Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN - B
CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN - B
MỤC LỤC
32. Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
33. Vác thánh giá theo Chúa ...Catholic.org.tw
34. Người tôi tớ đau khổ Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
35. Tin theo Đức Kitô Lm Giuse Đinh lập Liễm
36. Lời báo đầu tiên về cuộc khổ nạn Học Viện Đà Lạt
37. Kiên quyết loan báo thập giá Chú giải của Noel Quesson
38. Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô Jacques Hervieux
39. Khám phá quan trọng Chú giải của William Barclay
40. Đấng Cứu thế chịu đau khổ...Lm. Phêrô Lê văn Chính
41. Con đường làm môn đệ Chúa Sưu tầm
42. Chúa Kitô là ai? Sưu tầm
43. Thách đố của niềm tin Sưu tầm
44. Bạn nghĩ gì về Đức Kitô Sưu tầm
1. Nói và làm
Kể từ khi xuất hiện trong cuộc sống công
khai, Chúa Giêsu đã trở nên một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho người ta phải
bàn tán xôn xao.
Dân làng Nadarét đã thầm nghĩ: Ngài
chẳng phải là con bác phó mộc, Mẹ Ngài và anh em Ngài chẳng phải là những người
đang sống giữa chúng ta đó sao? Bởi đâu mà Ngài lại làm được những việc lạ lùng
như vậy? Hêrôđê cũng đã thắc mắc: Gioan thì trẫm đã chém đầu, còn người này là
ai mà lại thực hiện được những việc kỳ diệu đến thế? Còn dân chúng, người thì
bảo Ngài là tiên tri Elia, hay một tiên tri nào đó. Kẻ thì nói Ngài là Gioan
Tiền Hô.
Trước những luồng dư luận khác biệt như
vậy, Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ phải xác định lập trường của mình, nên đã
lên tiếng hỏi: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô thay mặt cho nhóm 12 đã
tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và như thế, Phêrô đã
tuyên xưng đức tin bằng lời nói.
Liền sau đó, Chúa Giêsu tiên báo cho các
ông về cuộc tử nạn của Ngài. Và lần này, Phêrô đã lên tiếng can ngăn và đã bị
Chúa quở trách nặng lời: Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì tư tưởng của ngươi chỉ là tư
tưởng của loài người, chứ không phải là của Chúa. Và như vậy, mặc dù ông đã
tuyên xưng đức tin bằng lời nói, nhưng rốt cuộc ông đã không tuyên xưng bằng
việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Với chúng ta cũng vậy, hằng ngày chúng
ta vốn thường làm dấu thánh giá, đọc kinh Tín Kính và kinh Sáng Danh, chúng ta
tuyên xưng những mầu nhiệm chính trong đạo. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tuyên xưng
bằng lời nói mà thôi. Còn việc làm và cuộc sống của chúng ta thì sao? Rất có
thể lúc này chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, bằng miệng lưỡi,
chứ chưa hề tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống. Bởi vì bản thân
chúng ta còn chìm trong tội lỗi, con người chúng ta còn đang chối từ thập giá
để chạy theo ý riêng.
Do đó, cần phải kiểm điểm lại cuộc sống
xem chúng ta đã tuyên xưng đức tin của mình như thế nào? Để giúp chúng ta trở
nên môn đệ của Chúa cũng như tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống,
Chúa Giêsu đã đưa ra hai điểm chính yếu:
Điểm thứ nhất, đó là hãy từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ tất cả những tư tưởng, lời nói và
việc làm đi ngược với thánh ý Chúa, từ bỏ con người cũ với những tội lỗi để mặc
lấy con người mới với tinh thần của Chúa.
Điểm thứ hai đó là hãy vác lấy thập giá
mình. Nghĩa là hãy chấp
nhận những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải, bởi vì chính những hy sinh gian
khổ này, tuy âm thầm và nhỏ bé, sẽ kết thành cây thập giá đời thường, Chúa muốn
chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
2. Về phần con, con bảo Thầy là ai?
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, "Đức Giêsu và các môn đệ
của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi
các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" Các ông đáp: "Họ bảo Thầy
là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn
sứ nào đó." (Mc 8, 27-28)
Như thế, người Do-thái đồng thời với
Chúa Giêsu không biết đích xác Người là ai. Họ tưởng Người chính là Gio-an Tẩy
Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Người là ngôn sứ
Êlia xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Người là
một ngôn sứ nào đó.
Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận
quần chúng về mình, Chúa Giêsu quay sang hỏi các ông: "Còn anh em, anh em
bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô." (Mc 8,
29)
Thế là ngoài Phêrô, dường như chẳng ai
biết được chân tướng của Chúa Giêsu. Phêrô quả có phúc lớn vì được biết căn
tính của Thầy mình.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu hỏi
nầy với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta bày tỏ nhận định ta có về
Người: "Về phần con, Thầy là ai đối với con?"
Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm
thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng chúa nhật, vừa hút thuốc vừa
dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: "Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là
một vị Thẩm Phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến
gì Chúa Giêsu, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi miễn
cưỡng đến ngồi đây dự lễ."
Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số
doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: "Đối với
chúng tôi, Chúa Giêsu là một ông Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng
tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì
chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hẳn hoi. Nếu ổng không giúp
chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác."
Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một
nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: "Chúa Giêsu là ai ư? Thật
tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Điều đó chẳng đáng quan tâm. Có lẽ khi
nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong
cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Người... Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ thành
khẩn kêu cầu Người như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao cứu
sinh!"
Thế là đối với nhiều người, Thiên Chúa
chỉ là vị Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm
phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giêsu:
"dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách
Ta." (Mc 7,6)
Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn
con yêu dấu của Người nhận định về Người như thế.
Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính
của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Kitô là ai, Chúa Giêsu liền
bày tỏ cho họ biết Người chính là Đức Kitô, nhưng không phải là một "Đức
Kitô vinh thắng" chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa
như người Do-thái mong đợi, nhưng là một "Đức Kitô nhẫn nhục" hiến
mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Người tỏ cho môn đệ biết: "Con
Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ,
bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại." (Mc 8,31)
Thế đó, Đức Kitô là Đấng yêu thương
chúng ta hết lòng hết sức trên hết mọi sự, yêu đến nỗi đã hiến mạng vì ta.
"Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của Người chết vì bạn hữu
mình."
Vậy mà tiếc thay, nhiều người không nhận
ra tình yêu vô biên của Chúa nên xem Người như kẻ xa lạ, không dành cho Người
một chỗ đứng trong trái tim mình, trong cuộc đời mình. Đối với một số người, có
Chúa cũng như không.
Dostoievsky, văn hào vĩ đại nhất của
nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giêsu làm Thần Tượng của mình và đã tuyên
xưng:
"Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ,
sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, dù có ai
chứng minh với tôi rằng Đức Kitô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn
ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý". (Thư gửi bà Von Vizine)
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần
con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:
Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để
đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu
thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.
Vì thế, con xin chọn Chúa làm Thần Tượng
của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.
3. Người ta bảo Thầy là ai?
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm
đọc quyển sách "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu". Nhiều người cho
rằng quyển sách này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa
Giêsu như một con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám
dỗ cho tới giờ phút cuối cùng.
Quyển sách "cơn cám dỗ cuối cùng
của Chúa Giêsu" mô tả về một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và
nhiều tài năng. Có một thiếu nữ rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là
Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn
bị thôi thúc bởi một tiếng gọi cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao
bao người khác. Chàng quyết định từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin
mừng có thể đem lại cho con người hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất
tình đã buông trôi cuộc đời trong chốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập
được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó
lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật
sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây
phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại
cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna
làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình,
nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua
đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục
đầu tắt thở.
Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con
người để viết về nhân tính của Chúa Giêsu. Một con người bình thường, sinh ra,
lớn lên, rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ
khước tiếng nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng
được con người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ
vì không thực tế, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều người kính trọng
nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.
Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng
như hôm nay, luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử
để hưởng thụ mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận
đường lối của Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của
con người. Có chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của
nhân loại, nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường
ngày của họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới
răn của Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái
cho họ.
Có người nói rằng theo đạo làm chi, phải
đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.
Có người nói rằng theo đạo làm chi để bị
ràng buộc bởi quá nhiều lề luật.
Có người cho rằng theo đạo phải giữ luật
công bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.
Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng
luật Chúa thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.
Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu khó
khăn. Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi. Vì
Chúa mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra phần
đông nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và xét
đoán. Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc, đôi
khi lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình...
Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa
Giêsu như vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự
do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn
đòi hòi triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá,
phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là
Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường,
phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con
người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị
những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.
Với những đòi hỏi đó, phải có cái nhìn
đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy, mới có thể tuân giữ lời
Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy
là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: ai bước đi theo Ngài sẽ
không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh
phúc bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh
triều thiên vinh hiển ngày mai.
Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài,
danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt
tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng nói. Nếu chết là hết thì
cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng loại. Người ta đâu cần rèn
luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người ta chỉ cần vun quén cho bản
thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường mà con người
là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau. Nhưng cuộc đời không dừng
lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời
con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn
chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ
đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả
vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để
theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm
từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo
huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của
chúng ta hôm nay?
Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như
Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc
trường sinh mai sau. Amen.
4. Đức Kitô.
Người ta bảo Thầy là ai? Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự
quan tâm tới dư luận của quần chúng về Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò
ý kiến về kết quả công việc Ngài đã làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa
Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài đón nhận những điều Ngài sắp nói với
các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi
người.
Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được,
tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác
người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu
muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do
dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Tin không phải là lặp lại ý kiến, lập
trường của kẻ khác mà là biểu lộ chính ý kiến, chính lập trường của mình. Phêrô
đã trả lời đúng câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra: Thầy là Đức Kitô. Qua câu trả
lời, Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của ông nơi Thầy mình. Ông đã nhận ra được
Thầy mình là ai.
Nhưng sự việc diễn ra sau đó lại chứng
tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng tin của Phêrô chưa trọn vẹn. Ông mới chỉ có
những hiểu biết đúng về Thầy. Thực ra, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định,
chẳng phải tự ông đã biết được Ngài là Đức Kitô, mà là do Chúa Cha mà ông biết
được điều đó. Lòng tin ấy, sự hiểu biết ấy chỉ trọn vẹn khi ông chấp nhận đi
con đường Chúa Giêsu đang chuẩn bị đi tức là con đường cứu độ, con đường thập
giá.
Và ở điểm này, Phêrô đã vấp ngã thật
nặng nề, bởi vì ông đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không phải
bằng cái nhìn của Thiên Chúa, hay đúng hơn, theo như Ngài hoạch định, mà là
bằng chính cái nhìn của ông, theo cách tính toán của ông. Lời can ngăn của
Phêrô đã trở thành việc cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực
hiện. Phêrô không muốn Thầy mình bị bắt, bị giết đi trong khi chính Chúa Giêsu
lại thấy rằng đó là con đường Ngài phải đi. Đó là con đường của Ngài và đó cũng
là con đường của những ai muốn theo Ngài, muốn trở nên môn đệ của Ngài.
Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Câu hỏi này vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người
chúng ta hôm nay. Và chúng ta có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của
Ngài với tất cả vốn liếng về Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta.
Thế nhưng trong hành động thì sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là
những người ngăn cản việc thực hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng
thái độ khước từ đau khổ, khước từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc
sống thường ngày.
5. Đau khổ.
Kinh nghiệm cho thấy: Đau khổ là một cái
gì gắn liền với thân phận con người. Giáo lý nhà Phật thì cho rằng: Đời là bể
khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Tuy nhiên, đau khổ không phải chỉ là một
cái gì đáng nguyền rủa và lẩn tránh, trái lại nó còn có một giá trị tích cực,
đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta như tục ngữ đã bảo: Lửa thử vàng, gian nan
thử đức. Hay như Khổng Tử cũng đã bảo: Ngọc không dũa không sáng, người không
bị gian nan thử thách, thì cũng khó mà trở nên hoàn thiện.
Cũng trong chiều hướng ấy mà Chúa Giêsu
đã phán qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác
thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sau đây tôi xin đưa ra một vài trường
hợp cụ thể để nói lên sự thật ấy.
Trường hợp thứ nhất là của O’Neill. Mãi
đến năm 23 tuổi, ông vẫn còn là một kẻ thất bại, sống không mục đích, không
định hướng, không kỷ luật. Thế rồi ông bị đau và chính nhờ thời gian nằm điều
trị tại bệnh viện, ông mới có được dịp may để suy nghĩ và định hướng cho cuộc
đời mình. Ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông, để rồi ông đã trở
thành một người nổi tiếng.
Trường hợp thứ hai là của bà Golda Meir.
Lúc ban đầu bà rất thất vọng vì mình chỉ là một cô gái trời bắt xấu. Thế nhưng
về sau, bà mới nhận ra rằng: không được đẹp đối với bà lại là một may mắn, bởi
vì điều đó đòi buộc bà phải phát triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng bà
hiểu ra rằng phụ nữ không được ỷ lại vào sắc đẹp của mình, nhưng trái lại phải
làm việc chăm chỉ, nhờ đó mang lại lợi ích cho bản thân. Nói cách khác, bà đã
biết chấp nhận thập giá của mình, can đảm vác nó lên vai để rồi cuối cùng bà đã
trở thành vị nữ thủ tướng đầu tiên của người Do Thái.
Một tác giả nổi tiếng, Oscar Wilde đã
viết: Đau khổ chính là mảnh đất thánh. Đức Kitô không thể đi vào tâm hồn chúng
ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã tan nát.
Từ những kinh nghiệm trên, chúng ta đi
tới kết luận: Cuộc đời không phải lúc nào cũng chỉ là một mầu hồng, trái lại
rất nhiều khi nó bị nhuộm bởi một màu đen với những đau khổ và cay đắng.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng Phúc âm, thì
đau khổ không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc và hủy diệt, bởi vì nó có thể trở
nên một nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau để biến đổi chúng ta thành
người tốt lành hơn, thánh thiện hơn, khiêm nhường hơn, cảm thông hơn. Đau khổ
có thể mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc đời tốt đẹp hơn là chúng ta đã từng
mơ ước.
Ngoài ra, đau khổ sẽ giúp chúng ta nhận
ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa bởi vì giữa ánh nắng chói chang của mặt
trời, chúng ta không thể nào nhìn thấy những vì sao. Trái lại, vào những đêm
khuya tăm tối chúng ta sẽ dễ dàng thấy được những ánh sao trên bầu trời. Cũng
vậy, nhiều người trong chúng ta đã tìm thấy Chúa giữa những đêm đen của khổ
đau, mà trong những lúc hạnh phúc chói chang họ đã quên lãng Ngài. Hãy biết đón
nhận thập giá cuộc đời, bởi vì mọi sự đều là hồng ân.
6. Thần tượng của ta là ai? – Lm. Anmai
Cuộc sống chúng ta, nhất là giới trẻ,
ngày hôm nay giới trẻ chạy theo một nền trào lưu, một nền văn hóa đó là văn hóa
thần tượng.
Người thích đá banh thì chọn cho mình
người nào mà mình thích làm thần tượng cho mình, người thích ca nhạc thì cũng
sẽ tìm cho mình một ca sĩ để làm thần tượng, người thích xem phim thì sẽ chọn
cho mình một diễn viên điện ảnh nào đó hot để làm thần tượng. Điều này, xem ra
thì cũng có lý đó nhưng rồi những ngôi sao ca nhạc, ngôi sao đá banh, ngôi sao
điện ảnh đến một lúc nào đó cũng sẽ chìm vào quên lãng để nhường ngôi cho người
khác. Thế rồi những thần tượng mà xưa kia người ta tôn lên sẽ chợt tắt, và cứ
như thế mãi, thần tượng cứ mãi vần xoay vì lẽ chẳng ai có thể tồn tại mãi trong
cõi đời này.
Tất cả những ngôi sao mà người ta chọn
đó vẫn chỉ là con người để rồi không thể tồn tại mãi, không bền vững như người
ta tưởng.
Thần tượng, vẫn là sự tự do lựa chọn của
mỗi người, chẳng ai có quyền ép người khác chọn cho mình thần tượng.
Ngày hôm nay, trong câu chuyện của thầy Giêsu
với các môn đệ chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu chất vấn các môn đệ của mình về
Thầy: "Người ta nói Thầy là ai?". Các môn đệ đáp: "Họ bảo Thầy
là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ
nào đó". Và, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ thì Phêrô trả lời ngay: "Thầy
là Đấng Kitô".
Thế đấy! Đi theo Thầy, ở chung với Thầy,
sống chung với Thầy nhưng người ta không nhận ra để rồi định nghĩa không đúng
hay không dám định nghĩa hay không dám nói về Thầy của mình. Thật là chán! Chỉ
có mình Phêrô can đảm nói về Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa bắt đầu dạy cho các ông
biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư
loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.
Nghe những lời đó xong thì ông Phêrô
liền kéo riêng Chúa ra và bắt đầu trách Chúa thế nhưng Chúa lại trách ngược lại
Phêrô: "Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư
tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người".
Như thế, thêm một chuyện nữa là xác nhận
Chúa Giêsu là một chuyện nhưng Chúa Giêsu đó là ai trong cuộc đời là chuyện
khác. Giêsu thật sự được Isaia vẽ lên trong trang sách mà chúng ta vừa nghe:
Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng
tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc
phỉ nhổ.
Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế,
tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người
ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi?
Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi?
Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là
Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội?
Một hình ảnh Giêsu, một hình ảnh thần
tượng như thế nghe xong cũng sẽ phản ứng như Phêrô là kéo Thầy ra để bảo Thầy
đừng làm như thế nghĩa là lên Giêrusalem chịu đau khổ. Nếu như phản ứng như thế
cũng chỉ là phản ứng, suy nghĩ của thế gian. Phản ứng, suy nghĩ của những người
có niềm tin vào Chúa sẽ là người đi theo con đường khổ nạn của Thầy Chí Thánh vì
lẽ chỉ có con đường thập giá mới đạt đến vinh quang như Thầy của mình.
Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây, Chúa
Giêsu cũng sẽ hỏi chúng ta rằng người ta bảo Chúa là ai và ta, ta sẽ trả lời
với Chúa rằng Chúa là ai trong cuộc đời chúng ta. Ngày hôm nay, cũng có nhiều
người tuyên tín vào Chúa Giêsu nhưng chỉ tuyên tín ngoài môi ngoài miệng. Niềm
tin như Thánh Giacôbê trong trang thư của Ngài mà chúng ta vừa nghe không phải
ở môi miệng nhưng ở hành động: "Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin
mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu
người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và
không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi
bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân
xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động
thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: "Bạn, bạn có đức tin;
còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành
động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.
Rõ ràng tin là hành động chứ không chỉ
dừng lại ở lời tuyên tín.
Với khả năng hạn hẹp cũng như yếu đuối
của mình, con người thường dừng lại ở lời tuyên tín hay chỉ ở trên môi miệng.
Khoảng cách từ miệng đến bàn tay quả là xa. Nói yêu Chúa, tin Chúa thì dễ nhưng
thực hành lời yêu thương không phải là chuyện giản đơn.
Những lời yêu thương, những lời trao
nhau niềm tin chúng ta vẫn thường nghe hàng ngày, hàng giờ và thậm chí ngay bản
thân chúng ta vẫn nói lời tin yêu đó nhưng lời nói đó thực hiện được như thế
nào hay nó chỉ ở bờ môi chót lưỡi mà thôi. Điều nghịch lý là ai trong chúng ta
cũng mong những lời nói thành hiện thực nhưng chúng ta lại không thực hiện.
Và với con người bất nhất đó, chúng ta
cứ mãi tôn thờ và chạy theo thần tượng nào khác như thần tượng ca sĩ, nhạc sĩ,
diễn viên để lấp vào thần tượng căn cốt trong đời chúng ta. Tệ hơn những thần
tượng nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên... chúng ta chạy theo thần tượng là tiền, là
danh, là vọng. Mà, thật sự chẳng cần phải nói nhiều ai ai trong chúng ta cũng
biết những thần tượng đó chỉ là phù vân, bạc bẽo, mau qua chóng tàn...
Cứ nhìn kỹ lại, tất cả những thần tượng
vật chất, con người ấy thật mau qua chóng tàn vô cùng. Mỗi người chúng ta, ngày
mỗi ngày lại già thêm một tuổi, lại cứ phải gần đất xa trời thêm một tí và thử
nhìn lại xem, tất cả chẳng là gì cả. Phù vân và tất cả cũng chỉ là phù vân
thôi.
Xin cho chúng ta học nơi tấm gương của
Thánh Phêrô là tuyên tín Thầy mình cũng như đã sống niềm tin ấy trọn vẹn. Vẫn
mang trong mình phận người yếu đuối, Phêrô không chỉ dừng lại ở chỗ kéo Thầy
mình không cho Thầy đi lên Giêrusalem chịu khổ nạn mà còn chối phăng Thầy mình.
Thế nhưng đàng sau những vấp ngã của con người ấy Phêrô chợt giật mình tỉnh
giấc để sống trọn vẹn niềm tin của mình.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, qua lời
chuyển cầu của Thánh Phêrô để chúng ta không chỉ tuyên tín nhưng còn sống lời
tuyên tín về Thầy Chí Thánh trong cuộc đời của mình.
7. Thầy là ai? – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Nhiều người đã gặp Chúa, nghe Chúa giảng
và chứng kiến các phép lạ Chúa đã thực hiện nhưng vẫn chưa biết Chúa là ai. Cho
dù nhiều người đã được thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu: "Đây là Chiên Thiên
Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian (Ga 1, 29). Ngay cả những người thân tín
nhất là các tông đồ, cũng không biết căn tính thật của Chúa. Người ta đi hết
ngạc nhiên ngày tới ngạc nhiên khác, tò mò nhìn xem phép lạ, muốn thưởng thức
bánh miễn phí và chứng kiến nhiều sự lạ nhưng nhiều người chỉ nghĩ Chúa Giêsu
là một tiên tri nào đó. Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Còn anh em,
anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô."
(Mc 8, 29).
Sau lời tuyên xưng của ông Phêrô: Thầy
là Đấng Kitô, Chúa Giêsu đã hé mở về sứ mệnh của Ngài:Rồi Người bắt đầu dạy cho
các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng
kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại (Mc 8,31). Chúa Kitô
chọn con đường khổ giá để tới vinh quang sống lại. Con đường Chúa đi là con
đường hẹp, con đường thánh giá và đỉnh cao là núi Sọ. Lời tiên báo của Chúa
Giêsu ứng nghiệm với những lời diễn tả của tiên tri Isaia về Người Tôi Tớ chịu
nhạo báng trong đau khổ: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người
ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 5, 6).
Thầy là ai? Chúng ta thử tìm hiểu qua chính lời mạc khải của Chúa
Giêsu.Chúa phán: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không
ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Ngài nói tiếp: "Tôi là
ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận
được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga 8, 12). Chúa Giêsu là đường dẫn chúng
ta đến sự sống muôn đời. Chúa chính là ánh sáng soi dẫn đưa chúng ta đến sự
thật viên mãn. Ngài là nguồn và là trung gian ban phát sự sống. Có có uy quyền
tạo dựng, biến đổi và thánh hóa cả hồn lẫn xác.
Thầy là ai? Chúa Giêsu giới thiệu: Tôi chính là Mục Tử nhân lành.
Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 11). Thầy đã hy
sinh mạng sống để đền bù và chuộc tội cho nhân loại. Ngài là Đấng trung gian
giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Ngài đã mang lại niềm
hy vọng cho những ai đang trong cơn lầm than sầu khổ. Ngài phán: Tôi là cửa. Ai
qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ (Ga 10.
9). Chúa Giêsu mở lối cho mọi người tìm đến ơn cứu độ. Muốn vào nước trời,
chúng ta phải đi qua cửa chính là Chúa Kitô. Chịu Phép Rửa trong Chúa, tuyên
xưng niềm tin, sống và thực hành lời Chúa. Chúng ta không chỉ nói: Lạy Chúa,
lạy Chúa là được vào nước trời nhưng là thực hành ý Chúa.
Thầy là ai? Chúa Giêsu phán:"Chính tôi là bánh trường sinh.
Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6,
35). Thầy là bánh từ trời ban xuống cho nhân loại: "Tôi là bánh từ trời
xuống." (Ga 6,41). Thầy là bánh có đủ mọi mùi thơm ngon và là bánh trường
sinh. Hãy đến và đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng thỏa
thuê bằng chính nguồn ân sủng của Ngài. Lãnh nhận bánh hằng sống là nguồn sự
sống và là sự sống viên mãn. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết:
"Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết,
cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Niềm hy vọng tuyệt hảo của thân phận của con
người là sự sống lại ngày sau để hưởng phúc thanh nhàn.
Thầy là ai? Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Ngài: Thầy ở
trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc
Thầy làm (Ga 14, 11). Khi Chúa Giêsu biến hình trên núi đã có tiếng phán từ
trời cao: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người."(Mc 9, 7).
Chúa Giêsu thuộc về thượng giới đã hạ sinh mang thân phận con nguời như chúng
ta ngoại trừ tội lỗi. Chúa Giêsu bảo: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi
bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế
gian này (Ga 8, 23). Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống thế gian và khi hoàn
tất sứ mệnh Ngài trở về cùng với Cha của Ngài.
Đối với các Kitô hữu, chúng ta xưng tụng
Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cần lắng nghe của lời Ngài chỉ
dạy. Vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu là bước theo con đường của Ngài đã đi
qua.Đường của Chúa là con đường khiêm hạ, con đường sự thật và con đường khổ
giá. Khổ giá sẽ tôi luyện niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô không phải là học
hiểu một số kiến thức, tỏ lòng sùng mộ hay việc cử hành một số nghi lễ, mà
chính là sống niềm tin của mình trong cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta phải sống
đức tin trưởng thành mà chúng ta đã được lãnh nhận qua các Bí Tích trong Hội
Thánh. Đức tin là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta bước theo gót Chúa Kitô.
Thánh Giacôbê tông đồ đã phát biểu rằng: Cũng vậy, đức tin không có hành động
thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17). Lời nói đi đôi với việc làm. Người ta
nói: Lời nói mây bay, gương bày lôi kéo. Đời sống đức tin được thể hiện qua
cách sống đạo hằng ngày trong ý tưởng, lời nói và việc làm.
Chúa Giêsu mời gọi:Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt
11, 28). Chúa Giêsu đầy lòng thương xót với những ai cậy trông vào Chúa. Chúng
ta cũng biết rằng Chúa có quyền năng ban phát ân huệ cho mọi loài nhưng theo
chương trình và sự quan phòng của Chúa. Chúa ban cho con người có tri thức, có
khả năng, có thời giờ và có phương tiện để chế ngự những khó khăn bất thường.
Chúng ta phải có gắng với hết sức mình trong mọi lãnh vực cuộc sống để tìm
phương hướng giải quyết các vấn đề. Chúng ta đừng khi nào thất vọng, chán nản
và bỏ cuộc. Chúa nói điều quan trọng là: Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và
hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ
được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 29). Lời của Chúa thật ngọt ngào, nhẹ nhàng và
thấu đạt tâm hồn.
Lời tâm huyết nhất của Thầy Chí Thánh
gởi gắm cho các môn đệ là: Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở
điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau."(Ga 13, 35). Dấu chỉ để nhận
ra sự hiện diện của Chúa giữa anh chị em là chúng ta hãy yêu thương nhau. Yêu
thương là cốt lõi của mọi sinh hoạt sống đạo và là giới răn trọng nhất. Thiếu
sự yêu thương, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Không có tình yêu,
ngôn từ trở thành sáo ngữ. Vắng bóng tình yêu, các công việc bác ái trở thành
sự khoe khoang. Không có lòng yêu thương, mọi cách đối xử giao tế nhân sự trở
thành hình thức và giả hình. Yêu thương là chất keo gắn kết tinh thần của mọi
người chung hợp với nhau. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, muốn trở thành môn đệ của
Chúa Giêsu, chúng ta phải yêu thương nhau.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là
Con Thiên Chúa, là Đức Kitô, là Thầy, là người chỉ đạo, là nguyên khởi và là
cùng đích của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng nơi
Chúa và bước theo con đường Chúa đã đi xưa, để chúng con cùng được chia sẻ đau
khổ thập giá và vinh quang sống lại. Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào
Chúa.
8. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Phụng vụ Lời Chúa trước đây đã tường
thuật những việc làm và lời giảng của Chúa. Hôm nay, các bài đọc hướng đến
những người nghe Chúa và nói về đức tin của họ. Đức tin của người Tôi trung
trong Cựu Ước và của ông Phêrô trong Tân Ước đều là những thí dụ điển hình để
ta có những ý niệm phong phú về lòng tin ta. Tuy nhiên đức tin không phải là mớ
lý thuyết suông, mà phải được thực hành trong cuộc sống. Đó cũng là điều thánh
Giacôbê Tông đồ nhấn mạnh qua bài đọc hai.
1. Đức tin của người Tôi trung: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám
kết tội?” (bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 50:5-9a)
Vì có lòng tin vững vàng vào Thiên Chúa
nên người Tôi trung mới dám thách thức như vậy. Đây là bài thứ ba trong loạt
bài ca người Tôi trung trong sách ngôn sứ I-sai-a. Gọi là người Tôi trung, vì
người ấy luôn trung thành đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy giúp
họ biết nhận ra những điều Thiên Chúa làm cho mình và sẵn sàng thi hành những
gì Chúa muốn. Niềm tin cũng là sức mạnh để nhờ đó họ có thể đương đầu với tất
cả những khó khăn, thậm chí những bách hại cũng không làm họ nao núng chút nào.
Vậy Thiên Chúa đã làm gì cho người Tôi trung?
Trước hết, Thiên Chúa “mở tai” cho người
Tôi trung. Mở tai là để họ có thể lắng nghe lệnh truyền của Thiên Chúa. Tuy
nhiên người Tôi trung vẫn có tự do trước lệnh truyền của Người, hoặc đón nhận,
hoặc cưỡng lại hay từ chối. Ở đây niềm tin vững mạnh khiến người Tôi trung đặt
lệnh truyền của Chúa lên trên hết và quyết tâm thi hành.
Khi người Tôi trung bị thử thách và bách
hại, niềm tin ấy là động lực giúp họ can đảm ứng phó với mọi hoàn cảnh. Cử chỉ
“đưa lưng cho người ta đánh đòn”, “giơ má cho người ta giật râu” và “không che
mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” diễn tả thái độ bình tĩnh và tự chủ, là những đặc nét
của niềm tin lớn lao nơi Thiên Chúa. Để làm vinh danh Chúa, người Tôi trung
chấp nhận cả những điều bất công đáng lẽ họ có thể phản kháng. Đối với người
Tôi trung, sự phù trợ của Thiên Chúa là một thực tại rõ ràng và tuyệt đối.
Không gì có thể làm cho họ mất xác tín vào sự phù trợ ấy. Mối nguy hiểm lớn lao
nhất của người Tôi trung là phải làm chứng cho công lý. Nhưng có Thiên Chúa là
“Đấng tuyên bố rằng họ công chính và ở kề bên họ” nên họ không sợ bất cứ ai kết tội họ.
Nhưng người Tôi trung đó là ai? Chính là
Chúa Giêsu Kitô. Trong suốt cuộc sống trên trần gian từ khi xuống thế làm
người, thi hành sứ vụ cứu độ cho tới lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã sống
trọn vẹn những gì ngôn sứ I-sai-a nói về Người. Người là mẫu gương đức tin vào
Thiên Chúa. Người rao giảng và chữa lành trong sự trung thành với sứ mệnh Thiên
Chúa đã trao phó. Đức tin của Người biểu lộ hùng hồn nhất vào những giờ phút bi
thảm của cuộc Thương khó. Sự trung thành đã đem lại cho Người sự phục sinh và
vinh quang vĩnh cửu bên hữu Thiên Chúa Cha.
2. Đức tin vào Chúa Kitô của người môn
đệ (bài Tin Mừng –
Mác-cô 8:27-35)
Như Chúa Giêsu đã tin vào Chúa Cha thế
nào, ta cũng phải tin vào Chúa Giêsu như vậy. Trong cuộc đào tạo môn đệ, Chúa
Giêsu lúc nào cũng ưu tư về đức tin của các môn đệ vào Người. Người muốn mặc
khải cho họ biết dần dần về Người. Sách Tin Mừng Mác-cô có lối trình bày rât
độc đáo về chân tính của Chúa Giêsu. Người ta quen gọi đó là “bí mật Đấng
Mê-si-a. Từ khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho đến lúc chết trên thập giá,
Chúa Giêsu luôn luôn cấm người được chữa lành không được nói về Người. Ngay cả
trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi ông Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô”, Chúa
Giêsu cũng “cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người”. Chân tính của
Chúa Kitô chỉ được tiết lộ khi “viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa
Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: ‘Quả thật, người này là Con Thiên
Chúa”.
Theo câu truyện Tin Mừng hôm nay về việc
ông Phêrô tuyên xưng đức tin, ta có thể nhận ra một số nét chính về đức tin.
Tin nghĩa là nhìn nhận phẩm giá của người mình muốn tin. Tin vào Chúa Giêsu có
nghĩa là nhận biết Chúa là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì. Chính vì hai
điểm này, đức tin mở đầu với câu hỏi “người ta nói Thầy là ai?” Trả lời cho câu
hỏi trên, đức tin đòi hỏi việc nhìn nhận chân tính của Chúa Giêsu phải là nhìn
nhận của riêng cá nhân, chứ không thể do những điều nghe người này người kia
nói. Do đó, Chúa Giêsu mới hỏi môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Sự
nhìn nhận này nảy sinh từ đáy tâm hồn của từng người. Đức tin không thể là điều
vay mượn của người khác, nhưng là khởi đầu cho một mối quan hệ giữa ta với
Chúa. Quan hệ này sẽ đưa ta đi khám phá thêm con người, đạo lý và sứ mệnh của
Chúa Giêsu. Đây chính là điều ông Phêrô và các bạn chưa biết hoặc không muốn
biết. Nói khác đi, đức tin giúp ta tìm hiểu và nhìn nhận sứ mệnh của Chúa
Giêsu. Để bổ túc cho thiếu sót rất lớn lao này, Chúa Giêsu “bắt đầu dạy cho các
ông biết: Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ
sống lại”. Vừa nghe vậy, ông Phêrô phản kháng, chẳng muốn nhìn nhận một thứ sứ
mệnh không đáp ứng với mong mỏi của ông và các bạn. Đối lại, Chúa Giêsu còn
phản kháng mạnh hơn, cốt để khắc phục các ông phải nhìn nhận cả điều đi ngược
lại mong muốn của mình. Người mắng ông là thứ kỳ đà cản mũi, không muốn đi theo
đường lối Thiên Chúa và bắt chước Người làm Tôi trung của Thiên Chúa. Như vậy,
điều cốt yếu về đức tin là phải tùy thuộc vào phẩm giá của Chúa chứ không phải
tùy thuộc vào điều ta mong mỏi, hoặc đức tin là ta tùy thuộc vào Chúa chứ không
phải Chúa tùy thuộc vào ta.
Một điều nữa vô cùng quan trọng về đức
tin, là đức tin không là điều nằm trong trí óc, nhưng được thể hiện bằng đời
sống và việc làm. Nhận biết chân tính và sứ mệnh của Chúa chưa đủ, ta còn phải
đi theo Chúa. Điều này Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết cái giá đắt khi ta theo
Người. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc
8:34). Đức tin trở nên nguyên lý sự sống đời đời. Sự sống đời này và sự sống
đời đời là hai thực tại khác nhau, nhưng lại liên hệ chặt chẽ với nhau. Đức tin
trong sự sống đời này là điều kiện phải có để được sự sống đời đời. Mà trong
cuộc sống đời này, đức tin sẽ gặp nhiều thử thách như vàng thử lửa, luôn đòi
hỏi ta sẵn sàng “liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì Tin Mừng”. Chúa Giêsu
không ngại gọi việc liều mất mạng sống đời này như phương thức duy nhất để “cứu
được mạng sống đời sau”. Ta mới chỉ liều mất mạng sống vì đức tin, còn Chúa
Giêsu thì đã thực sự mất mạng sống vì lòng tin vào Thiên Chúa và nhân loại.
Người đã trả giá đắt cho lòng tin vào tình yêu Chúa Cha và nhân loại. Vì mất
mạng sống do tin yêu nên Người đã được phục sinh và đem lại sự sống đời đời cho
nhân loại.
3. Đức tin không có hành động là đức tin
chết (bài đọc Tân Ước –
Giacôbê 2:14-18)
Thánh Giacôbê đi vào thực tế khi ngài
quả quyết: Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết. Đức tin chết
đâu có gây được tác động gì, khác chi cái xe hỏng máy nằm ụ một chỗ và không
thể chuyên chở ta đi nơi này nơi kia. Ngài lập lại ý tưởng của Chúa Giêsu về
chức năng của đức tin là “cứu mạng”. Thực tế hơn nữa, ngài dùng hình ảnh người
anh chị em của ta sống trong hoàn cảnh thiếu thốn và cần đến sự giúp đỡ của ta
để áp dụng vào việc sống đức tin. Hành động vì đức tin của ta trong hoàn cảnh
này là quảng đại giúp đỡ người anh chị em ấy. Hành động là dấu chỉ nói lên đức
tin sống động. Ta giúp đỡ anh chị em là vì ta tin lời Chúa dạy ta sống bác ái
và thương yêu anh chị em như chính mình. Ta cho anh chị em túng đói cơm ăn áo
mặc là vì ta thực hành điều Chúa dạy: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi
làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã
làm cho chính Ta vậy” (Mt 26:40). Thánh Giacôbê quả quyết không thể chứng minh
đức tin khi không được biểu lộ bằng hành động. Trái lại khi ta hành động thì
hành động đó sẽ cho người khác thấy động lực khiến ta hành động là vì có đức
tin. Một thí dụ cụ thể: hành động ta cho anh chị em túng thiếu ăn khi họ đói,
áo mặc khi họ lạnh nói lên rằng ta tin có Chúa nơi anh chị em và họ cùng với ta
đều là con cái Thiên Chúa.
Có lẽ việc tách rời đức tin với hành
động là điều rất thường thấy nơi nhiều Kitô hữu. Chính vì họ tách rời như vậy
nên đời sống của họ có hai phạm trù riêng biệt. Họ tưởng hành động của đức tin
là đọc kinh cho to, xem lễ cho nhiều, rước sách cho linh đình… Nhưng ra khỏi
nhà thờ, hết kinh hết lễ thì đời sống họ vẫn giậm chân tại chỗ, không thêm được
một chút tình thương nào đối với những người đói khổ túng thiếu, trái tim họ
không hề rung động trước cảnh khốn khó của anh chị em. Cây đức tin của họ khô
cằn, thiếu sự sống, nên không sinh được hoa trái nào. Thánh Giacôbê mô tả đức
tin hết sức đơn sơ, một đức tin sống hay là chết, nhưng lại là hình ảnh thực tế
đòi hỏi mỗi người phải xét lại đức tin của họ.
4. Sống đức tin
Đề tài đức tin của Lời Chúa hôm nay
không phải là một bài thần học hoặc giáo lý cao siêu, nhưng nằm ngay trong kinh
nghiệm cuộc sống của người Tôi trung, của thánh Phêrô và thánh Giacôbê cũng như
của mọi người muốn làm môn đệ Chúa Kitô. Đức tin hệ tại tâm hồn quyết tâm gắn
bó với Chúa và sống theo điều Người dạy. Tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã
suốt đời sống theo “tư tưởng” hoặc đường lối của Chúa Cha. Cũng vậy, nếu ta tin
vào Chúa Giêsu, ta cũng phải uốn nắn đời sống ta theo khuôn mẫu đời sống của
Người, sống vì Người và vì Tin Mừng.
Suy nghĩ: Thánh Giacôbê viết: “Tôi sẽ
hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”. Vậy để chứng tỏ cho những người
chung quanh thấy tôi là người có đức tin, tôi phải có những hành động nào? Đối
với những người trong gia đình? Trong sở làm? Trong cộng đoàn? Những hành động
ấy nói lên điều gì nơi tôi?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa hằng hữu là Cha chúng con, xin cho
lòng chúng con luôn hướng về với Chúa Kitô, để khi quyết tâm làm môn đệ Người
như việc quan hệ nhất trong đời, và lấy tình bác ái phục vụ anh chị em, chúng
con hoàn toàn hiến thân phụng thờ Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa
chúng con. Amen.
9. Từ bỏ chính mình – Thiên Phúc
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại
sâu sắc: "Họa Mi và Bông Hồng Đỏ". Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên
cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: "Nếu
anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em
sẽ xa anh mãi mãi". Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương
đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi,
người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của
chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng
nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em
một bông hồng đỏ thắm không?
- Họa mi ơi! em vô tâm như những chiếc
gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa
mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em
một bông hồng đỏ?
- Họa mi ơi! đời cần hoa chi cho thương
đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt một
mối tình.
- Được, nhưng phép màu cần phải có màu
đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn
của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất
đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có
một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc
đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí
nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội.
Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ
lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình
đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự
trị... Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi
dưới vết bánh xe bò.
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại,
nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình
yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng
máu, bằng cả sinh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình" (Mc.8,34).
Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa
không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ
mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói
đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến
tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay
bị từ khước. Có thể "được cả" mà cũng có thể "ngã về
không". Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng
sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của
hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là
chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng "Từ bỏ chính mình" không
phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng
từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
"Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được
sống" (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào.
Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để
đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì "Ai
biết chết thì sẽ biết sống".
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang
mầm ích kỷ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích
cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà
không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà
không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng: chúng con đang thực thi thánh ý
Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola).
10. Mầu nhiệm cứu độ
(Suy niệm của Phêrô Trần Đình Phan Tiến
– ‘Bước Theo’)
“Hành động của Thiên Chúa”, chủ đề CN 24
TN (B) (Mc 8, 27-35), thoạt nhìn ta thấy có hai chủ đề là “tuyên xưng niềm tin”
(c 29) và “Mầu nhiệm Tử nạn” (c31), hay là Hành Động của Thiên Chúa.
Vâng! thật hợp lý với lời giảng giải của
thánh Giacôbê ở đoạn( Gc 2, 14-18): “Đức tin và Hành Động”. Qủa thật, Đức tin
không thôi chưa đủ, vì Chúa Giêsu kêu gọi phàm nhân “tin vào Người” (Ga 3,15)
để đón nhận ơn cứu độ. Nhưng ơn Cứu Độ không phải là lời nói suông, mà là một
hành động cụ thể, thật vậy, Thiên Chúa đã hành động.
Hành động của Thiên Chúa thì không phải
hành động như phàm nhân. Hành động của Thiên Chúa là hành động yêu thương, hành
động quên mình để hy sinh cho kẻ khác. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ đáng bị
tiêu diệt, Thiên Chúa không trừng phạt kẻ đáng bị trừng phạt. Vì Ngài là Thiên
Chúa yêu thương, yêu thương là gánh lấy về mình tất cả. Như vậy, thoạt đầu đọc
đoạn Tin Mừng (Mc 8,27-35) hôm nay, ta nghĩ rằng có sự mâu thuẫn, vì tại sao
con người tuyên xưng niềm tin vào Chúa như Phêrô lại bị quở trách nặng nề.Nhưng
suy niệm sâu xa ta thấy ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay, không phải là lúc con
người tuyên xưng đức tin, hay nói cách khác tuyên xưng niềm tin, nhưng chưa
hiểu mầu nhiệm mà ta tuyên xưng. Như vậy vấn đề cho thấy, tin vào Chúa và tín
thác vào Ngài, cần phải có hành động cụ thể là thực thi Ý Định của Thiên Chúa,
tin vào Thiên Chúa đồng thời phải lắng nghe Lời của Thiên Chúa để thực thi Ý
Ngài. Vì tin mà không hành động thì niềm tin ấy không sinh kết quả, như vậy
niềm tin ấy không có lợi ích gì. Vì “…tin trong lòng thì được công chính, còn
tuyên xưng ngoài miệng thì được ơn cứu độ” (Rm 10,10). Như vậy,
muốn đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa cần phải có hai điều kiện là “Tin” và
“thực thi” niềm tin vào Thiên Chúa. Vd: Thiên Chúa là tình yêu, khi ta tin vào
Thiên Chúa, thì ta cũng phải hành động như Thiên Chúa là ta phải yêu tha nhân
như Chúa đã yêu ta. Đó là nguyên lý của niềm tin, nhưng thực tế ta không thể
yêu tha nhân như Thiên Chúa đã yêu ta, vì ta chưa trở nên như Thiên Chúa
được.Nhưng ít ra ta cũng phải hành động theo ý định của Thiên Chúa, điều nầy
phù hợp với chúng ta hơn, vì trong giới hạn của nhân trần. nhưng ta có thể
chứng minh lòng tin của ta vào Thiên Chúa bằng nhiều cách, như vậy là niềm tin
của ta được hành động. Thánh Giacôbê đã so sánh rất tuyệt vời về “Đức Tin và
Hành động” như sau: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành
động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được
chăng?… cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”. (Gc
2,14.17).
Như vậy Chúa Giêsu không phải quở trách
Phêrô vì ông tuyên xưng niềm tin vào Người, mà quở trách Phêrô vì ông đã can
thiệp vào mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa cần phải hành động để
minh chứng “Lời” của Thiên Chúa từ ngàn xưa. Khi Chúa Giêsu nói: “Ai tin vào
tôi thì có sự sống muôn đời” (Ga 3,15), nhưng Người không phải là vị Vua của
trần thế. Nếu chi ngồi đó mà nói như vậy, thì quả thật không đáng tin. Nhưng
Đấng cứu thế là vị Vua đích thực của Nước Trời, vì vậy Người đã hành động như
một vị cứu thế đúng nghĩa. Người đã trở nên con chiên hiền lành bị đem đi giết.
Vâng! Đấng Cứu Thế đã hành đông đúng như
lời Isaia đã nói: “Ta đã trao thân cho kẻ đánh Ta, giơ má cho người ta vả; Ta
đã chường mặt mình cho họ mắng, họ nhổ” (Is 50,6). Một Đấng
cứu thế như vậy, đã được loan báo trong Cựu Ước, nhưng phàm nhân không đón
nhận. Vì phàm nhân không thích Thập giá. Nhưng Thiên Chúa lại dùng chính sự từ
chối của trần thế để cứu chuộc thế trần. Vì vậy, Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở
trách nặng nề: “Hỡi satan! hãy lui ra đằng sau, vì tư tưởng của ngươi không
phải là tư tưởng của Thiên Chúa”. (Mc 8, 33b).
Niềm tin là biết có ánh sáng, nhưng hành
động là phải tiếp nhận ánh sáng và chuyển giao ánh sáng cho người khác. Nếu
hành động không có niềm tin thì hành động mù quáng, nếu chỉ có niềm tin mà
không hành động thì niềm tin ấy không tỏa sáng, bị lu mờ và tắt đi vì thiếu
thực tế.
Lời Chúa là ánh sáng, khi tin theo trong
cuộc sống hằng ngày phải được chiếu soi cho hành động của con người. Niềm tin
cần cho hành động và hành động cần cho niềm tin. Niềm tin có hành động là niềm
tin sống. Hành động có niềm tin là hành động tuyệt vời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã quở trách Thánh
Phêrô vì niềm tin của ông chỉ suy nghĩ đơn thuần nông nổi. Niềm tin ấy chưa đủ
yếu tố để mang ơn cứu độ đến cho người khác. Niềm tin xác đáng là niềm tin phải
hành động, như Chúa đã hành động là chu toàn thánh Ý Chúa Cha một cách tron
vẹn. Xin ban cho chúng con là những kẻ mỏng giòn ,yếu đuối cũng có được sức
mạnh của lòng tin vào Chúa và những hành động của lòng tin vào Chúa, là những
hành động cụ thể của chúng con, để trần gian nhìn thấy hành động của chúng con
mà ngợi khen Cha trên trời. Amen.
11. Tưởng lầm – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu
lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng
rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa
học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung
quanh mình và chung quanh mặt trời. Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu
lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện
đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng
cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người
lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền
lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ
tưởng Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái
lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ,
chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là
một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu
hạ, rửa chân cho các môn đệ.
Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa,
người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được
chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người
con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng
không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống,
nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được
trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn
làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho
mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại
bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.
Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo
về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu
thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ
biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường
thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu
chết.
Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn
theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập
giá mình mà theo Người.
Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con
người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con
người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên
trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung
sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và
đau khổ? Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn
con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con
người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là
thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh
phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được
hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là
phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì
Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì
Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều
kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.
Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con
đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết
đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai
muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và
vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để
hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực.
Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là
điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống
vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.
Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe
và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và
sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ
dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng
mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình,
vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa?
2) Đâu là những hiểu sai lầm về người
môn đệ của Chúa?
3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo
ta phải từ bỏ mình không?
4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?
12. Chúa Giêsu là ai trong
cuộc đời tôi?
Nhìn thấy Chúa Giêsu
làm nhiều phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:
- Liệu Ngài có phải là
Đấng Cứu Thế hay không?
Nhất là trong hoàn
cảnh họ đang phải sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, họ trông chờ một
Đấng Cứu Thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.
Theo mong ước của
nhiều người Do thái thì Đấng Cứu Thế là một vị anh hùng dân tộc, đến đánh đuổi
quân ngoại xâm. Ngài sẽ là người dùng quyền lực thống trị các dân, trừng phạt
những người tội lỗi và quân ngoại xâm. Đàng này, Đấng Cứu Thế Giêsu đến lại tỏ
ra nhân từ với hết mọi người, kể cả người tội lỗi và dân ngoại. Tuy Ngài giảng
dạy như Đấng có uy quyền và làm những dấu lạ chưa ai từng có. Tuy nhiên, Ngài
lại không chấp nhận làm vua, làm Messia theo quan niệm của họ. Và họ bất đồng
quan điểm khi nhận xét về sứ mạng của Chúa Giêsu. Người thì nói Chúa Giêsu là
Gioan Tẩy Giả sống lại, kẻ thì bảo là Elia, số khác cho là một trong số các tiên
tri. Họ không nhận ra Đức Giêsu là Messia, Con Thiên Chúa làm người!
Bấy giờ, Đức Giêsu hỏi
các môn đệ xem họ đã hiểu lời dạy, hiểu thân thế của Ngài đúng chưa. Thật không
bỏ công khó nhọc của Đức Giêsu, Phêrô đã trả lời chính xác: Thầy là Đức Kitô
Con Thiên Chúa hằng sống. Các Tông đồ khác cũng đồng ý với câu trả lời của
Phêrô như vậy. Tuy nhiên, các Tông đồ cũng chưa thật sự hiểu rõ bản tính và sứ
mạng của Đức Giêsu. Có lẽ họ cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm dân chúng bấy
giờ: Messia là vị cứu tinh Dân tộc Do thái, họ nghĩ đơn giản như vậy, họ chưa
nhận ra vai trò cứu chuộc nhân loại của Đức Giêsu và những đau khổ người phải
chịu để đền thay vì tội lỗi nhân gian. Bằng chứng là sau đó, khi Đức Giêsu công
bố về cuộc khổ nạn thì Phêrô liền can gián: Thầy không phải như vậy đâu! Nhưng
Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô và các môn đệ: các con không biệt việc Thiên
Chúa làm mà chỉ biết việc loài người. Đã theo Đức Giêsu thì không tìm lợi danh
đời này. Ai theo ta thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta. Ai lo
cho mạng sống đời này thì sẽ mất nó, nhưng ai biết hy sinh mạng sống vì Chúa
thì Người sẽ ban cho hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Ai gắn mình với vật chất
chóng qua thì sẽ tàn tạ như nó. Còn ai gắn bó với Đấng Vĩnh Cửu thì được Thiên
Đường làm nơi cư ngụ.
Mỗi người chúng ta hôm
nay hãy thử trả lời câu hỏi của Đức Giêsu: còn con, con bảo Thầy là ai?
Đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Hiện giờ tôi theo Chúa vì lý do nào? Tôi theo
Chúa vì nhận ra Chúa là Thiên Chúa duy nhất, là Đấng hứa ban cho tôi sự sống đời
đời hay tôi theo Chúa đề Ngài ban cho của cải, giàu sang, địa vị đời này? Tôi
theo Chúa mà tôi có sống theo Tám Mối Phúc thật: phúc cho ai có tinh thần nghèo
khó, hiền lành, khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết xót thương kẻ
khác... tôi có coi Chúa trên của cải vật chất, coi Chúa hơn ý riêng của mình,
hay có khi nào tôi coi trọng tiền bạc, của cải hơn Chúa không?
Nhiều khi chúng ta
theo Chúa, nhận ra Chúa là Đấng Cứu Thế, nhưng cũng như Phêrô và các tông đồ
trong Tin Mừng hôm nay: muốn can ngăn Chúa, không muốn Ngài vác thánh giá,
không muốn Ngài đau khổ. Như vậy, khi đi theo Chúa, bắt chước Chúa, chúng ta
cũng không phải vác thánh giá, không phải chịu đau khổ với Ngài. Chúng ta hãy
xem Đức Giêsu có đồng ý với các Tông đồ như vậy không? Ngài chẳng những không
đồng ý mà còn khiển trách Phêrô nữa: Satan, con hãy lui lại đàng sau Thầy. Đức
Giêsu không đồng ý với các Tông đồ vốn muốn ngài làm một Messia an nhàn. Ngài
cho biết đó là cám dỗ của Satan. Ngài cũng như những người đi theo ngài phải
chọn con đường thập giá. Chính thánh giá mới đem lại bình an hạnh phúc. Ai
không nép mình sống theo 10 Điều Răn mà tự mình sống buông thả theo ý riêng thì
sẽ gặt hậu quả rất tệ: mất hạnh phúc đời đời, vì đã không đi trên con đường Đức
Giêsu đã đi.
Vậy, để hưởng ơn cứu
chuộc của Đức Giêsu, chúng ta hãy tuyên xưng rõ trong lòng mình như thánh Phêrô
hôm nay: Thầy Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ đời con, con xin đi theo Ngài trên mọi nẻo
đường dù là đường êm ả hay đường chông gai, để mai sau, Đức Giêsu ở đâu con
cũng được ở nơi đó, Chúa được hạnh phúc nào thì con cũng được tham dự vào hạnh
phúc đó với Chúa.
13. Thách đố của niềm tin.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một giai thoại kể lại rằng: Có một thanh
niên thích chơi những trò mạo hiểm để tìm cảm giác mạnh. Anh đem theo một chiếc
dù đến bên bờ vực thẳm, định chơi cho thoả chí mạo hiểm. Không biết loay hoay
thế nào, anh trượt chân. Đang trên đá lăn dài xuống vực sâu, may mắn được một
cành cây mọc chìa ra. Thế là anh lơ lửng trên cành. Thật hú vía, tuy chưa qua
hết nguy hiểm, nhưng thế này còn có hy vọng thoát được.
Ngước mắt lên bờ vực, anh không thấy
bóng dáng một ai. Nhìn xuống, anh choáng váng vì vực quá sâu. Anh cũng biết
không thể nào đu lơ lững mãi trên cành được, vì thế, cách cuối cùng là anh cầu
nguyện. Thế là anh cầu nguyện: lậy Chúa, xin cứu con, con xin hứa làm bất cứ
điều gì Chúa muốn.
Bỗng anh nghe như có tiếng Chúa nói:
Được, Ta sẽ cứu con. Nhưng trước khi cứu, Ta muốn biết là con có thực sự tin
rằng Ta làm được việc này không?
- Lạy Chúa, con tin chứ! Con tin chắc là
Chúa cứu được con mà! Cứu ngay đi Chúa ơi, con mỏi tay lắm rồi!
- Được, nếu con tin Ta thì hãy buông tay
ra.
Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào cành
cây chứ không chịu buông. Rồi anh ngẩng lên bờ vực và la lớn: “Có ai trên đó
không, cứu tôi với’.
Thưa anh chị em, giả sử chúng ta là
chàng thanh niên đó, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng
ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh đang xẩy ra
trong đời, hay chúng ta sẽ tìm cách bám víu vào những thực tại khác?
Muốn đi theo ai, muốn ở với ai, thì phải
biết rõ người ấy, biết người ấy xuất thân từ đâu và có đáng tin không. Muốn “đi
theo Chúa Giêsu và ở với Chúa Giêsu” thì người Kitô hữu phải biết Chúa Giêsu là
ai, đường lối của Ngài như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu về
con người Giêsu ấy.
Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi:
“Người ta bảo Thầy là ai?” trước khi đòi hỏi chính các môn đệ của mình phải bày
tỏ ý kiến riêng, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò ngay trong nội bộ
mình xem người khác nói về Ngài như thế nào? Có nhiều ý kiến, nhưng rõ ràng dân
chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi con người Giêsu. Nơi giáo huấn của
Ngài, người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý
của lề luật. Thế nhưng, điều quan trọng không phải chỉ biết đúng về Chúa Giêsu
mà con phải biết đủ về Ngài nữa: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, Ngài là
Thiên Chúa thật và là người thật.
Nhờ các phương tiện truyền thống và nhờ
học hành, kiến thức của ta ngày càng gia tăng. Nhưng ta có một sự hiểu biết sâu
xa về Chúa chưa? Cần phải xác tín như Thánh Phaolô: “Cái lợi tuyệt vời là được
biết Chúa Giêsu kitô, Chúa của tôi” (Pl 3,8).
Các môn đệ là những người “ở với Chúa
Giêsu”, cũng ăn cùng uống, gắn bó, gần gũi với Ngài và được Ngài dạy dỗ đặc
biệt cùng chứng kiến nhiều phép lạ, giờ đây, các ông phải bày tỏ lập trường.
Chắc hẳn giây phút thinh lặng nặng nề khi bị hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy
là ai?”. Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Kitô”. Phêrô đã
cứu nguy cho anh em! Thế nhưng sau đó ông lại can ngăn Thấy Giêsu. Ông đã cản
Chúa Giêsu làm theo ý Chúa Cha. Và như vậy là đi theo đường lối của Satan. Rõ
ràng ông chưa hiểu bao nhiêu về đường lối của Chúa. Thực ra, ông và các bạn đã
hiểu Đấng Kitô theo nghĩa trần thế, một Đấng Cứu thế hiển hách, oai phong…
thành ra ông không sao hiểu được việc “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và
phải chết…”.
Thưa anh chị em,
Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là
đường lối của Ngài, ta cần phải giũ bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về
Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của
thống trị… Nên nhớ bài học cùng Ngài: “Anh em hãy học cùng Tôi,
vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.
Vậy thì, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là
ai? Sau khi đã tin vào Chúa một thời gian, ta vẫn có thể đặt lại câu hỏi này:
Bấy lâu nay, Đức Giêsu là ai đối với tôi? Đức Giêsu không thay đổi, “hôm qua
cũng như hôm nay và mãi mãi” Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất. Nhưng mỗi ngày, sau
mỗi biến cố, có khi ta lại khám phá ra những nét mới mẻ nơi sự phong phú của
Ngài. Đời ta luôn là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu:
“Còn con, con bảo Thầy là ai?”. Và cuộc đời của ta sẽ chuyển biến tuỳ theo câu
trả lời này của mình.
Trong đêm canh thức với hai triệu bạn
trẻ từ các nước trên thế giới về Rôma tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ
15 (15-20/8/2000) Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II đã hỏi lại các bạn trẻ câu
hỏi của Chúa Giêsu: “Các con nói Đức Giêsu là ai?” – Có khó tin trong thế giới
hôm nay không? Có khó tin trong Ngàn Năm Thứ Ba này không? Vâng, khó đấy. Không
cần phải dấu diếm điều này. Khó khăn, nhưng với sự trợ giúp của ơn thánh, điều
đó vẫn có thể làm được, như Chúa Giêsu đã giả thích cho Phêrô: “Chẳng phải bởi
xác thịt hay máu huyết đã mạc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự
trên trời”(Mt 16,17).
“Ngày nay, để tin vào Chúa Giêsu, để
theo Chúa như Phêrô, Tôma, các Tông Đồ tiền khởi và các chứng nhân, như trong
quá khứ, đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một lập trường, sự lựa chọn này nhiều
khi gian nan đến độ là một cuộc tử đạo mới: cuộc tử đạo của những người, hiện
tại cũng như quá khứ, được mời gọi lội ngược giòng chảy để đi theo Thầy Chí
Thánh”… Hôm nay các bạn tụ họp nơi đây để tuyên xưng rằng trong thế kỷ này,
chúng ta sẽ không để mình trở thành trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình
trở thành dụng cụ của bạo lực và tàn phá. Chúng ta sẽ đấu tranh gìn giữ hoà
bình dù có phải hy sinh tính mạng. Chúng ta sẽ không thối lui trước một thế
giới mà người ta còn chết vì đói, thất học và không có việc làm. Chúng ta sẽ
bảo vệ sự sống ở mỗi thời kỳ của nó. Chúng ta sẽ chiến đấu tới cùng để làm trái
đất này dễ sống hơn cho mọi người”.
Các bạn trẻ thân mến của thế kỷ đang bắt
đầu, khi nói “vâng” với Chúa Giêsu, các bạn có thể nói “vâng” với tất cả các lý
tưởng cao đẹp của các bạn. Tôi cầu xin Chúa Giêsu thống trị trong lòng các bạn
và trong tất cả nhân loại trong thế kỷ mới này cũng như trong ngàn năm mới này.
Đừng sợ phó thác cho Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt các bạn, sẽ ban cho các bạn sức mạnh
để theo Ngài trong mọi ngày và trong mọi tình huống.
Cầu xin Đức Mẹ Rất Thánh, người Trinh Nữ
nói “Xin vâng” với Thiên Chúa trong suốt cuộc đời Người, xin Thánh Phêrô và
Phaolô và các Thánh đã thắp sáng cuộc hành trình của Giáo Hội qua mọi thế hệ,
gìn giữ các bạn luôn trung tín với quyết tâm thánh thiện này (ĐGH Gioan Phaolô
II 19/8/200).
14. Vấn nạn đau khổ - Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Con Người phải chịu nhiều đau khổ, và
bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi, và sau
ba ngày sẽ sống lại”
Từ xưa đến nay một vấn đề gai góc, nan
giải và làm cho nhiều người thất vọng nhất là vấn đề đau khổ. Con người sinh ra
bắt đầu bằng tiếng khóc, rồi trải qua cuộc đời với đầy vơi đắng cay và nước
mắt, để cuối cùng, nằm xuống và được đưa đi giữa những tiếng khóc, có khi chân
thật, có lúc giả dối của kẻ khác. Cho nên không lạ gì khi có người than thở:
“Đời là bể khổ.”
Nhưng tại sao đời lại là bể khổ? Có lẽ
câu hỏi này đã được các nhà hiền triết từ bao đời nay bóp óc tìm câu giải đáp,
nhưng rồi đâu vẫn hoàn đó, đau khổ vẫn là khổ đau. Đau khổ vẫn là một thực
trạng trong kiếp sống con người.
Thế rồi vì không hiểu được lý do cũng
như không tìm được câu trả lời thích đáng cho vấn đề đau khổ, nên người ta
không chấp nhận và tìm mọi cách để hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng
đã hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt luôn kẻ đang gánh
chịu đau khổ. Đã có lần chính phủ Nhật ra lệnh tập trung tất cả mọi người mắc
bệnh phong cùi trên một hòn đảo ngoài khơi Thái bình Dương, rồi tưới xăng thiêu
rụi cả hòn đảo cùng những người mắc bệnh phong cùi trên đó. Đã có lần Hitler đã
ra lệnh cho bác sĩ giám đốc bệnh viện Bethel thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc
bệnh thần kinh, không muốn sự hoạn nạn khốn cùng của họ đè nặng trên “dân tộc
và quốc gia.” Đã có vô số lần, chính vì không chịu đựng được đau khổ, hay sâu
xa hơn, bởi vì không tìm thấy chân lý trong những khổ đau nên đã có không biết
bao bạn trẻ cũng như bạn già tự chấm dứt cuộc đời, đi tìm cái chết để mong đạt
được một điều duy nhất: chấm dứt khổ đau.
Chắc chắn không ai có thể đem lại cho
con người một câu trả lời thoả đáng ngoài Thiên Chúa. Không ai minh chứng một
cách sâu xa và hùng hồn ý nghĩa của sự khổ đau ngoài Thượng đế, được tỏ hiện
nơi con người của Chúa Giêsu, Đấng mà Tiên tri Isaia đã gọi là “Tôi tớ Đau khổ
của Giavê”.
Nhìn vào con người của Đức Giêsu, người
ta phải tự hỏi tại sao một Thiên Chúa toàn năng toàn phép lại chọn lựa con
đường khổ đau để cứu nhân loại? Tại sao Ngài cũng đã sinh ra với tiếng khóc,
trải qua kiếp sống với những thăng trầm, và cuối cùng chịu chết nhục nhằn tận
cùng trên khổ giá, giữa bao nước mắt thảm thiết của những người thân quen?
Càng suy gẫm câu hỏi trên người ta càng
có thể khám phá thâm sâu chân lý và ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng đây không phải
là cuộc đời của bể khổ, song là của bể tình, một biển tình vời vợi. Càng nhìn
vào những gì Đức Kitô đã chịu, và qua ánh sáng Phúc Âm, con người càng hiểu ra
nguyên do của khổ đau.
Thế thì nguyên do của đau khổ là gì? Xin
thưa chính là TỘI. Thưở tạo thiên lập địa con người đã hạnh phúc biết mấy. Mọi
sự tốt đẹp biết bao. Kinh Thánh đã xác nhận: tất cả mọi sự Chúa dựng nên đều
tốt đẹp-đẹp từ trăng sao trên trời đến muôn loài cây cỏ dưới đất, đẹp từ con
người cho đến muông chim cầm thú, đẹp từ cuộc sống loài người cho đến cuộc sống
loài vật.
Ấy thế mà điều tươi đẹp đó đã bị tan
nát. Tan nát vì tội. Thánh Phaolô đã viết, “Cũng như vì một người, mà sự tội đã
nhập vào trần gian, và vị tội thì sự chết nữa; và như vậy sự chết lan tràn qua
hết mọi người” (Rm 5:12). Nói cách khác tội đã kéo theo khổ đau và đau khổ tận
cùng chính là sự chết.
Vì tội mà đời mất đẹp, hồn mất vui. Vì
tội mà đời mới là bể khổ đấy thôi!
Thế nhưng, vì “là Đấng trung tín và giàu
lòng xót thương,” Thiên Chúa không thể không cứu con người. Từ trong Xót-Thương
mà Đức Giêsu đã ra đời. Ngài đến bằng con đường đau khổ, và rồi đã chết trong
đau khổ để cứu con người. Một linh mục từng suy niệm rằng: “Đời sống Chúa Giêsu
là một đời sống đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê
sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận, Ngài mong chờ, bởi vì không có máu đổ
ra thì không có ơn cứu chuộc.”
“Không có máu đổ ra thì không có ơn cứu
chuộc.” Đúng lắm! Thế nhưng nếu chỉ nhìn vào những đớn đau thể xác cùng trí
lòng của Đức Giêsu và nghĩ rằng đau khổ của một người đã làm nên ơn cứu độ cho
muôn người thì cũng còn thiếu sót lắm. Bởi vì đọc kỹ Thánh kinh sẽ thấy trên
đồi Golgotha có tới ba người chịu đau khổ chứ đâu phải một người. Cả hai tên
trộm cướp nữa chứ đâu phải một mình Đức Giêsu. Thế nhưng cả ba người cùng chịu
đau khổ, cả ba người cùng chịu cái chết trần truồng nhục nhã, nhưng chỉ một
người mang ơn cứu độ đến cho toàn nhân loại. Lý do là vì sự khổ đau của người
đó đã được kết tinh trong tình yêu. Nói cách khác vì quá yêu thương nhân loại
nên Thiên Chúa đã mang lên mình mọi tội lỗi con người, mọi căn nguyên đau khổ,
để đóng đinh chúng vào thập giá; trước là giải thoát nhân loại khỏi sự thống
trị của tội, sau là thánh hoá sự đau khổ, để rồi từ nay đau khổ có một chỗ
đứng-một giá trị mới trong đời sống con người; giá trị đó chính là nếu đau khổ
được ướp đượm trong tình yêu, thì nó sẽ trở thành ân phúc cứu độ.
Đã có không biết bao nhiêu các nhà hiền
triết, văn hào thông thái bó tay trước vấn nạn đau khổ, và cũng đã có không
biết bao nhiêu nhân vật lừng danh lẫn thấp hèn đã thất vọng, đầu hàng trước khổ
đau. Nhưng chính nhờ Đức Giêsu và qua ánh sáng của Lời Ngài mà ta không còn
thất vọng. Ta thấy được rằng trong sự chết có mầm sự sống, trong gian lao có
tia sáng của chiến thắng vinh quang, trong đau khổ có chồi non của hạnh phúc,
nếu như sự chết, nỗi gian lao và đau khổ mà ta đang mang đó có nền tảng của yêu
thương: yêu thương Đức Kitô và yêu thương các linh hồn.
Thế nên, mỗi khi gặp đau khổ, ta đừng
thất vọng, buông trôi, cũng đừng chửi trời rủa đất, cũng đừng trách móc người
khác hoặc chính mình, cũng đừng như Phêrô đã can trách Chúa khi nghe nói đến
khổ đau (Mc 8:32), song hãy đưa vào khổ đau một chút hương vị thương yêu, bằng
việc than thưa với Ngài: “Lạy Chúa, con xin kết hiệp đau khổ của con với khổ
đau của Chúa, để làm sáng danh Chúa và cứu các linh hồn.” Chắc chắn nỗi khổ đau
sẽ không còn là một thực tại vô giá trị hoặc đáng nguyền rủa, song nó đã trở
thành phần ơn cứu độ mà Chúa Giêsu muốn ban xuống cho nhân trần.
Từ ngày Đức Giêsu dùng thân xác mình để
thánh hiến sự khổ đau của con người cho đến nay, đã có hàng triệu tâm hồn được
nung đốt bởi lửa yêu thương đến độ dám đón nhận mọi hy sinh, gian lao và khó
nhọc, vì muốn mang ơn cứu độ đến cho mình và tha nhân. Trong số đó, gương mặt đáng
kể nhất phải là gương mặt của Thánh Phaolô tông đồ. Thánh nhân đã làm mọi sự
trong yêu thương, chấp nhận mọi gian nan trái ý trong tình mến. Ngài viết:
“Chúng tôi bị ép dồn mọi mặt, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không bị
bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân
mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ
nơi thân xác phẳi chết của chúng tôi. Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi,
còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em” (2 Cr 4:8-12).
Đồng hành với Thánh Phaolô là hàng vạn
tâm hồn nhiệt thành rao giảng để mở mang Nước Trời, trong đó có bạn và tôi.
Cũng như Thánh Nhân, chúng ta chỉ tham vọng một điều là “làm đẹp lòng Chúa” (2
Cr 5;8b).
15. Thiên hạ nói Thầy là ai? – Noel Quesson.
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã
tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức
ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ”. Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một
khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một
người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận
bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo
phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần
học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có
một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.
Ông Barclay (William Barclay), một học
giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường
xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai
chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm
tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra
ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất
hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động
trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi
người lại nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là
Êli, người khác bảo là một ngôn sứ… Tất cả nói đúng nhưng
chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu
Thế”.
Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời
Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho,
chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi
sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là
môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng
là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời
mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người.
Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba
ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc
Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa
ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế,
Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”.
Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng
thập giá. Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi
con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai
muốn cứu mạng mình thì sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin
Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình”.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết
Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh
quang với Chúa.
16. Kitô-hữu là ai?
Như chúng ta đã biết: qua lời giảng dạy,
qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã trở thành một vấn
đề, một câu hỏi cho những kẻ còn nghi ngờ về Ngài. Vậy Ngài là ai? Kẻ thì bảo
Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy giả, là một tiên tri. Mỗi người một câu trả lời.
Nhưng điều quan trọng chính là niềm xác tín vào Chúa của mỗi người chúng ta,
bởi vì chính Chúa đã hỏi các môn đệ:
- Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Câu hỏi ấy Chúa cũng không ngừng đặt ra
cho chúng ta ngày hôm nay và qua chúng ta, mọi người cũng sẽ tiếp tục tự hỏi:
- Kitô hữu, bạn là ai?
Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói,
qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những
người chung quanh. Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người
Kitô hữu phải làm cho những người chung quanh thắc mắc.
Dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên khẩn thiết
hơn khi cuộc sống của người Kitô hữu mang tính cách chứng nhân giữa một xã hội
đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công.
Đời sống của họ sẽ là một câu hỏi nếu
như họ thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán
đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính.
Có những kẻ đã lấy hận thù làm luật
sống, thì người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi, nếu như họ vẫn yêu thương mọi
người, kể cả kẻ thù địch và bước theo Chúa cho đến cùng.
Giữa một xã hội mà nhiều người đang
buông xuôi thất vọng, người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi nếu họ biết sống
lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử
con người.
Giữa một xã hội mà sự thành thật đã trở
nên như một đồ dùng xa xỉ, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn
tiếp tục sống tử tế, cư xử tốt đẹp với mọi người.
Sống như thế quả là một đòi hỏi cam go,
nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà còn là kết quả của việc chúng ta
gắn bó mật thiết với Chúa. Bởi vì không có ơn Ngài trợ giúp, chúng ta sẽ không
bao giờ thực hiện được như vậy.
Kết thúc thông điệp “Hòa Bình Trên Thế
Giới”, Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau: Mỗi người Kitô hữu trong thế
giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống động giữa
những người anh em của mình. Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy hơn khi họ
còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Sống trọn vẹn những cam kết trên,
thì quả thật người Kitô hữu là một thách thức, một câu hỏi đối với người khác…
Đúng thế, người Kitô hữu không sống cho
mình, nhưng sống cho người khác.
Một mảnh sao băng chợt sáng lên rồi tắt
lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó.
Một hạt men nhỏ bé vô danh mất hút trong
đống bột, nhưng cũng đủ làm dạy cả khối bột.
Sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có
sức thu hút, tạo nên những ấn tượng tốt nơi người khác, nếu như chúng ta biết
sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Lý tưởng là như vậy, còn trong thực tế
thì sao? Liệu cuộc sống của chúng ta đã trở thành một câu hỏi, một vấn đề cho
những người chung quanh phải băn khoăn và suy nghĩ hay chưa?
17. Chọn lựa một con đường
Trong quyển sách
"Niềm vui sống đạo", Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã
kể ra được 10 "khuyết điểm" của Chúa Giêsu. Và ngài nói là ngài yêu
lắm 10 "khuyết điểm" ấy. Một trong 10 "khuyết điểm" mà Chúa
Giêsu mắc phải Ngài "không biết làm kinh tế". Chúa Giêsu đã coi 1=99.
Khi Ngài thấy mất một con chiên trong đàn thì lại bỏ 99 con kia lại để đi tìm
cho bằng được con chiên bị mất. Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng không biết cách tiếp
thị và quảng cáo. Quảng cáo mời gọi người ta đến với mình thì phải tìm cái gì
đó hấp dẫn và lôi cuốn bằng cách "tô son" lên những điều mình nói một
chút. Đằng này Chúa Giêsu lại nói: "Ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ mình,
vác thập mình mà theo" (Mc 8,34). Quảng cáo và chiêu mộ lính kiểu này thì
"thua" là cái chắc! Bởi lẽ, nghe nói đến thập giá thì ai mà chẳng sợ.
Chẳng ai háo hức ôm lấy thập giá vào mình bao giờ! Hơn nữa, theo Thầy tưởng đâu
được cái gì hấp dẫn một chút như lãnh vài triệu đồng một tháng, được người ta
kính trọng, hoặc có địa vị cao trong xã hội hay cái gì đại loại như thế. Chứ
theo Thầy mà chỉ có vác thập giá thôi thì dại gì mà liều mạng như thế! Như vậy,
xem ra Chúa Giêsu dở hơn con người ngày nay trong chuyện làm ăn và quảng cáo
nhiều lắm!
Nhưng Chúa Giêsu không
đến trần gian để làm kinh tế! Ngài cũng không biết dùng ngôn ngữ của quảng cáo
của con người thường làm để tô son cho mình và sứ vụ của mình. Ngài đến trần
gian với một sứ mạng duy nhất là "nói lên Sự thật, sống cho Sự thật và làm
chứng cho Sự thật" (x. Ga 18,37). Ngài đã nói như thế trước mặt tổng trấn
Philatô. Và đặc biệt, trong những năm tháng ra đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên
Chúa, Ngài đã từng lớn tiếng nói rằng: "Sự thật sẽ giải phóng các
ngươi" (Ga 8,32). Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: "Sự thật là cái
gì?". Nhưng Chúa đã không trả lời ông ta câu hỏi đó. Bởi lẽ, Sự thật chính
là bản thân của Ngài. Ngài là hiện thân của Sự thật. Từng lời nói, từng hành
động và trọn cuộc sống của Ngài đều là Sự thật trọn hảo!
Tin mừng hôm nay chỉ
cho chúng ta thấy có rất nhiều nội dung, nhiều vấn đề nói lên Sự thật nơi Thiên
Chúa. Nhưng tôi xin chọn câu nói mà Chúa Giêsu xem ra rất thao thức, rất tha
thiết mời gọi chúng ta thực hiện nó trong cuộc sống của chúng ta. Ngài nói rất
rõ rằng: "Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai
liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống
ấy" (Mc 8,35). Đó là sự thật, một Sự thật trọn hảo dành cho những
ai dám dấn thân vào con đường của sự hy sinh và từ bỏ- Con đường Thập giá.
Có lẽ việc chọn lựa
cho mình một con đường sống là cần kíp và chính đáng nhất trong cuộc đời của
mỗi con người. Theo thói thường thì ai cũng muốn có một cuộc sống dễ dàng, một
cuộc sống tiện nghi, sung túc và vui vẻ...Nhưng có điều là một cuộc sống dù
đáng ước mơ như thế cũng không có gì đảm bảo cho con người ta được sống hạnh
phúc. Vì hạnh phúc đích thực không thể tìm thấy được nơi cuộc sống ở trần gian.
Thế nhưng, nhiều người lại say mê và đi ra sức tìm kiếm để sở hữu nó! Biết bao
nhiêu cố gắng và khó nhọc của con người nhằm tìm kiếm và giữ lại hạnh phúc trần
gian đều tan biến. Bởi vì, "con người từ đất mà ra thì cũng phải trở về
với đất bụi" (x. St 3, 19). Và con người đã không mang gì vào trần gian
thì cũng đừng mong đem gì ra khỏi chốn gian trần. Điều chắc chắn duy nhất là:
"ba tấc đất mới thật là nhà, nơi nó ở muôn đời muôn kiếp" (Tv 49,
12).
Con đường đưa con
người tới hạnh phúc thật chính là con đường "liều mất mạng sống mình vì
Chúa Giêsu và vì Tin mừng". Nói cách khác, đó là con đường của Thập giá.
"Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất". Kẻ yêu mạng sống mình thì chỉ biết
sống cho mình, muốn được mọi người nhìn nhận và phục vụ cho mình. Đó là con
đường sống được lót bằng những chiếc thảm hoa êm ái và rực rỡ nhưng sẽ dẫn con
người ích kỷ đi tới hố diệt vong. Thật bất hạnh cho những người chỉ biết yêu
mình, qui hướng về mình và sống cho riêng mình!
Trong Thần thoại Hy
Lạp có kể câu chuyện về một anh chàng có tên là Narcise. Narcise là một chàng
trai trẻ đẹp không còn chỗ nào chê được, và cũng không có dung mạo của ai có
thể so sánh với anh ta được. Anh ta cũng nhận ra điều đó nên rất tự hào về
chính mình. Dần dần anh ta khám phá ra là không ai xứng đáng để anh ta kết bạn
cả. Cuối cùng, anh ta chỉ còn cách là quay trở lại để yêu chính mình. Anh ta đã
yêu mình cách tha thiết và say mê mình ngây ngất đến độ quên hết mọi sự. Ngày
đêm lo tìm cách để nhìn ngắm mình cho đã thèm! Bất cứ nơi đâu có thể soi mình
được là anh ta không tiếc thời gian để nhìn ngắm mình cho thoả lòng khao khát.
Một hôm, anh ta đi ngang qua một cái giếng sâu, có nước rất trong xanh. Anh
chàng Narcise liền soi mình dưới lòng giếng sâu. Tiếc thay, vì không kìm chế
được lòng say mê vẻ đẹp của mình, nên anh ta đã lao mình xuống lòng giếng để ôm
lấy mình. Nhưng khốn khổ thay, anh ta đã chết chìm một mình trong lòng giếng
ấy.
Câu chuyện trên muốn
đem đến cho chúng ta một thông điệp này là: kẻ nào quá yêu mình và say mê mình
thì khó có thể tránh được cái chết trong cô đơn và tủi nhục. Đó cũng chính là
sứ điệp mà Tin mừng hôm nay gửi đến chúng ta: "Ai yêu mạng sống mình thì
sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được
mạng sống ấy".
Chúng ta cầu xin Chúa
ban cho chúng ta biết can đảm chọn lấy con đường "thập giá" và vui vẻ
vác lấy thập giá đời mình để theo Chúa đến cùng. "Vác thập giá" theo
Chúa là chu toàn việc bổn phận của mình hằng ngày, là trung tín sống niềm tin
tưởng phó thác vào Chúa qua mọi biến cố buồn vui trong cuộc sống của mình.
Ước gì Lời của Chúa
hôm nay luôn vang vọng mãi trong từng ngày sống của chúng ta để chúng ta để
chúng ta được sáng suốt nhìn thấy con đường mà Chúa Giêsu đang mời gọi và chờ
đợi ta bước theo Ngài, ngõ hầu mai sau được Chúa cho đứng vào hàng ngũ những
người Chúa chọn và tìm được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.
18. Đức Kitô.
Nhóm Mười Hai, tức là các tông đồ, sau
một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa giảng dạy, và được
chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập
trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan
trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để
hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phêrô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa
Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá
trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ,
vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà
những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể
dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thứ nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng
nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước
cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết
đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây
chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất mà thôi.
Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các
môn đệ nói Chúa Giêsu là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai câu hỏi cho chúng ta:
chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là ai? và đối với mọi
người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Đây là một câu hỏi
quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm tin và cách sống
của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, nghĩa là
Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con
đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp, hay
chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và cuộc sống là hai
thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.
Có thể nói, đối với một số không nhỏ
người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc
niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? Không phải
chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo
hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện
của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.
Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây Am-troong,
ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng ngày
20.7.1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi của
Chúa Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai?” và ông đã trả lời: “Ngài là người không hề
phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là người gần
gũi Thiên Chúa”. Như vậy, ông Am-troong đã không trả lời theo thần học hay giáo
lý cho câu hỏi “Anh em bảo Thầy là ai?”, nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của
riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu
trong cuộc sống riêng tư của ông.
Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống
như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm
nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang
tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính
xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: “Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai
rồi?”. Phải thêm hai chữ “hôm nay” và chữ “rồi” vào câu hỏi, bởi vì “hôm nay”
chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và chữ “rồi” cũng thật quan trọng, bởi
vì có thể trong quá khứ, chúng ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi
hôm nay, Ngài thì không thay đổi, nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay
chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở
thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin trong quá khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài
lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.
Câu hỏi thứ hai, đối với mọi người, tôi
là ai? trong những dòng cuối
của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị
Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào
là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi người tín hữu trong thế giới là
một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa
những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là
người Kitô hữu chân chính”.
Sống trọn những cam kết trên quả thật
người Kitô hữu luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy
đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm,
nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt
men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy nên cả khối bột.
Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức
chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người
Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều
kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của
mình, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung
quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?
Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là
người Kitô không? Nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ
bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng
ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt
câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta
đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô
hữu, đơn giản thế thôi.
19. Đau khổ.
Nhìn thấy Chúa Giêsu làm những phép lạ,
nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:
- Liệu Ngài có phải là Đấng cứu thế hay
không?
Đã từ lâu họ sống dưới ách thống trị của
đế quốc La mã, cho nên cũng đã từ lâu họ, trông chờ một đấng cứu thế đến giải
phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.
Sống trong một hoàn cảnh như vậy, các
môn đệ phần nào cũng đã chia sẻ quan niệm ấy, thế nhưng Chúa Giêsu thì khác,
Ngài đã không suy nghĩ và hành động như họ.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, nuôi sống
năm ngàn người giữa chốn hoang vu. Dân chúng đã nồng nhiệt tung hô Chúa và họ
muốn tôn Ngài lên làm vua. Trước ý đồ ấy, Chúa Giêsu đã trốn lên núi một mình.
Các môn đệ cũng không hơn gì những người
Do thái. Trước khi Chúa Giêsu về trời, các ông đã hỏi Ngài:
- Phải chăng đã đến lúc Thày lập nước
Israel?
Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói cho
các ông biết Ngài không đến nhằm mục đích chính trị, nhưng đến để giải thoát
con người khỏi tội lỗi và dẫn đưa họ về cùng Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ.
Mặc dù các ông cũng đã tin, nhưng giấc
mơ về nền độc lập của dân tộc vẫn âm ỉ cháy trong cõi lòng các ông.
Thái độ của Chúa Giêsu trước vấn đề
quyền bính đã là một sự khó hiểu đối với các ông, huống nữa là vấn đề đau khổ,
thập giá và cái chết của Ngài. Làm sao các ông có thể dễ dàng chấp nhận?
Thực vậy, bài Phúc Am hôm nay đã cho
chúng ta thấy, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu đã nói trước cho
các ông biết:
- Con Người sẽ đi lên Giêrusalem, ở đó
Ngài sẽ phải đau khổ và sẽ phải chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Phản ứng của Phêrô thật là bộc trực và
thẳng thắn, ông kéo Chúa Giêsu ra một chỗ và nói:
- Ước chi Thiên Chúa sẽ gìn giữ Thày để
Thày khỏi phải như thế.
Có lẽ phản ứng của các tông đồ khác cũng
như vậy. Một khi đã yêu mến Chúa, thì làm sao các ông có thể chấp nhận Ngài
phải khổ đau. Hơn thế nữa, như mọi người Do thái khác, các ông quan niệm đau
khổ là như một sự chúc dữ của Thiên Chúa.
Trước một người mù từ khi mới sinh, các
ông đã chẳng hỏi Chúa Giêsu:
- Nó bị mù là do tội của nó hay là do
tội của cha mẹ nó?
Chúa Giêsu hiểu điều ấy, nhưng Ngài cũng
không thể chấp nhận để các ông làm cản trở chương trình tình thương của Thiên
Chúa. Cuộc thương khó của Ngài phải được nhìn trong toàn bộ chương trình cứu độ
mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Bởi đó Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô:
- Hỡi satan hãy xéo đi, ngươi làm cản
trở cho Ta vì ngươi chỉ nhìn thấy những việc của loài người mà chẳng nhìn thấy
những việc của Thiên Chúa.
Ít lần sau Chúa Giêsu lại tiên báo một
lần nữa cho các ông:
- Chẳng bao lâu nữa Con Người sẽ bị nộp
vào tay người ta, họ sẽ giết chết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Lần này thì các ông không dám lên tiếng,
nhưng Phúc âm đã ghi lại rằng:
- Các ông đã tỏ ra buồn bã.
Rồi cùng với thời gian, những sự việc đã
xảy ra đúng như lời Chúa đã tiên báo: Ngài đã bị treo trên thập giá. Dưới mắt
các ông thì đây là một thất bại ê chề.
Chính vì thế, hai môn đệ trên đường đi
Emmaus đã nói với Chúa Giêsu:
- Chúng tôi hy vọng Ngài sẽ cứu thoát
Israel, nhưng những sự kiện đau buồn ấy đã xảy ra ba ngày rồi.
Chỉ dưới sự soi dẫn của Chúa, các ông
mới hiểu được rằng: Ngài sẽ phải đau khổ để được bước vào chốn vinh quang, và
để đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm
thấy ý nghĩa đích thực của những đau khổ gặp phải, hay là chúng ta cũng đã phản
ứng như Phêrô và các tông đồ ngày xưa?
20. Đau khổ.
Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực
hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do
thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc
chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để
chịu đóng đinh mình vào cây thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu
đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế,
những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi
theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ
trong cuộc đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc,
một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó
là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy
nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của
người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt”. Đã là thung
lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát
óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích Ca đi tu cũng vì muốn tìm
một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.
Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta
tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là những chiếc gai phản tiến hóa. Đã
có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh
phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu
rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền
sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hitler đã ra lệnh cho giám đốc bệnh
viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành
phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia. Không tin ở Thiên Chúa thì người ta
không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không
làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan,
thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy,
ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.
Vấn đề đau khổ, ai sẽ đem lại cho chúng
ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời
cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên
do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt
đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh thánh, chúng
ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi
Kinh Thánh kết luận: “Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp”. Nhưng rồi
chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì
có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự
chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng
khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn người chết. Bản án
còn vang lên: “Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải
làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro
bụi”. Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi
phát sinh. Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự
chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi
hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá
cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau
khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp
nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.
Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng
ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa,
Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn
đệ của Ngài: “Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo”. Từ đây không ai
có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa,
không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau
khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời,
chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và
gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
21. Đức tin.
Có hai loại đức tin. Loại thứ nhất là
đức tin của những người tin tưởng vì họ đi theo truyền thống của tổ tiên, họ
mạnh mẽ duy trì truyền thống đức tin ấy. Đây có thể gọi là đức tin thừa hưởng.
Loại thứ hai có thể được gọi là đức tin cá nhân. Có một sự khác nhau quan trọng
giữa hai loại ấy. Người sở hữu một đức tin thừa hưởng hoặc kế thừa có lợi thế
là họ không bị cám dỗ dễ dàng. Cả khi phải đương đầu với những lý lẽ triết học
có thể nói ngược lại đức tin của họ. Đức tin này được duy trì mạnh mẽ vì thuộc
về truyền thống mà họ thừa hưởng từ tổ tiên họ. Ngoài ra họ không bao giờ lệ
thuộc vào tư duy triết học. Nhưng họ cũng có những sự bất lợi. Đức tin của họ
thường không có lý luận hoặc suy tư vững chắc, và thường là một đức tin của tập
quán và lề thói cổ xưa.
Người sở hữu một đức tin cá nhân cũng có
một lợi thế. Họ đã khám phá Thiên Chúa với lý lẽ của họ, và vì thế, lý lẽ này
rất mạnh trong đức tin của họ. Nhưng họ cũng có một điều bất lợi. Họ có thể bị
thuyết phục bởi lý luận, và nếu đối đầu với những lý lẽ chống lại mạnh mẽ, họ
có thể bị cám dỗ bỏ đức tin. Để có thể chống cự lại những thử thách, đức tin
phải có nền tảng trong những gì vượt xa hơn kinh nghiệm cá nhân của mình.
Những người có được đức tin của họ theo
hai cách trên được hưởng lợi thế mỗi cách. Họ phụ thuộc mạnh mẽ vào truyền
thống của tổ tiên, nhưng đồng thời được hưởng ưu điểm của khả năng tư duy những
sự vật khách quan. Vì thế, họ có được đức tin tốt nhất và hoàn hảo nhất.
Sinh ra trong đức tin chưa đủ. Một đức
tin thừa hưởng là một đức tin đã qua sử dụng và có thể rất trống rỗng. Nói
rằng: “Cha mẹ tôi là những tín hữu” chưa đủ. Mỗi thế hệ phải tòng giáo lại. Có
người đã nói rằng nhiều người đi lễ không tốt hơn những người ngoại giáo tân
tòng. Điều này xem ra khắt khe quá. Tuy nhiên, chúng ta thấy nhiều khuôn mặt
buồn chán và mệt mỏi trong nhà thờ, khuôn mặt của những người đến trễ và bỏ ra
về khi thánh lễ chưa xong.
Câu hỏi mà Đức Giêsu hỏi các tông đồ là
câu hỏi quan trọng nhất trong Tin Mừng. Nó liên quan đến căn tính của Đức Giêsu.
Người hỏi họ câu hỏi ấy không phải vì Người mà là vì họ. Một câu hỏi bắt người
ta phải suy nghĩ về niềm tin của họ.
Trước tiên Người hỏi: “Người ta nói Thầy
là ai?” Các môn đệ thuật lại với Người. Những câu đáp là những câu không trúng.
Kế đó, Người quay lại họ và hỏi “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và Phêrô
đáp: “Thầy là Đấng Kitô”. Đấng Kitô có nghĩa là Đấng Mêsia. Thánh Matthêu đã
ghi lại câu trả lời của Phêrô như sau: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống”. Đây là cốt lõi của đức tin trên đó Giáo hội được xây dựng.
Điều quan trọng là chúng ta phải đưa ra
câu trả lời của mình tức là có khả năng khẳng định giá trị và niềm tin của mình
như những Kitô hữu. Nếu chỉ lặp lại những câu trả lời chính thức sẽ không đủ.
Chúng ta phải làm cho đức tin của mình thành xác tín, khi sống đức tin ấy và để
nó ảnh hưởng lên đời sống chúng ta. Đức tin của cha mẹ chúng ta không phải là
đức tin của chúng ta chừng nào chúng ta chưa tự mình bước đi.
Chúng ta cần trưởng thành trong sự hiểu
biết đức tin. Chúng ta phải tin bằng chính niềm xác tín của bản thân. trong
Giáo hội, càng có nhiều người như thế, thì Giáo hội càng được thiết lập vững
vàng trên đá tảng.
Rõ ràng Phêrô không hoàn toàn hiểu hết
những lời ông nói. Khi ông thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, ông không biết
Đức Giêsu là một Đấng Mêsia đau khổ. Đó là một điều ông phải học biết và học
biết một cách khó khăn.
Phêrô đã thực hiện một tuyên xưng hoàn
hảo về đức tin. Ông có một đức tin hoàn toàn đúng với ngôn ngữ của ông. Nhưng
khi phải hành động theo đức tin ấy, ông thất bại. Điểm kém cỏi nhất của ông là
khi ông chối Chúa. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần ân sủng của
Thiên Chúa, không chỉ để tuyên xưng đức tin, mà còn để sống đức tin ấy.
22. Vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa
Anh chị em thân mến
Có một đoàn lữ hành
đặc biệt, đang vượt chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành trang
không phải bình thường, mà là, mỗi người mang một cây Thánh Giá. Địa hình của
chặng đường khi thì bằng phẳng, khi thì rất khó khăn, nên mọi người đều thấm mệt.
Trong số đó, có một người bỗng có một suy nghĩ rất hay. Anh ta cắt bớt đi một
phần của cây Thánh Giá. Cũng từ đó anh ta bước đi nhẹ nhàng thoải mái hơn bao
nhiêu người khác. Anh ta rất hài lòng về sáng kiến của mình. Nhưng rồi, khi đến
một con suối, không có phương tiện gì để vượt qua, mỗi người chỉ còn cách dùng
cây Thánh Gia làm chiếc cầu để vượt qua, sau đó, vác Thánh Giá và tiếp tục lên
đường. Còn cây Thánh Giá đã mất đi một phần, giờ đây không còn xử dụng được
trong trường hợp nầy, nên chủ nhân của nó đành phải ngồi lại bên bờ vực, một
mình, cô đơn mà nhìn mọi người từ từ rời xa mình.
"Mọi người chung
quanh bảo Thầy là ai?" Tất cả mọi câu trả lời đều không được Chúa Giêsu
chấp nhận. "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" -- "Thầy là
Đức Kitô". Một câu trả lời được Chúa Giêsu chấp nhận. Nhưng rồi khi nghe
Ngài nói về cuộc khổ nạn, thì cũng chính môi miệng đó, cũng chính con người đó,
lại bị khiển trách nặng nề. Ngài gọi là satan có nghĩa là kẻ thù, vì đã ngăn
cản việc làm của Thiên Chúa.
Phêrô đã theo Chúa
Giêsu, nhìn thấy và biết những việc làm của Ngài. Ông cũng mới vừa được khen,
ông ngở rằng những gì ông suy tính đều tốt đẹp, nên ông muốn hướng dẫn Đấng ông
vừa tuyên xưng là Đức Kitô đi theo con đường của ông. Ông theo Chúa nhưng sợ
con đường mà Ngài dẫn đi, sợ những hành trang mà Ngài trao cho. Theo Chúa nhưng
ông muốn mang những hành trang của chính mình, đi trên con đường của riêng mình
và ông đòi Chúa phải ở bên ông. May thay, lời quở trách đã làm ông thức tỉnh,
bài học tiếp theo đã hướng dẫn và giúp ông đi đến nơi đến chốn bình an.
"Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất".
Tâm trạng của Phêrô,
cũng là tâm trạng cuả mỗi ngưới chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng
muốn tìm cho mình sự thoải mái, sung sướng cho thân xác. Chúng ta vẫn tự hào là
người Công giáo. Chúng ta vẫn biết vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Chúng ta
biết rất rỏ những gì Thiên Chúa muốn nơi con người chúng ta. Đôi khi chúng ta
còn tự hào vì mình luôn vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa. Chính những lúc tự
hào như thế, là những lúc chúng ta có hành động như Phêrô: kéo Ngài ra để
khuyên can.
Cũng nhiều lần trong
cuộc sống, Chúa Giêsu khiển trách chúng ta như đã khiển trách Phêrô ngày xưa.
Phêrô biết lắng nghe, còn ngày nay, chúng ta vẫn phớt lờ, vẫn sống với niềm tự
hào của chính mình và bước đi trong niềm tự hào đó.
Chúng ta vẫn sống, vẫn
giữ đạo, hay nói cách khác là đang vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa. Nhưng coi
chừng cây Thánh đã bị mất đi một phần. Bao nhiêu lần nó đã bị cắt mất đi vì
những luồn lách của cuộc sống. Những lần thân xác được dung dưỡng để nó được
thoải mái trong những cuộc vui không chính đáng. Những lần thân xác cảm thấy
thỏa mản khi đạt được mục đích lợi nhuận mà bất cần đến sự chính đáng hay không
chính đáng. Những lần chúng ta không chu toàn trách nhiệm chính đáng của một
người trong xã hội, trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của mình
trong gia đình, và với bao nhiêu người chung quanh. Đôi lúc chúng ta cũng mỉm
cười mãn nguyện, vì cảm thấy mình khôn ngoan hơn bao nhiêu người khác vì những
trò vặt như thế. Đó là những lần chúng ta đã cắt bớt đi Thánh giá cuộc đời của
mình, để nó được nhẹ nhàn hơn. Chính những lúc thất bại, bị người đời chỉ
trích, những lúc đó nếu biết lắng nghe, đó là lúc Chúa khiển trách và bảo chúng
ta vác Thánh Giá hằng ngày theo Chú; những lúc đó Chúa cũng nói với chúng ta:
"Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất". Nếu chúng ta không biết lặng
thinh khiêm nhường cuối đầu nhận tội như Phêrô, thì chúng ta cũng sẽ không có
được cuộc sống tốt đẹp như Ông.
Xin Chúa cho chúng ta
biết lắng nghe tiếng Chúa, xin cho chúng ta biết chấp nhận cuộc sống để biết
vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa cho đến cùng.
23. Đức Giêsu.
Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được
đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra
ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò
mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ
đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời
rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan
hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người
tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người,
nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn
bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Êlia,
họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan tẩy giả và họ cũng đã đóng đinh
Giêsu.
Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính
là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng
cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy
thì phải bỏ mình vác thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho
đến chết.
Giêsu là ai? Câu hỏi này ngày nay cũng
gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp
sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết:
. Quyển “The last temptation” (Cơn cám
dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một
chàng thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu
tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không
thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ
tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu
nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống trụy lạc, đĩ thõa.
Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu
nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các
tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng
đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê
khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu
nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh
phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh
dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối
cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.
Đó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ
là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do
đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực
hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài
được.
Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều
người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu
là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ
cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần
đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để
sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có
cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong
quyển “Quovadis”: quyển truyện này lấy
khung cảnh thời hoàng đế Néron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước
chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự
tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp
tuyệt vời làm cho người cháu của hoàng đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị,
vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim
của người đẹp. Lúc đó bạo Cháu Néron cũng đang thẳng tay bắt giết những người
theo đạo Đức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang
khi đi trên đường thì Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào.
Phêrô hỏi “Quovadis”, tiếng Latinh nghĩa là “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Đức
Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con
đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các
tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của
các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và
tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Đó là câu trả lời: Thầy là Đức Kitô con
Thiên Chúa hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ
mình vì Thầy!
Đức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà
còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho
ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viển vông không thể thực hiện. Là Con
Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù
có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới
khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có
tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như
vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Đức Giêsu muốn giúp chúng
ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy
và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn
là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài,
phải bỏ mình đi, phải vác thập giá… Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên
cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. Chúa Giêsu đã tiên phong
sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ
làm theo Lời Ngài: Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả
thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì
Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời”.
Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu
cho câu hỏi “Giêsu là ai?” Còn câu trả lời của chúng ta là gì? Nếu chúng ta trả
lời như Phêrô “Thầy là Đức Kitô” thì chúng ta cũng hãy can đảm bỏ mình vác thập
giá đi theo Thầy”.
24. Từ bỏ.
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại
sâu sắc: “Họa mi và bông hồng đỏ”. Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở
của một chàng trai bên cửa sổ: “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài
ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu chàng
trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới
nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không
chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh
trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em
một bông hồng đỏ thắm không?
- Họa mi ơi! Em vô tâm như những chiếc
gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa
mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em
một bông hồng đỏ?
- Họa mi ơi! Đời cần hoa chi cho thương
đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt một
mối tình.
- Được, nhưng phép mầu cần phải có mầu
đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn
của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất
đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có
một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc
đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí
nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội.
Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ
lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình
đã khước từ đóa hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đóa hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới
vết bánh xe bò.
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại,
nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình
yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng
máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Đây là một lời mời
gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc
nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả
mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói
đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến
tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay
bị từ khước. Có thể “được cả” mà cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bấp bênh
trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ
bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của
hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là
chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng “Từ bỏ chính mình” không phải là
quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ
trong mọi giây phút của cuộc sống.
“Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống”.
Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái
tương đối để được Đấng tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh
hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ
biết sống”.
25. Từ bỏ và vác thập giá
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ với đòi hỏi
hết sức lạ lùng: “từ bỏ và vác thập giá”. Những ai đáp ứng được yêu cầu ấy thì
mới “ xứng đáng làm môn đệ Thầy”.
Tại Xêdarê Philipphê, Chúa hỏi các môn
đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Từ từ Chúa dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan
trọng nhất, xác tín nhất: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? “.
Chúa Giêsu có thể tự giới thiệu về mình,
tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Người đã không làm thế. Chúa muốn người môn
đệ phải tự khám phá ra Thầy của mình là ai. Chúa muốn lời tuyên xưng của người
môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc
sống sinh hoạt với Người.
Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa Hằng Sống”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi
tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn
chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền
lực. Vì thế, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của
Người. Con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người
phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết
chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn.
Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là
hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang
trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Đó chính là con đường dẫn
đến hạnh phúc đích thực. Chúa không lừa mị, không hứa hẹn những gì dễ dãi,
chóng qua. Chúa chỉ đường ngay nẻo chính và muốn những ai theo Người phải dũng
mạnh, can đảm, quyết liệt. Vì thế, Chúa nói thẳng thắn với các môn đệ: “Ai muốn
theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.
Muốn theo Chúa, các môn đệ phải “từ bỏ
và vác thập giá”.
1. Từ bỏ
Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ
bỏ, phải đặt tất cả dưới Người, phải yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này
và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ cần biết
tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có
đủ tiền bạc không. Muốn thắng trận cần có lính Tráng. Muốn theo Chúa phải từ
bỏ. Từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những
điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.
Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự
phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm
nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào
trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới
lớn lên.
Cuộc sống đặt con người trước những sự
lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp
nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần
từ bỏ như cờ bạc, rược chè, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp, gian dối… Cũng có những
điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn. Chẳng hạn, khi chọn trường học, chọn
nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên
nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng, chỉ chọn
một mà thôi.
Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng
thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng
quy tụ đọc giờ kinh hạt. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi
nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân
để sống đời tận hiến cho Chúa…
Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự
từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho
con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Sự từ
bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn
liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình.
Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là
một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức
khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người
leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và
được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.
2. Vác thập giá
Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá
giống như cây gậy của người leo núi. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ
thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
Thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn
thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng. Nếu không chẳng thể chấp nhận
nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ tình yêu của Đấng Cứu Độ.
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ,
một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải
rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng
trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc,
giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt
thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thập giá.Ý
mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi
đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu
tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ
thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác
biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là
tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những
ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được
an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.
Tình yêu như là điểm giao thoa giữa
thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự
sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh
là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với
niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán.
Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới
ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn,
Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là
Thánh Giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới
thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh thiêng. Sự
thánh thiêng ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có
tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải
cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong
mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá
trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh
thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.
26. Anh em bảo Thầy là ai?
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?"
Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn
đệ sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14), sau khi họ đã
thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.
Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này
cho tôi sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài, đã cầu nguyện và tham dự các
bí tích...
"Còn anh, anh bảo Thầy là ai?"
Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi
phải trả lời. Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.
Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ
một kinh nghiệm, kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu. Chẳng nên theo một
người mà mình không quen và tin tưởng.
Đời tín hữu là một hành trình tìm kiếm
không ngừng để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Đức Giêsu.
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và
quá phong phú. Chúng ta chỉ mon men đến gần, nhưng không sao múc cạn được mầu
nhiệm ấy. Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Đức Giêsu
chỉ là bác thợ. Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.
Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài để đón
nhận một Đức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.
"Tư tưởng của anh không phải là tư
tưởng của Thiên Chúa".
Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt
thật của Giêsu.
Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như
Phêrô: "Thầy là Đức Kitô", và hơn Phêrô: "Thầy là Ngôi Lời nhập
thể, là Con Thiên Chúa". Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu
hỏi mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn
mình sắp đi, Đức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ. Môn đệ chỉ có
một con đường, con đường của Thầy.
Thầy đã sống phận người với tất cả bấp
bênh tăm tối, tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự
thật, tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh
quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
"Người ta bảo Thầy là ai?"
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm
nay về Đức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng
và đủ về Ngài. Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái
biết thân tình của người môn đệ.
Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Đức
Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng
của Ngài.
Đức Giêsu đã nói: "Ai thấy Thầy là
thấy Cha" (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: "Ai thấy tôi
là thấy Đức Giêsu".
Gợi Ý Chia Sẻ
"Đức Giêsu là ai?" Bạn hãy trả
lời câu hỏi này cho một người bạn trẻ đang tìm hiểu đạo.
Tin là bước theo Đức Giêsu trên con
đường khổ giá. Bạn có thấy theo Chúa là khó không? Đoạn Tin Mừng hôm nay có
giúp bạn vác thập giá một cách an bình hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con, nên
Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con
người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước
mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin
nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô
đơn.
Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng
luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm đối diện với những
thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn
hơn. Amen.
27. Đức tin sống – PM. Cao Huy Hoàng
Được gọi là tín hữu Chúa Kitô hay Kitô
hữu, ít là một lần chúng ta đã tuyên xưng “tôi tin” vào Chúa Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu đóng đinh chịu chết và sống lại để cứu
chuộc chúng ta, phục hồi cho chúng ta sự sống mới trong Thiên Chúa”.
Hầu hết chúng ta được lãnh nhận Bí Tích
Rửa Tội từ nhỏ, vì thế, Cha Mẹ, người đỡ đầu, có bổn phận hướng dẫn chúng ta
thành toàn ơn Đức Tin đã được lãnh nhận. Việc thành toàn ấy bao gồm việc học
biết về Đấng mình đã Tin và Sống theo ý muốn của Đấng mình đã tin. Thánh
Giacôbê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17). Vậy, muốn
cho ĐỨC TIN SỐNG, Đức Tin phải có việc làm.
Lời Chúa hôm nay giúp ta khám phá một
vài việc làm của Đức Tin:
1. Tuyên xưng Đức Tin:
Tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Giêsu không
phải là công bố một công thức hay một kiến thức kinh điển thần học, hoặc một số
vốn liếng Giáo Lý. Những người có học thần học hay có ít vốn liếng Giáo Lý cũng
không nên xem thường đức tin bậc giáo dân thấp kém hay những người mù chữ, ít
học. Bởi đức tin là một ân huệ hơn là một khả năng của lý trí. Và ơn huệ của
đức tin được nhân lên mỗi phút giây cho những ai biết rõ Đức Giêsu Kitô, Người
mình tin, kết hiệp mật thiết với Người và sống theo điều Người dạy. Một số giáo
dân tưởng rất kém cỏi, nhưng thực ra, đức tin của họ thật mãnh liệt. Họ Tuyên
Xưng Đức Tin bằng đời sống anh dũng của họ trước những làn tên mũi đạn của cuộc
đời, của những cuộc bức bách có tổ chức, nhờ họ có lòng mến thực thà, chân
thành.
Trong khi các tông đồ không nhận ra
“người mình tin” là ai, thì Phêrô, người đánh cá tầm thường nhất, đại diện cho
những con người ít học, đã biết “người mình tin”, sống thiết thân với “người
mình tin” và được ân huệ nhân lên do bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần của lòng
mến đã công bố: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29), hiểu là “Đấng đã được Thiên Chúa
Xức Dầu”, “Đấng Cứu Chuộc Thế Gian”
2. Từ bỏ mình:
Việc làm cụ thể của Đức Tin còn phải là
từ bỏ mình, như Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá
mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu
mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. (Mc
8, 34-35)
Từ bỏ mình cũng đồng nghĩa với từ bỏ ma
quỷ, từ bỏ con người cũ của ma quỷ, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo được ma quỷ nâng
đỡ, khuyến khích, xúi giục, từ bỏ những thứ tham sân si thuộc về cõi phù vân,
cõi tạm mang tính-hay-chết hoặc không tồn tại trên đời, cũng là từ bỏ tất cả
những gì chúng ta không thể mang theo vào cuộc sống mai sau.
Nhiều người đã tập buông bỏ tất cả cho
tâm hồn bình an thư thái, thân xác khỏe mạnh, nhưng cách buông bỏ ấy chưa hẳn
là cách buông bỏ theo ý muốn của Chúa Giêsu. Bởi thế, Chúa đã thêm vào việc “từ
bỏ mình” là “vác thập giá mình mà theo Chúa”. Một đòi hỏi thật tích cực của Đức
Tin vào “Đấng Đã Chịu Đóng Đinh” là phải chịu đóng đinh với Đấng mình đã tin.
Như vậy, từ bỏ là biến đau khổ thành niềm vui, biến gian nan thử thách thành
con đường sống, biến sự chết thành sự sống lại ngay trong bản tính hay chết của
mỗi con người. Con mắt Đức Tin nhìn đau khổ và sự chết ở đời này, chính là hạnh
phúc và sự sống ở đời sau.
Hãy cảm phục những lời tuyên xưng đức
tin cách sống động, những việc làm cụ thể của đức tin, nơi những Kitô hữu đang
đau khổ, bệnh tật, phong cùi, bị đàn áp, bị bức bách… Đừng nên xem thường họ,
nhưng hãy kiểm lại cách từ bỏ và vác Thập Giá của mình.
3. Làm việc bác ái:
Tuyên xưng Đức tin vào Chúa Giêsu mà
không mặc lấy trái tim nhân hậu của Ngài thì quả thật là giả dối, là môi miệng.
Bởi thế, Thánh Giacôbê giải thích việc làm của Đức Tin là việc Bác Ái: “Nếu có
anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng:
“Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm”, mà anh em lại không cho họ những
gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?” (Gc 2, 15-16)
Có những tín hiệu đáng vui mừng nơi
những Giáo Dân hôm nay đang khá trưởng thành về việc thực hành Đức Bác Ái trong
một xã hội vô cảm. Ý nghĩa “Bác Ái vì Chúa” của người Công Giáo, của các nhóm
Công Giáo vẫn luôn là kim chỉ nam để mọi người thể hiện việc làm của Đức Tin
hơn là việc làm cách giả hình, cách đạo đức mỵ dân của một xã hội gian dối.
Chúng ta được quyền tin tưởng nơi những ủy ban Caritas rằng sẽ không thể có
chuyện ăn chặn, bớt xén những phần giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai bão
lụt…cũng không có chuyện lạc địa chỉ vào túi ông kia vào nhà bà nọ… bởi vì, tất cả đang trưởng thành về việc phải thực hiện đời sống Đức Tin
bằng một Đức Bác Ái chân thành, Đức Bác Ái Kitô Giáo.
4. Hiên ngang sống công chính:
Thánh vịnh Đáp ca hôm nay cũng góp phần
vào việc hướng dẫn một đức tin sống động: Hiên ngang sống công chính giữa cuộc
đời giả trá điêu ngoa. “Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của
nhân sinh (Tv.114,9).
Hiên ngang sống công chính vì đã tin vào
Đấng Công Chính và có Ngài nâng đỡ, phù trợ, như tiên tri Isaia khẳng định: “Vì
Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết
tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với
tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây
Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?” (Is 50, 5-9a)
Vâng, Từ bỏ mình, vác thập giá mình, rồi
“theo Chúa”. Theo Chúa là theo cách sống công chính của Chúa. Sự công chính ấy
lan tỏa ra cho thế gian bằng một đời sống chứng nhân can đảm: “Tôi đã đưa lưng
tôi cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày,
không tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi”. (x. Tv 114, 1-9).
Người Công Giáo Việt Nam hôm nay đang bị
trong đấm vào lưng, ngoài vả vào mặt, trong giật râu, ngoài nhạo cười phỉ báng.
Các Kitô hữu Việt Nam, thuộc mọi thành phần, phẩm trật đang bị hành hình đủ
kiểu, mà kiểu nào cũng đòi hỏi một sự kiên cường làm chứng cho Đức Tin Công
Giáo và hiên ngang sống công chính giữa mọi thế lực trong ngoài đều có thể là
gian tà. Trước tình hình nhiễu nhương hư thực, chẳng biết đâu là gian đâu là
thật, Người công Giáo Việt Nam chỉ còn có thể Tin vào Chúa Giêsu Kitô đích thực
là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống mà nhắm thẳng đích đến trong cuộc sống
chứng nhân.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa
Giêsu Kitô, là Đấng Cứu Chuộc chúng con. Xin cho Đức tin của chúng con được
sống và lớn lên nhờ việc từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa,
sống bác ái với mọi người và anh dũng làm chứng nhân cho Chúa giữa đời. Amen.
28. Chú giải và suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông
Chúa Nhật XXIV này được định vị vào
trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn. Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo cuộc
Khổ Nạn của Ngài theo Tin Mừng Mác-cô.
Is 50: 5-9
Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ
I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau
khổ; Người Tôi Trung này tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi
đau thương thử thách.
Gc 2: 14-18
Trong đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê
hôm nay, thánh nhân dạy rằng “đức tin không hành động là đức tin chết”.
Mc 8: 27-35
Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi đã nghe
lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Ki-tô”, Đức Giêsu loan
báo cuộc Khổ Nạn sắp đến của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9)
Bản văn này được trích dẫn từ một trong
bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của một Người Tôi Trung thập toàn của Đức
Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho
thấy Người Công Chính này chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta
đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh
quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung
chịu đau khổ này, dung mạo của Chúa Giêsu, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu
độ cho nhân loại.
1. Dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau
khổ
Người Tôi Trung này là sứ giả của Thiên
Chúa, ông đã được thông báo cho biết: sứ mạng được trao phó cho ông không là dể
dàng, nhưng ông “không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui”. Sứ mạng này được xác
định ở đoạn trên: “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức”. Ông chẳng đón nhận
gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà
không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín
thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người
ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng
nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!”.
2. Dung mạo của Đức Ki-tô
Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung này
chúng ta đọc thấy số phận của Đức Ki-tô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên
Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ.
Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than
van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: “Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?”. Ngài
biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh
Gia-cô-bê.
1. Đức tin không hành động là đức tin
chết:
Đoạn trích hôm nay tập trung vào một chủ
đề: “đức tin không hành động là đức tin chết”. Đức tin tích cực năng động là
đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất
thực tế: lời khuyên này được minh họa bởi một ví dụ cụ thể và được trình bày
rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua, thậm chí chỉ là
giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp những người anh
em đau khổ của chúng ta.
2. So sánh giáo huấn của thánh Giacôbê
và của thánh Phaolô:
Liệu có nên nghĩ rằng thánh Giacôbê có
lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi
tín hữu Galát và Rôma: “Con người được nên công chính không phải nhờ làm những
gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Kitô” (Gl 2:16)?. Nói đúng hơn, thánh
Gia-cô-bê cố cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái coi chừng một lối giải
thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách cứ thánh
Phao-lô là không ca ngợi những việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu không có
đức ái thì đức tin “chỉ là tiếng phèn la inh ỏi”.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân
ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không thể
đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là “tin vào Đức
Ki tô”. Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành quả của luật
mới, mà thành quả hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên Ân và nhờ đức
tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính hóa, nhưng việc
làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo uột héo
khô.
Liệu có nên nghĩ rằng ở bên kia những tư
tưởng này, có một dư âm nào đó về hai thái độ của hai vị thánh này xuất hiện ở
Công Đồng Giê-ru-sa-lem? Thánh Gia-cô-bê bày tỏ lập trường phải tuân giữ vài
mối giây ràng buộc với luật Mô-sê, trong khi thánh Phao-lô muốn giải thoát các
Ki-tô hữu tiên khởi khỏi những thực hành Lề Luật…Có thể lắm chứ.
TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)
Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giêsu tìm
kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các
môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.
1. Bối cảnh của cuộc chuyện trò:
Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu đã rút
lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các
làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa này không
thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê, nhưng em của ông là Phi-líp, một nhà cai
trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính Phi-líp là người xây dựng thành Xê-da-rê
mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giêsu đã
dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng
sông Giô-đan.
Trên lãnh địa này, người ta có thể đi
lại một cách thanh bình. Đức Giêsu đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những
dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh
êm ả và bầu khí thanh bình này mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.
Thánh Lu-ca đặt câu chuyện này vào trong
bối cảnh Đức Giêsu cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc 9:
18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giêsu cầu nguyện vào những
giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giêsu
và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ
đồng hành với Đức Giêsu, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được khuôn mặt
đích thật của Ngài hơn.
2. Thăm dò niềm tin của các môn đệ về
Ngài:
Trước hết Đức Giêsu hỏi các môn đệ về dư
luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin
của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả; có kẻ bảo là
ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Trong những dư luận này,
việc đồng hóa Đức Giêsu với ông Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng nhưng nhắc nhớ lời
phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giêsu: “Đó chính là
ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép
lạ” (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giêsu là
một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin
rồi, tuy nhiên vẫn còn xa với chân lý.
Vì thế, Đức Giêsu muốn trắc nghiệm niềm
tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe
những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?”. Thay mặt cho các môn đệ, ông Phêrô đáp: “Thầy là Đấng Ki tô”. Tại
Mát-thêu, thánh Phêrô còn nói thêm: “Con Thiên Chúa hằng sống”. Tại Lu-ca,
thánh Phêrô nói: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. Quả thật, đây là một câu
trả lời vượt quá khả năng của thánh Phêrô mà trong cùng một câu chuyện, thánh
Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giêsu: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh
điều này, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ
mới vừa trước đây thôi Ngài đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm
hiểu trước sứ điệp và con người của Ngài.
Ngay lập tức Đức Giêsu cấm ngặt các ông
không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm này được lập đi lập lại nhiều lần trong
Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi “bí mật Đấng Mê-si-a”. Bí mật Đấng
Mê-si-a này thường liên quan đến các phép lạ, bây giờ chính là căn tính Mê-si-a
của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm này? Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước
hiệu Mê-si-a trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc này các môn đệ
không thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa.
Rõ ràng, Đức Giêsu sắp vén bức màn mầu nhiệm này.
3. Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và
Phục Sinh của Ngài:
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo
cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều,
bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày
sẽ sống lại”. Cái tất yếu mà Đức Giêsu nêu lên: “Con Người phải…”, không là tất
yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái
tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến
cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào
giây phút này, Đức Giêsu không cho các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài
cái tất yếu (“phải”) này.
4. Phản ứng của thánh Phêrô:
Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ
Nạn của Ngài, Đức Giêsu cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị
đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi
các môn đệ. Một cách tế nhị, “thánh Phêrô liền kéo riêng Người ra mà trách”.
Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phêrô. Trong tâm trí, thánh nhân
đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh quang: thánh
nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân
hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận
người mình yêu có thể bị đau khổ.
5. Phản ứng của Đức Giêsu:
Đức Giêsu phản ứng rất mãnh liệt; thái
độ của thánh Phêrô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh
qua trong hoang địa; Đức Giêsu đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời
mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4: 10),
nhưng với thánh Phêrô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh
không hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của
Thầy”.
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ
của Ngài, Đức Giêsu cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ
chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn của
Ngài, Đức Giêsu đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô
hữu, vào con đường đau khổ này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai
liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở
đây Đức Giêsu sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa có nghĩa cuộc sống tạm
thời ở đời này vừa cuộc sống đời đời ở mai sau.
Những lời này âm vang xuyên suốt nhiều
thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi
thời, hôm qua cũng như hôm nay.
29. Giải thích và suy niệm của Lm. PX Vũ Phan Long
LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ
VÀ LỜI LOAN BÁO THƯƠNG KHÓ LẦN ĐẦU
1.- Ngữ cảnh
Có thể nói đoạn 8,27-30 đưa quyển TM II
sang một khúc quanh, vì chúng ta ghi nhận được nhiều khác biệt giữa phần này
với phần trước. Có những thay đổi về từ vựng và cách hành văn như: không còn
nhắc đến “bánh” nữa; không còn minh nhiên nhắc đến sự tối tăm (không hiểu) của
các môn đệ nữa (dù đề tài này vẫn được đề cập đến dưới một dạng khác); Đức
Giêsu nói thẳng ra với các môn đệ … Có những thay đổi trong cách trình bày dung
mạo của Đức Kitô: tác giả bắt đầu giới thiệu Đức Giêsu với định mệnh của Người
bằng câu “Con Người phải chịu đau khổ” (8,31). Đây là định
mệnh nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Số phận ấy trở thành nền tảng để
Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình mà theo” (8,34).
Về nội dung, ta thấy trước đó, Đức Giêsu
đã liên tục đặt cho các môn đệ một số câu hỏi (x. 8,17-21). Các câu hỏi này cho
hiểu rằng các môn đệ phải hiểu chuyện gì đó, nhưng các ông lại không hiểu. Lý
do: lòng các ông còn ngu muội (8,17: dịch sát: “trái tim các ông còn chai
cứng”).
Có thể nói rằng: sau khi đã chứng kiến
Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng (7,31-37) và chữa người mù (8,22-26),
và đặt mình vào vị trí của những người ấy, các môn đệ hẳn phải biết là những
người ấy tượng trưng cho tình trạng mù lòa điếc lác của chính các ông trước mầu
nhiệm Đức Giêsu, và chỉ mình Người có thể giúp các ông đánh tan sự tăm tối ngu
muội khiến các ông không hiểu biết Người. Và khi đã được mở tai, mở miệng, mở
mắt, hẳn các môn đệ có thể tuyên xưng niềm tin vào Người và chấp nhận mọi đòi
hỏi của đời môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Lời tuyên xưng đức
tin của Phêrô (8,27-30);
2) Lời loan báo Thương
Khó lần đầu (8,31-33);
3) Giáo huấn về đời
các môn đệ (8,34-35).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Xêdarê Philipphê (27): Đức Giêsu tiến về miền Iturê, nơi có thành
Xêdarê Philipphê trấn ngữ. Thành này là nơi cư trú của Hêrôđê Philipphê, được
gọi là “Xêdarê” để tôn vinh hoàng đế Rôma. Nó nằm tại nguồn sông Giođan trên
sườn núi Khemôn. Trong khi “đi đường” tiến gần đến trung tâm quyền lực chính
trị này, Đức Giêsu hỏi các môn đệ về dư luận liên can đến chân tính của Người.
- Họ bảo Thầy…, có kẻ thì bảo…, kẻ khác… (28): Những ý kiến mà các môn đệ nêu ra thì tương tự
với ba ý kiến trước đây liên hệ đến Gioan Tẩy Giả (x. 6,15). Sự tương đồng giữa
Đức Giêsu và vị Tẩy Giả đã khiến một số người tin rằng Đức Giêsu là vị Tẩy Giả
đã sống lại. Có những người lại nghĩ rằng Người là ngôn sứ Êlia, nay đã trở lại
để hoạt động lần thứ hai. Lại có những người chỉ coi Đức Giêsu là như một ngôn
sứ. Những phỏng đoán trên xuất hiện theo cùng một thứ tự vào thời gian Gioan bị
chém đầu. Đấy là quan điểm của những người quan sát Đức Giêsu và những hoạt
động của Người từ xa.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là
nhận định của những người ở gần bên Đức Giêsu, những người đã gắn bó với Đức
Giêsu như là môn đệ của Người, và những người sẽ nhận tác phẩm Mc: “Còn anh em,
anh em bảo Thầy là ai?”
- Anh em bảo Thầy là ai? (29): Đức Giêsu đã được gọi bằng nhiều danh hiệu:
“Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1,24), “Con Thiên Chúa” (3,11), “Thầy” (4,38),
“Con Thiên Chúa tối cao” (5,7), “Ngài (Chúa)” (7,28). Nhưng Người không hề tỏ
ra muốn làm cho những kẻ đi theo Người xác định Người là Đấng Mêsia. Người chỉ
cho thấy rằng Người hiểu mình có sứ mạng như “Con Người”, có quyền hành động
trên trái đất nhân danh Thiên Chúa (x. 2,10).
Vào thuở đầu, các môn đệ gọi Đức Giêsu
là “Thầy” (4,38). Với thời gian đi theo Người, các ông đã chứng kiến các tà
thần bị trục xuất (1,21-27; 5,1-20), những bệnh nhân được chữa lành (1,29-31;
1,40-45…), những người chết được sống lại (5,21-24.35-43) và đông đảo những
người nghèo đói được ăn no (6,30-44; 8,1-10). Lời nói và việc làm được Đức
Giêsu liên kết với nhau. Người vừa là Đấng công bố vừa là Đấng hoàn tất Tin
Mừng của Thiên Chúa.
Nhưng các môn đệ thời Đức Giêsu cũng như
thời Mc đã ý thức về những điều đó đến mức nào? Họ nghĩ Đức Giêsu là ai, và như
thế, họ nghĩ làm môn đệ Đức Giêsu nghĩa là gì? Lần đầu tiên họ đã nêu lên câu
hỏi về chân tính Đức Giêsu khi chứng kiến trận bão bị dẹp yên (4,35-41; x.
1,27). Bây giờ dường như các môn đệ đã có một câu trả lời mà Phêrô vừa nói ra
như là người phát ngôn: “Thầy là Đấng Kitô”.
- Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”: Tên “Phêrô” đã biến mất sau 5,37, nhưng từ đây tên
này sẽ được nhắc đến thường xuyên. Phêrô đã nhận thức được những gì khi tuyên
xưng như thế? Tất cả những gì chúng ta có thể nói là, ít ra, ông coi Đức Giêsu
hẳn là Đấng hoàn tất những niềm hy vọng từ lâu đời là tái thiết Dân Thiên Chúa.
Bản văn Lc thêm “của Thiên Chúa”, và bản văn Mt: “Con Thiên Chúa hằng sống”.
- Đức Giêsu liền cấm ngặt (30): Hẳn là câu trả lời của Phêrô
đúng, thế mà Đức Giêsu đã cấm không những ông mà tất cả những môn đệ nữa là
“không được nói với ai về Người”. “Cấm ngặt”, epitimaô, đã được dùng trong các
câu truyện trừ quỷ” (1,25; 3,12). Với từ ngữ này, chúng ta hiểu không phải
Đức Giêsu muốn che giấu chân tính đích thực của Người, mà là muốn tránh cho
người ta khỏi hiểu sai hoàn toàn Người là ai và Người đang làm gì. Các tông đồ
không được phổ biến một lối nhìn sai lạc như thế.
Xuyên qua Cựu Ước, danh hiệu Mêsia
(Kitô) gợi lên nơi tâm trí đám dân đen cũng như giới lãnh đạo hình ảnh một vị
vua ngự trên đỉnh kim tự tháp xã hội kinh tế để mà điều khiển kim tự tháp này.
Để cho triều đại được tồn tại mãi mãi, ngài dùng quân đội, thu thuế, và nâng đỡ
một đền thờ có giới tư tế phục dịch. Giống như vua Đavít, Đấng Mêsia phải là vị
thủ lãnh được xức dầu mang uy quyền thần thánh mà điều hành xã hội sao cho có
công bình về mọi mặt. Nhưng các cơ cấu của xã hội này là cơ cấu hàng dọc, chúng
đưa đến sự áp chế và bóc lột, nên chúng phi nhân.
Luật lệ của Thiên Chúa mà Đức Giêsu
thiết lập trong tư cách là con người mới là trật tự luân lý mới, theo chiều
ngang, hoàn toàn bình đẳng, trong đó định mệnh con người được thể hiện vừa theo
cách cá nhân vừa theo cách tập thể. Vậy, cần giữ lại lời tuyên xưng của Phêrô,
nhưng cần phải lấp đầy lời tuyên xưng ấy bằng một nội dung mới. Vì thế, Đức
Giêsu bắt đầu dạy các ông về số phận của Con Người.
- Con Người phải chịu đau khổ nhiều
(31): Trong nửa đầu của
quyển TM Mc, Đức Giêsu đã nối kết Con Người với tư cách chúa tể và với uy quyền
(2,10.28). Nhưng bây giờ, phản ứng lại lời tuyên xưng của Phêrô, Người đưa vào
một viễn tượng gắn liền với chân tính của Con Người: “Con Người phải chịu đau
khổ nhiều”. Người diễn tả hai đối cực trong một khái niệm. Một đàng, Người được
ngự trên ngai cùng với Đấng Tạo Hoá, và như thế, cùng có quyền chủ tể với Đấng
Tạo Hoá. Đàng khác, Người phải chịu đau khổ và chịu chết, bởi vì Người chia sẻ
mọi phương diện của thân phận con người. Tuy nhiên, sự sống, chứ không phải sự
chết, mới có tiếng nói cuối cùng. Cho dù Người có bị giết, Người sẽ lại trỗi
dậy. Không gì có thể cản trở việc thể hiện nhân tính mới để loài người hoàn
toàn sống theo luật Thiên Chúa. “Phải; cần thiết”, dei, diễn tả một điều nằm
trong chương trình của Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Đấng Mêsia, như Phêrô (và
các anh em) đã tuyên xưng. Nhưng Người là Đấng Mêsia một cách nghịch lý: là vị
đại diện của Thiên Chúa, Người có quyền tối cao. Nhưng tương lai gần lại đưa
Người đến đau khổ và cái chết, chứ không phải là sự huy hoàng và vinh quang của
một vị vua.
- bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư
loại bỏ: Điều đáng lưu ý là
những đau khổ và cái chết của Người lại bị gây ra bởi giới ưu tuyển đang nắm
giữ quyền bính và đặc quyền trên đỉnh cao kim tự tháp Do Thái: đó là các kỳ
mục, các thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ loại trừ Người và giao nộp Người cho
nhà cầm quyền Rôma xử tử. Họ làm như thế, bởi vì luật lệ của Thiên Chúa mà Đức
Giêsu đang thiết lập có nghĩa là đã đến lúc chấm dứt cái trật tự mà họ cho là
phát xuất từ Thiên Chúa và họ đang ra sức bảo vệ bằng mọi phương thế có thể
được.
- Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt
đầu trách Người (32): Phêrô (và các anh
em) không thể chấp nhận được rằng trong khái niệm Đấng Mêsia họ vẫn hiểu, lại
có sự đau khổ và sự chết. Ông liền kéo Đức Giêsu ra một bên và trách Người
(epitimaô).
- Satan! Lui lại đằng sau Thầy (33): Đức Giêsu đã mắng ngược lại: “Vì tư tưởng của anh
không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Ý kiến của Phêrô
không diễn tả nếp sống môn đệ mà ông được mời gọi theo. Tư cách Mêsia mà ông
tuyên xưng và cách hiểu đời môn đệ tương ứng với Đấng Mêsia ấy không thể hài
hoà với cách Đức Giêsu hiểu thánh ý Thiên Chúa. Ý kiến của Phêrô chỉ dựa trên
những quan điểm của loài người, nên đã tương đương với những nỗ lực của Satan
nhằm kéo Đức Giêsu ra khỏi đường sứ mạng (so với Mt 4,10). Trong Mc 8,31-33,
tác giả đề cập đến những hậu quả của tư cách Mêsia đối với chính Đức Giêsu.
Trong 8,34-38; 9,1, ngài sẽ đề cập đến hậu quả đối với các môn đệ của Đức
Giêsu.
Lời tuyên xưng duy nhất về Đấng Mêsia mà
Đức Giêsu chấp nhận được, là lời tuyên xưng đưa các môn đệ đến chỗ hiểu về tư
cách môn đệ phù hợp với đường lối của Thiên Chúa về mầu nhiệm Đức Kitô.
- Đức Giêsu gọi đám đông cùng vói các
môn đệ (34): Đức Giêsu tiếp tục
giải thích chân lý trên đây thật rõ ràng cho các môn đệ, nhưng, bởi vì điều này
hết sức quan trọng, Người gọi cả đám đông lại mà nghe.
- Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính
mình …: Nẻo đường tuân thủ
thánh ý Thiên Chúa bắt đầu với cái chết, như chính Đức Giêsu đã cho thấy.
Aparneomai, “chối mình”, nghĩa là không màng tới quyền lợi hoặc sở thích của
mình. Vì Phêrô không chịu “chối mình” (aparneomai), sau này ông đã chối
(arneomai) Thầy (14,68).
- ai liều mất mạng sống mình vì tôi và
vì Tin Mừng, thì cứu được (35): Lời này cho thấy Đức Giêsu tự đồng hoá với Tin Mừng của Thiên Chúa. Chính
Đức Giêsu, Con Người, sẽ hướng dẫn người ta đi vào một cuộc tái lập trật tự cho
thế giới chúng ta, trong đó giá trị của con người không nằm ở “sở hữu” (cái
“có”), nhưng ở “hiện hữu” (cái “là”). Người môn đệ Đức Giêsu sẽ đạt được sự
sống vĩnh cửu ở bên kia kinh nghiệm về cái chết được diễn tả bằng công thức
“vác thập giá bước theo Đức Giêsu”. Đây là sự sống vĩnh cửu bởi vì đạt được
xuyên qua cuộc tái tạo bằng hơi thở ban sự sống của Thiên Chúa và bằng việc
tháp nhập vào trong đời sống không bao giờ chấm dứt của Con Người (nhân loại
mới).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô
(27-30)
Tác giả TM II đã nêu bật tầm quan trọng
của câu hỏi của Đức Giêsu khi đặt câu hỏi ấy ở trung tâm của tác phẩm của ngài.
Những gì ngài tường thuật trước đó (trong phân đoạn 1,1–8,26) nhắm đưa tới câu
hỏi này và cung cấp các nền tảng để trả lời. Các môn đệ đã đồng hành với Đức
Giêsu trong mọi chuyến đi và đã chứng kiến tất cả hoạt động của Người, phải có
thể trả lời câu hỏi Người đặt ra.
Đức Giêsu không nhấn mạnh tổng quát về
tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ nhưng, với một độ tăng dần, Người nêu
ra cho họ hai câu hỏi: ý kiến của dân chúng và của chính các ông về bản thân
Người. Các môn đệ, qua Phêrô, đã tỏ ra hiểu hơn về bản thân Người: họ thấy
Người là Đấng Mêsia, Đấng Xức dầu của Đức Chúa, Vị Sứ giả tối hậu và vĩnh viễn
của Thiên Chúa, sẽ thực hiện ơn cứu độ trọn vẹn cho loài người bằng quyền lực
và nhân danh Thiên Chúa. Câu đáp của Phêrô sẽ được triển khai bởi mạc khải của
Thiên Chúa đến sau đó: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (9,7).
Chính vì Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà các môn đệ phải nghe lời Người và để
cho Người hướng dẫn.
* Lời loan báo Thương Khó lần đầu
(31-33)
Phêrô vừa tuyên xưng niềm tin xong, Đức
Giêsu tức khắc nói về cuộc Thương Khó. Đây là lần đầu tiên Người nói rõ ra
những gì đang chờ đợi Người ở cuối “con đường”. Người sẽ còn ngỏ lời với các
ông về đề tài này hai lần nữa (9,31; 10,33-34). Vì các ông đã nhận biết và
tuyên xưng Người là Đấng Mêsia, các ông phải được chuẩn bị đi trên con đường mà
Đấng Mêsia sẽ rảo qua. Đức Giêsu coi như các môn đệ có khả năng đón nhận lời
loan báo này. Nhưng bây giờ lại chính là Phêrô phản đối Người (c. 32). Ông muốn
cho Đức Giêsu hiểu rằng lộ trình Người loan báo đó là một lộ trình điên rồ, phi
lý. Nhưng Đức Giêsu cũng đã đẩy ông đi với một sự quyết liệt không kém. Lộ
trình Người theo là lộ trình Thiên Chúa muốn, nên khi phản đối Người, Phêrô đã
trở thành hiện thân của ma quỷ mà chống lại Thiên Chúa.
* Giáo huấn về đời các môn đệ (34-35)
Kế đó, vì biết rằng giáo huấn Người sắp
ban có giá trị cho mọi người, Đức Giêsu đã nói với toàn dân và các môn đệ: Ai
muốn làm môn đệ Người, thì phải mô phỏng đời mình theo lối sống của Người. “Vác
thập giá mình mà theo” là công thức nói lên một công việc sẽ kéo dài, công việc
đưa lại nhiều tủi nhục đau đớn, như chuyến đi vác thập giá đến nơi chịu đóng
đinh, tiến bước giữa hai hàng người say sưa chế nhạo, căm hờn chửi bới,... Đấy
chính là chấp nhận thua thiệt vì trung thành sống theo Tin Mừng, cũng chính là
trung thành bước theo Đức Kitô.
+ Kết luận
Cuộc sống của người Kitô hữu tham dự vào
nghịch lý của bản thân Đức Kitô. Đức Kitô đã chỉ đạt được vinh quang thiên sai
nhờ đi qua Khổ Nạn và cái chết, theo đúng chương trình của Thiên Chúa. Bất cứ
ai tự hào mang danh “Kitô hữu”, đều phải sống nghịch lý Kitô giáo: muốn cứu
mạng sống mình, là mất mạng; chấp nhận mất mạng vì Đức Kitô, là cứu được mạng.
Các môn đệ phải thích ứng với nẻo đường của Đức Giêsu, mặc dù trái tim chai đá
sẽ toan tính đủ cách để tránh xa con đường này, để đẩy nó đi.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu không chỉ muốn có những môn
đệ chấp nhận phần nào giáo huấn của Người với một chút thiện cảm hoặc một chút
quan tâm. Họ phải biết rõ Người là ai và tương quan của Người với Thiên Chúa là
thế nào, để dám bỏ hết mọi sự mà ký thác trọn vẹn cuộc đời vào tay Người. Phản
ứng của Phêrô sau khi Đức Giêsu loàn báo Thương Khó (8,32b) cũng như chuyện các
ông tranh cãi về sự cao cả và danh dự (9,33-34), và lời thỉnh cầu của hai anh
em nhà Dêbêđê (10,37) cho hiểu rằng các môn đệ xác tín rằng Đức Giêsu là Đấng
Kitô, nhưng lại gán cho Người những quan niệm, những ước muốn và hy vọng của
riêng họ, tức họ chưa hoàn toàn biết rõ Người trong cái nhìn của Thiên Chúa.
Muốn biết rõ Người, phải “bước theo” Người (x. 1,17).
2. Phản ứng theo bản năng con người
chúng ta rất có thể khiến ta ở trong thế chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Những
lời Đức Giêsu trách mắng Phêrô cho hiểu là chúng ta không được để cho ý muốn
của bản năng phàm trần hướng dẫn, nhưng phải bước theo Đức Giêsu và đón nhận
những lời dạy dỗ của Người, bởi vì chỉ Người mới hiểu rõ mục tiêu và biết con
đường đưa tới đó. Ai muốn cung cấp cho Người những chỉ dẫn về những gì Người phải
làm hoặc phải bỏ, thì đã tuyên xưng Đức Kitô với những lời vô nghĩa.
3. Như vậy, người nào nhìn nhận Đức
Giêsu là Đấng Kitô thì cũng bị bó buộc bước theo Người vô điều kiện, tức là cho
dù việc tiến bước này hàm chứa việc vác thập giá của mình và bước đi như Người,
bên cạnh Người, được Người nâng đỡ, để tiến về với Chúa Cha. Như thế là phải
chấp nhận rằng để đưa lại một ý nghĩa mới mẻ đích thực và mang tính Kitô giáo
cho đời sống và niềm tin của chúng ta, chúng ta phải đón nhận cả đau khổ.
4. Thật ra con đường thập giá, với những
hy sinh, những đau khổ, không phải là thời gian Thiên Chúa thử thách chúng ta
nhằm thỏa mãn “ý chí hùng cường” của Người, khiến chúng ta phải sự hãi và khuất
phục Người như những tên nô lệ khiếp nhược. Đấy chính là lộ trình giúp chúng ta
loại bỏ dần dần “con người cũ”, để nhận lấy “con người mới”. Kho tàng phong phú là
sự sống muôn đời trong hạnh phúc với Thiên Chúa khiến chúng ta thấy rằng chấp
nhận đi vào lộ trình này cũng bõ công!
30. Chú giải của Noel Quesson.
Các nhà chú giải Tin Mừng theo Thánh
Maccô đều đồng ý công nhận rằng, trong bài Tin Mừng mà chúng ta sắp suy niệm là
đỉnh cao của Tin Mừng ông. Cho tới đây, Maccô mới viết trình thuật để minh
chứng rằng mọi người vẫn còn thắc mắc về con người đích thực của Đức Giêsu, vị
ngôn sứ thuộc Nagiarét:
“Đây là gì?” (Mc 1,27).
“Chúng tôi chưa bao giờ thấy như
vậy" (Mc 2,12).
“Ông ấy mất trí rồi " (Mc 21).
“Thực sự ông này là ai " (Mc 4,41).
“Tất cả mọi người đều kinh ngạc"
(Mc 5,20).
“Bởi đâu ông ta được như thế” (Mc 6,2).
“Đó là ma" (Mc 6,49).
“Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp
cả" (Mc 7,37).
Vâng, sự nhận biết Thiên Chúa trong Đức
Giêsu, cũng như sự nhận biết toàn diện con người phát triển dần dần từ trong
tâm hồn con người tự do, những con người đã cùng sống và quan sát người. Con
đường Đức tin luôn tiệm tiến. Tôi có tiến lên không?
Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới
các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ:
Đó là làng Xêdarê Philípphê: Maccô xác
định vị trí rõ ràng và chính xác. Tin Mừng không phải được viết trên không.
Vùng này, dưới chân núi Hécmôn, là một nơi xanh tươi nước chảy trên những sườn
đồi có tuyết: Nguồn của sông Giođan phát xuất từ đó. Đức Giêsu đã dẫn dắt các
bạn hữu đến giữa cảnh thiên nhiên, xa các đám đông. Người biết Người muốn gì?
Người sẽ trắc nghiệm đức tin của các môn đệ.
Người ta nói Thầy là ai?
Đây là một cuộc thăm dò dư luận. Những
tổ chức Sofrès và Ifop đã dành thời giờ của họ để thăm dò xem ta nghĩ gì về
những nhân vật chính trị, về trường học, về một sản phẩm nào đó. Ngày nay,
chúng ta có chấp nhận câu hỏi trên đây của Đức Giêsu không?
Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông
Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào
đó.
Vậy thì dư luận cũng khá nhất quán:
Người ta cho rằng Đức Giêsu là một vĩ nhân, là Gioan Tẩy giả đã sống lại thì
cũng không phải là việc thường, là ngôn sứ Êlia, kẻ phải đến liền trước Đấng
Mêsia. Do đó Đức Giêsu được coi như là phát ngôn viên của Thiên Chúa. Ngày nay,
đa số người ta cũng vẫn coi Đức Giêsu như là một nhân vật siêu phàm. Ngu dốt
thì mới quả quyết ngược lại, hay xem thường Người. Không một người hiểu biết
nào đã học lịch sử mà lại có thể chối bỏ sự kiện Đức Giêsu Nagiarét đã ghi dấu
ấn của Người lên lich sử hành tinh chúng ta.
Người lại hỏi các ông: "Còn anh em,
anh em bảo Thầy là ai?
Ngày nay, câu hỏi này vẫn còn đặt ra cho
chúng ta: Người ta nói gì về Đức Giêsu chung quanh chúng ta?
Không nên trả lời bằng những câu sẵn có.
Các bạn hãy nhìn xem những gì các bạn đã sống trong tuần qua, nơi khu phố,
trong công viên, trong những ngày nghỉ "Giêsu? Tôi có bao giờ nghĩ nói về
ông ấy".
Giêsu ư? Ta đâu cần biết tới. Trong một
khóa huấn luyện thể thao mà người ta hoàn toàn không để ý đến một yếu tố luân
lý sơ đẳng nào, tôi đã tự hỏi xem có phải mình đã bất bình thường, khi không
làm như những người khác? Nhưng còn bạn, bạn nói gì về tôi? Trong nhóm người
kinh doanh, giải trí, làm việc, bạn có bị ‘người ta hạch hỏi về nội dung đức
tin của mình không?’ Có thể chúng ta không thích điều đó lắm, vì nó quá bó
buộc.
Có thể chúng ta sống một cách nào đó mà
không ai nảy ra ý kiến đặt câu hỏi như trên. Điều này không đáng lo ngại sao?
Đức tin của chúng ta nơi Đức Giêsu không làm thay đổi gì cuộc sống chúng ta
sao? Như Thánh Giacôbê đã nghiêm khắc nhắc nhở chúng ta? (2,14-18).
Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng
Kitô”
Nói lên quan điểm của người khác chưa
đủ. Mỗi người chúng ta cần phải trả lời. Chúng ta nói lên lời "Tuyên xưng
đức tin" nào?
Do đó, nhóm Mười Hai mà Thánh Phêrô đứng
đầu, sẽ trả lời vượt xa hơn những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ
là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ nhóm này.
Tước vị "Christos"
"Meshiah" trong tiếng Hêbrơ có một nghĩa rất mạnh như biến cố bùng nổ
tại Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi người mong
đợi để đến "hoàn tất lịch sử". Đấng các Ngôn sứ đã báo trước, Đấng sẽ
cho cuộc sống con người có ý nghĩa.
Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không
được nói với ai về Người
Bản kịch đã làm nhẹ bản văn Hy Lạp. Đúng
ra phải dịch là: ‘Chúa đã la mắng họ để họ đừng nói điều đó với ai cả’.
"Bí mật về Đấng Mêsia" là một trong những đề tài của Maccô. Đức Giêsu
đã luôn yêu cầu người ta đừng công bố tước vị của Người (Mc 1,34; 1,44-45;
3,11; 5,43; 7,33-36; 8,26; 8,30).
Đó không phải là không công nhận tước vị
Mêsia mà Thánh Phêrô gán cho Người, nhưng chỉ là đề cao cảnh giác để người ta
đừng tiết lộ Người quá sớm. Thái độ chờ đợi Đấng Mêsia nơi người Do Thái đã quá
hàm hồ. Lát nữa chúng ta sẽ nhận ra điều này, khi nghe Phêrô nói. Thiên Chúa
không giống như chúng ta thường mong đợi. Thiên Chúa không tìm kiếm vinh hiển,
quyền năng, thành công theo nghĩa của loài người. Thiên Chúa ưa ẩn dật. Thiên
Chúa thích thinh lặng. Thiên Chúa lánh mình sau tạo vật của Người. Thánh Phaolô
sẽ nói rằng: "Người là mầu nhiệm được bao phủ trong im lặng” (Rm 16,25).
Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết
Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại
bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại
Đây là khúc ngoặt lớn của Tin Mừng Đức
Giêsu đang rời xứ Galilê, bắt đầu tiến lên Giêrusalem, và biết rõ mình sẽ bị
giết chết tại đó. Thập giá đã hiện ra trước Đấng Mêsia của Thiên Chúa.
Maccô sẽ kể lại cho ta ba lần Chúa loan
báo rõ ràng cuộc thương khó của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,33). Đây là cớ vấp
phạm cho con người.
Về mặt lịch sử, chắc chắn Đức Giêsu đã
phân tích rất kỹ những phản ứng bất lợi đối với lời rao giảng của Người: Người
đã thấy trước sự kết thúc số phận đời mình và Người đã ý thức tự mình đối chất
với nhưng nhà lãnh đạo Do Thái Người kể ra ở đây ba nhóm người làm nên Thượng
Hội Đồng, là cấp xét xử tôn giáo cao nhất bây giờ. Người bắt đầu nói với họ
rằng cần phải Người bắt đầu nói với họ, Người sẽ bị đau khổ, ruồng bỏ, trục
xuất ra khỏi dân tộc và phải chết dữ dằn. Mỗi lần Đức Giêsu loan báo với họ về
biến cố đó. Người đều khẳng định về sự Phục sinh của Người. Nhưng lạ thay, các
tông đồ hình như không bao giờ nghe được lời cuối này.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta không bao
giờ nghe Chúa nói đến cùng. Do đó, chúng ta tiếp tục bị khựng lại trước sự dữ
trên thế gian, trước những thử thách riêng của ta: Như thể thế gian và những
thử thách đó thắng thế luôn mãi, như thể sự Phục sinh, sự sống đời đời không
thể có bao giờ. Chúng ta cần thú nhận điều đó.
Người nói rõ điều đó, không úp mở
Tiếc thay, một lần nữa bản dịch lại làm
nhẹ bớt bản văn Hy Lạp. Lẽ ra phải dịch như sau: "Một cách quả quyết, Đức
Giêsu đã nói Lời". Lạy Chúa, con cần biết như Maccô đã nói, Chúa đã phát
biểu những lời đó "một cách quả quyết" không chút sợ hãi, đầy can
đảm. Con cần biết rằng, Chúa là Lời Thiên Chúa qua kiểu nói mạnh mẽ này (Người
đã nói lên lời Chúa). Con đoán rằng, nhân cách của Chúa không chỉ là nhân cách
của nhà hiền triết, một bậc Thầy, một vĩ nhân, nhưng là sự "hiện
diện" của Ngôi Lời Thiên Chúa. "Từ khởi thủy đã có Ngôi Lời" (Ga
1,1) "Người nói Lời cách quả quyết". Con Người phải bị giết và sống
lại; chữ "phải" này làm chúng ta chìm đắm trong "ý định đời đời
và không hiểu được" của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa thấy cái chết và sự Phục
sinh của Chúa hoàn toàn khác hẳn với biến cố ngẫu nhiên. Đó là chương trình mầu
nhiệm của Chúa Cha. Chúng ta cũng cần lưu ý, đây là kinh "Tin kính"
đầu tiên, từ chính môi miệng Đức Giêsu thốt lên.
Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt
đầu trách Người. Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người
trách ông Phêrô: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy!”
Do đó, lệnh truyền giữ bí mật không phải
là vô ích.
Mặc dù vừa gán cho Thầy mình tước vị đẹp
đẽ, nhưng Phêrô đã không hiểu gì cả. Ông vẫn đợi một Đấng Mêsia vinh quang,
chiến thắng theo kiểu loài người, một Đấng Mêsia hoạt động chính trị, một nhà
giải phóng trần gian.
Còn chúng ta thì sao? Không phải chỉ đọc
kinh "Tin kính" thật đúng là đã đủ. Những từ đúng nhất cũng có thể
hàm chứa sai lầm, và những từ không đúng lắm cũng có thể diễn tả chân lý. Các
bạn tin ở Đấng Mêsia nào? Có phải Đấng Mêsia của Thánh Phêrô ngày đó không? Con
người do trời sai đến để tái lập cách kỳ diệu trật tụ dưới thế gian này? Con
người mà chúng ta có thể trút đổ vào tay người đó những trách nhiệm của chúng
ta?
Vì tư tưởng của anh không phải là tư
tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Rồi Đức Giêsu gọi đám đông
cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ
bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình,
thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu
được mạng sống ấy
Đức Giêsu kiên quyết loan báo thập giá
cho Phêrô. Liền sau đó, Người cũng loan báo điều đó "cho chúng ta",
cho các môn đệ của Người, sau khi đã hỏi: "Anh em nói Thầy là ai?"
Người hỏi: "Anh em nói anh em là người thế nào?". Anh em cho cuộc
sống của mình ý nghĩa nào? Sự sống được ban cho anh em để làm gì? Để giữ nó ư?
Để cho nó ư? Để yêu thương? Hay để làm gì?
31. Yêu và ghét – Trầm Thiên Thu
Yêu và ghét là hai động thái trái ngược
nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và ghét quá mong manh đến
nỗi khó nhận ra. Khi ghét mà người ta cứ tưởng là mình đang yêu, và khi bảo là
yêu mà thực ra lại chỉ là ghét!
Không ai lại ghét chính mình, vì thế mà
đôi khi người ta yêu mình thái quá. Đó là tự ái - tự yêu mình quá mức. Nhưng
Chúa Giêsu dạy “ghét mình” mà “yêu tha nhân”. Vẫn theo chiều hướng “ngược đời”.
Vậy Ngài có quá đáng hoặc xúi dại chúng ta không?
Có thể là “hơi quá đáng” đối với chúng
ta, nhưng tuyệt đối Ngài không hề xúi dại ai cả! Chúa bảo chúng ta “ghét mình”
vì Ngài biết chung ta dễ ỷ lại, thích tự tôn, ưa tự cao tự đại, khoái “nổ” banh-ta-lông, dễ “chứng”, khó thuần hoá, thế nên Ngài phải đặt “hàm thiếc”
vào chúng ta để kiềm chế thói “chứng” của chúng ta. Mà cũng rất hợp lý. Vì nếu
Ngài không làm vậy thì chúng ta sẽ dám chỉ coi trời bằng… nắp bia mà thôi!
Bài đọc I hôm nay là bài ca thứ ba trong
các Bài ca Người Tôi Trung. Tôi trung nào cũng khổ sở “trần ai khoai củ”. Không đâu xa, lịch sử Việt Nam cho thấy có những trung thần mà phải bị
hàm oan, trong Giáo hội Công giáo cũng không thiếu những con người bị khổ oan
như vậy, thậm chí có những vị thánh đã từng bị vạ tuyệt thông!
Ngôn sứ Isaia kể một mạch: “Đức Chúa là
Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng
đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi
lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn
tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50,4-5). Ngoan cường quá!
Không ngại khó, không sợ khổ, không “tham sanh, uý tử” (ham sống, sợ chết). Thế mới xứng danh Người Tôi Trung. Và đó chính là
hình bóng của Đức Kitô.
Ngôn sứ Isaia kể tiếp: “Tôi đã đưa lưng
cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi
bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Rất tự tin, rất hiên ngang. Mọi gian truân
chẳng là “cái đinh” gì ráo trọi! Tại sao? Thánh nhân cho biết động lực thúc
đẩy: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì
thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên
bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên” (Is 50,7-8a). Càng lúc càng an tâm,
vững dạ; càng lúc càng tin tưởng. Ngôn sứ Isaia “đặt vấn đề” rất thẳng thắn, ngỡ như thách thức: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta
hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!” (Is 50,8b).
Sống công chính thì chẳng có gì phải sợ,
và cũng chẳng ngán bất kỳ ai. Mãi mãi là chính mình!
Nếu theo Chúa và hoàn toàn tín thác vào
sự quan phòng của Ngài, chúng ta sẽ không ngại nói: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì
Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Ngài lại lắng tai ngày tôi kêu cứu” (Tv
116,1-2). Và dù “dây tử thần đã bủa vây chằng chịt, lưới âm ty chụp xuống trên
mình” (Tv 116,3), chúng ta cũng vẫn ngước cao đầu mà tiến bước. Nếu gặp gian
truân sầu khổ mà chúng ta thành tín kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ
mạng con!” (Tv 116,4), Ngài sẽ thương cứu ngay, vì Ngài luôn đồng hành với
chúng ta, nhất là trên những chặng đường đầy chông gai. Bởi vì Ngài mệnh danh
là Thiên Chúa tình yêu (x. 1 Ga 4,8), là Đấng nhân từ chính trực, luôn một dạ
xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, những người yếu đuối, đặc biệt là
luôn giữ lời hứa. Tác giả Thánh vịnh đã là nhân chứng sống động: “Chúa cứu gỡ
mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt
chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Ngài trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv
116,8-9). Thật vậy, Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không của người chết.
Thánh Giacôbê chất vấn: “Ai bảo rằng
mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin
có thể cứu người ấy được chăng?” (Gc 2,14), và phân tích: “Giả như có người anh
em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong
anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại
không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,16).
Thế thì đời sống tâm linh cũng vậy, “đức tin không có hành động thì quả là đức
tin chết” (Gc 2,17). Một cách định nghĩa đức tin rất ngắn gọn mà sâu sắc và rất
hay. Quả thật là thế: “Bạn có đức tin; còn tôi có hành động. Bạn thử cho tôi
thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn
thấy thế nào là tin” (Gc 2,18). Cứng họng. Không ai có thể đưa ra bất cứ lý do
nào để tự biện hộ. Cách biện luận của Thánh Giacôbê rất thuyết phục, chắc hẳn
ai cũng phải “tâm phục, khẩu phục”.
Có lần Chúa Giêsu đã từng “ví von” thế
này: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn
đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt 7,9-10). Chỉ có nước câm
miệng chứ ai nói lại được gì? Đó là yêu thương, là sống đức tin, là sống đạo
(chứ không chỉ giữ đạo), là thể hiện lòng thương xót của Chúa. Đừng thương xót
Chúa mà hãy thương xót nhau, cũng như Chúa Giêsu đã nói: “Hỡi chị em thành
Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho
con cháu” (Lc 23,28).
Một dịp Đức Giêsu và các môn đệ tới các
làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói
Thầy là ai?” (Mc 8,27). Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ
thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8,28). Ngài lại
hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phêrô nhanh nhẹn đại
diện trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29). Một câu trả lời trên cả tuyệt vời,
Phêrô nhà ta là “số dzách”, là “number one”!
Thế nhưng Đức Giêsu liền nghiêm mặt và
cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Rồi Ngài không nói về vinh hoa,
phú quý, hoặc chức quyền, địa vị, mà Ngài bắt đầu dạy cho các ông biết Con
Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ,
bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Thánh Máccô cho biết rằng Chúa Giêsu nói
rõ về điều đó, không hề úp mở.
Có lẽ Phêrô nhà ta “cụt hứng”, thế nên
ông liền kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Ngài. Nhưng Ngài quay lại nhìn các
môn đệ và trách ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh
không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33). Chúa
Giêsu chưa một lần trách ai nặng như đã trách vị Giáo hoàng tiên khởi. Điều đó
chứng tỏ Chúa rất công bình, chính trực, hay thì khen mà dở thì chỉnh ngay,
không thiên tư hoặc vị nể. Thật vậy, những người khác chỉ bị trách là thế này
hay thế nọ, còn Giáo hoàng Phêrô bị nguyền rủa là Satan. Quá nặng!
Nói xong thì thôi, không để bụng, Ngài
liền gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ
chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34). Thuận ngôn, nghịch nhĩ. Khó
quá, Chúa ơi! Thế nhưng Ngài vẫn thật thà và thẳng thắn: “Ai muốn cứu mạng sống
mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ
cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Ngài không ép. Hoàn toàn cho tự do. Tuỳ ý.
Thích thì chiều!
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con chỉ
là những tội nhân khốn nạn, lúc nào cũng chỉ muốn “nổi dậy” bằng đủ cách, chỉ
đòi được Ngài yêu mà không muốn yêu tha nhân, không muốn bị ghét mà chúng con
lại lườm nguýt hoặc xỉa xói những người lân cận. Chúng con thật hồ đồ, thật
đáng tội. Xin Ngài thương xót, tha thứ, và giúp chúng con quyết “bỏ mình” như
Chúa Con đã nêu gương. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên
Chúa cứu độ của chúng con. Amen.