CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN - B
MỤC LỤC
22. Video
Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
23. Xin
cho con được thấy Catholic.org.tw
24. Chúa
cho người mù được thấy Lm.
Carolo Hồ Bạc Xái
25. Người
mù thành Giêricô Lm
Giuse Đinh lập Liễm
27. Đấng
Cứu thế chữa lành ... Lm.
Phêrô Lê văn Chính
28. Anh
muốn tôi làm gì cho anh? Lm, G.M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
29. "Tầm
nhìn" là gì? Lm.
Jos Tạ Duy Tuyền
38. Câu
chuyện Sưu tầm
1. Nhìn cái tốt
Có một cô bé khó tính, luôn phê bình và chỉ trích bởi vì cô bé
không bao giờ tìm thấy được một điều gì tốt nơi người khác. Bất kể ai làm được
một việc tốt, thì cô bé cũng phải tìm cho ra một điều sai, một nguyên do xấu.
Cô bé thường hay nói: Nó phải có ý đồ đen tối, nó phải rút ra được cái gì lợi
trong đó. Và cô bé luôn bắt lỗi mọi người. Nhiều người trong chúng ta cũng hành
động như cô bé bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu. Để rồi lúc nào cũng cau có, lúc
nào cũng bực bội, lúc nào cũng bất mãn.
Thế rồi một ngày kia, nghe cha sở cắt nghĩa về đoạn Tim Mừng kể
lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, mà chúng ta vừa
mới được nghe đọc. Cô bé bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng: Tâm hồn mình đã thực
sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp của người khác.
Chúa Giêsu đã chữa lành sự đui mù thể xác, để chứng tỏ Ngài cũng
có thể chữa lành sự đui mù tâm hồn. Chính sự đui mù tâm hồn này còn tác hại cho
chúng ta hơn cả sự đui mù thể xác. Vì một trong những cách biểu hiện của nó là
không nhìn thấy chân lý, không nhìn thấy tình thương, không nhìn thấy những điều
tốt đẹp của những người chung quanh. Tật đui mù này lại thường hay lân lan.
Chính vì thế mỗi người chúng ta phải không ngừng tự hỏi: Tôi có bị đui mù về
tâm hồn hay không? Nếu có, thì chúng ta hãy vội vã kêu cầu Chúa cứu chữa chúng
ta như người đui mù trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
Nơi tốt nhất để chúng ta bắt đầu sửa chữa tật đui mù này chính
là gia đình. Chẳng hạn người mẹ quên đính nút áo hay quên vá chiêc quần cho
chúng ta, thay vì càu nhàu trước sự sơ sót này, chúng ta hãy nghĩ đến những
việc tốt mà mẹ đã làm cho chúng ta, chẳng hạn như nấu ăn, giặt giũ, lau chùi
nhà cửa. Người anh của chúng ta hay nóng tính, thay vì nghĩ đến những lần gắt
gỏng, thì chúng ta hãy nhớ tới công việc nặng nhọc mà người anh ấy phải làm
ngoài thửa ruộng thần nông hay trong nhà máy để đem lại chén cơm manh áo cho
gia đình và những người thân yêu.
Thay vì nghĩ đến những lầm lỗi của người khác, chúng ta hãy tập
cho quen biết mở mắt để nhìn thấy những cái tốt cái đẹp của họ. Nghĩ tới nó và
luôn nói về nó, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo: dù là một tên tướng cướp,
thì trong lồng ngực của hắn cũng vẫn có một một mảnh tim vàng. Nhờ việc khám
phá ra những cái tốt đẹp nơi họ, chúng ta sẽ xích lại gần họ hơn và dễ dàng yêu
thương họ như Chúa đã truyền dạy chúng ta.
Bởi đó, cùng với anh mù trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta hãy
kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.
2. Rào cản.
Có một chi tiết nhỏ qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay đã làm cho
tôi phải suy nghĩ và muốn được đem ra để chia sẻ. Đó là đang khi chàng hành
khất kêu van cùng Chúa Giêsu: Lạy Con Vua Đavid xin thương xót tôi, thì nhiều
người đã quát mắng và bảo anh hãy im đi, hãy câm miệng lại. Những người này đã
trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho anh tiến đến cùng Chúa Giêsu.
Đáng lẽ họ phải nắm lấy tay anh mà dẫn tới Chúa, thì họ lại túm cổ, lôi anh ra
xa Ngài. Chẳng có một ai ngoài chính Chúa Giêsu đã giúp đỡ anh mà thôi.
Thực vậy, khi nghe dân chúng quát mắng anh, thì Ngài đã dừng
lại, truyền dẫn anh đến với Ngài. Chỉ lúc đó, họ mới thay đổi thái độ. Chỉ lúc
đó, họ mới chịu giúp đỡ con người bất hạnh kia.
Từ chi tiết nhỏ bé trên chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống, vì
biết đâu, chính chúng ta đôi lúc cũng đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn
không cho Chúa đến với người khác, cũng như không cho người khác đến với Chúa.
Vậy chúng ta đã trở nên một thứ rào cản như thế nào?
Tôi xin thưa: trước hết là bằng những ý nghĩ chủ quan đầy thiển
kiến, những lời nói thiếu ý thức gây sứt mẻ và những cử chỉ mang tính cách ghen
tị. Thực vậy, đứng trước một thanh niên rượu chè cờ bạc hay trộm cắp, mà nay
muốn làm lại cuộc đời của mình để trở nên tốt lành hơn, thì phản ứng tự nhiên
của chúng ta là nghi ngờ cái thiện chí của anh ta. Từ sự nghi này, chúng ta
thường có thái độ cảnh giác, đề phòng bằng cách không liên hệ với anh ta. Và
nếu có liên hệ thì cũng dè chừng, mắt trước mắt sau. Cũng vì sự nghi ngờ ấy,
chúng ta thường có những lời nói vô ý thức, thiếu trách nhiệm, chẳng hạn: ngựa
quen đường cũ. Người như nó mà bỏ được tật xấu này, tật xấu kia thì tôi chỉ bé
bằng con kiến.
Tất cả những ý nghĩ, lời nói và thái độ như thế sẽ vùi dập mất
chút thiện chí vừa mới lóe sáng trong tâm hồn người thanh niên, để rồi anh ta
sẽ chẳng thể nào trở về cùng Chúa. Thay vì kéo anh ta đến với Chúa, thì chúng
ta đã trở nên một thứ rào cản, thậm chí còn đẩy anh ta xa lìa Ngài. Hiện thời,
đời sống và cách cư xử của chúng ta đã là một thứ rào cản, hay đã là một nhịp
cầu, trên đó Chúa đến với những người anh em chúng ta, cũng như trên đó họ sẽ
đến cùng Chúa.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể trở nên một thứ rào cản bằng chính
cuộc sống bê bối của chúng ta. Thực vậy, có những anh em lương dân đầy thiện
chí, muốn tìm hiểu Kitô giáo cũng như sứ điệp Tin mừng, thế nhưng thiện chí này
đã bị khựng lại khi họ nhìn vào đời sống cụ thể của chúng ta.
Thực vậy, khi nhìn vào đời sống, họ thấy chúng ta cũng gian tham
và bất công, cũng độc ác và hà hiếp, cũng giận hờn và thù oán, cũng vợ nọ con
kia, lem nhem trong lãnh vực tình cảm… để rồi có lúc họ đã phải thốt lên: Tôi
tưởng người Kitô hữu tốt lành như thế nào. Không ngờ họ còn thua cả những người
cộng sản, những người Hòa Hảo, những người Cao Đài.
Đáng lẽ ra đời sống của chúng ta phải là một bài giảng hùng hồn,
có sức thuyết phục cuốn hút họ về với Đức Kitô, thì do những bê bối, đời sống
của chúng ta đã trở thành một thứ thuốc nổ, phá hủy chút thiện chí còn đọng lại
nơi họ, hay là đã trở thành một thứ rào cản không cho họ tiến đến cùng Chúa.
3. Mù loà và mù quáng – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
Rất nhiều người may mắn không bị mù loà, nhưng hầu như ai cũng
có lúc bị mù quáng. Người mù quáng dễ dàng thấy rõ những sai lầm của người khác
nhưng mù tối về những sai lỗi của mình. "Việc người thì sáng, việc mình
thì quáng".
Vua Đa-vít được xem là một vị vua khôn ngoan, dũng cảm và đức
độ; thế nhưng nhà vua cũng có lúc bị mù quáng nặng nề. Dù đã có nhiều thê
thiếp, nhưng vua lại chiếm đoạt bà Bát-sa-bê là vợ của Uria và sau đó lại mượn
tay quân thù giết chết chồng bà để chính thức cưới lấy bà nầy làm vợ. Thế là
cùng một lúc vua đã phạm hai tội ác tầy đình: tội ngoại tình và tội giết người.
Ấy thế mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ta. Sau đó, Thiên Chúa sai tiên
tri Na-tan đến cảnh tỉnh nhà vua. Tiên tri nói với vua:
Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong
khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con
chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của
ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà. Thế rồi khi người giàu có
khách, ông ta không chịu bắt chiên mình làm tiệc, trái lại, cho tôi tớ qua nhà
ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách.
Nghe đến đây, vua Đa-vít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị
tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: "Nó đáng chết vì tội ác nó đã
phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại nó đã gây ra." Bấy giờ tiên tri
Na-tan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua và Chúa sẽ trừng
phạt vua vì tội ác đã gây ra.
Vua Đavít bừng sáng mắt ra, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn
năn thống thiết. (II Samuel 11, 1-12,12)
* * *
Tuy bị mù loà là một thua thiệt lớn, nhưng không đáng sợ bằng mù
quáng, vì người mù loà chẳng gây hại cho ai, còn người mù quáng có thể gây ra
vô vàn điều tai hại cho mình và cho xã hội. Mặt khác, người mù quáng không hề
tự biết là mình mù quáng, vì thế sự chữa trị lại càng khó khăn hơn.
* * *
Đã mang lấy phận người, mấy ai không bị mù quáng? Nhưng nhận ra
mình mù quáng và cần được cứu chữa cũng là điều rất khó khăn.
Điều kiện cần thiết nhất để được Chúa Giêsu cứu chữa là phải
khao khát được sáng.
Anh mù Bartimê có lòng khao khát được sáng rất mãnh liệt. Khi
anh ta nghe biết là có Chúa Giêsu đi ngang qua, anh ta liền cất tiếng kêu to:
"Lạy ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi". Dù người qua
kẻ lại quát mắng anh im đi nhưng không gì có thể dập tắt được khao khát được
sáng bừng lên mãnh liệt trong lòng, nên anh càng la to hơn: "Lạy ông
Giêsu, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi!
Thế rồi, khi được biết là Chúa Giêsu cho vời mình đến, anh vui
mừng đến độ vứt cả áo choàng, vứt cả bị gậy để đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu
hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh mau mắn thưa ngay: "Lạy Thầy, xin
cho tôi được thấy."
Cầu được ước thấy, ánh sáng đã bừng lên cho anh. Anh thấy được
Đức Giêsu, thấy mọi người chung quanh, thấy thế giới rực rỡ muôn màu.
Muốn được chữa lành bệnh mù quáng, chúng ta phải có lòng khao
khát mãnh liệt được sáng như anh mù Bartimê. Lòng khao khát đó sẽ thúc đẩy
chúng ta đến với Đức Giêsu là Ánh Sáng đích thật và Ánh Sáng của Ngài sẽ xoá
tan sự mù quáng đang vây phủ lòng trí chúng ta. Khi đó, chúng ta sẽ tránh được
rất nhiều điều đáng tiếc và đáng hổ thẹn trong đời mình.
4. Sáng đôi
mắt đức tin – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh
Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn
bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm
than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường
dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi
người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào
các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn
nói: "Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón". Mọi người đều làm
theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: "Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay
của bạn". Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ
mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: "Đây là tình
trạng của những người mù". Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không
bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những
người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
*****
"Có đau mắt mới biết thương người mù". Các sinh viên
trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ
không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã
không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè,
mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.
Hôm nay Đức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù loà,
"ngồi bên vệ đường" ăn xin, nghe biết Đức Giêsu đi qua, anh thống
thiết kêu van: "Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót con"
(Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn:
"Hỡi con vua Đavít, xin thương xót con". Người cho gọi anh, anh sung
sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: "Lạy Thầy, xin cho
con được sáng" (Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được.
Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Đức Giêsu, Đấng đã
đến để thắp sáng đời anh. Người phán: "Đức tin của anh đã chữa anh"
(Mc.10,52).
Đích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt
Đức tin, vì anh đã thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế khi gọi Người là "con
vua Đavít".
Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn,
vì anh đã thấy Đức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù loà.
Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ
người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.
Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo
choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận
mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.
"Lạy Thầy, xin cho con được thấy". Đó phải là lời cầu
xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy,
hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt
kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra.
Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ "trong ánh sáng
của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng".
Lạy Chúa,
Xin cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa
là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình càng nhỏ bé đi,
trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
5. Thiên Chúa thương
cứu con người
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Anh mù ăn xin, con ông Timê, hôm nay được chữa lành. Khi được
Đức Giêsu gọi, anh ta vui mừng đã vứt tung cả áo choàng để có thể mau đến với
Đức Giêsu. Nhờ đức tin soi dẫn, anh ta đã được sáng.
I. Thiên Chúa- Đấng thương xót con người
Vào thế kỷ VI trước công nguyên, khi dân Do Thái đang lưu đày,
Yêrêmia đã nói với tư cách ngôn sứ: Thiên Chúa sẽ đem dân Israel lưu đày trở
về. Thiên Chúa sẽ cứu dân Người, số sót của Israel; ngay cả những người què và
đui mù, phụ nữ với trẻ thơ, từng đoàn từng lũ kéo nhau về. Thiên Chúa sẽ an ủi
dân Người khi Người đem họ về. Thiên Chúa sẽ dẫn họ tới suối nước, đi trên
đường bằng phẳng kẻo họ bị vấp ngã, vì Thiên Chúa là cha của Israel.
Vì tội lỗi của dân, Thiên Chúa để dân Do Thái phải lưu đầy nơi
đất khách quê người; và vì lòng nhân từ, Thiên Chúa đưa dân Israel trở về. Đây
là những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho dân Do Thái trước mắt mọi dân tộc.
Khi một dân bị lưu đầy giữa một dân tộc khác, họ sẽ bị kỳ thị, khinh bỉ, hà
hiếp, và cảm thấy nhục nhã. Dân Do Thái đã một thời sống nơi đất khách quê
người hơn bốn trăm năm, từ thời ông Giacóp và mãi đến thời Thiên Chúa dùng Môsê
giải phóng dân Chúa khỏi Aicập và đưa về Đất Hứa. Lần này khi bị lưu đày ở
Babylon, Thiên Chúa đã dùng vua người ngoại Kyrô đem dân Ngài trở về quê hương
xứ sở. Được trở về quê hương, cũng tương tự như được giải phóng khỏi ách nô lệ,
dân Chúa vui mừng dường bao!
Thiên Chúa là Đấng thương xót dân Ngài. Ngài rung động trước nỗi
khổ của dân, và Ngài đáp cứu họ. Thiên Chúa tỏ cho dân biết Ngài là Thiên Chúa
giầu lòng thương xót, quan tâm đến dân, muốn giải phóng dân thoát khỏi mọi nỗi
khổ đau. Thiên Chúa rất gần con người, Ngài luôn ở bên con người để có thể nghe
được tiếng họ kêu xin. Thiên Chúa là người kề cận, là người bạn, người anh, người
cha và người mẹ đối với con người.
II. Gọi anh ta lại đây
Đức Giêsu trong cuộc đời đi rao giảng, Ngài cũng rung động trước
nỗi khổ của con người. Với người nghèo đói, Ngài cho họ cơm bánh; với những
người bệnh tật như người mù, người bại liệt, người phong cùi, người điếc lác,
Ngài chữa lành họ. Ngài đã trải qua kiếp nghèo nên Ngài dễ thông cảm với người
nghèo; Ngài đã khổ nên Ngài dễ thông cảm với những ai đau khổ; Ngài được sinh
ra trong hoàn cảnh cùng khổ nhất, nên có thể thông cảm với tất cả mọi người.
Người mù con ông Timê nghe biết Đức Giêsu đi ngang qua, anh ta
kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta quát mắng
bảo anh im đi, nhưng anh ta lại càng la to hơn: “Lạy con vua Đavít, xin thương
xót tôi”. Đây là tiếng kêu của người đau khổ, người cùng khốn, không biết nại
vào điều gì để xin người khác ban ơn cho mình, chỉ còn biết nại vào lòng thương
xót của người khác. Anh ta không có lý do gì để xin điều mình muốn xin, chỉ nhờ
hoàn toàn vào lòng thương của người khác. Đức Giêsu là người cảm thương anh hơn
cả; người khác quát mắng đòi anh im lặng nhưng Đức Giêsu thì khác. Người khác
có thể không tin, nên đòi anh im lặng; còn anh, anh hy vọng, anh tin, nên anh
càng la to hơn. Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi. Đức Giêsu dừng lại. Ngài
đã nghe thấy tiếng kêu cứu, kêu xin Ngài cứu. Ngài không thể bước đi vì tiếng
kêu xin này! “Gọi anh ta tới đây”. Anh ta mừng, nhẩy lên, vứt cả áo choàng. Hy
vọng tràn trề: Ngài đã cho gọi anh, Ngài đã nghe tiếng anh, đã quan tâm tới
anh. “Anh muốn ta làm gì cho anh? Lạy thầy, xin cho tôi được sáng”. Một câu quá
ngắn, nhưng lại quá khó khăn đối với con người! “Lòng tin của anh đã cứu anh”.
Đức Giêsu là đại diện Thiên Chúa đối với con người. Ngài sống
giữa con người như những người nghèo hèn nhất, cùng khốn nhất; Ngài có thể nghe
tiếng kêu cứu của con người. Ngày xưa, Thiên Chúa đã nghe tiếng dân Israel kêu
cứu khi phải sống lầm than ở Aicập, Ngài đã sai Môsê đi cứu họ; ngày nay, Thiên
Chúa cũng luôn nghe tiếng kêu cứu của con người. Thiên Chúa cũng sai bao người
đại diện Ngài thương cứu con người hôm nay. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời
gọi trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho tha nhân.
III. Đức Giêsu- Vị thượng tế cảm thông nỗi khổ đau của con người
Một người không thể là thượng tế theo ý mình muốn, nhưng là một
ân huệ được Thiên Chúa trao tặng. Đó là một ơn gọi. Vị thượng tế cũng là một
người như bao người khác, cũng yếu đuối và lỗi lầm, nên phải dâng lễ tạ tội cho
dân và cho chính mình. Vị thượng tế là người thông cảm với người khác, vì chính
ngài cũng cảm thấy mình mong manh mỏng dòn như người khác vậy. Vị thượng tế
được chọn giữa bao người, để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
Tác giả thư Do Thái nhận ra Đức Giêsu Kitô là vị thượng tế; vị
thượng tế này không phạm tội cho dù Ngài chia sẻ hoàn toàn thân phận con người.
Vị thượng tế này rất gần con người cho dù Ngài không phạm tội, vì Ngài cũng
chia sẻ tất cả những gì là con người. Ngài không là tội nhân vì phạm tội không
thuộc về bản chất con người. Thiên Chúa không tạo dựng con người để con người
phạm tội, nhưng tạo dựng con người để con người nên giống Thiên Chúa và thuộc
về Thiên Chúa.
Đức Giêsu Kitô là biểu lộ tình thương của Thiên Chúa đối với con
người. Đức Giêsu thương cảm con người, tức là, Thiên Chúa thương cảm con người.
Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với con người: Thiên Chúa hiện diện với con người
trong mọi nỗi gian khổ và thăng trầm của họ trong cuộc sống, Ngài đói với người
đói, khát với người khát; Ngài đau với người đau, khổ với người khổ. Ngài muốn
con người nhận ra rằng: Thiên Chúa yêu con người, và Thiên Chúa muốn con người
ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương. Ai sống yêu thương
là con cái Thiên Chúa. Ai yêu thương anh em là yêu thương Thiên Chúa. Thiên
Chúa thương cứu con người nhờ Đức Giêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Với bạn, từ ngữ nào diễn tả Thiên Chúa cách tuyệt nhất?
2. Bạn thích Đức Giêsu ở điểm nào nhất?
3. Bạn ao ước Thiên Chúa làm gì cho bạn?
6. "Xin cho con được
thấy"
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một anh mù đi thăm một người bạn. Trời tối khuya. Anh sợ
người khác đụng vào mình nên anh đã có một sáng kiến. Anh đội đèn lên đầu để
người khác trông thấy anh mà tránh. Anh hân hoan bước đi. Thình lình anh va vào
một người làm cái đèn rớt xuống bể nát. Anh tức giận và chửi: "Mày mù hay
sao mà không thấy đèn của tao". Người kia trả lời rằng: "Đèn mày còn
sáng đâu mà tao trông thấy".
Cái đáng thương của anh mù là không biết đèn mình đã tắt. Anh
chong đèn không phải để anh bước đi cho rõ mà quan yếu là nhờ ánh sáng để người
khác đừng đụng phải anh. Nhưng anh đâu ngờ đèn anh đã tắt tự bao giờ! Vâng, mù
đôi mắt là một bất hạnh. Bất hạnh vì đi lại khó khăn. Bất hạnh vì không còn
nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của những người thân yêu, của cuộc
sống quanh ta. Song song với cái đáng thương của sự mù loà thể xác còn có cái
đáng thương của mù loà về luân lý, về chân thiện mỹ, đó là sự mù loà của tâm
hồn. Cái đáng thương của mù loà tâm hồn là họ mù nhưng không chấp nhận mình mù.
Họ vẫn bước đi trong vùng tối của tội lỗi, của đam mê nhưng không nhận ra sai
trái của mình. Họ có cái nhìn lệch lạc về luân lý, về chân thiện mỹ nhưng đáng
thương thay, họ vẫn cố chấp sống theo quan điểm của mình. Chính sự ngộ nhận đó
đã giết chết cuộc đời họ và chắc chắn cũng gây nên đau khổ, có khi tổn thất cho
những người chung quanh vì sự u tối và dốt nát của mình.
Bài tin mừng hôm nay được thánh Marcô ghi lại, có lẽ không nhằm
nói về sự bất hạnh của người mù thể xác. Vì thời Chúa Giêsu cũng như thời nay
người mù loà thí rất nhiều. Nhưng Chúa Giêsu chỉ chữa lành một vài trường hợp,
trong đó có trường hợp chữa lành người mù thành Giêricô tên là Bactimê. Hơn
nữa, những phép lạ của Chúa Giêsu thường liên hệ đến việc chữa lành tâm hồn.
Anh mù Bactimê chỉ được chữa lành khi anh cố đến với Chúa. Anh quyết tâm chỗi
dậy, dứt bỏ chốn xưa đã giam hãm cuộc đời anh. Anh cậy dựa vào Chúa để mong
muốn thay đổi cuộc đời.
Thực vậy, anh mù Bactimê được Chúa chữa lành nhờ thiện chí của
anh. Dù rằng người đời cản ngăn anh. Dù rằng thế gian muốn anh mãi mãi là người
mù ăn xin bên vệ đường thành Giêricô. Anh đã mạnh dạn kêu cầu Chúa: "Lạy
ông Giêsu, con Vua Đavít xin dủ lòng thương". Với thiện chí của mình anh
đã dũ bỏ áo choàng ăn xin, dũ bỏ góc đường Giêricô mà bấy lâu nay anh vẫn ngồi
đó để chờ bố thí, và rồi với đức tin mạnh mẽ anh đã được Chúa chữa lành, để từ
nay anh trở thành một con người được tôn trọng giữa cộng đoàn, và hơn thế nữa
anh còn có thể trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.
Ngày nay, loại mù về tâm hồn rất nhiều. Nguyên nhân có thể là do
hoàn cảnh, do môi trường. Có thể do thiếu hiểu biết. Có thể là do đam mê, lười
biếng. Có thể là vì thiếu trách nhiệm nên cố tình mù loà để hưởng bổng lộc của
thế gian bố thí.
Có những bạn trẻ đã chạy theo xu hướng sai lầm của thời đại, quá
tự do về giới tình, quan hệ nam nữ bừa bãi dẫn đến hủy hoại tâm hồn và thể xác.
Có những cô gái trẻ đã phá đi cái thai là hậu quả của những giây phút bồng bột,
lầm lỡ vì họ đã thấy trong gia đình, trong xóm làng đã có nhiều người làm thế
nên mình làm theo.
Có những người trở thành những con nghiện của sì kẻ, ma túy do
thiếu hiểu biết nên sa vào con đường tội lỗi và tự huỷ diệt thân xác mình mà
không hay.
Có những người vì đam mê rượu chè, ham thích đỏ đen mà hủy hoại
thanh danh không chỉ của mình, đôi khi còn ảnh hưởng xấu đến gia đình. Có những
người vì rượu chè, cờ bạc đã đẩy gia đình đến khánh tận bần cùng mà họ vẫn trơ
trẽn sống theo đam mê của mình.
Có những người vì một chút bổng lộc thế gian đã bán mình làm tôi
cho ma quỷ, trở thành một Giuđa bán Chúa và làm hại anh em. Cuối cùng chỉ còn
lại sự thất vọng, cô đơn và chán chường.
Hậu quả của những ngừơi mù mất ý thức này là huỷ diệt chính
mình, hủy diệt thân xác và cả linh hồn. Còn đâu sự trong sáng của linh hồn là
hình ảnh Thiên Chúa! Tất cả đã bị bôi nhọ bởi chính sự lầm lẫn đáng thương của
chính mình.
Xem ra người mù thành Giêricô thật có phúc vì anh ý thức được sự
mù loà của mình. Anh đã vượt qua mọi trở ngại để chạy đến nương nhờ lòng thương
xót của Chúa. Ước gì mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, với hành vi đấm ngực ăn
năn, không phải là máy móc, vụ hình thức mà là sự nhức nhối của con tim đầy
nuối tiếc về sự mù loà tâm linh của mình dẫn đến biết bao điều sai quấy, gây lo
âu bất an cho tâm hồn, và gây đau khổ cho gia đình. Ước gì chúng ta luôn khiêm
tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để cần Chúa chỉ đường dẫn lối, và chữa lành
khỏi những u mê của cõi lòng, để chúng ta luôn hân hoan bước đi trong ánh sáng
của tin mừng, của chân thiện mỹ, của nẻo chính đường ngay. Ước gì cặp mắt của
tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động
đúng theo lương tri của một con người. Amen.
7. Mù có phải
là bất hạnh không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Khi nghĩ đến người mù, nhất là những người bị mù bẩm sinh, ta
thường nghĩ đến hai chữ “tội nghiệp”, “đáng thương”, hay “bất hạnh”. Dĩ nhiên
có khi chính bản thân người mù cảm thấy bất hạnh thật vì họ không được nhìn
thấy ánh sáng, không được nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên, nhất là không được nhìn
thấy những người thân yêu của mình. Và ngay cả khái niệm về màu sắc, họ cũng
không biết đến.
Tuy nhiên, giữa người mù và người sáng, chưa chắc ai bất hạnh
hơn ai. Có khi vì mắt sáng tỏ, nên người ta bất hạnh hơn là bị mù loà. Bằng
chứng là trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình,…,
ta có thấy thủ phạm nào là người mù không, ngoại trừ những người sáng mắt?
Trong số những dân chơi cuồng quay nơi các vũ trường ngập ngụa ma tuý, thuốc
lắc, hàng “đá”, ta có bắt gặp bóng dáng người khiếm thị nào bên cạnh những
người mắt sáng ở đó không? Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham vô lại, có
lẽ ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn
là những người cả hai mắt đều tỏ đều tường!!! Và nếu ta cất công thắp đuốc đi
tìm các tù nhân là người mù trong các trại giam, chắc chắn ta sẽ thất vọng vì
nơi đó chỉ thấy toàn những người có đủ cả hai mắt. Vậy thì ai “bất hạnh” hơn
ai? Người mù hay người sáng? Bởi thế, khi nhìn thấy một người mù, khoan đã cho
rằng người đó tội nghiệp, người đó bất hạnh. Hạnh phúc hay bất hạnh không hệ tại
ở việc sáng hay mù cặp mắt thể lý, nhưng là hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt
tâm hồn, cặp mắt đức tin.
Trong câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, ta thấy Bartimê là
một người mù loà, hành khất bên vệ đường ngoại thành Giêricô. Không biết anh có
thuộc “Hội Người Mù” nào hay không! Song thiết tưởng anh là một người lương
thiện. Anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù
nghèo, nghèo nên phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời anh thanh thoát. Anh sống vô tư
giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn
diện. Anh cũng không vợ nọ con kia, không rượu bia các thứ. Có lẽ anh cũng chưa
bao giờ phạm vào những tội “đội sổ” của con người thời đại hôm nay: buôn gian
bán lận, lậu thuế trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công
trình xây dựng… Suốt cả cuộc đời, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột
hay hãm hại ai. Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính.
Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại
mù loà trước ánh sáng vô hình, không thể nhận ra Chúa Giêsu là ai, thì anh mù
Bartimê này lại “thấy tỏ tường” chính Đức Giêsu là ai. Anh không van xin Chúa
bằng danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” - một danh
xưng ám chỉ tước hiệu Đấng Mêsia. Tiếng kêu lớn tiếng của anh khi bị mọi người
ngăn cản: “Lạy Con Vua Đavít”, đồng thời cũng là một lời tuyên xưng niềm tin
vào chính Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà anh tin là sẽ phục hồi sự sáng cho
anh. Bởi đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu
mua cho anh mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh ít đồng bạc cắc bố
thí, như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh chỉ xin Chúa Giêsu cho
anh được thấy, tức là được sáng mắt. Nếu không tin Chúa Giêsu là Đấng có thể mở
được mắt cho nguời mù bẩm sinh, anh đã không xin Ngài điều này.
Đồng ý “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, nhưng không phải một khi
“cửa sổ” ấy bị đóng vĩnh viễn do mù loà là đương nhiên tâm hồn trở nên tối tăm
băng giá như vùng bắc cực đâu. Ngược lại nữa là khác. Khi đôi mắt của họ không
còn khả năng thấy được những thực tại hữu hình, thì tâm hồn họ lại rất bén nhạy
với những thực tại vô hình. Bởi đó người ta bảo rằng người mù thường cảm nhận
rất sâu xa về những thực tại siêu linh, và họ cũng rất nhạy bén trước những nỗi
thống khổ của anh em đồng loại. Nói cách khác, người mù thường có cặp mắt đức
tin sáng tỏ, như trường hợp anh mù Bartimê hôm nay.
Dẫu chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; chưa một
lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được phúc
chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta nói về con
người của Đức Giêsu; thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm
tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của
những mối phúc thật là Đức Giêsu Kitô. Anh được Chúa phục hồi sự sáng, sự sáng
của cặp mắt thể lý, và quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng
nay sáng tỏ hơn. Từ đây đời anh hoàn toàn đổi mới. Còn hạnh phúc nào bằng? Anh
đã tự nguyện dấn bước theo Chúa trong niềm vui trào tràn.
Sẽ thật hạnh phúc cho tôi, nếu tôi có đôi mắt thể lý lẫn đôi mắt
tâm linh sáng ngời. Ngược lại, sẽ thật bất hạnh biết bao nếu tôi có đôi mắt
thân xác sáng tỏ nhưng đôi mắt tâm hồn lại mù tối như đêm ba mươi. Hãy tạ ơn
Chúa vì Ngài đã ban cho tôi có đôi mắt thể lý chưa một lần phải đến bác sĩ nhãn
khoa. Xin Ngài gìn giữ tôi, để đôi mắt đức tin của tôi cũng luôn được tinh
tường sáng suốt. Đặc biệt xin Chúa cho những người mù luôn giữ được cái tâm
trong sáng để cuộc đời của họ không bao giờ là “bất hạnh”, là “đáng thương” như
người ta vẫn nghĩ. Amen.
8. Niềm
tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia loan báo tin vui ngày trở về quê hương xứ sở.
Ai đi đâu xa, cũng mong có ngày trở về. Nhất là những người bị đi lưu đầy, tù
tội hay xa xứ đều mong có ngày được trở về quê hương. Sự trở về mang lại niềm
vui lớn. Cuộc sống là một cuộc nối kết những chặng đường trở về. Chúng ta cùng
đang lữ hành trên trần gian đầy chông gai thử thách. Mọi cuộc lữ hành cần có
cùng đích để hướng tới. Mỗi người được sinh ra đời đều có cội có nguồn, có cha
có mẹ, có quê hương xứ sở và có cùng đích để trở về. Cuộc sống vô thường và
thay đổi, đổi thay mỗi ngày. Cũng như thời gian đắp đổi, có hợp có tan, có vui
có buồn, có đi có về, có xuất có nhập, có sáng có tối và có sinh có tử. Không
có ra đi thì cũng không có trở về. Sinh ký tử qui. Cuộc sống con người kết nối
bởi những biến cố nhỏ to. Đời sống thiên nhiên cũng thế, vòng xoay bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông và hai mùa mưa nắng.
Dân Do-thái nhiều năm bị lưu đầy xa xứ sắp được trở về quê
hương. Trong niềm vui mừng hân hoan, tiên tri Giêrêmia đã xướng lên: Vì Chúa
phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân!(Gier
31, 7). Niềm vui ngày trở về là ngày vui của sự xum họp trong tự do và hạnh
phúc. Người Do-thái được giải thoát khỏi làm nô lệ tôi đòi cho ngoại bang. Niềm
mơ ước được giải phóng trở về quê hương là một niềm mong ước vượt qúa sức của
họ. Thiên Chúa đã yêu thương an bài để mọi người cùng được trở về sống chung, không
phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ tàn tật và người bất hạnh: Này Ta sẽ đưa chúng
từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ
đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại
hội đông đảo (Gier 31, 8).
Thánh Phaolô mời gọi mọi người hãy sống đúng với tư cách của
mình là Kitô hữu, ngài nhắn nhủ rẳng: Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham
lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những
người trong dân thánh (Eph 5, 3). Sự xấu có mặt trong đời sống của con người
mọi thời, xưa cũng như nay. Những bản năng thú tính kéo lôi con người trở về
với cách sống hoang dã. Con người dễ rơi vào những dịp tội của sự ghen tương,
thù ghét, oán hờn và gian tham. Sống buông thả theo bản năng thì rất dễ dàng
như bèo trôi theo dòng nước. Đi vào con đường hẹp để tu tâm luyện tính đòi hỏi
sự ý thức và luyện tập chuyên cần. Tu tâm là xa tránh dịp tội, cải thiện đời
sống, giảm bớt tham sân si và tập tành các nhân đức. Muốn nên người tốt, chúng ta
phải chuyên tâm tu luyện và thực hành điều thiện trong ý tưởng, lời nói và hành
động.
Chúng ta đang sống trong thời đại ‘bấm nút’. Mọi phương tiện
khoa học kỹ thuật xử dụng nút bấm và sờ chạm rất thuận lợi, dễ dàng và nhanh
chóng. Chúng ta mất dần sự kiên nhẫn và sự kiên trì phấn đấu. Cái gì cũng muốn
có kết qủa ngay lập tức như ơn chữa lành các bệnh tật. Vì thế, có sự xuất hiện
giữa chúng ta những đáp ứng “mì ăn liền” trong cả niềm tin trong đời sống đạo.
Khi xưa thánh Phaolô đã cảnh báo các tín hữu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà
lừa dối anh em, chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng
xuống những kẻ không vâng phục (Eph 5, 6). Chúng ta đừng dễ cả tin những cách
thế trà trộn lẫn lộn thực hư để đưa dẫn chúng ta vào những sự hão huyền. Chúng
ta đừng mắc mưu chạy theo các thần tượng và nghĩ rằng họ có thể đáp ứng mọi nhu
cầu tâm linh khao khát của chúng ta.
Bài Phúc Âm, kể câu truyện Chúa Giêsu chữa cho anh mù thành
Giêricô. Anh bị mù cả hai mắt và phải đi ăn xin. Anh nghe nói về Đức Giêsu
Nazarét, anh đã nhận ra Chúa qua con mắt đức tin: Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su
Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít,
xin dủ lòng thương tôi! "(Mc 10, 47). Có lẽ nhiều lần anh đã lảng vảng nơi
đám đông tụ họp để ăn xin và nghe ngóng. Anh đã nghe và nhận diện ra Đấng có
đầy lòng thương xót. Anh biết Đấng đó có uy quyền chữa trị bệnh cho anh. Anh bị
mù chứ không phải quáng gà hay loạn thị. Các bác sĩ không thể chữa trị những
chứng bệnh như mù, điếc, câm và què từ bẩm sinh. Anh đã chạy đến xin Chúa chữa.
Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh? " Anh mù đáp: "Thưa
Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được." (Mc 10, 51). Chúa đã chữa lành cho anh
ta.
Chúa chữa lành cho anh mù và tức khắc anh nhìn thấy. Người nói:
"Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh! " Tức khắc, anh ta nhìn
thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi (Mc 10, 52). Ngày nay xuất
hiện nhiều thầy lang chữa bệnh nhưng chỉ chữa những bệnh cảm cúm, đau nhức và
phong thấp thường ngày. Thời tiết đổi thay, nay khỏe mai yếu. Hằng ngày người
bệnh dùng cả thuốc bắc, thuốc nam, thuốc tây và thuốc bổ đủ loại, hiệu qủa sớm
muộn tùy duyên. Thật khó bề mà lường được nguyên nhân và hậu qủa của các hiện
tượng chữa lành xảy ra. Như lời thánh Phaolô phát biểu: Đừng để ai lấy lời hão
huyền mà lừa dối anh em. Thời nay có rất nhiều người cả tin, dễ tin và mê tín
dị đoan. Những cảm giác, ảo tưởng, tâm sinh lý, ước muốn và môi trường chung
quanh cuốn hút chúng ta vào những mê hoặc và giả tưởng. Chúng ta cần thức tỉnh
tâm linh và trải nghiệm những diễn tiến thật sự trong thân xác mình. Chúa Giêsu
nói với anh mù: Lòng tin của anh đã cứu anh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng
ta cần một niềm tin tuyệt đối vào danh Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Là Kitô hữu, chúng ta tin vào quyền năng của Chúa Giêsu Kitô.
Niềm tin cần được hun đúc, trau dồi học hỏi và thực hành trong đời sống. Tin là
sự phó thác hoàn toàn vào việc Chúa quan phòng. Chúng ta bắt đầu Năm Đức Tin
(the Year of Faith), Đức giáo hoàng Bênêđictô thứ 16 mời gọi các tín hữu hãy ý
thức và sống niềm tin của mình cách chân thành. Chúng ta tuyên xưng đức tin
trong Kinh Tin Kính. Tin vào những mầu nhiệm được mạc khải trong đạo. Tin vào
những điều Giáo Hội truyền dạy về sự sống đời này và đời sau. Củng cố niềm tin
của mình bằng cách học hỏi lời Chúa, suy gẫm gương của các thánh nhân và thực
hành sống đạo. Đức tin cần thấm nhập vào tâm trí, ý chí, ý thức và tuyên xưng
qua lời nói và việc làm. Thánh Giacôbê nói về đức tin: Cũng vậy, đức tin không
có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17).
Chúng ta đang trở về với cội nguồn của niềm tin. Cùng với Giáo
Hội hoàn vũ, chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin của Công Đồng Nicêa năm
325 (The Nicene Creed). Niềm tin mà chúng ta đã tuyên hứa trong ngày lãnh nhận
Bí tích Rửa Tội. Cậy dựa vào gương sáng của các vị tiền bối đã dám sống chết vì
niềm tin vào Đức Kitô. Chúng ta cũng phải củng cố và hun đúc niềm tin sống đạo
mỗi ngày. Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo
thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo
núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia! " nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có
gì mà anh em không làm được (Mt 17, 20). Đức tin là nhân đức đối thần. Trong
cuộc sống đạo, chúng ta còn yếu đức tin và nhiều ngờ vực. Trau dồi qua tri thức
chưa đủ mà cần kết hợp với Chúa Kitô trong nguyện cầu: "Thưa Thầy, xin
thêm lòng tin cho chúng con." (Lc 17, 5).
Lạy Chúa, đức tin của chúng con rất hời hợt và nông cạn, xin
thêm lòng tin cho chúng con. Đã nhiều lần chúng con mê hoặc chạy theo những lời
mời gọi mơ hồ, giả trá, ảo tưởng và mê tín. Chúng con đã đặt niềm tin vào con
người và phương tiện khoa học kỹ thuật trần gian hơn là đặt niềm tin nơi Chúa
Kitô. Giờ đây, chúng con xin phó thác trọn vẹn cuộc đời trong tay Chúa, xin
Chúa nâng đỡ phù trì.
9. Người
mù.
Đêm nọ, có một người mù đến thăm bạn. Khi về, người bạn sáng mắt
tặng cho anh ta một chiếc đèn lồng theo thói quan của người Nhật thời xưa. Thế
nhưng anh mù bèn nói: Tôi không cần đèn, vì đối với tôi, tốt và sáng cũng như
nhau. Nhưng người bạn trả lời: Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng
nếu anh không cầm một cái, thì người khác có thể chạy đụng vào anh, anh nên cầm
đi. Nghe hợp lý, anh mù ra về vời chiếc đèn lồng trên tay. Đi được một quãng,
đột nhiên anh bị một người đụng phải. Với vẻ tức giận anh nói: Bộ anh không
thấy chiếc đèn của tôi đó sao? Người kia liền đáp: Đèn của anh tắt rồi.
Với câu chuyện này, anh mù tưởng mình thấy, còn người kia thì
không thấy chiếc đèn. Thế nhưng chính anh mới không thấy rằng đèn mình đã tắt.
Con người tưởng mình thấy được nhiều chuyện nhưng lại quên hay cố tình quên
nhiều cái mình không thấy.
Từ những ý tưởng trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm
nay. Anh mù mang tên gọi Bartimê, có nghĩa là con của ông Timê: nghề nghiệp ăn
xin, địa chỉ cư trú là lề đường thành Giêricô. Anh vừa nghèo nàn lại vừa tàn
tật. Và dưới mắt người Do Thái thì đó là dấu chỉ bị Chúa trừng phạt, vì tội lỗi
của bản thân hay vì tội lỗi của cha ông thuở trước. Anh bị bỏ rơi và sống bên
lề xã hội. Người ta không cho anh nói ngay cả khi anh lên tiếng kêu cầu Chúa
giúp đỡ.
Như thế người Do Thái tưởng rằng mình thấy rõ anh, nhưng thực ra
họ lại không thấy mình bị sai lầm, không thấy nhu cầu sáng mắt của anh vượt
trên những đồng tiền bố thí. Còn anh mù, tuy không trông rõ vạn vật nhưng lại
thấy được chiều sâu của con người. Anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít là Đấng
Messia. Anh thấy quyền năng của Ngài có thể giúp đõ anh một cái gì khác hơn là
tiền bạc. Và như thế có một sự trái ngược: người mù đã thấy được nhiều cái mà
người sáng mắt không thấy.
Chúng ta có thể phân biệt hai loại mù. Mù thể xác và mù tâm hồn.
Mù thể xác thì không thấy được vạn vật, còn mù tâm hồn thì đa dạng hơn, chẳng
hạn như không hiểu được những gì cần phải hiểu, không khao khát sự công chính
và ơn cứu độ. Không phân biệt đâu là chân thiện mỹ... Và trên tất cả, đó là
không thấy mình đang sống như người mù. Có mắt mà không nhìn và có nhìn thì
cũng chẳng thấy.
Với chúng ta những người Kitô hữu cũng thế: đừng thấy người nào
siêng năng đi lễ đọc kinh, ăn ngay ở lành mà đã vội cho là đủ. Đừng thấy buổi
lễ rình rang với trống kèn inh ỏi thì cho rằng lễ đó trang trọng, đạt yêu cầu.
Đừng thấy Giáo Hội là một tổ chức chặt chẽ, nhà thờ và tháp chuông được xây
cất, vội cho rằng đạo đang được phát triển. Nhưng phải như anh mù xin cho mình
được thấy, thấy rõ hơn, thấy chính xác hơn: thấy Đức Kitô là Đấng cứu độ, để
rồi như anh mù rời bỏ vệ đường, dứt khoát, tìm đến với Ngài. Mặc dù chúng ta là
những người có cặp mắt sáng về thể xác, nhưng biết đâu lại mù loà về tâm hồn,
cho nên cùng với người mù qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta hãy kêu cầu:
Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.
10. Xin thương
xót tôi.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh, dễ bị tổn thương, dễ
bị nhiễm trùng, nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù, chỉ biết
anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ. Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai
hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn. Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên.
Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất, ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã
hội.
Danh tiếng của Đức Giêsu Nagiarét, anh đã được nghe nhiều. Ngài
có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt. Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được
gặp.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.
Rất tình cờ, Đức Giêsu đi ngang qua đời anh. Anh mù lòa, ngồi đó
như chỉ chờ giây phút này. Khi nghe biết là Đức Giêsu cùng với đám đông đi qua,
anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu, tiếng kêu thống thiết
bi ai của một người đau khổ, nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng.
"Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!"
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh, nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa.
Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều. Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai
Đức Giêsu. Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh, vì Ngài cũng chưa rõ anh đang
ở đâu. Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng vất bỏ cái áo choàng
vướng víu, nhẩy cẩng lên mà đến với Đức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt, bởi thực ra mắt của lòng anh
đã sáng rồi. Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.
Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Đấng cho anh ánh sáng. Không ngồi
ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Đức Giêsu.
"Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại." Đây
có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn. Ta có thể thấy điều này
mà không thấy điều kia. Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn
thấy. Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình. Tôi có kêu gào
với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại. Chính vì
thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.
Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.
Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.
Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.
Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về nạn hành khất ở nơi bạn sống? Đâu là nguyên nhân?
Đâu là cách giải quyết tốt nhất?
Nhiều người tự giam mình trong sự mù lòa. Họ chỉ thấy điều họ
muốn thấy. Họ bị khép kín trong thế giới chủ quan của họ. Có khi nào bạn thấy
mình mù lòa về bản thân không? Làm sao bạn được sáng mắt trở lại?
Cầu Nguyện
Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con
được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết
điểm, những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con cả những khi con không
cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy, thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con
được thấy.
11. Lòng thương
– Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Nỗi khổ của con người
Anh mù ngồi bên vệ đường, ăn xin, sống nhờ lòng thương của con
người. Nếu ai đã từng bị sống trong tăm tối hay quan sát người mù, sẽ thấy bị
mù cực khổ như thế nào! Phải ăn xin cũng là một nỗi khổ, và hơn nữa phải tùy
thuộc người khác trong nhiều lãnh vực: đi lại và những nhu cầu tối thiểu của
con người. Hiểu được như vậy, sẽ dễ dàng cảm thông tiếng kêu của anh mù hơn:
“Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”.
Không phải chỉ có bệnh mù về thể lý, nhưng còn có mù về thiêng
liêng nữa. Mù thể lý ngăn cản người ta thấy những gì là vật chất, còn mù thiêng
liêng ngăn cản người ta thấy sự thật. Mù làm khổ mình và khổ cả người khác nữa.
Được sáng, thật hạnh phúc dường bao!
Đức Giêsu thương cảm trước nỗi khổ của con người
Những người đang hiện diện ở đó đòi người mù im lặng,
nhưng anh ta lại càng la to hơn. Tại sao những người ở đó đòi anh mù im lặng?
Có thể họ nghĩ tiếng kêu của anh mù vô ích, vì chẳng ích lợi gì? Đức Giêsu làm
gì có tiền mà bố thí cho anh mù! Và hơn nữa, làm sao Đức Giêsu có thể chữa cho
anh mù thấy được? Có lẽ không phải họ không thương anh mù cho bằng họ nghĩ Đức
Giêsu chẳng giúp gì được cho anh mù. Anh ta nên im đi thì tốt hơn.
Dù bị ngăn cản và phản đối, anh mù vẫn la, và càng la to hơn.
Anh ta hy vọng tiếng kêu của anh ta tới tai Đức Giêsu và được Ngài thương xót:
“Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”. Anh ta là người tin vào Đức Giêsu, chờ
đợi và hy vọng nơi Đức Giêsu hơn bất cứ ai trong trường hợp này. Và tiếng kêu
của anh ta đã lọt vào tai Đức Giêsu, và Ngài đã bị “đáng động” bởi tiếng kêu
này. Đức Giêsu rung động trước nỗi khổ của con người.
Thiên Chúa vẫn thương cảm trước nỗi khổ của con người. Ngày xưa
dân Do Thái khi bị nô lệ cực khổ bên Ai-cập, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài
đã thương giải phóng họ khỏi Ai-cập. “Những ai vất vả và gánh nặng, hãy đến
cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (Mt.11, 28): Đức Giêsu cũng luôn thương cảm trước
nỗi khổ của con người.
Tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, và kêu cầu Ngài, Ngài sẽ đáp cứu.
Hãy thương cảm trước nỗi khổ của con người như Đức Giêsu
Thương cảm trước nỗi khổ của con người, là nét đặc trưng của
Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng muốn con người thương cảm trước nỗi khổ của anh em
mình như Ngài. Người đầy tớ “không biết thương xót” anh em mình, sẽ không được
thương xót (Mt.18, 23-35).
Rung động trước nỗi khổ của anh em mình, là trở nên người hơn,
trở nên con Thiên Chúa hơn. Ước gì con người biết thương cảm và yêu thương
người khác trong hoàn cảnh khốn khổ của họ. Ngay cả khi không có gì để cho,
hoặc có rất nhiều điều để cho người khác, thì tình yêu thương vẫn là món qùa
qúy nhất.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn đã rung động trước nỗi khổ của con người chưa? Xin bạn
chia sẻ kinh nghiệm.
2. Điểm nào đáng động bạn nhất khi nghe đọc đoạn Tin Mừng Mc.10,
46-52 trên?
3. Đức Giêsu đã bao giờ chữa bệnh mù cho bạn chưa? (Đức Giêsu có
giúp bạn thấy rõ một điều gì mà trước đó bạn bị nô lệ bao giờ chưa? Nếu có xin
chia sẻ.)
12. Tới
nguồn sự sáng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy
đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.
Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt,
đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào
là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự
mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban
ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng.
Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu
đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng
ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thủơ.
Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở
thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên
vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi
người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán,
đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.
Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có
lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát
ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân
ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.
Nhưng Đức Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn.
Người chiếu vào đời anh ánh sáng hy vọng. Tuy chưa
được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã
tràn trề hy vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc
cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay
đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hy vọng. Niềm hy vọng trở
thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.
Người chiếu vào đời anh ánh sáng đức tin. Tuy chưa
gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ
có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng
Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng
Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không
ai có ánh sáng đức tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt
anh mù nhưng đức tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên
xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người
chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở
nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng
không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.
Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng tình yêu. Chúa
là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám
đông hỗn độn của thành Giêricô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của
một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng
khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá
sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai
trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con
nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai
yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai
mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn
gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng
sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa.
Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không
cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám
phá ra kho tàng quý giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt
chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho
đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi
đến sự thật và đến sự sống.
Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời
sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán
chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ
chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm
áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư
tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả
mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hãy kể ra những thứ bóng tối trong đời anh mù thành Giêricô.
2) Hãy kể ra những thứ ánh sáng Chúa đã chiếu vào đời anh
3) Tại sao anh mù sau khi hết mù đã đi theo Chúa?
4) Bạn có bị bóng tối nào bao phủ đời bạn không?
5) Bạn có tìm thấy Chúa là ánh sáng cho đời bạn không?
13. Chúa chữa
anh mù Bactimê
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Khảm)
Trong bài hát Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi, chúng ta
hát lên: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu
thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục...” Chúng ta lại hát
tiếp: “Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”.
Lời kinh này không chỉ là một lời cầu nguyện mà còn là một lời
kinh diễn tả lối sống đích thực của mỗi người Kitô hữu. Như vậy bổn phận của
mình không phải chỉ là đem yêu thương vào nơi oán thù mà còn phải dọi ánh sáng
vào nơi tối tăm.
Có một câu chuyện kể như thế này:
Một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn
hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về.
Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ
là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác
gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi
là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù
nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có
một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức
giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi đổng: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng như
thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn
tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.
Coi chừng chúng ta lại rơi vào tình trạng như thế. Nếu mình rơi
vào tình trạng đấy thì rất nguy hiểm. Làm sao có thể dọi ánh sáng vào nơi tối
tăm khi mà chúng ta không có ánh sáng, hoặc ánh sáng chúng ta đã bị tắt ngấm từ
lâu.
Đặt câu hỏi như thế thì chúng ta thấy anh mù Bactimê sẽ trở
thành gần gũi với mình hơn. Anh ta không còn là khuôn mặt xa lạ của 20 thế kỷ
trước, mà giờ đọc lại mình có cảm tưởng như là đọc truyện cổ tích. Anh ta giờ
trở thành một khuôn mặt mời gọi mình suy nghĩ về vấn đề của chính cuộc đời
mình.
Ngày nay người ta nói đến mù chữ, vài năm nay lại thêm mù vi
tính. Một thứ mù về mặt trí tuệ. Phúc Âm kể cũng có lần Chúa Giêsu mắng các môn
đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh.
Khi kể câu chuyện này tôi không nhắm đến mù thân xác, vì thời đó
có rất nhiều người mù, nhưng Chúa Giêsu không chữa cho tất cả. Ngài chỉ chữa
cho một số người mang tính biểu tượng. Cũng không phải thánh Maccô nói đến mù
chữ, vì chúng ta không nghe kể Chúa Giêsu mở lớp tình thương để dạy học. Như
vậy chắc chắn là thánh Macco nhấn mạnh mù về mặt tâm linh, mù về mặt tinh thần.
Ta có thể hiểu như thế nào về tình trạng mù này?
Có một câu chuyện kể về các người mù rủ nhau đi xem voi. Xem
xong thì cùng nhau ngồi lại bàn tán, mô tả xem con voi nó giống như cái gì?
Anh sờ được cái chân thì dõng dạc tuyên bố: con voi nó giống như
cái cột nhà.
Anh khác thì oang oang: con voi nó giống như cái quạt. Vì anh
này rờ được ngay cái tai của nó.
Còn các anh sờ cái bụng, cái vòi. Ta không biết họ sẽ mô tả con
voi giống như cái gì.
Suy nghĩ kỹ chuyện này thì thấy cũng thấm thía lắm. Tôi muốn
chia sẻ với anh chị em là: chúng ta có thể rơi vào tình trạng mù về mặt tinh
thần, có nghĩa là ta không nhìn thấy được chân lý toàn diện về cuộc sống. Ta
chỉ nhìn thấy chân lý phiến diện như anh mù mô tả con voi “nó giống như cái cột
nhà”, như thế là rất phiến diện.
Từ 30 năm về trước, một nhà xã hội học Mỹ... đã lên tiếng về con
người thời đại. Ông gọi: “Con người một chiều kích”. Tôi thấy nhận xét ấy vẫn
đúng cho đến ngày nay và chắc có lẽ càng ngày sẽ càng đúng hơn.
Cuộc sống con người chúng ta được đan kết bằng nhiều chiều kích.
Có một chiều kích hướng thượng, mình gọi là chiều dọc trong mối quan hệ với
Thiên Chúa. Có một chiều kích ngang nữa, trong quan hệ bình đẳng yêu thương đối
với mọi người, và có một chiều quan hệ đối với thế giới vật chất.
Càng ngày con người ta càng quên mất cái chiều hướng thượng,
quên mất mối quan hệ hàng ngang với anh em trong tình yêu thương, mà chỉ quan
tâm đến quan hệ tình bạn với thế giới vật chất.
“Con người một chiều kích”. Chúng mình không khám phá, không
sống được cái chân lý toàn diện về cuộc sống của con người. Nguyên nhân nào có
thể dẫn đến tình trạng đó.
Trở lại với hoàn cảnh của những anh em khiếm thị. Hầu hết đều bị
mù từ lúc mới sinh. Có một số do tai nạn sau này. Nếu hiểu mù là mình không
thấy sự vật thì cũng có lúc mình cũng không nhìn thấy mặc dù mắt mình vẫn sáng.
Chẳng hạn như có sự cố cúp điện hay lúc mình bị đau mắt phải lấy khăn che mắt
cho đỡ chói, đỡ nhức. Những hình ảnh ấy khiến tôi nghĩ đến tình trạng mù về mặt
tinh thần. Nếu bảo về tinh thần mù lòa từ lúc mới sinh thì không thể tin được.
Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, vì thế Thiên
Chúa đều ban tặng cho mọi người khả năng nhận biết chân lý.
Ta có thể rơi vào tình trạng mù tâm linh là do nguyên nhân thứ
2, thứ 3. Nghĩa là mình thiếu ánh sáng. Do những hoàn cảnh và những môi trường
sống.
Hiểu như vậy, ta thấy rằng hầu hết chúng ta đều là những người
mù đáng thương về mặt tâm linh. Vì vậy, chúng ta hãy khiêm tốn chạy đến với
Chúa để người chữa trị. Người sẽ giúp chúng ta nhìn thấy chân lý toàn vẹn.
Người sẽ giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha của chúng ta và mọi người là
anh em của ta. Người sẽ giúp ta nhận ra con đường tiến về nhà Cha trên Trời.
Con đường đó là con đường Chúa Giêsu đã đi và đã tới đích. Và đó cũng là con
đường hẹp, con đường ngược dốc, con đường thập giá nhưng là con đường dẫn đến
sự sống vinh quang và vĩnh cửu. Amen.
14. Mù dắt
mù.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một người đi trong đêm tối, tay cầm chiếc lồng đèn. Một khách
qua đường chặn ông lại và hỏi:
- Anh cầm chiếc lồng đèn để làm gì, bởi vì nghĩ cho cùng, anh mù
mà!
- Để cho kẻ khác thấy tôi và không đụng vào tôi.
Người mù trả lời và tiếp tục đi. Một ngọn gió nhẹ thổi qua, rồi
anh bị một người đi đường khác đụng mạnh té lăn trên đường. Người mù bực mạnh
la lớn:
- Anh không nhìn thầy đèn của tôi sao?
- Nhưng thưa ông, chiếc đèn của ông bạn đã bị tắt rồi mà!
Anh bèn thắp lại đèn và tiếp tục đi. Lần này, anh giữ đèn cẩn
thận để khỏi bị gió thổi tắt. Đi được một quãng anh lại bị đụng ngã. Anh liền
phản ứng quyết liệt:
- Anh không thấy ngọn đèn của tôi cháy sáng hay sao?
- Xin lỗi ông, tội nghiệp cho tôi, vì tôi bị mù…
Thưa anh chị em,
Người mù đã làm hết cách, nhưng vẫn không thể làm sáng mình, anh
vẫn lẩn quẩn trong thế giới mù loà. Chúng ta chỉ dựa vào mình, thì chúng ta
cũng chỉ lẩn quẩn trong giới hạn của mình, ngay khi cả chúng ta tự hào về những
văn minh tiến bộ, thì coi chừng đó cũng chỉ là anh mù cầm đèn sáng mà nghĩ rằng
mình thấy đường. Chỉ có Chúa mới là Đấng mở mắt cho chúng ta được thấy.
Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng thật ra
mình không thấy nhiều cái lắm “có mắt mà như mù”. Và mù trên tất cả là không thấy
mình đang sống như người mù: sống mà không biết tại sao mình sống? Mình sống để
làm gì? Cuộc sống này sẽ đi về đâu?...
Còn anh mù trong Tin Mừng hôm nay lại khác. Anh thấy nhiều cái
mà người khác không thấy. Anh thấy Đức Giêsu là Con Vua Đavít, là Đấng Messia,
nghĩa là Đấng Kitô Cứu Thế. Anh thấy quyền năng của Đức Giêsu có thể giúp đỡ
anh một cái gì khác hơn là vật chất, tiền bạc. Anh thấy tình trạng khốn khổ của
mình. Vì thế, có một sự trái ngược, anh mù thấy được nhiều cái mà người sáng
mắt không thấy. Và tiếng kêu của anh “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” là một
tiếng kêu của lòng tin. Lời cầu của anh được Đức Giêsu đáp ứng. “Lòng tin của
anh cứu chữa anh”. Chúa Giêsu mời gọi anh không những đến với Ngài mà còn đi
theo Ngài.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện: Một người đàn ông phong
cùi sống trơ trọi trong một túp lều tăm tối, xa tránh và hận thù mọi người, hận
thù xã hội. Mẹ nói: “Ngày tôi đến thăm, người đàn ông ấy đã không bao giờ muốn
ra khỏi túp lều tăm tối của mình. Tôi tiến lại gần con người ấy và đưa cánh tay
mời mọc, nâng cánh tay của anh để anh đứng dậy, rồi cùng dìu anh bước ra khỏi
túp lều tăm tối. Vừa đến bên cánh cửa nơi ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua,
người đàn ông đã có một thái độ mà mãi mãi tôi không bao giờ có thể quên được: Ra
khỏi căn lều, đứng giữa ánh sáng, anh hô lên một tiếng kêu lớn: “Tôi thấy!” Kể
từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ập phủ xuống trên cuộc đời, thì hôm nay thực
sự là lần đầu tiên anh cảm nhận được có ánh sáng trong cuộc đời. Với tất cả sức
lực còn lại, anh muốn thét lên với cây cỏ, với núi non, với thiên nhiên, với
trời cao, với tất cả mọi người như sau: “Tôi thấy! Tôi thấy! Tôi thấy rồi!”.
Thưa anh chị em,
Có những người tự giam mình trong bóng tối, và có những người bị
giam hãm vào bóng tối. Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy không
biết bao nhiêu người vào trong bóng tối. Nếu chúng ta không sống làm chứng tá
cho Tin Mừng, chúng ta khước từ giúp đỡ người xấu số, đó có thể là hành động xô
đẩy người khác vào bóng tối cô đơn của thất vọng, chúng ta cũng tự giam hãm
mình vào bóng tối hay ít ra cũng giảm bớt ánh sáng nơi chúng ta.
Chúa Giêsu đã nói: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Chúa Giêsu đã
nói với chúng ta. Người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu khi họ là ánh sáng thế gian.
Trong Kinh Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã cầu “xin cho các môn đệ Đức Kitô
được toả sáng, nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp
bức”. Ánh sáng không còn khả năng chiếu sáng, ánh sáng ấy trở thành tăm tối.
Hãy chiếu sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng,
một lời nói nâng đỡ ủi an, một nụ cười thông cảm, một đường hướng đưa ra để
đồng hành. Đó chính là những việc làm của ánh sáng mà những người chung quanh
đang chờ đợi ở chúng ta và chúng ta cũng tin rằng một ánh lửa càng được chia sẻ
thì càng được đốt sáng lên và tỏa lan.
“Lạy Chúa, xin cho con được thấy”.
Xin mở mắt con, để con biết nhìn ngắm những cảnh đẹp thiên
nhiên, những kỳ công do tay Chúa tạo dựng trong vũ trụ, trời đất, vạn vật…
Xin mở mắt con, để con thấy những anh em nghèo đói, ốm đau, bệnh
tật quanh con, để con biết yêu thương, nâng đỡ và chia sẻ.
Xin mở mắt con, để con thấy cái tốt nơi người khác, những việc
tốt anh em đã làm cho con trong cuộc sống hàng ngày.
Xin cho con phản chiếu ánh sáng của Chúa trong cuộc đời con, vì
Chúa là Sự Sáng, là Tình Yêu, là Chân Lý và là Sự Sống. Amen.
15. Đức
tin của con đã cứu con – Noel Quesson.
Năm 1945, tại nhà ga Verona bên Ý, dân chúng đang náo nức chờ
các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc xã. Một người lính trẻ
hai mắt đã bị hư, anh lần mò từng bước trên sân ga tiến về chỗ một bà già. Anh
la lên: Mẹ! Và hai mẹ con ôm chầm lấy nhau, khóc nức nở. Bà mẹ xót xa nói: “Làm
sao một người mù lòa như con mà vẫn về được với mẹ”. Người lính đáp: “Con không
nhìn thấy mẹ bằng mắt, nhưng trái tim đã hướng dẫn con”.
Người mù thành Giêricô cũng đã đến với Chúa Giêsu bằng trái tim.
Anh không được nhìn Chúa, nhưng niềm tin của anh đã dẫn anh đến với Người. Anh
được nghe nhiều về Chúa, và lòng trí anh đã ghi nhớ đuợc một số điều căn bản.
Vì thế, nghe xôn xao có Chúa đến gần, anh đã phát biểu niềm tin của mình bằng
tiếng kêu lớn: “Lạy Đức Giêsu, con Vua Đavid, xin thương con”. Do thiện chí và
do ơn trên soi sáng, anh mù đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi nghe người ta bảo:
“Hãy vững tâm đứng dậy. Thầy gọi anh đó”. Anh vội vã liệng áo choàng, nhảy lên
và chạy tới Chúa. Chúa chữa lành anh bằng một lời khen ngợi: “Đức tin của con
đã cứu con”. Anh được khỏi bệnh và gia nhập vào đoàn ngũ những người theo Chúa.
Theo Thánh Marcô thì đây là phép lạ sau cùng Chúa thực hiện
trước khi chịu thương khó. Dưới ngòi bút của Thánh Marcô, các môn đệ Chúa cho
tới giờ chót vẫn như những người mù, sự kiện này làm Chúa rất bận tâm. Chúa đã
ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn (Mc 8,31;9,31;10,34). Và nhiều lần nói về số phận
các tín hữu muốn trung kiên với Chúa phải sẵn sàng hy sinh mạng sống (8,35),
phải chọn địa vị rốt hèn (9,35), phải sẵn sàng móc mắt, chặt bỏ tay chân để
khỏi phạm tội (9,47), phải uống chén đắng và trở nên đầy tớ mọi người
(10,38-44)… Những điều này cho tới giờ các Tông đồ vẫn chưa hiểu. Theo Chúa mà
như vậy. Thầy đi một đường, trò đi một lối như vậy đâu có được! Đúng là không
thể được. Không thể thành môn đệ bằng lối suy tư con người. Cần thiết phải có
ơn Chúa, phải được Chúa mở mắt, đem ánh sáng cho. Có vậy mới nhìn ra giá trị ơn
cứu độ của Chúa và mới biết lựa chọn thái độ nguơì tín hữu, theo sự hướng dẫn
của Chúa. Có vậy mới thoát khỏi cảnh tăm tối u mê như một căn bệnh mù lòa trầm
trọng.
Người hành khất mù được sáng mắt nhờ đức tin. “Đức tin của con đã
cứu con” nghĩa là gì? Là chính đức tin mà Chúa trao tặng cho anh để anh tuyên
xưng trước mặt mọi người. Anh đã can đảm tuyên xưng đức tin ấy bằng cách lớn
tiếng kêu cầu, bằng cử chỉ vứt bỏ áo choàng (nhu cầu tối cần của anh), bằng
cách nhảy chồm lên, vội vã chạy tới Chúa, bất chấp mọi cấm cản của những người
chung quanh. Cặp mắt đức tin của anh đã được bật sáng và anh đã nhìn thẳng vào
đối tượng duy nhất là Đức Giêsu Nagiarét. Nhờ đức tin sống động ấy, anh mù đã
thấy điều mà những người sáng không được thấy (“Con Vua Đavid”, nghĩa là Đức
Kitô, Đấng được Chúa Cha xức dầu bằng Thánh Thần): “Anh liền xem thấy, rồi đi
theo Người”.
Lạy Chúa, xin bật sáng niềm tin chúng con để chúng con nhìn ra
Ngài đang hiện diện với chúng con. Xin giúp chúng con biết can đảm tuyên xưng
Ngài trong mọi tình huống của cuộc đời, để chúng con tiếp tục bước theo Chúa
trên đường phục vụ hôm nay.
16. Mù loà.
Con mắt là một ơn huệ Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Thật
là bất hạnh nếu chúng ta bị mù từ khi mới sinh hay do một tai nạn, một cơn bệnh
nào đó. Chính vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy anh mù tại Giêricô,
ngồi ăn xin bên vệ đường, đã cố gắng làm cho Chúa Giêsu chú ý tới mình, vì anh
ta đã được nghe nói rất nhiều về Ngài, Đấng đầy lòng thương xót, đã thực hiện biết
bao nhiêu phép lạ để xoa dịu những nỗi khổ đau. Bởi đó, anh ta đã lớn tiếng kêu
cầu:
- Lạy Đức Kitô, con vua Đavít, xin thương xót con cùng.
Nếu Thiên Chúa ban cho cặp mắt sáng, chúng ta hãy cảm tạ Ngài.
Nhưng điều quan trọng, đó là chúng ta đã sử dụng cặp mắt ấy như thế nào? Chúng
ta có biết mở mắt ra để nhìn ngắm những cái khả dĩ nâng cao tâm hồn và làm đẹp
cho cuộc đời chúng ta hay không? Đồng thời chúng ta có biết nhắm mắt lại trước
những cái khả dĩ làm cho tâm hồn chúng ta bị hoen ố hay không?
Có một vị hoàng tử được vua cha ban tăng cho hai chú ngựa quí
giá. Thế nhưng cả hai vẫn còn thuộc loại ngựa chứng, chưa biết vâng phục.
Khi vị hoàng tử tới gặp, thì chúng ta không chịu đứng yên một
chỗ hay tiến đến với chủ của mình. Trái lại, chúng ta chạy chỗ này chỗ kia và
thích phi nước đại trên những cánh đồng hoang. Nhưng rồi vị hoàng tử đã ra công
tập luyện và dần dần chúng đã biết vâng phục. Chúng chỉ phi nước đại khi vị
hoàng tử kéo dây cương và thủng thẳng đi từng bước một khi dây cương được buông
lỏng.
Từ những chú ngựa cứng đầu, chúng đã trở nên những con ngựa
ngoan hiền. Kể từ nay, chúng không còn chạy xiên bên nọ, chạy xọ bên kia. Nhưng
chúng bước đi một cách đều đặn với tiếng hí reo vang.
Đây chỉ là một câu chuyện, thế nhưng từ đó chúng ta rút ra một
điều thực hành. Vị hoàng tử chính là mỗi người chúng ta. Nhờ bí tích Rửa tội,
chúng ta đã trở nên con cái Chúa. Ngài cũng đã ban cho chúng ta một quà tặng
quí giá hơn hai chú ngựa kia rất nhiều, đó là cặp mắt sáng.
Cũng như hai chú ngựa chứng, cặp mắt chúng ta luôn nhìn chỗ này
và liếc chỗ nọ. Bởi đó, cần phải biết làm chủ và quản lý chặt chẽ cặp mắt của
chúng ta. Chỉ nhìn những cái làm cho tâm hồn trở nên cao thương và xa tránh
những gì làm cho tâm hồn bị vẩn đục.
Cặp mắt chính là của sổ của linh hồn. Cánh cửa được mở ra để đón
nhận những làn gió mát và những tia nắng ấm, nhưng phải lập tức đóng lại khi
trời mưa gió. Cũng thế, cặp mắt được mở ra để ghi nhận những cái hay, những cái
đẹp để làm giàu cho tâm hồn và cuộc sống, nhưng chúng ta phải lập tức đóng lại
trước những cái làm cho tâm hồn bị hoen ố. Vì thế, Thánh Kinh đã bảo:
- Tội lỗi đột nhập vào tâm hồn qua con mắt như qua một khung
cửa.
Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Adong Eva. Trước hết hai ông
bà đã nhìn ngắm trái cấm, rồi thầm mong được nếm thử. Và rồi những gì xảy ra,
hẳn chúng ta đã biết: Hai ông bà đả ngắt trái cấm mà ăn và phản bội cùng Thiên
Chúa.
Hãy canh phòng con mắt như canh phòng biên giới, đừng đễ cho kẻ
thù đột nhập.
Để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại lời ông Gióp đã nói như sau:
- Tôi đã giao kết với cặp mắt của tôi là sẽ xa tránh những cái
nhìn làm cho tâm hồn tôi xao xuyến.
Nếu bây giờ có gìn giữ cái nhìn, thì tâm hồn chúng ta mới được
sạch trong và mai ngày bản thân chúng ta mới được chiêm ngưỡng Chúa trong vinh
quang muôn đời, bởi vì phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được gọi là
con Thiên Chúa.
17. Tin tưởng.
Một người mù hết lòng tin tưởng kêu xin Chúa cứu chữa và Chúa đã
cho anh được toại nguyện. Đó là một bài học, một gương sáng cho chúng ta trong
việc cầu xin Chúa.
Tên anh mù là Batimê, ngày nào cũng vậy, anh ngồi bên lề đường ở
cổng thành Giêricô để ăn xin mọi người qua lại. Nhưng hôm nay, không hiểu có
chuyện gì mà ồn ào nhộn nhịp thế? Anh hỏi và người cho anh ta biết có Đức Giêsu
đi qua đây. Nghe nói đến Đức Giêsu mà từ lâu anh đã nghe đồn về lòng từ bi và
những phép lạ Ngài làm. Đây là dịp may cho anh nên anh kêu xin với bất cứ giá
nào: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.
Lời kêu xin này, chúng ta thấy có một điều đặc biệt, khác
thường. Anh không chỉ thưa: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương
tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa, anh tuyên xưng danh Chúa trước
mặt mọi người, kể cả trước những người Pharisêu và kinh sư có mặt trong đám
đông đó.
Trong Cựu ước, tước hiệu “con vua Đavít” là tước hiệu nói lên
niềm hy vọng của dân Do Thái vào một vị cứu tinh sẽ giải thoát họ khỏi ách nô
lệ và đem lại vinh thắng cho đất nước. Trong Tân ước, tước hiệu này đã được sứ
thần Gabrien nhắc tới khi truyền tin cho Đức Maria, đó cũng là lời dân chúng
tung hô Chúa Giêsu khi Ngài khải hoàn vào Giêrusalem ngày lễ lá.
Ở đây, anh mù kêu xin Chúa bằng tước hiệu “con vua Đavít” nghĩa
là anh nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế. Vì vậy lời cầu
xin mang một tính chất khác, anh không xin Đức Giêsu như xin những người khác,
những người chỉ có thể giúp cho anh một chút tiền, một chút của ăn để sống qua
ngày. Lời cầu xin ấy chắc chắn là hoa trái của một niềm tin sâu xa trong lòng
anh. Anh tin vì đã nghe người ta đồn thổi về một ông Giêsu đã làm những điều kỳ
diệu, và niềm tin ấy còn đi xa hơn nữa: ông Giêsu lạ lùng ấy chính là Đấng
Mêsia, là Đấng có khả năng cứu anh khỏi cảnh mù lòa, khỏi tình trạng bi đát,
khốn khổ.
Chúa Giêsu đã nghe thấy tiếng kêu xin của anh và Chúa biết được
lòng tin của anh, nên Chúa không cấm anh nói ra tước hiệu của Ngài như những
lần khác, vì lúc này cũng gần đến ngày Chúa chịu nạn, nên Chúa muốn chân nhận
công khai tước hiệu đó, và Chúa đã thương anh thực sự bằng câu nói: “Lòng tin
của anh đã cứu anh”. Thế là anh được sáng mắt, xem thấy rõ mọi người và thấy rõ
chính Chúa.
Bài học hữu ích cho chúng ta là lòng tin và lời cầu xin
của người mù này. Chúng ta thấy anh tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và
anh đặt hết lòng tin vào quyền năng của Chúa, chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp
anh, nên anh kêu xin Chúa, anh gào to xin Chúa, khi mọi người bảo anh im đi,
anh càng gào to hơn để Chúa nghe thấy. Chúa đã thương cứu chữa, cho anh được
sáng mắt do lòng tin tưởng sâu xa của anh. Đây là một bài học quý giá cho chúng
ta.
Thực vậy, Chúa đã ban cho chúng ta một bí quyết để được cứu giúp
là tin tưởng cầu nguyện. Trước hết, chúng ta phải hết lòng tin tưởng vào
Chúa. Chúng ta phải tin rằng: trên vạn nẻo đường của chúng ta, không
phải chúng ta đi tìm kiếm Chúa cho bằng chính Chúa theo đuổi và tìm kiếm chúng
ta. Và trong mọi biến cố cuộc sống, chúng ta phải tin rằng: lúc nào Chúa cũng
có mặt: trong an vui hạnh phúc hay trong thất bại khổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh
chúng ta để mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài. Ngay cả
khi chúng ta muốn khước từ và gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Ngài vẫn tiếp tục
theo đuổi chúng ta. Kinh Thánh đã ví Thiên Chúa như một người tình chung thủy,
lúc nào cũng chờ đợi, lúc nào cũng nài nỉ, lúc nào cũng vỗ về, lúc nào cũng tha
thứ, lúc nào cũng yêu thương. Như thế, lúc nào chúng ta cũng phải tin tưởng vào
Chúa: trong an vui thịnh đạt, chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa, trong thất bại khổ
đau, chúng ta tin tưởng phó thác, và ngay cả những lúc vấp ngã vì yếu đuối,
chúng ta cũng hãy tin tưởng vào lòng tha thứ vô bờ của Ngài. Tóm lại, đức tin
của chúng ta phải đơn sơ nhưng phải phó thác hoàn toàn như đứa trẻ đặt vào cha
mẹ chúng. Bất cứ đứa trẻ nào cũng tin tưởng cha mẹ chúng có thể làm tất cả
những gì mà chúng yêu thích, ước mong, chúng ta cũng phải có đức tin như thế.
Rồi chúng ta thể hiện đức tin đó bằng cầu nguyện.
Cầu nguyện có một sức mạnh có thể lay chuyển cánh tay vạn năng của Chúa, cầu
nguyện là cơ hội để Chúa can thiệp vào hoàn cảnh của chúng ta, cầu nguyện thật
và cầu nguyện đúng như Chúa dạy sẽ giúp chúng ta chạm vào bản tính toàn năng
của Chúa. Nói tóm lại, tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của chúng ta sẽ được
Chúa giải quyết qua lời cầu nguyện đầy tin tưởng và thực tâm của chúng ta.
Vậy tại sao có biết bao lần chúng ta cầu xin mà không được hay
chưa được? Chúng ta cần phân biệt: “Chúa nghe lời chúng ta” và “Chúa ban điều
chúng ta xin”. Thiên Chúa có thể không cho điều chúng ta xin mà vẫn nghe lời
chúng ta, bởi vì khi chúng ta cầu xin, Thiên Chúa có thể đáp ứng nhiều cách:
hoặc ban chính điều chúng ta xin, hoặc chúng ta xin một ơn, Ngài ban một ơn
khác, cũng có khi chúng ta không xin, nhưng Thiên Chúa nhìn xa, Ngài ban cho
chúng ta điều chúng ta cần thiết mà chính chúng ta không nghĩ tới, cũng có thể
chúng ta cầu xin hoài mà Chúa không cho hay chưa cho, là vì Chúa muốn tăng thêm
đức tin của chúng ta khi cầu xin. Vì vậy, trước hết và trên hết chúng ta hãy
xác tín: Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn yêu thương chúng ta. Ngài có làm cho
chúng ta được toại nguyện hay không, hoặc Ngài nhận lời cầu xin của chúng ta
theo cách nào thì cũng đều là vì ích lợi cho linh hồn chúng ta mà thôi.
Tóm lại, Thiên Chúa là một người Cha đầy tình yêu thương. Ngài
muốn chúng ta đến với Ngài, Ngài luôn sẵn sàng cứu giúp chúng ta, với điều kiện
chúng ta tin Ngài và xin Ngài. Vậy trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống
chúng ta hãy hết lòng tin tưởng và tha thiết cầu xin như người mù hôm nay,
chúng ta sẽ thấy được quyền năng Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời chúng ta.
18. Mù loà.
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một
người mù tại Giêricô, từ đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tình trạng mù lòa
thiêng liêng, mà rất có thể chính chúng ta cũng đang mắc phải. Vậy thế nào là
một người mù lòa về phương diện thiêng liêng?
Trước hết, đó là người không nhìn thấy sự hiện diện của
Thiên Chúa qua những kỳ công trong vũ trụ.
Thực vậy, người là một con vật có trí khôn, và với trí khôn, khi
nhìn ngắm trật tự lạ lùng của vũ trụ, chúng ta phải nhận ra sự hiện diện đầy
quyền năng của Thiên Chúa.
Cùng như khi nhìn vào một ngôi nhà, chúng ta sẽ thấy ngôi nhà ấy
không phải tự mình hay do ngẫu nhiên mà có. Sở dĩ nó có là do những người thợ
đã làm nên. Cũng vậy, vũ trụ vật chất này có được là do một Đấng Quyền Năng đã
tạo dựng, sắp xếp và bảo vệ nó.
Chính vì thế, chúng ta có thể nói: người là một con vật có tôn
giáo, một con vật biết hướng tới Thiên Chúa. Đồng thời, thiên nhiên chính là
một cuốn sách khổng lồ, trong đó mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng
ta biết về Thiên Chúa.
Nhìn vào thiên nhiên mà không nhận ra hay cố tình chối bỏ sự
hiện diện của Thiên Chúa, thì quả thực, đó là một người mù lòa.
Tiếp đến, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là người không
nhận ra tình thương của Thiên Chúa qua những ơn huệ Ngài đã ban cho
chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, từng phút và từng giây chúng ta đã lãnh nhận biết bao
nhiêu ơn lành của Thiên Chúa. Từ những ơn huệ tự nhiên cho đến những ơn huệ
siêu nhiên, từ những ơn lành phần hồn cho đến những ơn lành phần xác. Tôi xin
đưa ra một vài thí dụ cụ thể để nói lên sự ân cần chăm sóc Thiên Chúa đã dành
cho chúng ta.
Chẳng hạn về phần xác, nếu không có cơm để ăn, nếu không có nước
để uống, nếu không có khí trời để thở, thì chỉ trong vòng đôi ba phút đến dăm
bữa nửa tháng là chúng ta sẽ chết. Vậy thì gạo, nước và khí trời ấy bởi đâu,
nếu không phải là bởi chính Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.
Vì thế, khi kiểm điểm lại cuộc sống, khám phá ra những ân huệ đó
mà không nhìn thấy tình thương của Thiên Chúa, thì quả thực chúng ta là những
người mù lòa.
Ngoài ra, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là những
người không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những anh em nghèo khổ và
bất hạnh.
Thực vậy, trong Phúc âm rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hóa
mình với những kẻ túng thiếu, bệnh tật và hèn mọn. Qua hoạt cảnh về ngày phán
xét, Ngài đã xác quyết:
- Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy
phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thưở đời đời, vì khi Ta đói các
ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi
đã cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm.
Và Ngài đã kết luận:
- Mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một người anh em hèn
mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Vì thế, nếu chúng ta không nhận ra Chúa đang thực sự hiện diện
nơi những người chung quanh, để rồi cố gắng giúp đỡ họ về tinh thần cũng như về
vật chất, thì quả thực chúng ta cũng là những kẻ mù lòa.
Sau cùng, những người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là
những người không cảm nhận được những nguy hiểm ẩn náu đằng sau những dịp tội.
Họ giống như người mù về phương diện thể xác: đi bên cạnh con rắn độc mà không
ý thức được sự nguy hiểm đang rình rập mình. Vậy dịp tội là gì?
Đó là những hoàn cảnh thúc đảy chúng ta dễ dàng vấp ngã. Thực
vậy, tục ngữ đã bảo:
- Chơi dao có ngày đứt tay.
- Lửa gần rơm, lâu ngày cũng cháy.
Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép
lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.
Vì thế, nếu không nhận ra những nguy hiểm tiềm ẩn đằng sau những
hào nhoáng, những quyến rũ, những mời mọc của dịp tội, thì chúng ta cũng chỉ là
những kẻ mù lòa về phương diện thiêng liêng mà thôi.
Chính vì vậy, chúng ta hãy bắt chước chàng thanh niên mù lòa mà
kêu lên cùng Chúa: Lạy Chúa, xin cho con được thấy.
19. Lòng tin.
Người mù là một kẻ bất hạnh và khổ sở triền miên. Tất cả thế
giới sinh hoạt chung quanh như khép kín, đóng cổng trước mặt họ. Cả một đời họ
phải chấp nhận sống lệ thuộc vào những người khác. Cho nên, tâm lý của người mù
là họ dám làm bất cứ chuyện gì để được sáng mắt. Chẳng hạn như anh mù Batimê
trong bài Tin Mừng, dám coi nhẹ mọi người, bất chấp tất cả, anh kêu gào xin
Chúa Giêsu cứu chữa khi Ngài đi ngang qua thành Giêricô về Giêrusalem.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm một người bạn thân. Hai
người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi
chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một cái đèn lồng để đi đường cho an
toàn. Nhưng người mù nói: “Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như
nhau”. Người bạn trả lời: “Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu
anh không cầm một cái đèn thì trời tối xe cộ có thể chạy đụng vào anh, nguy
hiểm lắm, anh nên cầm đi”. Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay.
Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đi xe Honda đụng phải. Với
vẻ buồn phiền lẫn tức giận, anh mù nói: “Coi kìa, người nào kỳ vậy, đui hay sao
mà không thấy đèn của tôi?”. Người kia đáp: “Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi
nên tôi không thấy. Mong anh thông cảm”. Anh mù tưởng mình
“thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không
thấy đèn mình tắt. Tác giả câu chuyện kết luận: “Con người thường tưởng mình
thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy”.
Anh mù Batimê trong bài Tin Mừng lại khác: anh thấy nhiều cái mà
những người sáng mắt không thấy: anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít, là Đấng
Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể
cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Chúa
Giêsu đã thương anh, cứu chữa anh, cho anh được sáng mắt.
Chúng ta hãy tìm hiểu thêm: đám đông ồn ào tấp nập đi theo Chúa
Giêsu trên đường, còn anh ta ngồi ăn xin bên lề đường. Anh hỏi người ta có
chuyện gì mà ồn ào vậy? Người ta nói cho anh biết có Đức Giêsu đi qua. Có lẽ
anh đã nghe nói về lòng từ bi và uy quyền toàn năng của Chúa Giêsu chăng, nên
anh liền kêu to lên: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người
ta chỉ nói cho anh biết, đó là Đức Giêsu, nhưng anh lại kêu xin “Con vua
Đavít”. Như vậy anh đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai. Anh mù nhưng
anh lại thấy rõ hơn những người sáng đi theo Chúa Giêsu.
Chắc anh phải kêu la to lắm. Còn đám đông lại bắt anh im đi.
Nhưng vô ích đối với anh, đây là dịp may hiếm có của hy vọng bừng lên. Thế là
anh càng kêu gào to hơn cho Chúa nghe được: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót
tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa trong Kinh Thánh. Nghe thế, Chúa
Giêsu dừng chân và truyền gọi anh ta lại. Thế là đám đông thay đổi thái độ.
Trước đó họ bắt anh im đi, bây giờ họ lại khuyến khích anh. Anh liền vứt bỏ áo
choàng, vui mừng nhảy cẫng lên đến với Chúa. Chúa hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho
anh?”. Chúa hỏi như vậy không phải để biết anh muốn gì, xin gì, nhưng là để
tăng thêm lòng tin cho anh, và cũng là dịp để anh tỏ lộ lòng tin công khai. Anh
trả lời: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Anh mù, mắt anh không thấy Chúa,
nhưng lòng anh đã thấy Chúa, vì anh có lòng tin, như Chúa đã xác nhận: “Lòng
tin của anh đã cứu anh”. Bằng một lời đó thôi, Chúa đã thay đổi cuộc đời của
anh: từ nay anh không còn ngồi bên lề đường nữa. Lòng tin đã đưa anh lên đường.
Anh được sáng mắt ngay lúc đó và đi theo Chúa trên đường. Anh sáng của Đấng
Thiên Sai còn giấu ẩn trong Đức Giêsu Nagiarét đã tỏa ra trên anh, trên đôi mắt
anh. Anh là ngọn đèn Chúa đã thắp lên cho mọi người được nhìn thấy Ngài.
Nói rõ hơn, đám đông đang đi với Chúa Giêsu trên đường, nhưng
thực ra là họ đang ở bên lề đường, vì họ đi trên cùng một con đường nhưng chưa
đồng hành với Chúa, chưa đi theo Chúa. Họ sáng mắt, nhưng họ chỉ thấy Giêsu
người làng Nagiaret, chứ không thấy gì hơn. Cũng như họ chỉ thấy một người mù
ngồi ăn xin, chứ không thấy lòng tin của anh. Còn anh mù, anh đã thấy Ngài là
Đấng Thiên sai, con vua Đavít. Anh đã thấy bằng lòng tin khi anh còn mù, và bây
giờ anh đã thấy Ngài tận mắt. Anh đi theo Ngài.
Lòng tin của anh mù đã cứu chữa anh và là bằng chứng để người ta
tin vào Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta là những người đã có đức tin, chúng ta đang
đi theo Chúa. Nhưng đức tin của chúng ta thế nào? Và chúng ta có làm cho người
khác nhận ra đức tin của chúng ta qua đời sống chúng ta không?
Đối với chúng ta, ngoài việc tuyên xưng đức tin trong thánh lễ,
thì trong mọi sinh hoạt hằng ngày chúng ta cũng phải tuyên xưng đức tin nữa
bằng những việc từ thiện bác ái và sống cởi mở với những người chung quanh. Nếu
chúng ta chỉ tuyên xưng đức tin một cách trọng thể, trong những lễ lạc, trong
nhà thờ… mà chúng ta không có một cữ chỉ bác ái đối với những người ngoài là
chúng ta chưa thực sự sống niềm tin ấy. Xin Chúa cho chúng ta biết sống và thể
hiện đức tin trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
20. Sự
mù loà.
Một thanh niên mù từ lúc mới sinh đem lòng yêu thương một cô
gái. Anh càng hiểu biết cô thì tình yêu của anh đối với cô càng thêm sâu đậm.
Anh thấy cô đầy sự duyên dáng và khôn ngoan. Một tình bạn tốt đẹp phát triển
giữa hai người. Nhưng rồi một ngày kia, một người bạn nói với anh thanh niên
rằng cô gái ấy không xinh đẹp. Từ lúc đó, anh thanh niên bắt đầu bớt dần sự
quan tâm đến cô gái. Kể cũng tệ thật. Có bao giờ anh “nhìn thấy” cô gái rất đẹp
đâu. Chính người bạn của anh mới là người mù. Một người mù như anh đâu phán
đoán theo cái vẻ bề ngoài. Chúng ta phải nhớ rằng có sự tỏa sáng bên trong.
Trong thời đại của Kinh Thánh, sự mù lòa là việc rất thường gặp.
Ngày nay chúng ta đã loại trừ nhiều căn bệnh gây ra mù lòa. Và chúng ta cũng đã
phát minh mọi loại dụng cụ để cải thiện thị giác của chúng ta. Chúng ta có các
loại kính thường, kính hai tròng, kính làm cho lộng lẫy, kính trắc địa, kính
viễn vọng, kính hiển thị… Trong lịch sử, chưa bao giờ chúng ta thấy nhiều hơn
và xa hơn bây giờ. Đã hẳn, phép lạ mà Đức Giêsu làm cho Báctimê thường xảy ra
trong các bệnh viện của chúng ta.
Vì chúng ta không mù lòa nên chúng ta nghĩ rằng câu chuyện trong
Tin Mừng không liên quan đến chúng ta. Rõ ràng vì chúng ta thấy được nên bài
Tin Mừng không ảnh hưởng gì đến chúng ta. Nhưng thử hỏi: chúng ta nhìn thấy tốt
đến mức nào?
Báctimê phải chịu sự mù lòa về thể lý. Nhưng có những hình thức
mù lòa khác. Chúng ta biết điều đó khi chúng ta sử dụng những thành ngữ như:
“Tôi hoàn toàn ở trong bóng tối” hoặc “Thình lình bóng tối bao trùm lấy tôi”
hoặc “Nó ở ngay trước mắt tôi thế mà tôi không thấy”. v.v…
Có thể nào một người mù thấy rõ hơn một người sáng mắt? Phải
chăng một người mù cũng có thể nhìn thấy hơn cả một người sáng mắt theo nghĩa
người ấy có nhiều sự hiểu biết và sự soi sáng bên trong?
Thánh Maccô dường như đã hiểu như thế. Thật vậy, xem ra điều này
là điểm chính yếu trong câu chuyện. Báctimê dù bị mù lòa về thể lý, nhưng đã
tin vào Đức Giêsu nhiều hơn các môn đệ khác của Người, dù họ có thị giác hoàn
hảo. Trong khi anh ta không có chút nghi ngờ thì những người kia đầy sự nghi
ngờ và lưỡng lự.
Đó là một điểm xấu nhất mà Đức Giêsu nói về những người đồng
thời với Người. Người nói: “Họ có mắt mà không thấy”. Họ đã chứng kiến những
việc cao trọng Người làm nhưng vốn không tin vào Người. Thiếu đức tin là thứ mù
lòa còn trầm trọng hơn cả sự mù lòa thể chất.
Có một bóng tối xấu hơn bóng tối của Báctimê, bóng tối của sự vô
tín. Nó cắt đứt chúng ta khỏi điều tốt đẹp hơn. Ánh sáng thể chất là một điều
cao cả, một quà tặng mà chúng ta không bao giờ nên coi là điều đương nhiên.
Nhưng ánh sáng tinh thần còn cao cả hơn nữa.
Câu chuyện trong Tin Mừng còn là câu chuyện về ơn gọi làm người
môn đệ, còn hơn cả câu chuyện về việc chữa lành. Khi Báctimê được chữa khỏi anh
có thể ra về để sống cuộc đời của mình và quên đi câu chuyện về Đức Giêsu.
Nhưng không, anh đã trở thành một môn đệ trực tiếp và nhiệt tình của Đức Giêsu.
Anh đi theo Người trên con đường Người đi. Đó là đỉnh cao của câu chuyện.
Từ chỗ chỉ là người tin, Báctimê đã trở thành một môn đệ. Có một
sự khác nhau rất lớn. Người môn đệ sống như Đức Kitô đã sống. Sự sẵn sàng đi
theo Đức Giêsu của Báctimê tương phản với thái độ của các môn đệ còn biết cách
lờ mờ và còn lưỡng lự trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem.
Báctimê ở trong bóng tối cho đến lúc anh gặp được Đức Giêsu.
Chúng ta sống trong bóng tối khi chúng ta nghi ngờ, thù hận, sống trong sai lầm
và thành kiến, khi chúng ta chọn điều xấu. Vì thế, chúng ta có thể thành tâm
cầu nguyện như Báctimê: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy được” để chúng ta thấy
được điều gì là thật sự quan trọng trong đời sống và trên mọi sự. Chúng ta thấy
được với con mắt của đức tin.
Trên trần gian này, dù chúng ta có thể cảm nhận Thiên Chúa,
chúng ta không thấy được chính Thiên Chúa. Chúng ta phải bằng lòng lữ hành
trong ánh sáng của đức tin về miền đất ở đó chúng ta có thể nhìn thấy như đã
được thấy.
21. Chú giải
của Noel Quesson.
Giêrikhô
Về mặt lịch sử, đó là một trong những thành phố danh tiếng nhất
thế giới. Nhưng đó cũng là thành phố “thấp nhất" thế giới: Nằm trong một
miền trũng sâu gọi là Ghor, dưới mặt nước biển 250 mét gần Biển Chết, nên cảnh
vật hoang vắng, lúc nào cũng thấp thoáng bóng dáng thần chết. Ở đây, loại cây
cọ phát triển mạnh, tạo nên một vệt xanh tươi, một ốc đảo. Đó còn là một thành
phố cổ xưa nhất thế giới. Theo ý kiến các nhà khảo cổ học, đã có người cư ngụ ở
đó từ năm 7.800 trước Chúa Giáng sinh, với những di tích đồn lũy có từ 7.000
năm trước Chúa Giáng sinh. Tổ phụ Abraham sống gần chúng ta hơn là thành phố
đầu tiên này, một thành được coi là rất cổ ngay ở thời của tổ phụ.
Về mặt Kinh thánh, Giêrikhô là biểu tượng cho "công việc
tiến vào miền đất hứa" ngay sau khi vượt qua sông Giođan. Đối với khách
hành hương lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, cũng như đối với những đoàn người
từ Galilê đi dọc theo sông Giođan thì đây là chặng đường cuối cùng, vì chỉ cách
thủ đô 35 cây số.
Chúng ta đừng quên rằng, đối với Đức Giêsu cũng vậy, đó là con
đường dẫn đến Giêrusalem. Ngày mai (Mc 11,1) Người tiến vào thành phố để hưởng
chút vinh quang ngắn ngủi của buổi rước lá, dự buổi tiệc ly, trải qua cuộc
thương khó, rồi Phục sinh.
Chữ Giêrikhô trong tiếng Do Thái có nghĩa là "thành phố mặt
trăng", chắc chắn để kỷ niệm việc thờ kính xa xưa. Vị thần của ban đêm.
Chính vì thế mà Đức Giêsu sẽ làm "dấu lạ" cuối cùng: Người sẽ chiến thắng
đêm tối đang giam cầm một người mù đáng thương. Đức Giêsu, ánh sáng của chúng
ta! Anh sáng soi chiếu đêm tối đời ta.
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng
với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô
Trong những ngày trước, theo trình thuật của Maccô (chương 8 đến
10) chính những môn đệ này đã tỏ ra họ hoàn toàn "mù tối" trước định
mệnh thực sự của Đức Giêsu: Họ vẫn còn mơ tưởng danh dự và thành công theo kiểu
loài người (Mc 10,37) trong khi Đức Giêsu đã ba lần báo trước cho họ thập giá
của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,34). Những bài đọc của 6 Chúa nhật vừa qua đã cho
chúng ta thấy rằng, các môn đệ là những người không hiểu biết và với cái nhìn
nhân loại, hoàn toàn không đủ tư cách để bước theo Đức Giêsu: phải "mất
mạng sống mình" (8,35), phải trở nên "người cuối chót" (9,35),
phải tự "móc mắt, chặt tay, chặt chân" để khỏi phạm tội (9,47), phải
"trung thành trong hôn phối" đến độ anh hùng (10,9), phải "uống
chén đắng và nhận phép rửa", phải trở nên "đầy tớ của mọi người"
(10,38-44). Không, lạy Chúa, không thể được đối với con người, dù người đó đã
làm môn đệ của Chúa, nếu chỉ dùng sức riêng của con người để "theo
Chúa".
Một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là
Batimê, con ông Timê
Trong những xứ nghèo ở phương Đông, người bị mù rất đông. Trước
khi phát minh phương pháp Braille cho người mù đọc được chữ nhờ ngón tay, người
mù chỉ sống bằng cách ăn xin, ngồi tại chỗ. Trong biểu tượng Kinh thánh người
mù là "hình trạng" của sự "khó nghèo", của con người bị bỏ
rơi: Hãy nhìn hình ảnh đó! Đó là chân dung của bạn đấy! Con mắt tôi mù như đêm,
bàn tay chìa ra, ngồi xệp dưới đất. Mù, không thể bước đi được, phải lệ thuộc
kẻ khác một cách bi thảm. Nhưng nghịch lý thay, chính người "hành khất mù
ngồi dưới đất" này, lại sắp trở thành gương mẫu cho tất cả chúng ta, cho
các môn đệ là những người cứ "tưởng mình thấy rõ" (Ga 10,39-40).
Người hành khất mù ấy tên là Batimê. Chỉ mình Maccô đã ghi lại
tên của người này. Rất có thể ông Batimê thuộc cộng đoàn những người Kitô hữu
đầu tiên, lúc Maccô viết trình thuật này. Đó là một người mà người ta biết rõ:
Một người đã được Đức Giêsu ban phép lạ. Bạn có biết Thiên Chúa cũng biết tên
bạn, và Người thương yêu bạn với một tình thương cá biệt, không phải là nặc
danh sao?
Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nagiarét, anh ta bắt đầu kêu lên
rằng
Theo thói quen của mình, Maccô luôn tỏ ra rất cụ thể. Chúng ta
sắp xem một đoạn phim ngắn vô cùng linh động, trong đó mọi chi tiết được quan
sát thật tinh tế, và có giá trị biểu tượng khá cao.
Như ta biết người mù có một thính giác rất đặc biệt.
Bằng lỗ tai, ông ta đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người
Nagiarét.
Ngồi trên mô đất ngoài của thành Giêrikhô, ông ta nghe tiếng ồn
ào của một nhóm người đi qua trước mặt mình. Người ta nói cho ông biết rằng, đó
là Đức Giêsu.
“Tôi chưa bao giờ thấy Thánh nhan Người nhưng những kẻ biết
Người, đã nói với tôi về Người. Từ ngày đó, tôi mong Người đi qua và tôi nghe
nói. Hôm nay Người đến.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng ở trong tình trạng của người mù
trên: ta chưa bao giờ thấy khuôn măt của Đức Giêsu. Nhờ đức tin, chúng ta đã
tin vào chứng tá của những kẻ biết Người và chúng ta cũng ngóng đợi bước chân
Người đi ngang qua", Người "đang đến". Một ngày nào đó, chúng ta
sẽ thấy Người.
Anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavit, xin dủ lòng
thương tôi!"
Từ trong bóng đêm của người này một niềm hy vọng cuồng say đã
bùng dậy. Bấy giờ anh ta la hét lên. Anh cất tiếng cầu xin. "Xin thương
xót tôi". Đó là tiếng kêu cứu của anh. Tiếng Hy Lạp là "Kyrie
Eleison". Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu
sĩ ở Hy Lạp, Libăng, Xyria, Ai Cập, Cappadoce vùng Sa mạc... phương thế tự
thánh hóa mình nhờ "lời cầu xin với Đức Giêsu bằng cách chỉ lặp đi lặp lại
cách đơn sơ và không biết mỏi mệt những từ này: Lạy Đức Giêsu, xin thương xót.
Lạy Đức Giêsu, xin thương xót". Trong trình thuật của Maccô, tiếng Hy Lạp
là "Ièsou, eleison, Ièsou, eleison"
Chữ đầu đọc bằng cách hít hơi vào chữ sau bằng cách thở hơi ra,
để nhịp nhàng theo cơ thể một lời cầu nguyện mà người ta muốn tinh thần của lời
kinh thấm sâu vào toàn thể cuộc sống. Trong nhiều giờ liên tục, người ta có thể
"thở" với Chúa trong ngực của mình. Kiểu cầu nguyện cao cả nhưng rất
đơn giản này từ Phương Đông truyền cho chúng ta. Không cần phải đi Katmandou
mới sống bằng thần khí được, vì thần khí muốn thổi đâu thì thổi. Kỹ thuật đáng
thán phục của môn Yoga cũng có thể được những người đơn sơ nhất, sử dụng: vậy
chúng ta hãy học cầu nguyện với hơi thở của mình.
“Hỡi con vua Đavít" ngày mai, ở Giêrusalem, đám đông dân
chúng sẽ cầm cành lá vạn tuế trên tay để tung hô Đức Giêsu (Mc 11,10).
“Bí mật Thiên sai" không cần phải giữ nữa. Giờ đây cái chết
của ông "Vua" thuộc dòng dõi Đavít đã gần kề. Mọi sự hiểu lầm về
chính trị đã được gạt bỏ. Đấng Cứu Thế đã được chờ đón như là người "sẽ
lập lại vương quyền tại Israel". Vì Đức Giêsu lên Giêrusalem, mọi người
đều nghĩ rằng, Chúa sẽ lên "nắm quyền". Người là "Vua",
nhưng không phải theo kiểu những quốc gia trần thế (Mc 10,42; Mt 27,11; Ga
18,33-36) Vương miện của Người bằng gai nhọn. Con vua Đavít sinh ở Bê lem như
tổ tiên, sẽ trị vì ở Giêrusalem như tiên tổ của Người. Nhưng không phải như đám
đông mong đợi. Người sẽ đứng đầu bằng cách làm người sau chót, là nô lệ.
Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn
tiếng: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!"
Thời nào cũng có những người bắt buộc kẻ đáng thương phải im
miệng. Luôn luôn có những hạng người khó mà làm cho kẻ khác hiểu mình: đó là
những di dân, những người sống ngoài lề xã hội, những kẻ khuyết tật và những
nạn nhân đủ loại. Tiếng kêu của người mù Batimê vẫn còn vang lên.
Đức Giêsu đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây!"
Rõ ràng, đó là một chi tiết. Nhưng chúng ta đừng vội lướt qua mà
không tìm hiểu ý nghĩa của nó. Đức Giêsu sai các "môn đệ" bắt đầu
phục vụ những kẻ nhỏ bé. Người nhờ các ông chuyển lời mời gọi của Người. Thiên
Chúa cần con người. Vậy Chúa nói với nhân loại nhờ Giáo Hội của Người. Và Giáo
Hội, chính là chúng ta, chúng ta có lắng nghe tiếng kêu luôn vọng lên chung
quanh chúng ta không? Chúng ta có dội lại cho người anh em chúng ta tiếng kêu
gọi của Chúa hay không? Để dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất? Người ta bàn
cãi rất nhiều lần về "vai trò của Giáo hội": thì chính là vai trò đó!
Bạn hãy lắng nghe tiếng kêu của thế giới. Bạn hãy kêu gọi thế giới, nhân danh
Chúa!
Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người
gọi anh đấy!"
Ở đây có một từ kỹ thuật Hy Lạp đáng lưu ý. "Đứng dậy"
(égeiré) mà đáng lẽ người ta phải dịch là "thức dậy” hay "sống lại"
(Mc 2,9-11; 3,3; 5,41; 9,27; 10,49). Đó là sứ điệp của Giáo hội, nhân danh
Chúa.
Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức
Giêsu
Trong ngôn ngữ Kinh thánh, chiếc "áo ngoài" là biểu
tượng cho quyền lực của con người (2V 2,14, R 3,9). Đụng chạm tới áo ngoài của
Đức Giêsu cũng đủ để lành bệnh. Việc người mù vứt bỏ áo ngoài của mình, tượng
trưng cho một thứ ‘đoạn tuyệt với quá khứ’ của anh. Vào thời Maccô, người vừa
được rửa tội, sẽ cởi áo ngoài của mình để mặc áo rửa tội.
Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?"
Câu hỏi thật kỳ cục, nếu ta chỉ hiểu câu chuyện cách nông cạn.
Chắc hẳn, Đức Giêsu biết rõ người mù đang mong đợi điều gì nơi Người. Nhưng
cảnh này được coi như một lễ rửa tội từ đầu đến cuối: Người dự tòng cần phải
được “soi sáng" để tự mình "tuyên xưng Đức tin".
Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được"
Vào thời Maccô, người ta gọi phép rửa là "việc khai
sáng". Đó là bí tích mở mắt.
Lạy Chúa, xin cho con được thấy: Lạy Chúa, xin mở mắt con ra.
Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!"
Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi
Phép rửa đó là bước vượt qua từ bóng tối tiến tới ánh sáng. Đó
là công cuộc cứu độ: điều không thể đối với con người, nếu chỉ dựa vào sức
riêng của mình, nay đã trở nên có thể và đó là bắt đầu theo Đức Giêsu. Luca sẽ
nói về các môn đệ làng Emmau: "Lúc bấy giờ mắt họ mở ra". Vâng, họ đã
mù, dù là với đôi mắt mở rộng.
Về phần anh Batimê, anh sẽ mãi mãi nhớ "khuôn mặt đầu
tiên" mà anh đã thấy, khi mắt anh đã được mở ra. Lạy Chúa, khi nào mắt
chúng con sẽ được mở ra. Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!