CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG C
MỤC LỤC
36. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
38. Chúa sắp
đến Lm
Carolo Hồ Bạc Xái
39. Cuộc viếng
thăm của Đức Maria Lm Giuse Đinh lập Liễm
40. Thiên Chúa
viếng thăm dân Người Lm. Phêrô Lê văn Chính
47. Maria, người
Mẹ của mùa vọng Lm, G.M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
48. Trở nên
những Emmanuel mới Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
1. Con lòng Bà
Trong một buổi chia sẻ Lời Chúa giữa các bà mẹ, sau khi nghe đọc
đoạn Tin Mừng chiều hôm nay, thì một bà đã đặt câu hỏi: Khi mang thai, có chị
nào biết rõ con mình sẽ ra sao hay không? Dĩ nhiên không phải chỉ biết nó là
trai hay gái, mà còn phải biết khi khôn lớn, nó sẽ như thế nào? Tất cả đều mỉm
cười và lắc đầu không thể nào biết rõ được tương lai của đứa bé. Họ chỉ cầu
mong cho nó được khoẻ mạnh và nên người.
Thực vậy, không một bà mẹ nào lại biết chắc con mình ngày mai sẽ
ra sao ngoại trừ Đức Maria. Chỉ còn một vài ngày nữa là Người Con của Mẹ sẽ
được sinh ra và cùng với Mẹ chúng ta đi thăm người chị họ là bà Elisabeth.
Chính bà chị họ này cũng biết người con ấy như thế nào, khi bà nói cùng Mẹ: Bởi
đâu tôi được diễm phúc là Mẹ cua Chúa tôi đến viếng thăm. Và ngày cả Gioan
trong lòng bà Elisabeth cũng hay biết vì Gioan đã nhảy mừng hớn hở.
Chúng ta hẳn còn nhớ câu chuyện truyền tin được đọc trong ngày
lễ Vô Nhiễm. Thiên thần nói với Đức Maria rằng Ngài sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Và Con
của Mẹ là Đấng cao trọng. Người sẽ là Con Thiên Chúa, sẽ là một vị vua và nước
của Ngài sẽ trường tồn. Và như thế, hẳn Mẹ đã biết được Người Con của Mẹ sẽ như
thế nào? Vậy tại sao Giáo Hội lại đặt bài Tin Mừng này vào Chúa nhật thứ IV,
Chúa nhật cuối cùng của mùa Vọng, gần kề với lễ Giáng Sinh?
Lý do thật tự nhiên và đơn giản. Bởi vì đã gần tới giờ của Mẹ và
chúng ta, những người con của Mẹ, cùng chia sẻ niềm vui mừng và hy vọng với Mẹ.
Mẹ đã biết Người Con của Mẹ sẽ ra sao.
Chúng ta cũng thế, nhờ đức tin, chúng ta cũng biết Ngài là ai và
Ngài sẽ đến viếng thăm chúng ta một cách đặc biệt trong đêm giáng sinh. Chúng
ta biết Ngài là Thiên Chúa, mặc dầu Ngài chỉ là một hài nhi bé nhỏ và yếu đuối.
Chúng ta biết Ngài là Đấng thánh thiện tuyệt vời, mặc dầu bên ngoài Ngài giống
như chúng ta mọi đàng. Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật. Cùng với Mẹ
Maria chúng ta biết Ngài là Đấng cao trọng. Cao trọng trong tình yêu, cao trọng
trong hành động cũng như trong lời nói. Ngài như một bông sen trổi vượt trên
đám bùn nhơ. Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộccứu chuộc của chúng ta. Mẹ
Maria biết Người Con của Mẹ là ai và chúng ta cũng biết như thế.
Sự hiểu biết này sẽ giúp chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui mừng
và hy vọng với Mẹ. Bởi vì ngày sinh nhật của Đức Kitô sẽ đem lại cho chúng ta
sự an bình và hạnh phúc.
2. Trở nên những Em-ma-nu-en mới
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi đang lâm bệnh ngặt nghèo, thập tử nhất sinh hay đang cơn hấp
hối mà có người thân yêu ở kề bên chia sẻ cảm thông thì đó là niềm an ủi lớn
lao không gì sánh được. Khi gặp cô đơn sầu não không kẻ đoái hoài mà có một
người bạn chân tình hiện diện bên cạnh thì không gì quý báu hơn. Trong những
trường hợp đó, người ta mới cảm nhận được nhu cầu có người thân sống-với mình
hay hiện-diện-bên-cạnh mình cần thiết xiết bao!
Vì thế, Đức Cha Gaillot, một giám mục Pháp, đã nhận định rất xác
đáng rằng:
"Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn;
việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết
hơn."
Như thế, chấp nhận sống-với tha nhân, hiện-diện-bên-cạnh tha
nhân thì tốt hơn mọi hình thức trao ban giúp đỡ khác.
Thiên Chúa là Người Cha nhân lành rất yêu thương nhân loại nên
Người muốn sống với, muốn hiện diện bên cạnh nhân loại mãi mãi không cùng.
Chính vì thế, Thiên Chúa tự xưng mình là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa hằng
ở cùng chúng ta. (Is 7, 14. Mt 1, 23)
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua
khoảng cách vô tận giữa trời và đất để đến ở với loài người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Chúa Giêsu đã sống kiếp phàm nhân
suốt ba mươi ba năm để chia sẻ mọi vui, buồn, sướng, khổ của phận người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên dù đã sống lại và lên trời vinh
hiển, Chúa Giêsu vẫn không rời xa các môn đệ. Người nói với họ:
"Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt
28, 20).
"Thầy đi để dọn chỗ cho các con... Thầy sẽ trở lại để đem
các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó." (Mt
14,3)
Vì mong muốn ở lại mãi với các môn đệ, nên Chúa Giêsu khấn
nguyện với Chúa Cha: "Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người
Cha đã ban cho con cũng ở đó với con" (Mt 17,24)
Thế rồi Chúa Giêsu lập nên Bí Tích Thánh Thể để không những ở
với, ở cùng, hiện diện bên cạnh mà còn ở trong chúng ta và nên một với chúng
ta.
Vì biết rằng nhu cầu được thăm viếng, được sống với, được hiện
diện bên cạnh là rất cần thiết nên khi hay tin người chị họ cao niên của mình
được Chúa đoái thương cho cưu mang quý tử, Đức Maria đã không quản ngại thân
gái dặm trường, sẵn sàng băng rừng vượt núi tiến lên miền sơn cước để chúc
mừng, để phục vụ và nhất là để sống với, để hiện diện bên cạnh người chị họ cao
niên suốt cả ba tháng trời.
Về sau nầy, khi tâm hồn các môn đệ hoang mang xao xuyến sau biến
cố Chúa Giêsu về trời, Mẹ Maria tiếp tục hiện diện bên các môn đệ, củng cố niềm
tin đang chao đảo của các ngài.
Và rồi trong suốt dòng lịch sử Hội Thánh, Giáo Hội phải nhiều
phen trải qua gian lao sóng gió, Mẹ Maria luôn có mặt trong những thời điểm khó
khăn đen tối, để hiện diện và đồng hành với đoàn con cái trong lúc gian nan, để
ủi an khích lệ họ trong cảnh u sầu.
"Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn.
Việc từ thiện là cần thiết, hiện-diện-bên-cạnh, cần thiết
hơn."
Hôm nay, noi gương Chúa Giêsu là Emmanuen, Đấng luôn ở với loài
người để cùng chia sẻ ngọt bùi, noi gương Mẹ Maria là Đấng luôn ở cùng nhân
loại để che chở ủi an họ trong những lúc gian truân khốn khó, chúng ta hãy trở
nên những Emmanuen khác, để viếng thăm, an ủi, để sống-với, để
hiện-diện-bên-cạnh những người đang gặp hoàn cảnh đau thương.
3. Làm gương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện kể rằng: tại Na Uy, một chiều đông, tuyết rơi
nặng từng hạt. Một người đàn ông say rượu lảo đảo bước đi trên tuyết. Cậu con
trai 10 tuổi của ông sau khi ngồi chờ cha mình ngoài quán rượu cũng lẽo đẽo
theo cha về nhà. Cậu đặt bàn chân nhỏ bé của mình lên những dấu chân hằn sâu
trên tuyết mà cha cậu để lại, những bước chân ngả nghiêng, chao đảo. Bất chợt
người đàn ông quay lại, nhìn thấy con mình bước thấp bước cao, dáng vẻ như một
người say rượu, ông gắt gỏng hỏi nó với giọng lè nhè: Mày đi kiểu gì vậy?
Cậu bé trả lời: Dạ, con đang đi theo bước chân của cha!
Quả thực. sự gương mẫu thật hệ trọng trong việc giáo dục. Có
những bước chân vô tình tưởng chừng như chẳng liên hệ gì đến ai, nhưng vẫn để
lại cho đời những dấu vết chẳng phai mờ. Có những bậc làm cha, làm mẹ đã thật
ngạc nhiên qua cách ứng xử của con cái sao giống hệt như mình: giận dữ, hống
hách, lười biếng giống như là bản sao của chính mình. Có những người đã từng
quát lên trong cay đắng "sao con lại hành xử như vậy?". Và dường như
nó cũng đang thầm nói lại rằng:"con đang bước theo bước chân của cha
mẹ!"
Giống như con suối tưởng như vô tình, cứ uốn mình theo dòng chảy
của thời gian. Vậy mà nó vẫn còn để lại dấu vết chẳng phai mờ trên mặt địa cầu
bao la rộng lớn. Đời người cho dẫu chỉ là phù hoa, kiếp nhân sinh cho dẫu có
vắn vỏi hay lặng lẽ trôi qua vẫn để lại những dấu vết chẳng phai mờ nơi trần
gian. Vì vậy mà Nguyễn công Trữ mới bảo rằng:
"Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây phúc để đời về sau"
Hôm nay, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm một bước chân thật đẹp
của tình người. Một bước chân của yêu thương không phai mờ qua mọi thời gian.
Một bước chân tràn ngập tình yêu thương để có thể băng đồi, lội suối, vượt qua
mọi thác gềnh, chẳng sợ gian nan của Mẹ Maria. Một bước chân vồn vã bước đi
trong bác ái yêu thương, trong dấn thân phục vụ. Một bước chân có sức mạnh phá
tan mọi băng giá của con tim để sưởi ấm tình người. Một bước chân thăm viếng
thắm đượm tình Chúa, tình người đến nỗi bà Elisebeth đã nghẹn lời thốt lên:
"Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi viếng thăm". Một bước chân nở hoa
bác ái, yêu thương trên hành trình Mẹ đã đi qua.
Mẹ Maria đã chẳng để lại cho đời những giáo thuyết cao siêu,
những lời hay ý đẹp. Mẹ chỉ để lại cho đời một tấm gương sáng ngời của bác ái,
vị tha, của xin vâng và phó thác. Cuộc sống của Mẹ là trang sử thật đẹp để lại
cho trần gian. Một cuộc sống tử bỏ ý riêng để phục vụ cho chương trình Thiên
Chúa. Một cuộc sống chỉ lo chu toàn thánh ý Chúa. Cho dẫu lời xin vâng là chén
đắng, là khổ đau nhưng Mẹ đã làm tất cả vì chỉ mong cho ý Chúa được thực hiên,
cho nhân trần được hưởng nguồn ơn cứu độ.
Ước mong mỗi người chúng ta hãy sống một đời yêu thương để mang
lại cho đời những dấu tích của hiệp nhất và bình an. Tình yêu sẽ giúp con người
vượt qua những nhỏ nhen, ích kỷ để chiến thắng bản thân, để mang lại an bình,
tươi vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Không có tình yêu, cuộc sống giống
như giòng suối khô cạn. Không sự sống. Không sinh khí và hiển nhiên cũng không
còn nguồn sống cho nhau. Cuộc đời cần có tính yêu thì sự sống mới được chăm
sóc, được bảo vệ. Cuộc đời cần có tình yêu thì sự sống mới sung mãn và ngập
tràn niềm vui.
Ở đâu đó vẫn còn nạn phá thai, nạn bạo hành gia đình là vì thiếu
tình yêu. Ở đâu đó vẫn còn tranh chấp, còn chiến tranh, còn hận thù là vì thiếu
tình yêu giữa con người với nhau. Ở đâu đó vẫn còn nghi kỵ, kết án, hiểu lầm,
ghen tương là vì giòng chảy tình yêu đã khô cạn.
Ước mong mùa giáng sinh cùng với những đèn sao lấp lánh nơi hang
đá, mỗi người chúng ta hãy thắp lên cho giòng đời những cây nến sáng của yêu thương,
của lòng trắc ẩn trước nỗi khổ của tha nhân, của dấn thân phục vụ để xoa dịu
nỗi đau cho anh em. Nguyện xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng ta trên những
bước chân của yêu thương đang đi tới với anh em trong yêu thương và phục vụ.
Amen.
4. Mẹ Maria đón Chúa Cứu Thế - Cố Lm. Hồng Phúc
Chỉ còn mấy hôm nữa là đến Lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy chuẩn bị
tâm hồn và thể xác để đón mừng Chúa. Chúa chỉ đi vào lịch sử có một lần, nhưng
Chúa còn đến trong tâm hồn chúng ta nhất là trong những kỷ niệm này.
Thánh Phaolô nói: Ngài đến sinh ra bởi một người Nữ (Gal. 4, 4).
Nhân vật nêu gương cho chúng ta hơn cả trong việc chuẩn bị đón ngày Chúa đến là
Đức Mẹ, người Nữ diễm phúc được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Loài người không
lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã xuống với nhân loại. Trời và đất đã
gặp nhau trong cung lòng Trinh nữ. Mẹ đã trở nên Hòm bia thánh mang ơn cứu độ
cho nhà Israen. Luca viết: “Maria chổi dậy, vội vả ra đi tiến lên miền núi” đến
thăm bà chị họ Isave. Mẹ đến mang tình bác ái, giúp đỡ một người đang cần sự
giúp đỡ. Mẹ đến mang ơn cứu độ cho Gioan mà cuộc đời sẽ mật thiết liên hệ với
con Mẹ.
Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ như cảm động nhận ra Đấng đến
với mình. Thiên thần đã loan báo: “Từ trong lòng mẹ, trẻ ấy sẽ được đầy Thánh
Thần” (Lc. 1, 15). Con hân hoan thì Mẹ cũng vui mừng vì được “Mẹ Thiên Chúa”
đến viếng thăm. Hai chị em ôm chầm lấy nhau, như “song lộc triều nguyên” dâng
lời cảm tạ.
Và Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan
hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” – Magnificat (Lc. 1, 46-56).
Tất cả sự cao trọng của Mẹ, như lời Bà Chị nói, là “đã tin rằng
lời Chúa phán sẽ được thực hiện”. Mẹ sống nội tâm, luôn luôn đón nhận Lời Chúa,
mau mắn thi hành trong tinh thần đức Tin và phó thác. Đó là bài học cho chúng
ta khi suy niệm đoạn Phúc âm “Thăm viếng” này.
Đức Mẹ và Thánh Giuse đang ở Nagiaret, một làng bé nhỏ miền Bắc
Do-thái. Mẹ mong chờ ngày con sinh ra như các bà mẹ mong chờ con, nhưng Mẹ càng
mong chờ và Mẹ biết rằng con đến là ơn cứu độ đến với nhân loại. Mẹ sống hoàn
toàn phó thác và trông cậy vì Mẹ biết rằng 800 năm về trước, nhà tiên tri Michê
(trong bài đọc I) đã tiên báo Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ ở Bêlem, một thị trấn
miền Nam cách đó đến 4, 5 ngày đàng. Nhưng, việc Chúa thì Chúa lo. Và Chúa đã
dùng một ông vua chọc trời khuấy nước, ra một sắc lệnh kiểm kê dân số, một sắc
lệnh có tính cách phô trương nhưng ngầm thực hiện ý nhiệm của Thiên Chúa.
Giuse và Đức Mẹ thuộc chi họ Đavit quê ở Bêlem nên phải về đó
khai sổ bộ. Thế là hai ông bà lên đường. Có lẽ Giuse kiếm được con lừa và ngồi
trên lưng lừa do Giuse hướng dẫn, Mẹ ra đi, cà tật cà tang, hướng về
Giêrusalem. Đường dài 150 cây số.
Mỗi khi có dịp về xứ Giuđêa, mọi người Do-thái đạo đức đều ghé
qua Giêrusalem kính viếng Đền thờ. Hai ông bà hẳn cũng đã làm như vậy, rồi trực
chỉ Bêlem cách thủ đô 8 cây số về phía Nam.
Trời đã về chiều. Luca viết: “không có chổ cho hai ông bà trong
quán trọ” (2, 7). Quán trọ ở đây theo tập tục Do-thái, là một khu vườn có giếng
nước trong có căn nhà lộ thiên cho du khách nghèo ngủ qua đêm. Giuse thấy không
tiện để Đức Mẹ trong quán công cộng vào một lúc quan trọng nhất của đời người
đàn bà, nên đã tìm về những hang đá tự nhiên ở ngoại ô, nơi có các mục đồng hay
lùa chiên vào nghỉ đêm.
“Trong lúc đang ở đó thì Maria sinh hạ con trai đầu lòng. Bà bọc
con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (2, 6). Mẹ làm lấy mọi tác
động, vì Mẹ cưu mang con nhiệm lạ thì cũng sinh con mà không tổn thương sự
khiết trinh, cũng như ngày kia, Con Mẹ sẽ ra khỏi mồ đóng ấn niêm phong. Rồi Mẹ
đặt con nằm trong máng cỏ gối quì thờ lạy, làm cái việc xa xưa nay chưa ai từng
làm là thờ lạy Con. Vì “Mẹ sinh ra Con nhưng Con là Cứu Chúa của Mẹ”. (Thánh
Ephrem).
Lạy Chúa, xin đến lại trong tâm hồn con, để con được đón Chúa
bằng bàn tay dịu hiền, bằng trái tim nồng cháy của Mẹ.
5. Đức Maria gương mẫu của niềm tin
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại: Một hôm Mẹ đến thăm một nhà thương
Anh Quốc rất tối tân, khung cảnh và các phòng ốc của nhà thương khang trang
sáng sủa, trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng tiện nghi vô cùng tối tân, tương
xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra các y tá và nhân viên làm việc trong nhà
thương đều nhã nhặn, nhưng Mẹ nhận thấy một điều kỳ lạ và hỏi vị bác sĩ trưởng
đang hướng dẫn Mẹ đi thăm nhà thương:
- Thưa bác sĩ, tại sao các người bệnh nhân cứ mỗi lần thấy ai
vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?
Câu trả lời của viên y sĩ giám đốc nhà thương rất đơn sơ nhưng
thoáng vẻ buồn:
- Dạ thưa, là vì họ luôn luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con
thân thuộc đến thăm họ nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ.
Ngay từ thời khai sinh, Giáo hội đã luôn luôn khuyến khích tín
hữu viếng thăm những người già cả, bệnh tật, ốm yếu, các tù nhân, người nghèo khó
và tất cả những ai cần sự trợ giúp, an ủi và nâng đỡ, nghĩa là Giáo hội thôi
thúc tín hữu thực thi Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu và nhìn ra gương mặt
của Ngài nơi các anh chị em đau khổ và bị bỏ rơi.
Các bài đọc trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về
con đường nghèo khó, tầm thương và bé nhỏ mà Thiên Chúa đã dùng để đến với nhân
loại và các hệ lụy của sự lựa chọn ấy. Chương (5,1-4) sách ngôn sứ Malakia là
một lời sấm thuộc loại lời sấm cứu thế, được thánh sử Matthêu nhắc lại trong
bài Tin Mừng hôm nay.
Sở dĩ Jérusalem đã không chu toàn sứ mệnh này vì các tội lỗi và
bất trung nó đã vấp phạm, khiến cho nó không có khả năng thực hiện nhiệm vụ ấy.
Do đó, Thiên Chúa đã chọn một nơi khác xa xôi, bé nhỏ và hẻo lánh không ai ngờ
tới. Đó là làng quê Bethlem, trước đây gọi là Ephata. Đấng Cứu Thế và dòng tộc
của Ngài sẽ bắt nguồn từ đó chứ không phải tại thủ đô Jérusalem hay là một
thành phố lớn ở Bethlem. Thiên Chúa chọn gia đình ông Jessé, cha của David và
là ông tổ của thánh Joseph bạn với Đức Trinh Nữ Maria, Người được Thiên Chúa
chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Như thế, Chúa Giêsu Kitô xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại
tại làng quê bé nhỏ. Bethlem này cách xa khung cảnh huy hoàng vĩ đại của các
thành phố lớn thuộc các đế quốc vùng Trung Đông. Ngài đã bước vào gia đình nhân
loại như một trẻ thơ bé bỏng yếu đuối, trong một gia đình thường dân khác.
Tuy nhiên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì
là tình cờ cả, các lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa như: làng quê Bethlem,
cuộc sống khiêm tốn, điều kiện lúc bé bỏng, sự mỏng dòn yếu đuối của con người
đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, bởi vì Đấng
xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị với chính uy quyền của
Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân loại. Kiểu cách lựa chọn
ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình
cứu độ lại càng nổi bật hơn trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Luca (Lc
1,39-48).
Maria một thiếu nữ vô danh, con của một gia đình làng quê
Nazareth được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Đấng Cứu Thế, Con của
Ngài. Phước lành Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại. Trong dòng lịch sử thế
giới và lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu
là phước lành, nhưng phước lành cao quí và trọng đại nhất là Ngài đã ban chính
Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế cho nhân loại.
Lời chào của bà Elizabeth khi thấy Trinh Nữ Maria đến thăm mình
và lời kinh chúc tụng của Trinh Nữ Maria đều khen đến cách thế Thiên Chúa lựa
chọn con đường dẫn Ngài đến cuộc gặp gỡ cứu độ loài người. Con đường bé nhỏ
nghèo nàn, khiêm tốn và kín nhiệm. Nhiều người không chịu được ý tưởng Con
Thiên Chúa phải nhập thể làm người trong lòng một phụ nữ, và mở mắt chào đời từ
cung lòng của một bà mẹ. Do đó, câu chào của bà Elizabeth: "Em ơi, Em thật
có phúc hơn mọi người phụ nữ và Giêsu con em được chúc phúc" khiến cho họ
khó chịu.
Nhưng đây là một sự thật, một sự thật lịch sử minh chứng cho
thấy tất cả cái nghiêm trọng của biến cố Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã
nhập thể làm người và sinh ra từ cung lòng của một người đàn bà trong gia đình
nhân loại. Hoa trái tuyệt diệu ấy, Người Con ấy đã do hoạt động và quyền năng
của Chúa Thánh Thần nên đã được cưu mang trong cung lòng của Trinh Nữ Maria.
Nhưng cũng như bất cứ bào thai nào khác, con người được sinh ra
trên trần gian đều gắn liền với thịt xác, máu huyết của bà mẹ. Và để nhập thể
làm người, Con Thiên Chúa đã cần đến cung lòng của một bà mẹ. Trinh Nữ Maria đã
không tiếp nhận Ngôi Lời trong linh hồn mình. mà đã tiếp nhận Ngài trong chính
thân xác mình, trong chính cung lòng của mình. Và Chúa Giêsu hoa trái tuyệt
diệu của ơn cứu rỗi ấy đã trở thành một bào thai, nhận chịu mọi luật lệ tâm
sinh vật lý của một bào thai. Thân hình, lớn lên, phát triển trong thời gian,
giãy dụa đợi chờ trong lòng Mẹ, được Mẹ nuôi nấng bằng chính máu huyết của Bà
như bất cứ một thai nhi nào khác. Sự kiện Con Thiên Chúa nhập thể làm người lớn
lên từ từ ấy tỏ hiện rõ ràng qua hình ảnh cụ thể tròn trịa của bụng mẹ mình
ngày càng lớn lên trong thời gian.
Hoa trái gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh thực phẩm để
hưởng nếm, để ăn, bồi bổ và nuôi sống. Hoa trái phát sinh từ sự sống và diễn tả
sự sống, nó có nhiệm vụ dưỡng nuôi sự sống và không thể có sự sống mà không có
hoa trái.
Sự kiện Chúa Giêsu là hoa trái, là bào thai, là sự sống lớn lên
trong cung lòng Mẹ Maria, chứng minh Thiên Chúa không phải là một lý thuyết,
một tư tưởng hay một giả thuyết. Thiên Chúa cũng không phải là một luận lý mà
Ngài là một hoa trái Thiên Chúa ban để dưỡng nuôi, để cứu thế giới này khỏi
chết đói. Mẹ Maria đã không nói nhiều mà chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ, thầm
lặng, ẩn dật, cưu mang Chúa Giêsu trong lòng rồi hiến dâng Ngài cho chúng ta.
Sự phong phú không cần lời, ánh sáng không cần lời nói và sự sống với hơi thở
và nhịp đập của con tim chính là sứ điệp. Khi tâm hồn càng trống rỗng khô cằn
bao nhiêu thì con người càng nhiều người và gây nhiều tiếng động bấy nhiêu.
Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong tâm hồn, nhưng chúng ta
chỉ có thể cưu mang Chúa Kitô phong chức và hữu hiệu như Mẹ Maria khi chúng ta
biết sống khiêm tốn bé nhỏ, yêu thích chọn lựa con đường và kiểu cách sống bé
nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ, như người khiêm hạ. Kiểu cách chọn lựa con
đường gặp gỡ và cứu rỗi nhân loại trên đây cũng được nêu bật trong thư gởi giáo
đoàn Do Thái hay diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu.
Biến cố Chúa Giêsu Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một biến
cố trọng yếu và là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, bởi vì nó mở cửa ra một
kỷ nguyên mới, nó vượt xa quan niệm cũ của Do Thái giáo để liên hệ giữa Thiên
Chúa và thế giới, giữa con người và Thiên Chúa. Do Thái giáo đóng khung các
liên hệ này trong đền thánh, trong việc dâng cúng các lễ vật và tuân giữ luật
lệ, mặc dầu các sinh hoạt này đã có nhiệm vụ và vai trò rất ít quan trọng trong
lịch sử cuộc sống tinh thần của dân tộc Israel, Chúa cũng không thể trao ban ơn
cứu độ cho con người. Nếu muốn được ơn cứu độ, con người phải tìm trở về với
chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với nó ngay từ thời tạo dựng, nghĩa là
trước khi con người phạm tội.
Cần phải nhận biết Thiên Chúa và thánh ý Ngài, và lấy đó làm
trung tâm lịch sử đời mình và lịch sử cứu rỗi. Cần phải qui hướng cuộc sống của
mình theo chương trình và ý muốn của Thiên Chúa và hoán cải trở về với Ngài.
Thái độ sống này đòi buộc chúng ta không được tách khỏi cuộc sống lòng tin ra
khỏi các sinh hoạt thường ngày. Bởi vì chúng ta không chỉ là Kitô hữu khi cử
hành các nghi lễ phụng vụ mà thôi, nhưng là trong suốt ngày sống, trong mọi
công việc khác nhau. Tách rời cuộc sống lòng tin khỏi các sinh hoạt và cung
cách hành xử thường ngày là chúng ta khước từ việc tin nhận biến cố Nhập Thể
của Chúa Giêsu. Bởi vì khi Nhập Thể, Chúa Giêsu chấp nhận qui hướng toàn cuộc
sống của Ngài theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: "Này Con xin đến để thực
thi ý Cha". Và Chúa Giêsu đã sống mọi giây phút đời mình dưới ánh sáng
chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, khi biết noi gương Chúa Giêsu sống tinh
thần nhập thể trọn vẹn ấy, là chúng ta đón nhận sứ điệp Giáng Sinh đúng đắn và
trọn vẹn nhất vậy.
6. Chân tướng Đức Giêsu Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Sách tiên tri Mikha nhắc đến Bêlem vì nơi đây sẽ sinh Đấng thống
trị Israel, và nguồn gốc người có từ nguyên thủy tự muôn đời. Tin Mừng Luca cho
thấy bà Isave khi được Đức Maria đến thăm đã thốt lên: “bởi đâu tôi được Mẹ
Chúa tôi đến viếng thăm”. Những lời trên liệu có thể áp dụng cho Đức Giêsu, và
có giúp người ta hiểu Đức Giêsu là ai không?
I. Đức Giêsu là Giêsu Nazarét, con ông Giuse, con bà Maria
Với những người ở Bêlem, thánh Giuse và Đức Maria là những người
bình thường như bao người nhà quê nghèo khác. Chính vì thế, họ không đối xử với
Đức Maria và thánh Giuse một cách đặc biệt: hai ngài đã phải ra chuồng chiên
cừu trú ngụ qua đêm. Đức Giêsu đã được sinh ra trong chuồng chiên cừu. Với họ,
chả có gì đặc biệt khi cặp vợ chồng nghèo Giuse Maria trở về quê và không có
chỗ trú ngụ.
Không biết đêm hôm ấy, đêm Đức Giêsu được sinh ra, trời có sáng
hơn mọi đêm không? Có ai trằn trọc mất ngủ vì một lý do “không biết” nào không?
Hay tất cả vẫn cứ bình thường, vẫn là một ngày như mọi ngày? Biến cố Đức Giêsu
được giáng sinh, có lẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với Đức Maria và thánh Giuse, và
sau đó đối với một số mục đồng đã tin lời sứ thần; còn với tất cả những người
khác, có lẽ tất cả đã như thường.
Khi Đức Giêsu đi rao giảng, và đã làm được một số điều đặc biệt,
người ta cũng vẫn xác nhận Ngài là “Giêsu con bà Maria” (Mc.6, 3), “Giêsu con
ông Giuse” (Lc.4, 22). Các người bị thần ô uế ám thì gọi Ngài bằng “Giêsu
Nazarét” (Lc.4, 34). Với các tông đồ và những chị phụ nữ hôm biến cố Đức Giêsu
bị treo thập giá, Ngài cũng chỉ là một người công chính bị nạn! Với những biệt
phái tư tế kinh sư, Ngài cũng chỉ là một đối thủ cần loại trừ, và họ đã thành
công ở biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá. Với những người không là Kitô hữu
hiện nay, có lẽ Đức Giêsu cũng chỉ là con người đặc biệt hơn một người bình
thường chút xíu; nhưng cũng chỉ là vậy, Ngài cũng chỉ là một người như bao
người khác.
II. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể
“Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi tới viếng thăm!” (Lc.1, 43).
Từ ngữ “thân mẫu Chúa tôi”, theo bản dịch của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh, khác
với từ ngữ “Mẹ Thiên Chúa” như trong sách bài đọc dịch. “Anh em gọi Thầy là
Thầy là Chúa là đúng rồi… vậy nếu Thầy là Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh
em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13, 13-14). Từ ngữ “Chúa” ở đây
có thể chỉ đơn thuần được hiểu như một người làm chủ, người đứng đầu (Thiên
Chủ, Thiên Chúa).
Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh
sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản
tính với Đức Chúa Cha; nhờ Người mà muôn vật được tạo thành” (Nicea năm 325);
và nhờ đó hiểu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Ephêsô năm 431). Đi với khẳng định
này công đồng Nicea đã kết án “hạ phục thuyết” của Arius chủ trương rằng Đức
Giêsu thấp kém hơn Thiên Chúa.
Kitô hữu hiểu Đức Giêsu là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, nhưng vẫn
tin “chỉ có một Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Cái khác nhau là ba
ngôi vị. Kitô hữu cố gắng tránh hiểu ba ngôi như là ba Thiên Chúa. Nơi con
người, ba người (ngôi vị) khác nhau nhưng vẫn cùng một bản tính người; còn nơi
Thiên Chúa, ba ngôi không phải là ba Thiên Chúa nhưng chỉ là một Thiên Chúa.
III. Đức Giêsu là ai?
“Người ta bảo Con Người là ai?… Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?” (Mt.16, 13) Thánh Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng
sống”. Cả với câu này, người ta vẫn giải thích chữ Đức Kitô theo nghĩa rất bình
thường: Môsê, Đavít, Kyrô … cũng đều là đức Kitô cả. “Con Thiên Chúa” cũng có
thể được hiểu theo nghĩa rất bình thường: các thiên thần, các người công
chính,… cũng có thể được gọi là con Thiên Chúa. Chỉ với câu này, người ta không
buộc phải hiểu Đức Giêsu là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Khi người ta hiểu
Đức Giêsu nhận mình là Con đồng bản tính với Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên
Chúa, thì Ngài phải chết vì đó là tội vô cùng lớn: phạm thượng: là người mà cho
mình là Thiên Chúa (Ga.10, 33).
Nhờ những đối kháng dẫn Đức Giêsu tới cái chết, người ta mới
hiểu rằng Đức Giêsu ý thức mình là Thiên Chúa, và người ta cũng hiểu Ngài khẳng
định như vậy, nên người ta có đủ lý do để kết án Ngài mà không cần phải “cáo
gian” nữa! “Máu nó sẽ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27,
25); nếu không ý thức rõ tội của Đức Giêsu, thì người Do Thái không dám nói
những lời như thế. “Chúng tôi có luật, mà chiếu theo luật thì nó phải
chết, vì nó là người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19, 7). Từ ngữ
“Con Thiên Chúa” ở đây phải được hiểu là Con “đồng bản tính” vì nếu không, đâu
có đủ lý do để kết án tử hình Đức Giêsu. Nếu một người công chính được gọi là
con Thiên Chúa, thì tội của Đức Giêsu đâu có là gì mà phải kết án tử hình Ngài.
Đức Giêsu là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa, Đấng “ngự bên hữu
Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62). Người Do Thái kết án tử hình
Đức Giêsu thật là chính đáng, vì Đức Giêsu đã nhận mình ngang hàng với Thiên
Chúa. Nhờ lời của Đức Giêsu, và nhờ án tử hình được công nghị Do Thái tuyên cho
Đức Giêsu, giúp Kitô hữu thấy rõ chân tướng của Đức Giêsu. Ngài là Thiên Chúa,
là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài đúng là Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai
Thiên Chúa. Khẳng định của các công đồng Nicea và Êphêsô đã phản ánh đúng đắn
niềm tin của Kitô hữu sơ khai, cũng như phản ánh đúng ý thức của Đức Giêsu về
chính Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Sứ điệp Đức Giêsu mang lại cho thế gian trong ngày lễ Giáng
Sinh là gì?
2. Có sự liên hệ nào đó giữa sự bình an trong tâm hồn con người,
sự an bình của xã hội và nền hòa bình trên thế giới không?
3. Chỉ dựa vào Kinh Thánh, bạn có thể “chứng minh” Đức Giêsu là
Thiên Chúa không?
7. Niềm vui Tin Mừng – Lm. GB. Trần Văn Hào
Chia sẻ Niềm vui của Tin mừng
Gần ngày lễ Giáng sinh người ta thường viết những cánh thiệp để
gửi trao cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta chúc nhau một mùa
Giáng sinh vui tươi và an lành. Lễ Chúa Giáng sinh là ngày lễ của hoan vui và
niềm vui đó cần được chia sẻ. Hình ảnh Đức Maria đến thăm bà chị họ Elizabeth
mà Giáo hội gợi lên trong phụng vụ hôm nay phác họa cho chúng ta khuôn mẫu này.
Mẹ đã được Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng và nếm cảm niềm vui sâu xa khi
thuộc trọn về Chúa. Sau đó Mẹ lại ‘hối hả lên đường’ để chia sẻ niềm vui ấy với
bà chị họ. Niềm vui nơi những tâm hồn được Chúa chiếm ngự cần được sẻ chia.
Niềm vui của Tin mừng – Gaudium Evangelii
Đức Giêsu đi vào trần gian, là niềm vui Tin mừng lớn nhất được
trao ban cho nhân loại. Mẹ là người đầu tiên đã nếm trải niềm vui đó. Vì vậy, vừa
khi gặp mặt người thân, Đức Maria đã thốt lên: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi”. Niềm vui sâu
tận Mẹ đã trải nghiệm phát xuất từ một tâm hồn để cho Thánh Thần tác động và
sống theo sự chỉ dẫn của Thần Khí. Nói cách khác, sau lời thưa xin vâng, Mẹ đã
thoát vượt mọi sợ hãi, hoàn toàn quy thuận thánh ý Thiên Chúa và đắc thủ được
niềm vui của Tin mừng cách trọn vẹn khi mang chở Đấng Cứu thế trong cung lòng
mình. Vì thế Giáo hội chọn đoạn thư Do thái trong phụng vụ hôm nay (bài
đọc 2) để quảng diễn ý tưởng này. Tác giả thư Do Thái nói về sự vâng phục của
Đức Giêsu khi đi vào trần gian, và đó là nguyên mẫu cho thái độ khiêm tốn của
Đức Maria, cũng như sự tuân phục nơi chúng ta. “Bấy giờ con thưa: Lạy Thiên
Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 6). Đức Giêsu đã đến
trần gian để công bố cho chúng ta Tin mừng của ơn cứu độ và Ngài cũng chính là
Tin mừng được hiến ban cho nhân loại.
Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc
nhở chúng ta về tâm điểm của Tin mừng, đó là rao giảng về niềm vui khi được
Thiên Chúa thương xót (x. số 34-36). Có lẽ Đức Thánh Cha cũng muốn mời gọi
chúng ta học nơi thái độ nội tâm của Mẹ, bởi vì Đức Maria là người đầu tiên nếm
cảm niềm vui của lòng thương xót này: “ Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao
điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn. Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng
thương xót những ai kính sợ Ngài”. Mẹ đã sở đắc được niềm vui của Tin mừng là
chính Đức Giêsu. Chìa khóa để có được niềm vui ấy là Mẹ đã biết khiêm tốn trải
lòng mình ra để Thánh Thần phủ ngập và hoàn toàn quy thuận theo đường lối của
Thiên Chúa.
Càng khiêm tốn, con người càng đạt đến sự toàn hảo. Kiêu căng,
tự mãn sẽ nảy sinh ghen ghét và đố kỵ. Cha Thomas Merton đã định nghĩa: “Hỏa
ngục là nơi tập trung sự ghen ghét”. Nơi đó dành cho Luxiphe và bè lũ của nó vì
nó đã kiêu căng chống lại Thiên Chúa. Ngược lại, Thiên Đàng đã bắt đầu khai mở
nơi tâm hồn Đức Maria vì Mẹ đã hoàn toàn khiêm tốn ẩn náu dưới bàn tay uy quyền
của Thiên Chúa và nếm cảm lòng thương xót của Ngài.
Chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng.
Niềm vui chân thật như một dòng chảy bất tận. Nó không thể bị
quây kín và nhốt chặt lại. Niềm vui cần phải được chia sẻ và trao ban. Điều đó
chúng ta thấy thật rõ nét nơi Đức Maria. Chúng ta đừng hời hợt xem việc Đức
Maria đến thăm bà Elizabeth chỉ như một nghĩa cử thông thường theo tình cảm
huyết nhục tự nhiên. Trước hết và trên hết, Mẹ đem Chúa Giêsu là căn nguyên
niềm vui đến chung chia với mọi người. Thánh Luca không phải vô tình đã mở đầu
trình thuật bằng câu: “Đức Maria hối hả, vội vã lên miền sơn cước”. Mẹ vội vã
và háo hức muốn sẻ chia niềm vui ngập tràn nơi tâm hồn mình. Đó cũng là một
hình ảnh tuyệt hảo để chúng ta suy nghiệm và thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng
trong cuộc sống hôm nay. Trong Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, Đức Thánh Cha
Phanxicô mời gọi các tín hữu phải cảm thấu một cách sâu xa niềm vui như thế và
Ngài cũng nhắc nhở Hội thánh phải ‘đi ra’ để làm lan tỏa niềm vui này (số
46-49). Ngài viết “ Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập mang thương tích và nhơ
nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bấu
víu vào sự an toàn của mình”. Cũng vậy Đức Maria đã can đảm và liều lĩnh ‘đi ra
ngoài’, tiến lên miền núi để đến với người chị họ. Mẹ không ngại bị bầm dập vì
đường xa cách trở, vì đồi núi cheo leo. Mẹ còn hối hả vội vã, như thể sợ tuột
mất niềm vui muốn được sẻ chia. Những từ ngữ trong trình thuật của Thánh Luca
mà chúng ta nghe hôm nay đều mang chở một tính cấp thiết và khẩn trương, vì
việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng là một sứ mệnh khẩn thiết mà chúng
ta phải thực thi mỗi ngày, theo gương Đức Maria.
Những ai sống ơn gọi thánh hiến, đều biết rằng thánh hiến và
tông đồ luôn gắn kết chặt chẽ với nhau. Những ai thánh hiến trọn vẹn cho Chúa,
tất sẽ làm bùng cháy ngọn lửa tông đồ nơi tâm hồn mình. Thánh hiến càng sâu xa,
ngọn lửa tông đồ càng mạnh mẽ. Việc tông đồ không có nghĩa là phải giảng thật
hay, phải phát động nhiều công việc từ thiện, phải khéo léo tổ chức những sinh
hoạt xã hội đa dạng. Tất cả sẽ trở nên vô nghĩa nếu những công việc đó không
xuất phát từ lòng mến, từ tâm hồn được thánh hiến và thuộc trọn về Chúa. Chúng
ta nhớ lại lời dạy của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô.
Ngài viết “ Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và các thiên
thần mà không có lòng mến, thì tôi cũng chỉ như thanh la phèng phèng, chũm chọe
xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, biết những điều bí mật và mọi lẽ
cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non mà không có đức mến, thì
cũng chẳng là gì. Giả như tôi đem hết tài sản của tôi để bố thí, hay nộp cả
thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có lòng mến, thì chẳng ích lợi gì cho
tôi” (1 Cr 13, 1-3). Phải gắn kết mật thiết với Chúa chúng ta mới có thể thực
hành việc tông đồ, vì Thiên Chúa chính là tình yêu, là ‘Đức Mến’ tuyệt đối để
chúng ta quy hướng về.
Chúng ta hãy học nơi Đức Maria. Mẹ không ồn ào náo động, không
tổ chức những cuộc lễ hoành tráng với cờ xí, kèn trống tưng bừng. Mẹ không mở
lớp dạy giáo lý cách rầm rộ, không sinh hoạt trong các đoàn thể, cũng chẳng bao
giờ đi làm công tác từ thiện để xóa đói giảm nghèo, bởi vì Mẹ chỉ là một cô
thôn nữ bình dị, đơn sơ, cũng chẳng học thức hay tài cán cao sang. Nhưng Mẹ
hoàn toàn để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Một việc làm xem ra rất bình
thường Mẹ đã thực hiện mà không ai biết đến, là đi thăm người chị họ nơi miền
núi cao, không kèn không trống và hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Nhưng chính Đức
Maria đã trở thành nguyên mẫu cho chúng ta trong việc chia sẻ niềm vui và loan
báo Tin mừng đến cho mọi người.
Kết luận
Chân phước Philip Rinaldi đã nói: “Thiên Chúa luôn khởi đầu
những công trình vĩ đại từ những con người bé nhỏ và ngang qua những công việc
rất khiêm hạ”. Điều đó rất đúng khi chúng ta chiêm ngắm dung mạo của Đức Maria
được mô tả trong phụng vụ hôm nay. Một nhà tu đức đã nói: “Chắp tay lại thì rất
tốt, nhưng ngửa tay ra vẫn tốt hơn”. Mẹ Maria đã chắp tay lại để thưa lời xin
vâng, và ngày hôm nay, Mẹ tiếp tục mở tay ra để đem niềm vui của Tin mừng đến
cho người khác. Đó là hình mẫu cho chúng ta trong những ngày gần sát lễ Giáng
sinh để chúng ta học nơi Ngài cách thái mừng đại lễ thật sốt sắng và ý nghĩa.
8. Tha nhân được chúc phúc
(Suy niệm của Lm. Barnaba Lê An Phong)
Người môn đệ Chúa với khoé nhìn “tha nhân là người được Chúa
chúc phúc”
Tuần thứ IV Mùa vọng, chúng ta chiêm ngắm Khuôn mặt Mẹ Maria và
những tâm tình nhân hậu của Mẹ với người khác, qua tường thuật Tin mừng của
Thánh Luca về việc Mẹ đi thăm bà Elisabeth.
Cuộc sống của chúng ta là những cuộc gặp gỡ nhiều người, nhiều
nơi, nhiều lúc, nhiều sắc thái và nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Cuộc gặp gỡ
của Maria và Elisabeth khá đặc biệt, theo lời tường thuật của Luca. Họ là hai
người phụ nữ - lớp người thuộc vào hạng không mấy quan trọng trong xã hội
thời đó. Một điều đặc biệt hơn nữa, nếu chúng ta nhìn dưới góc độ văn hóa, tôn
giáo và xã hội: Maria, cô thiếu nữ chưa làm đám cưới (dù đã đính hôn, nhưng
Giuse chưa rước cô về nhà để chung sống), chưa sống chung mà đã mang thai (có
thể bị gán cho tội “không đứng đắn”, phạm tội ngoại tình và sẽ bị ném đá). Bà
Elisabeth, người phụ nữ đã già mà chẳng sinh con; người đàn bà son sẻ, hiếm
muộn có thể bị gán cho số phận không may mắn, bị sỉ nhục và “bị chúc dữ” (xem
St 29,31; 1Sm 1, 10; Is 4,1; Lv 20,20-21; 2Sm 6, 23).
Dưới mắt người đời thời đó, và theo khóe nhìn tôn giáo và văn
hóa Do thái giáo, ít nhất là chúng ta có thể “giả định”, hai phụ nữ này chẳng
có gì để đem ra ca tụng. Hơn thế, ta phải nói đến chuyện một người sẽ bị đem ra
ném đá và người kia có thể được gọi là “kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ”. Điểm đáng
nói nữa là chuyện hai người phụ nữ khi gặp gỡ, họ còn chào và gọi nhau là “đầy
ơn phúc”, “được chúc phúc”. Họ muốn “tung hô nhau” hay tự “xông hương” cho nhau
chăng? Họ thật sự “có phúc” không, và “phúc’ của họ là gì, từ đâu mà có?
Họa hay phúc, ta có thể đánh giá rất chủ quan và có thể bị sai
lệch. Có thể mọi sự sẽ xảy ra như chuyện “Tái ông thất mã”, và cuộc sống
xem ra là là một chuỗi dài của chuyện “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”…
Từ câu chuyện của Maria và Elisabeth, chúng ta có thể nói rằng
chỉ có ai là “người trong cuộc” mới có thể hiểu được mối phúc mà hai người phụ
nữ này có được. Đó là điều kỳ diệu mà Thiên Chúa muốn làm, hay nói cách khác,
là chuyện Thiên Chúa can thiệpcách đặc biệt vào cuộc đời của họ. Maria và
Elisabeth chính là “những người trong cuộc”, là những người bị “dính vào chuyện
của Thiên Chúa”. Và từ đó, thái độ của hai người phụ nữ ấy càng đặc biệt hơn
khi họ biết nhìn ra hạnh phúc thật nơi những điều mà người thế gian cho là bất
hạnh. Thật thế, chúng ta có thể kể ra những điểm sau:
1) Cả hai người phụ nữ nhận ra thân phận bé mọn của mình; họ
“biết mình” bằng sự khiêm tốn chứ không vì tự ti, mặc cảm. Bởi thế họ mới có
thể reo lên Linh hồn tôi ca ngợi Đức Chúa, tâm trí tôi hớn hở vui mừng.
2) Họ hiểu rằng ngay chính nơi sự cùng khốn của mình, Thiên Chúa
đã làm những điều cao trọng. Từ đó họ tuyên xưng rằng Người là Đấng Quyền năng
vàdanh Người chí thánh chí tôn, là Đấng trung tín và giàu lòng yêu thương
– Chúa hằng “thương xót những ai kính sợ Người”.
3) Họ tin rằng những điều cao trọng đã và đang xảy ra cho mình
không phải do ý muốn riêng đạt được hay đó là phần thưởng xứng hợp với công
trạng của mình, nhưng là do Thánh ý Thiên Chúa và lời giao ước tình yêu của
Người với nhân loại, qua dân Israel, với cha ông của họ từ thưở trước.
4) Họ không bận tâm quá nhiều đến chuyện xầm xì của thế gian về
những bất hạnh của riêng mình cho bằng phó thác tất cảmọi sự vào tình yêu
thương, lòngtrung tínvàsự công minh của Thiên Chúa từ đời nọ trải qua đời kia.
Mẹ Maria và bà Elisabeth đã nhìn nhau và nhận ra nơi mỗi người
hồng ân của Thiên Chúa, rồi gọi nhau bằng tên gọi của những “người được chúc
phúc” hay là “người có phúc”. Còn chúng ta? Khóe nhìn nào mà chúng ta có được
khi hướng tới tha nhân?
Hãy nhìn thực tế cuộc sống bên ngoài cộng đoàn chúng ta: Khắp
nơi đầy dẫy những chuyện ghen ghét, lọc lừa. Người ta đánh giá nhau dựa vào
những gì bên ngoài hay ở “bề nổi”. Nhiều bạn trẻ đã không dám nhìn vào người
khác, vì một cái nhìn bị cho là “đểu” có thể là nguyên nhân vô duyên nhất gây
nên cái chết oan khiên của một mạng người. Sự đố kị, cạnh tranh, chèn ép có mặt
ở khắp nơi… Có lẽ khi con người lấy tiền tài, vật chất và vẻ hào nhoáng bên
ngoài làm thước đo các giá trị và là mục đích tối thượng thì người ta sẽ nhìn
tha nhân với một khóe nhìn tiêu cực: “Tha nhân là địa ngục của tôi”, nói như
triết gia Jean Paul Sartre. Và cứ theo kiểu như vậy, người đứng trước mặt tôi
luôn là “nguy cơ”, chính là “tai họa” và là “đầu mối của mọi rắc rối” cho tôi!
Từ đó, trong các mối tương quan nhân vị, sự lựa chọn bắt buộc sẽ nhằm vào việc
triệt thoái hay hạ bệ lẫn nhau. Khi ta không còn khả năng nhìn ra được điều tốt
lành nơi người khác, thì ta chẳng còn biết yêu thương hay trân trọng ai cả.
Quay lại nhìn cuộc sống hằng ngày bên trong mỗi cộng đoàn ki tô
hữu, chúng ta có thể thấy thêm điều gì? Thưa, đó là sự đố kị, tiếng xầm xì, lời
trách cứ, chuyện chê bai cách công khai hay ngấm ngầm và việc xúc phạm đến
nhau, sự tự tôn, sự tự ty, óc bè phái,…Tất cả chính là thuốc độc làm hao mòn,
gặm nhấm các phần tử và tàn hại thân xác mầu nhiệm của Chúa Kitô. Bên trong các
cộng đoàn kitô hữu còn có cả căn bệnh tính toán, so đo thiệt hơn hoặc kiểu hành
xử theo chiều hướng khác của bệnh dửng dưng, vô cảm; của lối sống cá nhân ích
kỷ và thiếu trách nhiệm. Đây là điều mà trước đây Thánh Phaolo đã nhắc nhở các
tín hữu trong các cộng đoàn của ngài, và giờ đây, vẫn còn là một thực tế mà mỗi
chúng ta có thể trải nghiệm.
Như Mẹ Maria, mỗi chúng ta có thể làm gì? Hãy học biết cách sống
khiêm cung và biết đón nhận cuộc sống như một tặng ân vô giá, là hồng ân được
hiệp thông vào Đấng yêu thương và cũng chính là Cùng Đích cao trọng mà mỗi
chúng ta khao khát đạt đến.
Như Mẹ Maria, ta hãy biết vui mừng vì được Chúa yêu thương, biết
tạ ơn vì được Chúa gọi mời cộng tác với Ngài.
Như Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn anh chị em của mình bằng
ánh mắt khiêm cung và trái tim rộng mở, biết cảm thông và bao dung hơn khi đón
nhận người khác, để nhờ đó ta có thể đọc ra dấu chỉ tình yêu và hồng ân mà
Thiên Chúa trao ban cho mỗi người và nơi mọi người; như chính Người “đã cho mặt
trời chiếu sáng trên người lành cũng như trên kẻ dữ” (Mt 5, 45).
Bước vào những ngày cuối của Mùa Vọng, chúng ta hãy chuẩn bị
cùng Mẹ lên đường mang Chúa đến cho người khác như mang một qua tặng quý giá
của tình yêu thương, niềm cảm thông lớn lao hơn cả cho mọi người giữa thế giới
mà tình người đang có nguy cơ bị hoang mạc hoá.
9. Gặp gỡ: Thành sự tại nhân
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Gặp gỡ là cùng có mặt tại một không gian, là sự giáp mặt, tiếp
xúc giữa những người thân quen hay cùng có một mối liên hệ nào đó. Vào Chúa
Nhật IV Mùa Vọng C này giáo hội khi dọn cho chúng ta bàn tiệc Lời Chúa, đặc biệt
qua bài Tin mừng, muốn giới thiệu hai cuộc gặp gỡ. Một là giữa hai chị em Isave
và Maria và hai là giữa Thai Nhi Giêsu với bà Isave và Thai nhi Gioan Tẩy giả.
Đã nói đến sự gặp gỡ thì hàm ý có những hiệu quả tốt đẹp phát sinh. Qua cuộc
gặp gỡ giữa hai bà mẹ cũng như hai thai nhi trên, hiệu quả tốt đẹp đã xảy ra.
Bà Isave đầy ân sủng Thánh Thần, xác nhận sự diễm phúc của cô em Maria cũng như
nói lên hồng ân mà trẻ bé Gioan Baotixita trong dạ của bà đang hưởng nhận.
Chúng ta đừng quên cuộc gặp gỡ ấy cũng đem niềm vui cho cả nhà Giacaria, vì nay
đã có người góp sức cho việc hạ sinh trẻ Gioan. Điều này được hé lộ khi Tin
mừng tường thuật rằng Maria ở lại với gia đình Giacaria – Isave độ ba tháng mới
trở về nhà mình (Lc 1,56).
“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương
phùng”. Câu đối của người xưa nhấn mạnh đến cái duyên, tức là phần số đã được
trời sắp đặt, chuẩn bị, an bài từ trước, như là nguyên nhân chính làm nên sự
gặp gỡ hay không gặp gỡ. Theo viễn kiến này, thì người ta cũng có thể nói như
người xưa: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” hoặc như tác giả Thánh Vịnh:
“Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126,1). Thế
nhưng dưới cái nhìn của mạc khải thời Tân Ước, thì phải chăng chúng ta cũng có
thể nói ngược lại: Mưu sự tại thiên, thành sự tại nhân.
Mưu sự tại thiên: Thiên Chúa đã yêu
thương, chọn gọi loài người từ ngàn xưa để ban cho con người hạnh phúc vĩnh cửu
là thông phần sự sống với Người trong Con Một của Người là Đức Kitô. Thánh
Phaolô đã trình bày ý định nhệm mầu này bằng bản thánh ca: “…Trong Đức Kitô,
Thiên Chúa đã chọn ta trước khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta
trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng
nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô,
để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong
Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu
chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo lượng ân sủng rất phong phú của Người…”(Eph
1,3-14).
Thánh ý của Thiên Chúa là ban cho thế gian chính Con Một dấu
yêu, trong một thân xác cụ thể, làm dấu chỉ và làm phương thế cho sự gặp gỡ
giữa Thiên Chúa với con người. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã nói: “Khi vào
trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho
con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con
mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh
đã chép về con” (Dt 10,5-7).
Khi ban Người Con Một vào trần gian, Thiên Chúa muốn mạc khải
cho biết nguồn gốc đích thực của mọi loài, cách riêng loài người chúng ta chính
là Người, vị Thiên Chúa duy nhất đầy quyền năng đáng tôn thờ và cũng là người
Cha đầy lòng thương xót đáng mến yêu trên hết mọi sự, đồng thời qua đó, mạc
khải cho chúng ta biết mình là anh chị em với nhau, bất phân màu da, sắc tộc,
ngôn ngữ…(x.Mt 5,9; 43-48). Nói một cách không sợ sai lầm rằng chúng ta đã biết
một trong những nội hàm của “mưu sự tại thiên”: Đó là Thiên Chúa muốn mọi người
gặp gỡ Người để được hạnh phúc và gặp gỡ nhau để sống tình huynh đệ.
Thành sự tại nhân: Chúng ta vốn quen
với câu nói của thánh giáo phụ Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có
tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Thánh giáo phụ vừa nói
lên quyền năng cao cả của Thiên Chúa, vừa nói lên đường lối của Người, Đấng là
Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Thiên Chúa đã thương ban cho loài người, hình ảnh của
Người, có lý trí và ý chí tự do. Đây là hệ lụy tất yêu của tình yêu. Tình yêu đòi
hỏi có sự ý thức và tự nguyện. Có thể dễ bị hiểu lầm là kiêu ngạo khi đề cao
vai trò của nhân loại, thế nhưng đó là một cách thế hành động của Thiên Chúa.
Dù rằng đầy quyền năng và không có sự gì là không thể, nhưng Thiên Chúa lại
muốn có sự tự do cộng tác của con người trong việc thi ân, cứu độ con người.
Để chuẩn bị một dân tuyển lựa, Thiên Chúa không bắt ép, nhưng
mời gọi Abraham, một người chăn nuôi súc vật đã khá cao niên lên đường (x. St
12,1-5). Để cho Ngôi Lời Nhập thể cứu đời, Thiên Chúa không ra chỉ thị mà lại
ngỏ ý, đề nghị Maria, một thiếu nữ thôn dã cộng tác (x. Lc 1,26-38). Khi công
khai rao giảng tin mừng Chúa Giêsu thường lặp đi lặp lại câu nói: “Ai có tai để
nghe thì hãy nghe!” (Mt 11,15).
Điều gì cần có nơi phía loài người để thánh ý Thiên Chúa được
thành sự? Chúng ta có thể nhận ra đó là lòng thành và sự khiêm nhu trong một
tâm hồn đầy lửa mến, khát khao sự thiện. Để cho thánh ý Thiên Chúa được thành
hiện thực, nghĩa là có sự gặp gỡ thực sự giữa Thiên Chúa với con người, giữa
con người với nhau, thì phía con người không thể thiếu:
- Một sự hướng thiện trong tình mến: Biết
bao cuộc họp mặt giữa người với người, giữa vị đại diện quốc gia này với quốc
gia kia mà vẫn chưa trở thành sự gặp gỡ, nghĩa là chưa mang lại kết quả. Trong
nhiều lý do rất có thể có lý do là một trong hai phía chưa thực sự có tình yêu
thương nhau hoặc chưa thực sự hướng thiện, nghĩa là tìm kiếm điều tốt trong
chân lý.
- Một tấm lòng thành đầy sự khiêm nhu: Khi
sinh thời, cách riêng trong quảng đời rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã tiếp
xúc rất nhiều người nhưng vẫn có đó không ít người chưa gặp gỡ Người mà trong
số đó có nhiều người biệt phái, luật sĩ. Lý do chính yếu mà tin mừng tường
thuật, đó là vì họ thiếu lòng thành và sự khiêm hạ. Họ là những người có tai mà
không nghe, đúng hơn là không thèm nghe; có mắt mà không thấy, đúng hơn là
không muốn thấy. Làm sao có sự gặp gỡ khi một phía cố tình bịt tai, che mắt?
Trở lại với hai bà mẹ đang mang thai, một trẻ, một già là Isave
và Maria. Tình yêu của của hai bà mẹ dành cho Thiên Chúa, cho con người đã quá
rõ. Một người tuy như là bất hạnh trước người đời vì son sẻ mà vẫn kiên trung
trong sự công chính trước mặt Thiên Chúa và không ai chê trách được điều gì
(x.Lc 1,6), một người thì tràn trề ân sủng (x.Lc 1,28), và cả hai đều đầy ơn
Thánh Thần (x.Lc 1,35; 41). Lòng thành và sự khiêm hạ của Maria đã rõ nét qua
lời thưa xin vâng và lời ca Magnificat: “Chúa đã đoái thương phận hèn tớ nữ…”(x.Lc
1,48). Bà Isave đã nhìn nhận tất cả là ơn Chúa “khi Người đã thương cất nỗi hổ
nhục bà phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25).
Thiên Chúa không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách để gặp gỡ con
người, đồng thời giúp con người gặp gỡ nhau. Thế nhưng trong vấn đề này, chúng
ta có thể nói rằng “mưu sự tại thiên mà thành sự tại nhân” vậy.
10. Đường lối Chúa.
Trong Kinh Thánh, có lần qua môi miệng các tiên tri, Chúa đã
phán: Tư tưởng và đường nẻo của Ta không phải tư tưởng và đường lối của các
ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng sẽ
cao hơn tư tưởng và đường lối của các ngươi bấy nhiêu.
Trải qua dòng lịch sử, Ngài đã thực hiện đúng như thế. Đọc lại
Cựu Ước chúng ta thấy, Đavít chỉ là một trẻ nhỏ đi chăn chiên tại Bêlem, thế
nhưng Chúa đã chọn và đặt Đavít lên làm vua, chiến thắng được đạo quân hùng
mạnh của Goliat và dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim.
Trường hợp của tiên tri Giêrêmia cũng vậy. Lúc bấy giờ ông mới
chỉ là một em nhỏ còn nói cà lăm, thế nhưng Chúa đã chọn ông làm tiên tri để
chuyển đạt thánh ý của Ngài cho toàn dân Do Thái.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa cũng đã hành động như vậy.
Trước mặt người đời thì Đức Maria và bà Isave là hai người không có hy vọng
sinh con. Đức Maria thì khấn giữ mình đồng trinh. Còn bà Isave thì vừa son sẻ,
lại vừa cao niên. Quan niệm dân Do Thái cũng giống như quan niệm của người Việt
Nam ngày xưa, coi sự kiện đông con nhiều cháu là một phúc lành do trời trao ban
vì thế trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: đa
tử đa tôn đa phú quý, đông con nhiều cháu và giàu sang. Bởi đó son sẻ và đồng
trinh sẽ bị người đời cười chê, vì phải chăng đó là dấu bị Chúa chúc dữ? Phải
chăng đó là dấu chỉ tương đường với sự chết bởi vì nếu chết là hết sống, thì
son sẻ và đồng trinh là hết chuyển thông dòng sự sống.
Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn những người bất hạnh và yếu kém như
thế để làm những việc trọng đại. Đức Maria thì được chọn làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ
Đấng Cứu Thế. Còn bà Elisabeth thì được chọn làm mẹ Gioan, vị tiền hô dọn đường
và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho muôn người.
Tuy nhiên đường lối của Chúa là một chuyện, sự kêu mời của Chúa
là một chuyện, điều quan trọng là chúng ta có biết cộng tác với Chúa hay không.
Trong chiều hướng này, thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta Chúa
không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta
ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Bởi đó mặc dù chúng ta là những kẻ hèn kém và yếu đuối, nhưng
nếu chúng ta biết xin vâng như Mẹ Maria và biết cộng tác với ơn Chúa như và
Isave, Chúa cũng sẽ làm cho chúng ta những việc kỳ diện, đó là biến chúng ta
trở nên người đem Chúa đến cho muôn dân.
11. Mẹ Maria.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: Ngày kia, mẹ đến thăm một nhà thương
rất tối tân tại Anh quốc. Mọi căn phòng đều khang trang, sáng sủa và được trang
bị đủ mọi thứ máy móc cùng với những tiện nghi, cân xứng với số tiền phải trả.
Ngoài ra các y tá, nhân viên làm việc rất nhã nhặn và lịch sự.
Nhưng mẹ nhận thấy một điều kỳ lạ và hỏi vị bác sĩ đang hướng
dẫn mẹ đi thăm:
- Thưa bác sĩ, tại sao các bệnh nhân, cứ mỗi lần thấy ai vào là
họ cùng đồng loạt quay nhìn về phía cửa vậy?
Câu trả lời của ông bác sĩ rất đơn sơ nhưng đượm vẻ buồn buồn:
- Thưa mẹ, vì họ luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con thân
thuộc đến thăm, nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ.
Từ câu chuyện này, chúng ta đi vào nỗi chờ mong của nhân loại.
Thực vậy, sau khi nguyên tổ phản bội, Thiên Chúa đã hứa ban cho con người một
Đấng Cứu thế qua lời tuyên phán với Eva: Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và
người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người phụ nữ. Người phụ nữ sẽ đạp
dập đầu ngươi, còn ngươi chỉ rình cắn trộm gót chân người.
Trải qua dòng thời gian, Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái để duy
trì lời hứa thuở ban đầu. Và hình ảnh Đấng Cứu thế mỗi ngày một thêm rõ nét.
Chẳng hạn tiên tri Isaia đã xác định: Một trinh nữ sẽ thụ thai
sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng
chúng ta.
Suốt dọc thời gian, nhân loại đã mò mẫm tìm kiếm Thiên Chúa. Và
nhất là dân Do Thái, họ khắc khoải chờ mong Đấng Cứu thế sẽ đến để giải thoát
họ, mỗi khi đất nước họ gặp phải tai ương hoạn nạn. Nỗi khắc khoải chờ mong ấy
đã kết tinh thành những lời nguyện cầu tha thiết: Trời cao hãy đổ sương xuống
và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời.
Và khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời phán hứa
thuở xưa bằng cách sai Con Một Ngài xuống trần để cứu độ chúng ta. Tuy nhiên,
để Ngôi Lời có thể mặc lấy xác phàm và ở giữa chúng ta, Thiên Chúa đã chọn Đức
Maria để cộng tác với Ngài trong việc thực hiện chương trình cứu độ mà Ngài đã
ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Với lời xin vâng của Mẹ trong hoạt cảnh truyền tin, lời hứa thuở
ban đầu đã trở thành sự thật. Thiên Chúa đã đến với con người để giải thoát họ
khỏi án phạt của tội lỗi. Thế nhưng, trước khi đem Chúa đến cho nhân loại, thì
ngày hôm nay bằng hành động thăm viếng, Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho nhà bà
Êlisabéth, khiến cho Gioan được nhảy mừng.
Mẹ đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho người Kitô hữu, bởi vì Mẹ
không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà còn đem Chúa đến cho người khác.
Noi gương Mẹ Maria, bằng những hành động bác ái yêu thương,
chúng ta cũng hãy đem Chúa đến cho những người chung quanh. Đó cũng chính là sứ
điệp chúng ta cần phải thực hiện trong Mùa Giáng sinh này.
12. Niềm vui trong Thánh Thần.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng
vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa
đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn
trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội
vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh
Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn
cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.
Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường.
Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường
vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả
những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương
xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã xưng
mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Elizabeth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi
được phúc đón tiếp Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Maria đã trả lời
bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái
thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.
Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái.
Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy,
Ngài đã rợp bóng trên Đức Maria và lập tức Đức Maria được tràn đầy lòng bác ái,
đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Maria không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn
bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà
chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Maria vội vã
lên đường ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về
những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra cho cả dân tộc, cả đồng loại.
Nên trong bài Magnificat, Đức Maria đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân
tộc.
Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình.
Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình.
Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã
hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa,
tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa,
Đức Maria còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần
được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yếu,
nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới
Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà
thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Đức Giêsu và can đảm đứng dưới chân thập
giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.
Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ.
Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao
điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm
vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Maria không quản thân phận là Mẹ Thiên Chúa đã
đến phục vụ cho bà Elizabeth. Đức Maria cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai
nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên Chúa, Đức
Maria đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh
của ơn Chúa Thánh Thần.
Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ
giữa Đức Maria và bà Elizabeth, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Thánh Gioan
Baotixita còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn
cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã
họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước
Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo cho Giáo
Hội và Nước Thiên Chúa.
Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh, ta hãy noi
gương Đức Maria, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón
nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Maria dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh
Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón
nhận ơn cứu độ.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần?
2. Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth tràn đầy
niềm vui?
3. Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho
người khác và cho chính bạn không?
13. Lý do nào để nhảy mừng?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Ai cũng biết lễ Giáng Sinh là lễ của vui tươi, của rạng rỡ! Đã
từ lâu, nhất là trong xã hội phương tây, Giáng Sinh là lễ hội của các lễ hội;
nếu nói theo cách người Việt thì là Tết của các ngày tết. Chẳng thế mà ngay cả
trong những xã hội vô thần không thiết gì tới việc Thiên Chúa giáng trần, thế
mà người ta vẫn cứ trang hoàng mua sắm và ăn mừng. Chắc chắn là chúng ta sẽ,
cùng với toàn thể nhân loại hòa mình vào niềm vui chung đó với mọi người, điều
đó là thật dễ hiểu, tuy nhiên với tư cách là Ki-tô hữu, chúng ta thuộc số ít
những người hiểu biết tường tận nguồn gốc và lý do của niềm vui đó. Nguồn vui
có xuất xứ từ việc: một Hài Nhi nhỏ bé, một con người cụ thể đã giáng trần. Và
khi Hài Nhi - Con Người đó tới thì đã đem lại niềm vui cho toàn thể nhân loại,
và làm cho mọi người đều nhảy mừng. Nhưng ‘biết’ thế thôi thì chưa đủ! Câu hỏi
được đặt ra là, có thật tôi và bạn, sau khi ‘biết’ Hài Nhi đến viếng thăm mình,
chúng ta có thực sự muốn nhảy mừng như Gio-an ngay từ trong dạ mẹ hay không?
“bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy mừng
lên”.
Bên Mongolia dân chúng theo một thứ tôn giáo tự nhiên của nhóm
người du mục Trung Á gọi là đạo Shaman. Trong tôn giáo đó, tương tự như Cựu
Ước, thầy Sha-man đóng vai ngôn sứ sẽ chỉ cho dân biết các nơi thần thánh ngự
trị, và sẽ dạy cho dân biết cách làm cho các ngài nguôi cơn thịnh nộ, không ra
tay vật chết hay làm hại được mình. Mỗi khi tới gần nơi các ngài ngự - thường
là một tảng đá hay một gốc cây cổ thụ nào đó, mọi người đều phải kính cẩn đi
quanh ba vòng theo hướng tay phải. Cũng như nhiều tôn giáo cổ xưa khác, Sha-man
quả thực là tôn giáo của sợ hãi; chính vì thế mà khi dạy giáo lý cho các sinh
viên Mongolia, tôi đã cố gắng trình bày đạo Công giáo như một tôn giáo của tình
thương, tôn giáo đem lại vui mừng và hy vọng. Tưởng là một công việc dễ dàng,
nhưng càng dạy, tôi càng nghiệm thấy vẫn còn phảng phất đâu đó, ngay trong ‘Tin
Mừng’ mà tôi đang rao giảng, một nỗi sợ hãi bàng bạc (đôi khi được biện minh
bằng từ ‘kính sợ Thiên Chúa’ chăng?). Chính lúc đó tôi mới nhận ra: yếu tính
thực sự của Tin Mừng phải là vui mừng trọn vẹn. Tin Mừng không chấp nhận đội
trời chung với sợ hãi dưới bất cứ hình thức nào! bao lâu còn vấn vương sợ hãi,
dầu là nhỏ nhất, bấy lâu vẫn chưa thực sự hiện diện Tin Mừng chân chính. Từ cửa
miệng Đức Giêsu không biết bao nhiêu lần đã liên tục vang lên điệp khúc: “Đừng
sợ!” để trấn an các môn đệ là gì?
Nhưng làm sao mà không sợ cho được: nếu đã phạm tội thì tôi phải
sợ hình phạt hỏa ngục chứ…, nếu không hãi sợ thì người ta sẽ phạm tội bừa phứa
mất thôi! Đúng vậy: sợ hãi dựa trên thưởng phạt xem ra là yếu tính của mọi tôn
giáo, nền tảng của mọi nền luân lý và đạo đức xã hội, vì nhân quả là định luật
căn bản tuyệt đối của trời đất và con người. Đã có nhân thì phải có quả, có
thưởng thì phải có phạt, như vậy mới công bằng, mới giúp làm lành lánh dữ chứ!
Như thế Hài Nhi mà Maria mang trong dạ chắc phải có một khả năng
gì đặc biệt lắm: khả năng làm cho con người nhảy mừng và chấm dứt mọi sợ hãi,
khả năng đạp đổ định luật nhân quả cho tới lúc đó vẫn thống trị tuyệt đối trên
toàn thể nhân loại. Sau này khi lên đường rao giảng ‘học thuyết’ của mình,
Giêsu - tên của Hài Nhi đó, sẽ gọi khả năng đó là ‘Tin Mừng’ - Tin Mừng cứu độ;
Tin Mừng này hệ tại ở việc tin và chấp nhận vô điều kiện tình thương tha thứ
của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót từ ái của Chúa, được thể hiện qua Thập
Giá Đức Ki-tô Giêsu, sẽ trở thành định luật mới vĩ đại, đối kháng trực diện với
luật nhân quả ngàn đời; “Ai tin vào Người Con ấy thì không bị kết án… và không
bị luận phạt…” (Ga 3,18). Kể từ khi xuất hiện Hài Nhi, nhân loại sẽ được chia
thành hai phe: một bên là những người tiếp tục sống dưới luật nhân quả, chấp
nhận thưởng phạt như một định luật bất di bất dịch, kèm theo mối sợ hãi ‘tích
cực?’ có khả năng thúc đẩy họ làm lành lánh dữ, còn bên kia là những ai tin và
chấp nhận lòng từ nhân và tha thứ nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà Hài Nhi Giêsu đã
khai mở. Phe thứ hai này sẽ sống không như đầy tớ trong sợ hãi, nhưng trong
tinh thần nghĩa tử của con cái, tuy vẫn biết bản thân mình còn đầy bất toàn và
tội lỗi (xem Gl 4:7). Gio-an Tiền Hô đã là một trong các nhân vật đầu tiên được
ghi danh vào nhóm thứ hai này, và vì thế ông đã nhảy mừng ngay từ lúc khởi đầu
kiếp sống làm người của mình. Tương tự như thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa
Tội, Ki-tô hữu chúng ta cũng đã ghi tên mình vào nhóm hai này, để vui mừng đón
nhận tình yêu tha thứ, là Tin Mừng không vương chút sợ hãi; dưới lối nhìn này,
truyền giáo sẽ được hiểu như một cuộc chinh phục phe nhân loại còn nằm trong sợ
hãi của luật nhân quả, để đưa họ tới hưởng niềm ‘vui mừng và hy vọng’ của Tin
Mừng cứu rỗi.
Vậy tôi hãy nhảy mừng trong ngày Hai Nhi giáng thế, vì đó là
ngày cứu độ, ngày giải phòng trọn vẹn của chính tôi và của toàn nhân loại!
Lạy Mẹ Maria hớn hở mừng vui, xin hãy mang Hài Nhi đến viếng
thăm con và làm cho con cũng được nhảy mừng. Xin cất khỏi lòng con mọi nỗi sợ
hãi, như Mẹ đã từng diễn đạt: “tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, đấng cứu độ
tôi; phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…; đời nọ tới đời kia Chúa
hằng thương xót…” và xin Mẹ làm cho con trở thành một nhà truyền giáo, tức là
kẻ loan truyền cho mọi người niềm vui vì biết rằng: mình được Thiên Chúa cứu
độ. Amen.
14. Vội vã lên đường.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta gặp hai phụ nữ. Cả hai đang mang
thai lần đầu cách diệu kỳ. Cả hai đều được Thiên Chúa đoái thương tuyển chọn.
Theo lời sứ thần, Đức Maria đi thăm bà Êlisabét. Hai bà mẹ gặp
nhau tạo điều kiện cho hai thai nhi gặp nhau. Đấng Cứu độ nhân loại đi thăm vị
Tiền hô của mình. Cuộc gặp gỡ thật bình thường, nhưng lại rất linh thánh, được
diễn ra trong bầu khí tràn ngập Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn luôn tác động trên Đức Maria, và làm cho thai nhi
Giêsu lớn lên từng ngày. Thánh Thần đã đầy tràn Gioan từ trong lòng mẹ khiến
ông nhận ra Đức Kitô và nhảy mừng chào đón. Thánh Thần bỗng chốc đến với bà
Êlisabét làm bà nhận ra điều mắt thường không thấy được, đó là chuyện cô em
Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Maria đem đến cho Êlisabét niềm vui và sự phục vụ, nhưng chính
Mẹ cũng nhận được sự đỡ nâng. Mẹ xác tín hơn về lời thiên sứ loan báo cho mình,
khi Mẹ thấy quả thật bà chị hiếm muộn đã có thai. Mẹ ngỡ ngàng khi thấy mầu
nhiệm kín ẩn mà Mẹ âm thầm đón nhận trong lòng tin, nay lại được Thánh Thần tỏ
bày cho bà chị họ. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà đã khiến Mẹ cất
lời ngợi khen Thiên Chúa (x. Lc 1,46-55).
Cuộc đi thăm nào cũng làm tôi hiểu hơn về mình, và ý thức sâu
hơn về những ơn tôi đã lãnh nhận. Maria biết mình có phúc hơn mọi phụ nữ vì Mẹ
được chọn để cưu mang Đấng Mêsia. Maria biết mình diễm phúc, vì dám tin vào Lời
Chúa. Cuộc gặp gỡ với bà Êlisabét giúp Maria vững tin hơn vào tính khách quan
của kinh nghiệm mình được gặp Chúa.
Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm Ngôi Lời được cưu mang. Khi chấp
nhận làm người, Con Thiên Chúa cần một người mẹ. Ngài được thụ thai cách lạ
lùng trong lòng một trinh nữ, và Ngài đã lớn lên bình thường trong dạ mẹ. Dạ mẹ
là mái nhà êm ấm đầu tiên, là Đền Thánh trước khi Con bước vào thế giới.
Khi được nuôi bằng sự sống của Mẹ Maria, Con đã thánh hóa tất cả
những gì thuộc về Mẹ.
Tất cả những gì nằm trong tiến trình làm người như thụ thai,
mang thai, sinh đẻ, dưỡng nuôi bú mớm... đều trở nên thánh thiêng, vì được Con
Thiên Chúa đảm nhận.
Con Thiên Chúa đã từng là thai nhi trước khi chào đời, nên mỗi
thai nhi đều là hình ảnh Chúa cần trân trọng. Như Gioan nhảy mừng lúc còn trong
dạ mẹ, mỗi thai nhi đã biết diễn tả buồn vui, đã cần được yêu mến. Lễ Giáng
Sinh đòi ta quan tâm đến các bà mẹ và thai nhi.
Hàng năm có cả triệu vụ phá thai trong nước... Kính trọng thân
xác phụ nữ, tôn trọng sự sống thai nhi: đó là Tin Mừng Giáng Sinh cho khắp thế
giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các nhà nghiên cứu xã hội phỏng đoán có tối thiểu khoảng 2 triệu
người phá thai mỗi năm trong cả nước. Bạn có biết những nguy hiểm về thể xác và
tinh thần cho các bà mẹ phá thai không?
Các tệ nạn xã hội gia tăng dẫn đến đại dịch AIDS. Bạn nghĩ gì về
chuyện buôn bán thân xác phụ nữ? Có cách nào giải quyết không?
Cầu Nguyện
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả
tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung
thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong
được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những vô ơn, không chán
nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu
Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống
với Ngài trên trời. Amen.
15. Mẹ Maria được phúc vì đã tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng luôn đề cao Đức Maria.
Mẹ luôn tin vào Lời Chúa: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em". Mẹ luôn vâng theo thánh ý
Chúa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần
truyền". Mẹ sẵn sàng giúp đỡ người khác: viếng thăm và giúp đỡ bà
Êlisabét.
Đức Thánh Cha Bênêđictô đã dâng Năm Đức Tin cho Đức Maria là “Mẹ
Thiên Chúa, được tuyên xưng là ‘người diễm phúc’ vì ‘Mẹ đã tin’ (Lc 1,45)”.
(Cánh Cửa Đức Tin, số 15).
“Nhờ đức tin, Mẹ Maria đã đón nhận lời thiên thần và tin nơi lời
loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa trong sự tuân phục tận tụy của Mẹ (x. Lc
1,38). Khi viếng thăm bà Elisabeth, Mẹ cất bài ca chúc tụng Đấng Tối Cao vì
những kỳ công Chúa thực hiện nơi những người tín thác nơi Ngài (x. Lc 1,46-55).
Mẹ vui mừng và hồi hộp sinh hạ Con duy nhất, mà vẫn giữ nguyên sự đồng trinh
[...] (x. Lc 2,6-7). Tín nhiệm nơi Thánh Giuse hôn phu, Mẹ mang Chúa Giêsu sang
Ai Cập để cứu con khỏi cuộc bách hại của Hêrôđê (x. Mt 2,13-15). Với cùng đức
tin Mẹ theo Chúa trong thời gian giảng đạo và ở với Chúa cho đến tận đồi
Golgota (x. Ga 19,25-27). Với đức tin, Mẹ Maria niếm hưởng những thành quả đầu
tiên của cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, và cẩn giữ mọi kỷ niệm trong lòng (x. Lc
2,19.51), Mẹ thông truyền kỷ niệm ấy cho 12 Tông Đồ tụ họp với Mẹ trong Nhà
Tiệc Ly để lãnh nhận Thánh Linh”. (x. Cánh Cửa Đức Tin, số 13).
Trong “Kinh Năm Đức Tin” (WHĐ), có lời cầu nguyện với Đức
Mẹ:“Lạy Mẹ Maria, Mẹ được chúc phúc vì đã tin.Xin giúp chúng con luôn tin những
lời Chúa dạy và Hội Thánh truyền, biết phó thác mọi sự cho tình yêu quan phòng
của Chúa, biết quan tâm đến nhu cầu của mọi người anh chị em chung quanh chúng
con, nhờ đó họ sẽ được nhận biết Chúa, để chính họ cũng nhận được ơn đức tin
đem lại sự sống đời đời”.
Đức Maria được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ không chỉ tin mà còn
hành động theo điều Mẹ đã tin. Vì thế, Mẹ trở nên thầy dạy về đức tin và đức
ái.
1. “Đức tin hoạt động qua đức ái”(Gl 5,6)
Khi được diễm phúc cưu mang Con Thiên Chúa trong lòng, Đức Mẹ đã
hân hoan lên đường đem niềm vui đến với người chị họ cũng đang tràn đầy hạnh
phúc, chia sẻ khó khăn với chị mình tuổi cao mà mang thai.Dù đường sá xa xôi,
vất vả, qua miền đồi núi, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm và giúp đỡ. Lòng tin
thúc đẩy bước chân Mẹ thực thi bác ái. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người
loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ”
(Is 52,7). Hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo
tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo.
Cuộc viếng thăm là sự gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con
đang được cưu mang, giữa hai giao ước cũ và mới.
- Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng
là đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ở lại phục vụ người chị
trong thời gian mang thai sinh con. Êlisabét được ơn Thánh Thần đã xưng tụng
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.
- Giữa hai người con: Nghe lời chào của
người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, con trẻ Gioan trong lòng mẹ Êlisabét nhảy mừng
vui sướng.
- Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của
Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con
Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.
“Đức tin hoạt động qua đức ái”trở thành một tiêu chuẩn mới để
hiểu biết và hành động, thay đổi toàn thể cuộc sống của con người (x. Rm 12,2;
Cl 3,9-10; Ep 4,20-29; 2 Cr 5,17). Đức tin không có đức ái thì không sinh hoa
kết quả, và đức ái mà không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn bị sự nghi
ngờ chi phối. Đức tin và đức ái cần nhau, đến nỗi đức này giúp đức kia đi trọn
con đường của mình. Quả thật, có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương
phục vụ những người cô đơn, bị gạt ra ngoài lề xã hội hoặc bị tẩy chay, coi họ
như những người đầu tiên cần phải chú ý đến và như người quan trọng nhất cần
được nâng đỡ, vì chính nơi họ phản ảnh dung nhan của Đức Kitô. (x.Cánh Cửa Đức
Tin, số 14).
Đức tin đi đôi với lòng mến. Lòng mến càng nhiều đức tin càng
mạnh. Khi yêu mến Chúa, chúng ta sống Lời Chúa: "ai yêu mến Thầy thì hãy
giữ lời Thầy"; với trọn niềm tin:“Tất cả những gì anh em xin thì sẽ được
như ý” (Mc 11,24).
2. Đức ái là hoa trái đức tin
"Đức tin không có Đức ái thì không mang lại hoa trái. Đức
ái không có đức tin thì sẽ là một thứ tình cảm không thuyết phục. Đức tin và
Đức ái cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình.”
(x.Cánh Cửa Đức Tin, số 14). “Đức Tin là Đức ái trong gốc rễ, còn Đức ái là Đức
Tin mang hoa trái. Vì thế, Đức Tin khi được canh tân thì cũng làm cho Đức ái được
tăng triển và ngược lại, khi Đức ái được nồng cháy thì Đức Tin cũng được củng
cố. Đức Tin đem ánh sáng, Đức ái đem hơi ấm”. (x.tham luận của Đức Cha Đaminh
Nguyễn Chu Trinh, tại Hội nghị Thường niên Caritas Việt Nam 2012).
Khi đến thăm bà Êlisabét, Đức Mẹ đem Chúa đến cho người thân của
mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlisabét vui mừng, mà hài nhi
trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui.
Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn
có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Êlisabét, được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ
đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Êlisabét là gia
đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận
niềm vui ơn cứu độ.
Đức Mẹ là mẫu mực đức ái. Năng thăm viếng những người chúng ta
yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những
người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm
viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ,
tình yêu thương của đạo Chúa.
Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói
lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình
thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp
bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến.
Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành,
thánh thiện hơn.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình
nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà
Êlisabét đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính
ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương,
bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi.
Tình yêu đòi hỏi phải thể hiện bằng việc làm.Tình yêu được biểu
lộ thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người
thân, làm cho người khác trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Thăm viếng nhau là thể hiện tình liên đới, biết quan tâm giúp đỡ
nhau.
Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm
viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi
thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục
biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch
mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.
Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm
viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối,
gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của
mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu sống đức tin.
Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi
tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẻ cho các gia đình nghèo
trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người
khác.
3. Đức Mẹ, thầy dạy đức tin và đức ái
Đức Mẹ chính là thầy dạy đức tin và đức ái. Tin và yêu giống như
đôi cánh giúp cho Mẹ bay lên rất cao, lên tới Thiên Chúa. Tin và yêu giống như
chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa kho tàng quý nhất. Mở được cả cánh cửa
kho tàng nước trời, mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa.
Đức Mẹ dạy chúng ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại
Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: "Người bảo làm gì, thì các anh hãy cứ làm
theo". Hôm nay, Đức Mẹ cũng muốn nói với chúng ta: nếu Chúa đã dạy:
"Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy", thì hãy sốt sắng tin
tưởng cử hành Bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin, vì Đấng quyền năng đã biến nước
lã thành rượu ngon thì cũng quyền năng biến đổi bánh và rượu trở nên Mình Máu
Thánh của Người, “Anh em biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật
phúc cho anh em” (Ga 13,17).
Đức Mẹ dạy chúng ta sống và thực thi đức bác ái. Mẹ đem tình
thương đến với gia đình Bà Êlisabét. Người chị họ ca khen Mẹ: "Em có phúc
vì đã tin". Đức tin đem lại hạnh phúc. Có nhiều bằng chứng trong các sách
Tin Mừng:
- "Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: Ông cứ về
đi. Ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi
bệnh" (Mt 8,13)
- Chúa Giêsu quay lại nói với người đàn bà bị băng huyết:
"Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con". Và ngay từ
giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt 9,22)
- Chúa Giêsu nói với hai người mù đi theo Ngài "Các anh có
tin là tôi làm được điều ấy không?" Họ đáp "Thưa Ngài chúng tôi
tin". Bấy giờ Ngài sờ vào mắt họ và nói "Các anh tin thế nào thì được
như vậy". Mắt họ liền mở ra. (Mt 9,28-29)
Hạnh phúc cho những ai tin vào Thiên Chúa và thực thi đức ái
trong đời sống hàng ngày. Sống đạo là sống niềm tin thể hiện qua việc làm “Đức
Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”(Mt 11,19).
Đức Maria giàu tình thương nên xứng đáng làm Mẹ của Chúa Giêsu
là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Học nơi Mẹ, bậc thầy về lòng tin và lòng
mến chúng ta sẽ sống tốt lành và thánh thiện trên hành trình đức tin của đời
sống.
16. Thân mẫu Chúa đến với tôi.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong Chúa Nhật cuối cùng của mùa Vọng, Hội Thánh mời gọi chúng
ta suy niệm về cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét, giữa
hai thai nhi: Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui. Niềm vui của chị Maria với
bước chân vội vã băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê. Chị không đi
một mình trên đường xa, vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị. Chị
chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét để phục vụ bà trong những ngày gần sinh
nở. Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria. Bà ngây ngất trước
hồng ân mà cô em mình đã nhận được. Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu
Chúa đến thăm. Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng. Dường như bà
quên cả niềm vui riêng tư, để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần. Thánh Thần vẫn
tác động trên chị Maria. Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét. Thánh Thần đã hoạt
động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria vì chị mang lại
Đấng ban Tin Mừng cứu độ. Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ và chị cưu mang Đấng
đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa, chị Maria đã sống như nữ
tỳ của con người. Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, chị còn có
phúc vì chị đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ. Ngài
tăng trưởng như mọi người. Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé, những
nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt. Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn
mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ, không ai có quyền
khinh rẻ một thai nhi, vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường người phụ nữ, vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một
trinh nữ sinh ra.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Maria đi phục vụ bà Êlisabét, theo ý bạn, đâu là những đặc
tính của một người phục vụ tốt?
Nhiều quốc gia chấp nhận cho phá thai. Bạn nghĩ gì về sự kiện
đó?
Cầu Nguyện
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả
tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung
thành và quảng đại. không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn. yêu mà không mong
được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những vô ơn, không chán
nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu
Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống
với Ngài trên trời. Amen.
17. Phước lành Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại: "Một hôm, Mẹ đến thăm một nhà
thương Anh quốc rất tối tân. Mẹ tả phong cảnh và các phòng ốc của nhà thương
rất khang trang, sáng sủa và trang bị đủ mọi thứ máy móc cùng tiện nghi vô cùng
tối tân, cân xứng với số tiền phải trả. Ngoài ra, các y tá, nhân viên làm việc
trong nhà thương đều rất nhã nhặn và lịch sự. Nhưng Mẹ nhận thấy một điều lạ kỳ
và hỏi một vị bác sĩ đang hướng dẫn Mẹ đi thăm nhà thương. "Thưa bác sĩ,
tại sao các người bệnh cứ mỗi lần thấy ai vào là họ cùng đồng loạt quay nhìn về
phía cửa vậy?". Câu trả lời của viên giám đốc nhà thương rất đơn sơ nhưng
đượm vẻ buồn: "Thưa, vì họ luôn luôn chờ đợi một ai đó trong số bà con
thân thuộc đến thăm họ, nhưng chẳng có ai đến thăm họ bao giờ hết".
Ngay từ thời sơ khai, Giáo Hội bao giờ cũng luôn luôn khuyến
khích các tín hữu thăm những người già cả, bệnh tật, ốm yếu, tù nhân, nghèo khó
và tất cả những ai cần trợ giúp, ủi an nâng đỡ. Nghĩa là Giáo Hội hối thúc tín
hữu thực thi Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu và nhìn ra khuôn mặt của Ngài
nơi các anh chị em đau khổ và bị bỏ rơi này.
Các bài đọc Chúa nhật này cũng mời gọi chúng ta suy tư về con
đường nghèo hèn, tầm thường bé nhỏ, mà Thiên Chúa đã dùng để đến với loài người
chúng ta và các hệ lụy của sự lựa chọn ấy. Chương 5,1-4, sách tiên tri Mikêa là
một lời sấm thuộc một lời sấm cứu thế được thánh sử Matthêu dùng lại và áp dụng
cho Chúa Giêsu trong bối cảnh này. Lời sấm này của tiên tri Mikêa diễn tả các
trái nghịch giữa sứ mạng Thiên Chúa giao phó cho Giêrusalem trong dòng lịch sử
cứu độ và cái bất lực của nó. Sở dĩ Giêrusalem đã không chu toàn được sứ mạng
này vì tội lỗi và bất trung nó đã vấp phạm, khiến cho nó không còn khả năng
thực hiện những nhiệm vụ ấy. Do đó, Thiên Chúa đã chọn lựa một nơi chốn khác xa
xôi, bé nhỏ và hẻo lánh không ai ngờ tới. Đó là làng quê Bêlem, trước đây gọi
là Ephrata.
Đấng Cứu Thế và dòng tộc của Ngài sẽ bắt nguồn từ đó chớ không
phải tại thủ đô Giêrusalem hay một thành phố danh tiếng nào khác vùng Trung
Đông cổ. Và trong làng quê Bêlem, Thiên Chúa chọn gia đình ông Giêsê, cha của
vua Đavít và là ông tổ của thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ Maria, người được
Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế. Như thế, Chúa Giêsu Kitô
xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại tại làng quê bé nhỏ Bêlem này, cách xa
khung cảnh huy hoàng vĩ đại của các thành phố lớn thuộc các đế quốc vùng Trung
Đông. Ngài đã bước vào gia đình nhân loại như một trẻ bé bỏng, yếu đuối, trong
một gia đình bình thường như hàng ngàn vạn gia đình bình thường khác. Tuy
nhiên, trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì là tình cờ cả. Các
lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa, là quê Bêlem khiêm tốn, điều kiện bé bỏng
yếu đuối của con người đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của
Thiên Chúa. Bởi vì Đấng xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị
với chính uy quyền của Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân
loại.
Kiểu cách lựa chọn ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa
dùng để hiện thực chương trình cứu độ, càng nổi bật hơn theo bài Phúc Âm thánh
Luca, 1,39-48. Maria, một thiếu nữ vô danh, con của một gia đình làng quê
Nazareth được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Đấng Cứu Thế Con của Ngài.
Phước lành Thiên Chúa đổ tràn đầy trên Trinh Nữ Maria cũng là phước lành Thiên
Chúa ban cho toàn thể nhân loại trong dòng lịch sử thế giới, lịch sử loài
người. Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu là phước lành,
nhưng phước lành vĩnh viễn và cao quí trọng đại nhất là chính Đức Giêsu Kitô,
Đấng Cứu Thế. Lời chào của bà Isave khi thấy Trinh Nữ Maria đến thăm mình và
lời kinh chúc tụng của Trinh Nữ Maria đều ngợi khen kểu cách Thiên Chúa lựa
chọn con đường dẫn Ngài đến cuộc gặp gỡ cứu độ loài người, con đường bé nhỏ tầm
thường khiêm tốn nghèo hèn. Nhiều người không chịu được ý tưởng Con Thiên Chúa
nhập thể làm người trong lòng một phụ nữ và mở mắt chào đời từ lòng của một bà
mẹ. Do đó, câu chào của bà Isave: "Em ơi, em thật có phúc hơn mọi phụ nữ
và Giêsu người con của cung lòng em cũng thật là có phúc". Nhưng đây là
một sự thật, một sự thật lịch sử minh chứng cho thấy, tất cả những biến cố của
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã nhập thể làm người và sinh ra từ cung lòng
của người đàn bà trong gia đình nhân loại, hoa trái ngọt dịu ấy, người con ấy
do hoạt động và quyền năng của Đức Chúa Thánh Thần nên được cưu mang trong cung
lòng của Trinh Nữ Maria. Nhưng cũng y như bất cứ bào thai nào khác của con
người trần gian, nó được gắn liền thịt xác của bà mẹ và sẽ nhập thể. Con Thiên
Chúa đã cần đến cung lòng của một bà mẹ. Trinh Nữ Maria đã không tiếp nhận Ngôi
Lời trong linh hồn mình, mà đã tiếp nhận Ngài trong chính thân xác mình, trong
cung lòng phụ nữ của mình. Và Chúa Giêsu đã chấp nhận một luật lệ tâm, sinh,
vật lý của một bào thai thành hình lớn lên trong 9 tháng 10 ngày, được mẹ nuôi
bằng chính máu mẹ như mọi thai nhi khác. Sự kiện lớn lên dần dần ấy tỏ ra qua
hình thể tròn trịa của bụng mẹ ngày càng lớn lên. Sự kiện Giêsu là hoa trái, là
bào thai lớn lên trong bụng mẹ, chứng minh Thiên Chúa không phải là một lý
thuyết, một giả thuyết, mà Ngài là một hoa trái để dưỡng nuôi cứu độ thế giới
này.
Mẹ Maria chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ thầm lặng ẩn dật, cưu
mang Giêsu, hoa trái cứu độ rồi dâng hiến Ngài cho chúng ta. Ánh sáng không cần
lời nói, sự sống hơi thở của con tim chính là sứ điệp. Khi lòng càng trống rỗng
bao nhiêu thì con người càng gây nhiều tiếng động tình yêu. Kitô hữu là người
cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng nhưng có thể mang Chúa Kitô phong phú và hữu
hiệu như Mẹ Maria, khi ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ và yêu thích con đường
kiểu sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ khiêm hạ.
Như đã nêu lên trong thư Do Thái diễn từ về chức linh mục của
Chúa Giêsu, biến cố Chúa Giêsu nhập thể làm người là một biến cố lịch sử và là
trung tâm điểm của lịch sử cứu độ. Bởi vì nó mở ra một kỷ nguyên mới, nó vượt
xa quan niệm cũ của Do Thái về liên hệ giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa con
người và Thiên Chúa. Do Thái giáo đóng khung các nghi lễ này trong đền thánh,
trong việc dâng cúng các lễ vật và việc tuân giữ luật lệ. Mặc dầu các sinh hoạt
đã có nhiệm vụ và vai trò rất quan trọng trong lịch sử cuộc sống tinh thần của
Israel, chúng cũng không thể trao ban ơn cứu độ do con người. Nếu muốn được ơn
cứu độ, con người cần phải trở về với chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với
nó ngay từ thời tạo dựng. Nghĩa là trước khi con người phạm tội, cần phải nhận
biết Thiên Chúa và thánh ý Ngài và lấy đó làm trung tâm lịch sử đời mình và
lịch sử thế giới, cần phải quy hướng cuộc sống của mình theo chương trình và ý
muốn của Thiên Chúa và hoán cải trở về với Ngài. Thái độ sống này đòi buộc
chúng ta không được tách rời cuộc sống lòng tin khỏi các sinh hoạt thường ngày,
bởi vì chúng ta không phải chỉ là Kitô hữu khi cử hành các lễ nghi phượng tự mà
thôi, nhưng là suốt ngày, trong mọi công việc khác nhau. Tách rời cuộc sống
lòng tin khỏi sinh hoạt trong cách hành sử thường ngày là chúng ta khước từ tin
nhận biến cố nhập thể của Chúa Giêsu. Bởi vì khi nhập thể, Chúa Giêsu quy hướng
toàn cuộc sống của Ngài theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: "Này con xin đến
để làm theo thánh ý Cha". Và Chúa Giêsu đã sống mọi giây phút đời mình
dưới ánh sáng chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, khi biết noi gương Chúa
Giêsu, sống tinh thần nhập thể trọn vẹn, ấy là chúng ta đón nhận sứ điệp Giáng
sinh đúng đắn và trọn vẹn nhất.
18. Chia sẻ niềm vui – Radio Veritas
Asia.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Trong bầu khí mừng lễ Chúa Giáng sinh, phụng vụ hôm nay trình
bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự
gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả
trong lòng bà Elizabeth.
Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Mikêa cho thấy lời Chúa hứa là
Người sẽ gặp dân Người và điểm quan trọng là tiên tri gọi đích danh thành Bêlem
và cho biết từ đó sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel. Với lời hứa đó, con người
sống trong hy vọng và từ nay Thiên Chúa không còn gặp gỡ con người trong tiếng
sấm kinh hồn, trong chớp lòa khủng khiếp, mà trong một Đấng xuất thân từ một
địa điểm rõ rệt trên mặt đất này. Và chính Đấng đó sẽ chăn dắt Israel trong sức
mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Thiên Chúa.
Như thế từ 700 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, tiên tri Mikêa
đã chỉ rõ nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và ở cùng con cái loài người. Đó là một
điểm khuyến khích niềm hy vọng, sự mong chờ trong Cựu Ước. Thiên Chúa đến gặp
gỡ con người, ở với con người và hướng dẫn con người trên con đường về Nước
Thiên Chúa.
Bài đọc thứ hai trích từ thư gởi tín hữu Do Thái của thánh
Phaolô, diễn tả một cách chính xác hơn, cụ thể hơn Đấng đến gặp con người mà
tiên tri Mikêa chỉ diễn tả cách lờ mờ trong hy vọng. Đấng đó đến với một thể
xác để thi hành thánh ý Chúa trong thân xác của mình thay thế cho bao nhiêu của
lễ toàn thiêu, của lễ đền tội. Đấng đó chính là Chúa Giêsu, Ngài đã đến và đã
là điểm gặp gỡ hữu hình giữa Thiên Chúa và con người. Ngài là trung gian giữa
trời và đất. Nơi Ngài, con người nhìn thấy Thiên Chúa hữu hình để qua Ngài, con
người đem lòng yêu mến những sự vô hình, và Thiên Chúa chí tôn chí thánh yêu
mến con người yếu đuối, tội lỗi khi nhìn thấy nhân loại nơi Chúa Giêsu và trong
Chúa Giêsu, vì Chúa yêu thương con người qua những gì Chúa quí mến nơi Con Một
Chúa Nhập thể làm người. Đó là một sự gặp gỡ nhiệm mầu mà chỉ có Thiên Chúa mới
bắc cầu qua được vực thẳm xa cách giữa Thiên Chúa và con người đó. Chính nhờ
Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà chúng ta được nên thánh và
được vui mừng tiến về thiên quốc, qua vực thẳm đã được Thiên Chúa bắc cầu gặp
gỡ.
Tiếp đến chúng ta thấy người cộng tác trực tiếp và tích
cực cho cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người này, chính là Đức Maria.
Người đã mang thai Đức Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần, để cung cấp cho Ngôi thứ
hai một thân xác theo ý định Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc
thứ hai: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng nhưng đã tạo
nên cho tôi một thể xác".
Với hình ảnh Maria đi viếng bà Elisabeth nơi Phúc Âm hôm nay,
các thánh trong Giáo Hội hay suy niệm đó là hình ảnh người đem Chúa đến cho
nhân loại. Khi nói đến sự gặp gỡ đầu tiên trong thân xác với thân xác, giữa
Thiên Chúa và con người này, thánh Luca đã diễn tả một quang cảnh tràn ngập
niềm vui.
Trước tiên niềm vui của bà Elisabeth, bà đang có
mang lần đầu tiên trong lúc tuổi già và bà biết nhờ thiên thần đã nói với
Giacaria chồng bà rằng: "Người con trai của bà sẽ được tràn đầy Chúa Thánh
Thần từ trong lòng mẹ và người con đó sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho
Chúa". Niềm vui đó tràn trề khi Maria chào bà, làm bà phải kêu lên trong
hân hoan ngây ngất: "Bởi đâu mà tôi được diễm phúc là Mẹ Thiên Chúa đến
viếng thăm tôi!"
Đến lượt Maria, người cũng vui mừng và từ đáy lòng thốt
lên kinh Magnificat: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa". Lời kinh tuyệt
vời cô đọng từ trong Kinh Thánh mà Giáo Hội hằng ngày dùng để ca tụng Chúa
trong giờ Kinh Chiều của mình.
Tiếp đến là Gioan, dầu còn trong lòng mẹ
cũng cảm thấy được niềm vui gặp Đấng cứu độ. Chính Elisabeth đã âu yếm để ý đến
con mình và nói lên cho mọi người biết: "Này, tai tôi vừa nghe lời bà
chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi". Truyền thống Công Giáo cho
rằng: khi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ, chính là lúc Gioan được tha tội tổ
tông và được thánh hóa nhờ ơn cứu chuộc của Đấng Cứu Thế.
Tất cả mọi người đều vui mừng trong Phúc Âm Chúa nhật hôm nay,
mà nguyên nhân của sự vui mừng đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, dầu
Người mới tượng thai vài tuần trong lòng Mẹ Maria. Chúng ta có thể mở ngoặc một
chút ở đây, để nhìn thấy sự kiện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng hùng
hồn để tôn trọng đời sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Mới có vài tuần
trong lòng Mẹ, Chúa Giêsu đã là Thiên Chúa thật, đã mang niềm vui đến cho mọi
người nhất là đem ơn thánh hóa đến cho Gioan cũng còn trong lòng mẹ. Nhưng ở
đây, Chúa nhật này, chúng ta đặt trọng tâm suy niệm vào niềm vui được ơn cứu
độ, niềm vui gặp được Chúa. Cùng với Elisabeth và Gioan ước gì chúng ta cảm
thấy được niềm vui Chúa đến với chúng ta, và cùng với Mẹ Maria ước gì chúng ta
biết đem niềm vui đến cho mọi người.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng dàn xếp tất
cả những gì đã làm tôi phiền muộn bực bội khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an
bình mừng lễ Chúa Giáng sinh. Và tôi sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi
người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn. Và vì lễ Giáng sinh là lễ để chia sẻ
niềm vui, cho nên tôi cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là
phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an,
nâng đỡ người khác.
19. Chuẩn bị Lễ Giáng Sinh với Mẹ Maria.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhân vật quan trọng thường đến sau cùng, Đức Trinh Nữ Maria,
người phụ nữ được chọn làm Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, hôm nay mới chính thức xuất
hiện vào Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng-Giáng Sinh. Mẹ xuất hiện trong khung
cảnh một cuộc đi thăm viếng và phục vụ bà Elizabeth, một phụ nữ son sẻ lại được
làm mẹ sinh ra Gioan Tẩy Giả, Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Một cuộc gặp gỡ giữa
hai người mẹ và cũng là một cuộc chào đón giữa hai người con trong cung lòng
hai người mẹ.
Trong dịp này, Mẹ Maria đã tỏ ra như gương mẫu cho chúng ta noi
theo để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh.
Để mừng lễ Giáng Sinh với Mẹ Maria, chúng ta phải có tâm tình
của Mẹ: tâm tình đầu tiên của Mẹ là sẵn sàng đối với Chúa. Tin Mừng
trình bày Mẹ Maria qua một khung cảnh cảm động. Một thiếu nữ đã đính hôn vừa có
thai, lên đường thực hiện một cuộc hành trình dài đến 150 cây số và ở lại nhà
bà Elizabeth trong một thời gian ba tháng. Một thiếu nữ mới lên 17, 18 tuổi,
chưa bao giờ ra khỏi nhà mẹ mình, đã vội vã ra đi tiến lên miền núi theo một
tiếng gọi thiêng liêng thì thầm trong lòng.
Ngay từ đầu, trong buổi Truyền Tin, Mẹ Maria đã tỏ ra sẵn sàng
rồi: Thiên sứ báo tin Maria sẽ sinh con, Maria bối rối vì mình không biết đến
đàn ông. Nhưng Thiên Sứ lại nói, Maria sẽ cưu mang bởi quyền năng Chúa Thánh
Thần. Thiên Sứ nhắc đến trường hợp của bà Elizabeth, tuy đã già cả và có tiếng
là son sẻ, nhưng đã cưu mang được 6 tháng. Và Thiên Sứ kết thúc: “Không
có sự gì mà Thiên Chúa không làm được”. Đức Maria liền thưa: “Này
tôi là nữ tỳ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Thiên Sứ truyền”. Maria
luôn tỏ ra sẵn sàng khi đã biết được ý muốn của Chúa.
Chính sự sẵn sàng đó đã làm cho bà Elizabeth nhận ra khi Maria
bước vào nhà mình: “Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những
gì Ngài đã nói cho em biết”. Vì vậy, thái độ chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh đối
với chúng ta hôm nay là phải suy gẫm và sống lời Chúa như Mẹ Maria, điều mà
cách đấy 30 năm sau chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Phúc cho ai nghe Lời Chúa mà
đem ra thực hành ”.
Mẹ Maria sẵn sàng vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng và đơn sơ.
Chính đức tin là động cơ thúc đẩy các hoạt động của Mẹ. Chúng ta đọc được ở
chương 2 Tin Mừng theo thánh Luca, hai điểm rất đơn sơ, bề ngoài xem ra không
quan trọng, nhưng thật sự đầy ý nghĩa. Đó là khi các mục đồng từ hang đá Bêlem
ra về, họ đã thuật lại khắp nơi những biến cố của đêm Chúa Giáng Sinh, và tất
cả những ai nghe đều kinh ngạc về các điều mục đồng thuật lại. “Còn Maria thì
giữ kỹ những điều ấy và luôn suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,18-19). Cũng ở
cuối chương 2 này, khi Đức Mẹ gặp được Chúa Giêsu trong Đền Thánh sau mấy ngày
lạc mất con, Thánh sử Luca cũng ghi: “Rồi Chúa Giêsu đã theo hai ông bà trở về
Nazaret. Ngài luôn vâng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ các điều ấy
trong lòng” (Lc 2,51).
Cả hai lần đó, Thánh Luca lưu ý với chúng ta rằng: Mẹ Maria
không những chỉ trao ban cho Chúa Giêsu Hài Đồng một thân xác mà Mẹ còn muốn
hiến trong cuộc đời mình, lòng trí của mình cho việc phục vụ Con Thiên Chúa làm
người. Mỗi lời nói, mỗi sự việc, mỗi cảm nghĩ, Mẹ đã gói ghém cẩn thận và chôn
giấu trong trí lòng Mẹ. Mỗi một phép lạ, lời chào của Thiên sứ, của bà
Elizabeth, biến cố đêm Giáng Sinh, những lời nói của mục đồng, của các Đạo sĩ,
những lời tiên tri của Simêon, của Anna, những tiếng bập bẹ đầu tiên của Chúa
Giêsu, mỗi cái nhìn của Ngài, mỗi hành động của Ngài, tất cả ngần ấy thứ Mẹ suy
đi nghĩ lại và cẩn thận gìn giữ như kho tàng thiêng liêng quý giá nhất của Mẹ.
Không những Mẹ Maria luôn vâng theo ý Chúa với niềm tin tưởng mà
còn vâng theo ý Chúa một cách đơn sơ. Bởi vì, có nhiều người cũng vâng
nghe ý Chúa với niềm tin tưởng nhưng nhiều khi vì miễn cưỡng, vì bất đắc dĩ,
không hoà đồng ý mình với ý Chúa. Tin Mừng nói: Mẹ Maria ra đi vội vã, nhanh
chóng, không do dự, không tính toán so đo, cứ ra đi trong phó thác. Vâng theo ý
Chúa khi ý Chúa ăn hợp với ý ta thì dễ, nhưng khi ý Chúa trái hẳn với ý ta mà
ta vui vẻ đón nhận, khi ấy mới quý, và chứng tỏ lòng yêu mến đích thực của
chúng ta.
Mẹ Maria luôn sẵn sàng đối với Chúa, Mẹ cũng luôn sẵn sàng
đối với tha nhân. Mẹ đã đi phục vụ bà chị họ của mình, không chút do dự, vì
Mẹ thấy ý Chúa trong đó. Hơn nữa, Mẹ thấy đó là nhiệm vụ của mình. Là Mẹ Chúa
Cứu Thế, Mẹ có nhiệm vụ phải đem Chúa cho kẻ khác. Lại nữa, Mẹ cảm nghiệm rằng,
lòng mình khi được mang Chúa thì được hạnh phúc biết bao, bình an biết mấy và
phấn khởi dường nào. Ước chi bao nhiêu người khác cũng được Chúa đem lại niềm
vui và hạnh phúc như mình. Nghĩ như vậy, Mẹ vội vàng lên đường. Chúa không để
cho Mẹ phải thất vọng. Mẹ đến, Mẹ đã làm cho cả gia đình bà Elizabeth sung
sướng. Bà Elizabet phải thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng
thăm tôi. Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, Hài Nhi liền nhảy mừng trong
lòng tôi”.
Anh chị em thân mến,
Toàn dân Chúa có thể nhận ra mình nơi Đức Trinh Nữ Maria, Người
được làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Chúng ta luôn có thể chuẩn bị lễ Giáng Sinh trong
thái độ phục vụ anh chị em như Mẹ Maria.
Gương Mẹ sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi, tiếng tha nhân mời, phải
được chúng ta noi theo. Chúa gọi chúng ta qua tiếng mời của tha nhân. Tiếng tha
nhân gọi ta là tiếng Chúa mời gọi. Chúng ta vui vẻ thưa “vâng” với Chúa và sẵn
sàng trả lời “có” với tha nhân, không lẩm bẩm kêu ca khi gặp điều trái ý, không
từ chối, lảng tránh bất cứ ai cần đến.
Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, khi gặp những
hoàn cảnh chúng ta tưởng là phi lý, cứ thưa “vâng”, vì đó là con đường chắc
chắn hoàn thành sứ mạng. Chúng ta cũng thưa “vâng” với Chúa trong đức tin, để
noi gương Mẹ bước vào lịch sử cứu độ, kết hiệp mật thiết với mầu nhiệm Chúa
Kitô đã chết và sống lại, để cứu độ loài người. Phúc cho ai ngày càng bớt tự
tin để thêm tin Chúa, bớt tự ái để thêm bác ái yêu người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu kể cho chúng ta một mẩu chuyện
nhỏ: Lúc ấy, Têrêsa còn nhỏ. Nghe đọc chuyện thương khó của Chúa Giêsu. Têrêsa
cảm động, nước mắt tràn mi. Têrêsa cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thương con quá,
còn con chưa làm được gì để đền đáp cả. Con phải qua xứ truyền giáo xa xôi và
con sẽ chết tử vì đạo ở đó như các vị truyền giáo. Cầu nguyện xong, Têrêsa bỏ
nhà và chạy ra đường. Cứ chạy, chạy mãi, quyết sẵn sàng chết mà… Bỗng một cậu
bé trai cùng tuổi chặn Têrêsa lại và hỏi: “Cô tên gì?”. Têrêsa ngập ngừng trả
lời: “Tôi là Têrêsa của Giêsu Hài Đồng”. “Còn cậu, cậu tên gì?”. –Tôi hả? Tôi
là Giêsu Hài Đồng của Têrêsa. Cậu bé liền biến mất.
Thưa anh chị em,
Với viễn ảnh một Chúa Giêsu Hài Đồng sắp đến trong máng cỏ từ
phía bên kia, thì từ phía bên này chúng ta đã sẵn sàng tiến bước để đi đón Ngài
chưa? Chỉ còn một tuần nữa thôi. Chuẩn bị “dầu đèn” sẵn sàng đi, để hôm đó, đèn
chúng ta rực sáng và không còn lo thiếu dầu. Ôi! Đêm Giáng Sinh này, chàng rể
Giêsu sẽ mỉm cười với chúng ta, và sẽ đưa tay ra nắm lấy bàn tay chúng ta, để
chúng ta lại nối vòng tay lớn cho mọi người anh em trên thế giới. Trên con
đường đến với Ngài, chúng ta sẽ mời gọi tất cả mọi người kết đoàn với chúng ta,
để cùng với chúng ta dâng lên tấm lòng yêu mến như một món quà Noel cho Chúa
Giêsu Hài Đồng.
Lạy Mẹ Maria, mẫu gương chuẩn bị Lễ Giáng Sinh, xin cầu cho
chúng con. Amen.
20. Phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Vừa bắt đầu chúng ta đã thấy ngay đây là cách hành văn của Luca.
Vừa gợi lên cuộc lên đường vội vã liền sau đó đã cho thấy lý do. Nếu Đức Maria
vội vã lên đường, thì không phải là để tìm xem, lời thiên thần có đúng không,
nhưng là để “vui với người vui” và đưa tới ơn phúc Mẹ giúp đỡ. Mẹ Thiên Chúa đã
trở nên đấng trung gian các ơn phúc. Miền núi, cuộc hành trình hướng về đây là
dãy núi miền cao nguyên Giuđa, kéo dài từ vùng Samari. Ngày nay không ai biết
rõ đích xác thành phố mà Maria nhằm tới, một truyền thống đã có trước thời thập
tự quân cho là đất làng Ain-Karim ngày nay. Làng này cách thủ đô Giêrusalem
khoảng bảy cây số về phía tây. Khách hành hương nay tới kính viếng một nhà
nguyện mang tên Thăm viếng. Từ Nadaret, phải bốn ngày đường mới tới nơi.
Lời chào thăm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa hướng về người
được nhận lời chào, vì vừa nghe lời chào thai nhi trong bụng Elizabeth liền
nhảy mừng và bà được tràn đầy Thánh Thần. Sự nhảy mừng này có một cái gì khác
hẳn với sự cựa quậy của một thai nhi vào những tháng cuối cùng khi bà mẹ có một
xúc động bất ngờ. Vì sự xúc động của Elizabeth không phải là nguyên nhân mà là
kết quả của sự nhảy mừng của thai nhi Gioan. Thai nhi nhảy mừng vì tác động của
ơn Chúa, là điều mà thiên sứ đã báo trước: “Con trẻ sẽ được đầy dẫy Thánh Thần
ngay từ khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1,15), mà được thánh hoá nhờ sự hiện diện
của Ngôi Lời nhập thể. Sau thai nhi, bà mẹ Elizabeth cũng được đầy tràn Thánh
Thần, và lập tức bày tỏ niềm cảm xúc chẳng những bằng những lời được linh hừng
mà còn bằng cả giọng nói xúc động. Vì bà nói lớn với Maria: “Em là người hạnh
phúc nhất trong giới phụ nữ, và thai nhi trong lòng em là phước hạnh lớn lao”.
Như thế bà đã diễn tả hai lời chúc phúc song song mà thiên sứ Gáprien đã nói
với Đức Maria trước đó. Bà ca tụng cô em, đặt cô cao trọng hơn tất cả trong
giới phụ nữ. Bà cũng cho thấy, ngay cả khi cô em chưa nói gì, bà đã biết Maria
là Mẹ Đấng Cứu Thế. Bà kính tặng cho thai nhi chưa được sinh ra danh hiệu “Chúa”,
danh hiệu mà Thánh Vịnh áp dụng cho Đấng Mêsia trông đợi. Thật vậy, và đã thêm:
“Thật vinh hạnh cho tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm”. Bà không chút nghi ngờ gì
về điều đã xảy ra trong lòng cô em Maria và bà đã thấy rõ dấu chỉ: “Vì vừa nghe
lời em chào, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy mừng”. Như thế bà cho biết có mối
liên hệ lệ thuộc giữa thai nhi Gioan nhảy mừng với chức làm Mẹ Thiên Chúa của
Đức Maria, bà bày tỏ đây là “hãy nhảy mừng”, và còn hơn cả cảnh núi đồi nhảy
mừng mà Thánh Vịnh đã diễn tả trước sự hiện diện của Đấng Toàn Năng, vì đây là
một thai nhi nhảy mừng vì được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Thế nào những lời ca tụng vừa đưa ra, bằng một kiểu kết điểm
Elizabeth chúc phúc: “Thiên Chúa ban phúc cho em, vì em tin lời Ngài hứa sẽ
thành sự thật”.
Qua đoạn Lời Chúa này, chúng ta học được gương yêu thương của
Đức Maria:
Vừa mới thưa với Chúa: “Tôi là tôi tớ của Chúa” Đức Maria đã
hành động như thể là tôi tớ của loài người. Ngay sau khi được loan báo được
chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria lên đường là vì muốn giúp đỡ và chia vui với
người chị già. Qua lời loan báo, sứ thần cho thấy bà Elizabeth đang cần được
giúp đỡ, vì bà sắp sinh con. Trong sứ điệp, sứ thần không bảo phải đi, chỉ gợi
cho thấy. Thế là Maria thu xếp sẵn sàng ra đi, không để chậm trễ.
Dầu Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc
hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khoẻ nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào
là đường đi xa xôi, phải ít nhất bốn ngày dòng dã mới tới nơi. Lộ trình này có
nhiều rủi ro nguy hiểm nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm
vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do để
mà từ chối.
Những lý do trở ngại ấy không cản được Maria. Người ta dễ dàng
né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng
lòng quảng đại của Maria quét sạch mọi chần chừ và lưỡng lự đó. Từ xưa, Đức
Maria đã quen quan tâm đến người khác hơn nghĩ đến chính mình, thì lúc này, Mẹ
cũng không phải đo lường cân nhắc sự bất tiện của chuyến đi xa, Mẹ chỉ nghĩ đến
việc cần giúp đỡ bà chị già, và cứ như thế, Đức Maria lên đường.
Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác
hơn nghĩ tới chính mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải
hao mòn chính bản thân mình. Khi xảy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do
nãi ra để từ chối! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung
sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.
Lại còn phải tránh cho ta những tính toán ích kỷ, những điểm tựa
để khỏi phải giúp đỡ tha nhân, thay vì sáng kiến để tránh khỏi, hãy tìm cách
làm nhẹ gánh nặng cho tha nhân, để giúp đỡ họ.
Thay vì phải ép lòng giúp đỡ vì không thể tránh được, hãy biểu
lộ thái độ mau mắn thực sự. Mong ước sao ta luôn ở tư thế sẵn sàng giúp đỡ,
phục vụ.
Nhưng phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.
Chúa Giêsu rất yêu thương các môn đệ ở trần gian, Chúa Giêsu
biết rõ Chúa Cha đã trao mọi quyền hành cho Ngài… Vì thế, Chúa đứng dậy, ra
khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn quấn ngang lưng, Chúa đổ nước vào chậu, lần
lượt rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1.3). Giờ đây chúng ta thấy Mẹ Chúa, người
vừa được thiên sứ báo tin được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, người tự tình đi làm
đầy tớ bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ Người biết Thiên Chúa đã ban cho Người địa
vị cao cả hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả các phụ nữ
Israel, một địa vị mà không một người phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó,
Mẹ tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một
người đàn bà trong lúc sinh nở nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.
Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra
địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Mẹ không muốn tỏ ra
nhân vật quan trọng, dầu Mẹ quan trọng nhất trong các tạo vật. Không một ai có
thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một người thiếu nữ đã
được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ thấy nơi nhà ông
bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất,
và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng. Mẹ làm những công việc đó cho
bà chị già như là làm cho Chúa. Mẹ luôn tỏ ra nhỏ bé để dường như Elizabeth
không lấy làm ngại ngùng khi nhờ Mẹ làm bất cứ việc hèn hạ nào. và Mẹ không đặt
một giới hạn nào cho tình yêu Chúa, Mẹ cũng không có một hàng rào cho tình yêu
tha nhân. Không bao giờ Mẹ thấy một việc nào là quá thấp, là quá thường, quá
hèn hạ. Mẹ đã làm với tất cả sự vui vẻ dường như không có ai nhận ra sự vất vả
và đôi khi ghê tởm mà Mẹ đã phải âm thầm khắc phục. Với nụ cười của niềm vui
buổi gặp gỡ đầu tiên, Mẹ đã duy trì gìn giữ bên trong nhà người thân này.
Thái độ mau mắn sẵn sàng giúp đỡ đó, chẳng phải chỉ giới hạn nơi
nhà bà Elizabeth, tất cả những ai cần được giúp đỡ, Mẹ rất sẵn sàng, trong điều
kiện và thời giờ cho phép. Ngay từ đó Đức Maria đã biết từng hoàn cảnh mà “làm
tôi thiên hạ”. Thái độ đó đối với chúng ta, cũng như hẳn xưa kia đối với bà
Elizabeth, luôn là đối tượng của lòng ngưỡng mộ kính yêu. Ngày nay chữ tôi tớ
đã mang một ý nghĩa hèn kém hạ giá, không dám dùng, và nhất là thực hiện ý
nghĩa của từ ấy. Ước chi chúng ta cũng lấy làm hân hạnh được phục vụ tha nhân.
Chúng ta phải khó khăn lắm mới thực hiện được giáo huấn của Đức
Kitô: Ai lớn nhất hãy làm như người nhỏ nhất, ai làm đầu phải hầu thiên hạ.
Gương Đức Maria còn đó để khích lệ: ai là đầu, ai có phúc hơn mọi người nữ, thế
mà Mẹ trở nên bé nhỏ, trở nên rốt hết. Ai dám thống trị kẻ khác khi thấy gương
Mẹ tự tình phục vụ như thế?
Mẹ cũng dậy nghệ thuật phục vụ trong những công việc tầm thường,
tự chọn lấy cho mình những công việc nhọc nhằn, tởm gớm, tự tình thi hành với
nét mặt vui tươi. Đã từng có một người tớ nữ không hề than trách công việc đè
nặng trên vai, không bao giờ càu nhàu trong công tác phục vụ, đó là gương mẫu
cho chúng ta!
Ngày nay trong vinh quang thiên quốc, Mẹ vẫn ân cần giúp đỡ tất
cả mọi người, chúng con vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Mẹ, và Mẹ kêu
gọi chúng ta cộng tác với Mẹ trong việc giúp đỡ mọi người.
21. Này con đến – Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm
Ngày lễ Giáng Sinh đã gần kề, Hội Thánh cho dân Chúa thấy những
biến cố vô cùng trọng đại nhưng lại âm thầm diễn ra trong dòng lịch sử.
Này con đến để thực thi Ý Chúa
Biến cố Đức Maria cưu mang Ngôi Lời nhập thể, được thực hiện
trong âm thầm tuy dù đó là biến cố vô cùng quan trọng “Ngôi Lời Thiên Chúa làm
người và vĩnh viễn làm người”. Đức Yêsu đã sống “bình thường” như một người;
chỉ khi Đức Yêsu sống lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ mới nhận biết
Ngài là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Ngôi Lời nhập thể để làm gì?
“Này con đến để thi hành Ý Chúa”.
Đâu là ý muốn của Thiên Chúa? Thiên Chúa muốn con người được cứu
độ, được triển nở, được hạnh phúc, được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Con
người phạm tội khi tìm mình, chọn mình trên Thiên Chúa và anh chị em mình, dùng
tha nhân như phương tiện để thỏa mãn tham vọng riêng tư của mình. Chỉ khi nào
con người sống trong tình yêu, tôn trọng tha nhân và Thiên Chúa, thì con người
mới được bình an và hạnh phúc.
Làm sao để con người sống trong tình yêu? Làm sao để con người
mở lòng ra với Thiên Chúa và với người khác? Đó là sứ mạng của Ngôi Lời, của
Ngôi Lời nhập thể, của Đức Yêsu.
Em có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện điều đã nói với em
Mỗi một người có chỗ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sứ mạng của Yoan con ông bà Zacharia-Isave, là “trở thành tiếng kêu trong hoang
địa”, kêu mời người ta chuẩn bị đón Đấng Thiên Sai. Yoan Tẩy Giả đã làm trọn sứ
mạng của mình.
Sứ mạng của Đức Maria, là thực hiện điều Thiên Chúa đề nghị, tuy
âm thầm khiêm tốn nhưng rất gian nan, đó là “cưu mang và sinh hạ Ngôi Lời Thiên
Chúa nhập thể”. Đức Maria đã chấp nhận, và đã trở thành người “cưu mang Thiên
Chúa”, mang Thiên Chúa tới cho người khác, mang Thiên Chúa đến cho nhân loại.
Phụ nữ nào mà lại chẳng có con! Cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng
một người con, không phải là chuyện “động trời” trên trái đất này. Chuyện đó
vẫn xảy ra bình thường, thế nhưng ngay cả chuyện rất bình thường như vậy,
cũng trở thành một biến cố “vô tiền khoáng hậu”! Mỗi người đều có thể “có phúc”
hơn việc cưu mang và sinh hạ Đức Yêsu, vì “ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa còn có
phúc hơn” (Lc.8, 21; 11, 28).
Để thực hiện được thánh ý Thiên Chúa, để có thể cưu mang Thiên
Chúa trong lòng, Đức Maria đã tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính lòng
tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, mới giúp Đức Maria vượt qua được những khủng
hoảng trong đời, như lúc sinh con trong chuồng chiên cừu (tại sao lại phải sinh
trong cảnh cùng quẫn như vậy?), lúc sống nghèo tại Nazaret, và đặc biệt lúc
đứng dưới chân thập giá (Thiên Chúa có giữ lời hứa với tôi khi thiên thần
truyền tin không? Đâu là lời “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai vàng Đavid tổ phụ
Ngài?). Phúc cho những ai tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và sẽ làm cho
mình những điều tốt đẹp nhất.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Chúa tới, mang gì cho bà Isave, cho ông Zacharia và Yoan?
(lúc đó và cuối đời)
2. Ngôi Lời nhập thể để thi hành Ý Chúa Cha! Làm sao để con
người yêu Thiên Chúa và yêu thương nhau?
3. Bạn có nghĩ rằng Đức Maria hạnh phúc không (lúc sinh con
trong chuồng chiên cừu, lạc mất con, và đứng dưới chân thập giá)? Hạnh phúc hệ
tại đâu?
4. Chúa tới, tôi được và mất gì?
22. Maria dám tin.
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người:
Ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang
sống. Đại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn
phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ.
Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là
một trò đùa.
Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ
trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông
rụt rè đến. Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một
vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả
những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa
số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức
Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân
phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những
gì Người đã nói với em”.
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời
mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Chúa đảo lộn chương
trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành
trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời: “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình
riêng của Mẹ, và qua lời “Xin Vâng”, Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Chúa thay
đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Chúa đảo lộn chương trình sống, và cùng Chúa
bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng
dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc
hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh;
từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Capharnaum cho đến khi gặp con dưới
chân thập giá.
Mẹ đã “suy đi nghĩ lại trong lòng” vì những kỷ niệm ấy quả là
khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Đấng Cứu Thế vì Mẹ đã dám tin vào lời Chúa và
để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc
phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: “xin Chúa cứ làm cho tôi như lời
sứ thần nói”.
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Đền
Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.
Chính vì Mẹ là Đền Thánh nên Đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh
hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà
Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là
chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã
khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ
oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat.
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy
dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm của thiên đàng.
Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Đức Maria và bà
Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Đấng Cứu Thế và vị
Tiền Hô của Người.
Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ: Tin vào lời Chúa và chương
trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn
cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen.
23. Mẹ Maria.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta tìm thấy nơi Mẹ Maria một
mẫu gương tuyệt vời, giúp chúng ta sống tinh thần mùa vọng và chuẩn bị đón mừng
Chúa đến.
Thực vậy, Mẹ Maria cũng như nhiều người Do Thái khác đã đọc và
suy gẫm Kinh thánh, đã mòn mỏi trông chờ và mong đợi Đấng Cứu Thế.
Với một tâm hồn trong sạch và nhất là với lời xin vâng dưới mái
nhà Nagiarét trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã trở thành người đầu tiên được
diễm phúc đón nhận Chúa vào cõi lòng của mình.
Thế nhưng, có Chúa trong tâm hồn mà thôi chưa đủ, Mẹ còn đem
Chúa đến cho người khác. Phúc âm thánh Luca kể lại rằng: Sau khi hay biết, nhờ
hồng ân Thiên Chúa, bà chị họ của mình là Isave cũng đã có thai trong lúc tuổi
già, Mẹ đã vội vã lên đường, băng qua đồi núi để viếng thăm và giúp đỡ bà chị
họ trong những ngày tháng mang nặng đẻ đau.
Nhờ cuộc thăm viếng này, Mẹ đã đem đến cho gia đình bà Isave
niềm hân hoan vui mừng, hay nói cách khác, nhờ cuộc thăm viếng này, Mẹ đã đem
Chúa đến cho già đình bà Isave, và cùng với sự hiện diện của Chúa là niềm vui
mừng và hy vọng tràn đầy. Chính vì thế, Gioan tiền hô đã nhảy mừng trong lòng
bà Isave.
Còn chúng ta thì sao?
Trong mùa vọng này việc thứ nhất chúng ta cần phải làm ngay, đó
là hãy sống thế nào để thực sự có Chúa ở trong tâm hồn.
Đúng thế, như chúng ta vồn thường nói:
- Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt vời, còn tôi chỉ là kẻ tội lỗi
xấu xa. Giữa Đấng thánh thiện tuyệt vời và tội lỗi xấu xa sẽ không có thành
phần thứ ba, sẽ không có vị thế trung lập. Tôi phải dứt khoát chứ không thể
lửng lơ con cá vàng, chơi trò đi nước đôi và bắt cá hai tay với Chúa. Đấng
thánh thiện tuyệt vời và tội lỗi xấu xa sẽ không thể nào đội trời chung và sánh
vai cùng bước đi bên nhau. Nơi nào có tội lỗi ngự trị, thì nơi đó không có chỗ
cho tình thương của Chúa. Trái lại, muốn cho tình thương của Chúa ngự trị thì
cần phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi.
Chính vì thế, chúng ta phải khử trừ tội lỗi, phải uốn nắn sửa
đổi những thói hư tật xấu, như lời kêu gọi của Gioan tiền hô:
- Hãy dọn đường Chúa đến. Quanh co uốn cho ngay. Gồ ghề san cho
phẳng. Hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Việc thứ hai chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng, đó là
hãy bắt chước Mẹ Maria mà đem Chúa đến cho người khác.
Đúng thế, qua hành động thăm viếng, Mẹ đã đem Chúa đến cho gia
đình bà Isave thế nào, thì bằng những hành động bác ái và yêu thương, chúng ta
cũng sẽ giới thiệu khuôn mặt đích thực của Đức Kitô cho những người chung
quanh, để rồi cuối cùng, họ cũng sẽ nhận biết và tin theo Chúa.
Thánh Phanxicô Salêsiô nổi tiếng là một vị thánh hiền lành và
nhân hậu. Ngài có một người giúp việc mắc phải tật nghiện rượu. Một hôm anh ta
trốn nhà ra quán nhậu say bí tỉ, mãi tới khuya mới về, rồi nằm vật xuống ngưỡng
cửa mà ngủ.
Nghe tiếng động, thánh nhân ra mở cửa. Thấy anh ta nằm đó thì
nhẹ nhàng bồng anh về phòng, đặt anh ta trên chiếc giường của mình, còn mình
thì nằm ngủ ở chỗ khác.
Ban sáng, vừa thức dậy, thấy mình nằm trên giường của thánh
nhân, anh ta hoảng hốt vội chạy tới quì dưới chân thành nhân xin lỗi và hứa sẽ
chừa bỏ rượu chè, hoán cải bản thân và làm lại cuộc đời.
Từ đó, anh ta đã dứt khoát với tật nghiện rượu và trở nên một
người tốt lành.
Hãy khử trừ tội lỗi để trở nên người có Chúa trong tâm hồn, đồng
thời bằng những hành động bác ái và yêu thương, hãy đem Chúa đến cho những người
chung quanh. Đó là hai việc chúng ta cần phải làm ngay theo mẫu gương của Mẹ
Maria trong mùa vọng này.
24. Viếng thăm chị họ Êlisabét.
Đoạn Phúc Âm mà Giáo Hội gởi đến cho chúng ta trong Chúa nhật IV
Mùa vọng kể lại biến cố Mẹ Maria đến viếng thăm bà Elisabéth liền sau khi được
thiên thần truyền tin cho biết Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Một Ngài.
Chúng ta có thể hình dung được niềm vui sâu xa của Mẹ Maria sau
khi đã khiêm tốn thưa vâng, chấp nhận cộng tác với chương trình của Thiên Chúa
để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Mẹ do quyền
năng của Chúa Thánh Thần. Ngài là niềm vui và chắc chắn Mẹ Maria trong lúc cưu
mang Con Thiên Chúa trong cung lòng mình, Mẹ được diễm phúc hơn ai hết, sống
kết hiệp với Con Mẹ vừa là Con Thiên Chúa và cũng vừa là Chúa của Mẹ.
Do đó, khi được hưởng nếm niềm vui, Mẹ đã mau mắn bộc lộ niềm
vui mừng đó trong bài ca tạ ơn: “Linh hồn tôi chúc tụng Chúa”. Khi đến viếng
thăm bà Elisabéth. Mẹ không giữ niềm vui đó cho chính mình, nhưng muốn chia sẻ
với người khác. Sự hiện diện của Chúa nơi Mẹ càng giúp cho tâm hồn đã sẵn sàng
quảng đại của Mẹ trở nên dịu dàng, quảng đại hơn nữa để nhìn thấy nhu cầu cần
thiết được sự trợ giúp của anh chị em xung quanh.
Niềm vui và thái độ phục vụ quảng đại là hoa trái không thể chối
cãi được của sự hiện diện của Thiên Chúa trong một người. Mẹ Maria là mẫu gương
chỉ đường cho chúng ta, cho mọi đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô.
Điểm thứ hai đáng chúng ta chú ý trong lần gặp gỡ giữa Mẹ Maria
và bà Elisabéth là vai trò của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần thực hiện nơi
Mẹ điều mà không một quyền lực trần gian nào có thể làm được, đó là làm cho Mẹ
trở nên Mẹ của Con Thiên Chúa mà vẫn duy trì trọn vẹn sự đồng trinh. Và Chúa
Thánh Thần cũng hiện diện nơi bà Elisabéth để soi sáng cho bà nhìn ra giờ ân
sủng đã đến, nhìn ra nơi con người đến thăm mình kia là Mẹ của Thiên Chúa.
Nhìn ra hạnh phúc đích thực của một người không hệ tại ở điều gì
khác hơn là sự vâng phục kính tin vào lời Thiên Chúa: “Phúc cho Bà là kẻ đã tin
rằng Lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”. Thực tại mà Mẹ Maria và bà
Elisabéth đang sống không phải là thực tại phàm trần do con người tạo nên,
nhưng là thực tại siêu phàm, thiêng liêng do Thiên Chúa thực hiện và con người
chỉ có thể nhận ra nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần mà thôi, vừa đồng thời
được mời gọi cộng tác vào đó nhờ qua thái độ khiêm tốn, vâng phục và kính tin.
25. Hoa trái.
Có những hoàn cảnh mà trong đó sự mới mẻ xuất hiện: một phụ nữ
mang thai, một cây hoa sinh nụ, một gói quà sắp mở, một món ăn sắp lấy ra từ
trong lò. Đó là những thời điểm kích thích thần kinh. Trẻ con nôn nóng xé tờ
giấy gói quà, trở cái thìa trong đĩa. Những lúc mà vợ chồng đoán xem đứa con sẽ
như thế nào. Thời gian chín mùi kết thúc, việc nảy sinh bắt đầu… vào thời giáng
sinh đất trổ hoa đơm trái.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nhắc đến đất đai, nguồn gốc và tận
cùng. Một trái đã sẵn sàng để được hái. Muốn đánh giá tốt hơn trái đó ta hãy
phân tích mảnh đất sản xuất ra nó. Người ta nói: “Cây nào, trái ấy. Ruộng nào,
lúa ấy”. Đất và ruộng ở đây là những đoạn Thánh Kinh chúng ta vừa nghe đọc.
Bài đọc một của ngôn sứ Mikêa đưa chúng ta trở lại mảnh đất tổ
tiên. Chúa Giêsu xuất phát từ một dòng tộc, một lịch sử. Ngài nói tiếng nói của
cha ông, mang một tên quen thuộc trong thôn xóm: “Hỡi Bêlem Epphata, chi tộc bé
nhỏ nhất trong các chi tộc Giuđa, từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng sẽ cai trị
Israel”.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ là con người lịch sử do bởi di sản đã
nhận được. Ngài sẽ dấn thân trong lịch sử ấy, trong dòng chảy của biến cố. Ngài
sẽ tham gia vào cộng đoàn của Ngài, như ngôn sứ Mikêa loan báo: “Ngài sẽ đứng
lên và sẽ là mục tử của họ”.
Bài đọc hai, trích từ thư Do thái, nói đến một loại đất khác còn
thân thiết với chúng ta hơn là mảnh đất của nền văn hóa chúng ta. Người ta nói
đến chất liệu làm nên xương thịt của chúng ta. “Chúa không muốn hy tế và của
lễ, nhưng Ngài đã tạo cho con một thân xác”.
Hoa quả của Giáng sinh đầu tiên là Thiên Chúa nhập thể bằng
xương bằng thịt. Chúa Giêsu là con cái của mảnh đất xác thịt từ đó mỗi người
được sinh ra. Hoa quả mong manh. Hoa quả dễ hư nát nhưng cũng là cái vỏ cần
thiết. Chúa Giêsu không phải là một bóng ma, cũng không phải là một giấc mơ,
lại càng không phải là một ông già Noel. Ngài là người bằng xương bằng thịt, và
có lẽ không đẹp như người ta hình dung hay tưởng tượng.
Và đây là mảnh đất thứ ba sẽ ban cho chúng ta Chúa Giêsu: mảnh
đất của con người. Một phụ nữ, Đức Maria. Một phụ nữ đi đến gặp gỡ kẻ khác, cởi
mở đối với tha nhân: “Maria nhanh nhẹn lên đường, bà vào nhà ông Dacaria và
chào bà Elisabét”.
Chúa Giêsu sẽ thuộc về mảnh đất này, thuộc về phẩm chất hữu thể
này: là quả được chúc phúc từ lòng Đức Maria, như ta vẫn đọc trong kinh Kính
Mừng, một quả được chúc phúc sẽ mang sự chúc lành đến cho kẻ khác, sẽ làm cho
họ vui lên: “Bởi đâu tôi được diễm phúc Mẹ của Chúa đến viếng thăm tôi? Vì khi
tôi nghe lời chào của em, hài nhi đã nhảy mừng trong lòng tôi”.
Vào dịp Giáng sinh những cuộc gặp gỡ thật quan trọng, những cuộc
hội họp gia đình, bạn bè, chính là một trong những hoa quả tốt đẹp nhất của
Giáng sinh. Những cuộc hội họp này là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thiên Chúa hiện diện chính là Chúa Giêsu: con người phát xuất từ
một lịch sử và dấn thân vào lịch sử, con người bằng xác thịt, có thật, mỏng
giòn, và con người của sự gặp gỡ. Và những mảnh đất này đã trổ sinh hoa trái
tốt đẹp dường ấy cũng là những mảnh đất nơi chúng ta mọc lên. Vậy xin Chúa
Giêsu làm nở ra nơi mỗi người chúng ta gương mặt của Ngài.
26. Tình thương.
Viếng thăm nhau là điều rất bình thường trong cuộc sống con
người. Nhưng với thánh Luca, việc Đức Mẹ đi thăm viếng bà Isave ngoài ý nghĩa
thông thường của một cuộc viếng thăm, nó còn mang một nội dung giáo lý rất sâu
xa.
Thánh Luca đã đối chiếu cuộc viếng thăm này với cuộc cung nghinh
hòm bia giao ước đã được ghi lại trong sách Samuel quyển thứ 2. Chúng ta có thể
ghi nhận mối liên hệ giữa hai bản văn Thánh kinh Cựu và Tân ước qua hai chi
tiết sau đây:
. Khi Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Israel trên núi Sinai,
Người đã ban mười giới răn được khắc ghi trên hai bia đá, và Người truyền phải
đặt hai bia đá ấy vào trong một cái hòm gọi là hòm bia giao ước. Hòm bia ấy là
dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Sách Samuel kể lại rằng:
Khi vua Đavid thống nhất đất nước đã bị phân ly trước đó, ông nhất định đưa hòm
bia giao ước về thành thánh Giêrusalem. Cuộc cung nghinh hòm bia là một niềm
vui rất lớn đối với người Do thái, đến nỗi vua Đavid đã như trẻ con, vừa đi,
vừa hát, vừa nhảy múa trước hòm bia.
Mẹ Maria cưu mang Chúa Giêsu trong lòng và đi đến thăm bà Isave
cũng đã mang lại niềm vui rất lớn cho bà và ngay cả thai nhi trong lòng bà cũng
đã nhảy mừng.
. Cuộc cung nghinh hòm bia giao ước không về Giêrusalem ngay,
nhưng dừng lại ở nhà ông Obed ba tháng. Trong thời gian này, gia đình ông đã
nhận được biết bao nhiêu là phúc lộc. Cũng vậy, Mẹ Maria mang Hài Nhi Giêsu
trong lòng đã ở lại nhà bà Isave ba tháng và cũng đã đem đến cho gia đình bà
nhiều ân phúc.
Như vậy, điểm giáo lý quan trọng hàm chứa trong trình thuật thăm
viếng này là: Bào thai trong lòng Trinh Nữ Maria chính là Thiên Chúa. Ngày xưa
bia giao ước là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngày nay, chính Thiên Chúa
đã làm người và hiện diện thực sự giữa con người chứ không qua dấu chỉ nữa.
Cung lòng Đức Maria đã trở nên nơi cho Thiên Chúa ngự trị trong những ngày
tháng đầu đời làm người. Cung lòng ấy đã được coi là hòm bia của Thiên Chúa như
trong kinh cầu Đức Bà chúng ta vẫn thường đọc: Đức Bà như hòm bia Thiên Chúa
vậy.
Nối kết nội dung giáo lý mà chúng ta vừa trình bày ở trên với ý
nghĩa bình thường của một cuộc viếng thăm, chúng ta sẽ khám phá ra được một
hướng dẫn rất cần thiết cho đời sống đạo của chúng ta hôm nay. Hướng dẫn đó là:
Hãy mang Chúa đến cho anh em bằng những bước đi của tình thương.
Mẹ Maria đã đến với bà Isave chỉ vì bác ái, chỉ vì tình thương.
Mẹ đến để chia sẻ niềm vui, để giúp đỡ người chị em. Trong tình yêu thương ấy,
bước đi của Mẹ đã trở thành bước đi của Thiên Chúa đến với con người. Và chính
trong khi thực hiện tình yêu thương, Mẹ đã đem Chúa đến cho người chị em của mình.
Đức tin của chúng ta hôm nay cũng cần phải được diễn tả bằng
ngôn ngữ của tình thương. Bởi chỉ có tình thương mới đụng chạm đến trái tim con
người, mới len lỏi vào được tận cõi thâm sâu của lòng người, nhờ đó mới làm cho
người ta tin nhận Thiên Chúa một cách dễ dàng. Khi sống tình yêu thương đối với
anh em mình thì đó đã là một lời tuyên xưng niềm tin, là một cuộc cung nghinh
Thiên Chúa, là mang Chúa đến cho anh em, và là một việc làm bày tỏ sự tôn thờ
rất đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng đã sống và chết vì yêu thương.
27. Khiêm hạ mở lòng đón Chúa – Anmai
Bởi đâu con người đã đánh mất nghĩa tình với Chúa? Bởi lẽ con
người quá cao ngạo. Không cao ngạo đi chăng nữa thì cũng đi tìm kiếm sự cao
ngạo để rồi qua sự tìm kiếm đó con người đã không còn chỗ cho Thiên Chúa vào
trong cuộc đời của mình.
Hết sức cụ thể, hết sức rõ ràng nơi Ađam-Eva. Cũng chỉ vì cao
ngạo để rồi đánh mất đi tình, đánh mất đi cái nghĩa cao đẹp mà Thiên Chúa đã
dành cho hai ông bà. Thiên Chúa là Chúa, là Chủ nhưng rồi hai ông bà đã loại Thiên
Chúa ra khỏi cuộc đời mình.
Sau chuyện của hai ông bà nguyên tổ, ta đi tiếp một chút trong
dòng chảy của lịch sử loài người, lịch sử cứu độ thì ta vẫn thấy đâu đó hình
ảnh của những con người kiêu ngạo, hình ảnh của những con người cứ tưởng rằng
mình là lớn nhất và rồi tất cả những người mà lớn nhất đó đều bị sụp đổ, đều bị
tiêu tan cả.
Bởi thế, cái mà con người coi là lớn, là hùng vĩ, là vĩ đại thì
đối với Thiên Chúa chẳng là gì cả. Hình ảnh hay nói sát hơn một tí mà chúng ta
có thể bắt gặp Lời mà Thiên Chúa nói cho con người biết về điều này thể hiện
nơi các ngôn sứ.
Nhìn lại cuộc đời các ngôn sứ, chúng ta thấy man mác hình ảnh
của những con người thấp cổ bé họng, những con người nhỏ bé. Thế nhưng đàng sau
vóc dáng của những con người nhỏ bé đó lại ẩn hiện một hình bóng của Thiên
Chúa.
Trang sách ngôn sứ Mikha mà chúng ta vừa nghe đã tiên báo về
hình ảnh Đấng Cứu Độ trần gian: "Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong
trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị
Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ
dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh
em Người, sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong
sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và
họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì
vậy, Người sẽ là chính sự bình an".
Hình ảnh của Đấng Cứu Độ Trần gian mà Mikha loan báo khi xưa đã,
đang hiện thực nơi cuộc đời của Chúa Giêsu.
Gioan Tiền Hô đã loan báo sự xuất hiện của một vị ngôn sứ lớn
hơn Gioan gấp bội phần và vị ngôn sứ đó, ngay cả Gioan cũng không đáng cởi dép
cho Ngài thế nhưng mà dân chúng chẳng tin. Bởi lẽ hết sức đơn giản là dân chúng
lại mong chờ một đấng Mêsia đến trong cõi mây trời, trong vinh quang và nhất là
cho dân Israel được nở mặt nở mày và cho dân Israel được ăn trên ngồi chốc.
Với cái nhìn như vậy, với cái nhìn xác phàm như vậy dân chúng
thời Chúa Giêsu đã không nhận ra sự hiện diện của Đấng Cứu Độ trần gian.
Giữa những cái nhìn như thế, giữa những quan niệm như thế chúng
ta bắt gặp hình ảnh của một cô thiếu nữ Do Thái có tên là Maria. Cô thiếu nữ
này đã mau nghe và chậm nói, đã suy đi nghĩ lại những lời mà các ngôn sứ đã
nói, suy nghĩ những gì được loan báo trong Cựu Ước và rồi thiếu nữ đã tin nhận
Đấng Mêsia đến. Không chỉ tin tin nhận đến mà còn đón nhận vào trong cung lòng
của mình.
Hơn nhau là ở chỗ tin và đón nhận. Maria tin và đón nhận Đấng
Cứu Độ vào trong cuộc đời của mình.
Trang Tin mừng hết sức ngắn mà Thánh Luca thuật lại cho chúng ta
một lần nữa nói lên lời xác tín của người chị họ Isave: "Bà được chúc phúc
giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa
tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy
mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ
được thực hiện".
Phúc cho Bà là kẻ đã tin!
Hết sức tuyệt vời vì Bà là kẻ đã tin chứ không phải phúc cho bà
vì bà cao ngạo, bà tưởng là bà to, bà tưởng là bà lớn.
Tin! Maria đã lặng lẽ và tin nhận quyền năng Thiên Chúa rợp bóng
trên cuộc đời của Mẹ khi nghe lời của sứ thần truyền.
Maria đã vâng theo Thánh ý của Chúa trong cuộc đời của Mẹ.
Để vâng theo Thánh ý Chúa, để đón Chúa vào trong cuộc đời không
có con đường nào khác ngoài con đường khiêm hạ.
Trong tâm tình đó, thư gửi tín hữu Do Thái vừa nhắc nhớ chúng
ta: Anh em thân mến, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã
không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác.
Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: 'Lạy Chúa,
này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn
sách'".
Thư gửi tín hữu Do Thái đã lấy lại tâm tình của ngôn sứ Isaia:
Sách ấy bắt đầu như thế này: "Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn
thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến
dâng theo lề luật. Ðoạn Người nói tiếp: Lạy Chúa, này đây con đến để thi hành
thánh ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau. Chính
bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu
Kitô một lần là đủ.
Chỉ có khiêm hạ thì mới mở lòng đón Chúa đến trong đời mình mà
thôi.
Ngày hôm nay, Chúa đã đến rồi, Chúa đã có đó rồi trong cuộc đời
nhưng rồi người ta vẫn không nhận ra Chúa chỉ vì người ta cao ngạo.
Một chị kia đến không ngần ngại nói rằng nhiều lúc chị nghĩ đến
cái chết vì gia đình chị đang gặp bế tắt. Hỏi thăm thì chị nói là chồng chị bị
ung thư thận và rồi đang bế tắt và chị muốn tìm đến cái chết cho thanh thản cõi
lòng.
Nghe chị nói xong, tôi mời chị hãy dành một chút thời gian nào
đó để vào các phòng cấp cứu của các bệnh viện, ít là 115 và Chợ Rẫy để thấy tận
mắt nơi đó sự sống của con người. Gia đình, người thân, con cái và đặc biệt là
các y bác sĩ dù không hề quen biết nhưng với y đức, với tính nhân đạo của con
người họ đã cố gắng hết sức cứu mạng sống cho con người dù mong manh. Tôi mời
gọi như thế và chị chợt nhận ra rằng chị hạnh phúc hơn nhiều người. Chồng chị đang
bệnh nhưng ít ra gia đình chị vẫn còn một mái nhà để tựa nương vì lẽ xung quanh
chị và ngay trong cái bệnh viện Ung Bướu cách đây không xa vẫn còn đó nhưng con
người đau khổ mà không có tiền để có được bữa cơm bình thường như bao người mà
phải ngửa tay xin bữa cơm từ thiện.
Sau khi tôi phân tích, gợi lên một chút về sự sống, một chút về
ân ban mà Thiên Chúa trao ban cho chị, chị nhận ra và mỉm cười với cuộc đời vì
lẽ chị hạnh phúc hơn bao người.
Ta cũng thế, nhiều lần nhiều lúc vì cao ngạo để rồi ta không
nhận thấy Chúa trong cuộc đời ta. Khi ta cho mình là nhất, khi ta cho mình là
chủ đời ta thì không thể nào ta có chỗ cho Thiên Chúa được.
Hôm nay là ngày cận kề của Lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy chạy đến
với Mẹ Maria, học nơi Mẹ Maria sự khiêm hạ nhỏ bé để đón Chúa vào trong cung
lòng chúng ta như Mẹ đã từng đón Chúa vậy.
28. Thánh Ý – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Mikêa loan báo Đấng thống trị Irael sẽ xuất hiện tại
Belem, đất Giuđa. Chúng ta thường gọi vùng Belem này là Đất Thánh vì đã được
đón nhận Đấng Cứu Thế. Người Do-thái dùng từ Đất thánh chỉ Nước Irael (Kingdom
of Israel). Từ ngữ Đất Thánh (Holy Land) được dùng bởi cả người Hồi Giáo và
Kitô Giáo để định vị miền đất giữa sông Jordan và vùng biển Địa Trung Hải. Đền
thờ Giêrusalem là trung tâm tôn giáo của người Do-thái và là nơi thánh. Cùng
với những nơi Chúa Giêsu đã đi qua thi hành sứ mệnh và rao truyền ơn cứu đô.
Xưa cũng như nay, có rất nhiều người, kể cả Do-thái, Kitô hữu và tín hữu Hồi
giáo đến hành hương trong miền Đất Thánh này. Nhiều người ao ước được đến viếng
thăm những nơi Chúa Giêsu Nazarét sinh ra, nơi Chúa sinh sống và rao giảng, đồi
Chúa chịu chết và nơi sống lại ra khỏi mồ. Nhiều Kitô hữu muốn đến tận nơi ngắm
nhìn, đụng chạm, cảm nhận và suy niệm về cuộc đời của Chúa Cứu Thế.
Chương trình cứu độ được tỏ hiện từng bước trong lịch sử dân
Do-thái. Thánh ý của Thiên Chúa trải rộng khắp lịch sử của loài người và đặc
biệt qua dân được tuyển chọn. Thiên Chúa đã chọn, gọi và sai các tiên tri hướng
dẫn Dân đi qua từng biến cố lớn nhỏ. Tiên tri Mikêa đã loan tin: Vì thế, Đức
Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em
sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en (Mik 5, 2). Mikêa nói
đến hình bóng của người phụ nữ đã được nhắc đến ngay trong những trang đầu của
sách Sáng Thế Ký, như lời Thiên Chúa đã hứa: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người
đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào
đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó (Stk 3, 15). Người phụ nữ này giữ vai trò rất
quan trọng trong chương trình cứu độ loài người. Qua người nữ, Đấng Cứu Thế sẽ
được sinh ra trong dòng dõi của những kẻ còn sót lại.
Trong thời Cựu Ước, những lời tiên tri loan báo từ từ được thực
hiện. Một trinh nữ miền quê trong trắng, đơn sơ và thánh thiện đã được Thiên
Chúa quan phòng để lãnh nhận sứ mệnh làm mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa vũ trụ đã
hóa thân làm người nơi cung lòng của Đức Maria trinh nữ. Chúa chọn một người nữ
bình thường để thể hiện những việc phi thường. Đất trời đã giao hòa. Sự kiện
này hoàn toàn do thánh ý của Thiên Chúa. Con Thiên Chúa hạ thân làm người và
một người nữ khiêm cung đón nhận hồng ân và cưu mang trong lòng. Maria nói:
"Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói."( Lc 1, 38). Sau khi được sứ thần truyền tin cưu mang Con Thiên Chúa,
Maria đã nói lời xin vâng và sống niềm tin sâu thẳm. Khi Đức Maria đến viếng
thăm bà chị họ là Isave, bà Isave đã lớn tiếng kêu lên rằng:"Em được
chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc
phúc” (Lc 1, 42).
Từ một thôn nữ đơn thành chất phát, Maria đã trở nên máng chuyển
ơn cứu độ. Kinh thánh đã ca khen vai trò của Mẹ Maria qua điềm lạ xuất hiện
trên trời:Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt
trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao (Kh 12,
1).Thiên Chúa đã quan phòng thay đổi cuộc đời của Đức Maria trong vai trò trung
gian của ơn cứu độ. Đức Maria đã hoàn toàn vâng theo thánh ý của Thiên Chúa.
Một mầu nhiệm cao siêu nhất hòa nhập trong một con người đơn sơ hèn mọn. Maria
tiếp tục sống một cuộc sống hiền hòa, khiêm hạ và âm thầm lặng lẽ vâng phục
trong nguyện cầu tín thác. Maria đã đi thăm viếng và giúp đỡ chị họ Isave trong
lúc sanh nở. Maria đã không quản ngại phụ giúp chị trong mọi công việc dù thấp
hèn nhất.
Sự khiêm hạ của Đức Maria là gương mẫu cho chúng ta. Đức Maria
đã sống ơn gọi của mình một cách hoàn hảo. Biết rằng nếu muốn thay đổi số phận,
chúng ta phải bỏ ra công sức để tôi luyện công đức. Công đức thay đổi nhân tâm.
Công đức căn bản là thực hiện những điều khiêm hạ thấp hèn. Thường thường người
ta nói về công đức cao siêu, nhưng cái thấp nhất và nhỏ nhất lại là cái vĩ đại
nhất. Giống như nhà khoa học nghiên cứu những cái nhỏ nhất và đơn giản nhất để
khám phá ra những qui luật chung mà mắt người thường không nhìn thấy được. Công
đức căn bản là lao động công ích. Chúng ta nhìn qua những hành xử của thân,
khẩu và ý. Thân nghiệp là hành vi dùng sức khỏe và chân tay lao động để giúp
người và giúp đời. Khẩu nghiệp là nói những lời chân thành, nhẹ nhàng và nhân
ái giúp gây bầu khí an hòa và cảm thông lẫn nhau. Ý nghiệp là khởi ý cầu mong
sự tốt lành và an vui cho người khác.
Bà Isave và Đức Maria đã trao đổi tình thân hữu qua việc giúp đỡ
và khen ngợi. Bà Isave đã chúc tụng: Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ
thực hiện những gì Người đã nói với em (Lc 1, 45). Khẩu và ý nghiệp của bà
Isave vừa là lời chúc phúc, vừa là sự cầu mong những điều tốt lành cho Maria.
Giáo Hội đã dùng lời ca ngợi của bà Isave biến thành lời cầu nguyện: Kính mừng
Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ… Đức
Maria có phúc vì được Thiên Chúa ưu ái chọn lựa ban đầy ơn sủng. Đức Maria như
bình gốm được Thiên Chúa tác thành theo thánh ý của Ngài. Đức Maria là một thụ tạo
tuyệt vời để cộng tác vào công trình cứu độ. Mẹ đã cưu mang và sinh ra Đấng Cứu
Thế.
Đấng Cứu Thế đã đến với đoàn dân của Ngài nhưng họ đã không nhận
biết Ngài. Ngài đã hoàn thành mọi lời đã tiên báo và đã đi trọn con đường dâng
hiến theo thánh ý của Chúa Cha. Thơ gởi tín hữu Do-thái đã ghi: Bấy giờ con mới
thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh
đã chép về con (Dt 10, 7). Sách Thánh này bao gồm toàn bộ những sách đã được
linh ứng viết ra. Mỗi một cuốn sách dù dài hay ngắn đều có liên quan đến sứ
mệnh của Đấng Cứu Thế. Công trình cứu độ được thực hiện qua sự hiến tế của Con
Người là Đức Kitô, Đấng được xức dầu.Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức
Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ (Dt 10, 10).
Chúa Kitô đã đổ ra giọt máu cuối cùng để dâng lễ hy tế trên thánh giá. Lễ hiến
dâng toàn vẹn bằng chính sự sống.
Cử hành Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng, Giáo Hội hướng dẫn chúng ta
suy niệm về Mầu Nhiệm Con Chúa giáng thế làm Người. Chúa đã giáng trần tại
Belem cách đây hơn 2000 năm rồi. Đây là biến cố duy nhất xảy ra trong lịch sử
nhân loại. Chúa Giêsu Kitô đã thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã
khiêm hạ bước xuống cùng tận cuộc đời. Chúa đã sống chung với các môn đệ nghèo
hèn là những người lao động chài lưới và ít học. Chúa đã đi khắp các nẻo đường
để gieo rắc tin mừng tình thương và chữa lành những tâm hồn dập nát đau thương.
Chúa đã giao hòa con người tội lỗi và ban cho quyền làm con Thiên Chúa. Chúa đã
học vâng phục và vâng phục cho đến cùng. Chúa Giêsu nói: Này con đây, con đến
để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới (Dt
10. 9).
Lạy Chúa, biết bao lần con đã thề hứa sẽ sống đạo tốt và sống
theo thánh ý Chúa. Rồi biết bao lần chúng con đã lại sa ngã, chối từ và tìm
theo ý riêng mình. Xin Chúa ban ơn đảm để chúng con biết nói lời xin vâng và
sống tín thác như Đức Maria. Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.
29. Niềm tin
Hôm nay Chúa nhật thứ IV Mùa vọng, Giáo Hội trình bày cho chúng
ta về hình ảnh của Mẹ Maria như là mẫu mực của người có niềm tin. Sự hiện diện
của Chúa Giêsu trong lòng Mẹ đã thúc đẩy Mẹ lên đường đi thăm viếng bà chị họ
Isave. Qua biến cố đó, Mẹ Maria đã thực thi hai giới răn căn bản nhất trong
đạo, đó là mến Chúa và yêu người.
Tình yêu Chúa phải là sức đẩy con người tìm đến với tha nhân.
Trong tâm tình chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại
cách sống của mình. Những chuẩn bị đón mừng Chúa đến của chúng ta có được cụ
thể hóa bằng những sự đón tiếp chân thành mật thiết mà chúng ta đã dành cho tha
nhân không? Những kẻ không nhà, không cửa, những người khốn khổ cùng tận có tìm
được một chút nương tựa nơi lòng quảng đại của chúng ta không?
“Ngày ấy Maria chỗi dậy vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến với
một thành xứ Giuđêa, Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave”. Có lẽ ai trong
chúng ta cũng đã quen thuộc với những dòng trên đây, khung cảnh đã trở thành đề
tài cho không biết bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật. Hai người thiếu phụ đang mang
thai, có họ hàng với nhau, tìm đến gặp nhau để giúp đỡ nhau. Hơn nữa, Maria
người em họ ở lại ba tháng với người chị họ của mình.
Chúng ta có thể tưởng tượng được những gì mà hai người đàn bà
trao đổi cho nhau để giúp đỡ nhau, cũng như những lời tâm sự hỏi han mà họ chia
sẻ cho nhau. Thế nhưng, thánh Luca tác giả đoạn Tin Mừng hôm nay đã không ghi
lại một chi tiết nào về những giai thoại quí giá ấy. Nhưng trọng tâm của biến
cố mà tác giả muốn nêu bật chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu tuy
còn trong lòng Mẹ đã là nhân vật chính của bức tranh, Ngài chính là sự hiện
diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Đó là tất cả những gì mà thánh Luca muốn
làm nổi bật nơi biến cố Đức Maria đi thăm viếng người chị họ Isave.
Lời chúc tụng của bà Isave và sự nhảy mừng của Gioan tẩy giả đã
được thánh Luca ghi lại, gợi lên cho chúng ta việc dân Do thái kiệu hòm bia
Thiên Chúa về thành thánh Giêrusalem. Vua Đavid vừa nhảy múa trước hòm bia của
Thiên Chúa, vừa kêu lớn: “Bởi đâu hòm bia Thiên Chúa đến nhà tôi”.
Đối với người Do thái trong Cựu ước, hòm bia giao ước có chứa
đựng mười giới răn, chính là biểu tượng về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân
Ngài. Mang Ngôi Hai Thiên Chúa trong lòng, Mẹ Maria cũng được ví như hòm bia
của Thiên Chúa. Mẹ Maria chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa với Giáo Hội.
Nhờ Mẹ Maria, Thiên Chúa trở thành Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở với con
người. Niềm vui no thỏa của bà Isave và hài nhi nằm trong lòng bà cũng phải là
niềm vui của chúng ta trong Mùa Giáng Sinh này.
Hằng năm cứ đến Mùa Giáng sinh, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta
sống một cách sâu sắc chân lý căn bản nhất trong niềm tin của mình: Đó là Thiên
Chúa làm người để mặc cho cuộc sống của chúng ta một chiều kích thần linh.
Hai người chị em họ gặp gỡ nhau, hai người đàn bà trò chuyện với
nhau, đó là chuyện thường ngày như cơm bữa trong cuộc sống của chúng ta. Thế
nhưng, chính do sự hiện diện của Chúa Giêsu mà cuộc gặp gỡ thường ngày ấy đã
trở thành một biến cố, hay đúng hơn thành một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa
đối với con người. Do đó tất cả mọi sinh hoạt của con người dù là những việc
làm vô danh phiền toái nhất cũng đều có thể là một thể hiện của một tình yêu
Thiên Chúa, cũng đều có thể là một loan báo Tin Mừng. Thánh Phaolô đã không
ngừng nhắc nhở chúng ta: “Dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm việc gì, anh em
hãy làm sáng danh Chúa”.
Chúng ta hiệp nhau trong thánh lễ ngày Chúa nhật để cử hành bí
tích tình yêu của Thiên Chúa. Bánh Thánh và Rượu Thánh tượng trưng cho cả cuộc
sống của chúng ta, cũng như bánh và rượu ấy sẽ trở thành Mình và Máu Chúa
Giêsu, thì toàn thể cuộc sống của chúng ta cũng được Chúa đón nhận để trở thành
nơi gặp gỡ giữa Ngài và con người.
Gặp gỡ Chúa Giêsu trong những phút ưu việt trong thánh lễ đã
đành, con người còn gặp gỡ Chúa qua từng phút giây sinh hoạt trong cuộc sống.
Bàn thờ không chỉ ở trong nhà thờ, bàn thờ còn là cả cuộc sống. Chính cuộc sống
với không biết bao nhiêu phấn đấu và hy sinh cùng với những cố gắng tin yêu phó
thác. Đó chính là bàn thờ để gặp gỡ Chúa và loan báo Tin Mừng của Ngài cho mọi
người.
Mẹ Maria là người lữ hành đức tin kiểu mẫu. Mẹ mang Chúa Giêsu
trong mình, Mẹ đã sống từng phút giây trong cuộc sống như một cuộc gặp gỡ triền
miên với Chúa, với tha nhân. Mẹ đã chỉ cho chúng ta con đường phải đi, đó là
sống một cách sung mãn từng phút giây hiện tại, biến một phút giây hiện tại và
cuộc gặp gỡ thành một lời loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu mà chúng ta đón nhận qua Bí tích Thánh Thể
mang lại sức mạnh, để chúng ta cũng lên đường và sống như Mẹ Maria.
30. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn
Văn Độ
“Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy
nhót trên đồi, tung tăng trên núi "(Dc 2, 8).
Chúa nhật I Mùa Vọng, Giáo hội thắp lên một ngọn nến màu tím
tượng trưng cho sự tha thứ của Adam và Evà, đồng thời cùng với con cái mình
vươn tâm hồn lên tới Chúa (Ad Te levavi).
Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo hội mặc lấy tâm tình của dân Sion,
tâm tình của người trong tư thế nghênh đón chờ Chúa đến (Populus Sion ) và thắp
lên ngọn nến thứ hai, tượng trưng cho Đức tin của của Áp-ra-ham và các tổ phụ,
là những người đã tin rằng có những món quà Thiên Chúa dành cho trong vùng Đất
Hứa.
Sang Chúa nhật III Mùa Vọng, niềm vui trào dâng, màu sắc Phụng
vụ từ tím chuyển sang hồng, nhất là bài Ca nhập lễ lấy lại lời của Thánh Phaolô
gửi tính hữu Philipphê: Vui lên anh em - Gaudete ... Anh em hãy vui lên trong
niềm vui của Chúa...vì Chúa dã gần kề. Giáo hội thắp lên một ngọn nến hồng,
tượng trưng cho niềm vui của David có dòng dõi ông sẽ trường tồn vạn kỷ. Điều
này đã chứng minh cho giao ước của Thiên Chúa
Và đây là Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, sự nóng lòng mong chờ Chúa
đến được thể hiện thật rõ nét. Có lẽ dân chúng không thể nén lòng mà trông đợi
được nữa, nên đã cất cao giọng, mong rằng tiếng họ kêu được thấu tời Trời:
Rorate ... Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa, mưa Đấng Công Chính. Giáo
hội thắp lên ngọn nến thứ tư, tượng trưng cho giáo huấn của các tiên tri đã
loan báo một triều đại của công lý và hòa bình. Phụng vụ Lời Chúa diễn tả niềm
vui của Dân Chúa: "Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang
tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi"(Dc 2, 8).
"Này đây Đức Vua đang ngự đến, nào chúng ta mau đến trước
nhan Đấng Cứu Độ chúng ta" (Phụng vụ Mùa Vọng). Vua Sa-lô-môn cũng đã nói
rõ: "Tựa nước mát khi cổ họng ráo khô. Nước bị đục, suối bị dơ, chính nhân
bị kẻ gian ác làm nghiêng ngửa.(Cn 25,25). Quả thật, những lời trên loan báo
Đấng Cứu Thế đến, Ngài đến để đem bình anh cho nhân loại, Ngài đến làm cho nhân
loại hoà giải với Thiên Chúa Cha, quốc gia hòa giải quốc gia, người người hòa
giải người người. Đúng như lời ngôn sứ Isaia loan báo: "Bước chân người
loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ
và nói với Xi-on rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị"(Is 52,7)
...
Giống như những sứ giả, loan báo dòng suối mát trong lành tuôn
đổ xuống trên những tâm hồn khát của tc. Họ loan tin Thiên Chúa đến, Ngài là
nguồn nước uống của chúng ta "Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn
cứu độ." (Is 12:3).
Chính vì thế mà dường như người mang tin như Đức Maria, tâm hồn
Mẹ tràn ngập niềm vui khi nhận lại được những lời của bà Elisatbét ,và người
nhận được tin là bà Elisabét cũng có niềm vui khôn tả siết, nên đã thốt lên
Thần: "Bởi đâu tôi được Thiên Chúa Mẹ Thiên Chúa tôi đến với tôi thế này?
Lý do là cả người nhận lẫn người đưa tin đều vui mừng khôn sách, là vì cả hai
đều đã được tưới gội bởi cùng một nguồn suối mát là chính Chúa Thánh Thần: Lúc
đó, những tiếng vọng lên bên tai Mẹ Marai, thần trí tôi nhảy mừng trong Thiên
Chúa Đấng Cứu Độ tôi."
Vì thế, ngày nay nhân loại hân hoan vui mừng khôn tả siết khi
sắp được gặp gỡ Chúa Kitô, và lấy lời Thánh Vịnh mà kêu lên với nhau rằng:
"Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn, xót xa phận mình mãi làm chi? Hãy cậy
trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người, Người là Ðấng cứu độ, là Thiên Chúa
của tôi! (Tv 42,5)
Ước gì tâm hồn chúng ta ngày hôm nay, khi đang nô nức mừng kỷ
niệm ngày sinh nhật của Con Một Chúa, và đón chờ Chúa đến làn thứ hai trong
vinh quang của Thiên Chúa là Cha. Chúng ta cũng nhảy mừng hân hoan trong niềm
vui của Chúa, và nô nức đến gặp Thiên Chúa niềm vui của lòng chúng ta và thân
thưa với Ngài với những lời này: "Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ. Lạy Chúa,
xin thương giúp thành công. (Tv 117,25-26).
Lễ Giáng Sinh đã gần kề, chắc chắn tâm hồn mỗi người tín hữu
chúng ta cũng cảm nếm được niềm vui linh thiêng ấy khi thai nhi Gioan nhảy mừng
trong lòng mẹ vì nghe lời chào của Đức Maria. Cuộc gặp gỡ diệu kỳ của một Vì
Thiên Chúa và thánh Gioan Tiền Hô diễn ra trong cung lòng của hai bà mẹ. Đây
quả là Tin Vui cho những ai mong đợi ngày cứu độ của Thiên Chúa.
Xin cho nhân loại khắp hoàn cầu cảm nhận được niềm vui ơn cứu độ
khi cử hành lễ sinh nhật Con Chúa. Amen.
31. Niềm vui của việc tin tưởng
Đức Maria “vội vã” lên đường. Đây là bước đầu của những chuyến
đi trong thánh Luca, tác giả Phúc Âm chuyên viết về những con đường. Sách Phúc
Âm của ngài chuyển động, cũng thế đối với quyển sách thứ hai của ngài, quyển
Công vụ Tông đồ. Từ Nagiarét, sự cứu độ sẽ tiến về Giêrusalem, rồi sau Phục
sinh, sự cứu độ sẽ bắt đầu chinh phục thế giới. Chúa Giêsu nói: “Anh em sẽ là
chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và
cho đến tận cùng trái đất”. Thánh Phêrô giải thích các chứng nhân là những
người “đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa
chúng ta”.
Đây là bước truyền giáo đầu tiên: Đức Maria vội vã lên đường khi
đang còn vang vọng lời truyền tin. “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói”, Đức Maria vội vã đi xem sự kỳ diệu đầu tiên được loan báo: “Êlisabét,
người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà
ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”. Đức Maria
tin điều ấy. Tất cả đều lạ lùng và bà tin. Một niềm vui xâm chiếm bà, thúc đẩy
bà; niềm vui tin tưởng, niềm vui đi vào trong thời đại cứu độ và là người mở ra
thời đại đó. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”.
Việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét chiếu sáng niềm vui của
việc tin tưởng. Bà Êlisabét thốt lên nhiều lời vui mừng: “Bởi đâu tôi được Thân
Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”, “Tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa
con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”, “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ
thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đức Maria trả lời bằng bài ca
Magnificat, bài hát vui mừng của người.
Luca cống hiến cho chúng ta niềm vui rất đặc biệt này của đức
tin.: Thánh Thần. Thánh Thần xuống trên Đức Maria. Ngài tràn đầy trong lòng bà
Êlisabét. Ngài tràn ngập nơi các môn đệ vào lễ Hiện Xuống. Ngài đầy tràn chúng
ta khi chúng ta tin và công bố rằng Chúa Giêsu là Chúa, nghĩa là Đấng Cứu Thế,
Đấng Cứu Độ, nhưng là Đấng Cứu Thế không như người Do thái nghĩ: Thiên Chúa ban
Con Ngài cho chúng ta.
Đức tin và niềm vui của chúng ta tuỳ thuộc vào sức mạnh mà chúng
ta tin vào điều đó. Chúng ta sa lầy trong những điều phụ thuộc. Chúng ta những
Kitô hữu tranh luận với nhau vì những chi tiết thay vì sống trọn và loan truyền
điều cốt yếu, mặc khải kỳ diệu: Con Trẻ sẽ sinh ra từ Đức Maria là Con Thiên
Chúa. Có một bài hát khác phát xuất từ bài Magnificat, bài Benedictus: “Chúc
tụng Chúa, Ngài đã viếng thăm dân Ngài”.
Đích thân Thiên Chúa đến viếng thăm chúng ta! Có nhiều điều phải
tin: sự phục sinh của Chúa Kitô, sự hiện diện của Ngài trong Thánh Thể, việc
tha tội lỗi cho chúng ta, chiến thắng cuối cùng của sự sống trên đau khổ và cái
chết. Nhưng đối với tất cả những điều đó, đức tin của chúng ta sẽ dễ dàng và
vững chắc nếu chúng ta bám rễ vào điều khó nhất: tin rằng Thiên Chúa đã đến
trên các con đường của chúng ta: ‘Chúng ta đã thấy các bước chân của Thiên Chúa
gặp gỡ các bước chân của con người’.
Để Ngài đến ở với chúng ta, phải có Mẹ Maria. Không gì có thể
làm cho chúng ta tôn sùng Mẹ hơn là việc thấy Mẹ hạnh phúc biết bao khi tin và
dâng hiến Con Trẻ để cho những niềm vui đầu tiên của đức tin bùng nổ. Muốn nói
về Đức Maria, Công Đồng đã có từ ngữ rất đẹp này: Mẹ đã giới thiệu Sự Sống cho
thế giới. Chính điều này đã làm con trẻ của Êlisabét nhảy mừng, và đó là điều
làm chúng ta vui mừng trước mặt Đức Maria: Mẹ là Sự Viếng Thăm của Thiên Chúa,
Mẹ giới thiệu cho chúng ta Sự Sống, Sự Sống trở thành sự sống của con người đối
với chúng ta.
Nếu tin điều này là niềm vui của chúng ta thì chúng ta đừng quá
che đậy niềm vui đó. Chẳng hạn trong một cuộc thăm viếng mà sự tiếp xúc có thể
được thực hiện trong một chiều sâu nào đó, ai mà biết được? Trong khi lắng nghe
chúng ta, hay có thể chỉ nhìn chúng ta mà thôi, một người nào đó có thể vui
mừng.
32. Những cách viếng thăm
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Sống ở đời “Không ai là một hòn đảo”, vì con người sống là sống
cùng sống với và sống cho. Chính vì vậy, viếng thăm nhau không chỉ là chuyện
bình thường trong cuộc sống mà còn để chu toàn bổn phận và thể hiện lòng bác ái
yêu thương. Có nhiều cách viếng thăm. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng
nhau suy niệm gương viếng thăm của Đức Maria. Từ đó, chúng ta suy ngắm gương
viếng thăm của Đức Giêsu và gần đây là gương viếng thăm của Đức Thánh Cha
Phanxicô. Cuối cùng, chúng ta tìm hiểu một chút về những cuộc thăm viếng của
con người hôm nay để rút ra những bài học cho bản thân.
Thứ nhất, gương viếng thăm của Đức Maria
Khi nghe tin bà Êlizabét, người họ hàng với mình, tuy già rồi,
mà cũng đang cưu mang một người con trai được sáu tháng (x. Lc 1,36). Đức Mẹ nghĩ
rằng: Tuổi già là tuổi cần chăm sóc giúp đỡ. Hơn nữa, tuổi già mà còn mang thai
thì lại cần phải chăm sóc hơn. Chính vì vậy, Mẹ đã “vội vã lên đường” đi thăm
bà chị họ. Sau cuộc hành trình dài đầy gian nan, Mẹ đã gặp được bà Êlizabét.
Đây là cuộc gặp gỡ mang tính lịch sử, vô tiền khoáng hậu. Sáu tháng nay, bà
Êlizabét sống trong niềm vui mừng. Chắc chắn hằng ngày không ngớt dâng lời tạ
ơn Thiên Chúa vì đã cất nỗi khổ nhục son sẻ của hai ông bà, đã cho bà cưu mang
con trong tuổi già. Nay niềm vui đó được nhân lên vì có Đức Maria đến viếng
thăm. Ngoài Mẹ ra, còn có Chúa Giêsu mà Mẹ đang cưu mang trong lòng. Bà
Êlizabét đã nhận ra điều đó khi đứa con trong lòng mình “nhảy mừng”. Bà kêu lớn
tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được
chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa
nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã
tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện"(Lc, 43,45).
Hiệu quả của cuộc viếng thăm này vô cùng to lớn: Đem niềm vui
đến cho cả gia đình ông Giacaria; Thánh Gioan được khỏi tội tổ tông truyền ngay
từ trong lòng Mẹ; bà Êlizabét được Mẹ giúp đỡ trong những ngày thai nghén sinh
nở. Tinh thần thăm viếng không dừng lại ở đó, Mẹ vẫn tiếp tục thăm viếng con
người. Đáng kể nhất là cuộc thăm viếng tại tiệc cưới Cana: Mặc dầu giờ chưa đến
nhưng nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước hoá thành
rượu ngon để làm vui lòng gia đình chủ tiệc. Khi đã về trời, Mẹ cũng không
ngừng viếng thăm nhân loại. Đó là những cuộc viếng thăm: Ở Lộ Đức năm 1858; tại
Lavang năm 1798; ở Fatima năm 1917. Và rất nhiều cuộc viếng thăm khác của Mẹ
nhằm mục đích thi ân giáng phúc cho con cái loài người.
Thứ hai, gương viếng thăm của Đức Giêsu
Vâng lệnh Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế mang thân phận của
một con người ngoại trừ tội lỗi. Trong ba năm hoạt động công khai, Ngài đã đi
khắp mọi nơi, gặp gỡ mọi người: Đến với miền Samari; miền duyên hải Tirô-Siđôn;
miền Ghêrasa. Đối tượng viếng thăm của Ngài là phổ quát: Ngài đến với những
người tội lỗi; với những người bệnh tật; với những người có chức quyền danh
vọng. Ngài đến với họ để mong muốn biến đổi họ: Một Lêvi trở thành Mathêu Tông
đồ; một Giakêu người thu thuế trở thành người biết cho đi; một Maria Mađalêna
tội lỗi trở thành một vị thánh. Nhờ những cuộc viếng thăm của Ngài, những người
bệnh hoạn tật nguyền trở thành những người khoẻ mạnh: Người mù thấy được; người
què đi được; người điếc được nghe; người bệnh được khỏi. Nhờ Ngài viếng thăm mà
con trai bà goá thành Naim, con gái ông Giaia và ông Lazarô chết rồi được sống
lại.
Không thể kể hết ra đây những hiệu quả mà những cuộc viếng thăm
của Chúa Giêsu mang lại cho con người. Ngài viếng thăm ai là biến đổi cuộc đời
của họ trong niềm vui và sự bình an.
Thứ ba, gương viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô
Tiếp tục tinh thần của Đức Mẹ và Chúa Giêsu, Giáo hội qua mọi
thời đại vẫn đến với muôn dân. Gần đây nhất phải kể đến những cuộc viếng thăm
của Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài đã đi khắp nơi, đến với mọi hạng người: Đến
với những người vô thần; đến với những người Do thái giáo; đến với những người
Anh giáo; đến với những người Hồi giáo; đến với những người Chính thống giáo;
đến với tù nhân; đến với những người tị nạn; đến với những người nghèo; đến với
những người thất nghiệp; đến với các bệnh nhân. Ngài đến để đem niềm vui và
trao ban tình thương cho họ. Tình yêu thương của Ngài đã chạm đến trái tim từng
người mà Ngài gặp gỡ. Xin được trích dẫn một bằng chứng: “Tờ Washington Post,
xuất bản tại Hoa Kỳ, trong số đề ngày 6 tháng 11 năm 2013, nữ ký giả Elizabeth
Tenety đã viết bản tin có tựa đề Đức Giáo Hoàng Phanxicô ôm một người đàn ông
có dị tướng tại quảng trường thánh Phêrô. Đức Thánh Cha đã âu yếm ôm hôn người
tật bệnh này vào cuối buổi triều yết chung, ngày thứ Tư 6 Tháng 11 năm 2013.
Bệnh nhân có diện mạo và thân thể rất kỳ dị đáng thương đến nỗi nhiều người cho
rằng ông ta không còn có hình dạng con người. Ký giả tờ Washington Post viết
rằng: Nếu phải dùng từ ngữ thì cần cả ngàn từ mới diễn tả được ý nghĩa Đức Thánh
Cha ôm hôn người dị tật. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn người dị tật đã nhanh
chóng được phổ biến trên các mạng lưới xã hội và nhiều cơ quan thông tấn quốc
tế đã đưa bản tin đặc biệt này. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn và cầu nguyện cho
người dị tật làm nhiều người tưởng nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu đã chữa những
người phong cùi, và thánh Phanxicô Assisi đã săn sóc người tật bệnh nghèo
đói”(Theo Nguyễn Long Thao).
Ông cho biết việc gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô “như ở trên
Thiên Đàng vậy” và cuộc gặp gỡ này là khởi điểm mới của cuộc đời ông. Người đàn
ông bất hạnh nhưng có phước này bày tỏ cảm nhận của mình khi được chính vị giáo
hoàng ôm lấy như sau:
“Đôi tay của ngài hết sức mềm dịu. Và nụ cười của ngài rất ư là
tươi nở. Thế nhưng cái đánh động tôi nhất đó là việc ngài không lưỡng lự về
việc có nên ôm lấy tôi hay chăng. Tôi không gây lây nhiễm, nhưng ngài đâu có
biết như thế. Ngài chỉ biết làm điều ấy thôi: ngài đã ve vuốt cả khuôn mặt của
tôi và khi ngài làm thế thì tôi chỉ cảm thấy rằng mình được yêu thương. Trước
hết ngài đã hôn lấy bàn tay của tôi, trong khi bàn tay kia của ngài mơn trớn
đầu tôi và các vết thương của tôi. Sau đó ngài kéo tôi vào mà ôm chặt lấy tôi,
hôn lên gương mặt của tôi. Đầu của tôi dựa vào ngực của ngài, hai cánh tay của
ngài ôm choàng lấy tôi. Điều này kéo dài hơn một phút, nhưng đối với tôi nó
dường như là vô tận” (Theo Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, phóng dịch theo
http://www.zenit.org/en/articles/severely-disfigured-man-embraced-by-pope-gives-interview).
Thứ tư, những cuộc viếng thăm của con người hôm nay
Họ viếng thăm nhau bằng nhiều cách: Có những cuộc viếng thăm để
khử trừ nhau. Có những cuộc viếng thăm vì ngoại giao. Có những cuộc viếng thăm
chỉ vì lợi ích phe nhóm. Có những cuộc viếng thăm vì lợi ích của bản thân mình:
Vì tiền bạc; vì chức quyền danh vọng; vì tình cảm ngang trái. Có những cuộc
viếng thăm vì bổn phận. Có những cuộc viếng thăm vì tình yêu thực sự: Thăm
viếng bệnh nhân; thăm viếng người tù tội; thăm viếng cha mẹ già yếu; thăm viếng
người tàn tật, neo đơn; thăm viếng những người cần sự thăm viếng để động viên,
yên ủi và giúp đỡ họ.
Với chúng ta hôm nay, chắc chắn Chúa muốn chúng ta noi gương Đức
Maria, Đức Giêsu và Đức Thánh Cha Phanxicô. Đối tượng viếng thăm của
chúng ta phải là phổ quát. Những cuộc thăm viếng của chúng ra phải phát
xuất từ tình yêu thực sự. Chúng ta là hiện thân của Chúa để đem niềm vui và
bình an đến với mọi người. Nói về vấn đề này, tôi sực nhớ tới câu chuyện ấn
tượng trong cuộc đời mục vụ của tôi: Có ông cụ nọ, trạc tuổi 80. Dù tuổi cao, lại
bị bệnh nằm liệt giường nhưng ông cụ vẫn còn minh mẫn. Mỗi lần thấy tôi đến
viếng thăm, ông cụ đều cất tiếng chào: Kính chào Chúa Giêsu. Ông còn giải thích
cho mọi người hiểu: Cha là Chúa. Lời ông cụ giúp tôi tự nhắc nhủ mình rằng: Tôi
phải thực sự là hiện thân của Chúa khi đến với anh chị em mình.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết ra khỏi chính mình để đến
với anh chị em xung quanh. Xin cho những cuộc viếng thăm của chúng con không
phải vì tiền bạc, của cải, danh vọng nhưng đem niềm vui và tình thương của Chúa
đến với mọi người. Để những cuộc viếng thăm của chúng con thực sự là hiện thân
của Chúa với những người chúng con gặp gỡ. Amen.
33. Thưa vâng với Thiên Chúa
Đoạn Phúc Âm này bắt nguồn từ những bản văn người ta mệnh danh
là ‘truyện thời thơ ấu Chúa Giêsu’ và cho rằng tất cả chỉ là ‘thần thoại’. Có
những thuyết nhìn thấy trong đó một sự pha trộn những chuyện tưởng tượng của
một số tôn giáo cổ. Ở đây không xét đến lập trường ấy, chúng ta căn cứ vào
những công trình khảo cứu theo phương pháp khoa học nghiêm chỉnh nhất và học
thuyết của Giáo Hội. Thật ra Phúc Âm chứa đựng đức tin thuần khiết và trọn vẹn,
cho nên phải đọc Phúc Âm với một tâm tình thanh khiết.
Đức Maria đi thăm chị họ là bà Êlisabét và được đón chào: “Em
được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ”. Lúc đó xảy ra một sự kiện quan trọng cho
cả chủ lẫn khách: Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong lòng mẹ khi Đức Maria đang mang
thai Chúa Giêsu vừa tới nơi. Đoạn tả cảnh thăm viếng kết thúc bằng tiếng hô lớn
của bà Êlisabét, nhận định của bà đối với hết thảy chúng ta rất là quan trọng:
“Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với
em”.
Giáp lễ Giáng sinh là lúc thích hợp để suy niệm về mầu nhiệm Đức
Maria:
1) Mầu nhiệm trinh khiết.
Ơn trinh khiết của Đức Maria có tính cách thanh sạch trọn vẹn
bao trùm và thấm nhuần tất cả hồn xác Người. Dường như bà Êlisabét cảm biết sự
thật ấy trong con người của Đức Maria vì bà nghĩ rằng, nhờ lời Chúa, Đức Maria
trở thành mẹ Đấng Cứu thế. Được ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần và đáp trả ân
huệ đó, Đức Maria quan niệm cuộc đời mình chỉ là để trao phó tất cả hồn xác cho
Chúa trong niềm cung hiến thuần khiết trọn vẹn nhất. Khi thiên sứ xin Người trả
lời, Đức Maria nhìn rõ toàn diện vấn đề đặt ra cho mình. Ngay lúc đó, hành vi tin
của Đức Maria đối với Thiên Chúa cho Người cảm biết sự thụ thai vượt khỏi định
luật nhân loại chính là phương cách triệt để nhất, hoàn toàn nhất để thuộc về
Thiên Chúa. Tiếng vâng của Đức Maria là sự thánh hiến đức trinh khiết của
Người.
2) Mầu nhiệm làm mẹ
So sự ưng thuận làm mẹ, Đức Maria gia nhập mầu nhiệm Đức Giêsu
trong đời sống thế gian của Chúa, bắt đầu từ khoảnh khắc truyền tin cho tới
khoảnh khắc sau cùng là Chúa sống lại, qua những giai đoạn Chúa sống ẩn dật,
Chúa đi rao giảng, Chúa chết trên thập giá.
Thái độ Đức Maria trong những giai đoạn ấy có thể vạch cho chúng
ta hai hướng cầu nguyện:
+ Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, dù gặp những hoàn cảnh
phi lý nhất, đó là con đường chắc chắn để hoàn thành sứ mạng mình.
+ Thưa vâng với Thiên Chúa trong đức tin, chung cục đem niềm vui
đến với chúng ta nhờ kết hợp mật thiết với mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô hấp hối và
sống lại để cứu độ chúng ta và thế giới.
34. Suy niệm của R. Gutzwiller
THĂM VIẾNG
1. Những sự kiện
Cuộc gặp gỡ giữa bà Êlisabét và Đức Maria mang nhiều ý nghĩa,
một khi được liên kết với hai khung cảnh Kinh thánh ta thấy ở trên. Êlisabét
biểu hiệu Israel: già cả, gia đình tư tế, bị son sẻ tự nhiên, và nhờ phép lạ
của Thiên Chúa trở thành người mẹ có con cái sinh ra vị tiền hô của Đấng Cứu
Thế. Maria tượng trưng cho Giáo Hội: trẻ trung, trinh tiết, thành người Mẹ nhờ
phép lạ của Thiên Chúa, sắp sinh hạ là Đấng Messia, Đấng Cứu độ. Hai người mẹ
mà việc làm Mẹ mang một tầm vóc lịch sử, đã tìm gặp nhau và cùng liên kết với
nhau để cùng tụng ca vinh quang Thiên Chúa.
Maria lên đường đến thăm viếng phần vì –một cách rất tự nhiên-
muốn thông dự vào biến cố vĩ đại và rồi bày tỏ tâm tình của mình, nhưng cũng vì
muốn giúp đỡ và cuối cùng là đón nhận một dấu hiệu Thiên Chúa đã chỉ: như vậy,
Mẹ đã đi sâu vào chương trình vĩ đại của Thiên Chúa.
Đằng sau tất cả những cái đó, người ta khám phá ra được sáng
kiến, quyết định cá nhân của Mẹ. Một lời nói của Thiên Thần và sự thúc đẩy của
ơn thánh đã đủ. Mẹ hiểu và Mẹ hành động. Tin mừng nói thêm là Mẹ vội vã. Ưng
thuận thánh Ý Chúa, vâng lời tiếng mời gọi của Ngài thì không được chậm trễ và
nặng nề, nhưng vui vẻ và lanh lẹ. Người nào đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa và
được Thần Khí thúc đẩy, phải bước đi với tâm hồn hài lòng và tinh thần cởi mở,
dầu trên con đường đầy khó khăn.
Việc Maria cất bước đâu phải việc tự nhiên. Một thiếu nữ trẻ
tuổi tự ý làm một cuộc hành trình dài ba ngày đường, rồi ở lại cả mấy tháng
trời xa nhà xa cửa, hẳn phải là cái gì gây kinh ngạc cho người Do thái thời đó-
và có thể được coi là quá đáng. Nhưng Maria đã để kệ tất cả những cái nhìn phàm
trần đó một khi muốn thực thi Thánh Ý Chúa.
2. Lời nói
Đức Maria đến chào thăm Êlisabét trong căn nhà của Giacaria.
Chúng ta không biết đó là lời chào bình thường hay cùng lúc đó truyền đạt sứ điệp
thiên thần đã cho biết liên quan đến biến cố kỳ diệu kia. Trong mọi trường hợp,
lời nói của Đức Maria làm cho Êlisabét và con bà đang mang trong lòng một sự
cảm động và nhiệt tình cả về tự nhiên lẫn thần hứng của Thánh Thần. Chính vì đó
mà khi đáp lại lời chào, bà Êlisabét đã thốt lên với vẻ cảm động sâu xa: ‘Em có
phúc hơn mọi người nữ, và hoa quả bởi lòng em thật đáng chúc phúc’. Phần đầu
của Kinh Kính mừng được Thiên thần Chúa phát biểu, phần sau đã được Êlisabét
xướng lên, và do đó bởi lòng thán phục của loài người. Sau này Giáo Hội đã thêm
vào phần thứ ba trong ý nghĩa và theo tinh thần của con người tội lỗi.
Kinh Kính mừng như vậy hoàn toàn có nguồn gốc Kinh Thánh và Giáo
Hội, đã là một trong những lời kinh đẹp nhất, sâu xa nhất, nhờ nó mà Êlisabét
và Cựu ước nôí kết với Đức Maria và Tân ước, tất cả kết thúc bằng lời Giáo Hội,
trong đó hết thảy đều quy tụ về.
Hoa quả của lòng Đức Nữ Trinh đã làm nên đối tượng cho việc vinh
chúc, chính vì thế ta hiểu được tại sao Đức Mẹ đáng được ca tụng giữa hàng phụ
nữ. ‘….Việc làm Mẹ của Đức Maria là một bí nhiệm của vẻ lớn lao của Mẹ, đồng
thời cũng nói lên sự bí mật trong việc sùng kính Đức Mẹ của tất cả những ai suy
nghĩ và tin tưởng theo Kinh Thánh.
‘Và bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến với tôi?’. Bà Êlisabét, dù đã
cao niên, cũng nhận thức được và tuyên xưng sự nhỏ bé của mình, ngạc nhiên và
sung sướng, ca tụng người em họ này ‘Mẹ của Chúa tôi’: bà biết trẻ nhỏ nằm
trong lòng trinh nữ là ai, và trẻ này sẽ làm Chúa theo hai nghĩa của danh từ.
Vì Ngài là Chúa của mọi người, nên cũng là Chúa của Bà và là Chúa là Vua của vị
loan tin, của vị tiền hô mà Bà sắp sinh hạ.
‘Phúc cho em là kẻ đã tin: vì tất cả những gì Chúa đã phán với
em, sẽ nên trọn’. Đức Maria thật đã cao cả trong sự kiện, và nhiệm vụ làm Mẹ
của Chúa; Mẹ còn cao cả xét về cá nhân Mẹ, vì lòng tin vào sức mạnh và quyền
năng của Lời Thiên Chúa. Đức tin này hoàn toàn nghịch laị với sự cứng tin của
loài người.
Ngay từ khởi đầu lịch sử ơn cứu độ, đức tin đã được biểu hiện
như một sự chấp nhận tiêng nói đòi hỏi, ưng chịu, mời gọi, ban ơn sủng, sinh hạ
và tạo thành. Ơn Cứu độ đến từ Thiên Chúa, là công việc của Thiên Chúa. Tuy
nhiên,con người phải đón nhận bằng sự sẵn sàng vì Thiên Chúa không thể bỏ qua
sự cộng tác này. Hoạt động của Thiên Chúa đòi hỏi sự tham gia của con người. Sự
tham gia, cộng tác này, chính là lòng tin biểu lộ ra bằng việc làm: đức tin
sống động, câu trả lời quả quyết của cả con người đáp ứng lời mời gọi của Thiên
Chúa.
Êlisabét ca tụng Đức Mẹ, đó là Israel ca tụng Giáo Hội. Đó là
việc Cựu ước thừa nhận Tân ước và đó cũng là sự kính trọng của dân cũ của Thiên
Chúa đối với dân mới của Ngài.
Toàn cảnh trên đây đã tạo nên nền tảng cho việc sùng kính Đức
Mẹ, vì sự sùng kính này rút từ nguồn gốc của lời nói và trình thuật Kinh thánh,
diễn tả hai vẻ lớn lao của Đức Mẹ: lớn lao nơi con người và nơi nhiệm vụ của
Mẹ, đồng thời lớn lao về tư cách làm Mẹ của Mẹ và sự sẵn sàng nơi đức tin của
Mẹ.
Lời ca tụng của bà Êlisabét nối tiếp lời ca ngợi của thiên thần.
Cả hai đã được tiếp tục qua môi miệng Giáo Hội và môi miệng của tất cả những
người thấm thía lời văn cũng như tinh thần của Kinh Thánh và của Giáo Hội, đã
không bao giờ để cạn khô lời tán tụng Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu.
35. Chú giải của Noel Quesson
Hồi ấy
Trong Mùa Vọng này, với Tin Mừng của Luca, chúng ta đã đi ngược
dòng thời gian. Vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, ông đã yêu cầu chúng ta
"ngẩng đầu lên" trước Đức Kitô vinh quang đang "hiện đến"
trên đám mây trời: Đức Kitô Phục sinh hôm nay cũng là Đức Kitô ngày "cánh
chung". Chúa nhật II và III Mùa Vọng, Luca đã cho chúng ta quay lại 2000
năm về trước, vào thời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị cho tác vụ công
khai của Đức Giêsu Kitô Nadarét. Chúa nhật thứ IV này, chúng ta lời đi ngược
lên 30 năm nữa, tới thời mà Đức Giêsu mới chỉ là một phôi thai trong lòng một
trinh nữ, Đức Maria và chúng ta cũng ở trong thời gian.
Còn vài ngày nữa là tới lễ Giáng sinh. Những ngày này, đường phố
của chúng ta nhộn nhịp tưng bừng đón lễ, những cửa hàng đua nhau quảng cáo. Trong
những ngày tích cực chuẩn bị lễ hội cuối năm này, chúng ta có dành một thời
gian thanh thản nội tâm, để cùng suy niệm với Đức Maria, đang chờ đợi người con
của mình ra đời không?
Bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi
tộc Giuđa
Tên của Mẹ trong tiếng Hipri là Myriam, chắc chắn có nghĩa là
"Công Chúa” hay "Bà lớn".
Đoạn văn nói cho ta hay, "Bà hấp tấp chỗi dậy", có thể
nói ngay sau khi Thiên Thần báo tin. Sự phản ứng nhanh nhẹn này là một dấu chỉ.
Đó là Lời Chúa đã thúc đẩy Bà lên đường. "Êlisabét, người họ hàng với Bà,
tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai... và nay đã có thai được
sáu tháng". Maria lên đường ngay tức khắc. Chúng ta hình dung ra Bà trong
dáng vẻ đầy nhiệt tình và trẻ trung. Thái độ vội vã đó là dấu chỉ đức tin của
Bà. Bà phải đi bộ 150km, không có xe hơi tàu hỏa gì cả! Bà đi về Giêrusalem.
Air Kharim là một địa danh ở ngoại ô phía Tây của thành phố, cách 6km. Ngày nay
đó là khu đại học y khoa Giêrusalem với bệnh viện lớn là Hadassah.
Nhưng đó không đơn thuần là một sự di chuyển địa dư. Đó cũng là
một dấu chỉ. Cuộc hành trình này sẽ mở đầu cho hàng loạt những cuộc hành trình
chứa đầy trong các trình thuật của Luca, một cách tượng trưng. Đường đi là nơi
mạc khải và thi hành sứ vụ. Lời Chúa đã từ trời xuống Nadarét. Nay Lời Chúa đi
từ Nadarét đến Giêrusalem, mở đầu cho biến cố quan trọng "lên thành
Giêrusalem" để kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu. Và từ Giêrusalem Lời Chúa
sẽ mở ra tới Samaria và đến tận cùng trái đất... đến cả tâm hồn tôi, nếu tôi
biết lặng nghe Lời. Sự vội vã của Đức tin là một sự vội vã "thừa
sai". Luca là đệ tử của Thánh Phaolô, vị tông đồ đã đi dọc các con đường
của đế quốc cùng với Luca (CVTĐ).
Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét
Bước đường của Lời Chúa trước tiên ở giai đoạn thân mật nhất, và
trong khung cảnh sống tự nhiên nhất: "ở nhà"... "giữa những bà
con", ở đây là giữa hai chị em bà con. Đức tin luôn được thông truyền như
thế!
Ông Dacaria bị câm, vì ông đã không chịu tin (Lc 1,20 - 1,64).
Đây lại là một dấu chỉ có ý nghĩa. Ông Dacaria đáng thương, sẽ không thể nói
một tiếng nào với hai bà trong thời gian gặp gỡ suốt 3 tháng (Lc l,56) chỉ có
các bà nói chuyện với nhau. Chính các bà là những người đầu tiên có đức tin.
Lời chào của Maria là: "Shalom" có nghĩa là bình an,
trong ngôn ngữ của bà. Chào? Dacaria và Elisabét sáu tháng trước vẫn còn là một
đôi vợ chồng già buồn bã. Buồn vì không có con (Lc l,7). Bà Maria đã biết điều
đó. Bà đến để chúc mừng người chị bà con và chia sẻ niềm vui với bà.
Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng
nhảy lên.
"Đứa con nhảy lên trong bụng". Đó là những từ cụ thể?
Phaolô nói rằng, Luca là một y sĩ (Cl 4, 14). Chúng ta hiểu vì thế mà Luca đã
lưu ý đến chi tiết này. Bất cứ phụ nữ nào đã làm mẹ, cũng đều nhớ đến giây phút
khó quên đó giây phút mà hài nhi ra dấu hiệu đầu tiên về sự hiện diện của mình
bằng cách cựa quậy. Có phải đó là biến cố tầm thường? Là hình ảnh văn chương
ngây ngô? Là thứ tình cảm lỗi thời? Không, đối với Luca, đó là một quả quyết
thần học, một "dấu chỉ" nữa? cũng như hai anh em sinh đôi Êsau và
Giacóp đã nhảy múa trong bụng bà Rêbécca trước kia là vô sinh (St 25,22). Thiên
Chúa đi trước con người, trong những ý định của Người: "ngay từ trong lòng
mẹ", ngôn sứ Giêrêmia đã biết rằng "Chúa biết mình" (Gr l,5).
Cách nói này phải chăng là hạnh phúc?
Gioan Tẩy Giả bắt đầu vai trò của mình là ngôn sứ và nhân chứng
cho Đức Giêsu Kitô! Chính ông báo trước cho mẹ ông biến cố vĩ đại đang sắp đến.
Tại sao chúng ta lại cứ muốn hợp lý hóa mầu nhiệm? Đấy là một hiện tượng sinh
học thông thường chăng? Phải, nhưng cũng là mầu nhiệm thần linh về sự hiện diện
của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn "đi trước" chúng ta.
Và bà được đầy tràn Thánh Thần
Đối với Luca, những trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu đã
là một sự báo trước thời gian Phục sinh. Đó là Lễ Hiện Xuống cách tượng trưng,
nhưng là một lễ Hiện xuống bên trong, không rực rỡ bên ngoài. Sau này Luca sẽ
nói rằng, chính vùng Thần Khí Thiên Chúa đó sẽ "đổ xuống trên mọi xác
thịt" (Cv 2,17-21 - Ge 3,l-5).
Chúng ta thấy rằng, Luca giúp chúng ta đọc lại biến cố Giáng
sinh của Đức Giêsu theo ánh sáng của sự khai sinh Giáo Hội! Tuy nhiên, như thế
không có nghĩa là những sự kiện trên là 'không có thực: Luca đã nhận biết những
sự kiện đó từ các giới tham dự nghi thức thanh tẩy và họ hàng của Mẹ Maria,
Đấng đã "ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy trong lòng" (Lc 1,66 - 2,19-51).
Liền kêu lớn tiếng và nói rằng
Từ Hy Lạp Luca dùng ở đây (anéphonèsén) trong toàn bộ Kinh thánh
chỉ thấy xuất hiện trong đoạn này mà thôi, còn trong sách Sử biên niên (1 Sb
15,21 - 16,4.5.42 2 Sb 5;13) từ này chỉ được dùng nhằm diễn tả những câu
"tung hô phụng vụ” để chào mừng khám giao ước. Chúng ta có thể dịch là:
"Bà Elisabét đã lớn tiếng hát lên bài thánh ca này".
Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu
mang cũng được chúc phúc.
Đa số các Kitô hữu đọc kinh Kính Mừng không biết rằng lời kinh
của họ được trích từ đoạn Tin mừng này. Những từ này đã vượt qua nhiều thế kỷ
trên mỗi tổ tiên của chúng ta, chúng ta sẽ để những từ này rơi vào lãng quên
chăng? Chúng ta có thường đọc kinh Kính Mừng không? Có lần chuỗi Mân Côi? Những
từ này cũng là một trích dẫn Kinh Thánh được dùng hai lần khác, đối với hai phụ
nữ khác là Gia-en và Giuđitha (Tl 5,24 - Gđt 13,18). Hai phụ nữ đã cứu dân tộc
họ vào những ngày nguy khốn nhất. Câu trích dẫn này có phải là ngẫu nhiên
không?
“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ": đây là một lời
khen tặng của một phụ nữ đối với một phụ nữ khác: Luca lấy làm sung sướng nhấn
mạnh về một trong những đề tài của ông trong Tin Mừng. Bí mật đầu tiên về Thiên
Chúa không được giao phó cho người nam. Ngày nay có những phong trào đấu tranh
để giải phóng phụ nữ. Có một số người cho rằng những phong trào đó là nhập
nhằng. Nhìn dưới khía cạnh tích cực, những phong trào đó là một dấu chỉ thời
đại, một dấu chỉ của Thiên Chúa. Mới đây một phong trào phụ nữ tự cho mình có
nhiệm vụ “dám sống như phái nữ…dám nói Đức Giêsu Kitô thuộc phái nữ”. Điều này
đã bắt đầu trong Tin Mừng thánh Luca. Trước cả các thánh Tông Đồ vào ngày lễ
Ngũ tuần (30 năm trước). Bà Elisabét đã được "đầy ơn Thánh Thần". Ở
đây trong bản văn Hy Lạp có dùng cùng một từ như trên. Ta có thể dịch là
"'quả trong lòng bà được chúc phúc”.
Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?.
Ở đây Luca lại trích dẫn một câu Kinh Thánh (2 Sm 6,9) nói về
Vua Đavit, đã không tin rằng hòm bia giao ước lại có thể đến nhà ông. Khám giao
ước đó là nơi hiện diện của Thiên Chúa. Từ đó về sau Đức Giêsu sẽ nói (Ga 2,19)
rằng Thiên Chúa quyết định không cư ngụ trong những "đồ vật" phượng
tự nữa, những căn nhà bằng đá, nhưng hiện diện trong thân thể "sống
động" của Đức Kitô. Bạn đang tìm một Đấng Cứu chuộc, hãy mở mắt ra mà nhìn
ngắm: Thai nhi nhỏ bé và mảnh mai này, đang hiện diện trong bụng Mẹ người...
"Có phải chính Người là Con Thiên Chúa, đầy ân sủng và chân lý không"
(Ga l,14). Mầu nhiệm của Thiên Chúa còn đang giấu ẩn. Đó cũng là mầu nhiệm
Thánh Thể.
Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong
bụng đã nhảy lên vui sướng
Nếu dịch từng chữ theo bản văn Hy Lạp thì sẽ là: "Khi lời
chào mừng của em vừa đến tai tôi, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy lên vì vui
mừng (Cùng một từ "Koilia" thế mà ba dịch giả lại dịch ba cách khác
nhau!).
Từ "giật mình" hay "nhảy lên", gợi cho ta
nhớ tới một vũ điệu bước khiêu vũ của Vua Đavit trước khám giao ước (2 Sm
6,15-16). Từ “vui mừng" ("agalhasis") chỉ được dùng trong những
Thánh Vịnh (90 lần!) và không bao giờ được dùng trong ngôn ngữ cổ điển Hy Lạp.
Đó là sự vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự vui mừng của Chúa ban
cho, không giống như những lạc thú trên đời. Đó là chủ đề vui mừng mà Thánh
Thần ban cho, chủ đề điển hình của Thánh Lu ca “các người sẽ nhảy nhót như
những chú bê bé nhỏ thoát ra khỏi chuồng" như ngôn sứ đã nói như thế (Mt
3,10). Còn chúng ta những người Kitô hữu thì sao?
Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người
đã nói với em.
Rõ ràng, toàn thể trình thuật này chìm đắm trong đức tin và chỉ
có thể giải thích theo đức tin. Đức Maria đã được gọi là "có phúc",
vì Bà có đức tin: Bà đã tin. Đức Giêsu sẽ nói lại về “mối phúc" này, mối
phúc hàng đầu. Khi nghe người ta ca tụng mẹ mình, Đức Giêsu nói ngay:
"Nhưng đúng hơn: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa" (Lc
11,28).
Mối phúc này có thể dành cho chúng ta. Trong đời sống, tôi có
dùng thời giờ cho việc suy niệm Lời Chúa không? Giờ đây tôi bắt đầu kinh
"Magnificat anima mea Dominum" "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi".