởi đến cho chúng ta một thông điệp truyền giáo và
ngay lúc này chúng ta phải là muối là ánh sáng.
Ánh sáng Tin Mừng đã được rao giảng hơn 2000 năm, nhưng cánh
đồng truyền giáo vẫn còn bao la bát ngát. Đặc biệt là trong cánh đồng truyền
giáo ở Việt Nam, còn rất nhiều người đang mò mẫm tìm đường đi. Do đó, chúng ta
phải là ngôi sao dẫn đường cho anh chị em lương dân, ở giữa họ với một con tim
cởi mở và yêu thương. Nhất là qua đời sống hàng ngày họ sẽ tìm gặp được Hài Nhi
trong hành động của chúng ta.
Chúng ta cũng rất dễ rơi vào thái độ dửng dưng với lời kêu gọi
của Giáo hội, cứ nghĩ nếu ta không làm thì vẫn còn người khác làm. Nếu ai cũng
nghĩ như ta thì làm gì có các nhà truyền giáo, làm gì có hạt giống Tin Mừng nào
được gieo ở Việt Nam và chúng ta vẫn là con cáo mù vẫn chưa tìm được đường về nhà.
Nhưng ngược lại, nếu tất cả các tín hữu Việt Nam nghe theo lời mời gọi truyền
giáo, và mau mắn đáp trả thì Hội Thánh Chúa đã có những bước tiến rất xa. Vậy
ta hãy ý thức mình vẫn là một hạt cát quan trọng trong sa mạc truyền giáo của
Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con trở thành một ánh sao soi đường, dẫn lối
cho những người xung quanh trên bước đường tìm gặp Chúa.
18. Lễ Hiển Linh.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Khi ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời Bêlem, là lúc tình trạng
dân Israel như thầy tư tế già Dacaria phát biểu “ngồi trong nơi tối tăm và
trong bóng tử thần” (Lc 1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là
dân ngoại. Thánh Phaolô phác hoạ tình trạng thuộc linh của dân ngoại: “Thuở ấy
anh em không có Đức Kitô, không được hưởng đặc quyền của Israel, xa lạ với các
Giao Ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên
Chúa ở trần gian này” (Ep 2,12). Tóm lại, lúc Đấng Kitô giáng thế là lúc thế
gian suy đồi cùng cực, đang đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao
xuất hiện ở Đông Phuơng đem theo lời hứa vĩ đại Tin Mừng.
1. Ngôi sao của hy vọng.
Trong quan niệm của người Đông Phương, sự xuất hiện của một vì
sao trên trời có quan hệ tới một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương,
người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông Phương đều
tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn học chiêm tinh với các khoa tử vi.
Lịch sử Trung quốc ghi lại truyện hoàng đế Quang Vũ đời Đông Hán rất kính trọng
ông Nghiêm Tử Lăng, sai sứ đi nhiều lần mới mời được ông vào triều, nhà vua
tiếp đón ông rất mực kính trọng và thân thiết, giữ ông lại trong cung đến đêm
và nằm chung một giường. Nửa đêm, Tử Lăng gác một chân lên bụng nhà vua, nhà
vua không nỡ làm ông thức giấc, cứ để yên cho ông làm như vậy. Sáng hôm sau
liền có quan thái sử tâu lên vua rằng hồi hôm xem điềm trời, thấy sao của khách
xâm phạm sao nhà vua rất gấp, xin hoàng thượng nên để ý. Vua Quang Vũ cả cười
nói rằng: “Ta biết rồi, việc này xảy ra chỉ vì ta và Tử Lăng cùng nằm chung một
giường, và chân của Tử Lăng gác lên bụng ta mà thôi, các khanh chớ lo!”. Đối
với các nhà bác học Đông Phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực
hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu các tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi
sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời
tiên tri của Kinh Thánh: “Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi
dậy từ Israel” (Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết
thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy
“vì sao xuất hiện từ Gia cóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình trong một thế
giới u minh.
2. Ngôi sao thần bí
Khi nghe được tin này Hêrôđê hết hồn, với tầm óc hiểm độc và quỷ
quyệt nhà vua coi đây là một điều rất dữ. Sự xuất hiện của ngôi sao cũng như sự
xuất hiện những chữ viết trên bức tường của cung điện vua Benxatxa ngày xưa, dự
báo sự diệt vong của nhà vua. Điều đó có nghĩa là sẽ có một vua Giuđa thay cho
mình ngồi trên ngai vàng. Do đó nhà vua phải sử dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để
diệt trừ hậu hoạ khi còn trong trứng nước. Nhưng mưu độc của loài người làm sao
phá hỏng được kế hoạch của Thiên Chúa. Con Trẻ mà Hêrôđê tìm giết lại là Con
Trẻ thoát khỏi tai hoạ.
Một điều lạ kỳ ấy là ngôi sao một đàng là hy vọng, là niềm vui
lớn cho mọi người thiện tâm, lại nên điềm dữ báo nguy cho hạng người tàn ác. Ý
nghĩa cao đẹp của nó được những tấm lòng ích kỷ tham lam nhận ra. Sự xuất hiện
của ngôi sao báo hiệu ngày tàn của họ đã tới!
3. Ngôi sao dẫn đường.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem đã dẫn các đạo sĩ Đông Phương trải
qua cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông tới nơi Con Trẻ
mà các ông muốn kiếm tìm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước
nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ
thấy Con Trẻ cũng là vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho
tất cả những ai cần tìm chân lý, muốn được cứu rỗi linh hồn, và mong nhận được
lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa.
4. Ngôi sao của vui mừng.
“Khi thấy ngôi sao dừng lại chỗ Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui
mừng”. Vì đối tượng mà họ khổ công tìm kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát
chân lý với nếp sống quang minh chính trực nay đã được hoàn toàn thoả mãn. Niềm
vui của họ là điềm báo ân phúc lớn lao sau này Chúa dành cho các môn đệ: “Thầy
nói điều đó với anh em để niềm vui của Thầy ở cùng anh em và niềm vui của anh
em nên trọn vẹn ” (Ga 15,11).
Trong những năm sau khi Chúa Giêsu giáng thế, sự vui mừng mà các
hiền sĩ Đông Phương đã được hưởng, thì bao nhiêu người khác cũng được huởng nhờ
ngôi sao chỉ đường dẫn lối. Lòng khao khát chân lý của họ cũng được đền đáp vì
họ nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa dành cho mọi người thiện
tâm.
Và nếu ngôi sao trên bầu trời Bêlem này như ngọn đuốc soi đường
dẫn các hiền sĩ tới mục tiêu, thì cái thế giới mà chúng ta đang sống đây mới
tìm ra được ý nghĩa mới, vui mừng và hy vọng mới thay vì tuyệt vọng và sầu thảm
của những ngày cũ.
(Trích trong “Niềm vui chia sẻ”)
Một linh mục thừa sai Pháp tên là Henri, đi truyền giáo ở Gabon,
Phi Châu. Nhân dịp lễ Giáng sinh, cha Henri về nghỉ ở nhà người chị ruột thuộc
gia đình Delvart. Ngài đem theo một đứa bé da đen mồ côi được ngài nuôi từ nhỏ
và rửa tội với tên thánh là Giacôbê. Trong gia đình chị của ngài cũng có đứa
con trai tên là Giacôbê, đồng trang lứa với cậu bé Giacôbê da đen. Hai đứa trẻ
quen nhau dễ dàng và người lớn chỉ còn phân biệt chúng qua hai màu da: Giacôbê
đen và Giacôbê trắng. Đứng bên hang đá, Giacôbê trắng cố gắng giải thích cho
bạn Giacôbê đen của mình hiểu được vẻ đẹp của mầu nhiệm Giáng sinh, từ Bêlem
cho đến chuồng bò, máng cỏ chiên lừa, đến cả giấc mộng của Thánh Giuse, rồi kết
thúc với hình ảnh Mẹ Maria, Mẹ của hết mọi người.
Giacôbê đen nghe Giacôbê trắng một cách chăm chỉ. Nhưng cậu bé
da màu sầm mặt xuống, thoáng lộ vẻ buồn. Cậu hỏi như than thở với bạn:
- Bạn trắng ơi! Bạn thật may mắn.
- Sao vậy?
- Bạn có Chúa Giêsu da trắng, có một người mẹ ở nhà đây rồi lại
có thêm một người mẹ ở trên Thiên đàng nữa.
- Nhưng ăn thua gì, bạn trắng đáp lại. Chúa Giêsu là Chúa của
hết mọi người và Mẹ Maria cũng là Mẹ của hết mọi người kia mà. Nhất là Mẹ của
những đứa con thơ ấu côi cút như bạn.
Nhưng Giacôbê đen không yên tâm. Cậu bé vừa đưa tay chỉ tượng
Đức Mẹ vừa buồn rầu nói: Đức Mẹ trắng tinh, còn mình thì đen thui!
- Bạn trắng nói: Có hề gì, Đức Mẹ đâu có căn cứ vào màu da.
- Chứ còn gì nữa, bạn đen cãi lại. Người mẹ trắng thì làm sao có
đứa con đen.
Thế rồi sáng ngày 24 tháng 12 người ta thấy Giacôbê trắng một
mình từ dưới kho đi lên, tay cầm một cái lon nhỏ và một cây cọ, tiến về phía
nhà thờ. Cậu bước ngay tới máng cỏ, tại đây với lon sơn đen, cậu biến tượng Chúa
Hài Đồng da trắng thành một Chúa Hài Đồng da đen, y như màu da của bạn Giacôbê
đen vậy.
Giáng Sinh năm ấy, cả họ đạo vừa ngạc nhiên thích thú, vừa vui
vẻ sốt sắng đón mừng Chúa Giáng Sinh có sắc da màu. Còn Giacôbê đen không ngớt
nở nụ cười để lộ hai hàm răng trắng toát. Em sung sướng nghĩ rằng: với Chúa Hài
Đồng da màu, em cũng có được một bà mẹ da màu trên Thiên đàng.
Một câu chuyện giữa hai trẻ nhỏ nhưng lại mang một ý nghĩa cho
người lớn chúng ta trong ngày lễ Hiển Linh hôm nay: Chúa Giêsu giáng trần
không riêng cho một ai, một dân tộc nào, nhưng là cho hết mọi người, mọi dân
tộc: da trắng, da đen, da đỏ, da vàng. Ngay trong ba đạo sĩ tìm đến hang đá
Bêlem người ta cũng thấy có một vị da màu. Có thể nói, lễ Hiển Linh là Lễ
Thiên Chúa đến với mọi người. Với biến cố Thiên Chúa Giáng Sinh làm người
trong hang đá Bêlem, Thiên Chúa như phá đổ mọi hàng rào ngăn cách mà con người
đã xây dựng nên: hàng rào kỳ thị, kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai cấp…
Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa làm bừng sáng lên
mầu nhiệm này. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho người ta đến với Chúa.
Thời đại chúng ta, Chúa không dùng lời ca của các thiên thần
hoặc ánh sao của ngôi sao lạ để giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới. Chính mỗi
người chúng ta được mời gọi đóng vai “nhà đạo sĩ” để chiêm ngắm khuôn
mặt Chúa Giêsu rồi loan truyền về Ngài cho anh em khác. Phương thức tốt nhất để
làm điều đó là nói và hành động như Đức Giêsu. Cha mẹ là “nhà đạo sĩ”
thích hợp nhất để trình bày khuôn mặt Chúa Giêsu cho con cái mình. Các thầy, cô
giáo là những người cộng tác với “các nhà đạo sĩ”. Các nhà truyền giáo:
giáo dân, tu sĩ, linh mục, là những “nhà đạo sĩ” đi đây đó để giới thiệu
Chúa Giêsu cho những người khác.
Mới đây, cuộc triển lãm mỹ thuật với chủ đề: “Đức Giêsu Kitô
trong hội họa” tại Tòa Giám Mục thành phố Hồ Chí Minh từ đầu Mùa Vọng vừa
bế mạc, quả là một cuộc giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Đã có hàng vạn
lượt người đến xem, kể cả người ngoài Công Giáo và các tôn giáo bạn, đặc biệt
là các bạn trẻ. Nhiều bạn đã ghi lại những dòng cảm tưởng chất chứa nhiều cảm
xúc, chẳng hạn: “Tôi là một con chiên lạc của Chúa. Trong chiều nay sau một
cơn mưa, tôi đã được tĩnh lặng để ngắm nhìn những tác phẩm hội họa về Đức Giêsu
với những cảm xúc lắng đọng nhất. Tôi yêu con người Giêsu và Đức Chúa Giêsu”
(Tường Tường, 5.12.96, trang 45). Một bạn sinh viên khác đã viết: “Con không
biết gọi Người là gì, không biết Người là ai vì con không phải là đạo Thiên
Chúa. Nhưng hôm nay con tin là có Người, có Người từng hiện hữu trong thế giới
này, và có Người trong tâm hồn con ngày hôm nay và mãi về sau. Con xin cám ơn
tất cả những điều con được biết ngày hôm nay, cám ơn tất cả, con cám ơn Người
cho con lòng tin”. (Hồ Thị Phương Nga, SV năm 3 ĐH. kiến trúc TPHCM. 10.12.96 trang
87) v.v… Cuộc triển lãm đã đem lại nhiều kết quả thầm kín bất ngờ.
Một khi khám phá ra gương mặt đích thực của Đức Giêsu, chúng ta
hãy đem Chúa ra giới thiệu cho mọi người. Còn có biết bao người đang sống trong
tăm tối thiêng liêng, họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát
chân lý. Họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua dân Do Thái sinh
ra ở đâu?” Cũng chính là câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?” vậy thì, hỡi
các kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi, Đức Giêsu Kitô là ai? Nhưng xin đừng mở sách
Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một
Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con
người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám
phá ra Đức Giêsu Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch: con đường yêu thương.
Chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con
người đến với nguồn chân lý, nguồn tình yêu và sự sống.
Như ánh sao dẫn đường ba đạo sĩ lên đường đến với Chúa Giáng
Sinh, chúng ta hãy từ bỏ những lời nói trống rỗng, những công thức, những khuôn
mẫu có sẵn và tìm Chúa trong mọi biến cố cuộc đời, để từ đó chúng ta giới thiệu
Chúa cho anh em đồng bào bằng chính cuộc sống của chúng ta.
Ba vua tìm Chúa Giêsu. Có phải họ đã bị đánh động bởi ý tưởng
của người Do Thái về một thời đại vàng son do Đấng Cứu Thế mang lại, và niềm
tin ấy có thể đã lan tràn ra hàng trăm cây số về phía đông xứ Palestine chăng?
Có người đã nêu ra giả thuyết rằng có những cuốn lịch trong các miền nói trên
ghi rằng trong thời gian ấy Vị Chúa Tể của thời đại cuối cùng sẽ sinh ra ở
Palestine. Dù sao, chúng ta thấy một số người lên đường đi tìm Chúa Giêsu. Về
đề tài này, ta có thể nêu lên vài suy nghĩ sau đây:
1) Tìm Chúa Kitô đòi hỏi trước hết phải có một thái độ tinh thần
căn bản
Người ta sống trong tình trạng báo động để nhận ra dấu hiệu có
thể đưa tới Chúa. Cứ chấp nhận rằng ba nhà đạo sĩ sống trong một bầu không khí
mong chờ một ông vua Cứu Thế, dường như một lúc nào đó họ đã nhận thấy một ngôi
sao, một dấu hiệu, tâm hồn họ tỉnh thức. Chúng ta có thuộc về hạng người biết
nhận ra, giữa trăm ngàn yếu tố tạo nên đời sống mình, cái dấu hiệu dẫn đưa ta
đến Đức Kitô không? Dấu hiệu ấy có thể là một khó khăn, mà đột nhiên ta cảm
thấy cần phải phó thác cho Chúa, vì chỉ mình Người có sức soi sáng và giải
quyết. Có thể là một niềm vui lớn lao, từ đó ta thấy hiển nhiên là cần phải cảm
tạ Chúa. Dấu hiệu ấy cũng có thể là một chi tiết đời sống ta, trong đó, nếu
biết nhìn, ta sẽ nhận ra sự hiện diện kín đáo của Chúa. Trong các trường hợp
như thế, ta cần phải để ý tới những dấu hiệu dẫn ta tới Đức Kitô.
2) Ba đạo sĩ đã lên đường
Muốn tìm Đức Kitô, ta buộc phải ra khỏi tình trạng ‘yên chuyện’
và ‘an tọa’ của mình. Có người ‘an tọa’ trong những hệ thống tư tưởng; kẻ khác,
trong một địa vị ‘ngon lành’; một số thì ngồi yên trong một tiện nghi lương
thiện v.v… Bằng cách này hay cách khác, dấu hiệu của Đức Kitô mời gọi ta đừng
tự đóng kín trong tình cảnh ‘yên thân’, nhưng phải bước ra khỏi đó để khám phá
ra một cái gì lạ lùng, chưa hề thấy, một cái gì mà ta cảm thấy là đáp lại được
sự mong chờ của ta, với điều kiện là ta chờ đợi Đức Kitô.
3) Ba đạo sĩ tìm kiếm một cách tích cực
Bao lâu ánh sao còn le lói trước mặt, họ để cho ánh sao dẫn
đường. Nhưng kìa, ngôi sao biến mất, họ buộc phải tự tìm đường. Vẫn hy vọng.
Không hồ nghi về tính xác thực của ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Thiếu
vật chỉ đạo lạ lùng, tức ngôi sao, họ dùng tới những phương tiện thông thường
là hỏi han. Họ đi đến những nhà hữu trách tôn giáo. Những người này không muốn
bị phiền hà về vụ ông Vua mới sinh ra, nhưng họ cho ba người khách những lời
chỉ dẫn đúng. Thế là các đạo sĩ được ‘thưởng công’: họ tìm thấy Chúa Giêsu.
Trong đời ta có thể đã có những dấu này, dấu nọ báo tin Chúa Giêsu, rồi tan
biến đi. Bổn phận ta bây giờ là tiếp tục nỗ lực tìm kiếm với những phương tiện
thông thường sẵn có. Lúc ấy Đức Kitô sẽ không lẩn tránh đâu.
21. Ba vua
Lễ Hiển Linh, đó là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà
đại diện là ba nhà đạo sĩ phương đông, để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan
báo:
- Dân ngồi trong tăm tối sẽ được nhìn thấy ánh sáng chói lòa.
Đồng thời đây cũng là ngày trọng đại cho mỗi người chúng ta, vì
ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn dân.
Chúng ta hãy nhìn vào cung cách của ba nhà đạo sĩ để rồi từ đó
cùng nhau tự vấn lương tâm và kiểm thảo đời sống của mình.
Điểm thứ nhất, đó là ba nhà đạo sĩ
đã nhìn thấy ánh sao lạ và trong thinh lặng các ngài đã suy nghĩ để tìm ra sứ
điệp mà Chúa muốn gửi đến. Trong khi đó những người khác cũng đã nhìn mà chẳng
thấy và chẳng hiểu.
Có lẽ chúng ta cũng vậy, chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ
trước lời mời gọi của Chúa. Chúng ta để cho tâm trí bận rộn và quay cuồng trước
đam mê dục vọng, tiền bạc và lạc thú. Rồi từ đó, ánh sao cuộc đời và tiếng nói
của Chúa cứ mờ dần, cứ tắt dần trong cõi lòng chúng ta.
Điểm thứ hai, đó là sau khi nhận
ra sứ điệp của Chúa, các ngài đã lên đường mặc cho những khó khăn chờ đón. Các
ngài có thể đưa ra 1001 lý do để ở lại nhà, từ chối dấn thân vào một cuộc phiêu
lưu mạo hiểm bấp bênh. Tuy nhiên, các ngài đã dứt khoát lên đường, không chần
chừ do dự, và đã trung thành với quyết định của mình cho đến cùng. Mặc cho
người đời cười chê, các ngài vẫn chỉ nuôi một ước vọng: Tìm gặp và thờ lạy vua
dân Do Thái.
Thái độ của các ngài hoàn toàn khác xa với thái độ của dân Do
Thái, đã được thánh Augustinô diễn tả như sau:
“Các ngài đến chiêm ngắm Đấng Cứu thế trên quê hương của dân Do
Thái, nhưng còn họ, họ lại không biết đến. Các ngài đã tìm thấy Chúa Giêsu dưới
hình dáng một hài nhi nằm yên trong máng cỏ. Còn họ, họ đã chối bỏ Chúa Giêsu
ngay cả khi Ngài rao giảng công khai, ngay cả khi Ngài làm các phép lạ. Các
ngài từ xa mà đến, và đã gặp được Chúa. Còn họ, họ ở rất gần mà cũng chẳng
thấy”.
Có lẽ chúng ta cũng không hơn gì những người Do Thái. Chúng ta ở
cách nhà thờ đôi ba trăm thước mà chúng ta cũng rất ít khi đến tìm gặp Ngài.
Chúa còn hiện diện nơi những kẻ cùng khốn bên cạnh chúng ta, thế nhưng chúng ta
cũng rất ít khi nhận ra và giúp đỡ.
Điểm thứ ba, đó là sau khi đã
khám phá ra và thờ lạy Hài nhi Giêsu, các ngài đã dâng cho Chúa lễ vật, đó là
vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho tấm lòng quảng đại của mình.
Còn chúng ta, chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa trong Mùa Giáng sinh
này, cũng như ở chặng cuối cùng của cuộc đời chúng ta? Hay là chúng ta đến gặp
Chúa với đôi bàn tay trống trơn, không một chút công nghiệp, và với một tâm hồn
nhàu nát vì tội lỗi.
Sau cùng, các ngài định trở lại Giêrusalem để tường trình cho
Hêrôđê, nhưng được thiên thần báo mộng, các ngài đã tuân theo, đi một con đường
khác mà trở về quê hương xứ sở của mình.
Qua đó chúng ta thấy, mặc dù là những người có thế giá, các ngài
vẫn luôn luôn tuân phục lệnh truyền của Chúa một cách tuyệt đối, không bàn cãi.
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng cuộc đời của chúng ta là một
thảm trạng, trong đó, chúng ta luôn luôn chống lại lệnh truyền của Chúa, bằng
những vấp ngã, bằng những phản bội.
Hãy noi gương ba nhà đạo sĩ phương đông, hãy lên đường tìm kiếm
và thờ lạy Chúa. Hãy bảo toàn đức tin của mình, dù có phải hy sinh, dù có bị
thiệt thòi.
22. Ra đi
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Israel. Ngài còn tỏ mình
cho các dân tộc khác, vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai.
Các nhà chiêm tinh vùng Babylon là đại diện cho dân ngoại.
Đối với họ, bầu trời là một cuốn sách, các vì sao nói về những
biến cố trên địa cầu. Có thể Thiên Chúa đã muốn dùng sự xuất hiện của một vì
sao để báo hiệu Con Ngài chào đời.
Thiên Chúa chấp nhận dùng thứ ngôn ngữ đầy khiếm khuyết đó để
mời họ lên đường đi gặp Đấng Cứu Độ.
Hôm nay, Ngài vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài bằng muôn
vàn cách thức khác nhau, khiến họ hiểu được.
Thiên Chúa vẫn làm sáng lên muôn ánh sao, không ở trên trời cao,
nhưng ở trong lòng người.
Ánh sao có thể là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt: khát
vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc?
Ánh sao đưa con người lên đường tìm kiếm, và Ngài không ngừng
ban niềm vui trong suốt cuộc hành trình.
Các nhà chiêm tinh đã phải ra khỏi nhà, ra khỏi mình, ra khỏi
những định kiến, để đón tiếp cái bất ngờ.
Họ chỉ mong được bái lạy vị Vua mới sinh. Nhưng vị Vua này chẳng
ở Giêrusalem cao sang, mà lại ở vùng Bêlem bé nhỏ.
Vị lãnh tụ dân Israel chỉ là một hài nhi bình thường, sống trong
một căn nhà bình thường.
Hêrôđê bối rối lo sợ khi nghe tin sinh hạ Vua Do thái.
Các thượng tế và kinh sư tuy biết rõ nơi Ngài sinh, nhưng họ
không muốn lên đường tìm kiếm.
Các nhà chiêm tinh chỉ có một cái biết mơ hồ, nhưng họ đã can
đảm ra đi, tích cực tìm kiếm, tin tưởng sấp mình bái lạy và cung kính dâng lễ
vật.
Vẫn có đám đông những người không phải là Kitô hữu đang miệt mài
nghiên cứu trong mọi lãnh vực, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, tư tưởng...,
đang gắng công tu tập trong các tôn giáo, hay đang tận tụy làm cho trái đất được
tốt đẹp hơn. Có ánh sáng nào soi chiếu nẻo đường họ đi. Họ đã chấp nhận bao hy
sinh từ bỏ, để nhẹ nhàng, thanh tịnh mà tiến bước.
Các nhà chiêm tinh ngày xưa đã gặp được Đấng họ tìm.
Hôm nay, còn bao người vẫn trên đường dong ruổi. Thiên Chúa đồng
hành với họ mà họ chẳng hay. Họ đã ở gần Chúa ngay khi chưa gặp Ngài.
Lễ Chúa Hiển Linh mời ta nhận ra và trân trọng hoạt động của
Thiên Chúa nơi anh chị em ngoài Kitô giáo.
Có khi chúng ta giống các thượng tế và kinh sư tự mãn với cái
biết lý thuyết của mình về Thiên Chúa, nên chẳng muốn lên đường gặp mặt Ngài.
Ước gì chúng ta không coi mình như người đã tìm thấy, nhưng
khiêm tốn học hỏi nơi những người đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nhìn thấy Thiên Chúa đang hoạt động nơi những anh chị em
ngoài Kitô giáo không? Bạn có quen ai làm bạn cảm phục không?
Thiên Chúa đến với bạn qua những đại lộ (là Thánh Lễ, các Bí
Tích...) Nhưng Ngài cũng đến với bạn qua các ngõ hẻm (một biến cố, một bài báo,
một câu nói bâng quơ...). Đâu là những ngõ hẻm Chúa thường đến với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ
nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng
trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm
thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời
con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con
đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
23. Ngôi sao dừng lại
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Người Do Thái đợi chờ Đấng Mêsia từ bao thế kỷ. Đấng Mêsia được
ví như một vì sao từ nhà Giacóp (x.Ds 24,17).
Nói một cách thi vị, chờ đợi Đấng Mêsia là chờ đợi một vì sao
xuất hiện.
Hình ảnh vì sao gợi lên trong lòng người Do Thái niềm nôn nao
đợi chờ Đấng Cứu Độ cho dân tộc mình và cho cả thế giới (x. Ds 24,7).
Nhưng không phải chỉ người Do Thái mới biết đợi chờ. Theo các sử
gia đáng tin cậy ở thế kỷ đầu, cả dân ngoại cũng tin rằng Đấng cai trị thế giới
sẽ được sinh ra từ xứ Giuđê.
Phải chăng đó là lý do khiến các nhà chiêm tinh từ vùng Ba tư, Ả
rập xa xôi đã lặn lội đến Giêrusalem để bái yết tân vương, khi họ thấy trên bầu
trời xuất hiện vì sao lạ?
Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều phản ứng khác nhau trước sự hạ
sinh của Vua dân Do Thái.
Hêrôđê thì sợ hãi vì thấy ngai vàng bị lung lay. Ông dò hỏi về
nơi sinh và ngày sinh của vị Vua mới để âm mưu loại trừ một đối thủ.
Các thượng tế và kinh sư ở Giêrusalem lại có thái độ dửng dưng
thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Vua Mêsia, nhưng họ
chẳng buồn cất bước tới Bêlem.
Còn các nhà chiêm tinh là đại diện cho dân ngoại, đã hăm hở lên
đường, lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ làm tất cả miễn sao gặp được Đấng
quân vương. Dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lầu vàng điện ngọc, nhưng họ vẫn
vui mừng đón nhận với cả lòng thành.
Lễ Hiển Linh nhắc chúng ta về việc truyền giáo.
Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao. Con người hôm
nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa?
Mỗi môi trường cần một thứ ánh sáng riêng. Mỗi con người nhạy
cảm với một loại ánh sáng. Chúng ta phải tìm hiểu xem đâu là thứ ánh sáng thu
hút được lòng con người.
Ánh sáng của sự chân thành, của phục vụ yêu thương;
Ánh sáng của niềm vui an bình, của can trường bất khuất.
Một nụ cười, một ánh mắt, một lời khích lệ cũng bừng sáng rực rỡ
chẳng kém một vì sao.
"Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì
sao trên vòm trời" (Pl 2,15).
Chúng ta chỉ là những vì sao sáng khi chúng ta để mọc lên trong
lòng chúng ta (x. 2Pr 1,19) ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x.Kh 2,28).
Ước gì mỗi Kitô hữu trở thành một ánh sao: ánh sao nói được điều
gì đó với người đang chờ đợi, ánh sao đồng hành với nhân loại trên mọi nẻo
đường, ánh sao ngừng lại trước nhà của Con Thiên Chúa để Con Thiên Chúa và thế
giới hôm nay gặp nhau.
Gợi Ý Chia Sẻ
Những người dân ngoại ở xa có thể gặp Chúa, còn những kinh sư
thông thạo Kinh Thánh ở sát Bêlem lại không gặp được Ngài. Theo bạn, để gặp
được Chúa, cần có thái độ nào, điều kiện nào?
Ở môi trường bạn đang sống và làm việc, người ta cần thứ ánh
sáng nào? Bạn có thứ ánh sáng đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh
sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và
bất công, của buồn phiền và thất vọng. Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của
Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế
giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm
thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
24. Ngôi sao dẫn đường
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng trên nói về các nhà chiêm tinh dân ngoại theo ánh
sao mà tìm đến bái yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường được đặt ra hôm nay. Làm sao một ngôi
sao có thể dẫn đường cho họ đi? Nếu đó là một ngôi sao sáng lạ lùng thì tại sao
thành Giêrusalem lại không nhận biết? Bởi đâu ngôi sao lại không đi thẳng tới
Bêlem? Có tin được chuyện ngôi sao ngừng lại trước cửa nhà không? Các câu hỏi
trên đều xoay quanh ngôi sao lạ. Một ngôi sao như thế có thật không hay đây chỉ
là một truyền thuyết?
Thánh Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này theo một thể văn đặc
biệt của người Do Thái. Chúng ta không nên hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen.
Điều quan trọng không phải là có một ngôi sao lạ, một ngôi sao thông minh biết
dẫn lối chỉ đường. Điều quan trọng là điều Mátthêu muốn nói với ta: Đức Giêsu
không phải chỉ là Mêsia cho dân Do Thái, Ngài còn là Đấng Cứu Độ cho cả nhân
loại.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc,
cho chính chúng ta. Họ khao khát tìm ơn cứu độ. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay
đơn sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là
chấp nhận bỏ lại tất cả và bước đi trong đêm tối. Các nhà chiêm tinh không dựa
vào điều gì khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp mới dám
dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ mới dám tin
rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một ngôi nhà ở Bêlem, chứ không
uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng
nào mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một
của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường.
Không phải là ánh sao trên trời cao, mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người.
Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó, và bước vào cuộc hành
trình đức tin đầy mạo hiểm, như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê, sợ hãi bối rối trước sự
xuất hiện của Đấng Cứu Độ. Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn, đưa bạn
vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong
Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống đời Kitô hữu là bước vào một cuộc hành trình đức tin. Trong
cuộc hành trình đầy cam go ấy, vẫn thường có những ánh sao. Có khi nào bạn gặp được
một ánh sao lạ hướng dẫn bạn không?
Thiên Chúa đi tìm con người và con người đi tìm Thiên Chúa. Bạn
có thấy đó là hai yếu tố quan trọng trong đời sống người Kitô hữu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời,
mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự
và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và
bất công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên
trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút
giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn
tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo
nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập
tràn ánh sáng Chúa.
(Trích trong ‘LÀM NỤ HOA TRẮNG’ - Trg. 13 của ĐGM Giuse Vũ Duy
Thống)
Phúc Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành
trình đầy kịch tính của những khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên khám phá ngôi
sao lạ, qua xáo động tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi dắt
díu nhau lặng lẽ tìm đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện trên màn
ảnh những cuộc đối đầu càng lúc càng thêm căng thẳng: giữa chính diện và phản
diện, giữa lo sợ của bên này và thanh thản của bên kia, giữa tìm gặp hướng tới
và lạc mất nẻo đi. Cứ như í ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn
tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào và của
những người được coi là gần nhưng chỉ biết bàn ra.
Nhưng giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất
dài và rất xa ấy, người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến
đi với những đặc tính tiêu biểu:
1) Niềm tin: một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những vai chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem “triều bái
Vua dân Do Thái mới sinh” được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác
nhau, lúc thì gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng
được: Vua vì những của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh
gia vì nhìn thấy ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ
là những người thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt những phương tiện
đang có để tìm gặp chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt.
Khởi điểm cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời
Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ
trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm
là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn
lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào,
nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn
Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Tương tự, niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên
Chúa dành cho hết mọi người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành chí
thiện, họ mới có thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên đường
khởi sự chuyến đi. Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý Chúa, ra khỏi
thói quen khô cứng lâu đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một phen bước theo
ánh sáng trời cao, ra khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại chỗ để cơm mắm
cơm muối gieo bước lữ hành.
2) Niềm tin: một chuyến đi biết chấp nhận những thử thách
Là hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp
không ngơi nghỉ của con người, để vượt qua những thử thách và kinh qua những
thử luyện được xem là những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không chỉ
là chuyện “thức lâu mới biết đêm dài” để con người chứng minh sức bền tin tưởng
tháng năm, mà còn là chuyện “lửa thử vàng gian nan thử đức” trong những lúc
Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc “ba Vua toan mất
hướng, ánh sao bỗng vụt lặn”. Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối diện với âm
mưu chủ ý của những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm
chí còn gài bẫy ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy
chiếu Thánh Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi
dụng để toa rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư
trong dân.
Đêm Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó
của Iran chẳng những không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa
thành phố. Chúa như vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an
mà tại Bêlem chính nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc.
Chúa như vắng mặt. Se lòng.
Thử thách đối với đức tin như gió đối với lửa: gió thổi tắt lửa
yếu, nhưng làm bừng lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những
thử thách trong cuộc sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con
người, mà là những cơ hội để con người chứng minh phẩm chất niềm tin. Niềm tin
không thử thách: niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước thử thách: niềm tin
dễ dãi; niềm tin chấp nhận thử thách mới là niềm tin đích thực cho dẫu nhiều
khi chẳng dễ chịu chút nào.
3) Niềm tin: chuyến đi biết đón nhận đồng hành
Không phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là
lễ Ba Vua, có nơi kể tên các vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng sông Cửu
Long thì còn có cả chục 12, chục 16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho thấy
niềm tin không phải là cuộc đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng
hành, không chỉ vì lý do “càng đông càng vui” mà vì giới luật yêu thương là
biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng là cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt
đức tin. Con người thời nào cũng thế, không thích bị chinh phục bởi giáo điều
nhưng lại tự nguyện buông mình chịu khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở
Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu
thương nhau quá trời đến nỗi người ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo
“Đạo yêu nhau”, tức là những người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
“Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn”, tín hữu đồng hành bên nhau
còn để nâng đỡ nhau, nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang
đá rồi, phải dìu nhau lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê.
Ngoài miệng thì bảo là đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều trái, tàn
sát thê lương, “giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi
trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh”. Con
đường khác ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng
đã có bạn bè thân quen bên cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà
dấn bước.
Giống như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản
thân cá nhân “Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng
mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng
thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác
nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm lại, dựa vào hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển
Linh để phác vẽ niềm tin như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa,
biết chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa
mình vào biến cố Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ mình
của Ngài thì tín hữu cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình biết. Như
thế niềm tin mới là chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và đó cũng là
những hình ảnh sinh động mang tính hiển linh của kẻ tin trước mắt người đồng
thời, giống như hình ảnh của những vai chính trong chuyến đi hôm nay: ở bước
truy tìm họ được mệnh danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi
là Đạo sĩ và khi tới đích với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua.
26. Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra
Các bài đọc của lễ Hiển Linh đều hướng về một chủ đề chính:
"Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi muôn dân". Nơi bài đọc I được trích
từ sách tiên tri Isaia: "Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra" (Is 60,1-6).
Đó là lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng của
Giêrusalem. Giêrusalem có được như vậy, được trở thành trung tâm của muôn dân
đổ dồn về đó là vì nhờ Giêrusalem có Thiên Chúa hiện diện ở giữa. Không có
Thiên Chúa hiện diện thì Giêrusalem vẫn chỉ như bao thành khác. Ánh sáng mà
Giêrusalem nhận được từ Chúa đã chiếu soi muôn người, ánh sáng đó lôi kéo tất
cả mọi người, không trừ một ai đến với Chúa. Giêrusalem ngày xưa là hình ảnh
của Giáo Hội, vì Giáo Hội là nơi qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng cho
Giêrusalem được ứng nghiệm trong biến cố các vua từ Phương Đông tìm đến Vua dân
Do Thái mới sinh đã được thánh sử Luca ghi lại (x.Lc 2,1-12).
Gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, đó là mục đích cuối cùng
của đời người chúng ta, và đó cũng là trung tâm của bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh
hôm nay. Các mục tiêu cuối cùng trên, chúng ta thấy có những nhân vật nổi bật như
vua Hêrôđê, các trưởng tế và luật sĩ tại Giêrusalem, các đạo sĩ từ Phương Đông.
Mỗi một người trong hoàn cảnh riêng của họ đều được Chúa mạc khải cho, được
Chúa mời gọi đến với Ngài bằng những con đường khác nhau. Các đạo sĩ nhờ ngôi
sao sáng của thiên nhiên trong vũ trụ, một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Các
trưởng tế và luật sĩ thì qua con đường mạc khải của Kinh Thánh, qua lời dạy của
các tiên tri mà họ biết nằm lòng. Vua Hêrôđê thì qua chứng tá của những kẻ qua
con đường gặp Chúa, qua chứng tá của các đạo sĩ và các trưởng tế, luật sĩ tại
Giêrusalem. Nhưng rồi chỉ có các đạo sĩ là đi đến cùng con đường, là gặp được
Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài.
Chúa ban cho mỗi người, cho mọi người con đường để gặp Ngài,
nhưng chỉ có những ai thành tâm thiện chí và can đảm đi đến cùng, đi trọn con
đường thì mới thành công trong việc gặp gỡ được Chúa.
Trong ngày Lễ Ba Vua hay Lễ Hiển Linh hôm nay, chúng ta trước
nhất vui mừng vì thấy rõ hành động Thiên Chúa không dành riêng ân sủng của Ngài
cho một nhóm người nào, nhưng Ngài kêu gọi tất cả mọi người đến với Ngài, đồng
thời chúng ta cần tự vấn chính mình về thái độ trước Chúa Kitô, chúng ta đã
thực sự gặp Chúa và tôn thờ Ngài hay chúng ta cũng có thái độ giống như vua
Hêrôđê xem Chúa như là kẻ thù, như là người cản trở sự thành đạt của mình, vì
đó mà hành động ngấm ngầm chống lại Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được bắt chước thái độ của các đạo sĩ ngày
xưa muốn ra đi khỏi nơi an toàn tự nhiên của mình để gặp Chúa và tôn thờ Chúa
tại nơi mà Chúa muốn dùng để mạc khải cho chúng con về Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được gặp Chúa và tôn thờ Chúa là Đấng cứu
rỗi duy nhất đời con. Amen.
27. Từ bỏ
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Hiển linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho
muôn dân, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, ba nhà bác học phương đông.
Câu hỏi thứ nhất: các ngài là ai?
Phúc âm đã dùng danh từ “magi” để nói về các ngài. Magi có nghĩa
là các vị tư tế, ngoài việc tôn giáo, họ còn chuyên môn về khoa học, nhất là
thiên văn, vì thế họ thường được triều đình tôn làm cố vấn. Ngoài ra, magi còn
có nghĩa là các nhà đạo sĩ, dùng phép thuật của mình như một kế sinh nhai. Phúc
âm không xác định rõ các ngài thuộc vào hạng người nào.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tin chắc chắn các ngài là những người
học rộng biết nhiều và thông thạo về thiên văn. Bởi đó, gọi các ngài là những
nhà bác học, thiết tưởng cũng không sai cho lắm.
Ngoài ra, dựa vào những lễ vật dâng tiến, cũng như dựa vào thánh
vịnh 71:
- Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
Hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
Cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
Muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Tertulianô đi tới kết luận: các người là những bậc vương đế. Vì
thế, từ xa xưa người ta thường gọi lễ này là lê Ba Vua. Tuy nhiên, lập luân
trên không được xác thực cho lắm.
Câu hỏi thứ hai: các ngài có bao nhiêu người?
Những bức bích họa dưới các hoang toại đạo vào những thế kỷ đầu,
có bức vẽ hai vị, có bức vẽ ba vị, có bức vẽ bốn vị, thậm chí có bức vẽ
tới…mười hai vị. Ngày nay, chúng ta thường nói tới ba vị, vì dựa vào ba thứ lễ
vật các ngài dâng tiến.
Câu hỏi thứ ba: các ngài từ đâu mà tới?
Magi là hạng người xuất hiện đầu tiên tại Ba Tư. Các họa sĩ cổ
xưa thường vẽ các ngài với y phục Ba Tư, nên nhiều người đã xác quyết các ngài
từ Ba Tư mà đến. Tuy nhiên, lý luận này cũng không được ổn cho lắm. Phúc âm chỉ
nói các ngài từ phương đông mà tời. Và phương đông là tên người Do Thái thường
dùng để gọi xứ Ả Rập. Hơn nữa, những lễ vật như vàng, nhủ hương và mộc dược, là
thổ sản của xứ này. Như vậy, các ngài từ Ả Rập mà đến thì có lẽ đúng hơn.
Sau cùng, câu hỏi thứ bốn: đâu là bài học chúng ta cần ghi nhận?
Bài học chúng ta ghi nhận hôm nay, đó là sự tử bỏ. Thực vậy, các
ngài là những người giàu sang, có một địa vị lớn trong xã hội thời bấy giờ, thế
nhưng một khi đã nhận biết ý Chúa qua ánh sao lạ, các ngài đã can đảm, dám
liều, dám từ bỏ tất cả để lên đường tìm đến với vị vua mới sinh ra.
Đúng thế, các ngài đã để lại sau lưng nào vợ đẹp con khôn, nào
tiền bạc giàu sang, nào địa vị chức auyền, để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu
vô định, dưới sự soi dẫn của một ánh sao. Các ngài đã phải vượt qua biết bao
nhiêu khó khăn, đã phải chấp nhận biết bao nhiêu nguy hiểm: nào là những nụ
cười mỉa mai của bà con bè bạn, nào là những vất vả cực nhọc suốt khoảng đường
dài…Thế nhưng, các ngài vẫn cất bước tiến lên với một lòng tin tưởng vững chắc.
Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy bất kỳ ơn gọi nào cũng đều đòi hỏi
chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, như lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp tiêu biểu. Trước hết, đó là trường
hợp của Abraham. Ông đang sống yên ổn với gia đình trong cảnh giàu sang, thế
nhưng Thiên Chúa đã hiện ra bảo ông phải lên đường tới một vùng đất nào đó mà
Ngài sẽ trao ban làm sản nghiệp. Abraham liền cúi đầu vâng nghe. Rồi khi tới
tuổi già và có được một mụn con trai để nối dõi tông đường, thế mà Thiên Chúa
lại truyền phải sát tế mà dâng kính Ngài. Abraham cũng đã cúi đầu vâng nghe.
Tiếp đến, đó là là trường hợp của các tông đồ. Các ông đang sống
yên ổn bằng nghề chài lưới, thế rồi một hôm Chúa Giêsu đi ngang qua và lên
tiếng gọi:
- Hãy theo ta.
Lập tức các ông từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và những người thân
yêu để bước theo Chúa.
Với Mathêu cũng vậy, đang làm giàu với nghề thu thế, nhưng sau
khi nghe tiếng gọi của Chúa, ông cũng đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Từ mẫu gương của ba nhà ba nhà bác học phương đông, của Abraham
và của các tông đồ, chúng ta đi tới một kết luận: Muốn theo Chúa, muốn chu toàn
thánh ý của Ngài, chúng ta cũng phải dám liều, dám từ bỏ mọi sự, dám hy sinh
tất cả, dám dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy bấp bênh. Thế nhưng liệu chúng
ta có đủ quảng đại để đáp trả tiếng gọi của Chúa và có đủ can đảm để thực hiện
những điều ấy không?
28. Hướng lên – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Với niềm hy vọng phấn khởi, Tiên tri Isaia đã hân hoan loan báo
với đoàn dân tin vui: Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng
của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi (Is 60,
1). Tuy dù còn cả hơn nửa thiên niên kỷ nữa, Đấng Cứu Thế mới giáng trần, Isaia
đã khơi dậy niềm hy vọng của ơn cứu độ. Thiên Chúa kiên trì dẫn dắt lịch sử của
dân tộc Do-thái qua từng giai đoạn. Mọi biến cố xảy ra trong cuộc lữ hành đều
in ghi dấu vết sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dùng hơn ba ngàn năm
để chuẩn bị ban cho Dân Thánh một sự kiện trọng đại. Con Thiên Chúa sẽ giáng
trần làm người. Đây là một hồng ân tuyệt vời cho cả dòng dõi nhân loại. Ngài sẽ
đến giải thoát dân khỏi vòng nô lệ tội lỗi và dẫn lối vào ánh sáng chan hòa:
Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh
của ngươi (Is 60, 3).
Lữ hành cuộc sống, vinh quang hay thất bại (ups and downs) là lẽ
thường. Người ta thường nói: Năm chìm, bảy nổi, chín cái lênh đênh. Dòng đời con
người có lên, có xuống và có thăng trầm, thành bại. Nhưng cuộc đời hầu như ai
cũng muốn vươn lên. Mỗi ngày sống là một mời gọi tiến tới. Bước tới trên con
đường trọn lành sẽ không bao giờ tròn đủ. Cũng như khi chúng ta đã có, lại muốn
có thêm trong tất cả mọi lãnh vực. Trong cuộc lữ hành trần thế, con người phát
triển qua từng giai đoạn từ thơ ấu tới trưởng thành, từ ngây thơ tới sự hiểu
biết, từ vô tri tới tri thức và từ yếu đuối tới sự mạnh mẽ. Lớn lên từ đơn côi
tới tình yêu, từ sự an vui hoan lạc tới lòng tri ân cảm mến, từ đau thương tới
lòng thương xót và từ sự sợ hãi tới niềm tin.
Hôm nay chúng ta cùng suy tư về sự hướng thiện qua bảy cửa ngõ
(Seven-ups): Tỉnh dậy, tỉnh thức và thức dậy (Wake up), mỗi ngày khi mở mắt
thức dậy, chúng ta đón chào một ngày hoàn toàn mới với nhiều ân lộc. Thiên Chúa
đã an bài mọi sự trật tự lạ lùng trong vũ trụ để có ánh nắng mặt trời chiếu dọi
sưởi ấm, có mưa tuôn hồng ân tưới gội đất đai mầu mỡ phì nhiêu, có tuyết rơi
luyện lọc khí trong lành và có những làn gió thoảng đẩy xa bụi trần đời. Mỗi
giây phút chúng ta sống là những phút giây hồng ân. Chúng ta không thể kéo dài
và cũng không thể cắt bớt thời gian. Mỗi ngày khi thức dậy, chúng ta hãy chọn
thái độ sống và quyết định cho mình một ngày sống vui vì: Hôm nay là ngày Chúa
đã làm ra, chúng ta hãy vui mừng hoan hỉ (Tv 118, 24).
Lên đồ, mặc quần áo hay trang sức (Dress up), mỗi buổi sáng,
chúng ta sống thêm một ngày với những sự cố hoàn toàn mới. Đứng trước gương
soi, quần áo ăn mặc chỉnh tề, khuôn mặt rạng rỡ, đầu tóc gọn gàng và trang điểm
dễ coi và mỉm nụ cười, chúng ta hài lòng với khuôn mặt dễ thương của mình.
Tướng mạo sẵn sàng để đối diện với mọi người và với đời. Trước khi rời gương
soi, chúng ta cũng nên để tâm nhìn lại khuôn mặt thật của mình, hồn của chúng ta
có trong sáng, tâm có chân thành, ý hướng có ngay lành và có quyết tâm hành
thiện không? Bắt đầu một ngày sống, hãy mặc cho mình một bộ hành trang tương
xứng với thân, tâm hài hòa.
Nhìn lên, ngước mắt lên, ngẩng đầu lên (Look up), muốn thấy bầu
trời và các tinh tú, chúng ta phải ngước nhìn lên. Các nhà Đạo Sĩ đã nhìn lên
để đi tìm kiếm dấu chỉ của Đấng Thiên Sai. Dấu chỉ là ngôi sao lạ xuất hiện:
Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng (Mt 2, 10). Thượng đế ban cho con
người có đôi mắt để quan sát và nhìn xem. Đôi mắt có thể nhìn xuống để đi tìm
của cải vật chất và đồ ăn thức uống. Cặp mắt cũng có thể nhìn sang ngang để nối
tình thân hữu và tìm kiếm sự liên đới xã hội. Hơn thế nữa, đôi mắt có thể ngước
nhìn lên bầu trời bao la để nhận biết Đấng Tạo Thành vũ trụ và nhận ra những
dấu chỉ thời đại qua sự vận chuyển của tinh tú. Các nhà Đạo Sĩ đã biết ngước
nhìn lên trời cao để tìm kiếm những dấu chỉ hướng dẫn. Các ngài đã được đáp lại
theo ý sở nguyện. Họ đã tìm gặp được Hài Nhi Cứu Thế nơi làng Belem nhỏ bé: Cả
ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các
thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ
chăn nuôi Israel dân tộc của Ta (Mt 2, 6).
Đứng dậy hay đứng lên (Stand up), là một thái độ sẵn sàng để
bước tới. Dấn thân như các vị Đạo Sĩ, bỏ nhà cửa quê hương và gia đình tìm theo
tiếng thúc dục nội tâm. Các ngài không ngồi đó để chờ đợi, nhưng đã tiến bước
trong sự tìm kiếm. Các Đạo Sĩ không giống như vua Herôđê ngồi ở nhà chờ đợi
được báo tin. Các ngài đã tìm tòi hỏi han: Các ông nói: "Vua người Do-thái
mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông
phương, và chúng tôi đến để triều bái Người" (Mt 2, 2). Với tâm hồn đơn sơ
và chân thành, các Đạo Sĩ không ngần ngại vào nơi cung đình để hỏi han tìm
đường. Họ muốn tìm đến Vua thật. Họ đã chuẩn bị qùa quí và lễ dâng để triều bái
Vua người Do-thái: Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy
ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở
(Mt 2, 9).
Hướng tới hay vươn tới (Reach up), con người luôn mong tìm đạt
tới những kỷ lục hơn nữa trong mọi ngành nghề. Tất cả mọi loài động vật đều
sống theo bản năng đã được phú bẩm. Con ong, con kiến, con chim từ đời này qua
đời khác vẫn một mẫu sống như nhau, rất ít thay đổi. Lịch sử cuộc sống con
người phát triển không ngừng. Qua mọi thời, khả năng của con người được in ghi
và lưu truyền. Từ cuộc sống đơn sơ đi đến xã hội văn minh hiện đại. Khả năng
của con người vươn tới theo thời gian và không gian. Trong tất cả mọi sinh hoạt
cả tâm linh lẫn thể chất đều có sự đổi mới và thăng tiến mỗi ngày. Đời sống xã
hội con người có mục tiêu và cùng đích, không chỉ đời này mà cả đời sau. Con
người không chỉ bao gồm xác thân hay hư nát nhưng có một linh hồn bất tử hướng
tới cuộc sống viên mãn.
Nâng lên, ngẩng lên hay hướng lên (Lift up), nâng tâm hồn lên
tới Chúa qua lời khấn nguyện. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Philiphê
khuyên rầng: Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ
đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bầy trước mặt Thiên Chúa những điều
anh em thỉnh nguyện (Phil 4,6). Cầu nguyện là hướng lòng lên cùng Chúa để ngợi
khen, cảm tạ và xin ơn tha thứ. Sự kết hợp với Chúa trong tâm trí và linh hồn
đòi hỏi sự tập trung nối kết một cách mật thiết. Chúng ta không tôn thờ ngẫu
tượng bằng gỗ đá vô hồn mà là Thiên Chúa, chủ thể hiện hữu sống động. Sự cầu
nguyện của chúng ta phải luôn tập trung tâm ý và gắn bó với Chúa đừng để bị
chia trí và xao lãng lo ra. Tâm tình cầu nguyện kết nối liên tục đừng để bị cắt
đoạn, chia lìa hay rớt mạng.
Đóng, khép lại và im miệng (Shut up), Thiên Chúa tạo dựng con
người có hai lỗ tai và một cái miệng. Hai tai để nghe cho rõ và một cái miệng
để phát biểu. Hãy học lắng nghe và nói những điều chân thật. Trong bài hát 'Cao
Cung Lên' của nhạc sĩ Hoài Đức và Nguyễn Khắc Xuyên, tiểu khúc một, có câu:
"Thôi hỡi trần gian, im tiếng đi mà cung kính..." Chúng ta cúi mình
thờ lậy và suy gẫm mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể. Không thể diễn tả bằng lời mà
hãy nhìn xem và cung kính như các nhà Đạo Sĩ: Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp
thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi,
mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược (Mt 2,
11). Các nhà Đạo Sĩ không đặt câu hỏi hay nghi ngờ vì cảnh vẻ qúa nghèo nàn của
gia đình thánh. Khi nhận biết dấu chỉ của Đấng Thiên sai, các ông đã cúi bái,
phục lạy, tôn thờ và hiến dâng lễ vật.
Các nhà Đạo Sĩ không phải là người Do-thái. Họ đại diện cho các
dân ngoại đến tôn nhận Con Thiên Chúa giáng trần. Ơn cứu độ phổ quát được ban
phát cho mọi dân tộc. Thánh Phaolô trình bày: Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại
được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của
Người trong Chúa Giêsu Kitô (Eph 3, 6). Qua Bí Tích Rửa Tội và niềm tin, chúng
ta cùng được thông phần ơn cứu rỗi của Đức Giêsu Kitô là Đấng trung gian giữa
Thiên Chúa và loài người. Cùng với các nhà Đạo Sĩ, chúng ta hãy đến thờ lạy,
cảm tạ và tôn vinh danh thánh Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã thương chọn gọi chúng con làm con dân của
Chúa. Xin cho chúng con tiếp tục truyền rao chân lý phúc âm để nhiều người nhận
biết Danh Thánh Chúa. Xin ánh sáng của Chúa tỏa chiếu trong tâm hồn chúng con
và trên khắp cùng bờ cõi trái đất.
29. Thiên Chúa tỏ mình
Không biết từ lúc nào câu chuyện ba nhà đạo sĩ đã gắn liền với
biến cố Thiên Chúa giáng sinh làm người. Chúa đến làm người không dành riêng
cho người Do Thái nhưng là cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc. Danh từ Hiển
Linh trong Kinh Thánh mang ý nghĩa Thiên chúa tỏ mình ra cho loài người. Theo
phụng vụ Giáo hội Đông phương, lễ Hiển linh là lễ Chúa mở đầu việc rao giảng
công khai. Nhưng theo phụng vụ Giáo hội La mã, lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ
mình ra cho dân ngoại, khi ba nhà đạo sĩ tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu.
Hình ảnh ba nhà đạo sĩ trở nên rất quen thuộc. Họ là đại diện
cho những tâm hồn thiện chí đi tìm sự thật, với một tinh thần khát khao cháy
bỏng. Họ luôn nhạy cảm trước một dấu hiệu lạ kỳ, báo hiệu một vì vua đã sinh
ra. Các đạo sĩ Đông phương thời ấy rất giỏi về triết học, y học và khoa học tự
nhiên. Nhiều người còn gọi họ là những bậc thánh nhân.
Vào thời đó, mọi người tin tưởng ở khoa chiêm tinh. Họ tin rằng
dựa vào các vì sao họ có thể tiên đoán tương lai vận mệnh của con người. Số
mệnh một người được an bài bởi một ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra.
Điều này cũng dễ hiểu, thông thường các ngôi sao xuất hiện theo một vị trí cố
định. Chúng tượng trưng cho trật tự của vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao
sáng xuất hiện thì dường như Thiên Chúa đã can thiệp trực tiếp vào chính trật
tự của Ngài để loan báo một sự kiện đặc biệt sắp xảy ra.
Hài nhi Giêsu chính là vì vua tình yêu, là ánh vinh quang mà
Thiên Chúa ban cho nhân loại đang khao khát mong chờ Đấng cứu độ. Họ khắc khoải
trong sự đợi chờ thì Chúa Giêsu đã đến. Con người từ khắp nơi, từ những phương
trời xa xôi nhất đã về tề tựu quanh Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên
chinh phục thế giới của Hài Nhi Giêsu.
Chúa Giêsu là điểm đến sau cùng cho mọi nỗ lực tìm kiếm của nhân
loại. Nhìn vào những lễ vật dâng lên vàng, nhũ hương, mộc dược, người ta nhận
thấy mỗi lễ vật đều tương ứng với đặc điểm và sứ mệnh của Ngài. Ngài là vị vua
thật, là thầy lế lễ vẹn toàn và là Đấng cứu độ cao cả mà loài người đợi trông.
Chúa Giêsu chính là vua thật
Vàng được mệnh danh là vua của mọi kim loại. Vàng thường được
coi là của lễ xứng hợp nhất để dâng tiến vua. Chúa Giêsu sinh ra để làm vua. Vị
vua này không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu. Ngài cai quản lòng người
không từ ngai vàng mà từ thập tự giá. Sự có mặt của Ngài đã biến đổi thế giới
loài người, mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bệnh tật được chữa lành (Mt 8,
16-17), tang tóc được hân hoan (Lc 7, 11-17), tội lỗi được tha thứ (Mt 2,5),
ngay cả sự chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an (Mc 5, 39). Vì vua này
xuất hiện luôn ban cho con người một niềm vui, một niềm hy vọng "Phúc cho
anh em, là những người nghèo, vì triều đại Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho
anh em là những người đói khát vì anh em sẽ được no nê. Phúc cho anh em là
những người đang khóc vì anh em sẽ được vui cười" (Lc 6, 20-21).
Chúa Giêsu là tư tế.
Nhũ hương dâng cho Hài nhi là thứ hương liệu có mùi thơm dịu mà
thầy tư tế thường dùng trong các nghi thức thờ phượng. Thầy tư tế chính là
trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Vị tư tế cũng chính là người mở đường
dẫn lối để con người đến được với Thiên Chúa. Anh sao soi đường đến nơi thì đã
tắt, bởi lẽ Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật để soi rọi con người tìm ra chân
lý. Chân lý con người tìm kiếm là tình yêu và gia nghiệp của Ngài. Chính chúa
Giêsu sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha.Thư gửi Ephêsô, thánh Phaolô đã
khẳng định: "Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cũng được
thừa kế gia nghiệp với người do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia
sẻ điều Thiên Chúa hứa ban" (Eph 3,6).
Chúa Giêsu là hy tế
Mộc dược là lễ vật dành cho người chết, là hương liệu để xông
xác người. Chúa Giêsu đến thế gian để sống cho con người và cuối cùng chết cho
con người. Cái chết của Ngài biểu lộ sự trung thành đối với loài người mà Ngài
đã yêu thương đến tận cùng (Eph13,1). Chúa Giêsu không nghĩ tới mình, vì lẽ đó
Ngài có thể đón tiếp mọi người và lắng nghe mọi người đến với Ngài. Cuộc sống
Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến cho con người để cứu độ con người.
Chúa Giêsu là vì vua chân thật, là thầy tế lễ vẹn toàn, là đấng
cứu độ cao cả thế mà Ngài luôn bị con người chối từ thậm chí tỏ ra chống đối.
Các Thượng tế, Kinh sư là những người tự cho mình là hiểu biết Kinh Thánh nhưng
lại tỏ ra hững hờ, bất lực không muốn ra đi. Trong khi đó các đạo sĩ là những
người ngoại giáo lại dám lên đường và họ đã gặp Đấng cứu độ. Vua Hêrôđê cũng
chẳng khá hơn gì. Một vì vua đang nắm quyền nhưng lại nơm nớp lo sợ trước một
Hài nhi Bêlem vừa mới sinh. Trình thuật Tin Mừng cho ta chứng kiến những hình
ảnh đối lập nhau. Một bên là những người đói khát ơn cứu rỗi, họ đang hết tâm
vận dụng toàn lực để tìm kiếm Thiên Chúa. Một bên thì đau đớn nghĩ rằng việc
vua mới sinh sẽ làm đảo lộn cuộc đời của họ nên đem lòng thù nghịch Đấng Messia.
Vị Vua tình yêu đã giáng sinh, đã cho con người lần tìm ra chân
lý. Biết bao lương dân giờ đã nhận biết Ngài, biết bao người tội lỗi đã trở về
Thiên Chúa. Chúng ta thật hạnh phúc vì là thần dân của vị Vua đầy tình yêu này.
Một vị vua không hề biết nói đến sự tiêu diệt. Một vị vua không ngồi trên ngai
để cai trị nhưng luôn hiện diện trên thập giá để sẵn sàng chịu chết thay cho
dân Ngài. Đó chính là Vua Giêsu, là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa và là
Đấng Cứu Độ nhân trần. Tình yêu của Ngài giờ đây trải rộng đến khắp muôn dân.
Hiện nay còn biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng
liêng, họ đang lầm lủi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ
không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: "Đức Giêsu là ai?". Hãy trả lời
cho họ đi. Đức Giêsu chính là tình yêu của Thiên Chúa. Ngài đến phá đỗ mọi hàng
rào ngăn cách mà con người đã dựng nên, nhất là những hàng rào kỳ thị: kỳ thị
chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai cấp, giàu nghèo....
Chúng ta hãy cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng mầu nhiệm
tình yêu giữa lòng nhân loại. Mỗi người hãy là ánh sao dẫn đường để soi dẫn cho
nhiều người biết khám phá gương mặt đích thực của Đức Giêsu trong đời sống
thường ngày.
Suy nghĩ về lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân
ngoại, tôi có một nhận xét nho nhỏ, xin được chia sẻ. Nhận xét ấy như thế này:
Các nhà đạo sĩ phương đông là những người ít được chuẩn bị, ít
được hiểu biết về Kinh Thánh, nhưng lại có một tấm lòng quảng đại, sẵn sàng đáp
trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Các ông đã lên đường, dấn thân vào một cuộc phiêu
lưu hoàn toàn bấp bênh, để rồi cuối cùng các ông đã có được diễm phúc gặp gỡ
Chúa nơi máng cỏ Bêlem dưới vóc dáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm
thường.
Các ông là những người tuy xa mà lại gần.
Trong khi đó, các luật sĩ, tư tế và biệt phái sống tại
Giêrusalem. Họ là những người đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Họ thông thuộc
Kinh thánh. Bằng cớ là họ đã trả lời vanh vách nơi Đức Kitô sinh ra, thế nhưng
họ đã không dám lên đường tìm gặp Ngài. Và hơn thế nữa, họ còn tiếp tay với
Hêrôđê để sát hại Ngài.
Sở dĩ như vậy vì họ muốn Đấng Cứu Thế của họ phải được sinh ra
trong lầu đài cung điện, để rồi một mai khi lớn lên, Đấng ấy sẽ là một ông vua hùng
mạnh như Đavít, khôn ngoan như Salomon, sẽ giải thoát họ khỏi ách thống trị của
đế quốc La Mã và dẫn đưa dân tộc họ tới một thời đại hoàng kim, khiến cho mọi
dân nước phải quy phục và triều cống. Họ không muốn chấp nhận Ngài dưới vócdáng
của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm thường. Và họ đã không lên đường tìm
gặp Ngài.
Họ là những người tuy gần mà lại xa.
Cũng trong chiều hướng ấy, tôi nghĩ rằng những người dám hy
sinh, dám dấn thân, dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những kẻ nghèo túng và bất
hạnh, để yêu thương và giúp đỡ, họ chính là những nhà đạo sĩ của thời buổi hôm
nay.
Đúng thế, ngày hôm nay vẫn có những nhà đạo sĩ tìm gặp Chúa nơi
những người anh em khổ đau và cùng khốn.
Có những người như Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vừa mới được phong
lên hàng chân phước, hằng ngày không ngần ngại đi lượm từng hình hài sắp chết,
từng con trẻ bị bỏ rơi… rồi mang về chăm sóc.
Có những người như Cha Prado bên Pháp, đã sang tận Ấn độ để đem
lại sức sống mới cho một cộng đoàn nghèo, hết lẽ sống và cũng hết muốn sống.
Có những người như những tu sĩ đã biến nhà mình thành nơi cư trú
cho những trẻ em bị bại liệt, hay những thanh thiếu niên bụi đời, lang thang
nơi đầu đường xó chợ.
Có những người như Đức Cha Casaldaliga, đã lập tòa giám mục của
mình trên một chiếc thuyền độc mộc để ngày ngày, tay chèo tay chống, đi đấu
tranh với các công ti tư bản cũng như với quân độ Brasil, vì quyền lợi của đám
dân da đỏ mà Chúa đã trao ban như là những con chiên của Ngài.
Gần chúng ta và bên cạnh chúng ta, cũng không thiếu gì những mẫu
gương sống động như thế.
Họ là những nữ tu trong bệnh viện. Họ là những thày cô công giáo
trong các trường học. Họ là những công nhân có đạo trong các xưởng thợ. Họ là
những y tá, những bác sĩ kitô hữu đã dành thời giờ mình được quyền nghỉ ngơi
cho những người phong cùi, cũng như cho những bệnh nhân ở những vùng xa xôi hẻo
lánh, thiếu thốn những tiện nghi vật chất.
Họ không phải chỉ làm những công việc này vì lòng đạo đức và
tình bác ái, mà hơn thế nữa, vì họ đã nhận ra nơi những kẻ nghèo túng va bất
hạnh mà họ đang phục vụ khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Đúng như lời Đức Giám mục Bossuet đã nói:
- Người nghèo ở đâu thì Nước Trời ở đó. Người nghèo chính là một
bí tích, một dấu chỉ của Đức Kitô.
Thế nhưng, liệu chúng ta có dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những
người anh em bất hạnh và khổ đau hay không?
31. Ánh sáng Lời Chúa – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Vào lúc 1 giờ kém 12 phút sáng ngày 1/9/85, nhà hải dương học
nổi tiếng Robert Ballard chợt phát hiện trên màn sóng vị trí của chiếc tàu
Titanic bị chôn vùi dưới làn nước xanh thẳm của Bắc Đại Tây Dương cách đây ¾
thế kỷ.
Khi xác tàu được tìm thấy thì cũng là lúc tất cả những con số
thống kê liên quan đến chiếc Titanic đã được đưa ra ánh sáng. Sau đây là một
vài số liệu được ghi nhận:
- Chiều dài của chiếc tàu là 269 mét
- Chi phí cho việc đóng tàu là 178 triệu đô la (tính theo thời
giá hiện nay)
- Thời gian sử dụng là 5 ngày
- Từ lúc đụng băng trôi cho đến khi chìm hoàn toàn là 2 giờ 40
phút
- Tổng số hành khách và thuỷ thủ là 2223; số người sống sót: 706
Vé hạng nhất là 705 đô la
Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là số ống nhòm dành cho hai người
trực tại vọng gác là zêrô. Chính con số zêrô này mà người ta không thấy được
xa, không phát hiện sớm được tảng băng trôi để rồi tai hoạ đã ập tới.
Cuộc đời con người như một chiếc tàu ngoài khơi, đang hướng đến
bến bờ của bình an và hạnh phúc. Nếu không thấy xa phía đàng trước, nếu không
có những phương tiện giúp định vị thì rồi những giòng xoáy, bão lốc, hay băng
trôi sẽ nhận chìm nó. Cần thiết biết bao những chiếc ống nhòm. Cần biết bao một
tia sáng soi chiếu để thấy được hướng đi, đích tới, và trở ngại phải vượt qua.
Vấn đề là trong đời sống tâm linh đâu là ánh sáng soi chiếu
đường đi? Cái gì có tác dụng như những chiếc ống nhòm giúp ta thấy xa trên hải
trình ngàn dặm đây?
Tôi chợt nhớ đến bài hát Alleluia của Cha Thành Tâm với lời nhạc
“Alleluia, Lời Chúa dẫn soi con đường đi,” và trong bài Lắng Nghe Tiếng Chúa
của Nguyễn Duy mà lời nhạc sau đây đã mang lại cho tôi một chìa khoá: “Lời Ngài
là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy
vọng, là đường để con hằng dõi bước…”
Thế ra trong cõi mù tối của tâm linh hay giữa sóng cả ba đào
đang hoành hành dày xéo, Lời Chúa sẽ là phương thế dẫn đường soi lối giúp người
ta đến với bến bờ. Đoạn Tin Mừng trong Chúa Nhật Lễ Hiển linh là một lời xác
nhận cho chân lý đó.
Ba nhà đạo sĩ trong cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa của cuộc đời,
đương đầu với biết bao khó nhọc: băng qua đồi, leo qua núi, vượt qua cả vùng
hoang dại của sa mạc Trung đông với khí hậu khắc nghiệt, ngày thì nóng cháy da,
đêm lại lạnh thấu xương. Địa đã không lợi mà thiên cũng chẳng thời. Một ánh
sáng sao dẫn lối thì nay lại biến mất. Lạc lối. Mù mờ. Không còn phương hướng.
Chẳng biết mình phải đi về đâu.
Không thất vọng bỏ cuộc, các ông vẫn dò hỏi tìm tòi. Cuối cùng,
may thay, người ta đã chỉ cho các ông nơi cần đến.
Điểm đáng chú ý là không phải những kinh sư, ký lục hay thượng
tế đã trả lời cho sự tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ, nhưng là Kinh Thánh. Chính
Thánh Kinh đã chỉ cho giới lãnh đạo Do Thái, và qua họ, nói cho ba người từ
phương đông biết chân lý và ý nghĩa cuộc đời nằm ở nơi đâu. Từ Kinh Thánh, các
đạo sĩ biết được rằng “Nơi Bêlem, thuộc đất Giuđa sẽ xuất hiện vị cứu tinh,
Đấng sẽ chăn dắt Israel.” Và họ đã tiếp tục lên đường, nhắm hướng Thánh kinh đã
chỉ mà tiến bước, để rồi cuối cùng tìm ra lẽ sống, thấy được giá trị và ý nghĩa
cuộc đời mình nơi một con người có tên Giêsu.
Đúng là “Lời Chúa sáng soi con đường đi,” “Lời Chúa đổi mới cho
cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho trần ai.” Nhưng thử hỏi tôi đã biết lấy Lời
Chúa làm kim chỉ nam cho đời mình chưa? Tôi có hay đọc Kinh Thánh để tìm hướng
đi giữa những giong tố của cuộc sống? Nhưng, tôi đã có cuốn Kinh Thánh chưa đã
chứ?
E rằng lắm khi bỏ ra năm chục, một trăm để mua đôi giày, chiếc
áo sao dễ quá, nhưng để mua một cuốn Thánh Kinh hay những sách báo đạo đức giá
10 đồng sao không dễ chút nào. Nhiều lúc xem phim, nghe nhạc 2, 3 giờ liền mà
chẳng thấy mệt mỏi gì, nhưng đọc các sách nhà đạo 5, 10 phút sao thấy ngại
ngùng khó khăn quá.
Nếu ý thức và thái độ như thế, làm sao tâm hồn tôi có thể vượt
qua được sóng ngàn, tránh khỏi các băng trôi để tiến đến bến bờ bình an được.
Không nhình vào Lời Chúa để rồi nhờ ánh sáng từ đó dẫn lối chắc
chắn thuyền đời tôi sẽ lênh đênh bất định, nếu không muốn nói là dễ bị chìm đắm
trước những phong ba của cuộc đời.
Nhưng nếu tôi quyết tâm từ nay sẽ lắng nghe tiếng Chúa hơn qua
Thánh Kinh, sẽ tìm đọc lời Ngài qua các sách báo thiêng liêng đạo đức, và sẽ
suy tư học hỏi ý Ngài qua mọi biến cố hằng ngày, thì chắc chắn tự đáy tâm hồn
sẽ vang lên khúc hát hạnh phúc: “Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh
sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước.
Lời Ngài được chất ngất niềm vui, trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi
mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho trần ai.”
Các nhà bác học đã dâng tiến cho Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và
mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là
Chúa và mộc dược để chỉ đến cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu sau này… Thế
nhưng những lễ vật này có ý nghĩa gì đối với chúng ta.
Trước hết là vàng. Vàng nói lên lòng yêu
mến của chúng ta, một lòng yêu mến tinh ròng, cao cả và mãnh liệt như lời Ngài
đã xác định:
- Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức
lực ngươi.
Đồng thời thánh Phaolô còn nhấn mạnh:
- Ai có thể phân rẽ tôi ra khỏi lòng yêu mến đối với Đức Kitô,
dù bắt bớ, dù tù đày, dù đòn vọt, dù đói khát cũng không thể nào được.
Vàng còn làm lên sự trung kiên của chúng ta, không vì một lý do,
một hoàn cảnh nào mà bị chao đảo, mà bị lung lay để rồi đi đến chỗ phản bội.
Hãy trung thành với Chúa cho đến chết, vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống
mình vì bạn hữu.
Sau hết, vàng còn nói nói lên sự chân thật của chúng ta. Thực
vậy, chúng ta có thể lừa dối kẽ khác chứ chẳng thể nào lừa dối được Thiên Chúa.
Con người thời nay thường thích hóa trang, thường thích đeo mặt nạ. Nhưng người
Kitô hữu phải luôn biểu lộ con người và bộ mặt thật của mình. Phải là một thứ
vàng ròng chứ không phải là một thứ vàng dổm.
Tiếp đến là nhũ hương. Nhũ hương nói lên tâm
tình thờ lạy của chúng ta đối với Đức Kitô. Thực vậy, trong những nghi thức
phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi
chầu Thánh Thể.
Qua hình ảnh nhũ hương chúng ta tìm thấy một niềm tin tưởng mãnh
liệt vào bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Đây không phải là một niềm tin tưởng
có tính cách giáo điều hay lý thuyết mà là một niềm tin tưởng sống động và mãnh
liệt, vì Đức Kitô là Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta và trở nên lương thực nuôi
sống linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, cũng như đang giảng dạy chúng ta
qua lời Ngài trong Phúc âm.
Nhũ hương còn là tượng trưng cho tâm tình kinh nguyện, như thánh
vịnh đã viết:
- Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương thơm bay lên
tôn nhan Chúa.
Sự cầu nguyện là một việc làm riêng tư, một sự kết hợp giữa tâm
hồn chúng ta với Thiên Chúa, nó xuất phát tự cõi lòng, tự con tim chúng ta.
Đồng thời sự cầu nguyện còn mang tính cách cộng đồng vì lời nguyện đẹp lòng
Chúa hơn cả là lời nguyện của Giáo Hội và với Giáo Hội, vì qua lời nguyện của
Giáo Hội chúng ta tìm thấy lời nguyện của Đức Kitô, là đầu của nhiệm thể.
Sau cùng là mộc dược. Mộc dược là niềm tin
tưởng vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ được tái diễn qua lễ dâng trên bàn
thờ:
- Mỗi khi anh em ăn bánh này, anh em loan truyền việc Chúa chịu
chết cho tới khi Ngài trở lại.
Chính vì thế, thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta:
- Anh em hãy mang lấy dấu tích của Đức Kitô nơi thân xác anh em.
Vì thế, mộc dược có ý nói tới việc hy sinh hãm mình, như lời
Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà
theo Ta.
Tiếp đến, mộc dược còn nói lên những hy sinh trong cuộc sống.
Hãy chấp nhận những khổ đau vì lòng yêu mến Chúa và hãy dâng tiến Chúa như một
lễ vật nhỏ mọn, bấy giờ những đau khổ của chúng ta sẽ trở nên là một góp phần
vào những đau khổ của Đức Kitô, là những giọt máu tử đạo chúng ta có thể đổ ra
từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và tự hỏi: Chúng ta đã dâng gì
để làm lễ vật cho Chúa Hài Nhi hay chưa?
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách
gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam, để nói về việc các nhà chiêm tinh
phương Đông tìm đến Bêlem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ mặc phẩm phục
như các vị đế vương, và xác định là ba người, vì có ba sắc dân được nói đến
trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có ba thứ rõ ràng là
vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế, theo truyền thống,
Ba Vua trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không
phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh
sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm
kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại
từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những
chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết
Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu tên gọi ba vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng
ngày nay Phụng Vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm
chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho
tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân
thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà
còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình,
nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản gần đây, một linh mục đã
tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Có một người đạo đức kia ước ao được xem
thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay, cầu nguyện để ước nguyện này
được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết
sẽ đến thăm bà, suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón
rước Chúa, thế nhưng bà chờ mãi mà không thấy Chúa đến.
Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa hỏi: Tại sao bà không tiếp đón
Ngài? Người đàn bà trả lời bà đã chờ đợi Chúa ở trước cửa. Chúa cho bà biết
Chúa đã chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa ở cửa
sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa hỏi tại
sao bà không đón tiếp Chúa, bởi vì Ngài đến qua các cửa sổ. Suốt ngày hôm sau,
người đàn bà hết ra cửa trước lại về cửa sau và nhìn qua các cửa sổ, nhưng bà
cũng không hề thấy tăm hơi của Chúa. Đêm đến, bà lại nghe có tiếng nói của
Chúa, và lần này Chúa bảo bà hãy tìm Ngài bên giếng sau nhà. Cũng thế, người
đàn bà đã chạy ra bờ giếng, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. Không còn đủ kiên
nhẫn nữa, bà đã trách Chúa tại sao lại chơi trò cút bắt với bà. Bấy giờ Chúa
mới nói: “Nếu con định đón rước Ta ở một nơi nào đó thì mãi mãi sẽ không bao
giờ thấy Ta ở đâu cả, thay vì tìm kiếm khắp nơi, con hãy mở mắt tâm hồn và con
sẽ thấy Ta”.
Đêm đó, người đàn bà không còn nghe thấy tiếng Chúa nữa, nhưng
chung quanh mình, bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt
tâm hồn bà đã được mở rộng, bà đã nhìn thấy Chúa ở khắp mọi nơi. Đúng vậy,
chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà thôi, nếu tâm hồn chúng
ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là không bị ngăn chặn bởi
bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ, tiền bạc… thì chúng ta
có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người chúng ta gặp gỡ.
Xưa kia Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh bằng ánh
sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đã đi tìm và đã gặp được Chúa Giêsu
giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại
để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa Thiên
Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng
tác vào công cuộc cao cả ấy, vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho
những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành ánh sao
cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày của
mình, để trong sinh hoạt bình thường ấy, người ta có thể gặp được những tín
hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên mình, của bác
ái, của phục vụ… những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp người ta nhận ra Thiên
Chúa, nhận ra tình thương của Ngài.
34. Ngôi sao hy vọng
Tại nước Camơrun ở Phi Châu, có một vùng đất tên là Fontem, dân
số khoảng 20 ngàn người, là một bộ lạc bị đe dọa tuyệt chủng vì nhiều thứ bệnh,
nhất là bệnh ngủ và bệnh giun chỉ.
Tộc trưởng của bộ lạc Fontem đã đi cầu cứu nhiều nước và nhiều
tôn giáo nhưng không kết quả. Cuối cùng, ông đã đến với Đức cha Peters thuộc
giáo phận Buca ở Camơrun, đặt vào tay ngài một số tiền và nói: “Bộ lạc chúng
tôi chẳng tốt lành gì để đáng được Chúa thương nhận lời, vậy chúng tôi xin Đức
cha và các tín hữu của ngài cầu cùng Chúa cho chúng tôi. Hy vọng Chúa sẽ nhận
lời”.
Đức Cha Peeters và giáo dân của người không chỉ cầu nguyện mà
còn hành động. Họ chung tay góp sức làm cho bộ lạc Fontem ngày càng tốt đẹp
hơn. Khởi đầu là 2 bác sĩ, 1 bác sĩ thú y, cùng với 3 phụ nữ thuộc phong trào
Giáo dân Hoạt động cho thế giới được Hiệp nhất trong Yêu thương.
Ngày nay, bộ lạc Fontem đã hoàn toàn đổi mới. Xưa kia là rừng thiêng
nước độc thì nay là phố xá đô hội. Điều bất ngờ là chính thành phố này lại là
chiếc nôi của một phong trào Giáo dân Thiện nguyện tới phục vụ ở rất nhiều nước
tại Phi Châu. Số người xin học đạo và gia nhập Giáo hội nhiều vô kể.
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện”. Các nhà đạo sĩ
đã nhìn thấy ánh sao lạ, và đã mau mắn lên đường trong niềm hy vọng tràn đầy.
Vâng, chính trong niềm hy vọng tràn đầy mà tộc trưởng Fontem đã hăng hái đến
với Đức cha Peeters như ánh sao hy vọng. Ong hy vọng bộ lạc của ông sẽ thoát
cảnh bệnh tật và nghèo đói, ông hy vọng dân tộc mình sẽ bước theo kịp văn minh
tiến bộ của nhân loại. Cuối cùng, hoa hy vọng đã khai mùa mở cánh. Bộ lạc của
ông đã được ngôi sao hy vọng tỏa sáng để họ không chỉ đến với nền văn minh khoa
học mà còn tiến bước vào nền văn minh tình thương.
Ngôn sứ Isaia đã nói: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy
một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng
bừng lên chiếu rọi”.
Ánh sáng bừng lên chiếu rọi, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao
Hy Vọng của muôn dân. Kể từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào quang của địa đàng
vụt tắt, nhân loại mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu
độ chiếu rọi nhân gian.
Ngôi Sao Hy Vọng đã xuất hiện ở trời Đông, và sẽ không bao giờ
lặn đi.
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, mà đại diện là ba
nhà đạo sĩ, trong đó có tất cả chúng ta.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối
của chúng ta, thì Người cũng muốn chúng ta sẽ là những ánh sao, luôn chiếu tỏa
niềm tin yêu và hy vọng nơi con người.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không bao giờ thất vọng về con
người, cho dù con người thất trung phản bội, thì chúng ta cũng đừng bao giờ
thất vọng về chính mình.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không hề để ai phải thất vọng
khi trông cậy nơi Người, thì chúng ta cũng đừng bao giờ để một nỗi thất vọng
nào chạm được đến anh em.
Tuy Ngôi Sao Hy Vọng xuất hiện ở Phương Đông đã 2000 năm qua,
nhưng tại Á Châu này tỷ lệ những người được Ngôi Sao chiếu rọi mới chỉ có
10,4o/o. Đó là nỗi thao thức của Giáo hội và cũng là trách nhiệm của mỗi người
chúng ta. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bày tỏ trong Tông Huấn “Giáo hội tại Á
Châu” như sau: “Những kẻ tin vào Chúa Kitô vẫn là một thiểu số bé nhỏ trong lục
địa mênh mông và đông dân nhất này. Nhưng không phải là một thiểu số nhút nhát,
họ sống đức tin cách sống động đầy hy vọng và ban sức sống, mà chỉ có duy nhất
tình yêu, mới có thể mang lại”.
“Tham vọng duy nhất của Giáo hội là tiếp tục sứ mạng phục vụ và
yêu thương của mình, để tất cả dân Á Châu “có sự sống và sống dồi dào”.
35. Món quà
Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa
Giêsu Hài đồng, Đức Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng… Chúng ta còn thấy ba người
mặc phẩm phục như những ông vua, tay mang lễ vật, đang khúm núm rất trịnh trọng
trước hài nhi mới sinh. Họ là ai? Họ từ đâu đến? Họ thuộc nước nào? Tại sao họ
có mặt ở đây?
Theo mẫu đối thoại thánh Matthêu kể lại trong Tin Mừng, người ta
truyền tụng nhau và gọi họ là ba vua. Nhưng thực sự Tin Mừng không nói thế mà
chỉ gọi họ là các nhà chiêm tinh, tức là các ông lớn, những nhà thông thái,
chuyên nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu các ngôi sao để cố vấn cho nhà vua
trong vấn đề chính trị.
Có nhiều người lại đặt ra vấn đề: các ông này có thật không hay
chỉ là một huyền thoại? Cho đến nay, ngoài phạm vi tôn giáo, chưa có một nguồn
tài liệu nào khẳng định rõ ràng dứt khoát. Ở vùng Trung Đông có rất nhiều nước
kể chuyện này và được coi như một chuyện cổ tích. Nhưng đối với chúng ta, dựa
vào Tin Mừng, thì sự hiện diện của ba vị này ở hang đá Bêlem là chuyện có thực.
Nhưng các ông từ đâu đến thì chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà xác quyết. Có
một điều chắc chắn là cũng chỉ ở trong vùng Trung Đông thôi. Tuy nhiên, những
chi tiết đó không quan trọng, điều quan trọng nhất là bài học mà các vị này để
lại cho chúng ta.
Trước hết, cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh được xem là
hình ảnh cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Với
một dấu hiệu không chắc chắn, không rõ rệt là một ngôi sao, các ông đã lên
đường tìm kiếm sự thật. Với tấm lòng yêu chuộng sự thật, các ông đã miệt mài
tìm kiếm cho đến khi biết được sự thật và gặp được Chúa Giêsu. Cuộc đời của
chúng ta cũng phải luôn đi tìm Chúa. Dù chúng ta đã có đức tin, nhưng lòng tin
của chúng ta có những lúc bị chao đảo, bị thử thách vì những khó khăn, đau khổ
của cuộc sống. Nhưng dù hoàn cảnh thế nào, chúng ta vẫn kiên quyết giữ đức tin
và sống đức tin.
Chúng ta phải sống bằng đức tin chứ không thể sống bằng tình
cảm. Trong tình cảm có vui có buồn. Nhưng vui buồn lúc có lúc không. Nếu chúng
ta chỉ dựa vào niềm vui và khi vui mới khiến chúng ta tin. Vậy khi hết niềm vui
thì sao? Lòng tin của chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay khi gặp những chuyện buồn
thì sao? Chúng ta còn tin không? Vì thế, chúng ta phải sống bằng niềm tin vững
chắc, không lệ thuộc vào ai, cũng không lệ thuộc vào hoàn cảnh.
Hơn nữa, đức tin của chúng ta phải được thể hiện bằng những việc
làm cụ thể. Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có việc làm là một đức tin
chết”. Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt
giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ
chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần
phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là
tình yêu mà chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy
phục, tôn thờ.
Thứ hai, các vị này đã dâng cho Chúa Hài đồng vàng, nhũ hương và
mộc dược. Đó là ba loại lễ vật đặc biệt và quí giá nhất của Đông phương.
Nhưng những lễ vật vô tri kia chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm hồn của họ, chứng tỏ
lòng ngưỡng mộ, tôn kính và yêu mến của họ đối với Chúa Hài đồng.
Văn sĩ Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người Đan Mạch đã nghĩ ra một
câu chuyện minh họa cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị
chiêm tinh thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu hài đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa,
nhưng ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường,
ông đem theo ba viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông
tặng viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm
nhục một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô
gái. Cuối cùng, khi đến Bêlem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để
tàn sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta
từ bỏ hành động gian ác. Đến khi gặp được Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai bàn
tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng, Chúa
Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói với ông: “Con đã dâng cho Ta món quà quí
giá nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những nghĩa
cử đối với tha nhân”.
Chúa Giêsu đã nói: “Bất cứ điều gì các con làm cho người khác là
làm cho chính Ta”. Chúng ta vẫn luôn gặp Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua
những anh chị em sống với chúng ta, và tất cả những gì chúng ta làm cho họ là
chúng ta làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật làm hài lòng Chúa nhất chính là
những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân.
36. Tìm kiếm
Có một giai thoại nói rằng không chỉ có ba nhà đạo sĩ, mà đến
bốn vị. Tên của vị thứ tư là Artaban. Ông cũng nhìn thấy ngôi sao và đã quyết
định dõi theo ngôi sao, ông mang đi một viên hồng ngọc, một viên ngọc bích và
một viên kim cương làm quà biếu vị Vua mới. Ba người đồng hành là Caspar,
Melchior, và Balthasar đang chờ đợi ông tại một điểm hẹn. Tuy nhiên, trên đường
đến đó, ông gặp một người bị thương nằm bên vệ đường. Ông đưa vào quán trọ, và
săn sóc người đó.
Cuối cùng, khi đến điểm hẹn, ông phát hiện rằng những người bạn
đồng hành của ông đã bỏ đi rồi. Vì cần có một con lạc đà và những đồ dự trữ để
vượt qua sa mạc, nên ông đã bán đi một viên ngọc bích để mua những thứ đó. Khi
gần đến Bêlem, một lần nữa, ông lại đến quá trễ, Đức Maria và thánh Giuse đã
đưa con trẻ trốn sang Ai cập, để lẩn tránh những tên giết người của vua Hêrôđê.
Trong ngôi nhà mà ông đang tá túc, có một đứa bé trai lên 1
tuổi. Bà mẹ rất lo sợ cho mạng sống của con trai bà. Vào một buổi tối, quân
lính đến gõ cửa, Artaban đi ra gặp họ. Ông lấy viên hồng ngọc hối lộ cho quân
lính không vào nhà, và đã cứu thoát được đứa trẻ. Bà mẹ rất đỗi vui mừng. Tuy
nhiên, Artaban lại buồn rầu bởi vì lúc bấy giờ, ông chỉ còn lại một viên kim
cương duy nhất để làm quà biếu vị Vua mà thôi.
Trong suốt những năm sau đó, ông đã đi nhiều nơi để tìm kiếm vị
Vua. Nhưng dường như ông luôn luôn đến trễ. Khoảng 30 năm sau, ông đến
Giêrusalem. Bấy giờ, ông đã già yếu kiệt sức, và mất nhuệ khí. Ngay hôm ông đến
đó, thì có một số người bị đóng đinh. Ông kinh hãi khi nghe tin rằng Đức Giêsu
ở trong số những người đi xử tử. Ông vội vàng đến ngọn đồi nơi diễn ra cuộc
hành quyết. Có lẽ với viên kim cương, ông có thể cứu thoát được mạng sống của
Đức Giêsu.
Tuy nhiên, trên đường đến đồi Can-va-riô, ông gặp một cô gái
đang chạy trốn một toán lính. Cha của cô gái đó đã bị mắc lừa những khoản nợ
lớn, và cô gái bị bán đi làm nô lệ. Artaban lấy viên kim cương của ông ra, đưa
cho quân lính, và cô gái đó đã được thả cho đi. Nhưng bây giờ, ông phải đến gặp
vị Vua với hai bàn tay trắng.
Ngay sau đó, bầu trời bắt đầu tối tăm u ám. Một trận động đất
rung chuyển mặt đất. Các nhà cửa bắt đầu bị lay động. Những viên ngói trên mái
nhà bắt đầu bay vèo vèo. Một trong những viên ngói đó rơi trúng vào đầu của
Artaban. Ông gắng sức vật lộn với vết thương chết người đó. Nhưng ông đã chết
trước khi đến gần được ngọn đồi nơi diễn ra cuộc hành quyết. Ông không bao giờ
gặp gỡ được vị Vua.
Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, Artaban luôn luôn có vị Vua của ông.
Trong suốt những năm tháng đó, ông đã mang vị Vua này trong tâm trí và cõi lòng
của ông. Vị Vua này đã truyền lại cho ông những hành động đầy yêu thương, quảng
đại, và đã soi sáng cho cuộc hành trình của ông đầy ý nghĩa và hy vọng.
Artaban đã tìm thấy vị Vua của mình, bởi vì người nào, thực sự
tìm kiếm Thiên Chúa, thì đã tìm thấy Người rồi. Artaban là một gương mẫu của
lòng tin. Những ai tin tưởng và yêu mến Đức Giêsu thì đều được thay đổi: họ
hành động và sống một cách khác hẳn.
37. Lễ Hiển Linh - Lm. Munachi Ezeogu
Trong một buổi sáng lạnh lẽo, ba người làm nghề hái dừa đang
sưởi ấm quanh đống lửa. Khi ấy, hai người trong bọn họ tranh luận với nhau để
so sánh xem đạo của ai là đạo thật. Okoro, người cao tuổi nhất trong bọn chỉ
ngồi yên lặng nghe hai người kia tranh luận. Đột nhiên, hai người kia quay sang
nói với Okoro rằng: “Quyết định dùm chúng tôi, Okoro. Tôn giáo nào đúng?” Okoro
vuốt râu, ngẫm nghĩ và nói: “Các anh nên biết rằng, có ba lối để đi từ đây lên
xưởng ép dầu. Anh có thể đi thẳng lên đồi, đấy là lối ngắn nhất nhưng phải leo
dốc cao nhất. Anh có thể đi quanh bên phải của ngọn đồi, lối ấy không xa nhưng
đường gập ghềnh và nhiều ổ gà lồi lõm. Hoặc là anh có thể đi quanh bên trái của
ngọn đồi, đấy là đường xa nhất nhưng lại là lối đi dễ nhất”. Okoro nói thêm
rằng: “Các anh nên biết rằng, khi các anh đến nơi, người chủ không hỏi các anh
đến bằng cách nào. Ông ta chỉ hỏi hoa quả các anh mang đến có tươi tốt không?”
Trong những câu chuyện kể về Đức Giêsu sinh ra, có hai nhóm
người đến kính viếng hài nhi mới sinh, đó là mục đồng và ba vua. Tại sao giáo
hội không có lễ kính các mục đồng để tưởng nhớ việc họ đã kính viếng Chúa Hài
Đồng, nhưng hôm nay giáo hội lại đặc biệt cử hành lễ Hiển Linh để kính nhớ ngày
ba vua kính viếng Hài Nhi Giêsu? Bởi vì sự viếng thăm của ba vua là một bất
ngờ. Các mục đồng biết được việc Chúa sinh ra là do các thiên thần trực tiếp
hiện đến trong đêm vắng để báo tin. Đấy là sự bày tỏ tự nhiên và hầu hết mọi
người trong chúng ta đều lãnh hội được. Về phần ba vua thì khác, họ biết tin
Chúa sinh ra là do họ quan sát một ánh sao. Ngôi sao chẳng nói với họ điều gì.
Họ đã phải tự tìm hiểu dấu hiệu tự nhiên của ánh sao để biết ý nghĩa và nơi mà
ánh sao đã dẫn đưa họ đến. Nếu chúng ta nhớ rằng, ba vua là những người thờ lạy
thiên nhiên, sùng bái tạo vật qua việc quan sát sự di chuyển của tinh tú và các
thiên thể Chúa tạo dựng, thì chúng ta sẽ thấy rằng việc ba vua chiêm bái Hài
Nhi Giêsu là một thách đố cho niềm tin của chúng ta.
Như những người hái dừa, người theo đạo thường tin rằng chỉ có
truyền thống tôn giáo của mình mới đúng là đường đến với Chúa. Đây là điều
chúng ta thường nghe khi đề cập đến lời của Đức Giêsu: “Chính Thầy là con
đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”
(Gioan 14:6). Chúng ta vội vã kết luận rằng con đường của Chúa tương đương với
truyền thống tôn giáo của mình. Nhưng sấm ngôn của Chúa cảnh cáo chúng ta về
những diễn giải hạn hẹp ấy rằng: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư
tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Isaia
55:8); đấy là lý do làm cho chúng ta ngỡ ngàng về việc ba vua kính viếng Chuá
Hài Đồng, và là câu chuyện lạ thường để cho chúng ta biết rằng Chúa không giới
hạn bất kỳ một truyền thống tôn giáo nào.
Nên để ý xem có bao nhiêu truyền thống tôn giáo khác nhau tìm
biết Con Thiên Chúa giáng trần. Bọn mục đồng, bị xem là hạng người dơ bẩn không
đáng được vào Đền Thờ cầu nguyện nếu không trải qua thời kỳ thanh tẩy; họ đã
tìm biết Chúa qua các thiên thần trực tiếp hiện ra báo tin. Ba vua đã tìm biết
Chúa bằng sự quan sát ánh sao. Và các kinh sư của vua Hêrôđê thì tìm biết Chúa
qua sách ngôn sứ. Thị ứng, ánh sao, sách thánh... Nhiều cách khác nhau nhưng đã
đưa đến một chân lý. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là bất cứ truyền thống
tôn giáo nào cũng tốt lành như nhau. Thánh Matthêu cho chúng ta biết rằng khi
ánh sao dẫn lối đến Giêrusalem thì tắt, và ba vua đã phải nhờ các kinh sư chỉ
lối đến Bêlem. Tuy rằng đã có ánh sáng tự nhiên của ánh sao, ba vua vẫn cần ánh
sáng siêu nhiên của sách thánh, để cuối cùng tìm đến được với Chúa.
Vậy câu hỏi chính của câu chuyện là: “Ai đã thật sự tìm biết
Chúa Giêsu?” Vua Hêrôđê và các kinh sư, người có ánh sáng siêu nhiên là kinh
thánh nhưng lại không tìm thấy Chúa, nhưng ba vua là những người đi theo ánh
sáng tự nhiên của ánh sao đã có thể tìm ra Chúa. Tại sao? Vì giới cầm quyền
Do-Thái có được chân lý tỏ ra trong sách thánh nhưng họ đã không tin theo. Họ
đã không bước đi trong ánh sáng của thánh kinh. Còn ba vua thì khác, họ chỉ
biết ánh sao và bước theo ánh sao dẫn lối. Việc có được chân lý không quan
trọng cho bằng làm thế nào để chuẩn bị bước đi trong ánh sáng của chân lý ấy mà
chúng ta đang nhận biết. Thà rằng chúng ta có ánh sao mờ dẫn lối, còn hơn là có
được ánh sáng siêu nhiên chói chan của thánh kinh mà chúng ta lại sao lãng,
hững hờ.
Là Kitô hữu, chúng ta hằng tin rằng chính tôn giáo cho ta có con
đường công chính. Nhưng điều ấy có đem lại bổ ích gì nếu chúng ta không bước đi
theo con đường công chính ấy. Những người sùng bái thiên nhiên hoặc kẻ không
biết Chúa, họ chỉ biết thành tâm quyết chí theo ánh sáng mờ ảo của thiên nhiên;
họ có thể đến với Chúa Giêsu trước những Kitô hữu hằng tán tụng Thiên Chúa,
nhưng không bước đi trong đức tin. Đấy thật là một thách đố mà chúng ta cần đối
diện trong câu chuyện ba vua, những người đã tìm và đã gặp được Chúa.
Những tặng phẩm là nhũ hương, mộc dược và vàng ám chỉ thần tính,
nhân tính và vương quyền của Đức Giêsu.
William Sydney Porter, một nhà văn Mỹ chuyên viết chuyện ngắn
sống vào giữa thế kỷ này. Ông rất nổi tiếng qua bút hiệu O. Henry của ông. Ông
được độc giả nhớ đặc biệt là do ông luôn luôn kết thúc các câu chuyện của ông
bằng cách gây ngạc nhiên hứng thú. Một trong những câu chuyện nổi tiếng của ông
lấy tựa đề từ ý nghĩa của đại lễ hôm nay. Câu chuyện đó nhan đề “Món quà của vị
đạo sĩ”. Nói về một cặp vợ chồng trẻ tên Jim và Dela. Họ nghèo tiền của nhưng
rất giàu tình thương đối với nhau.
Giáng sinh sắp tới, Dela tự hỏi phải làm quà Giáng Sinh cho Jim
bằng món gì đây. Nàng muốn tặng chàng, nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì
thế nàng nẩy sinh một sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp. Nàng quyết
định cắt ngắn bộ tóc của nàng và đem bán để mua cho Jim sợi giây đồng hồ. Hôm
áp lễ giáng sinh, nàng từ phố về, trên tay mang một chiếc hộp rất đẹp, trong đó
có sợi giây đeo đồng hồ làm bằng vàng, mà nàng vừa đổi bằng mái tóc của nàng.
Bỗng nhiên, Dela chợt cảm thấy lo lắng nàng tự hỏi Jim rất yêu quí mái tóc dài
của nàng, và nàng tự hỏi không hiểu chàng có buồn phiền vì nàng cắt và bán nó
đi không. Chỉ có thời gian mới trả lời nàng thôi.
Dela leo nốt đợt cầu thang cuối cùng dẫn đến căn hộ nhỏ của hai
đứa nàng. Nàng mở cửa và thấy Jim đang đợi nàng. Trong tay chàng có một cái hộp
gói lại thật đẹp đựng món quà chàng mua cho nàng. Khi Jim nhìn thấy mái tóc
ngắn của Dela, chàng bắt đầu rươm rướm nước mắt. Nhưng chàng không nói gì cả.
Chàng cố cầm những giọt lệ của mình và tặng nàng chiếc hộp. Khi Dela mở hộp ra,
nàng không thể tin vào mắt mình được. Trong hộp có một bộ lược rất đẹp để nàng
chải mái tóc thướt tha của nàng. Và khi Jim mở món quà của mình ra, chàng cũng
khó mà tin được đôi mắt của chàng. Trong hộp có một sợi giây đồng hồ rất đẹp
dùng cho chiếc đồng hồ bằng vàng của chàng. Chỉ lúc đó Dela mới nhận ra rằng
Jim đã bán chiếc đồng hồ bằng vàng để mua cho nàng những cái lược để nàng chải
tóc.
Có những người nghĩ rằng kết thúc của câu chuyện tuy gây ngạc
nhiên nhưng bi thảm quá. Còn đa số cho rằng kết thúc như thế rất đẹp. điều làm
cho kết thúc đó đẹp không phải là những món quà mà là tình yêu được những món
quà đó biểu tượng và nói lên.
Câu chuyện đó dẫn chúng ta trở về với việc mừng kính lễ Hiển
Linh hôm nay, cũng gọi là Lễ Ba Vua (tức 3 nhà đạo sĩ). Tôi không hiểu rõ tại
sao O. Henry lại đề tựa cho câu chuyện ấy là “Món quà của nhà Đạo Sĩ”. Có lẽ vì
những món quà của các đạo sĩ cũng đầy những ý nghĩa thâm sâu như thế. Chúng ta
hãy suy nghĩ về ý nghĩa của những món quà ấy.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng mộc dược. Thời xưa, người ta dùng mộc
dược để ướp xác người chết trước khi đem đi mai táng. Chẳng hạn, vào sáng sớm
ngày đầu tuần, các phụ nữa đã đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì mộc dược có
tương quan đến sự chết, nên nó tượng trưng sự yếu đuối, dễ bị thương tổn của
con người.
Vì thế món quà bằng mộc dược tượng trưng cho nhân tính của Đức
Giêsu. Nó nói với chúng ta rằng Đức Giêsu cũng có những yếu đuối, mỏng giòn, dễ
bị thương tổn vì ngài là người. Cũng như chúng ta, Ngài cảm nghiệm được toàn bộ
mọi thứ cảm xúc của con người, vui, buồn, sợ hãi, thất vọng, cô đơn.,…Ngài cũng
không khác gì chúng ta, ngoại trừ tội lỗi mà thôi.
Bây giờ chúng ta nói về nhũ hương. Ngày xưa, người ta dùng nhũ
hương trong việc phụng tự tôn giáo hương thơm và làn khói bay lên trời cao,
khiến họ liên tưởng đến các vị thần linh và thần tính của các ngài. Vì thế, món
quà bằng nhũ hương tượng trưng cho Thượng Đế tính của Đức Giêsu. Thánh Phaolô
đã nói về Thượng Đế tính của Ngài trong thư gởi cho cộng đoàn giáo dân ở
Philipphê: “Đức Giêsu vốn bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài…. Đã trở nên giống người
phàm, và chấp nhận vâng phục mọi đàng cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì
thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao cả nhất trên trời” (Pl 2,6-9)
Cuối cùng chúng ta nói tới vàng. Ngày xưa, người ta coi vàng là
vua của mọi thứ kim loại. Vì thế, vàng tượng trưng cho đức vua. Nhà vua là vị
thủ lãnh ở bên trên tất cả. Ông vua lý tưởng thì lãnh đạo bằng tình thương. Đối
với dân chúng, ông bảo đảm là mình có chính nghĩa. Ông làm cho người khác ủng
hộ. cộng tác với ông nhờ chính nghĩa của mình. Đức Giêsu chính là một vị vua
như thế. Ngài lãnh đạo bằng tình thương. Ngài bảo đảm có chính nghĩa khi thiết
lập Nước Thiên Chúa ở trần gian. Và Ngài thôi thúc mọi người cộng tác với Ngài
trong công việc ấy. Điều đó dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của ngày lễ
Hiển Linh hôm nay.
Hiện nay trong nhiều quốc gia, lễ Hiển Linh được mừng long trọng
hơn lễ Giáng sinh. Sở dĩ như thế là vì lễ này mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra
với thế giới ngoại giáo. Cũng y như lễ Giáng Sinh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ
mình ra đặc biệt với những người Do Thái, thì lễ Hiển Linh mừng việc Đức Giêsu
tự tỏ mình ra đặc biệt với dân ngoại. Vì thế, lễ này là “Lễ của Chư Dân”.
Những gì được Đức Giêsu khởi sự trong thời của Ngài thì cũng
phải được chúng ta tiếp tục trong thời của chúng ta. Nếu Đức Giêsu phải được
rao giảng cho mọi dân mọi nước, thì việc rao giảng đó phải được thực hiện bằng
chính những cố gắng của chúng ta. Chúng ta phải loan báo cho mọi dân tộc trên
thế giới biết “Tin Mừng” này là Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã mặc lấy xác thịt
và sống giữa chúng ta chúng ta phải nói cho họ biết rằng Đức Giêsu đã đi vào
lịch sử không phải chỉ để cứu độ người Do Thái vào thời của Ngài, mà cứu độ tất
cả mọi dân tộc, mọi quốc gia trong mọi thời đại nữa.
Đức Giêsu đến để lập Nước Trời tại trần gian, để lập nên một thế
giới mới, thế giới mà trong đó không còn đau khổ, buồn phiền nữa, thế giới mà
trong đó những người nghèo khổ sẽ tìm được những người bạn chân tình, yêu
thương, nơi mà trước đó họ chỉ tìm thấy những người xa lạ lạnh nhạt. đó chính
là “Tin Mừng” mà chúng ta phải loan báo cho thế giới. Đó là sứ điệp thực tiễn
của lễ Hiển Linh hôm nay. Đó là một sứ điệp kêu gọi mỗi người chúng ta phải
hành động.
Tôi xin kết thúc bài giảng hôm nay bằng bài thơ của một thi sĩ
vô danh. Bài thơ này tóm tắt sứ điệp của lễ Hiển Linh hôm nay bằng một hình ảnh
rất sống động.
“Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt,
khi ngôi sao trên bầu trời đã biến mất,
khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà,
khi các mục đồng cùng đàn súc vật đã trở về,
thì công việc Giáng sinh mới bắt đầu
“Để tìm lại những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đã gẫy đổ,
để người đói được ăn no,
để tù nhân được giải phóng,
để các nước xây dựng lại,
để đem lại hoà bình cho mọi người,
và để hoà nhạc bằng trái tim”.
39. Chú giải mục vụ của Claude Tassin
CÁC ĐẠO SĨ
Đoạn Tin Mừng đề cập đến các vị đạo sĩ gắn kết với đoạn trước
bằng cái tên “Giêsu”. Ngoài ra, Mt 1,23 đã loan báo rằng trinh nữ “sẽ sinh hạ”;
còn ở 2,2 các đạo sĩ vấn hỏi: vua dân Do Thái “đã sinh hạ” ở đâu. Tuy sự thể đã
quá hiển nhiên như vậy rồi, truyền thống kể lại ở đoạn Mt 2,1-12 lại chắc chắn
có trước thời Matthêu; ví dụ: như việc không đề cập gì đến sự hiện diện của
Giuse (x. c.11) mặc dù ở Mt 1,18-25 lại nói nhiều đến Giuse.
Ý nghĩa phong phú của đoạn này nằm ở chỗ chứa đựng rất nhiều câu
ám chỉ. Trước hết ta nên dựa vào bố cục của đoạn văn, căn cứ vai trò của ngôi
sao lạ mà chia nó thành hai phần để phác họa rõ nét hơn sự đối kháng giữa thái
độ của các đạo sĩ với thái độ của Hêrôđê.
Trong phần đầu (1-8) tấn tuồng được hình thành:
Câu 1-2: các đạo sĩ quan sát thấy một ngôi sao loan
báo sự ra đời của vua dân Do Thái và họ phải đến kính viếng. Văn bản chỉ nói
rằng ngôi sao đã chỉ đường cho họ, thế thôi. Họ đi đến Giêrusalem, trung tâm
của thế giới Do Thái, và hỏi ra vị vua này ở đâu?
Câu 3-6: Ở Giêrusalem, Hêrôđê vua dân Do Thái và toàn
thể công nghị (thượng tế và luật sĩ) tập thể đại diện cho dân Do Thái đặc trách
việc chú giải Kinh Thánh, đã nghiên cứu những lời tiên báo về Đấng Mêsia. Hơn
cả ngôi sao, Kinh Thánh mới là cuốn chỉ nam dẫn đường cho các đạo sĩ.
Câu 7-8: Giới chức Do Thái giải thích rất chính xác
các lời tiên tri nhưng không hề ra tay hành động. Còn bản thân Hêrôđê lúc nào
cũng e ngại một đối thủ xuất hiện nên đã ghi nhớ điều mặc khải này như đoạn sau
sẽ cho thấy.
Phần hai (9-12) tấn tuồng được diễn:
Câu 9-11: Các đạo sĩ lại được ngôi sao hướng dẫn đến
tận chỗ ở của Đấng Mêsia sau khi họ được Kinh Thánh soi rọi.
Câu 12: Mưu mô giết chóc của Hêrôđê bị thất bại bởi
vì Thiên Chúa lại ra tay can thiệp một lần nữa “các đạo sĩ trở về xứ qua một
lối khác”.
Ngoài ra bản văn còn cho ta những chìa khóa khác nếu ta nghiên
cứu kỹ lưỡng các nhân vật (các đạo sĩ, Hêrôđê), dấu hiệu ngôi sao và câu trích
dẫn (c.6)
1. Các đạo sĩ: Vừa là những bậc
thông thái lại là những nhà thuật sĩ, các “đạo sĩ” Đông Phương hành nghề bói
toán, y học, chiêm tinh và giải mộng. Trước đó, Môsê đã từng đụng độ họ ở cung
điện vua Pharaon, sau này các tông đồ cũng đôi lần gặp phải các nhân vật nhóm
này (x. Cv 8,9; 13,8). Kinh Thánh không yêu thích gì họ. Và chỉ có dân ngoại
mới làm đạo sĩ bởi vì ở xứ Israel, “phù thủy” là nghề bị cấm chỉ.
Các vị đạo sĩ trong Mt 2 đến từ Đông Phương bởi vì các thuật sĩ
Đông Phương nổi tiếng hơn, nhất là các người Chaldé xứ Babylone. Matthêu không
nói rõ họ thuộc dân xứ nào. Những lễ vật họ mang theo gợi ta đoán là xứ Ả Rập.
Cũng có thể là xứ Ba Tư. Theo hai tác giả La tinh, khoảng năm 66 có các đạo sĩ
Ba Tư tuân theo các ngôi sao chỉ đường, đã đến Rôma để triều yết hoàng đế
Neron, khi trở về họ chắc rồi cũng “đi theo lối khác”. Tuy nhiên, Matthêu không
dẫn dắt các đạo sĩ đến với Neron mà là đến với Chúa Giêsu và cũng rất mỉa mai
khi xảy ra sự thể là: đang khi giới hữu trách Do Thái hằng được Kinh Thánh soi
sáng lại không biết cách làm thì các đạo sĩ ngoại giáo chỉ dựa vào hiểu biết
khoa học chứ không phải do Kinh Thánh soi sáng hoặc do tuân giữ Kinh Thánh lại
làm được: đó là bài học truyền giáo đầu tiên của tác giả Tin Mừng.
Giáo Hội Đông Phương cho rằng có ba vị đạo sĩ (dựa vào số món
quà đem theo) và gọi họ là ba vua. Sự tôn vinh này khá phổ biến trong Cựu Ước.
Thực vậy, theo Thánh Vịnh 72, 10-15 thì các kẻ cầm đầu các dân nước đến dâng
hiến châu báu xứ sở lên cho Đấng Mêsia. Nhưng Matthêu không gọi họ là vua: họ
là những dân ngoại khiêm hạ nhất đã đến với Đức Kitô.
2. Ngôi sao lạ: Chắc chắn tác giả
Tin Mừng sẽ giật mình khi biết rằng hậu thế mình đã ra công cất sức truy tìm
những giả thuyết để xác định cho được tinh vân nào hoặc sao chổi nào có lẽ đã
xuất hiện vào thời Chúa Giêsu. Ngôi sao của Matthêu không phải là vì tinh tú
mọc trên bầu trời, mà là ở trong Kinh Thánh (Theo Ds 24,17 thì sẽ có ngày “ngôi
sao nhà Giacóp” sẽ mọc lên. Và dân Do Thái ở thế kỷ I đã áp dụng lời tiên tri
này cho Đấng Mêsia. Hình ảnh tượng trưng đó rất phù hợp với câu chuyện về các
đạo sĩ ở đây). Bởi vì lời tiên báo trong Ds 24 cho dân Israel không phải do một
tiên tri Israel nói ra mà bởi Balaam, một kẻ ngoại mà truyền thống vẫn coi ông
ta như là kẻ giải mộng, nghĩa là một “đạo sĩ”.
3. Hêrôđê: Khi Chúa Giêsu ra đời, triều đại Hêrôđê đại
đế (năm 37-4 trước Công nguyên) đã chấm dứt. Ta biết rằng Denys bé nhỏ, một tu
sĩ sống vào thế kỷ VII đã sai lầm khi xây dựng bộ lịch ngày nay. Đúng ra, Chúa
Giêsu ra đời vào năm thứ bảy hoặc thứ sáu “trước khi Chúa Giêsu Kitô ra đời”.
Bấy giờ, Hêrôđê rất sợ kẻ chiếm ngôi đến độ y đã ra lệnh xử giảo ngay cả một số
con cái mình: các kẻ đương thời đã khôi hài với nhau rằng: thà rằng làm con heo
(hus theo tiếng Hy Lạp) của Hêrôđê hơn là làm con đẻ (huios) của y. Tóm lại,
những gì ở đây Matthêu gán cho nhân vật Hêrôđê đều cảm hứng từ thực tế. Nhưng
một phần thì đoạn kể về các thuật sĩ mang tính biểu tượng và mặt khác lúc bấy
giờ người ta lại không hề biết sự ra đời của Chúa Giêsu nhưng cuộc tàn sát ở
Bêlem chắc chắn có để lại dấu ấn trong lịch sử Do Thái, đều là những sự kiện
thực tế. Hình tượng nhân vật Hêrôđê được truyền thống Tin Mừng xét theo hai
cách:
a) Đàng sau lời sứ thần báo tin cho Giuse đúng
là một việc khả thi, giống như lời báo tin của Thiên Chúa cho người cha tương
lai của Môsê vậy. Nhưng lại có truyền thuyết Do Thái cổ xưa khác, cũng thuật
lại một giấc mộng làm Pharaon lo lắng và được các thuật sĩ cắt nghĩa như sau:
một Hài Nhi sẽ sinh ra nơi dân Hy Bá Lai, nó sẽ triệt hạ xứ Ai Cập. Chính vì
vậy mà Pharaon đã ra sắc chỉ tàn sát mọi con trai đầu lòng của người Hy Bá Lai
(x. Xh 1,15). Chịu ảnh hưởng của truyền thống này, ở đây Chúa Giêsu xuất hiện
như một Môsê mới và Hêrôđê đóng vai vị vua tàn ác nhưng chỉ chuốc lấy thất bại.
b) Mặt khác, trong đoạn tường thuật này, Hêrôđê
được bao quanh bởi “toàn thể Giêrusalem” (c.3) và các quan chức Do Thái giáo
(tư tế, luật sĩ: c.4). Như thế cuộc khổ nạn và những kẻ chịu trách nhiệm về cái
chết của Chúa Giêsu đã được dựng lên ở đây rồi vậy.
4. Lời tiên tri của Mikha (c.6): Đáp lại câu
hỏi ở c.2 “Vua dân Do Thái sinh hạ ở đâu?”. Dựa vào lời nói của các tư tế và
luật sĩ (thực ra là của Matthêu), bằng cách trưng ra “bố trí” sẵn những câu
trích dẫn Cựu Ước. Matthêu đã trích Mk 5,1-3 và phối kết với 2Sm 5,2 “Ngươi sẽ
là mục tử chăn dắt Israel dân Ta” đó chính là lời hứa đối với Đavít. Ta cũng
cần nói thêm rằng tiên tri Mikha nối kết với câu Is 7,14 đã được trích ra ở
trên. Như thế, lời tiên báo được sắp xếp lại như vậy có ý nghĩa gì?
a) Trung thành với Mikha, và ít lạc quan về tương lai của
Giêrusalem, Matthêu đã tôn vinh làng Bêlem đơn hèn, vì đó chính là ngôi làng
của Đấng sẽ trở nên Mêsia cho những kẻ bé mọn (x. Mt 11,25-30).
b) Nhận chân giá trị của thành vua Đavít và lời hứa ban cho vị
vua này (2Sm 5,2) nối kết tầm quan trọng của tổ phụ Đavít của Chúa Giêsu như đã
nhấn mạnh trong Mt 1.
c) Nếu Chúa Giêsu phải là “mục tử dân Israel” (một tước hiệu gán
cho chính Thiên Chúa x. Tv 80,2) và nếu Giêrusalem đã khước từ Đấng chăn dắt
mình, vậy thì lời tiên tri làm sao nên trọn được? Đó chính là toàn bộ thảm kịch
của sứ vụ Đức Kitô.
Toàn bộ nét biểu trưng đoạn đã biến Tin Mừng về ba vị đạo sĩ
thành một Tin Mừng thu nhỏ lại: vua Đavít mới, Môsê mới ngày kia sẽ rao giảng
trên núi, Người mục tử bị chê bỏ (cf. Mt 26,31) bởi những kẻ kêu gào phải giết
Ngài đi, rồi chế nhạo “Vua dân Do Thái” trên đồi Calvariô (cf. Mt 27,37) để rồi
đến một ngày vang dội lệnh truyền khẩn thiết này “hãy đi thâu nạp môn đồ khắp
muôn dân”.
Câu hỏi cốt lõi của đoạn này là: Ở ĐÂU? Những chuỗi kế đến sẽ
liệt kê (Mt 28,19) thêm Ai Cập, Rama, Galilê, Nagiarét trong số nhiều địa điểm
có ý nghĩa của cuộc sống đời Đấng Mêsia.
40. Chú giải của Noel Quesson
Khi Đức Giêsu ra đời lại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị
vì.
Đó chỉ là những từ duy nhất, rất ngắn ngủi mà Matthêu dùng để
nói về lễ Giáng sinh. Ít thật! Thực sự, Matthêu có vẻ chú ý quá ít đến biến cố
đơn thuần, khác với Luca. Trái lại, một cách rõ rệt, Matthêu chủ ý trình bày
với các độc giả của mình ý nghĩa của sự sinh ra. Và ông cho họ hiểu ý nghĩa
trong câu truyện này về các nhà chiêm tinh... chính câu truyện được triển khai
tối đa, và được trình bày, nếu chúng ta lưu ý, như một thứ dẫn nhập cho toàn bộ
Tin Mừng theo Thánh Matthêu.
Thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến
Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?”
Matthêu so sánh, như hai chất nổ, hai danh hiệu:Vua Hêrôđê...
vua dân Do Thái. Câu hỏi này mà những người nước ngoài sắp nhắc lại trên các
phố phường chật hẹp ở Giêrusalem, đã vang đến tai những người Do Thái như một
sự mỉa mai cay độc. Người ta hiểu rằng nó cũng làm cho Hêrôđê vốn đa nghi phải
giao động. Qua lịch sử, người ta biết rằng cả đời ông bị ám ảnh vì sợ mất quyền
bính, và ông thấy chỗ nào cũng có âm mưu, nên chỉ luôn luôn sống trong các
thành lũy, và cho giết chết ba người con trai, bà mẹ vợ và thậm chí chính người
vợ riêng của mình.
Đấy là về chuyện lịch sử. Nhưng ý nghĩa mà Matthêu dành cho danh
hiệu “Vua dân Do Thái" này lại sâu xa hơn nhiều; Nước Trời sẽ là một trong
những đề tài ông ưa thích. Matthêu, ngay từ đầu loan báo về Đức Vua của Vương
quốc này. Ngay trang đầu trong sách Tin Mừng của ông, có một vương miện đang
tranh chấp: ai thực sự là "vua" dân Do Thái? Hêrôđê, một nhà vua
chuyên chế, hiếu sát và tàn bạo? Hay là Giêsu, người bé nhỏ, yếu hèn, không có
vũ khí sẽ chết như nạn nhân vô tội? Chính ở trang cuối cùng sách Tin Mừng của
mình, theo một phương thức viết hàm ý quen dùng trong văn chương Sê-mít, mà
Matthêu đã đặt lại cho Đức Giêsu "Vua dân Do Thái" này. Những binh
lính sẽ nói "Ngự tâu, Vua dân Do Thái" (Mt 27,29). Philatô sẽ cho ghi
"Này là Vua dân Do Thái" ở trên đầu Đức Giêsu chịu khổ hình thập giá,
để chỉ rõ cái "lý do khiến người bị kết án" (Mt 27,37). Tất cả các
kinh sư và đại giáo trưởng sẽ cười nhạo "Nếu y là Vua dân Do Thái, thì y
cứ xuống khỏi thập giá đi" (Mt 27,37).
Từ khi sinh ra, Thánh Matthêu gợi ý, Đức Giêsu chỉ là một vua
khiêm tốn, hình ảnh của "Người đầy tớ chịu đau khổ" của Isaia vị vua
này sẽ chỉ cưỡi trên lưng lừa (Mt 21,5) trong cuộc khải hoàn chóng qua với
những tàu lá, vị vua đến không Phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt
20,28), và sẽ yêu cầu các bạn hữu của mình "đừng thống trị, mà hãy làm cho
mình trở thành những đầy tớ" (Mt 20,25-26). Vương quyền của vị vua này
không thuộc về thế gian này, nó không hề giống vương quyền của Hêrôđê: nó chỉ
được tiết lộ một cách nghịch lý trong ngày Người thụ nạn, chúng ta sẽ hàm ý gì
dưới những từ lặp lại trong lời kinh của chúng ta: "Xin cho Nước Cha trị
đến!"...Người trị đến với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh đến muôn muôn thế
kỷ".
Chúng tôi đã trông thấy vì sao của Người xuất hiện.
Ngày nay, Giáo Hội so sánh câu truyện Hiển Linh này với bản văn
của Isaia được chọn lựa giữa vô số bản văn Kinh Thánh loan báo Đấng Mêsia đến
như một ánh sáng. "Hãy đứng lên hỡi Giêrusalem, ánh sáng của người đã đến
và vinh quang của Đức Chúa xuất hiện trên ngươi. Hãy nhìn xem: bóng tối lại bao
trùm mặt đất, nhưng Đức Chúa xuất hiện trên ngươi, và vinh quang của Người
chiếu tỏ trên ngươi. Các dân nước sẽ tiến về phía ánh sáng của ngươi, và các
vua, về phía luống sáng bình minh ngươi (Is 60,1-6) Người ta nhớ lại ánh sáng
của Đấng Cứu Độ được hát vào Mùa Vọng và trong lễ đêm Giáng sinh: Người đi
trong bóng tối đã trông thấy xuất hiện một ánh sáng lớn lao, bởi vì một Hài Nhi
đãsinh ra cho chúng ta" (Is 9,1-5).
Trong chủ đề về ngôi sao, có cả một ý nghĩa mà Thánh Phêrô chỉ
rõ khi người nói về đức tin như “sao Mai xuất hiện trong lòng chúng ta” (2Pr
1,19). Ngôi sao tượng trưng cho ánh sáng của Chúa, ân sủng của Chúa, tác động
của Chúa trong tâm trí của mọi người, và dẫn dắt mọi người hướng về Đức Kitô.
Vâng, Thiên Chúa nhìn ngắm với tình yêu những nhà chiêm tinh ngoại giáo tiến về
Đức Giêsu. Trong đời tôi, cũng có một ơn hướng dẫn tôi khám phá ra Đức Giêsu.
Tôi có can đảm đi theo ơn đó cho đến nơi mà ơn huệ hướng dẫn tôi không? Xin hãy
dẫn dắt con trong ánh sáng này một bước, một bước, chỉ một bước hướng tới Chúa!
Và chúng tôi đến bái lạy Người.
"Bái lạy". Động từ này được Matthêu sử dụng ba lần
trên trang này chỉ thái độ sâu xa của các nhà chiêm tinh ngoại giáo này. Họ đến
để thờ lạy. Còn tôi? Đôi khi tôi có bái lạy không? Trước cái gì? Trước ai? Tôi
gán cho một ý nghĩa gì về việc bái lạy của tôi lúc dâng Thánh Thể trong thánh
lễ không? Nhiều bạn trẻ ngày nay, tìm lại được cái cử chỉ bái lạy lớn lao, ở đó
có người nhận biết sự bé mọn của mình, đã hoàn toàn phục dài trên mặt đất trong
lòng tôn thờ của tất cả vạn vật.
Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn
xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân Israel
lại.
Giữa câu truyện Hiển Linh, Matthêu đưa ra hai thái độ mà cháng
ta luôn luôn thấy lại trong sách Tin Mừng cha ông: "Một đàng là sự khước
từ của các lãnh tụ chính trị và tôn giáo Do Thái. Đáng lẽ họ phải là những
người đầu tiên nhận ra Đấng Mêsia Thế mà, họ làm gì? họ sợ hãi, họ lo âu. Họ
không động tĩnh. Ngay từ đầu họ tìm giết Đức Giêsu. Người ta tưởng đã nghe thấy
tiếng kêu buồn rầu to lớn Đức Giêsu thốt ra về Giêrusalem: "Khốn thay! Các
kinh sư và các Pharisêu... Hỡi Giêrusalem! Giêrusalem! Ngạo giết chết những
người ta sai đến với ngươi bao nhiêu lần ta đã muốn tập hợp các con cái ta! Và
các người đã không muốn" (Mt 23,27-37).
Đàng khác, trái lại, sự "đón tiếp" của những nhà chiêm
tinh ngoại giáo. Dù không được chuẩn bị bao nhiêu để nhận biết Đấng Mêsia,
chính họ lại đi tìm kiếm Người, họ năng động, và không chút lo âu, họ cảm thấy
"một nỗi vui mừng lớn lao Người ta tưởng chừng nghe thấy câu kết luận của
sách Tin Mừng Matthêu: Các ông hãy đi và hãy làm cho tất cả các dân nước trở
thành môn đệ (Mt 28,19).
Thực ra, trang Tin Mừng này, trong những thế kỷ đầu tiên, được
dành để cố giải thích cho các Kitô hữu gốc Do Thái (Matthêu muốn nói trực tiếp
cho chính họ) hiểu tại sao Giáo Hội gồm có đa số là những Kitô hữu gốc ngoại
giáo khi mà Thiên Chúa lại gắn bó quá mạnh mẽ với Do Thái. Mátthêu, chứng minh,
nơi Giêsu. một Đấng Cứu Độ được mong đợi. Người đến vì tất cả mọi người: và
nước Do Thái mới gồm có những người Do Thái hay ngoại giáo, bái lạy trước Đức
Giêsu. Điều đó được tất cả những lại phát ngôn "có tính chất phổ độ" loan
báo trước: Giêrusalem phải trở nên kinh đô của tất cả các dân tộc. "Lạc đà
từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Saba kéo
đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức
Chúa" (Is 60,1-6). Người ta nhớ đến, bên Israel. nữ hoàng Saba, đến từ xa,
bà đã lên Giêrusalem để gặp gỡ Salômôn. Thánh Vịnh 71, được hát ngày lễ Hiển
Linh, lặp lại cùng một chủ đề của phần mở đầu: "Các vua xứ Tacsi và các
hải đảo sẽ mang các tặng phẩm đến". Và cũng chính Matthêu sẽ nói lại trong
sách Tin Mừng của ông rằng các dân tộc "sẽ đến từ Phương Đông và Phương
Tây, an phần vào bữa tiệc với Abraham" (Mt 8,11). Một lần nũa, người ta
thấy sách Tin Mừng này được cấu tạo như thế nào. Vâng, các "nhà chiêm
tinh" tượng trưng cho tất cả những người ngoại giáo (và những người không
tin) ở mọi thời đại Và trong những từ này, chúng ta không đưa vào đó một ý
nghĩa xấu nào cả. trái lại!trong số các bạn bè của chúng ta, có đông người như
thế, tất cả những người này hoàn toàn chân thành trong các xác tín của họ, họ
có một cuộc sống ngay thẳng, có một ý thức về công lý, và về việc phục vụ tha
nhân, họ có một đời sống gia đình gương mẫu, và làm trọn một cách hoàn hảo
những nghĩa vụ nghề nghiệp của họ. Dẫu vậy, họ không biết Đức Giêsu Kitô theo
nghĩa mạnh.
Lễ Hiển Linh là lễ của tất cả những người không biết Đức Giêsu,
của tất cả những người có niềm tin khác với chúng ta. Và Thiên Chúa yêu mến họ,
soi sáng cho họ, Thiên Chúa dùng ân điển vô hình để lôi kéo họ đến với Người.
Nhưng, chúng ta, chúng ta phê phán họ như thế nào?
Và đây là điều ngôn sứ đã viết: "Phần ngươi, hỡi Bêlem.
miến đất Giu-đa,... vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra
đời".
Tại sao, hãy nói cho tôi hay, ngôi sao lại không trực tiếp dẫn
lối những nhà chiêm tinh, nếu phải làm, đến Bêlem, gần Đức Giêsu? Tại sao có
đường vòng qua Giêrusalem, qua các "kinh sư và thượng tế” Bởi vì Thiên
Chúa trung thành với những lời Người hứa, và vì, nếu ơn cứu độ được đưa đến cho
tất cả mọi người, thì ơn đó đến qua trung gian những người Do Thái (Rm 9,
10-11).
Họ mở bảo tráp, lấy tặng vật mà dâng tiến.. Họ đi lối khác mà về
xứ mình...
Việc thờ phường là một trong những chức năng chính yếu của Giáo
Hội: sự thờ phượng thật, chính là dâng tiến lên Thiên Chúa kết quả lao động của
con người và của đất. Như vậy cuối cùng tất cả mọi giá trị mà nhờ đó các nền
văn minh sinh tồn được. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời: một con đường
mới mở ra... Tin Mừng vui biết bao, lạy Chúa!