Các bài suy niệm
* LỄ CÁC THÁNH
Kh 7,2-4. 9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12
* CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN - B
MỤC LỤC
Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
Thánh
thiện Lm
Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
Tôi phải nên
thánh Jos.
Vinc. Ngọc Biển
Các Ngài là
ai và từ đâu tới? Lm Nguyễn Tiến Huân
Các thánh
nam nữ LM. Giuse
Trương Đình Hiền
Các thánh là
ai vậy? Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy nên
thánh trong... Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúng ta có
được nên thánh không? Jos.
Vinc. Ngọc Biển
* LỄ CÁC THÁNH
1. Nên thánh
Có bao giờ chúng ta đi
tham dự một chương trình diễn nhạc trẻ hay chưa? Những âm thanh vang dội như
kích thích hàng ngàn bạn trẻ, hò hát, nhảy nhót, có khi lăng quay xuống đất như
những nhạc sĩ trình diễn. Có thể nói được rằng họ say sưa trong tiếng nhạc.
Phải chăng đó là một hình ảnh đặc thù cho thời đại chúng ta đang sống. Thời đại
của âm thanh, ánh sáng và vận tốc. Trái đất dường như chỉ còn là một trạm dừng
chân, để rồi từ đó người ta khởi đầu chinh phụ vũ trụ.
Hằng ngày chúng ta ghi
nhận biết bao nhiêu âm thanh hỗn độn. Từ những lời nói thương yêu đến những lời
chửi bới. Từ tiếng nhạc êm dịu đến tiếng động cơ chát chúa. Từ những âm thành
ồn ào ngoài phố chợ đến những lời quảng cáo, tuyên truyền trên truyền thanh
truyền hình. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà tiếng động vang lên tựa
hồ như vô tận.
Thế nhưng, giữa một môi
trường như vậy, liệu con người có còn nghe thấy được tiếng nói từ trời cao hay
không? Chính vì thế mà thánh Phaolô đã xác định để chúng ta được thấy rõ ý muốn
của Thiên Chúa là chúng ta hãy nên thánh. Ý muốn ấy phải chiếm một địa vị ưu
tiên, phải là nỗi ưu tư số 1 trong cuộc đời chúng ta.
Tuy nhiên, con người thời
nay lại nhún vai coi thường, vì nên thánh là một cái gì quá lạ lẫm đối với họ.
Vậy nên thánh là như thế nào? Trước hết tôi xin thưa: Nên thánh không phải là
chạy trốn trần gian vì trần gian có nhiều tội lỗi xấu xa. Nên thánh cũng không
phải là quỳ gối chăm chỉ cầu nguyện, siêng năng xưng tội một cách máy móc, và
tham dự những thánh lễ ngày Chúa nhật. Sự thánh thiện hệ tại việc chúng ta chấp
nhận Chúa là mục đích của đời sống, là trọng tâm của mọi tư tưởng, lời nói và
việc làm. Đó là điều chính yếu, còn những sự khác chỉ là phụ thuộc.
May thay thời buổi chúng
ta vẫn còn có những vị thánh. Đời sống của họ là một rao giảng quý giá. Họ như
muốn nói với chúng ta: Thiên Chúa là mục đích duy nhất của cuộc đời. Còn tất cả
chỉ là mờ nhạt và vô nghĩa. Đối với họ Thiên Chúa là tất cả. Nỗi ưu tư của họ
là tìm biết thánh ý Chúa mà thôi. Mặc dù chúng ta không có ơn gọi vào dòng tu,
nhưng tất cả chúng ta đều được kêu mời trở nên thánh. Nên thánh không phải là
một bổn phận làm cho chúng ta sợ hãi. Nó không cấm cản chúng ta hưởng thụ những
niềm vui chính đáng, vì Thiên Chúa không phải là kẻ thù, nhưng là suối nguồn
của những niềm vui trong lành. Tuy nhiên, Thiên Chúa phải trổi vượt trên mọi
thứ đó, Ngài chính là cùng đích của chúng ta. Cho dù bên ngoài có những âm
thanh ồn ào, thì trong thẳm sâu cõi lòng, chúng ta vẫn phải lắng nghe tiếng
Chúa, vì tiếng nói ấy sẽ chỉ cho chúng ta thấy con đường nên thánh. Bởi vì: Ai
tuân giữ những giới luật của Ta thì người đó sẽ được Ta yêu mến. Thực vậy, con
đường nên thánh là con đường nhỏ hẹp, nhưng chính con đường ấy sẽ đưa chúng ta
đến cuộc sống vĩnh cửu.
2. Hoa đời dâng Chúa – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một bài hát sinh hoạt
được hát như sau: "mỗi người là một nụ hoa cùng đem về đây góp gió, làm
thành vườn hoa muôn màu muôn sắc tươi xinh. Mỗi người là một cành hoa, cùng đem
về đây góp gió, làm thành vườn hoa, vườn hoa, vườn hoa chúng mình". Bài
hát đơn sơ nhưng nói lên ý nghĩa cuộc đời thật thi vi. Cuộc đời của chúng ta là
một cành hoa: Hoa lan, hoa huệ, hoa cúc, hoa hồng... Hoa nào cũng đẹp. Hoa nào
cũng có cách thể hiện mình giữa đời thật nên thơ và hữu ích. Nụ hoa muôn màu
như con người với những thể xác, cá tính, nhân cách khác nhau. Nụ hoa muôn vẻ
như con người mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Hôm nay, Hội thánh mừng
kính các thánh nam nữ như là những bông hoa đầu mùa trong vườn hoa mà Thiên
Chúa vun trồng. Hội thánh là vườn ươm. Thiên Chúa đã ra công vun trồng cho cây
hoa lớn lên trong ân sủng, trong sự chăm sóc tận tụy của Ngài. Các thánh là
những bông hoa luôn quy về hướng mặt trời để nhờ mặt trời ban sức sống, chăm
sóc, dưỡng nuôi nên vẹn tuyền. Các thánh luôn cần lòng từ bi, ân sủng của Chúa
chữa lành những thương tích do mối mọt tội lỗi gây ra. Các thánh cũng như những
bông hoa luôn được chăm sóc tỉ mỉ khỏi những cám dỗ tội lỗi, những vương vấn
bụi trần.
Như vậy, sẽ có bao nhiêu
vị thánh hôm nay chúng ta mừng kính? Thưa, có rất đông. Bởi vì ai cũng có thể
nên thánh. Ai cũng được mời gọi nên thánh. Nên thánh là ơn gọi mà Thiên Chúa đã
tiền định: "Anh em hãy hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn
thiện". Nên thánh không khó. Nên thánh là làm theo ý Chúa, là sống trong
ân nghĩa cùng Chúa. Nên thánh không phụ thuộc vào giai cấp, không tính theo
năng lực. Nên thánh tùy theo ơn gọi và hoàn cảnh của mình. Như những bông hoa
muôn sắc, dù là hoa nhỏ bé hay to lớn, dù là loài hoa không hương không sắc
nhưng vẫn là đóa hoa đáng yêu, đáng quý và đáng được nâng niu. Các thánh nam nữ
cũng thuộc mọi tầng mọi lớp xã hội. Có thể các ngài thuộc hàng giáo sĩ nhưng
cũng có thể là hàng giáo dân. Các ngài có thể là cha mẹ, là anh em, là bè bạn
của chúng ta. Các ngài là những người đã nỗ lực hoàn thiện mình trong ân thánh
Chúa. Các ngài không vương vấn tội lỗi. Các ngài không để những đam mê làm chủ.
Các ngài luôn chọn Chúa hơn là những tạo vật trần gian. Các ngài cũng có thể là
những tội nhân được ơn trở lại như kẻ trộm trên cây thập giá. Các ngài cũng có
thể từng có những lầm lỡ nhưng biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Điểm chung
của các ngài là đã được chết trong ân sủng và tình thương của Chúa.
Nhìn lại cuộc đời của
Chúa Giêsu, với ba mươi ba năm dương thế, Chúa Giêsu đã lôi kéo bên Ngài những
bông hoa đầu mùa của Hội thánh thật giản dị, âm thầm, và đơn sơ. Một bác thợ
mộc thành Nagiaret, luôn tận tụy với công việc và gia đình. Một Maria đơn sơ
chân thành, dám nói lời xin vâng ngay cả khi chẳng biết điều gì sẽ đến trong
ngày mai. Một Phê-rô, Simon... những ngư phủ chất phác, đầu hôm sớm mai trên
biển cả đã bỏ thuyền chài mà đi theo Chúa. Một Gia-kêu, Madalena, là những tội
nhân đã được ơn hoán cải trở về. Một người trộm lành đã ra đi bình an trong lời
tha thứ đón nhận của Đấng tạo thành ...
Và hôm nay, những khuôn
mặt phản chiếu hình ảnh của các thánh dường như vẫn tiếp tục tỏ hiện trong dòng
đời dương thế hôm nay. Họ có thể là cha, là mẹ chúng ta, những con người đang
khổ sở vì chúng ta, đang hy sinh từng ngày cho chúng ta. Họ có thể là những
người lao công đang dệt đời mình trên công trường hay trên nương đồng với hy
sinh, tận tụy hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Họ có thể là những
người bất hạnh bởi tai nạn, bởi nghèo đói, hay những bệnh nhân đang đón nhận
thập giá Chúa gửi với lời xin vâng thẳm sâu. Vâng, những vị thánh đó vẫn đang
sống, đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Họ đang hiến tế đời mình
trong những đau khổ trần gian, trong những hy sinh từ bỏ, trong quảng đại dấn
thân hết mình vì anh em đồng loại. Họ có thể chưa hát bài ca chiến thắng như
các thánh nam nữ trên trời nhưng cuộc đời họ đáng là thánh vì họ luôn yêu mến
Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đã dám sống một
cuộc đời mà người ta bảo rằng: "Người trồng cây phúc người chơi - Ta trồng
cây hạnh để đời về sau".
Nguyện xin các thánh nam
nữ đã được sống trong ân nghĩa cùng Chúa cầu thay nguyện giúp cho mỗi người
chúng ta luôn nhận ra tình thương của Chúa để biết sống đền đáp ân tình Chúa
ban. Xin giúp cho mỗi người chúng ta biết gìn giữ ân sủng cao quý là con cái
của Chúa bằng việc sống thanh sạch, và can đảm dũ bỏ bụi trần mê muội. Xin cho
mỗi người chúng ta biết đón nhận ý Chúa qua việc vui với phận mình và chu toàn
bổn phận làm người và làm con Chúa. Amen.
3. Ánh sáng của các Thánh trên trời
(Suy niệm của Lm. Ignatiô
Trần Ngà)
Một buổi tối tại vận động
trường Los Angeles, Mỹ, một diễn giả nổi tiếng, ông John Keller, được mời diễn
thuyết trước khoảng 100,000 người.
Đang diễn thuyết bỗng ông
dừng lại và dõng dạc nói:
- Bây giờ xin các vị đừng
sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn sáng trong sân vận động nầy.
Đèn tắt. Cả sân vận động
chìm sâu trong bóng tối âm u. Ong John Keller nói tiếp:
- Bây giờ tôi đốt lên một
que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô lên cho
tôi biết.
Ánh lửa nhỏ bé từ que
diêm loé lên trong màn đêm được mọi người nhìn thấy và nhiều tiếng hô vang:
'tôi đã thấy'.
Sau khi đèn được bật sáng
trở lại, ông John Keller giải thích:
- Ánh sáng của một hành
động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối
của nhân loại y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn
trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên:
- Tất cả những ai ở đây
có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!
Bỗng chốc, hàng ngàn đốm
sáng loé lên trong bóng đêm và cả vận động trường được thắp sáng.
Ông John Keller kết luận:
- Nếu tất cả chúng ta hợp
lực cùng nhau thì có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và
oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương, bằng sự tha thứ và lòng tốt
của chúng ta... (trích từ Nghệ thuật sống)
Ánh sáng của một que diêm
nhỏ cũng có thể xoá đi một mảng tối và người ta có thể nhìn thấy nó từ đằng xa.
Ánh sáng của hàng ngàn que diêm nhỏ bé có thể đẩy lui bóng tối bao trùm cả một
quảng trường và chiếu soi cho nhiều người trong đêm tối.
Ánh sáng của các thánh
nam nữ trên trời, tức là những gương sáng của các ngài, toả sáng như những vì
tinh tú, chiếu soi cho nhân loại đang đắm chìm trong bóng đêm lầm lạc và tội
lỗi.
Trong ngày lễ các thánh
hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho ánh sáng của các thánh nam nữ trên
trời được lan tỏa vào tâm hồn chúng ta, tiếp tục cháy lên trong chúng ta và qua
chúng ta toả ra cho mọi người.
Lời Chúa vẫn thúc giục
mỗi người: "Anh em là ánh sáng cho thế gian" (Mt 5, 14). Thế gian tăm
tối đang rất cần ánh sáng.
Trong khi bao gia đình
trên thế giới đổ vỡ vì bất hoà và ly dị thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng chung
thuỷ trong đời sống vợ chồng.
Đang khi trong một số gia
đình con cái khinh dể cha mẹ, bất hiếu với ông bà thì chúng ta hãy chiếu toả
ánh sáng của lòng hiếu thảo đối với tổ tiên.
Đang khi trong xã hội hôm
nay đầy dẫy dối trá lọc lừa thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng của lòng chân
thật.
Đang khi nhân loại sống
hận thù, oán ghét thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa yêu thương.
Đang khi người ta coi
thường nhân phẩm, khinh miệt kẻ bần cùng thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa của
lòng tôn trọng mọi người, vì tất cả những người chung quanh chúng ta là chi thể
của Chúa Giêsu.
Đang khi nhiều người sống
bon chen ích kỷ, thì chúng ta hãy thắp lên ánh sáng của lòng quảng đại vị tha.
Phải toả sáng là bổn phận
của mỗi người, không ai được miễn trừ.
Không có người nào hoàn toàn
xấu, không có mảnh đời nào hoàn toàn tối tăm. Một con người dù bên ngoài có vẻ
xấu xa tồi tệ thế nào đi nữa thì nơi người ấy vẫn tiềm tàng những sáng và điểm
tốt.
Sở dĩ người ta không nhận
ra điểm sáng, điểm tốt của một người nào đó chỉ vì ánh sáng nơi họ còn bị che
chắn bởi một số thói hư, như ánh sáng của chiếc đèn dầu (đèn hột vịt) bị che
khuất bởi bóng đèn bám đầy muội khói. Chỉ cần lau chùi bóng đèn cho sạch, chỉ
cần khêu bấc cho cao lên và cho thêm dầu vào, thì ánh sáng lại lan toả. Cần
giúp nhau lau chùi lại bóng đèn, cần khêu bấc, thêm dầu cho nhau bằng những lời
động viên thân ái.
Dù bạn là ai, bạn đều có
ánh sáng trong người, bạn hãy khêu bấc, thêm dầu và lau sạch bóng đèn cho đèn
bạn toả sáng. Lời Chúa Giêsu đang thúc giục chúng ta: "Chính anh em là ánh
sáng cho trần gian... Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt mọi
người..." ( Mt 5, 14. 16).
Không trì hoãn nữa, ta
hãy bắt đầu khêu bấc cho đèn mình sáng lên ngay hôm nay.
4. Chân Dung Các Vị Thánh
(Suy niệm của Lm. Giuse
Tạ Duy Tuyền)
Người ta nói thánh là
người làm theo ý Chúa, không theo bọn ác nhân. Thánh là người hoàn toàn thuộc
về Chúa từ trí óc tới con người. Họ là những con người luôn sống thanh sạch
"gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Họ có tâm hồn thanh khiết, nhờ đó
mà họ có thể nhìn thấy Thiên Chúa nơi tạo vật, nơi tha nhân và một cách trọn
vẹn nơi thiên quốc. Như vậy sự thánh thiện hệ tại ở tâm hồn luôn ở trong Thiên
Chúa. Họ thuộc về Chúa. Họ sống cho Chúa. Họ sống giữa thế gian nhưng không
thuộc về thế gian. Họ đã nên thánh ngay từ cuộc đời dương thế này. Họ biết dệt
đời mình trong hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những đam mê lầm lạc,
những xa hoa ích kỷ để thể hiện lòng mến Chúa trên hết mọi sự. Họ là những
người can trường chiến đấu với phận đời oan trái, cay nghiệt của nghèo đói,
bệnh tật, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị hiểu lầm, bị phản bội, bị bách hại . .
.nhưng vẫn trung thành với đức tin. Dẫu phận đời có oan nghiệt họ vẫn cảm thấy
an bình, vì được sống trong ân nghĩa cùng Chúa. Họ đã chiến thắng số phận đầy
oan khiên khi tìm được niềm an vui vì chọn Chúa là gia nghiệp trọn đời.
Chân dung của các vị
thánh được Chúa Giêsu phác hoạ qua tám nét chính mà ta quen gọi là tám mối phúc
thật. Họ sống giữa cuộc đời đầy sóng gió của sự dữ, của những vòng xoáy cuộc
đời đầy đam mê truỵ lạc, của những thói đời hưởng thụ nhưng họ vẫn giữ mình
luôn thanh khiết không hoen ố tội nhơ, không thoả hiệp sự dữ, không lao vào
vòng xoáy của danh lợi thú mà lạc xa tình Chúa. Họ có mặt trong mọi nơi, mọi
chốn. Họ thuộc đủ mọi màu da, sắc tộc. Họ thuộc mọi thành phần trong xã hội.
Có thể họ là những người
mẹ đang bươn chải "một nắng hai sương", với quang gánh trên lưng còng
cho con cái niềm vui tiếng cười. Bà chấp nhận đánh mất cuộc đời cho gia đình
chén cơm, chén gạo mỗi ngày.
Có thể họ là những người
cha đang chịu nhiều oan khiên, chồng chất của thói đời bất công, áp bức, bóc
lột đang đè nén cuộc đời của họ, nhưng họ không chịu đánh mất nhân cách, nhân
phẩm, lương tri con người để đổi lấy chút bổng lộc trần gian mau qua.
Có thể họ là một ai đó
đang bị bỏ rơi, đang bị bóc lộc, đang bị chà đạp, nhưng họ không bán rẻ nhân
phẩm của mình. Họ sẵn sàng chịu thiệt thòi, chịu thiếu thốn mà lòng thanh sạch
hơn là hoen ố tâm hồn để đổi lấy niềm vui giả tạo mau qua.
Có thể họ là những người
già neo đơn, những người bệnh đau lâu ốm dài đang vò võ từng ngày chờ đợi tân
lang đến đón vào dự tiệc thiên quốc. Họ không nản lòng. Họ không để tim đèn vụt
tắt. Họ vẫn cầm đèn cháy sáng chờ đón chủ trở về và mau mắn ra nghinh đón chủ.
Có thể họ là những người
trong quá khứ đã lầm đường lạc lối, đã từng buông thả đời mình trong đam mê sắc
dục, đã từng sống hại người hại đời, nhưng nay họ đã được ơn trở về. Họ đang
sám sối từng ngày. Họ đang dành trọn cuộc đời của mình để đền bù những lầm lỗi
của quá khứ bằng những việc lành phúc đức.
Có thể họ là chính chúng
ta, những con người đang khao khát sống đời trọn lành. Có thể vì sự khao khát
nên trọn lành mà chúng ta đang đi ngược dòng với trào lưu tục hoá của thế gian.
Chúng ta trở thành kẻ thù nghịch của thế gian. Chúng ta không đồng thuận với
mưu đồ đen tối. Chúng ta không thoả hiệp với sự gian dối giả tạo. Chúng ta đang
phải chiến đấu từng ngày để nói không với tội và trung thành với tin mừng nước
Chúa.
Như vậy, các thánh không
ở đâu xa. Ở ngay trong cuộc đời chúng ta. Họ đang sống với chúng ta. Họ đang
dâng những hy sinh hằng ngày cho chúng ta và để cứu độ chúng ta. Theo đức tin
ky-tô giáo dạy chúng ta: Giáo hội thiên quốc gồm những con người đã vượt qua
cuộc đời trong ơn nghĩa với Chúa. Họ đã trung thành phụng sự Chúa trong cuộc
đời dương thế. Và hôm nay, họ tiếp tục phụng sự Chúa trên thiên quốc. Còn chúng
ta là Giáo hội lữ thứ trần gian. Chúng ta cũng được gọi là giáo hội thánh thiện
vì chúng ta đang gột rửa đời mình mỗi ngày nên hoàn thiện hơn. Chúng ta đang nỗ
lực trở nên thánh. Chúng ta đang chiến đấu từng ngày nên hoàn thiện hơn.
Hôm nay chúng ta cùng với
Giáo Hội mừng kính các thánh nam nữ ở trên trời. Các ngài đã đi qua bụi trần
này với một tâm hồn thanh khiết. Thế nên, họ đã được nhìn xem Thiên Chúa vì
Phúc thay ai có tâm hồn thanh khiết, họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Xin Chúa
qua lời bầu cử của các ngài ban cho chúng ta lòng tin mạnh mẽ để chúng ta biết
phó thác trọn cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng ta lòng
mến sắt son để có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Xin ban cho chúng ta đức
cậy kiên vững để chúng ta trông cậy vào ơn Chúa mà hoàn thiện đời mình mỗi ngày
nên thánh thiện hơn. Amen.
5. Các thánh
Nói tới việc nên thánh,
nhiều người thường có thái độ hoài nghi và an phận, họ bảo: Nên thánh là chuyện
của các linh mục, tu sĩ, những người có nhiều thời giờ để đọc kinh cầu nguyện,
chứ còn chúng tôi phải ngược xuôi, bươm chải giữa lòng đời. Không trộm cắp giết
người, không bỏ lễ ngày Chúa nhật, không bỏ xưng tội rước lễ vào mùa Phục sinh
cũng là khá lắm rồi, còn nói chi đến chuyện nên thánh.
Đó là một quan niệm sai
lạc, bởi vì sự thánh thiện không phải là một lý tưởng dành riêng, một loại
ngành chuyên nghiệp cấp cao, dân chúng đừng hòng mơ tưởng tới. Quan niệm này có
lẽ xuất phát từ một thực tế, đó là trong số những vị thánh được Giáo Hội tuyên
phong, thì con số giáo dân rất thấp so với các linh mục và tu sĩ. Hơn nữa, có
những thời người ta đề cao tính chất phi thường và xuất chúng, thậm chí có lúc
nhiều người thi đua nhau lập thành tích trong khổ chế. Rồi cùng với trí tưởng
tượng, người ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ và hấp dẫn.
Còn một quan niệm sai lạc
khác nữa coi việc xa tránh thế gian là điều kiện cốt yếu để nên thánh. Chúng ta
thường nói: tu là cõi phúc, tình là giây oan, sự thánh thiện là một cái gì
thuộc về cá nhân, không dính dấp chi tới cuộc đời. Vậy thì Giáo Hội quan niệm
như thế nào về sự thánh thiện? Tôi xin thưa: trong Kinh Tiền tụng ngày lễ hôm
nay, chúng ta vốn thường đọc: Khi tuyên dương công trạng các ngài, Chúa biểu
dương chính những ân sủng Ngài ban. Nghĩa là các thánh không phải là những siêu
nhân, nhưng là những con người bình thường, được Chúa tuyển chọn và ban cho
tham dự vào sự sống của Ba Ngôi, được Chúa giúp sức để sống một cuộc sống phù
hợp với Tin mừng. Công trạng của các ngài là một đón nhận và không cản trở ơn
huệ của Chúa.
Bởi vì chỉ mình Thiên
Chúa mới là Đấng thánh, còn chúng ta được trở nên thánh, khi tham dự vào sự
thánh thiện duy nhất ấy. Các thánh sở dĩ được tuyên phong là thánh, bởi vì cuộc
đời các ngài được coi như là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên
Chúa. Mà vì Thiên Chúa đã xuất hiện nơi Đức Kitô, nên có thể nói cách khác
rằng: Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá
trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có
thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Thánh thiện Kitô giáo
không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với hoàn thiện. Có những vị thánh mà vẫn bất
toàn. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng nói: Những kẻ trộm cắp, đĩ điếm có thể vào
Nước Trời dễ hơn những kẻ tự coi mình là đạo đức, là mô phạm.
Đúng thế, với người trộm
lành, Chúa Giêsu đã hứa: Ngay hôm nay con sẽ được lên thiên đàng với Ta. Có lần
người ta đã thắc mắc tại sao vị tử đạo kia có hai vợ mà vẫn được làm thánh. Sở
dĩ, ngài được làm thánh không phải vì có hai vợ, mà vì mặc dù tội lỗi như thế,
ngài đã chấp nhận chịu chết để khỏi chối Chúa. Mất vợ thì được, chứ mất Chúa
thì không.
Ngày nay chúng ta cần tới
một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần
gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức
thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Giáo Hội không phong thánh
cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo
và bắt chước.
6. Bài học của sinh tồn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một người đã hỏi một
chuyên gia leo núi như sau:
- Nếu chúng ta ở lưng
chừng núi đột nhiên gặp mưa lớn thì phải làm sao?
- Anh phải cố leo lên
đỉnh núi!
- Tại sao không chạy xuống
dưới? Gió mưa ở đỉnh núi chẳng phải lớn hơn sao?
- Đi lên đỉnh núi, cố
nhiên mưa gió có thể lớn hơn, nhưng không đủ uy hiếp mạng sống của người. Còn
chạy xuống dưới núi, xem ra khá an toàn, nhưng có thể gặp tuyết trượt bộc phát
chôn sống.
Anh nói thêm: -... đối
với mưa gió, chạy trốn nó, thì anh sẽ bị lũ cuốn trôi; đương đầu với nó, thì
anh lại có cơ may sống sót!
Xem ra để sống sót trước
khó khăn không phải là an phận“sống chung với lũ” mà phải “chiến đấu với lũ” để
tồn tại. Và như vậy, quy luật chung để tồn tại là phải đối diện với khó khăn,
với thử thách để vươn lên. Không lẩn tránh khó khăn. Không trốn chạy sự dữ.
Nhưng phải tìm cách tồn tại trong những hoàn cảnh đầy khó khăn nhất.
Trong đời sống luân lý,
lẽ thường cũng rất nhiều cám dỗ bủa vây. Cám dỗ như những cơn lũ muốn nhậm chìm
chúng ta. An phận sống chung với chúng e rằng sẽ có ngày “mưa lâu thấm đất”
khiến chúng ta cũng sa vào cám dỗ. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải chiến
đấu với cám dỗ, phải chiến thắng cám dỗ và xua tan cám dỗ. Điều này chính Chúa
Giêsu đã làm và đã chiến thắng trong cuộc cám dỗ 40 đêm ngày. Ma quỷ cũng đã
bầy ra trước mặt Chúa những nhu cầu hưởng thụ rất đỗi bình thường của con
người, nhưng chỉ với điều kiện là quay lưng lại với Thiên Chúa. Chúa đã Giêsu
nhắc ma quỷ quy tắc là phải vâng lời Thiên Chúa, và điều quan yếu trong cuộc
sống, không phải là sự đói khát thể xác mà còn tìm kiếm thỏa mãn cái đói của
tâm hồn là chính Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng
kính các thánh nam nữ, họ là những người con ưu tú của Giáo hội. Họ đã chiến
thắng cám dỗ. Họ đã vượt qua thử thách để hôm nay cùng nhau cầm cành lá vạn tuế
tung hô Chúa cửu trùng chí thánh. Họ đã đi qua những dòng đời vấn đục khác nhau
nhưng lòng họ giống nhau ở chỗ luôn giữ lòng thanh khiết không chiều theo cám
dỗ xác thịt. Họ sống giữa dòng đời đầy thị phi cùa sự bất công gian dối nhưng
họ vẫn tỏa lan hương thơm của lòng bác ái, vị tha dấn thân phục vụ mọi người.
Họ không để lòng tham trỗi dậy để rồi sống tham lam bất chính. Họ không để dục
vọng thống trị để sống đam mê trụy lạc. Họ đã sống một đời yêu và yêu cho đến
cùng, một tình yêu không toan tính thiệt hơn. Một tình yêu cho đi và cho đi
mãi. Họ đã đối đầu với nghi nan, bách hại, tù đầy, tra tấn... nhưng vẫn một
lòng trung thành sống theo thánh ý Chúa.
Điều quan yếu là họ đã
chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những nghịch cảnh đời sống không bằng sức mình
mà bằng cách cậy dựa vào ơn Chúa. Chỉ với ơn Chúa mới đủ sức cho họ vượt thắng
nghi nan. Chỉ với ơn Chúa họ mới chiến thắng được những cám dỗ nằm sâu trong
bản tính con người như tính kiêu căng, thói hưởng thụ... Họ đã biết cậy dựa vào
ơn Chúa để làm chủ chính mình, để chiến thắng cám dỗ và dấn thân xây dựng Nước
Chúa trên trần gian. Hôm nay họ đang được ân thưởng hạnh phúc Nước trời nhờ một
đời sống để ý Chúa thể hiện trong cuộc đời họ. Họ đã đạt được hạnh phúc viên
mãn vì đã chiến thắng thế gian đầy cám dỗ bon chen này.
Cuộc sống luôn có rất
nhiều cám dỗ. Cám dỗ hưởng thụ vật chất, hưởng thụ xác thịt. Cám dỗ ở ngay
trong lòng mình khi tìm kiếm sự dễ dãi bản thân, tìm kiếm sự đồng lõa của dục
vọng, của tính tham lam... Đôi khi chúng ta cảm thấy bất lực trước biết bao cám
dỗ lôi kéo. Chúng ta cũng từng đứng dậy sau rất nhiều lần vấp ngã nhưng rồi vẫn
ngã quỵ trước cám dỗ.
Mừng kính các thánh nam
nữ là một dịp khơi lên trong chúng ta một niềm hy vọng về cuộc sống. Dầu cuộc
sống có cám dỗ nhưng không đánh gục chúng ta nếu biết cậy dựa vào ơn Chúa. Dầu
có những lần thất bại trước cám dỗ nhưng vẫn có thể đứng dậy để canh tân, để
sửa đổi nhờ ơn Chúa. Chính nhờ sức mạnh và quyền năng của Chúa chúng ta sẽ mãi
đứng vững và chiến thắng trong trận chiến nhiều cam go cám dỗ này.
Ước gì chúng ta luôn biết
noi gương các thánh biết bám vào Chúa như cành liền cây để sức sống của Chúa
mãi tuôn chảy trên chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ thất vọng về
mình nhưng luôn biết đứng dậy làm lại cuộc đời nhờ ơn Chúa. Và xin cho chúng ta
luôn biết hoàn thiện mình mỗi ngày tốt hơn trong ơn thánh của Chúa. Amen.
7. Chiều rộng của Ơn Cứu Độ
(Suy niệm của Lm. Giuse
Nguyễn Hữu An)
Năm phụng vụ có năm mùa
nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất, mầu nhiệm cứu độ: Chúa Giêsu
Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.
Năm mùa phụng vụ đều quy
về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu độ. Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể, đã sinh ra,
đã chết, đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, và gởi Thánh Thần đến với
Giáo hội.
Các ngày lễ về các Thánh
nói lên thành quả của ơn cứu độ. Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một
bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.
Các ngày lễ này có hai
cao điểm:
- Lễ Đức Maria hồn xác
lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ. Thiên Chúa cứu độ là cứu cả
hồn xác,toàn diện con người “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Người
đã làm những điều cao cả”.
- Lễ các Thánh Nam Nữ là
chiều rộng của ơn cứu độ “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời
kia”.
Chúng ta mững lễ các
Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi chi
tộc trong Israel. Bài đọc 2 trong sách Khải huyền, Thánh Gioan viết: “đã nghe
nói số những kẻ được niêm ấn là 144 ngàn thuộc mọi chi tộc con cái Israel”. 144
ngàn không phải là nhiều. Giáo phận Phan thiết có 166 ngàn giáo dân. Nhưng 144
ngàn trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tràn đầy
(12x12=144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy. Và điều tuyệt diệu là trong thị
kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn
thuộc chi tộc Giuđa, 12 ngàn thuộc chi tộc Ruben, 12 ngàn thuộc chi tộc Gad…
không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên
Chúa kêu mời đầy đủ.
Không chỉ Israel được
thương mời mà “Sau đó tôi còn mãi nhìn,thì này một đoàn lũ không biết cơ man
nào mà kể, thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc, tiếng nói”. Quả là đang trở
thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên
bách quản: “Ta bảo thật các ngươi, nhiều kẻ tự phương đông, phương đoài mà đến
và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacop trong nước trời”.
Trong ngày lễ Các Thánh,
Giáo hội nhìn lên trời có thể vui ca như cô gái Sion “Vui ca lên nào thiếu nữ
Sion… Hãy đưa mắt tư bề, muôn dân đông tây đang tập trung tới ngươi. Con cháu
người đang từ đàng xa đổ về”. Các Thánh đông đảo trong Nhà Cha. Vì vậy, mừng lễ
Các Thánh, người Kitô hữu vui tươi trong một nhãn giới lạc quan căn bản là có
thể tin rằng Thiên đàng có nhiều chỗ hơn Hoả ngục. Niềm tin tưởng lạc quan của
chúng ta lại có vẻ nghịch thường: con đường đi tới phải là con đường hẹp nhưng
cửa nước trời lại được Thiên Chúa mở rộng thênh thang.
Ngày lễ hôm nay là lễ
tưởng nhớ, vui mừng hiệp thông với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em, bạn
bè, tất cả những người thân của chúng ta đã ra đi trước chúng ta mà chỉ một
mình Chúa biết lòng tin của họ (Kinh Tạ Ơn IV) khi chúng ta có thể hy vọng họ
được gia nhập vào hàng ngũ Các Thánh trên trời. Giáo hội vẫn mừng lễ các Thánh
trước lễ cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, các linh hồn đang ở luyện ngục.
Luyện ngục dẫu sao chỉ là một thời gian tạm trú. Không ai có hộ khẩu thường trú
ở đó cả. Nói cách khác, luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang. Thiên đàng mới
là bờ bến. Giáo hội dành tháng 11 để cầu nguyện cho các linh hồn, dâng thánh
lễ, làm việc lành chuyển cầu cho các linh hồn, nói lên mối hiệp thông huyền
nhiệm giữa người sống và kẻ chết trong lòng tin.Giáo hội thâm tín rằng: Thiên
Chúa giàu lòng thương xót. Ơn tha thứ của Chúa cũng là ơn thành hoá, thăng hoa
con cái Chúa trở về Nhà Cha, không chỉ được ơn tha thứ mà còn dự tiệc muôn đời.
Thiên Chúa đã dựng nên
muôn loài. Trong muôn loài, có loài hoa, trong loài hoa Thiên Chúa đã tạo ra
muôn loại, muôn giống khác nhau. Có thể nói, mỗi vị Thánh là một loài hoa khoe
sắc trong vườn hoa thiêng liêng. Có nhiều vị thánh rao giảng tin mừng. Có thánh
tử đạo, có thánh lo bác ái từ thiện, có thánh lo dạy học, có thánh chuyên sống
đời cầu nguyện chay tịnh… Nhưng có một điểm chung nơi Các Thánh, đó là các Ngài
đã bắt chước Chúa Kitô, sống cho hạnh phúc của người khác, it khi tìm hạnh phúc
hay thú vui cho riêng mình.
Các Thánh không phải là
những con người hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm
thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không
phải là những siêu nhân, những con người phi thường vượt trên đám đông nhân
loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là
những con người bình thường như mọi người, nhưng các Ngài đã “sống những điều
tầm thường một cách phi thường”. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến
tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống tám
mối phúc thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện, hợp tác với ân sủng
đó, vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Mọi cuộc đời, mọi con
người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn
được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có
những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có
những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ,
yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là tu sĩ,
là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý,
như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm
đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người.
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ,
chúng ta hân hoan chúc tụng Các Thánh là những người bạn của chúng ta và xin
các Ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, để chúng ta nhận ra mình cũng được
Chúa mời gọi nên thánh như các Ngài, và cố gắng vươn lên giống như các Ngài.
Nguyện xin các Thánh Nam
Nữ giúp chúng con tập sống mỗi ngày, thăng tiến trên con đường trọn lành như
lời mời gọi của Chúa Giêsu: các con hãy nên Thánh như Cha trên trời là Đấng
Thánh.
Xin cho chúng con luôn
ghi nhớ lời Thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên Thánh được, còn tôi, tại sao lại
không?
8. Các Thánh
Một viên tướng nọ rất
ghét một vị ẩn sĩ trong vùng ông ta cai quản. Do đó, ông ta thường sai một nhóm
gái làng chơi đến quấy rầy, quyến rũ, phá phách nhà tu hành đủ kiểu, nhưng
không lần nào có hiệu quả cả. Một bữa đang khi vị ẩn sĩ tắm dưới suối thì đám
con gái mất nết cũng ào xuống tắm và ra sức chọc ghẹo. Thấy thế, vị ẩn sĩ vội
bước lên bờ thì đám con gái ăn mặc hở hang đó không chịu tha, liền vây tròn
xung quanh vừa nhảy múa ca hát vừa ăn nói tục tĩu. Chẳng chút động lòng hay tức
giận, vị ẩn sĩ ngước mắt lên trời, hai tay dang rộng với dáng điệu vui mừng hớn
hở và cầu nguyện rằng: “Lạy Thượng Đế, con cảm tạ Ngài đã ban cho nhân loại
những con người rất đẹp đang nhảy múa đây. Phải chăng chính hiện thân Chân
Thiện Mỹ của Ngài đang ở đây. Con xin thành tâm cảm tạ Ngài”. Cứ thế, vị ẩn sĩ
trong tư thế và tâm tình đó vẫn vui vẻ cầu nguyện. Càng lâu nét mặt ông càng
rạng rỡ, thanh thoát hơn bao giờ hết. Bỗng một cô gái trong đám bỏ hàng chạy
đến quì sấp dưới chân vị ẩn sĩ và thốt lên: “Đây đúng là một vị Thánh, một vị
Thánh ở giữa loài ngoài”.
Có lẽ, cái cảm tưởng
chung nhất khi nghe nói đến một vị thánh là một người đều cho rằng đó là một
loại người siêu phàm, họa hiếm, trăm năm mới có một người. thật ra, về một
phương diện nào đó các Ngài đúng là hạng người như thế, nhưng nếu chúng ta ngây
thơ đến độ quá thần thánh hóa các Ngài là chúng ta sẽ mắc phải một thứ mặc cảm
bệnh hoạn: nghĩa là có lúc nào đó dám ước mơ làm thánh thì cho việc ấy là một
chuyện phạm thượng, bất kính, rồi dần dần coi việc nên thánh là chuyện viễn
vọng, quá xa tầm tay của mình.
Vậy chúng ta tự hỏi mang
mặc cảm tự ti bệnh hoạn như thế có đúng không? Và phải quan niệm Các Thánh là
những người như thế nào mới hợp lý? Các Ngài có cái gì giống và cái gì khác mọi
người chúng ta?
Trước hết Các Thánh
là những người giống chúng ta: cũng được sinh ra, lớn lên bình thường,
đôi khi còn rơi vào những hoàn cảnh khắc nghiệt hơn như nghèo khổ có, bệnh hoạn
có, tang tóc tai họa có, chán nản thất vọng có, vui buồn có… Và cũng mang trong
mình mọi yếu đuối hư hèn, mọi tính hư nết xấu, cũng tham sân si, cũng hỉ ai ái
nộ, cũng lầm lỡ mang tiếng xấu. Thuộc đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội:
giàu sang quyền thế có, bần cùng dân đen có, trí thức bác học có, dốt nát quê
mùa có. Nói tắt các Ngài không khác chúng ta bao nhiêu, trái lại nhiều Vị còn
mang nơi mình một quá khứ đầy tội lỗi, xấu xa hơn chúng ta nữa.
Tuy nhiên Các Ngài
là những người khác chúng ta. Chính cái khác này đã nâng Các Ngài lên
bậc thần thánh và làm cho chúng ta trở thành con người tầm thường. Nói rõ hơn,
cái khác ở đây không phải là một sự kiện lạ lùng, một bí quyết gia truyền, cũng
không phải một đặc ân dành riêng cho một số người, cũng không phải do dòng máu
di truyền, mà là có quyết tâm cao, cố gắng phi thường, dốc quyết sắt đá, cải
thiện không ngừng, hợp tác với ơn Chúa cách hiệu quả.
Nói cụ thể hơn là khi
đứng trước mãnh lực của tiền tài danh vọng, Các Ngài thấy lợi ít hại nhiều nên
đã cương quyết từ bỏ, còn chúng ta viện đủ lý do để bám theo, trước những quyến
rũ của thế gian xác thịt, Các Ngài dốc lòng xa tránh để sống thanh cao trong
sạch hơn là nô lệ cho đam mê nhục dục, trước anh em đồng loại, thay vì xa
tránh, tranh chấp, giận ghét, oán thù Các Ngài còn luyện tập từ bỏ cả những
quyền lợi riêng tư, hưởng thụ chính đáng nữa. Dĩ nhiên, tất cả những việc làm
đó mà Các Ngài quyết tâm thực hiện chỉ vì vâng lời Chúa dạy để yêu mến Người và
phục vụ anh em nên Các Ngài đã thành công trên con đường cứu rỗi.
Như thế, cái khác giữa
Các Thánh và chúng ta xem ra không có gì quá khác xa nhau. Chẳng qua Các Ngài
vâng theo ý Chúa hơn, chọn điều thiện điều tốt hơn, cố gắng luyện tập các nhân
đức hơn. Còn chúng ta nại đủ lý do này khác để từ chối ơn Chúa soi sáng hước
dẫn, không cố gắng quyết tâm đủ để tuân thủ lời Chúa dạy, mà chỉ biết lo dung
dưỡng bản thân, tham quyền cố vị nên mãi mãi không bước đến cùng đời sống trọn
lành được.
9. Những bậc thang của giá trị
Hôm nay lễ Các Thánh Nam
Nữ, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô củng cố lại định hướng căn bản và
xác định lại bậc thang giá trị trong cuộc sống. Trong một Thánh Lễ kết thúc một
hội nghị liên tôn tại Rôma vào năm 1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói
đến những căn bệnh xã hội hiện đại. Ngài nói rằng cuộc cách mạng kỹ thuật của
thế kỷ XX đã không mang lại được những tiến bộ về mặt tinh thần và luân lý.
Trước đám đông tụ họp tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã đặt câu
hỏi như sau:
"Nhìn vào hiện trạng
của nhân loại có quá đáng lắm không khi chúng ta nói đến một cơn khủng hoảng về
văn minh?"
Ngài giải thích như sau:
"Chúng ta chứng kiến
những tiến bộ vĩ đại về kỹ thuật, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đi đôi với
sự tiến bộ về tinh thần và luân lý, chúng ta cũng thấy khoảng cách ngày càng
gia tăng giữa người giàu và người nghèo trên bình diện cá nhân cũng như quốc
gia".
Cơn khủng hoảng về văn
minh mà Đức Thánh Cha nói đến hẳn cũng được biểu hiện trong bậc thang giá trị
mà con người thời đại chọn lựa. Ở chóp đỉnh của bậc thang này chắc chắn không
phải là những giá trị tinh thần, luân lý và đạo đức mà là của cải vật chất,
quyền bính, danh vọng và lạc thú. Con người không được đánh giá dựa trên những
giá trị tinh thần và luân lý mà chỉ trên cơ sở của tài năng, tiền của, quyền bính
và danh vọng.
Lễ Các Thánh hôm nay,
Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô chúng ta xác định lại bậc thang các giá
trị trong cuộc sống của chúng ta. Là những người lữ hành trong trần thế, chúng
ta không ngừng được mời gọi để ngước nhìn lên thiên đàng. Hưởng dùng của cải
vật chất nhưng chúng ta lại được mời gọi để tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu. Sống
trong xã hội trần thế nhưng chúng ta phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị
của Nước Trời. Trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta không tiến bước trong đơn
độc vì đã có biết bao người đi trước và chỉ cho chúng ta con đường để bước tới.
Hôm nay, chúng ta được
nhắc nhở để nhìn lên những con người ấy, họ - tức các thánh không phải là những
con người phi thường. Các ngài cũng chỉ là những con người bình thường như mọi
người bình thường khác, nhưng đã sống đời thường một cách phi thường. Chính vì
thế mà các ngài mới có thể là mẫu mực để chúng ta noi theo, chúng ta ngước mắt
nhìn lên các thánh trên trời đã đành, mà cũng được mời gọi để nhìn vào cuộc
sống tại thế này. Ở đây, hàng ngày chúng ta tiếp cận với không biết bao nhiêu
vị thánh sống. Họ không cần phải là những người có hào quang chiếu sáng bằng
những kỳ công hay nhân đức phi thường. Họ là tất cả những ai trong cố gắng mỗi
ngày phấn đấu không ngừng để luôn đặt những giá trị tinh thần và luân lý vào
chỗ cao nhất trong bậc thang giá trị. Chúng ta đồng hành với những vị thánh âm
thầm vô danh kia và chúng ta cũng được mời gọi để không ngừng thể hiện sự thánh
thiện đời thường ấy, bởi vì thánh thiện như Công Đồng Vatican II đã khẳng định
là ơn gọi chung của mọi người tín hữu.
Nguyện xin các thánh cầu
thay nguyện giúp để chúng ta luôn ý thức được ơn gọi nên thánh ấy.
Lạy Chúa,
Chúng con phải lao đao
vất vả vì cuộc sống mỗi ngày. Xin cho chúng con luôn biết hướng về trời cao, để
biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu, ngõ hầu sau cuộc đời tạm bợ
này chúng con được về hưởng nhan Chúa cùng với các thánh của Chúa.
10. Phúc thay ai hiền lành – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khát vọng lớn nhất, sâu
xa nhất của con người là được hạnh phúc. Vì thế, người ta thường cầu chúc cho
nhau được dồi dào phúc, lộc, thọ. Trong bộ ba đó, phúc đứng hàng đầu. Nhưng
điều quan trọng là phải sống thế nào để đạt được hạnh phúc đích thật?
Qua bài Tin Mừng Lễ Các
Thánh (Mat-thêu 5, 1-12), Chúa Giêsu nêu lên tám đối tượng được chúc phúc và
một trong những đối tượng đó là người hiền lành: "Phúc thay ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp".
Chúa Giêsu là Thiên Chúa
nên Người có đầy đủ những phẩm tính cao đẹp nhất, thế nhưng Người lại chú trọng
đến đức tính hiền lành hơn hết và kêu mời chúng ta: "Hãy học với tôi vì
tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11, 29), "phúc cho những ai
hiền lành", "hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như bồ câu"
(Mt 10, 16).
Vậy giờ đây, xin cùng
nhìn lại những phẩm chất của người hiền lành.
Người hiền lành mềm dẻo
như tre.
Trong cơn bão tố cuồng
phong, nhiều cây cổ thụ cao lớn bị xô ngã, trốc gốc, gãy cành; nhưng tre và
trúc thì an bình vô sự nhờ tính mềm dẻo của mình. Tương tự như thế, người hiền
lành luôn mềm dẻo trong cách đối nhân xử thế, nên họ không hề bị ngã gục đau
thương.
Người hiền lành mềm mại
như nước.
Người ta có thể đập vỡ đá
cứng, nhưng không bao giờ đập vỡ được nước. Khi ta giáng búa tạ vào đá, đá sẽ
dùng sự cứng rắn của mình kháng cự lại búa và như thế đá sẽ bị vỡ tan; còn khi
giáng búa tạ vào nước, nước dùng sự mềm mại của mình mà nuốt trửng búa và nhận
chìm búa xuống bùn!
Nước tuy mềm mại nhưng có
thể bào mòn đá cứng: "nước chảy đá mòn." Người hiền lành tuy mềm mỏng
nhưng có thể làm xiêu lòng những tâm hồn chai đá nhất.
Người hiền lành lấy nhu
thắng cương, lấy nhược thắng cường.
Họ hiểu được chân lý Chúa
Giêsu dạy: "Ai dùng gươm thì sẽ phải chết vì gươm" nên họ không dùng
bạo lực với bất cứ ai. Họ không ăn miếng trả miếng như bao nhiêu người khác,
không theo luật "mắt đổi mắt răng đền răng" nhưng biết chế ngự tính
nóng nảy, hãm dẹp tính tự ái, biết lấy thiện báo ác, biết lấy tình thương xoá
bỏ hận thù.
Vì thế, rốt cuộc, người
hiền lành mới là người chiến thắng. Họ thu phục được nhân tâm và tình yêu của
mọi người chung quanh.
Ngày nọ, thánh Vinh-sơn
bước vào một tiệm cơm, ngả mũ xin thực khách bố thí cho những trẻ mồ côi mà
ngài đang chăm sóc. Cũng trong tiệm ấy, có một anh thợ giày ngạo mạn và đang có
hơi men hất hàm hỏi ngài: "Tiền cho trẻ em nghèo hả? Có đây!"
Thế rồi anh ta hớp một
ngụm bia, phun thẳng vào mặt thánh Vinh-sơn trước những cặp mắt bàng hoàng kinh
ngạc của các thực khách. Mọi người im lặng chờ đợi sự đáp trả cân xứng từ phía
Vinh-sơn, một con người vạm vỡ vừa bị xúc phạm quá đáng trước mặt đám đông.
Vinh-sơn từ từ cho tay
vào túi, không phải để tìm hung khí trừng trị anh thợ giày nhỏ thó kia, nhưng
là để rút ra một chiếc khăn tay và từ tốn lau khuôn mặt dơ bẩn của mình. Sau
đó, cho khăn vào túi, ngài ôn tồn nói với anh thợ giày: "Cám ơn anh. Phần
anh cho tôi, tôi đã nhận. Thế còn phần của các trẻ mồ côi đâu?"
Mọi người trong quán hết
sức ngạc nhiên vì thái độ điềm tĩnh và hiền lành tột bực của ngài. Cả anh thợ
giày hỗn láo kia cũng cảm thấy rúng động trước tấm lòng bao dung hào hiệp và
bản lãnh rất cao của ngài. Anh ta quỳ xuống tạ lỗi và sau đó, quay về quyên góp
bà con bạn bè một số tiền khá lớn đem đặt dưới chân thánh Vinh-sơn để giúp cho
những kẻ nghèo.
* * *
Lạy Chúa Giêsu hiền lành
khiêm nhượng,
Chúa kêu mời "hãy
học cùng Tôi vì Tôi dịu hiền". Xin cho đoàn con biết học sống hiền lành
như Chúa để đáng được hồng phúc Chúa hứa ban.
11. Các Thánh
Hôm nay toàn thể Giáo hội
long trọng mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, vì thế chúng ta hiệp nhau nơi đây để ca
tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi những người đi trước chúng
ta, những người đã đi theo Đức Kitô, chính Ngài đã mở ra cho họ một con đường:
“Con đường của sự sống, con đường của hạnh phúc”, và hôm nay các ngài đang chia
sẻ vinh quang đó với chính Đức Giêsu trên Nước Trời. Cùng với các ngài, chúng
ta hãy hân hoan vui mừng, bởi vì hôm nay là lễ của tất cả những người đang sống
cũng như của tất cả các thánh đang hưởng mặt Chúa trên Nước Trời, Cùng với tất
cả chúng ta đang đi trên con đường xây dựng tình yêu, xây dựng hạnh phúc cho
tất cả mọi người.
Cũng như mọi người, các
thánh cũng là những con người yếu đuối, nhưng các ngài đã thắng vượt được khó
khăn và thử thách trong cuộc sống, cho nên chúng ta cũng xin các ngài bầu cử
cho chúng ta để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành tiến về thiên quốc và cũng như
các ngài, chúng ta bắt đầu cuộc sống bằng tâm tình sám hối, xin Chúa thứ tha
cho những lần chúng ta đã chối từ không muốn làm chứng nhân tình yêu của ngài
trước mặt mọi người.
Trong đa số các nhà thờ
bên Tây Phương, nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính, người ta thường
thấy hình của các vị thánh được chạm trổ đủ mọi màu sắc. Có một em bé gái nọ,
lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm một nhà thờ cổ kính. Trong khi các du
khách bị thu hút bởi những công trình nghệ thuật trong nhà thờ thì em bé lại
dán chặt đôi mắt vào chân dung của các vị thánh được vẽ trên các kính màu. Em
ngây ngất trước vẻ đẹp của những chân dung ấy mà không biết họ là ai. Và một du
khách nào đó đã giải thích cho em biết: đó là các vị thánh.
Tối hôm đó, trước khi lên
giường ngủ, em bé đã khoe với mẹ rằng: em đã biết ai là một vị thánh và em nói
với mẹ như sau: “vị thánh là một người mà ánh sáng chiếu xuyên qua”. Có lẽ
không có một định nghĩa nào xác đáng hơn về các vị thánh. Các vị thánh là con
người mà ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa đã chiếu xuyên qua các ngài. Chính
định nghĩa ấy mà hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên trời cao
để chiêm ngắm các vị thánh được Giáo hội tôn phong hay không được ai biết đến,
tất cả các vị thánh đều là những con người đã luôn luôn để cho ánh sáng tình
yêu của Thiên Chúa chiếu xuyên qua mình để soi sáng mọi người xung quanh.
Năm 1986, trong chuyến
viếng thăm lần thứ ba tại Pháp, Đức Thánh Cha Gioan Phalô II đã nhắc đến những
hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho nước này. Đó là sự hiện diện của rất
nhiều vị thánh. Đức Thánh Cha nói như sau: “Khi các vị thánh đi qua thì Thiên
Chúa cùng đi qua với các ngài”.
Cũng trong chuyến viếng
thăm lần thứ ba tại Pháp của Đức Thánh Cha, Ngài có nói như sau: “Các thánh
cũng là những con người yếu hèn như chúng ta, nhưng ánh sáng của Đức Kitô đã
chiếu xuyên qua tất cả con người của các vị ấy”. Các Ngài đã cứu Giáo hội bằng
chính sự yếu hèn của mình. Qua cuộc sống của các thánh, Thiên Chúa gởi đến cho
chúng ta một tín hiệu: “Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi để nên
thánh”. Các thánh là những ngọn hải đăng, các ngài chỉ cho chúng ta một một con
người đường để chúng ta đi về với Chúa. Con đường ấy chính là con đường hạnh
phúc, một nguồn hạnh phúc thâm sâu phù hợp với khát vọng cơ bản nhất của lòng
người.
Trong Tin Mừng mà Giáo
hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, hai chữ “Có Phúc Hạnh Phúc” đã được Chúa
Giêsu lập lại đến chín lần. Có lẽ Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng:
“Nếu các ngươi nghe lời Ta nếu các ngươi sống như Ta thì các ngươi sẽ được hạnh
phúc thực sự”. Và có lẽ các vị thánh cũng sẽ mời gọi chúng ta như sau: “Nếu anh
chị em sống như chúng tôi thì anh chị em cũng sẽ được hạnh phúc”.
Trên thế giới này có bao
nhiêu lời hứa hẹn về hạnh phúc. Trên khắp cả nẻo đường mà chúng ta đi qua, các
phương tiện truyền thông xã hội mà chúng ta nghe và mỗi ngày sống đâu đâu cũng
nghe thấy những lời kêu gọi tìm hạnh phúc. Người ta mời gọi: hãy tiêu dùng sản
phẩm của chúng tôi thì quí vị sẽ được hạnh phúc.
Quả thật, trái đất mà
chúng ta đang sống đầy dẫy những lời quảng cáo cho hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ có
một mình Chúa Giêsu mới có thể đề ra cho chúng ta hạnh phúc thực sự và con
đường dẫn đến hạnh phúc ấy là con đường của tình yêu mà chính Ngài đã đi qua.
Ngài nói với chúng ta rằng: “Không thể có hạnh phúc đích thực nếu không có tình
yêu”, một tình yêu quên mình, chia sẻ và tha thứ cho đến cùng.
Con đường hạnh phúc mà Chúa
Giêsu đề ra cho chúng ta là con đường của những tâm hồn trong sạch, cởi mở với
tha nhân đến độ quên chính bản thân mình. Đó là con đường của những con người
khi bị loại trừ và bách hại vẫn tiếp tục chúc tụng và yêu thương. Đó là con
đường của những con người không ngừng hoạt động để mang lại hòa bình cho người
khác, để mọi người biết nhìn nhận tình yêu thương nhau như anh em con Cha trên
trời. Chính Chúa Giêsu đã qua con đường ấy, Ngài qua thực là mẫu người của hạnh
phúc. Từ 2000 năm qua, đã có biết bao nhiêu người đi theo con đường ấy và ngày
nay con đường ấy được tiếp tục mở ra cho mỗi người chúng ta.
12. Lễ các Thánh nam nữ – Lm. Nhân Tài.
“Anh em hãy vui mừng hớn
hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Hôm nay Giáo Hội hân hoan
mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta càng
thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi suy
niệm đến mầu nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình
vào Thiên Chúa và Hội Thánh hơn.
Các thánh là những con
người, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những
khổ đau, không đi qua đau khổ thì không thể trở thành một thánh nhân, bởi vì
chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Chúa Giêsu Kitô đã làm như thế: bị đánh đòn,
bị đóng đinh vào thập giá và cuối cùng chết trên thập giá.
Các thánh nam nữ là những
con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có tham sân si,
cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng
ta đã phạm hôm nay, nhưng các ngài biết cậy vào ơn Thiên Chúa và biết quyết tâm
đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ để rồi
hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa và các thiên thần của Thiên
Chúa trên thiên đàng.
Các thánh nam nữ là những
con người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan lớn quan
nhỏ, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có
vị làm giám mục, làm linh mục, phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ. v.v… nghĩa là
các ngài đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội có những đời sống và hoàn cảnh
khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên
thánh, phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận của
mình.
Các thánh nam nữ là những
con người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “Hiến Chương Nước
Trời” tức là “Tám Mối Phúc” ngay tại trần gian này:
1) Các ngài giàu có nhưng
đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.
2) Các ngài bị người khác
vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.
3) Các ngài đã chia vui
với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa ủi an ngay khi còn ở
đời này.
4) Các ngài mong muốn
được trở nên người công chính, và sống công chính giữa một xã hội đầy mưu mô
xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng
5) Các ngài biết thương
xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được
Thiên Chúa xót thương.
6) Các ngài sống trong
danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của nó, nhưng vẫn giữ được tâm
hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
7) Các ngài đi đến đâu là
đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết
kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.
8) Các ngài bị bắt bớ, bị
đánh đập, bị tra tấn, bì tù đày vì các ngài sống và tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ
ban Nước Trời cho họ, nên các ngài đã được Nước Trời làm của mình sau khi từ
giã cõi đời tạm này.
Các thánh nam nữ đều là
những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên những thánh nhân, thì chúng
ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc
Âm và là mục đích sống ở đời của chúng ta –người Kitô hữu.
Xin Mẹ Maria và các thánh
nam nữ trên thiên đàng, cầu bàu cho chúng ta là những người đang trên đường đi
về quê trời biết noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của
mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, và biết phục vụ và tha thứ cho
nhau trong tình yêu của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa chúc lành
cho chúng ta.
13. Ơn gọi nên thánh – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Hôm nay cùng với Giáo
hội, chúng ta long trọng cử hành Thánh lễ mừng kính Các Thánh Nam Nữ.
Theo lời Sách Khải Huyền,
Các Thánh trên trời là "một đoàn người đông đúc, không sao đếm nổi, thuộc
mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ". Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự
trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu độ chúng ta.
1. Các Thánh Nam Nữ là
ai?
Các Thánh Nam Nữ là những
phúc nhân (chữ của Đức Cha Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng
hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết
trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì
thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa đẹp đẽ.
Các Thánh Nam Nữ đông vô
kể "Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ
phía mặt trời mọc đi lên... Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng
ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn" (Kh 7,2-4). Con số
"một trăm bốn mươn bốn ngàn" chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên
mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về
Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. "Một trăm bốn
mươn bốn ngàn" trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn
đầy (12x12=144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy. Và điều tuyệt diệu là trong
thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn
thuộc chi tộc Giuđa, 12 ngàn thuộc chi tộc Ruben, 12 ngàn thuộc chi tộc Gad...
không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên
Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: "tôi thấy:
kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc,
mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay
cầm nhành thiên tuế" (Kh 7,4).
Một đoàn người thật đông
không tài nào đếm nổi. Đó là cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở thành
hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách
quản "Ta bảo thật các ngươi, nhiều kẻ tự phương đông, phương đoài mà đến
và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacop trong nước trời". Chính vì
thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài
vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long
trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác
định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là
mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chỗ cho mọi dân tộc.
2. Con đường nên thánh
Thánh Gioan viết:
"Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là
ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ
là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao" (Kh7,13).
Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc
tụng Thiên Chúa: "Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con
Chiên" (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu
Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân
lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ,
với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần
thưởng lớn lao của các Ngài: "Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của
Thiên Chúa... Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt
trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ
chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh" (Kh 7,15-17).
Các Thánh "đã giặt
sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên". Như thế, họ không phải là
những con người hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm
thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không
phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông
nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh
là những con người bình thường như mọi người, nhưng các Ngài đã sống những điều
tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến
tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám
Mối Phúc Thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng
đó, vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Có rất nhiều vị thánh bởi
vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối
Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để
được hạnh phúc đích thực. Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê
của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại
tình yêu của Chúa. Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người,
nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai. Có người nên thánh, vì đã
phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau
khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa
làm của lễ. Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có
lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác. Có người
nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa. Có người nên
thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các
thứ đam mê xác thịt làm chủ. Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với
ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người.
Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo
huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời,
mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch,
nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả
nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào
cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo
với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ
tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con
người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị
thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại
niềm vui cho mọi người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Tuy có nhiều cách thức
nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống
gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh
trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu,
có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu... Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp
nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã
đi "qua đau khổ đến vinh quang".
"Ai nghẹn ngào ra đi
gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi
mừng".
Chỉ mình Thiên Chúa mới
là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh
thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh
bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên
Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá
trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có
thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một
sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi
lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh
thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa
Kitô. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa,
để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
Con đường nên thánh được
Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là con đường Tám Mối Phúc Thật.
Sống các Mối Phúc Thật,
chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng và trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Năm
Phụng vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam
Nữ, Dân Chúa tham dự thánh lễ để tôn kính tất cả, trong đó có ông bà cha mẹ,
những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù
chưa được Giáo hội tuyên phong.
Trở nên giống Chúa Giêsu,
trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi
người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn
gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.
14. Các Thánh nam nữ
Có một hiệp sĩ nọ bị kẻ
thù hạ nhục nên nhất quyết truy lùng để báo oán. Anh đem theo mười người bạn
với mũ giáp lên đường. Thấy mình không thể chống cự nổi, kẻ thù bèn xuống ngựa,
nằm giang tay ra theo hình thập giá và nhắm mắt chờ đợi nhát gươm định mệnh.
Trông thấy hình thập giá và kẻ thù của mình đang thở dốc như người hấp hối,
người hiệp sĩ động lòng thương nên đã chặn các bạn lại, không cho họ tấn công.
Anh nhẹ nhàng đến gần,mời hắn ta đứng dậy và tha thứ cho hắn. Sau Cử chỉ anh
hùng ấy, người hiệp sĩ cảm thấy tâm hồn mình tràn đầu sự bình an và tươi vui,
mà anh chưa từng được nếm thử trong đời. Anh ghé vào một ngôi nhà thờ, quì dưới
chân thánh giá cầu nguyện. Lúc sau, anh như thấy Chúa Giêsu nhấc đầu khỏi thập
giá cúi xuống chào mình, như vẻ tàn đồng cử chỉ tha thứ cùa anh. Anh thấy rằng
mình giống Ngài được một chút bởi vì khi hấp hối trên thập giá, Ngài cũng đã
cầu xin Thiên Chúa tha cho những kẻ giết mình.
Trở nên giống Chúa Giêsu,
trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, hay nói một cách khác, trở nên
thánh đó phải là ơn gọi của mọi người kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp
Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi cho chúng ta trong ngày lễ hôm nay.
Thực vậy sự thánh thiện
chính là nền tảng làm thành thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo Hội, cộng
đoàn các thánh. Sự thánh thiện như thế không phải là ơn gọi dành riêng cho một
lớp người đặc biệt được các ơn thần bí này nọm mà là ơn gọi bình thường của tất
cả mọi người tin vào Chúa. Nó là điểm tới tự nhiên của cuộc sống đức tin và
tình mến nơi mỗi người chúng ta, nó là bổn phận của mọi người tin Chúa bởi vì
tin có nghĩa là mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa và tin mừng yêu thương của
Ngài, đồng thời dấn thân sống những đòi buộc của tin mừng ấy, để ngày càng trở
nên giống Chúa hơn, là đấng thánh thiện trọn lành.
Bí quyết nên thánh đã
được Chúa Giêsu cống hiên cho tất cả chúng ta qua các mối phúc thật mà Ngài đã
rao giảng, đã sống và làm gương cho chúng ta. Ngài đã chỉ cho chúng ta tám ngả
đường giúp chúng ta nên thánh, nghĩa là trở nên giống Chúa.
Điều quan trọng đó là
chúng ta có can đảm thực thi tinh thần tám mối phúc thật, có dám bước đi trên
những ngà đường Ngài đã chỉ vẽ hay không?
15. Người khổng lồ thiêng liêng
Ít năm trước đây, một
triệu phú người Pháp là Công tước Alfred de Pierre-Cout, đã để lại trọn gia tài
2 triệu đôla để nuôi lớn những người khổng lồ. Tòa án thực hiện di chúc, cho
trích một phần tư số tiền của gia tài là 500.000 đôla để dùng vào thử nghiệm
này. Các viên chức thành phố Rouen nước Pháp đã tìm kiếm trên thế giới những
người đàn ông, đàn bà lớn con. Cho họ sống từng đôi trong những ngôi nhà gần
Rouen. Thử nghiệm chấm dứt ít năm sau.
Hai ngàn năm trước đây,
một nhân vật vĩ đại nhất đã đến trên mặt đất này và để lại một di sản để làm
phát sinh không phải người khổng lồ, nhưng là người phi thường thiêng liêng,
không phải những người có thân thể to lớn, nhưng là những người có tâm hồn siêu
việt. Chúng ta vừa đọc chúc thơ của Người trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài giảng
thời danh trên núi cho chúng ta phương cách để trở thành siêu việt. Chúng ta
thường gọi là Tám Mối Phúc Thật – Tám con đường hạnh phúc.
Trong ngày lễ các Thánh,
chúng ta tôn kính tất cả mọi người nam nữ, già trẻ trong mọi thời đại, thuộc
mọi quốc gia, mọi nghề nghiệp. Họ đã sống theo đường lối này và đã trở thành
siêu nhân. Tên tuổi và việc làm của hơn 40.000 siêu nhân này được ghi trong sổ
bộ của Hội Thánh Chúa Kitô. Nhưng còn một số đông vô kể không có tên trong sổ
bộ. Các ngài cũng là những siêu nhân, chúng ta tôn kính các ngài trong ngày hôm
nay. Trong số đó có nhiều vị gần gũi và thân thương với chúng ta. Điều gì làm
các ngài thành vĩ nhân? Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
Các ngài nghèo khó trong tinh thần: Tiền bạc, của cải không phải là cái các
ngài quan tâm.
* Các ngài hiền lành, hòa
nhã, ân cần, khoan dung. Các ngài đã chịu đói, chịu khát, các ngài đấu tranh
Công lý cho mọi người. Các ngài nhân từ, dung thứ những thiếu sót của con
người.
* Các ngài có tâm hồn
trong sạch, không phải chỉ trong giới răn thứ sáu. Nhưng còn trong mục đích làm
đẹp lòng Chúa và ích lợi cho tha nhân. Các ngài là người kiến tạo hòa bình: với
chính các ngài, với tha nhân và với Chúa.
* Lòng tốt của các ngài
đưa các ngài đến tù tội, ngược đãi và ngay cả sự chết. Các ngài bị sỉ nhục, bị
nhạo cười vì niềm tin, vì hành động như những người theo Chúa Kitô.
Mỗi lần chúng ta thực
hành một trong Tám Mối Phúc Thật này, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng,
chúng ta trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Để khuyến khích chúng ta lớn lên, Mẹ
Giáo Hội nhắc nhở chúng ta suốt một năm tên của các vị Thánh. Hôm nay, ngày lễ
các Thánh nam, nữ, gia đình Chúa xum họp quanh bàn thánh Chúa để tôn kính tất
cả, trong đó có bà con láng giềng đã trở nên siêu nhân, mặc dù chưa được ghi
tên trong sổ bộ.
Sức mạnh để trở nên siêu
nhân Chúa Kitô cho chúng ta trong của ăn, chúng ta lãnh nhận nơi bàn tiệc Thánh
Lễ. Ước gì tất cả chúng ta sẽ được trong số những người sẽ được tôn kính trong
ngày lễ các Thánh mai sau.
Xin Chúa chúc lành bạn.
16. Ơn gọi Kitô hữu
Trên một chuyến xe lửa,
người ta chụm đầu vào nhau và bàn tán sôi nổi về một vụ phá thai vừa mới xảy ra
ở trong vùng. Nhiều người đã bênh vực cho hành động ấy của người mẹ trẻ. Một
vài người khác thì giữ thái độ yên lặng. Và chỉ có một cô gái đã thẳng thắn nói
lên rằng:
- Không thể được, vì đó
là một hành động sát nhân. Đứa nhỏ, dù mới chỉ là một thai nhi bé bỏng, cũng đã
là một người có linh hồn và thể xác.
Chàng thanh niên, người
tình của cô gái thì bĩu môi tỏ vẻ kinh bỉ trước lập trường dứt khoát của cô
gái. Nhưng rồi ngày hôm sau, chàng thanh niên đã nhận được bức thư của cô gái,
trong đó cô gái đã viết:
- Tôi không hy vọng rằng
mình sẽ xây dựng được hạnh phúc với một kẻ không dám mở miệng bênh vực quan
điểm của Giáo Hội.
Cô gái này quả thực là
một người can đảm, dám lên tiếng bênh vực sự toàn vẹn của tôn giáo, dù có phải
hy sinh cả một cuộc tình tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng thật đáng buồn vì có rất
nhiều người trong chúng ta lại hành động một cách khác hẳn. Đối với họ, sống là
để làm việc. Và làm việc là để kiếm tiền. Và kiến tiền là để nuôi sống gia
đình, cũng như để có được những tiện nghi, những hưởng thụ tư riêng. Sau tất cả
những công việc đó, nếu còn chút ít thời giờ, thì họ mới nghĩ đến tôn giáo và
mới nhớ rằng mình cũng có một linh hồn bất tử và mình cũng là Kitô hữu. Có thể
họ cũng sẳn sàng làm một vài việc đạo đức chiếu lệ nào đó, miễn là không mất
quá nhiều thời giờ và không thiệt hại tới địa vị, danh vọng và lợi tức của họ.
Còn nếu như đời sống tôn giáo đem lại những thiệt thòi và khó khăn, họ sẽ vội
vã ban Chúa như Giuđa hay chối Chúa như Phêrô.
Nếu đọc lại lịch sử Giáo
Hội, chúng ta sẽ thấy những tín hữu đầu tiên đã không sống và hành động như
thế. Họ luôn hãnh diện tuyên xưng mình là Kitô hữ. Họ coi tước hiệu Kitô hữu là
như một ơn gọi của Thiên Chúa xuất phát từ trời cao.
Chính vì thế, thánh
Phaolô đã khuyên nhủ họ:
- Anh em hãy sống xứng
đáng với ơn gọi của mình.
Còn chúng ta thì sao?
Thái độ của chúng ta rất có thể đã thật khác xa với thái độ của các tín hữu sơ
khai. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và có tên trong hồ sơ lưu trữ của
giáo xứ. Đạo của chúng ta là đạo giấy tờ. Còn trong cuộc sống, chúng ta lại
hành động trái với những gì chúng ta đã tin nhận, trái với lý tưởng cùa người
Kitô hữu.
Phải chăng chúng ta chỉ
là những Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực. Có tên mà không sống, không làm,
không hành động? Phải chăng danh hiệu Kitô hữu chỉ còn là như một chiếc phù
hiệu mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng muốn mang lấy, vì nó ảnh hưởng tới lý
lịch, nghề nghiệp và địa vị của chúng ta. Chỉ cần nhìn vào một vài việc đạo đức
là chúng ta có thể thẩm định được chúng ta nghĩ gì về ơn gọi Kitô hữu của chúng
ta. Chẳng hạn ngày Chúa nhật, chúng ta đi tham dự thánh lễ. Đi thì đã muộn, rồi
lại còn tụm năm tụm ba đứng bên ngoài nhà thờ nói chuyện và hút thuốc. Chúng ta
làm dấy thánh giá một cách nguệch ngọc, như vẽ bùa trên mình. Rồi khi thánh lễ
chưa kết thúc, chúng ta đã vội vã ra về, đúng với tiêu chuẩn: đi muộn về sớm.
Trong khi đó, chúng ta sẵn sàng thức khuya dạy sớm để coi một trận đấu bóng đá.
Chúng ta lặn lội, bất kể đêm hôm mưa gió để đi coi một buổi trình diễn văn nghệ
hay một vở tuồng cải lương…
Là Kitô hữu, chúng ta là
những người đã được Chúa kêu gọi. Ơn gọi của chúng ta là nên thánh, là sống
Phúc âm giữa lòng cuộc đời. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi, chắc chắn
chúng ta sẽ được thừa hưởng vinh quang Nước trời mà Ngài đã hứa ban. Đức Kitô
là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài sẽ soi lối để chúng ta biết kính mến
Thiên Chúa và yêu thương anh em, nhờ đó xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Là
Kitô hữu, chúng ta trở nên như men trong bột, như ánh sáng trong bóng tối và
như muối trong thức ăn. Hoạt động của chúng ta tuy âm thầm nhưng có sức hoán
cải và đội mới cả xã hội này.
Rất nhiều lần tôi nghe
những anh em ngoại giáo phát biểu như sau:
- Là người có đạo thế mà
cũng vợ nọ con kia, thế mà cũng gian tham độc ác, thế mà cũng rượu chè cờ bạc…
Tin đạo chứ không tin kẻ có đạo…
Nghe qua những lời phát
biểu trên, hẳn chúng ta đã cảm thấy nhức nhối và cay dắng, bởi vì quả thực,
chúng ta chưa sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Chúng ta chưa thực sự trở nên
trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, hôm nay chúng
con mừng kính các thánh nam nữ, là những bậc đàn anh đàn chị đã đi trước chúng
con và đã chu toàn được ơn gọi Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết luôn
cố gắng sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, đồng thời ra sức thực thi
giới luật yêu thương của Chúa để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa
giữa lòng cuộc đời. Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời thánh Augustinô: Ông nọ
bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?.
17. Nên thánh
Người ta kể lại rằng
trong đời thánh Antôn tu rừng có một lần ngài xin tá túc trong ngôi nhà của anh
thợ đóng giày theo lệnh Chúa. Hai vợ chồng dọn bữa ăn và chuẩn bị chỗ ngủ cho
thánh nhân. Ngài ở đó ba ngày, hỏi thăm về đời sống và công ăn việc làm. Nhờ
những câu chuyện trao đổi, họ đã trở thành bạn thân với nhau. Sau đó, thánh
nhân từ giã họ mà trở về nhà. Lúc bấy giờ Chúa hỏi: con thấy người thợ giày ấy
thế nào? Thánh nhân thưa lại: Ông ta là một người đơn sơ, vợ ông có thai và sắp
sinh con. Họ có vẻ yêu nhau lắm. Ông ta có một cửa tiệm nhỏ để đóng và sửa
giày. Ông ta làm việc hăng say, gia đình ông ta sống đạm bạc với số tiền kiếm
được nhưng luôn biết chia sẻ giúp đỡ cho những người kém may mắn. Ông ta và vợ
luôn tin tưởng mãnh liệt vào Chúa và cầu nguyện ít nhất mỗi ngày một lần. Họ có
nhiều bạn thân và người thợ giày thì luôn miệng kể chuyện khôi hài cho mọi
người cười. Chúa lắng nghe thánh nhân và cuối cùng Ngài phán: Antôn, con là một
vị thánh sống, nhưng người thợ giày và bà vợ cũng là những vị thánh sống.
Cơ hội nên thánh luôn ở
trong tầm tay của chúng ta, con đường theo Chúa nằm ngay dưới chân chúng ta.
Chu toàn bổn phận của mình trong vui tươi, tin tưởng và phó thác nơi tình yêu
thương của Chúa là mình đang bước vào con đường cứu rỗi. Đừng tìm đâu xa. Ơn
thánh Chúa đang tràn ngập trong những biến cố lớn nhỏ của đời mình. Thánh nữ
Têrêxa hài đồng khuyên: Mỗi khi cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa
và phục vụ anh em, đó là chúng ta đang xây đắp kho tàng vĩnh cửu của mình trên
trời.
Tin tưởng, kính mến Thiên
Chúa và yêu thương, phục vụ, tha thứ cho anh em trong những liên hệ hằng ngày,
đó là con đường nên thánh.
Nên thánh không phải là
cố gắng làm những công việc phi thường, nhưng là khiêm tốn chu toàn bổn phận
hằng ngày một cách tốt đẹp. Nên thánh chính là làm những công việc bình thường
một cách phi thường. Người Do thái mong đợi một vị cứu tinh cao sang quyền
phép, nên họ đã không nhận ra con người ngheo nàn tại Nagiarét là Đấng Cứu thế.
Hêrôđê đòi xem những phép lạ, nên đã không nhìn thấy nơi người tử tội là vị
Thiên Chúa tối cao.
18. Thánh thiện
Linh mục Anthony de Melo
có kể câu chuyện như sau: Có một linh sư Ấn giáo nọ nổi tiếng là bậc thánh
thiện, ông đã mở được nhiều trung tâm cầu nguyện và qui tụ được nhiều đệ tử.
Ngày kia, có một người
tìm thầy học đạo tình cờ đến trước cửa trung tâm. Con người khao khát chân lý
từ bao năm nay cảm thấy như được giác ngộ khi gặp gỡ vị linh sư. Vị linh sư nói
với anh:
- Trước khi nhận ngươi
làm đệ tử, ta thấy cần phải thử thách ngươi về sự vâng lời. Đằng trước trung
tâm có một dòng sông dày đặc cá sấu, ta muốn ngươi phải lội qua dòng sông ấy.
Không một chút do dự,
người thanh niên để nguyên quần áo quăng mình xuống dòng sông. Vừa lội qua dòng
sông anh vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của thầy tôi”.
Nhờ có sự hỗ trợ của
nhiều người và của chính vị linh sư, người thanh niên đã bơi qua dòng sông và
trở về an toàn. Sự kiện này càng làm cho vị linh sư thấy mình là người thánh
thiện. Lập tức, ông cho tập trung các đệ tử trong nhà lại và trịnh trọng bước
xuống dòng sông, vừa công khai bơi lội vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng của ta,
tung hô quyền năng của ta”. Thế nhưng, ông vừa dứt lời thì đàn cá sấu ào tới
cắn xé ông ra từng mảnh.
Thánh thiện chính là quên
mình, quên mình đến độ không được phép ý thức về sự thánh thiện của mình. Thiên
Chúa ban cho ta sự thánh thiện là để cho người khác hưởng dùng. Bao lâu sự
thánh thiện đem lại lợi ích cho kẻ khác thì bấy lâu người đó còn thánh thiện.
Trái lại, kể từ giây phút một người thánh thiện giữ riêng ân huệ cho mình, thì
người đó đánh mất sự thánh thiện, đồng thời đánh mất chính bản thân.
Thật ra, thánh thiện
không là một đặc ân cho một số người ngoại hạng. Đó là ơn ngọi của mỗi người
kitô. Người kitô không thể không là người thánh thiện, vì chính thánh thiện là
tên gọi của Chúa Kitô: “Ngài là Đấng thánh”.
“Ngài là Đấng thánh”, bởi
vì hơn ai hết Ngài là Đấng quên mình. Thánh Phaolô đã nói đến sự thánh thiện
của Chúa Kitô bằng công thức: “Ngài để tự hạ vâng phục cho đến chết và chết
trân thập giá”. Đó cũng là lý tưởng bắt buộc của mọi người tín hữu kitô. Chúa
Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, và ai đành
mất mạng sống mình vì Ta người đó sẽ tìm lại được”. Quên mình, sống trọn vẹn
cho người khác, đó chính là định nghĩa đích thực của sự thánh thiện.
19. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
NIỀM HY VỌNG HẠNH PHÚC
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt
5, 1-12a
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những lời Chúa nói hôm
nay thật lạ lùng. Khác hẳn với những gì người đời thường nói. Nhưng đem đến cho
ta biết bao niềm hy vọng.
Trước hết là niềm hy vọng
hạnh phúc. Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần
gian là thung lũng nước mắt. Ai cũng mơ ước được hạnh phúc. Nhưng hầu như hạnh
phúc luôn ở ngoài tầm tay con người. Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho
ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc. Dù hiện nay ta còn phải
chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó
đó sẽ qua đi. Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ. Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì
cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.
Tiếp đến là niềm hy vọng
Nước Trời. Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời. Trên
Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời. Và trên Nước Trời,
ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa. Đó là
hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.
Sau cùng là niềm hy vọng
được chính Chúa. Qua những lời chúc phúc. Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn
mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta. Được Chúa
là được tất cả. Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có. Chúa là
niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ. Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta
thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa. Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được
chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.
Tuy nhiên để đạt được
Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc. Chính Chúa
Giêsu đã đi vào con đường đó. Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm
nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng. Người đã mở đường đi về hạnh
phúc.
Các thánh là những người
đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện. Các ngài đã giặt áo trong máu
Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết. Các ngài được hưởng hạnh phúc
Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian. Các
ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải
trần gian.
Vì thế, lễ các thánh là lễ
của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta,
là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.
Lễ các thánh là lễ của
niềm hy vọng. Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn,
những yếu hèn. Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Như thế chúng ta hy
vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài. Chúng ta còn hy vọng hơn
nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp. Lời hứa của
Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.
Nhưng lễ các thánh cũng
là lễ của phấn đấu. Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc.
Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu,
thống trị. Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình.
Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian
thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước
Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.
Lạy các thánh nam nữ ở
trên trời, xin cầu cho chúng con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Tám mối phúc của Chúa
đem đến cho ta những niềm hy vọng nào?
2) Lễ các thánh gợi cho
ta những tâm tình nào?
3) Làm thánh là giúp xây
dựng xã hội. Bạn nghĩ gì về ý kiến này?
20. Nên hình bóng Ngài – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
(Bài giảng Lễ các Thánh
nam nữ trên trời – năm 2014)
Chỉ có Thiên Chúa là Đấng
Thánh. Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện. Bản chất của Thiên Chúa là thánh
thiện và yêu thương. Vì yêu thương, Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta sự
thánh thiện của Ngài, giống như những người cha mẹ muốn tìm kiếm, dạy dỗ và để
lại cho con cái những điều tốt đẹp. Nhờ Thiên Chúa chia sẻ với chúng ta sự
thánh thiện của Ngài, nên chúng ta mới có thể hy vọng nên thánh hay nên
hoàn thiện. Vì Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn thánh thiện, cho nên những ai nên
thánh là trở thành giống Chúa, là đón nhận sự thánh thiện của Chúa. Người thánh
thiện là người phản chiếu sự tốt lành của Chúa. Sự thánh thiện được thể hiện
trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Vì thế, chúng ta thường nói đến hào quang
của các thánh. Hào quang là sự phản chiếu huy hoàng của một vị thánh, là kết
quả của một cuộc đời mong muốn rập khuôn theo cuộc đời Đức Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa làm người.
Nên thánh là bổn phận của
người tín hữu. Hãy nghe Thánh Phêrô nói với chúng ta: “Bởi vì Đấng kêu gọi anh
em là Đấng Thánh, anh em cũng vậy, anh em hãy nên thánh trong mọi hành động của
anh em, như đã được viết: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr
1,15). Như vậy, trong cuộc đời của chúng ta, nếu không thiện chí cố gắng để
được nên thánh, thì đó là một thiếu sót. Bởi lẽ khi lãnh nhận bí tích Thanh
Tẩy, chúng ta được trao sứ mạng nên thánh, tức là nên đồng hình đồng dạng với
Đức Giêsu.
Nói đến sứ mạng nên
thánh, có thể nhiều người suy nghĩ: “nên thánh khó quá, vì tôi chỉ là một người
dân bình thường, không được học hỏi đào tạo”. Suy nghĩ như vậy là chưa hiểu lời
mời gọi của Chúa. Nên thánh không phải một gánh nặng, phải có sức khỏe mới mang
nổi. Nên thánh không phải một bài toán khó, ai đã học cao biết rộng mới có thể
giải được. Nên thánh đơn giản chỉ là một cách sống của mình giữa đời thường,
như bông hoa tự nhiên tỏa hương thơm. Những cử chỉ hành động của cuộc sống hằng
ngày được thực hiện với lòng yêu mến và biết ơn Chúa đều có thể giúp ta nên
thánh. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã viết: “Nhặt một cây kim vì yêu mến cũng
có thể hoán cải một linh hồn”.
Chúng ta hãy suy niệm lời
chúc phúc của Chúa để thấy việc nên thánh phù hợp với mọi người. Có rất nhiều
phương pháp giúp ta đạt được Chân lý. Tám mối phúc thật là những phương pháp mà
Chúa Giêsu đã đề nghị cho những ai muốn nên thánh. Qua những mối phúc này,
chúng ta hiểu ra rằng nên thánh nhiều khi chỉ là những việc đơn giản trong cuộc
sống thường ngày, được thực hành với trái tim yêu mến và lương tâm ngay thẳng.
Sống tinh thần nghèo khó, luôn biết sám hối khóc lóc vì những lầm lỗi của mình,
khát khao sự công chính, sống hòa thuận và sắn sàng đón nhận những bất tiện do
đời sống chứng tá Tin Mừng gây nên. Những việc làm đó, nếu được thực hiện với
tình yêu mến và trong niềm vui, sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an và nhờ đó,
chúng ta đã bắt đầu nên thánh.
Ngày lễ kính các Thánh
nam nữ trên trời cũng là dịp chúng ta tưởng nhớ những người thân yêu của chúng
ta đã về Nhà Cha. Trong số đó, có những người đã được hiển thánh, vì họ sống
một cuộc sống tốt lành theo giáo huấn của Chúa. Họ không được Giáo Hội phong
thánh, nhưng chính Thiên Chúa phong thánh cho họ. Họ đang hưởng hạnh phúc vĩnh
cửu nơi tôn nhan Chúa và đang cầu bầu cho chúng ta.
Ngày lễ kính các Thánh
nam nữ trên trời cũng nhắc chúng ta hãy nhận ra những người tốt, việc tốt xung
quanh mình. Dù thuộc nền văn hóa hay tín ngưỡng nào, những hành động nhằm cổ võ
hòa bình và xây dựng những điều thiện hảo, đều phản chiếu sự thánh thiện của
Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện.
Thánh Phaolô đã gọi cộng
đoàn các tín hữu là cộng đoàn các thánh. Là thành viên trong cộng đoàn Giáo
Hội, mỗi chúng ta đã bắt đầu hành trình nên thánh. Chúng ta cũng được chia sẻ
sự thánh thiện của Giáo Hội, được thể hiện qua đời sống thánh thiện của Đức
Maria, Thánh Giuse, các thánh Tông đồ và các thánh qua mọi thời đại.
Nên thánh là lời mời gọi
của Chúa. Nên thánh cũng là một bổn phận của chúng ta. Đó là mục đích căn bản
và cốt lõi của đời sống Kitô hữu. Nhờ cuộc sống thánh thiện, chúng ta thuộc về
Chúa là Đấng Chí Thánh, trở nên hình bóng của Ngài. Và như thế, chúng ta đã nếm
hưởng hạnh phúc đời sau, ngay khi chúng ta còn sống trong cõi đời tạm này.
21. Nên thánh
Ngày kia, thánh Antôn tu
rừng đã đến gặp bác thợ giày, vì nghe đồn bác là một người đạo đức lạ thường.
Được hỏi về bí quyết nên thánh, bác thợ giày liền đáp:
– Tôi chỉ biết đóng giày
mà thôi.
Ngạc nhiên, thánh nhân
bèn hỏi lại:
– Nếu chỉ có thế, làm sao
mà thánh thiện cho được. Như tôi đây, tôi thường nghĩ đến Chúa trong từng giây
phút. Bác có bí quyết nào khác nữa không?
Bác thợ giày liền giải
thích:
– Tôi làm việc tám giờ,
cầu nguyện tám giờ và nghỉ ngơi tám giờ.
Thánh nhân vẫn chưa cho
đó là một cuộc sống lý tưởng vì ngài cầu nguyện ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thánh nhân hỏi tiếp:
– Còn về đức khó nghèo
thì sao?
Bác thợ giày trả lời:
– Tài sản và lợi tức của
tôi, một phần ba thì dâng cho Giáo Hội, một phần ba thì bố thí cho người nghèo,
còn một phần ba thì giữ lại cho tôi.
Thánh nhân cũng chưa cho
đó là một bí quyết trọn hảo, bởi vì chính ngài đã phân phát tất cả những gì
mình có cho Giáo Hội và cho người nghèo. Vặn hỏi mãi, cuối cùng bác thợ giày
mới chịu bật mí:
– Mặc dù tôi bố thí một
phần ba cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không thể ngủ yên khi nhìn thấy
cảnh nghèo túng chung quanh tôi, đến nỗi tôi đã phải thân thưa cùng Chúa: Lạy
Chúa, thà rằng Chúa để cho con phải xuống hỏa ngục, còn hơn là nhìn thấy những
kẻ khốn khổ này phải sống triền miên trong cảnh nghèo đói.
Nghe nói thế, thánh nhân
liền bỏ ra về vì ngài chợt hiểu rằng: Ngài chưa đủ thánh thiện như bác thợ
giày, đến độ dám hy sinh tất cả vì người nghèo.
Từ câu chuyện trên, chúng
ta nhận thấy có nhiều cách để nên thánh, dường như không có một mẫu mực thánh
thện nào chung cho tất cả mọi người. Có người nên thánh ngay trong bậc gia đình
của mình giữa trần gian. Có người chịu chết vì đạo. Có người sống trong bậc tu
trì. Mỗi vị thánh là một cách sống. Tuy nhiên, giữa những khác biết đó, vẫn có
một mãu số chung cho mọi cuộc sống thánh thiện, đó là tình yêu.
Thực vậy, Thánh Phaolô đã
diễn tả: Dù tô nói được mọi thứ tiếng, dù tôi làm được những việc lạ lùng, mà
nếu không có đức ái, không có tình yêu, thì tôi cũng chỉ là như não bạt khua
vang.
Không có đức ái, không có
tình yêu, thì tòa nhà đạo đức của chúng ta chỉ được xây trên một nền móng hão
huyền mà thôi. Chúa Giêsu cũng đã nói:
– Các con hãy nên trọn
lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành.
Thiên Chúa là Tình yêu.
Ngài đã yêu thương mọi người, không loại trừ một ai. Cũng vì tình yêu, mà Ngài
đã xuống thế làm người như chúng ta và đó cũng chính là điểm tận cùng của tình
yêu. Bác thợ giày trong câu chuyện vừa nghe không những đã dành mọi của cải cho
người nghèo, mà hơn thế nữa bác còn nghĩ đến người nghèo như là lẽ sống của
bác. Và đó chính là bí quyết cao vời nhất để nên thánh.
Bố thí tất cả của cải, xa
lánh mọi thú vui, đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Tất cả đều tốt, nhưng nếu sống
như thế để tìm cho mình sự thanh thản trong tâm hồn vì sợ bị người khàc quấy
rầy, thì vẫn chưa phải là lý tưởng cao đẹp nhất.
Hãy nên trọn lành như Cha
các con ở trên trời là Đấng trọn lành. Đó phải là lý tưởng của chúng ta. Cha
trên trời đã yêu thương mọi người đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài. Thiên
Chúa là Cha, bởi vì Ngài luôn sống cho con cái của Ngài. Và bây giờ đến lượt
chúng ta, để trở nên giống Ngài, chúng ta cũng phải sống cho người khác, bằng
những hành động bác ái và yêu thương, nâng đỡ và phục vụ mọi người. Đó chính là
bí quyết giúp chúng ta trở nên tốt lành và thánh thiện.
22. Hạnh phúc thay
Một người Pháp tên là
Pi-e Quốc (Alfred de Pierrecout) để lại gia tài hai triệu đô la với lời di chúc
phải dùng số tiền này gây giống những người khổng lồ. Người ta đã tìm và chuyển
những người cao lớn ngoại khổ về một vùng gần tỉnh Ru-ăng (Rhuen), rồi khuyến
khích họ lập gia đình với nhau, mong thành lập một dòng giống khổng lồ. Chương
trình này tiến hành được ít năm rồi thất bại. Còn Chúa Giêsu cũng muốn gây dựng một dòng giống vĩ nhân và đã
thành công. Bí quyết thành vĩ nhân của Chúa đã tóm gọn trong Bài giảng trên
núi, cũng gọi là “Tám mối phúc thật”.
Chúa Giêsu công bố những
bí quyết hạnh phúc này trên một gọn núi. Khung cảnh làm tăng vẻ hùng vĩ long
trọng, khiến ta nhớ tới núi Sinai của Cựu Ước, nơi Thiên Chúa công bố mười giới
luật. Những điều hạnh phúc này cũng gọi là Hiến chương Nước Trời, đây là tóm
lược toàn bộ giáo lý của Đức Kitô. Tuy đơn sơ giản dị nhưng là tinh hoa của Tin
Mừng, Chúa muốn gửi gắm với tất cả nhân loại, nhất là những người đau khổ: ốm
yếu, tật nguyền, nghèo túng, thất nghiệp, những người bị khinh chê, tuyệt vọng,
giới thu thuế và người tội lỗi.
Phúc cho những ai có tâm
hồn nghèo khó…, phúc cho những người hiền lành…, phúc cho ai có từ tâm…, phúc
cho ai bị bắt bớ vì sự công chính… Những người gặp khó khăn đau khổ sẽ được
hạnh phúc trong Giáo Lý Đức Giêsu, đây là kiểu nói khác của Lời Chúa: “Ai vất
vả mệt mỏi hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi. Hãy nhận lấy gánh của Ta và
hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng và các con sẽ được nghỉ
ngơi lại sức vì ách của Ta êm ái, gánh của Ta nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Chính
vì đem hạnh phúc lại cho người đau khổ mà Chúa Giêsu mới đúng là “Đấng được
trông chờ”, là “người được tiên báo”, là “người đem Tin Mừng Cứu Độ”. Chúng ta
đừng được quên từ ngữ Tin Mừng Cứu Độ đã được chính Chúa nhắc lại: “Thần Linh
Chúa xuống trên tôi, Người đã xức dầu tôi, sai tôi mang Tin Mừng cho người
nghèo, băng bó cho ai có cõi lòng tan vỡ, công bố giải thoát cho các tù nhân,
an ủi những người bị áp bức…” (Is.61,1-6; Lc.4,18).
Hạnh phúc cho họ… vì Nước
Trời là của họ… Tám mối phúc thật đóng khung trong kết luận đó. Nước Trời thuộc
anh em, không phải chỉ là lời hứa hẹn mai sau, nhưng niềm hạnh phúc này còn lan
toả ngay trong hiện tại. Khi hiến chương tám mối phúc thật được thực hiện thì
những người đau khổ sẽ hạnh phúc, tình thế sẽ đổi thay. Chúa không ca tụng đói
nghèo, đau khổ, nhưng muốn cải thiện cuộc sống dưới ánh sáng Tin Mừng. Nước
Trời, Nước Thiên Chúa là tổ chức được xây dựng ngay trong cuộc sống thế trần,
và đầu tiên nhằm xoá hết khổ đau, áp bức. Chúa Giêsu không phải chỉ là Vua mai
sau, nhưng ngay bây giờ Nước Chúa đã hình thành, và Chúa đã là Vua luôn đem
hạnh phúc cho dân của Người.
Phúc cho người có tâm hồn
nghèo, vì Nước Trời thuộc về họ. Phúc cho người hiền lành, họ sẽ được đất.
Trong từ ngữ Hy Lạp, hai ý đó chỉ có một từ. Đó không phải là thái độ chịu đựng
tiêu cực, nhưng là một cố gắng đạt tới, để cho nhân quyền được tôn trọng. Phúc
cho ai than khóc, họ sẽ được ủi an. Phúc cho ai đói khát công chính, họ sẽ no
thoả. Phúc cho ai có từ tâm, họ sẽ được thương xót. Phúc cho ai tinh sạch trong
lòng, họ sẽ thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khóc với Matta và Maria; Chúa đã
sống công chính rập mẫu Chúa Cha. Chúa đã thương xót các tội nhân, Người luôn
tha thứ. Các tín hữu phải noi gương Chúa ban phát lòng thương xót và tha thứ.
Khi đó họ được gọi là con Thiên Chúa, vì họ đã kiến tạo hoà bình.
Lạy Chúa, xin giúp chúng
con noi gương các bậc thánh thiện mà Giáo Hội mừng kính hôm nay, biết thực hành
những lời Chúa dạy trong Tám mối phúc thật, để chúng con lãnh nhận hạnh Chúa
hứa ban.
23. Hạnh phúc Nước Trời
Làm sao có thể diễn tả
được nỗi vui mừng của Giáo hội khi nhìn thấy những người con đã đạt tới mục
đích, đã bước vào quê hương Nước Trời, đã được hưởng niềm hạnh phúc với Thiên
Chúa.
Đã nhiều lúc Giáo hội như
một người mẹ băn khoăn lo lắng cho con cái mình đang vất vả chiến đấu với một
thân phận giòn mỏng, với một bản tính yếu đuối, thì giờ đây Giáo hội có thể thở
phào nhẹ nhõm và dâng lên Chúa tâm tình biết ơn, tâm tình cảm tạ, vì những
người con ấy đã chiến thắng và lãnh nhận triều thiên sự sống. Trong bầu khí của
ngày lễ Các Thánh hôm nay, tôi xin chia sẻ ba ý tưởng.
Ý tưởng thứ nhất là về
quê trời. Giáo hội cầm tay chúng
ta mà dẫn vào quê trời, nhưng chúng ta sẽ nhìn thấy gì ở đó? Thánh Gioan
sách Khải huyền đã diễn tả:
- Thiên Chúa ngồi trên
ngai có các thiên thần Kêrubim vây quanh, trước ngai là bàn thờ, trên bàn thờ
có con chiên bị sát tế, tức là Đức Kitô, Đấng Cứu độ. Chung quanh bàn thờ là 80
vị bô lão, tượng trưng cho Cựu ước và Tân ước. Sau đó là một đám đông vô kể
những người được lựa chọn thuộc mọi dân tộc, thuộc mọi ngôn ngữ, thuộc mọi màu
da. Họ mặc áo trắng dài, tay cầm cành lá thắng trận và miệng hát vang khúc ca
mới: Chúng tôi là những người đã được cứu chuộc bằng máu châu báu, chúng tôi
đến từ khắp mọi dân nước. Và mọi người thờ lạy chúc tụng Thiên Chúa và Con
chiên.
Dĩ nhiên đây chỉ là hình
ảnh thánh Gioan nhìn thấy trong một thị kiến, còn về hạnh phúc Nước Trời, có lẽ
chúng ta phải nói lên như thánh Phaolô:
- Mắt chưa hề thấy, tai
chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được điều Thiên Chúa dành để
cho những người yêu mến Ngài.
Bởi đó hãy dứt bỏ những
sợi dây níu kéo và cột chặt chúng ta lại với mặt đất, hầu nhờ đó chúng ta hướng
tâm hồn lên trời là quê hương đích thực của chúng ta, mà một ngày kia chúng ta
sẽ được gia nhập vào cộng đoàn các thánh.
Ý tưởng thứ hai là về các
Thánh. Giáo hội hướng dẫn
chúng ta nơi trần gian và thúc đẩy chúng ta trở nên thánh qua việc thực hiện hiến
chương Nước Trời, tức là tám mối phúc thật của Chúa.
Nhìn vào cuộc sống, chúng
ta thấy có những người đói khổ, không đủ cơm ăn áo mặc, những người nô lệ bị
bạc đãi, những bệnh nhân anh dũng chấp nhận khổ đau. Họ vui lòng chấp nhận và
coi đó như là những thập giá được Chúa gửi đến và họ đã trở nên thánh thiện.
Bên cạnh những người bước
đi trên con đường thập giá, chúng ta còn thấy có những tâm hồn quảng đại, trong
trắng và yêu chuộng hòa bình. Họ là những người thật âm thầm và vô danh trước
mặt người đời, nhưng lại có một giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa. Vậy chúng
ta có muốn bước vào con đường của các ngài hay không?
Ý tưởng thứ ba đó là về
chúng ta. Giáo hội mong muốn
chúng ta trở nên những vị thánh. Lý tưởng nên thánh không phải là một cái gì
được dành riêng cho linh mục tu sĩ, mà là một bổn phận chung của mỗi người con
cái, vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, hay như Chúa Giêsu đã
phán:
- Các con hãy trở nên
trọn lành như Cha các con ở trên trời là đấng trọn lành.
Sự thánh thiện không phải
là một đỉnh cao mà chỉ một vài người đạt tới. Cũng không phải là một bông hoa
chúng ta phải lặn lội vào tận rừng sâu mới hái được. Trái lại, ai trong
chúng ta cũng có thể và phải trở nên thánh.
Nhìn vào các thánh trên
trời chúng ta thấy: Không phải chỉ có các đấng được ghi trong niên lịch phụng
vụ, mà còn là một số rất đông thuộc mọi dân mọi nước. Tất cả các ngài không
phải là những người làm phép lạ, sống trong tu viện hay nổi tiếng về một phương
diện nào đó. Trái lại, có những vị cũng tầm thường như chúng ta, cũng sa ngã
như chúng ta, cũng sống giữa lòng cuộc đời đầy bon chen và cám dỗ như chúng ta,
bởi đó chúng ta thêm phấn khởi mà nói lên như thánh Augustinô: Ông nọ bà kia
lên thánh được, còn tôi tại sao không.
Trong ngày hôm nay, chúng
ta hãy dốc quyết uốn nắn sửa đổi những sai lỗi, để trong ngày sau hết chúng ta
được gia nhập cộng đoàn các thánh và vui hưởng niềm hạnh phúc Nước Trời.
24. Các Thánh và bổn phận nên thánh
Hôm nay chúng ta mừng
kính các thánh trên trời, là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa, là những người
được Chúa tuyển chọn và tạo thành một đám đông vô kể bước vào vinh quang Nước
trời, như thánh Gioan đã diễn tả:
– Các ngài thuộc những
dòng họ đã được đóng ấn, mặc áo trắng và cầm cành lá thắng trận.
Chúng ta cũng có thể nói được
rằng: các thánh là những bậc đàn anh đã đi trước chúng ta. Nhìn vào đời sống
của các ngài, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ, bởi vì các ngài cũng đã
phải chiến đấu trong cuộc chiến trần gian, các ngài cũng đã phải mang trên đôi
vai thân phận yếu của kiếp người và cũng đã vấp phạm, có vị còn ngập chìm trong
tội lỗi hơn cả chúng ta nữa.
Nhưng với ơn Chúa trợ
giúp và cùng với những cố gắng cá nhân, các ngài đã chiến đấu, đã đi đến cùng
mà vẫn giữ được đức tin. Các ngài đã kết thành một hàng rào danh dự chung quanh
Con Chiên là chính Chúa.
Chắc hẳn bây giờ từ trời
cao, các ngài đưa mắt nhìn chúng ta bằng cái nhìn trìu mến và thầm mong một
ngày kia chúng ta cũng sẽ được bước vào cõi phúc trường sinh. Các ngài đã chỉ
cho chúng ta con đường nên thánh mà các ngài đã đi qua. Các ngài sẽ nâng đỡ và
nói với chúng ta rằng:
– Hãy tìm kiếm Chúa và
đừng sợ hãi. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Hãy bắt chước chúng
tôi vì chúng ta cũng chỉ là những kẻ tầm thường và đáng thương. Hãy uốn nắn
những sai lỗi. Hãy cố gắng trở nên trọn lành như lời Chúa đã truyền dạy.
Vào một buổi tối người mẹ
đã nói với những đứa con của mình như sau:
– Mẹ sẽ rất vui mừng nếu
như một trong các con trở nên một vị thánh.
Lập tức đứa bé nhất đã
giơ tay lên và nói:
– Con sẽ là một vị thánh.
Đứa bé giữ lời hứa, lớn
lên làm tới chức Giáo hoàng với danh hiệu Celestinô V, và đã trở nên một vị
thánh.
Trở nên một vị thánh
không phải là một việc có thể được thực hiện trong một sớm một chiều, nhưng là
kết quả của những cố gắng không ngừng, ngày này qua ngày khác, tháng này qua
tháng khác, năm này qua năm khác, trong suốt cả cuộc đời, để được luôn trung
thành cùng Chúa.
Quan sát một người tập đi
xe đạp, chúng ta thấy không phải cứ ngồi lên xe là đã chạy được ngay. Lúc đầu
thế nào cũng xiêu bên nọ, xọ bên kia, ngã lên ngã xuống, rách cả quần, toạc cả
đầu gối…Nhưng nếu cố gắng mãi, sẽ có lúc người ấy biết đi và biết đi một cách
anh dũng, bỏ cả hai tay m xe vẫn không đổ.
Hay như chú bé kia nuôi
một con sáo, để tập cho con sáo biết nói, chú bé phải cho nó ăn ớt, rồi lặp đi
lặp lại ngày này qua ngày khác lời mình định dạy cho nó, đến một ngày nó sẽ nói
được.
Cũng vậy trên con đường
trọn lành, chúng ta sẽ tiến lên từ từ, từng bước một, trong khi nhìn ngắm mẫu
gương của các thánh. Cùng với sự trợ giúp của ơn Chúa và những cố gắng của bản
thân, chúng ta sẽ học biết phải yêu mến Chúa như thế nào. Mỗi ngày sẽ là một
bước tiến lại gần Chúa hơn. Chúng ta không phải chỉ trở nên thánh một lần thay
cho tất cả, mà phải liên tục trở nên thánh. Chúng ta giống như người bơi ngược
dòng nước, không tiến tức là lùi. Không cố gắng bơi sẽ bị dòng nước là những
đam mê tội lỗi cuốn trôi.
Ơn gọi nên thánh không
phải là một ơn gọi được dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng là một ơn
gọi của mọi người con Chúa, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống
cánh. Chắc hẳn Chúa sẽ vui mừng khi nhìn thấy những đường nét của Ngài trong
tâm hồn chúng ta.
Hãy suy gẫm lời thánh
Augustinô:
– Cậu nọ cô kia nên thánh
được, còn tôi tại sao lại không?
Dù trẻ hay già, dù đàn
ông hay đàn bà,tất cả chúng ta đều có thể và phải trở nên thánh.
Thánh Đamascênô kể lại
một mẩu chuyện như sau: ngày xưa ở một vùng kia, người ta có một tập tục kỳ lạ,
đó là mỗi vị vua chỉ được trị vì mười năm. Trong thời gian đó, ông ta nắm giữ
mọi quyền lực, đều hành mọi công việc, mặc sức sử dụng tiền bạc…Nhưng sau thời
gian ấy, người ta sẽ tước đoạt phủ việt cũng như triều thiên và đày ải ông ta
tới một hoang đảo xa xôi, để ông phải chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt
vọng.
Năm ấy có một vị vua lên
ngôi, nhưng ông ta khôn ngoan hơn những người đi trước. Trong thời gian trị vì,
ông ta chỉ có một ý nghĩ: phải chuẩn bị cho tương lai, kiến thiết hòn đảo xa
xôi nơi ông ta sẽ bị lưu đày. Ông truyền cho người ta xây cất cung điện, biến
rừng hoang thành những vườn cây ăn trái và những cánh đồng lúa xanh tươi. Rồi
ông cho chở tất cả vàng bạc châu báu của vương quốc tới hòn đảo ấy.
Chúng ta thầm khen:
– Ông vua này quả là thận
trọng và khôn ngoan.
Hãy bắt chước ông vua ấy,
dùng cuộc sống ngắn ngủi hiện tại mà đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hãy
gửi trước về trời những kho tàng, là những hành động bác ái yêu thương của
chúng ta.
Đừng lần lữa, nhưng hãy
bắt tay vào việc nên thánh ngay từ hôm nay, bởi vì như một câu danh ngôn đã
bảo:
– Việc hôm nay chớ để tới
ngày mai, bởi vì ngày mai biết đâu đã quá muộn, liệu còn có hay không?
* CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – B
1. Mến Chúa yêu người.
Qua đoạn Tin mừng sáng
hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hai khía cạnh của một giới răn, đó là
lòng mến Chúa và tình thương người.
Trước hết là lòng mến
Chúa.
Trong Cựu ước Chúa phán
bảo người Do Thái: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng và hết sức ngươi. Trong Tân
ước Chúa Giêsu cũng bảo: Giới răn trọng nhất đó là ngươi hãy kính mến Thiên
Chúa hết tâm hồn và trí khôn ngươi.
Thánh Gioan vị tông đồ,
thấu triệt được đường lối của Chúa Giêsu, đã viết: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai ở
trong tình yêu thì người ấy ở trong Thiên Chúa. Và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ
chúng ta: Anh em hãy mặc lấy đức ái, là giềng mối mọi sự trọn lành.
Như thế, chúng ta thấy
lòng mến Chúa là mục đích chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống trần gian hay
nói cách khác, đó chính là sự thánh thiện vậy. Qua giòng thời gian, các thánh,
là những người đã xác tín được cái chân lý ấy và đã ra sức thực hiện trong lòng
cuộc đời của mình.
Thánh nữ Têrêsa đã viết:
Tôi hiểu rằng Giáo Hội có một trái tim, trái tim ấy bùng cháy ngọn lửa tình
yêu… Tôi hiểu rằng chỉ tình yêu mới làm cho các chi thể hoạt động. Nếu tình yêu
mà lịm tắt, thì các vị tông đồ không còn đi loan báo Tin mừng, các vị tử đạo
không còn đổ máu ra để làm chứng cho Phúc âm. Lòng mến này được biểu lộ qua
việc chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa bằng những tâm tình cầu nguyện.
Nhất là được biểu lộ qua việc chúng ta thực thi thánh ý Chúa, mỗi khi chúng ta
làm một việc dù là nhỏ mọn nhất. Chúng ta hãy biết thân thưa với Chúa như thánh
nữ Bernadetta: Lạy Chúa, xin cho con biết chu toàn mọi việc vì lòng yêu mến
Chúa.
Người ta kể lại thánh
Arcadio, khi bị dẫn tới pháp trường, ngài đã bình tĩnh chấp nhận bị khổ đau,
rồi ngài nói với những người đứng chung quanh: Chết vì Chúa là được sống, khổ
vì Chúa là được hạnh phúc.
Tiếp đến là tình thương
người.
Trong Phúc âm Chúa phán:
Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là ngươi hãy yêu
thương anh em như chính mình ngươi. Các ngươi hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương các con. Thầy truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy
yêu thương nhau. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các
con yêu thương nhau.
Thánh Augustinô đã giải
thích tư tưởng của Chúa như sau: Tình thương là dấu chỉ duy nhất để phân biệt
con cái Thiên Chúa với con cái ma quỉ. Mặc cho những ai cứ làm dấu thánh giá
trên trán, cứ chịu phép rửa tội, cứ vào nhà thờ, nhưng chỉ có tình thương mới
phân biệt được ai là con cái Thiên Chúa.
Đức Giám mục Bossuet cũng
nhấn mạnh: Ai chối bỏ tình thương là chối bỏ đức tin. Ai chối bỏ đức tin là
sống ngoài Giáo Hội. Bởi vì như lời thánh Gioan đã diễn tả: Anh em là những
người họ trông thấy mà họ chẳng yêu thương, thì làm sao họ có thể kính mến
Thiên Chúa Đấng mà họ chẳng hề trông thấy bao giờ.
Bên Âu Mỹ, người ta thử
nuôi những trẻ sơ sinh bằng máy dưỡng nhi thay cho người. Với những máy móc ấy,
con trẻ được nuôi một cách rất khoa học. Ăn uống đầy đủ, vệ sinh chu đáo. Thế
mà đứa trẻ cứ mỗi ngày một ốm o gầy mòn, biếng ăn kém ngủ. Thế nhưng, khi người
ta thêm vào trong phòng một cái máy phát ra những tiếng động như nhịp đập của
trái tim người mẹ, thì các em trở lại bình thường, ăn ngon ngủ kỹ, da dẻ hồng
hào. Như vậy cái yếu tố thiết yếu trong cuộc sống là yêu và được yêu.
Kính mến Thiên Chúa và
yêu thương anh em. Thực hiện được hai điều ấy là chúng ta đã chu toàn được mọi
lề luật, và mọi lời Chúa truyền dạy.
2. Mến Chúa yêu người.
Vào một buổi sáng mùa
đông, nhóm tù công giáo quây quần bên nhau, chia sẻ Lời Chúa với dụ ngôn về
người Samaritanô nhân lành. Họ trao đổi với nhau và tìm cách áp dụng tinh thần
yêu thương vào cuộc sống hằng ngày. Căn phòng không đủ ấm vì từng cơn gió lạnh
thổi tới. Một tù nhân nghèo túng, trên người chỉ có một bộ quần áo mỏng manh,
đang ngồi mà cứ run lập cập. Bên cạnh đó, một bạn tù khoác những hai chiếc mềm.
Và thế là, trong lúc mọi người bàn luận về cách thức tương trợ lẫn nhau, người
bạn tù đột nhiên đúng dậy, tiến đến và choàng một chiếc mềm lên người tù nghèo
túng. Cử chỉ của người bạn tù đã gây được một ấn tượng mạnh mẽ cho cả nhóm hơn
bất cứ lời nào họ nói ra để chia sẻ.
Và cũng từ mẩu chuyện
này, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Thực vậy, chúng ta thường nói:
Con người đầu đội trời, chân đạp đất, vì thế sống trên đời chúng ta có hai bổn
phận phải chu toàn, đó là mến Chúa và yêu người. Hai bổn phận này phải luôn
luôn đi đôi với nhau, như hai mặt của một đồng tiền. Nói cách khác, đó chỉ là
hai phương diện của một giới luật duy nhất, giới luật yêu thương. Chúng ta
không thể cầu nguyện và gắn bó mật thiết với Chúa, nếu như chúng ta không đối
xử với những người bên cạnh chúng ta bằng những hành động bác ái. Thánh Gioan
Tông đồ đã xác quyết: Nếu ai nói rằng mình kính mến Chúa là lại ghét bỏ anh em,
thì quả thật kẻ ấy chỉ là một tên nói dối, bởi vì hắn ta không thể kính mến
Chúa là Đấng hắn chẳng hề trông thấy bao giờ, nếu hắn không yêu thương anh em,
là những người hắn luôn thấy được. Chính Đức Kitô cũng đã dạy: Ai kính mến
Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em. Hai lệnh truyền này tương quan mật
thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta không yêu thương anh em thì chẳng bao lâu
chúng ta sẽ không còn kính mến Thiên Chúa nữa. Có một câu danh ngôn đã bảo: Tôi
tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng làm sao thấy được bởi vì Ngài là Đấng thiêng liêng.
Thế nhưng khi tôi tìm kiếm người anh em, thì tôi sẽ gặp được chính Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm, rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hoá mình với những người anh em
nghèo khổ: mỗi khi chúng ta cho người đói được ăn, người khát được uống, người
trần trụi được mặc, người đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm là chúng ta đã
làm cho chính Chúa vậy.
Thế nhưng, việc yêu
thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính
gia đình của chúng ta. Không yêu thương những người thân cận ruột thịt, thì
chắc chắn chúng ta cũng sẽ khó mà yêu thương những kẻ xa lạ cho được. Vậy chúng
ta đã dành tình yêu thương cho những người thân cận trong gia đình thế nào? Nếu
chúng ta trả lời là chưa đậm đà cho lắm, thì có lẽ tình yêu thương chúng ta
dành cho bà con lối xóm cũng sẽ chẳng khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu thương
bà con lối xóm cho mặn nồng thì chắc chắn chúng ta cũng không thể kính mến
Thiên Chúa một cách nồng nàn được.
Trái lại, nếu chúng ta
yêu quý những người thân cận trong gia đình, thì chúng ta mới có thể yêu quý
những người bà con lối xóm. Và một khi đã yêu quý những người bà con lối xóm,
thì chắc chắn, chúng ta cũng sẽ dễ dàng kính mến Thiên Chúa. Dấu chỉ và bộ đồng
phục của người môn đệ Chúa phải là lòng bác ái, và ngôn ngữ của người Kitô hữu,
thứ ngôn ngữ mà nhờ đó bất cứ ai cũng có thể hiểu được về Thiên Chúa và về bản
thân chúng ta, đó phải là ngôn ngữ của tình yêu thương.
3. Hôm nay Thiên Chúa cần người mẫu
(Suy niệm của Lm. Giuse
Phạm Thanh Liêm)
Tin mừng theo thánh
Mác-cô cho thấy Đức Yêsu trích lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật: “hãy yêu
mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn hết sức lực, và yêu anh em như chính
mình”. Đây thực sự là giới răn đem lại hạnh phúc cho con người.
I. Thiên Chúa yêu thương
con người vô cùng
Từ thời Môsê, khoảng thế
kỷ 13 trước Công Nguyên, dân Do Thái đã nhận lãnh giới luật yêu mến Thiên Chúa:
“Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Anh
em hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực anh em”.
Đến thời Đức Yêsu, khi một ký lục hỏi Đức Yêsu: “Thưa thầy, giới răn nào trọng
nhất?” Đức Yêsu đã trả lời bằng cách lập lại giới răn Môsê đã truyền cho dân Do
Thái ngày xưa: “Đây là giới răn thứ nhất: hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa
ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi. Giới răn thứ
hai: hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn
những điều này”.
Yêu mến Thiên Chúa hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực- nghĩa là- đặt Thiên Chúa trên
hết mọi sự, chọn Thiên Chúa trên tất cả, lấy Thiên Chúa là đủ cho mình và không
ao ước gì ngoài Thiên Chúa. Làm sao để điều này thành hiện thực khi con người
chạy theo tiền tài danh vọng? Làm sao để những người cho rằng Thiên Chúa là một
từ ngữ có một tương quan tình yêu thiết thân với Ngài? Con người được mời gọi
nhận biết và cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và Ngài sẵn sàng làm tất
cả để được con người. Điều này, không phải con người làm nhưng chính Thiên Chúa
làm cho con người; Thiên Chúa đang dùng con người để giúp Ngài làm cho con
người nhận ra tình yêu của Ngài đối với họ.
Đức Yêsu được sai đến để
thực hiện điều này: làm sao để con người yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh
hồn hết trí khôn hết sức lực. Đức Yêsu đã làm mọi cách: đã nói cho con người
biết Thiên Chúa là ai, Ngài yêu thương con người đến độ nào, và Ngài chờ mong
con người trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng luôn săn sóc con
người; Ngài sẵn sàng ban tất cả cho con người, ngay cả chính Con Ngài. Lời của
Thiên Chúa mang trọn vẹn ý nghĩa khi con người, cụ thể nơi các tông đồ, nhận ra
Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Chỉ với biến cố phục sinh, con
người mới nhận biết Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, và rồi, con người mới biết
Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào.
II. Con người tự do chọn
lựa
Con người là hữu thể tự
do. Con người được tạo dựng để thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đặt để nơi
con người một ước vọng hướng về Ngài như nguồn chân thiện mỹ. Con người luôn
được mời gọi để hướng về Ngài, chọn Ngài qua những thực tại trần gian. Chọn
điều tốt, chọn điều thiện hảo, chọn yêu thương tha nhân, là chọn chính Thiên
Chúa. Chọn điều tốt lành thiện hảo, chọn Thiên Chúa, sẽ làm con người được bình
an hạnh phúc.
Làm sao con người có thể
chọn điều thiện hảo tốt lành, khi mà thân xác con người cảm thấy cần tiện nghi
vật chất, cần tiền bạc để thỏa mãn những nhu cầu vật chất? Thánh Ynhã Loiola
cho rằng khi người ta có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa và tạo vật, khi người
ta bình tâm trước tạo vật và chỉ đi tìm Thiên Chúa và ý định của Ngài, thì con
người được hạnh phúc đích thực. Đức Yêsu nói với các tông đồ: “giầu có khó vào
được Nước Trời; lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên
Chúa”. Nhưng làm sao để người ta nhận ra rằng điều đó là đúng, và làm sao để
người ta chọn điều người ta thấy là đúng?
Tình yêu giúp người ta
nhận ra sự thật. Tình yêu sẽ đưa người ta vào chính đạo. Tình yêu sẽ giúp người
ta trở về với Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa tác động trên con người, trên
những trung gian con người mà Ngài dùng, đồng thời trên mỗi người để khao khát
tiềm ẩn nơi họ được bừng sáng, để họ nhận ra con đường đích thực giúp họ bình
an hạnh phúc. Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người, sẽ làm con người được
bình an hạnh phúc. Những người sống trong tình yêu sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh
phúc khi phục vụ anh em mình.
III. Yêu mến Thiên Chúa
hết lòng hết linh hồn hết trí khôn
Con người được gì khi yêu
mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực mình? Thiên Chúa
là chân thiện mỹ; nếu một người chọn Thiên Chúa, chọn chân thiện mỹ, là chọn
anh em mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa, thì sẽ tôn trọng quyền lợi của tha
nhân. Người chọn Thiên Chúa và tha nhân sẽ sống an bình và hạnh phúc với tha
nhân. Một người chọn tiền bạc danh vọng, sẽ dùng tha nhân và ngay chính anh em
như phương tiện để đạt được mục đích của mình; như vậy họ gây khổ não cho tha
nhân và ngay cả anh em họ. Nếu một người chỉ chọn họ và không để ý tới quyền lợi
của tha nhân, người đó không thể sống hạnh phúc với người khác.
Yêu mến Thiên Chúa hết
lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực, là đặt thực tại trần gian vào đúng
chỗ của nó. Với những người này, Thiên Chúa và ý định yêu thương của Ngài đối
với con người phải là trên hết, tha nhân phải được tôn trọng; và khi sống như
vậy, chính người “yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và yêu
anh em như chính mình” sẽ là người sống hạnh phúc, sống an bình và thuận hòa
với chính mình và với người khác xung quanh họ.
Yêu mến Thiên Chúa trên
hết và yêu mến tha nhân như chính mình, không chỉ là lề luật phải giữ mà còn là
khuôn vàng thước ngọc, giúp người ta sống an bình hạnh phúc. Với những người
chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, thì phải diễn đạt điều lề luật Do Thái
nói trên bằng “mỗi người phải chọn chân thiện mỹ trên tất cả, tôn trọng và yêu
mến tha nhân như chính mình”. Để đạt được điều trên, mỗi người cần ơn trên soi
sáng và giúp đỡ; và trong mức độ con người, Thiên Chúa vẫn cần những con người
cộng tác với Ngài để giúp con người hôm nay ý thức và sống lề luật này. Thiên
Chúa cần những người mẫu cho con người hôm nay.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Yêu mến Thiên Chúa hết
lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực, thì con người được gì? Yêu mến tha
nhân như chính mình, thì được gì?
2. Theo bạn, làm sao để
một người chấp nhận và thực hiện giới răn yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu
mến tha nhân như chính mình?
4. Yêu Chúa yêu người
(Suy niệm của Lm. Giuse
Phạm Thanh Liêm)
Mười điều răn của Chúa
được tóm lại trong hai điều: mến Chúa và yêu người. Cũng còn có thể nói mười
điều răn của Chúa được tóm lại trong một chữ yêu mà thôi.
Yêu Chúa
Môsê đã truyền cho dân
chúng giới luật của Chúa, và nếu dân chúng vâng theo thì sẽ được sống lâu trong
đất nước Thiên Chúa đã hứa với cha ông họ. Giới luật của Chúa rất đơn sơ: “hãy
yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực ngươi”
(Dnl.6, 5).
Yêu nhau là muốn gần
nhau, dành thời gian cho nhau, chọn nhau là nhất trên những người khác, tin
tưởng và sẵn sàng cho người kia tất cả. Cũng tương tự vậy nếu con người yêu
Chúa, tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, tin rằng Ngài muốn điều tốt cho
mình; sẵn sàng dành thời gian cho Chúa, cụ thể dành thời gian cầu nguyện; chọn
Thiên Chúa trên những thực tại khác, trên những tà thần như tiền bạc danh vọng
chức quyền. Chẳng hạn trọng lịch sử, người Do Thái từ bỏ tà thần để chỉ được
thờ một Thiên Chúa mà thôi.
Tình yêu không chỉ bằng
lời nói nhưng chính yếu bằng hành động. Yêu thương, là phải chọn. Chọn ai, là
yêu thương người đó. Tình yêu được diễn tả qua những gì rất là cụ thể. Yêu
Thiên Chúa, là chọn Thiên Chúa trên tất cả.
Yêu người
Cựu ước trong sách Đệ Nhị
Luật đòi người ta phải yêu Chúa trên hết mọi sự: hết linh hồn hết trí khôn và hết
sức lực. Tin Mừng theo thánh Marcô cho thấy Đức Yêsu đã đặt giới răn “yêu
người” ngay sau giới răn “mến Chúa”.
“Phải yêu thương người
chung quanh như chính mình”, đó là giới răn thời Cựu Ước. Trước khi dâng hiến
đời mình cho con người, Đức Yêsu đã truyền cho các môn đồ: “hãy yêu thương nhau
như chính thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34). Tiêu chuẩn yêu thương, không
còn là “như chính mình” nữa, nhưng là “như Đức Yêsu yêu”. Yêu thương, là hy
sinh cho người mình yêu, sẵn sàng chịu thiệt thòi vì lợi ích của người mình
yêu. Đức Yêsu đã làm tất cả, để con người được sống và được sống hạnh phúc;
cũng tương tự vậy những ai yêu thương theo gương Đức Yêsu.
Thư của thánh Gioan còn
liên kết hai giới răn “mến Chúa” và “yêu người” với nhau đến độ không thể tách
rời hai giới răn này: “ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó
là người nói dối” (1Ga.4, 20). “Ai sống yêu thương, thì biết Thiên Chúa, còn ai
không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga.4, 8). Chính thái độ sống yêu
thương con người, là dấu chỉ và thước đo cho thấy người đó có yêu mến Thiên
Chúa thật hay không.
Yêu thương anh em, là
phải giúp đỡ anh em mình một cách cụ thể: “nếu có người anh em thiếu thốn không
có áo che thân và không đủ ăn hằng ngày, mà có người trong anh em nói với họ: “hãy
đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no” nhưng lại không cho họ những thứ thân xác
họ đang cần, thì nào có lợi ích gì?” (Gc.2, 15-16).
Yêu người, là muốn điều
tốt cho người mình yêu, giúp đỡ cụ thể từ vật chất đến tinh thần, và sẵn sàng
chia sẻ cho họ những gì mình có, ngay cả hy sinh chính thân mình.
Yêu thương làm con người
sống hạnh phúc
Thù ghét oán hờn, hủy
diệt con người. Ai sống trong thù hận, nét cau có hằn trên nét mặt, trở nên già
và xấu. Nét “không đẹp” trong tâm hồn sẽ biểu lộ ra trên thân xác, trên gương
mặt. Sống yêu thương, nụ cười luôn nở trên môi, làm cho đời đẹp hơn tươi hơn và
đáng sống hơn.
Người ta luôn thích người
đẹp, luôn muốn ngắm nhìn và sống với người đẹp. Nếu ai mà người khác không muốn
sống với, sợ hãi, e rằng người đó không đẹp dù nhan sắc có “nghiêng nước
nghiêng thành” hay “chim sa cá lặn”. “Cái nết đánh chết cái đẹp”, nét đẹp tinh
thần vượt xa nét đẹp thể lý. Nét đẹp thể lý có thể lôi kéo con người tức thời
nhưng không giữ con người lại với mình lâu được; nét đẹp tinh thần sẽ làm những
ai sống với mình được bình an và hạnh phúc.
Xin cho mỗi người chúng
ta yêu Chúa yêu người, để chúng ta mang bình an và hạnh phúc cho mọi người
chúng ta gặp gỡ và sống với.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Sống trong thù ghét,
người ta được gì và mất gì?
2. Yêu thương, người ta
được gì và mất gì?
3. Thế nào là yêu thương?
(Khía cạnh tiêu cực, khía cạnh tích cực)
4. Người ta có muốn sống
gần bạn không? Đâu là ngăn cản lớn nhất làm bạn khó sống yêu thương?
5. Điều răn đứng đầu.
Suy Niệm
Đối với một số bạn trẻ,
yêu chẳng có gì khó. Yêu là gặp nhau, quen nhau, nhớ nhau. Yêu là hẹn hò, viết
thư, tặng quà sinh nhật. Nhưng dần dần quan niệm về tình yêu trở nên sâu xa
hơn. Các bạn nhận ra yêu là trao hiến bản thân, là hy sinh chính mình để sống
cho người khác.
Tình yêu đích thực không
dễ như nhiều người lầm tưởng. Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ bị xét xử về tình
yêu.
Một vị kinh sư tốt lành
hỏi Đức Giêsu về điều răn đứng đầu trong số 613 khoản luật. Ngài trích Ngũ Thư
để tóm lại trong hai điều răn chính: yêu Thiên Chúa hết lòng và yêu tha nhân
như chính mình. Tất cả lề luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến.
Giữ luật mà quên yêu mến
có thể dẫn đến óc nệ luật. Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu.
"Yêu mến là chu toàn
lề luật" (Rm 13,10).
Thánh Âu-tinh phàn nàn là
mình đã yêu Chúa quá muộn. Còn chúng ta lại thấy mình yêu Chúa quá ít và hời
hợt.
Khi nghe Đức Giêsu nhắc
lại lời kinh của người Do Thái: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi, với trọn cả trái tim ngươi, với trọn cả linh hồn ngươi, với trọn cả
trí khôn ngươi, với trọn cả sức lực ngươi...", ta mới thấy đòi hỏi quyết
liệt của Thiên Chúa. Ngài muốn ta yêu Ngài bằng tất cả con người mình.
Cụm từ "với trọn
cả" được lặp lại nhiều lần như nhắc ta chẳng nên giữ điều gì lại.
Sống điều răn thứ nhất là
đặt Chúa lên trên hết, là dành ưu tiên một cho Chúa giữa những ưu tiên. Coi
Chúa là tất cả, mãn nguyện vì có Chúa. Dành cho Chúa tất cả, để Chúa chiếm trọn
mình.
Điều răn thứ hai bắt
nguồn từ điều răn thứ nhất: yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận
là mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương đến vô
cùng. Trong Chúa, tôi nhận ra tha nhân là anh em, con một Cha, là hình ảnh của
Đức Kitô đang cần tôi giúp đỡ. Trong Chúa, tôi cảm nhận phẩm giá đích thực của
một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí.
Tình yêu thực sự với
Thiên Chúa đưa tôi về với anh em. Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa để
múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục hiến trao. Đó là nhịp đập bình thường
của trái tim người Kitô hữu, cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Hay đúng hơn chỉ có
một tình yêu: tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân.
Đức Giêsu đã sống đến
cùng hai điều răn Ngài dạy. Ngài sống để yêu và chết vì yêu. Tình yêu của Ngài
là lễ toàn thiêu và hy tế.
Mỗi tối tôi lại xét mình
về tình yêu để thấy mình còn yêu quá ít.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đâu là chỗ đứng của Thiên
Chúa trong đời bạn? Nếu bạn xếp hạng, bạn thấy Ngài bị đặt dưới những thụ tạo
nào?
Bạn thấy yêu tha nhân có
dễ không? Bạn làm gì khi phải sống với một người không hợp tính với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, trước khi
con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con. Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy
con. Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con. Trước khi con yêu Chúa, Chúa
đã mến yêu con. Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con. Trước khi
con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con. Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa, Chúa
đã nộp mình vì con. Trước khi con sống và chết cho Chúa, Chúa đã sống và chết
cho con. Trước khi con đặt Chúa lên trên hết, Chúa đã coi con là hạnh phúc
tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy
của con, Chúa luôn đi trước con. Chúa làm trước khi Chúa dạy. Con hiểu rằng mọi
điều Chúa đòi hỏi nơi con đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi. Xin cho
con đón nhận những cắt tỉa của Chúa với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu.
Amen.
6. Luật tối thượng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Không có dân tộc nào say
mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật
cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán,
trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong,
không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng
đâu là luật bình thường. Hôm nay, nhân một thắc mắc rất hợp lý, Chúa Giêsu đã
giải thích cho họ những điểm then chốt trong lề luật. Đó là:
Thiên Chúa là độc nhất vô
song. Đây là một chân lý nhưng nhiều khi bị lãng quên. Thiên Chúa là chủ tể
muôn loài. Ngài là Đấng duy nhất cao cả. Không ai có thể sánh bằng. Ngài dựng
nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống của muôn loài muôn vật. Ngài
là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta
phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
Yêu mến Thiên Chúa trên
hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối.
Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận
ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình
thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại
bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp
tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa
ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại
bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và
phản bội tình yêu của Ngài.
Yêu tha nhân như chính
mình. Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến
Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều
răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha
nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu
Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong
xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần
các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các
ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai
khía cạnh của cùng một giới răn.
Qua lời dạy hôm nay Chúa
muốn cho ta hiểu rằng tình yêu là quan trọng nhất. Tình yêu là giới răn đứng
hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu
toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười điều răn: Mười
điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết
mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy.
Qua lời dạy hôm nay Chúa
muốn cho ta hiểu rằng lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình
yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì
khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ
lề luật. Như lời Chúa mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với
tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi
bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.
Qua lời dạy hôm nay Chúa
muốn giúp ta xây dựng một thế giới mới chan chứa tình người. Thế giới còn chiến
tranh, xã hội còn nhiều bất công vì con người chưa tuân giữ luật Chúa. Nếu mọi
người biết yêu mến Chúa và yêu mến nhau, thế giới sẽ tươi đẹp, cuộc sống sẽ
hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin dạy con
biết yêu mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Yêu mến Chúa trên hết
mọi sự. Bạn có thấy điều này là hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải yêu
mến tha nhân?
3) Bạn hãy tưởng tượng ra
một thế giới trong đó mọi người giữ luật yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Bạn
thấy thế giới đó thế nào?
7. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
Thể hiện tình yêu đối với
Thiên Chúa bằng "lòng yêu thương và phục vụ" tha nhân.
Trong đạo Do-Thái, từ
thập giới, các thầy Ráppi diễn giải thêm thắt luật Môsê thành 613 điều khoản.
Trong đó có 248 điều buộc và 365 điều cấm. Biết cho hết 613 điều luật đó đã là
khó, nên chuyện tìm hiểu xem trong 613 điều đó điều nào quan trọng nhất lại
càng khó khăn hơn.
Nhưng Chúa Giêsu là Đấng
ban lề luật nên Ngài đã nắm luật trong đầu và Ngài là Đấng có thẩm quyền để
tuyên bố điều luật nào trọng nhất.
Khi có người thông luật
đến hỏi về điều răn trọng nhất, Chúa Giêsu trả lời ngay: "Điều răn đứng
đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy
nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh
hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi (Đnl 6,5); Điều răn thứ hai là: Ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Chẳng có điều răn nào khác
lớn hơn các điều răn đó."
Điều răn mến Chúa nằm ở
sách Đệ Nhị Luật, điều răn yêu người ghi ở sách Lê-vi thuộc hai bộ sách khác
nhau đã được Chúa Giêsu liên kết thành một điều răn duy nhất là mến Chúa yêu
người.
Qua lời dạy của mình,
nhiều lần Chúa Giêsu cũng dạy cho biết rằng chính khi yêu người là lúc mến Chúa
và tình yêu đối với Thiên Chúa phải được thể hiện qua tình yêu thương người anh
chị em chung quanh. Những gì ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa.
Khi Sao lê bắt bớ các tín
hữu đầu tiên theo Chúa Giêsu, ông bị Chúa Giêsu quật ngã và nói: "Sao-lê!
Tại sao ngươi bắt bớ Ta?". Lúc ấy, Sao-lê chỉ lùng bắt các tín hữu của Chúa
Giêsu thôi, nhưng Chúa Giêsu không hạch ông tại sao ngươi bắt bớ các tín hữu
của Ta, mà lại nói: "tại sao ngươi bắt bớ Ta" (Cv 9, 4). Các kitô hữu
là tay chân, là thân mình của Chúa Giêsu, vậy bắt bớ họ là bắt bớ Chúa.
Và trong dụ ngôn về ngày
phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu dạy: "Những gì các ngươi đã làm cho các anh
em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta" và "những gì
các ngươi đã không làm cho các anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã không
làm cho chính Ta". (Mt 25, 40.45).
Qua những lời đó, Chúa
Giêsu đòi hỏi chúng ta thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa bằng cách yêu mến
tha nhân. Thiên Chúa đã đồng hoá mình với tha nhân và hai giới răn mến Chúa yêu
người cũng chỉ là một.
Tuy nhiên trong thực tế,
chúng ta vẫn chia cắt Thiên Chúa, như là Đầu, ra khỏi thân mình Ngài, và chỉ
muốn yêu thương và tôn trọng 'đầu' chứ không quan tâm đến 'thân mình Ngài'.
Xin đan cử một ví dụ:
Thuý Liễu tuổi mới lên
mười, là đứa con gái được cưng yêu nhất trong gia đình. Thuý Liễu rất thương mẹ
vì mẹ Thuý Liễu rất hiền, rất thương yêu con cái và nhất là có khuôn mặt đẹp
như tiên. Trước đây, bà là hoa khôi trong toàn vùng.
Thế nhưng kể từ ngày mẹ
Thuý Liễu ngã vào lửa và bị phỏng nặng, sau đó, hai bàn tay bị biến dạng, trở
nên sần sùi, nhăn nheo, đen đủi trông rất gớm ghiếc thì Thuý Liễu không còn
quấn quít với mẹ như trước nữa. Cô bé không dám nhìn vào đôi bàn tay của mẹ,
không để cho mẹ chải đầu cho mình, không để cho mẹ tắm rửa cho mình như hồi mẹ
còn đôi bàn tay búp măng xinh đẹp. Thậm chí Thuý Liễu không trực tiếp trao bất
kỳ vật gì tận tay mẹ nữa. Khi cần trao gì cho mẹ, Thuý Liễu đặt vật đó lên bàn
rồi bảo mẹ đến lấy.
Thuý Liễu ghi lại tâm
trạng mình trong cuốn nhật ký: Mình vẫn yêu mẹ vì mẹ có khuôn mặt rất khả ái,
nhưng mình cảm thấy sợ hãi với đôi bàn tay của mẹ quá. Mình không muốn nhìn,
không muốn đụng chạm đến đôi bàn tay ấy và mong ước đôi tay ấy đừng động đến
mình, trông nó ghê sợ quá!
Thuý Liễu yêu khuôn mặt
nhưng lại ghê tởm đôi bàn tay của mẹ, như thể khuôn mặt và bàn tay thuộc về hai
người khác nhau!
Có lẽ chúng ta cũng vậy,
chúng ta yêu mến Thiên Chúa vì Ngài uy nghi cao cả nhưng chúng ta xa lánh,
không muốn đụng chạm đến những người chung quanh là chi thể của Ngài, là đôi
tay của Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp con
nhớ rằng:
Yêu mến Thiên Chúa thì
phải yêu cả anh chị em chung quanh vì họ là chi thể, là đôi bàn tay của Ngài.
Có như thế mới là mến yêu Thiên Chúa toàn diện.
Đến ngày phán xét, Chúa
chỉ hỏi chúng con có một điều: ngươi có yêu mến chăm sóc những anh chị em bé
nhỏ chung quanh là đôi tay, là thân mình của Ta không?.
8. Một tình yêu duy nhất.
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Không dễ gì tìm được
trong Tin Mừng một luật sĩ đã tìm đến Chúa Giêsu với thành tâm thiện chí như
trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi
rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa
Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho ông
thấy hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa và yêu người
thực ra cũng là điều đã được dạy trong Cựu Ước. Nhưng điều độc đáo ở đây là
Chúa Giêsu liên kết hai giới răn này lại với nhau và cho đây là giới răn trọng
nhất.
Luật sĩ đã tỏ ra đồng ý
với Chúa Giêsu. Chính ông cũng đã lập lại: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết
trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi
lễ vật toàn thiêu và hy lễ”.
Thưa anh chị em,
Mến Chúa và yêu người là
nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và
cái chết của Chúa Giêsu. Ngài đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể
hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người, sống giữa mọi người để
làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin Chúa. Qua những
dụ ngôn, như dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, dụ ngôn “cảnh phán xét cuối cùng”
v.v… Chúa Giêsu đã đi tới chỗ nhập cả hai giới mến Chúa và yêu người thành một
giới răn duy nhất: mến Chúa thì yêu người, yêu người thì mến Chúa. Một tình yêu
người được diễn tả một cách cụ thể, qua việc cho kẻ đói ăn, cho người khát
uống, cho người không có áo mặc, băng bó vết thương tích cho người không quen
biết… Tình yêu thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm
dù là nhỏn mọn, theo giáo huấn của Chúa Giêsu đều hơn cả những nghi lễ, những
lễ vật người ta muốn dâng cho Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài.
Bởi vì Thiên Chuá đã chọn, đã muốn được tôn vinh, được yêu mến nơi con người,
và những con người bé mọn, nghèo hèn, hẩm hiu… được tôn vinh và được yêu mến.
Những cử chỉ của lòng thương người, vẫn theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã thay
thế mọi nghi lễ, lễ vật người ta cử hành và dâng cúng để tỏ lòng yêu mến Chúa.
Yêu Chúa không hệ tại
tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân
giữ này không làm nên tình yêu đích thực, nếu không phát xuất từ tâm tình thâm
sâu bên trong.
Yêu người cũng không phải
là “cho của dư thừa”, cũng không chỉ là “cho cái mình có”, mà là trao thân hiến
mạng cho kẻ khác, là chấp nhận bị tước đoạt, là xác tín rằng nơi con người có
cái gì đó của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, được Ngài cứu chuộc bằng
giá máu của Chúa Giêsu, xứng đáng được phục vụ và yêu thương đến cùng.
Vì vậy, tình yêu Chúa
phải là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người, yêu tha nhân. Tình
yêu phát xuất từ Thiên Chúa như cội nguồn và phải quay trở về Thiên Chúa như là
cùng đích của nó. Hơn nữa, chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha
nhân bền chặt lâu dài. Ngay trong tình yêu vợ chồng, nếu không được nuôi dưỡng
bằng tình yêu mến Chúa, một tình yêu quên mình, tha thứ, hy sinh, phục vụ người
mình yêu, thì tình yêu vợ chồng cũng sớm phai nhạt và có nguy cơ tan rã… chỉ
khi nào chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa bằng cách sống gắn bó với Ngài, chúng
ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân.
Thưa anh chị em,
Giới răn mới mà Chúa
Giêsu để lại cho các môn đệ giúp chúng ta đi vào trong ý định của Thiên Chúa và
góp phần đổi mới cộng đồng nhân loại. Giới răn mới cải thiện mối tương quan
giữa người với người, từ các mối tương quan hạn hẹp giữa hai cá nhân cho đến
các mối tương quan rộng lớn giữa nước này với nước khác, giữa dân này với dân
kia. Bác ái phá đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt trên mọi phân biệt quốc
gia hay tôn giáo, xoá bỏ mọi thành kiến hay những hiềm khích quá khứ. Yêu người
đồng loại đâu chỉ là yêu kẻ gần gũi hay thích hợp với ta, nhưng còn là “bước
tới”, là làm cho mình trở nên gần gũi với tha nhân, dù người ấy có ở xa hay ở
ngoài vòng thân bằng quyến thuộc của mình. Vì thế, người Kitô hữu có thể yêu
thương người mình không chọn. Bác ái thực sự vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi
phải có một sự trao ban không hoàn lại, ngay cả khi làm ơn mà phải mắc oán, làm
phúc và phải mang hoạ vào thân…
Cuối cùng, người Kitô hữu
không yêu bằng lời nói, bằng môi mép, nhưng bằng hành động cụ thể. Thánh Gioan
Tông đồ đã nói: “Nếu ai có của cải đời này, thấy anh em mình lâm cảnh túng
thiếu mà đóng lòng dạ lại với anh em, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa lưu lại
trong người ấy được?” (Ga 3, 17// Gc 14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem
hết tài năng và của cải mà phục vụ người khác. Như Chúa Giêsu đã thí mạng cho
nhân loại, người Kitô hữu cũng phải là những người dấn thân xây dựng công lý và
hoà bình, để hết thảy, dù xa hay gần, đều đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Đối với chúng ta, yêu
thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan còn nói:
“Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng
ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như
thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 3,16;
4,11).
“Đây là lệnh truyền chúng
ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến
anh em mình” (1Ga 4, 20-21).
Nhìn ngắm Chúa Kitô trên
thập giá và nhất là được hiệp thông với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta
cầu xin được thêm lòng yêu mến Cha trên trời và yêu thương anh em đồng loại như
Ngài đã yêu thương chúng ta.
9. Giới răn trọng nhất – Noel Quesson.
Ngày đầu tiên Betty vào
trường nội trú. Cô bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Cô tự hỏi không
biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ loại này. Nhưng đến chiều,
Betty gặp bà hiệu trưởng, cô thấy bà thật hiền hậu, dễ mến, bà có nụ cười đầy
thiện cảm. Cô thấy mến bà, và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chả
có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.
Trong Do Thái giáo có tất
cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi việc cắt
nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín đồ Do
Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi
đạo đạt lên Chúa Giêsu. Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới
răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn,
hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy
yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm
khoản luật vào một câu vắn tắt: mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã
tóm vào một chữ: Yêu.
Đối với Thượng Đế, các
triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn
thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do Thái thì vẫn cần giữ những tâm tình
ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu
Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một Giao Ước tình yêu. Đặc biệt
Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong bầu khí gia
đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và
hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền
tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng
hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.
Còn đối với anh chị em
đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó
không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng do liên hệ tình
yêu với Thiên Chúa. Chúng ta coi Thiên Chúa là cha, và mọi người là anh chị em
ruột thịt.
Chúa Giêsu đã đẩy tình
yêu anh em lên một trình độ tuyệt đỉnh. Phải yêu anh em như yêu Chúa: Ai giúp
đỡ một người thấp hèn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã
yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn
bằng hiến mạng sống vì bạn hữu. Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với
nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Thiên Chúa như một người cha, nhưng tình yêu đó
phải biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu anh em mới chứng tỏ mình
mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình
tuân giữ lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, xin giúp chúng
con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có
thể yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin
giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.
10. Yêu người.
Những ngày cuối cùng cuộc
đời trần thế của Chúa Giêsu ở Giêrusalem, Ngài luôn bị giới lãnh đạo Do Thái
thay phiên nhau chất vấn để gài bẫy Ngài. Họ đã hạch hỏi Chúa lấy quyền gì mà
xua đuổi những người buôn bán ở đền thờ? Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêda
không? Bài Tin Mừng hôm nay lại cho biết: một ông kinh sư hỏi Chúa điều răn nào
đứng đầu? Sở dĩ ông ta hỏi Chúa câu này, là vì luật của Do Thái lúc ấy gồm 613
điều, chia ra 248 điều tích cực buộc phải làm, và 365 điều tiêu cực cấm không
được làm. Nhưng giới lãnh đạo không đồng ý với nhau điều nào đứng đầu, tức là
điều nào quan trọng nhất, mỗi nhóm đặt nặng một điều. Vì thế, ông kinh sư này
muốn hỏi Chúa để biết quan điểm của Chúa ra sao. Chúa đã trả lời ngay bằng cách
trưng ra một điều trong sách Đệ Nhị Luật: “Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh
hồn, hết trí khôn và hết sức”, và một điều nữa trong sách Lêvi: “Phải yêu người
thân cận như chính mình”. Câu trả lời của Chúa hay quá, đúng quá, khiến mọi
người hết sức kinh ngạc, và Tin Mừng cho biết: “Từ lúc ấy không ai dám chất vấn
Chúa thêm điều gì nữa”.
Như vậy, Chúa Giêsu cho
chúng ta biết: điều quan trọng nhất của đạo Chúa là mến Chúa và yêu người. Đây
là hai mặt của một tình yêu, cả hai chỉ là một, bỏ một tức là bỏ cả hai. Nói
khác đi, nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa, thì không chữ
nào thích hợp hơn là chữ “yêu”: yêu Chúa và yêu người.
Yêu Chúa thì chắc chắn
tất cả chúng ta đều có thể quả quyết dễ dàng chúng ta yêu Chúa. Nhưng lấy gì
làm bằng chứng? đó là lòng yêu người, nghĩa là căn cứ vào tình yêu của chúng ta
đối với tha nhân mà người ta biết chúng ta có lòng yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu
đã có lần nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các
con yêu thương nhau”. Vậy chỉ còn một vấn đề chúng ta cần tìm hiểu là chúng ta
phải thực hiện lòng yêu người như thế nào.
Trước hết, chúng ta phải
yêu thương bằng lời nói: yêu ai, người ta ca tụng họ, yêu mọi sự của họ, yêu cả
nết xấu của họ nữa: “Yêu nhau yêu cả đường đi”. Nhưng ghét ai, người ta dùng ba
tấc lưỡi để hành tỏi, nói xấu họ hết lời: “ghét ai ghét cả đường đi lối về”,
“ghét cả tông chi họ hàng”. Cho nên, một thứ thước đo chính xác để biết mình có
yêu thương người khác hay không là mình có nói tốt hay nói hành nói xấu họ.
Người ta nói xấu nhau vì ghét nhau, vì không ưa nhau, vì thù oán nhau. Càng có
nhiều liên hệ với nhau, người ta càng dễ nói hành nhau, mà cũng vậy, không gì
đau khổ hơn và gương mù hơn khi những người thân thuộc nói xấu nhau.
Thể hiện tình yêu thương
bằng lời nói, dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là yêu thương bằng việc
làm. Việc làm đây là sự giúp đỡ bằng tay chân hành động, bằng sức khỏe, bằng
thời giờ, bằng đời sống phục vụ… Đây là một cách thể hiện tình yêu thương rõ
ràng và cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương trong lòng, bằng ước muốn tốt, bằng
thông cảm… thì vô hình không kiểm chứng được; yêu thương bằng lời nói có thể bị
coi là lý thuyết suông, đầu môi chót lưỡi. Nhưng yêu thương bằng sự tận tâm
giúp đỡ, bằng sự chấp nhận những hy sinh phiền toái của phục vụ… thì mới là yêu
thương thực sự và dễ gây được kết quả tốt. Chẳng hạn: khi làm việc, biết nhận
lấy phần trách nhiệm nặng hơn, không dừa cho người khác, sẵn sàng cho vay mượn
khi cần thiết, khi có khả năng, khi có dịp; coi công việc của người khác cũng
là của mình. Có những người chỉ cần chúng ta giúp một quyết định, một an ủi,
một khích lệ, một lời cầu xin, một sự thông cảm, một lòng tôn trọng, một sự tha
thứ… Có biết bao nhiêu dịp và biết bao nhiêu cách chúng ta có thể làm để giúp
ích người khác.
Sau hết, yêu người, yêu
thương nhau là chứng tích cho người ta nhìn nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người
không bao giờ đến nhà thờ để nghe nói đến tình yêu của Thiên Chúa, có nhiều
người không bao giờ được thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, nhưng
người ta xem thấy cách chúng ta yêu thương nhau thật mà họ nhận ra Thiên Chúa
của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương nhau thì không ai đánh giá
sai lầm về đạo của chúng ta.
Vì thế, chúng ta hãy sống
điều răn yêu thương Chúa dạy từ trong gia đình và với những người chung quanh.
Có những người sống yêu thương trong gia đình rất tốt nhưng lại thiếu sót đối
với những người ngoài. Ngược lại, có những người sống lịch sự, vui vẻ, yêu
thương rất tốt đối với những người khác nhưng trong gia đình lại rất thiếu sót.
Hơn nữa, tình yêu thương của chúng ta có phải chỉ là những tình cảm hời hợt.
Ích kỷ, bề ngoài hoặc vụ lợi không? Tình yêu thương thật là biết dùng những lời
nói tốt để an ủi nhau, giúp ý kiến xây dựng cho nhau, nhất là sẵn sàng giúp đỡ
nhau, nâng đỡ nhau, và yêu người là trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng yêu Chúa
của chúng ta.
11. Mến Chúa yêu người.
Đạo của Chúa là đạo tình
yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân
loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh
con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều
là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.
Mến Chúa và yêu người tuy
không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa
mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không
thực. Hai điều răn này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất
và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng
không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng:
nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi
đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu
không làm hại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong
các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng
mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Kitô. Ngài chết vì mến Chúa
Cha và yêu thương chúng ta.
Kính nhớ Chúa Giêsu chịu
chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của
Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành
Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: tạ ơn Đức Kitô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha.
Nhìn ngắm Đức Kitô và nhất là được hiệp thông với Ngài, chúng ta xin được thêm
mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.
Như vậy, lời Chúa hôm nay
nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha
trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu
thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của
mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt
đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn
vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha,
sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả
qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ
thái độ nào, người Kitô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến.
Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây
phải là ưu tư hàng đầu của người Kitô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc
sống.
Có nhiều người tưởng rằng
yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những
con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta
khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng
yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài.
Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi
chuyện. Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là
việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là
tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là
không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu
một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.
Cái hợp lý theo suy luận
của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần
ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với
Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi
cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài:
cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì
đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.
Tóm lại, đừng nhân danh
Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt
Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con
người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn
hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận lời Chúa,
Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta
dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa
được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin
vào Ngài.
12. Hai giới răn.
Một trong các công việc
thiêng liêng nhất mà một người Hồi giáo có thể làm là thực hiện việc đi đến
Méc-ca, nơi sinh của Môhamét. Đó là một trong năm điều căn bản nhất của đạo
Hồi.
Ngày xưa có ông vua mèo
thực hiện một cuộc hành hương đến Méc-ca. Khi ông vua mèo trở về, ông vua chuột
thấy mình có bổn phận phải đến chúc mừng vua mèo. Nhưng khi những con chuột
khác nghe được điều ấy, chúng lo sợ cho sự an toàn của nhà vua. “Mèo là kẻ thù
của chúng ta, nhà vua không thể tin hắn được”. Chúng nói.
“Ồ, giờ đây ông ấy đã đi
hành hương Méc-ca, ta hy vọng nhìn thấy một sự thay đổi lớn lao nơi ông ta. Ta
nghe nói ông ta đã cầu nguyện năm lần mỗi ngày”, vua chuột đáp lại.
Thế là vua chuột ra đi.
Khi đến vương quốc của mèo, vua chuột nhìn thấy đối thủ của mình từ xa và những
gì vua chuột nhìn thấy thật ấn tượng. Vẫn còn mặc bộ y phục hành hương, vua mèo
đang đắm chìm trong kinh nguyện. Tuy nhiên khi vua chuột vừa mới đến gần hơn,
vua mèo đã nhảy đến để vồ chụp con mồi. May mắn là vua chuột đã nhanh chân trốn
thoát xuống một cái lỗ. Sau đó nó gặp lại những con chuột khác.
“Nhà vua du hành thế
nào”? Đám bề tôi chuột nóng lòng hỏi. “Có thật là kể từ lúc ông ta đi hành
hương Méc-ca về, ông ta là một con mèo đã thay đổi?”
“Tôi e rằng anh em đã nói
đúng”, vua chuột đáp. “Mặc dầu hắn cầu nguyện như một người đi hành hương, hắn
vẫn cứ vồ chúng ta như bất cứ con mèo nào”.
Tách rời hai giới răn cao
trọng thì dễ dàng biết bao và nghĩ rằng chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa mà
không yêu thương người lân cận.
Hai giới răn ấy có quan
hệ qua lại với nhau một cách thiết yếu. Lòng yêu thương chân thành người lân
cận trào ra từ lòng yêu mến Thiên Chúa; mặt khác, không thể có lòng yêu mến
Thiên Chúa chân thành nếu lòng yêu mến này không được thể hiện bằng lòng yêu
thương người lân cận. Điều này còn tốt hơn việc dâng của tế lễ. Người ta dễ
dàng lấy nghi thức thế chỗ cho tình yêu thương. Và rồi người ta đi đến một thứ
tôn giáo không có tình yêu thương.
Tội lớn nhất của chúng ta
không phải là chúng ta không yêu thương người lân cận mà là chúng ta không thèm
biết đến họ. Như thế, làm sao có thể là người lân cận của họ theo ý nghĩa của
Tin Mừng? Điều tệ nhất là sự lãnh đạm, thờ ơ.
Kinh Thánh nói chúng ta
phải yêu thương người lân cận và cũng phải yêu cả kẻ thù của mình. Theo G.K.
Chesterton, lý do của điều này có lẽ là một cách tổng quát, họ cùng là một dân
tộc. Và có một lý do nhân bản của điều đó. Chúng ta nghĩ về một người xa lạ
trên con đường thẳng: thế thì chúng ta nghĩ về người ấy như một con người.
Nhưng chúng ta không nghĩ về người ấy giống như người lân cận ở kế bên nhà
chúng ta. Người ấy không là một con người mà chỉ là một môi trường: một tiếng
chó sủa, hoặc tiếng mũi khoan hay tiếng dương cầm.
Nhiều người gặp các vấn
đề khó khăn do một người đặc biệt gây ra. Người này có thể là một người láng
giềng hoặc là một thành viên trong gia đình. Chúng ta có thể làm gì? Chúng ta
nên tránh hành động kiểu ăn miếng trả miếng. Làm như thế chỉ làm cho tình tình
xấu thêm. Chúng ta phải cố gắng duy trì sự liên lạc với người ấy, dù rằng chỉ
là vấn đề nói một tiếng chào buổi sáng hoặc buổi tối. Và rồi chúng ta phải cầu
nguyện cho người ấy. Nếu chúng ta có thể cầu nguyện cho một người một cách chân
thành thì điều này giữ cho tâm hồn chúng ta khỏi chất chứa những điều đắng cay
và thù hận.
Nơi nào không có yêu
thương, chúng ta hãy gieo trồng yêu thương và sẽ gặt được yêu thương.
Nơi nào không có yêu
thương, chúng ta hãy đem đến yêu thương và sẽ tìm thấy yêu thương.
Tôi tìm Thiên Chúa và đã
không thấy Người.
Tôi tìm linh hồn tôi và
nó tránh né tôi.
Tôi tìm người lân cận và
đã tìm thấy cả ba.
13. Thiếu sót.
Thiếu sót tình yêu thương
là thiếu sót lớn của Kitô hữu. Khổ nỗi, ít khi nó được xem như một tội. Người
ta thừa nhận là có tội khi nó gây thiệt hại cho người lân cận nhưng không coi
là tội khi thiếu sót hoặc từ khước yêu thương.
Người ta kể lại một câu
chuyện về người bán chiếc xe “dỏm” cho một người nước ngoài, rồi đi xưng tội.
Sau đó, người ấy gặp một người bạn cũ trong quán rượu. Khi người bạn này nghe
nói ông ta đã đi xưng tội, liền nói “Tôi hy vọng anh đã kể lại cho linh mục
nghe anh lừa gạt người mua xe như thế nào”.
“Đời nào tôi làm thế”,
ông ta trả lời. “Tôi xưng ra các tội của tôi cho linh mục. Nhưng linh mục không
có quyền biết công việc kinh doanh của tôi”.
Nguy hiểm lớn đe dọa
người-đi-nhà-thờ là họ không biết mối liên quan giữa việc họ làm trong nhà thờ
ngày Chúa nhật với việc làm trong quan hệ với người lân cận vào những ngày khác
trong tuần.
Người ta có thể xem xét
lương tâm mình nhưng không đụng gì đến toàn cảnh: Người có lương tâm làm tròn
bổn phận của mình, lương thiện trong công việc làm ăn, công bằng, tôn trọng và
hợp tác với những người sống cùng một mái nhà v.v… Với những người như thế, tôn
giáo tách rời khỏi đời sống và trở thành một vấn đề riêng tư giữa họ và Thiên
Chúa. Theo Kinh Thánh, một tôn giáo như thế giống là sự bóp méo, xuyên tạc. Tệ
hơn nữa là một điều đáng ghét.
Phân ly hai giới răn lớn
ấy là việc rất dễ dàng. Trong một ý nghĩa nào đó, chỉ có một giới răn duy nhất
– giới răn của tình yêu. Nó giống như một đồng tiền, một thực thể có hai mặt.
Không thể có mặt này mà không có mặt kia, không phải chúng ta ghét những người
lân cận của chúng ta. Không, chúng ta không ghét những người lân cận. Nhưng chỉ
vì chúng ta khước từ đưa họ vào trái tim chúng ta. Nếu sự thật được nói ra,
chúng ta lãnh đạm và thờ ơ với họ.
Mọi người trong chúng ta
có khả năng yêu thương to lớn, nhưng khổ nỗi, hiếm khi chúng ta sử dụng hết.
Diễn viên Christopher Reeve, nổi tiếng về hình tượng siêu nhân mà ông thể hiện
trong phim ảnh. Tuy nhiên, trong một tai nạn té ngựa, ông bị liệt từ cổ trở
xuống và phải ngồi xe lăn. Ông nói ông đã nhận được 100.000 lá thư bày tỏ thiện
cảm và sự ủng hộ của quần chúng. Điều này dẫn ông đến chỗ hỏi rằng: “Tại sao
cần phải có một bi kịch trước khi chúng ta bày tỏ sự cảm kích của chúng ta đối
với một người khác?”
Chúng ta bày tỏ điều đó
quá chậm và đầy sự hối tiếc. Chúng ta chờ cho đến khi quá muộn để nói và tỏ cho
người khác thấy rằng chúng ta yêu họ. Chúng ta bày tỏ quá muộn ý muốn sửa chữa
một mối bất hòa, quá chậm nỗi vui mừng về sức khỏe và quà tặng của con cái hoặc
cha mẹ chúng ta.
Đức Giêsu nói với người
Kinh sư: “Ông không còn xa nước Thiên Chúa đâu!” Biết rõ về hai giới răn quan
trọng nhất là bước đầu tiên. Đem chúng ta thực hành là bước thứ hai. Chúng ta
không còn xa nước Thiên Chúa là bao – Chỉ cần thêm một bước nữa. Để thực hiện
được bước này, chúng ta cần Thiên Chúa chạm tay Người vào tâm hồn chúng ta.
14. Cầu thang.
Chúng ta sống trong một
thời đại nó khuyến khích lòng ích kỷ. Trong các cuộc bầu cử các ứng viên vào cơ
quan công quyền thường gợi ý cho những người có quyền bỏ phiếu: “Ngày hôm nay,
tôi có khá hơn bốn năm trước đây không?” Điều đánh vào ích kỷ cá nhân này thành
công nhiều hơn khi hỏi các người có quyền bỏ phiếu: “Có phải xã hội hôm nay tốt
hơn trước kia không?”
Trong Kinh Thánh, chúng
ta thấy Thiên Chúa quan tâm sâu sắc về cách đối xử của chúng ta với nhau. Ơn
gọi của chúng ta là yêu thương. Và, bất chấp mọi việc, chúng ta được tác động
bởi lòng vị tha. Chúng ta đau nỗi đau của người khác. Chúng ta cảm thấy mình
được triển nở khi làm điều tốt lành, hơn cả khi tạo ra nhiều vật chất và tiền
bạc. Tính quảng đại đem lại phần thưởng của chính nó. Niềm vui tuôn trào từ bên
trong chúng ta khi chúng ta làm một việc tốt lành vì người khác. Nhưng khi
chúng ta từ chối làm một việc tốt lành cho người khác, thì một nỗi buồn xa lạ
chụp xuống chúng ta.
Maimonides là một vị thầy
Do thái nổi tiếng sống ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười hai. Ông nhấn mạnh tám
cấp độ, hay tám bước trong cái gọi là cầu thang của bác ái.
1. Cấp độ thứ nhất và
thấp nhất là bố thí, nhưng với sự miễn cưỡng và hối tiếc. Đó là sự bố thí của
bàn tay mà không phải là sự bố thí của tấm lòng.
2. Cấp độ thứ hai là sẵn
lòng bố thí, nhưng không tương xứng với cảnh khốn cùng của nạn nhân.
3. Cấp độ thứ ba là sẵn
lòng bố thí và tương xứng với nhu cầu, nhưng không đến mức mà chúng ta được yêu
cầu.
4. Cấp độ thứ tư là sẵn
lòng bố thí, cả khi không được yêu cầu, nhưng đặt nó vào tay của người nghèo,
bằng cách ấy gợi ra trong lòng người ấy một cảm xúc đau đớn và hổ thẹn.
5. Cấp độ thứ năm là bố
thí cách nào cho người nghèo khổ nhận của bố thí mà không biết đến người cho và
người cho cũng không biết họ.
6. Cấp độ thứ sáu là biết
người nhận của bố thí của chúng ta trong lúc không để cho họ biết chúng ta.
7. Cấp độ thứ bảy là cho
của bố thí cách nào để người cho không biết người nhận, hoặc người nhận không
biết người cho.
8. Cấp độ thứ tám và là
cách đáng khen nhất. Đó là thực hiện trước việc bác ái bằng cách ngăn ngừa sự
nghèo khổ. Điều này được thực hiện bằng cách cho một món quà hoặc cho vay một
món tiền để người nghèo có khả năng tự lập, hoặc bằng cách dạy cho họ buôn bán
hoặc dẫn dắt họ vào con đường kinh doanh, để họ có thể kiếm sống một cách lương
thiện, và không bị bắt buộc phải dùng giải pháp đáng buồn là ngửa tay xin bố
thí.
“Một trong những điều tốt
nhất có thể xảy ra cho một người là làm điều tốt mà không ai biết và chỉ bị
phát hiện bởi sự tình cờ”. (Mark Twain)
15. Chú giải của Noel Quesson.
Thấy Đức Giêsu đối đáp
hay, ông đến gần Người và hỏi.
Đức Giêsu bị chất vấn.
Người được người ta hỏi han ngoài đường. Tôi có biết hỏi Đức Giêsu để xin Người
cho ý kiến về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống của tôi không?
Đoạn Tin Mừng Chúa nhật
vừa qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã ở lại thành Giêrikhô với người mù dễ
thương, tên Bác-ti-mê. Sau đó, Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem một cách vẻ
vang (Mc 11,1-11). Hôm sau, theo Máccô kể lại Đức Giêsu vào Đền Thánh để đuổi
những kẻ đã làm mất vai trò của Đền thánh là cầu nguyện "cho các quốc gia"
(Mc 11,12-19). Hôm sau nữa,” Đức Giêsu trở lại Giêrusalem và trong dụ ngôn
"cây vả bị khô héo”, Người đã nói "Con Người" đến tìm quả nhưng
không thấy; Đền Thánh cũng như cây vả, sẽ bị tàn phá (Mc 11,20-25). Chúng ta
đang chứng kiến những tuần cuối cùng của Đức Giêsu. Sự đối đầu giữa Người và
chính quyền đã lên đến tột đỉnh. Theo Máccô, thì chính trong Đền thánh
Giêrusalem giữa quảng đại quần chúng, trên chiếc sân rộng rãi linh thiêng làm
thành một quảng trường có những hàng cột vây quanh, nơi những đám đông thường tụ
họp, Đức Giêsu đã tranh luận, "bị tấn công”, "phản công". Những
cuộc tranh cãi dữ dội xảy ra. Giọng nói giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo bị
khích động mỗi lúc càng lên cao.
Những đề tài nóng bỏng
nhất được đề cập:
“Do quyền lực nào mà ông
thi hành những việc ông đang làm" (Mc 11,27-33).
"Chủ vườn nho sẽ làm
gì khi người làm vườn nho không xứng đáng với vai trò của mình" (Mc
12,1-12).
- Có phải đóng thuế cho
quân đội đang chiếm đóng hay không? (Mc 12,13-17).
- "Số phận của những
người chết bên kia thế giới như thế nào?" (Mc 12,18-27).
Chính trong bối cảnh này
mà một kinh sư thuộc nhóm Pharisêu, vì đã thấy giá trị câu trả lời của Đức
Giêsu về sự sống lại của những người chết (nhóm Xa-đốc, những kẻ đối nghịch với
Đức Giêsu, vừa nhận được một bài học đích đáng!) tiến lại gần Đức Giêsu và tiếp
tục hỏi Người.
Chúng ta có khuynh hướng
"đóng khung" đời sống tôn giáo của mình trong vòng "riêng
tư" trong việc "thờ phụng" không? Hay như Đức Giêsu, chúng ta có
chấp nhận để đời sống tôn giáo của mình soi sáng mọi vấn đề của cuộc sống, phố
xá, nghề nghiệp chính trị?
Điều răn nào đứng hàng
đầu?
Ham mê tha thiết của
Israel là luật, bộ Thorab. Trong những "trường dạy Đức tin" gọi là
Yéshivot người ta thấy trẻ con, thanh niên, người lớn và cả người già đã dành
nhiều giờ để "nghiên cứu học hỏi". Kinh thánh, và những lời chú giải
trong sách Talmud. Những kinh sư thời Đức Giêsu, ngày nay tự gọi là các giáo
trưởng Do Thái, là những chuyên gia về môn này và người ta thường đến hỏi họ về
cách giải nghĩa một điều luật, xin một lời khuyên tinh thần, một luật sống rút
ra từ lời Chúa, gọi là Thorah. Vì trong những trường Yềshivot, người ta thảo
luận, người ta "chia sẻ” như ngày nay chúng ta thường nói vậy: Mỗi ngày
Sa-bát là một ngày dài cầu nguyện, học hỏi theo nhóm, trong đó người ta cùng
nhau say mê tìm hiểu một cách hiểu sâu sắc nhất những “giới răn" của Thiên
Chúa, để có thể trung thành tuân giữ các giới răn đó một cách tỉ mỉ hơn. Sống
trong môi trường văn hóa của dân tộc mình, Đức Giêsu cũng có niềm ham mê đó đối
với Luật. Người đã thuộc lòng Luật. Người đã đọc đi đọc lại Luật cùng với những
người khác, từ thuở còn nhỏ. Người đã thảo luận nhiều về Luật. Chúng ta có khao
khát đọc Kinh thánh không? Trong một tuần, chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ
để "nghiên cứu” một cách nghiêm chỉnh, và cầu nguyện với Lời Chúa? Chúng
ta có thảo luận về Lời Chúa Với những người khác, đẽ soi sáng lẫn nhau không?
Câu hỏi mà vị kinh sư đặt
ra, là một câu hỏi cổ điển trong trường Yéshivot. Người ta đã trích ra được 613
điều răn của Chúa từ trong Kinh thánh: 365 điều cấm đoán và 248 điều răn tích
cực. Chúng ta đừng cười? Sự trung thành tuân giữ và những chi tiết nhỏ nhất, đó
là một bằng chứng của tình yêu. Ai yêu mến sẽ hiểu biết. Những người Do Thái
cũng đủ thông minh để nhận thức về tầm quan trọng tương đối của những lời răn
khác nhau này. Họ đã tìm thấy trong Kinh thánh những yếu tố để đáp ứng. Đối với
vua Đa-vít sách luật Thorah tóm lại 11 qui định chính yếu (Tv 15). Đối với ngôn
sứ Isaia là 6 (Is 33,15). Và đối với Kha-ba-cúc là một (Kb 2,4) Rabbi Hillel
thì tóm lại tất cả bộ luật trong một câu châm ngôn duy nhất: "Những gì
ngươi không thích, chớ làm cho đồng loại của ngươi" Rabbi Akiba hầu như
cùng thời với Đức Giêsu, cũng tập trung điều cốt yếu của Luật vào tình yêu
thương đồng loại.
Còn Ngài, hỡi Rabbi
Giêsu, Ngài nghĩ sao Điều răn trọng nhất là điều răn nào?
Đức Giêsu trả lời:
"Điều răn đứng hàng đầu là: nghe đây, hỡi Israel. Đức Chúa, Chúa chúng ta,
là Đức Chúa duy nhất".
"Phải phụng sự Chúa
trước hết". Đối với Đức Giêsu, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa, còn tôi?
Tôi dành ưu tiên cho ai? Tôi có đặt Thiên Chúa trên hết trong đời tôi không?
Phúc thay những kẻ biết
lắng nghe Lời Hằng Sống!
“Hỡi Ít-ra-en hãy lắng
nghe" Đó là một nguồn sống thiêng liêng của Đức Giêsu. Người sống đúng như
dân tộc mình, một dân khát khao Lời Chúa, biết "lắng nghe", và để cho
Thiên Chúa giáo huấn.
Điều Chúa trích dẫn trên
đây là kinh "Shema" Israel (Đnl 6,4-5).
Đó là kinh cầu nguyện
hàng ngày của mọi người Do Thái sùng đạo.
Khẳng định chính yếu của
đức tin Do Thái là độc thân từ lâu đã trở nên di sản chung của Ít-ra-en, của
các Kitô hữu, của người Hồi giáo.
Rất tiếc là những dịch
giả Pháp đã không trung thành với bản văn Hy Lạp của Maccô, và với bản văn Do
Thái. Maccô đã không nói: "Thiên Chúa là Chúa duy nhất". Ong nói thật
đơn giản nhưng rất mạnh: "Thiên Chúa là một". Những sách kinh thánh
Do Thái thì dịch: "Đấng hằng hữu là một” Sắc thái khác biệt nhau. Chữ
"một" có một nghĩa đầy đủ hơn là chữ "duy nhất". Các bạn có
cảm thấy sự khác biệt không? Không có gì khác hơn là Thiên Chúa! Tất cả những
gì khác chỉ hiện hữu nhờ Người. Người hoàn toàn "hợp nhất". Người sở
hữu chính bản thể của Người, trong khi bản thể chúng ta luôn "lưu
chảy", làm tan biến chúng ta. Đấng vĩnh hằng là một? Đó là câu trả lời đầu
tiên của Đức Giêsu, khi người ta hỏi Người xem điều gì là quan trọng nhất đối
với Người. Qua lời nói trên miệng Người, ta thấy Luật cũ đang có một sức sống
mới.
Người phải yêu mến Đức
Chúa. Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, hết sức lực Người?
Thiên Chúa thật vĩ đại!
Không phải bỗng nhiên mà chúng ta lại nghĩ đến việc kính yêu Thiên Chúa. Thiên
Chúa trong triết học và trong các tôn giáo khác, đòi hỏi thái độ tôn thờ, kính
sợ Thánh Thiêng, vâng phục nhiều hơn. Còn đối với Israel cũng như đối với Chúa
Giêsu, điều mà Thiên Chúa chờ đợi ở chúng ta, đó là tình yêu. Đặc điểm của
Thánh kinh, đó là làm cho con người trở nên kẻ chung phần yêu thương trong giao
ước tình yêu. Chính Thiên Chúa đã cho con người khả năng đó bằng cách tạo con
người. "Giống như Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Tôi có yêu Thiên Chúa
không? Không nên vội trả lời là có Chúng ta hãy khiêm tốn khi xét đoán kẻ khác.
Bạn làm gì cho “Đấng mà bạn yêu mến", nếu không phải là yêu mến Người? Có
thật là bạn thương yêu Thiên Chúa "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và
hết sức" không? Sự lặp đi lặp lại trên đây rõ ràng là muốn diễn tả trọn
vền cường độ tình yêu đòi phải huy động và đầu tư tất cả khả năng và sinh lợi
của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho tình
yêu Chúa thiêu đốt con toàn diện từ đầu đến chân, từ tinh thần đến thân xác, từ
sáng đến tối, từ lúc trẻ đến lúc già, từ đời sống thầm kín nhất của con đến
những trách vụ tập thể bên ngoài.
Điều răn thứ hai là...
Vâng, ở đây chúng ta biết
rõ Đức Giêsu hơn, kinh sư chỉ hỏi có một điều răn. Không còn đợi người này hỏi
thêm. Đức Giêsu, theo thói quen của Người, đã đi xa hơn. Chúng ta chớ quên
nhtlng gì vừa nghe Người nói. Điều người sắp nói đây cũng rất quan trọng, những
đứng ở vị trí thứ nhì: Thiên Chúa phải là trước hết.
Ngươi phải thương yêu
người thân cận như chính mình.
Cần phải phân biệt rõ hai
điều răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai điều răn này làm
một, như thế "yêu Thiên Chúa" là đủ, hay "thương yêu anh
em" cũng đủ. Điều răn thứ hai không thể thay cho điều răn thứ nhất được.
Nếu, ta tục hóa điều răn thứ nhất, thì chúng ta nhạo báng Đức Giêsu, biến Chúa
thành một nhà giảng thuyết xã hội, một luân lý gia về tình huynh đệ. Đã có rất
nhiều vĩ nhân nói về vấn đề này rồi!
Chẳng có điều răn nào
khác quan trọng hơn các điều răn đó.
Đây là một tư tưởng rất
tinh tế. Chúng ta hãy để ý chữ "điều răn" trước dùng ở số ít, như là
chỉ có một? Nhưng chữ sau ở số nhiều, vì có hai điều và quan trọng như nhau.
Ông kinh sư nói với Đức
Giêsu: Thưa Thầy, phải lắm, Thầy nói rất đúng, Thiên Chúa là Đấng duy nhất,
ngoài Người ta không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí
khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, thì hơn là dâng mọi lễ
vật toàn thiêu và hy lễ. Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì
bảo: ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.
“Nước Thiên Chúa" đã
được chuẩn bị từ lâu qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong nền văn hóa và trong
sinh hoạt đạo đức của dân Israel, giờ đây đã đến, đó là chính Đức Giêsu.
Người kinh sư Do Thái này
sẽ thực hiện một bước cuối cùng chăng. "Trong vài ngày nữa, Đức Giêsu chỉ
cần thêm hai chữ "như Ta" để cho các điều răn yêu thương có tầm cỡ
vương quốc cũ và mới: "Hãy thương yêu như Ta đã yêu thương (Ga. 15,12).
Trong lòng Đức Giêsu, luôn chứa chan tình yêu: tình yêu thứ hai là do tình yêu
thứ nhất mà ra!
16. Yêu thương bằng việc làm.
(Trích trong ‘Đối thoại
với Thiên Chúa’ – Fernandez)
1. Giới răn trọng nhất.
Các bài đọc trong thánh
lễ hôm nay cho chúng ta thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân ước, cũng như sự hoàn
hảo trong Mặc Khải của Thiên Chúa. Trong bài đọc một, chúng ta được nghe giới
răn thứ nhất được tuyên đọc bằng những lời rõ ràng: Nghe đây, hỡi Israel, Đức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi. Câu Thánh Kinh
này rất quen thuộc với tất cả những người Do Thái. Họ lặp lại giới răn này hai
lần mỗi ngày, trong giờ kinh Sáng và kinh Tối của họ.
Trong bài Phúc âm, chúng
ta được nghe về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với một vị kinh sư. Ông này đã lắng
nghe cuộc đối thoại giữa Chúa và những người Sa-đốc. Vị kinh sư có một ấn tượng
về cách Chúa trả lời những vấn nạn. Và ông đã hỏi Chúa về giáo huấn của Người:
Thưa Thầy, giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu dừng lại một chút
trước câu hỏi thành tâm này, mặc dù Người thường nghiêm nghị với những kinh sư
và những người Biệt Phái. Vào cuội cuộc trao đổi, Chúa đã nói những lời đầy
khích lệ với vị kinh sư: Ông không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu. Chúa Giêsu
luôn sẵn lòng dành thời giờ cho những linh hồn quan tâm đến Người. Chúa đã nhắc
lại những lời trong Thánh Kinh: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi,
hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi...
Đây chính là giới răn
trọng nhất trong mọi giới răn, là giới luật tóm kết và cao điểm của mọi giới
luật. Nhưng ý nghĩa của tình yêu này hệ tại ở điều gì? Trong một bức thư tưởng
tượng viết cho thánh Phanxicô Salê, Đức Hồng Y Luciani - tức là Đức Gioan
Phaolô I sau này - đã đưa ra câu định nghĩa như sau: Theo ngài, người yêu mến
Chúa phải lên con tàu của Chúa, quyết tâm theo con đường các giới luật của
Chúa, dưới sự hướng dẫn của các vị đại diện của Chúa, và trong những tình huống
và hoàn cảnh cuộc sống Chúa đã cho xảy đến. Ngài đã tưởng tượng ra cuộc phỏng
vấn hoàng hậu Marguerite, khi bà sắp sửa lên đường gia nhập đạo quân Thánh Giá
cùng chồng là vua thánh Louis IX của nước Pháp: ‘Thưa quí bà, quí bà định đi
đâu?' Đức vua đi đâu, tôi đi đó'. 'Nhưng quí bà đâu có biết đích xác đức vua đi
đâu không?' 'Đức vua đã cho tôi biết tổng quát. Tôi không quan tâm đến việc
biết đích xác nơi đức vua sẽ đến, tôi chỉ quan tâm đến việc được cùng đi với
đức vua'... Đức vua là Thiên Chúa, và chúng ta tất cả là những hoàng hậu
Marguerites nếu chúng ta thực tâm yêu mến Người...
Sống với Thiên Chúa,
chúng ta cảm nghiệm như một con trẻ trên tay mẹ hiền; dù Người ẵm chúng ta bên
tay phải hoặc bên tay trái: chúng ta hãy để tùy ý Người. Chỉ có một điều can
hệ: đó là được sống bên Chúa Giêsu. Dù ở đâu, dù chúng ta chịu đau khổ nào, dù
thành công hay thất bại - tất cả phải được chúng ta đón nhận. Hoàn cảnh dù thế
nào cũng phải giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa hơn. Chúng ta hãy sống theo lời
khuyên của thánh nữ Têrêsa: Đừng để sự gì làm bạn xao xuyến; Đừng để điều gì
làm bạn kinh hãi; Mọi sự đều qua đi; Thiên Chúa không bao giờ đổi thay. Sự nhẫn
nại đạt được: Tất cả những gì nó gắng đạt đến. Ai có Thiên Chúa sẽ thấy mình
không thiếu thốn gì; Một mình Chúa là đủ cho ta.
2. Đáp lại tình yêu Chúa.
Hôm nay, chúng ta cầu
nguyện trong phần đáp ca:
Con yêu mến Chúa, lạy
Giavê, sức mạnh của con.
Chúa là đá tảng, là đồn
lũy, là đấng giải thoát con. Lạy Chúa Trời con, Người là thuẫn đỡ, là uy tế độ,
là đồn trú của con.
Thánh Vịnh 17 có thể được
coi là kinh Te Deum vua Đavít đã thân thưa với Chúa. Vua muốn cám tạ Thiên Chúa
về tất cả những sự trợ giúp đã nhận được trong cả cuộc đời Chúa đã giải thoát
vua khỏi mọi địch thù. Người đã ban cho vua được chiến thắng các dân ngoại. Sau
cuộc khởi loạn của Absalom, Chúa đã trả lại thành Jerusalem cho vua. Lúc nào,
vua cũng nhận được sự trợ giúp của Chúa. Vì vậy, vua đã dâng lên Chúa lời cám
tạ và tình mến: Lạy Chúa, sức mạnh của con, con yêu mến Chúa. Chúa luôn luôn là
đồng minh của vua Đavít, là thành lũy, là nơi nương ẩn, và là khiên thuẫn chở
che cho vua... Chúa luôn luôn bảo trợ cho vua: Người giải thoát tôi, bởi vì
Người hài lòng với tôi. Mỗi người chúng ta cũng có thể lặp lại những lời như
thế. Nhân tố quyết định cho cuộc đời chúng ta chính là việc Thiên Chúa yêu
thương chúng ta. Thực tại này phải làm cho lòng chúng ta ngập tràn niềm an ủi
và hy vọng: Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này:
Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta
được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ
đền tội cho chúng ta. Mầu nhiệm Nhập Thể là biểu hiện tối cao của tình yêu
Thiên Chúa dành cho mỗi người. Tình yêu này còn có trước thời điểm Nhập Thể, vì
phát sinh từ bản tính Thiên Chúa: Ta đã yêu thương các người bằng một tình yêu
muôn thuở. Tình yêu này đã có trước khi tạo thành trời đất. Thánh Thomas dạy
rằng tình yêu này là nguồn mạch mọi ân sủng của chúng ta.
Nhưng điều còn kinh ngạc
hơn nữa là tình yêu Thiên Chúa đã được trào đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh
Thần, đấng đã được ban tặng cho chúng ta. Thánh Augustine đã viết: Chúng ta đã
được yêu thương ngay cả khi chúng ta vô tâm nhất. Thiên Chúa đã muốn ban cho
chúng ta một điều gì đó để chúng ta ca ngợi Người. Thánh nhân còn nói: Hãy nghe
đây! Hãy nghĩ về cách bạn đã được yêu thương khi bạn không đáng được thương
yêu. Hãy lắng nghe, bạn đã được thương yêu như thế nào khi bạn vụng về và xấu
xa, khi bạn chẳng có gì đáng được yêu thương. Bởi vì bạn đã được thương yêu
trước, bạn đã được tạo dựng để được yêu thương.
Chúng ta lẽ nào lại không
đáp trả một tình yêu như thế hay sao? Thiên Chúa mời gọi chúng ta yêu mến Người
bằng việc làm và bằng những cảm tình của con tim. Mỗi ngày, chúng ta hãy tìm
hiểu thêm về nhân tính thánh thiện của Chúa Giêsu, đó là con đường tốt nhất để
đến cùng Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha hằng yêu thương Chúa Con. Người cũng yêu
thương chúng la: Cha đã yêu chúng như Cha đã yêu Con. Người càng yêu thương
chúng ta hơn nữa khi chúng ta yêu mến Con của Người: Ai yêu mến Ta, Cha Ta sẽ
yêu mến kẻ ấy.
Tình yêu phải được thể
hiện bằng việc làm. Tình yêu được thể hiện trong sự tín thác như con trẻ đến
cùng người cha khi gặp sự khó. Đây là việc của mỗi ngày. Chúng ta hãy có một
tinh thần tri ân vui tươi về bao phúc lành đã được lãnh nhận. Chúng ta hãy tín
trung như những người con thảo hiếu đối với Thiên Chúa, trong những nơi Người
đã đặt định cho chúng ta. Trong lâu đài của Thiên Chúa, chúng ta hãy chấp nhận
bất kỳ vị trí nào: người nấu nướng hoặc người rửa bát, người phục vụ, người làm
bánh, người giữ ngựa. Nếu đức vua muốn gọi chúng ta vào số quần thần ưu tú,
chúng ta hãy sẵn sàng mà không xao xuyến, chúng ta biết sự ban thưởng không tùy
thuộc vào địa vị, nhưng vào sự tín trung với nhiệm vụ được giao phó. Thiên Chúa
muốn chúng ta được hạnh phúc với địa vị của chúng ta. Bao nhiêu lần lẽ ra chúng
ta phải thưa với Người: Lạy Chúa, con yêu mến Chúa..., nhưng xin dạy con biết
yêu hơn nữa, yêu thật nồng nàn!
3. Tình yêu thể hiện bằng
việc làm.
Một nhà viết tiểu sử
thánh nữ Têrêxa Avila đã mô tả tình mến tinh tế từ những ngày đầu của đan viện
thánh Giuse: Khi thiếu thốn tiền bạc, các nữ tu sẵn lòng dùng bánh khô, nhưng
họ chẳng bao giờ thiếu nến sáp để thắp sáng bàn thờ và những đồ phụng tự đều là
thứ tuyệt hảo hết sức có thể. Một linh mục lấy làm khó chịu: 'Cái gì! Một chiếc
khăn để lau tay trước khi dâng lễ mà cũng phải tẩm thuốc thơm à?' Với dung mạo
tốt lành rạng ngời lửa mến, mẹ Têrêxa đã nhận phần trách nhiệm: 'Chính vì tôi
mà các chị em đã mắc sự bất toàn này. Nhưng khi tôi nhớ rằng Chúa đã quở trách
bọn Biệt Phái vì không tiếp rước Người xứng đáng, thì tôi lại ước ao mọi sự trong
thánh đường này, bắt đầu từ ngưỡng cửa, đều được tẩm dầu thơm...' Chúa rất coi
trọng những biểu hiện tình yêu chân thành như thế.
Chúng ta hãy tỏ lòng mến
Chúa bằng cách trung thành giữ trọn những giới luật của Người và chu toàn những
bổn phận của chúng ta giữa trần gian. Lòng mến của chúng ta sẽ được minh chứng
qua việc gớm ghét tội lỗi và mọi dịp tội, qua việc thực thi tình yêu trong
những chi tiết nhỏ mọn như bái quì nghiêm trang, giữ đúng giờ những việc đạo
đức, cung kính chào ảnh Đức Mẹ... Chính nhờ những việc đạo đức nhỏ bé này mà
chúng ta giữ được ngọn lửa tình yêu Chúa của chúng ta được bừng cháy.
Mọi việc chúng ta dâng
lên Chúa chỉ có một giá trị tương đối nếu so với tình yêu đi trước của Chúa.
Thiên Chúa yêu thương tôi. Thánh Gioan Tông đồ viết: 'Chúng ta hãy yêu mến
Thiên Chúa, bởi vì Người đã yêu thương chúng ta trước'. Và như thế dường như
vẫn chưa đủ, nên Chúa Giêsu đã đến với từng người chúng ta, mặc dù chúng ta dơ
nhớp, để hỏi chúng ta giống như Người đã hỏi Phêrô: 'Simon, con Giona, con có
mến Thầy hơn những người này không?'
Đây là lúc chúng ta phải
trả lời: 'Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa!' Tuy nhiên,
chúng ta hãy khiêm tốn xin thêm: 'Nhưng xin giúp con yêu mến Chúa hơn nữa. Xin
gia tăng lòng mến cho con!'.