Các bài suy niệm
* CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: St 2,18-24; Dt 2,9-11; Mc
10,2-16
* Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MỤC LỤC
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN B
1. Giá trị của gia đình - Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chưa bao giờ các gia đình lại gặp nhiều
khốn đốn, nhiều đe doạ và sóng gió hung tợn như ngày hôm nay. Hàng loạt rồi
hàng loạt gia đình bị rạn nứt, bị sụp đổ, bị tan tác trước những cơn địa chấn
kinh hồn do nếp sống hưởng thụ và vô thần gây nên (nạn ly dị tràn lan, hôn nhân
thử cũng như kết hôn đồng tính gia tăng đáng sợ...)
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra
giá trị cao cả của gia đình để chúng ta trân trọng yêu mến gia đình và từ đó
quyết tâm xây dựng gia đình nên tốt lành thánh thiện hơn.
Dựa vào Lời Chúa, chúng ta có thể khẳng
định rằng gia đình có một giá trị rất cao quý, vì những lý do sau:
* Chính Thiên Chúa là kiến trúc sư đã
thiết kế và trực tiếp xây dựng nên gia đình:
Bài đọc thứ nhất cho thấy Thiên Chúa đã
thiết lập nên gia đình đầu tiên bằng hình ảnh rất nên thơ: Trước tiên, Ngài
dựng nên ông Ađam và trong khi Ađam say ngủ, Ngài rút một xương sườn của ông mà
dựng nên E-và. Ađam hoan hỉ đón nhận Evà làm bạn đời và xác nhận rằng đó là
xương thịt của ông.
Đó là cách diễn tả rất thi vị, rất độc
đáo để trình bày cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã sáng tạo nên gia đình và gia
đình là tác phẩm ưu việt của Ngài.
Ta có thể hình dung mỗi gia đình như một
toà lâu đài và lâu đài đặc biệt nầy được chính Thiên Chúa vừa là nhà thiết kế,
vừa là kỹ sư xây dựng. Vì thế, gia đình là một công trình rất đáng trân trọng
của Thiên Chúa.
* Lý do thứ hai khiến cho gia đình đáng
cho mọi người chúng ta tôn trọng là vì chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa Ngôi Hai
quyền năng phép tắc cũng đã vui lòng đến sống dưới mái gia đình Na-da-rét. Trong ba mươi ba năm mang lấy thân phận con người,
Ngài đã dành ra đến gần ba mươi năm nương náu trong gia đình Na-da-rét. Thế là
tại đây, mái ấm gia đình trở nên cung điện của Thiên Chúa.
* Lý do thứ ba là Chúa Giêsu rất quý
trọng gia đình.
Khi có một gia đình mới được thành lập
tại Cana, Chúa Giêsu, Mẹ Maria cùng các môn đệ được mời dự tiệc. Đang giữa tiệc
vui bỗng hết rượu, Mẹ Maria phải cậy nhờ Chúa Giêsu cứu nguy cho đôi tân hôn.
Chúa Giêsu biết là giờ Ngài chưa đến, chưa đến lúc để làm phép lạ đầu tay. Mà
nếu cần thực hiện một phép lạ đầu tay thì cũng phải thực hiện vì một lý do rất
hệ trọng. Thế mà Chúa Giêsu lại chấp nhận làm phép lạ đầu tiên hoá nước thành
rượu cho gia đình mới được vui.
Sự kiện Chúa Giêsu, Mẹ Maria cùng các
môn đệ đến tham dự tiệc cưới tại Ca-na và Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tay chỉ
vì hạnh phúc của một đôi tân hôn, của một gia đình mới xây dựng chứng tỏ Chúa
Giê -su rất quý trọng gia đình.
* Lý do thứ tư là Chúa Giêsu lập bí tích
hôn phối để nâng cấp gia đình những người con cái Chúa.
Đối với những người sống trong Hội
Thánh, Chúa Giêsu còn thiết lập nên bí tích hôn phối để làm cho gia đình họ trở
thành gia đình thánh. Thế là nhờ bí tích hôn phối, gia đình là một tổ chức thế
tục trở thành một Hội Thánh nhỏ của Chúa Giêsu.
Vì những lý do kể trên, gia đình là một
công trình cao đẹp và rất đáng trân trọng. Có thể nói rằng không một công trình
kiến trúc vĩ đại nào của con người, ngay cả đại thánh đường Phêrô tại Rôma được
xây dựng trong suốt 130 năm bởi nhiều kiến trúc sư tài năng nhất thế giới, cũng
không thể sánh bằng.
Giả như có một ai đó đang tâm phá huỷ
đền thờ thánh Phêrô tại Rôma, thì đó là một tội ác lớn lao đối với nền văn minh
nhân loại, thì kẻ nào phá vỡ gia đình là thánh điện của Thiên Chúa, là kiến
trúc tuyệt mỹ của Thiên Chúa Ba Ngôi thì đáng chịu tội nặng nề hơn.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu củng cố
nền tảng gia đình và lên tiếng cảnh cáo mọi người nhớ rằng: gia đình là
"công trình mà Thiên Chúa đã kiến tạo, thì loài người không được phá
huỷ". Phá huỷ gia đình là xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa.
Vậy xin đừng ai phá huỷ gia đình hay làm
cho gia đình xuống cấp bằng cách đưa vào nhà mình những tệ nạn xã hội, những
gương xấu, những nguyên nhân phát sinh tội lỗi.
Trái lại, mỗi người hãy xây dựng gia
đình mình trở thành tổ ấm cho tình thương và sự sống phát triển, xây dựng tình
hiệp nhất yêu thương, để cho sự "hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô
giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa" (thư chung Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam năm 2002)
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã chọn
gia đình làm nơi cư ngụ của Ngài, ban ơn giúp sức để chúng ta biết dựng xây gia
đình mình ngày càng hạnh phúc, an vui và thánh thiện như gia đình của Chúa Giêsu
ngày xưa. Amen.
2. Bất khả phân ly
Bọn Biệt phái hôm nay đưa vấn đề ly dị
ra hỏi Chúa Giêsu, không phải là để có thêm kiến thức hay tranh thủ ý kiến của
Ngài, nhưng là để giăng bẫy gài Ngài. Một cái bẫy không kém phần thâm độc. Họ
chọn đúng lúc có đông đảo dân chúng tụ tập xung quanh Chúa Giêsu để đòi buộc
Ngài phải bày tỏ rõ lập trường. Uy tín của Ngài sẽ tùy thuộc vào cách giải
quyết của Ngài. Mà theo những người Biệt phái, Chúa Giêsu sẽ không dễ gì thoát
được cạm bẫy của họ. Nếu trả lời được phép, thì Ngài sẽ đi ngược lại lề luật
của Thiên Chúa. Còn nếu trả lời không được phép, thì Ngài sẽ vi phạm điều
Maisen qui định.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần âm mưu
của bọn Biệt phái bằng cách kéo họ về với điều Thiên Chúa muốn người ta thực
hiện. Chúa Giêsu đã gợi lại: Khởi đầu cuộc sáng tạo con người, Thiên Chúa dựng
nên người nữ, để làm vợ của người nam, nghĩa là làm người bạn đường, bình đẳng
với người nam…
Để diễn tả ý tưởng này, Kinh Thánh cho
thấy Thiên Chúa đã dựng nên người nữ, không phải bằng bụi đất, mà bằng chính
xương thịt của người nam. Và trong quan niệm của người Do Thái, thì lồng ngực
được cấu tạo bởi bộ xương sườn đó chính là trung tâm của sự sống con người. Như
thế, giữa người nam và người nữ, giữa người vợ và người chồng, có một mối quan
hệ mật thiết với nhau, quan hệ xương máu, quan hệ cuộc sống. Và trong ý định
của Thiên Chúa, nam và nữ, vợ và chồng được tạo dựng để trở nên một huyết nhục.
Do đó mà điều gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly.
Nhưng trong thực tế, Maisen đã cho phép
ly dị. Theo Chúa Giêsu, thì việc làm của Maisen không có tính cách qui định về
một lý tưởng phải theo đuổi, mà chỉ là một nhượng bộ bởi sự cứng lòng của người
Do Thái. Thay vì thực hiện lý tưởng của khởi đầu cuộc sáng tạo, nghĩa là coi vợ
mình như một người bạn đường, như một phần của cuộc sống mình, thì người ta đã
coi vợ mình như là một phương tiện thỏa mãn những ước muốn ích kỷ, để rồi sẽ
dẫy bỏ khi không cần thiết.
Sự ích kỷ đó đã phổ biến đến nỗi Maisen
phải nhượng bộ, nhằm giải quyết sự yếu đuối của con người cùng thời với ông,
đồng thời nó còn phản ảnh cho một quan niệm hôn nhân thời bấy giờ: Người vợ
không được nhìn nhận là bình đẳng với người chồng.
Ngoài ra, có lẽ cũng nhằm sửa đổi cái
nhìn của người ta về con người trong xã hội, mà ở đây Chúa Giêsu đã dạy các
tông đồ thái độ phải có đối với các trẻ nhỏ, vì trẻ nhỏ chính là mẫu mực cho
những ai muốn vào nước Thiên Chúa. Mẫu mực ở sự đơn sơ vô tội đã đành, mà còn
mẫu mực ở thái độ sẵn sàng đón nhận với tất cả sự chân thành.
Đoạn Tin Mừng vừa nghe thường được xử
dụng trong lễ cưới, và câu nói của Chúa Giêsu: Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài
người không được phân ly, vốn được coi là nền tảng cho sự bền vững của gia đình
Công giáo. Thế nhưng chúng ta đừng vội hiểu việc Thiên Chúa liên kết theo một ý
nghĩa hoàn toàn pháp lý hay nghi lễ. Vợ chồng kết hợp với nhau không phải bằng
một nghi lễ, mà bằng chính sự tôn trọng lẫn nhau, đặt mình trong kế hoạch tạo
dựng của Thiên Chúa, bằng sự trở nên một huyết nhục, qua hành động, qua tình
cảm, qua cuộc sống thường ngày, qua sự chọn lựa diễn ra trong từng giây từng
phút.
Bởi đó, hãy sống việc Thiên Chúa liên
kết hơn là coi đó chỉ là một nghi lễ có tính cách pháp lý mà thôi.
3. Không thể chia lìa – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi những người biệt phái đặt vấn đề với
Chúa Giêsu về việc ly dị, Chúa Giêsu khẳng định dứt khoát rằng vợ chồng không
thể phân li. Người trích dẫn lại lời Kinh thánh: "Lúc khởi đầu công trình
tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông
sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như
vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên
Chúa đã phối hợp, loài người không được phân li." (Mc 10, 6-9)
Sự kiện vợ chồng nên một xương một thịt
đã được cụ thể hoá qua hình ảnh Thiên Chúa lấy xương sườn Ađam để dựng nên Evà.
E-và như thân cây được Thiên Chúa làm cho nẩy sinh từ gốc cây A-đam; gốc cây và
thân cây chỉ là một, nên A-đam và E-và cũng chỉ là một. Thế nên khi Thiên Chúa
trao Evà cho Ađam, ông vui mừng mừng xác nhận rằng nàng không là ai xa lạ mà
chỉ là xương thịt của mình: "Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt
tôi". (Sáng Thế 2, 18-23)
Trong hôn nhân, tuy người nam và người
nữ là hai chủ vị khác nhau, nhưng họ được Thiên Chúa liên kết thành một với nhau
như chim liền cánh, như cây liền cành. Họ là một như A-đam, E-và là một với
nhau.
Tuy nhiên, một số người không nhìn nhận
vợ chồng là một và bất khả phân li vì họ có cái nhìn phân mảnh nên không thấy
được tính duy nhất trong đa tạp.
Đối với hạng người nầy, khi nhìn vào
chiếc kìm hay chiếc kéo, họ chỉ thấy có hai gọng thép ghép lại với nhau và nói
rằng đây chẳng là gì ngoài hai gọng thép; nhưng người hiểu biết thì cho rằng
đây không đơn thuần là hai gọng thép mà là một chiếc kéo hay một chiếc kìm.
Khi nhìn vào một ngôi nhà gạch, người có
nhãn quan phân mảnh cho rằng đây là tập hợp của rất nhiều gạch đá. Nhưng người
hiểu biết thì quả quyết đó là một ngôi nhà.
Tay phải và tay trái, tuy là hai cánh
tay riêng biệt nhưng cũng nên một với nhau vì cùng thuộc về một thân mình.
Đầu và thân mình tuy là hai phần riêng
biệt, nhưng cũng chỉ là một vì cả hai đều thuộc về nhau và cùng thuộc về một
thân mình.
Tương tự, khi nhìn vào người nam và
người nữ đã kết hôn, người không đón nhận giáo lý của Chúa thì cho rằng đây chỉ
là một người nam sống bên cạnh một người nữ; nhưng người am hiểu giáo lý Chúa
dạy thì biết rằng đó là một gia đình gồm hai người đã nên một xương một thịt
với nhau.
Hôm nay, Chúa Giêsu tái khẳng định với
chúng ta rằng vợ chồng không còn là hai mà là một huyết nhục và điều gì Thiên
Chúa đã kết hợp thì loài người không được phân li.
Đã nên một xương một thịt với nhau mà
phân li, chia cắt thì đau xót biết bao! Phân li như thế khác chi tự phanh thây
xẻ thịt mình.
Cấu trúc của máy bay có hai cánh. Nhờ
hai cánh mà máy bay cất cánh và giữ được thăng bằng. Nhờ cấu trúc nầy, máy bay
lướt gió, vượt lên trên các tầng mây, bay xuyên qua đại dương và các lục địa.
Nếu có ai đó chặt bỏ mất một cánh, thì máy bay không thể cất cánh được, hoặc
nếu có cất cánh được thì cũng lảo đảo mấy vòng rồi lao xuống đất.
Cấu trúc của gia đình là nam và nữ kết
hợp nên một như hai cánh máy bay. Nếu ai phá vỡ cấu trúc nầy, gia đình sẽ bị đổ
vỡ và gây ra tổn thất rất lớn cho xã hội loài người.
Lạy Chúa Giêsu,
Hôm xưa Chúa đã cầu xin cho các môn đệ
được hợp nhất nên một như Ba Ngôi là một, thì nay xin Chúa cũng lặp lại lời cầu
đó cho mỗi thành viên trong các gia đình: "Lạy Cha, xin cho người chồng,
người vợ, người con trong các gia đình nầy được "nên một như chúng ta là
một" (Ga 17,22), nhờ đó các gia đình con cái Chúa được hiệp nhất trong yêu
thương và trở nên hình ảnh sống động của Gia Đình Ba Ngôi.
4. Điều Thiên Chúa kết hợp.
Điều Thiên Chúa đã kết hợp thì loài
người không được phân ly.
Trong một năm chúng ta cử hành rất nhiều
lễ cưới, nhưng phụng vụ Chúa nhật thì hầu như lại không đề cập tới hôn nhân.
Một vài trường hợp ít ỏi như ngày hôm nay chẳng hạn, vấn đề hôn nhân được đặt
ra, không phải một cách trực tiếp, nhưng là một cách gián tiếp. Tuy nhiên, qua
phần Lời Chúa, chúng ta có thể rút ra một vài kết luận về cuộc sống gia đình.
Trước hết, với bài đọc I trích từ sách
Sáng Thế Ký, chúng ta thấy: Con người, trong bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa,
không phải chỉ là nam hay nữ, mà là nam và nữ. Người nữ được dựng nên từ xương
thịt của người nam. Cả hai cùng có một bản chất, cùng mang lấy hình ảnh của
Thiên Chúa. Có lẽ, không một tài liệu cổ xưa nào có được một quan niệm vừa rõ
ràng vừa thơ mộng về sự bình đẳng giữa người nam và người nữ cho bằng câu
chuyện của sách Sáng Thế Ký. Đồng thời, sự kết hợp giữa người nam và người nữ,
hay nói một cách cụ thể hơn, cuộc sống lứa đôi, cuộc sống hôn nhân, cuộc sống
gia đình không phải là một sự chúc dữ, không phải một chuyện chẳng đặng đừng,
mà là một sự thật xuất phát từ Thiên Chúa. Cuộc sống ấy là khởi điểm cho sự
hiện diện của con người trên mặt đất này: Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp
với vợ mình và cả hai trở nên một thân thể. Đây là một sự kết hợp có tính cách
thánh thiện và thiêng liêng, bởi vì từ sự kết hợp này mà nảy sinh những con
người mới, có tự do, có hiểu biết, có yêu thương và cũng mang lấy hình ảnh của
Thiên Chúa. Như vậy hôn nhân chính là hành động cộng tác và tiếp nối công trình
tạo dựng của Thiên Chúa.
Rồi qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã
thẳng thắn gạt bỏ những dễ dãi do sự cứng lòng của con người để trở về với ý
định ban đầu của Thiên Chúa. Sự gắn bó giữa vợ chồng để trở nên một là do Thiên
Chúa thiết lập.
Tiếp nối vào đó, thánh Phaolô còn xác
quyết: Sự gắn bó ấy còn là hình ảnh tượng trưng cho sự kết hợp giữa Đức Kitô và
Giáo Hội. Một sự kết hợp làm nên cuộc sống mới. Bởi đó, sự gì Thiên Chúa đã
liên kết, loài người không được phân ly vì phá đổ sự kết hợp này chính là phá
đổ công trình của Thiên Chúa, là bôi bác hình ảnh của Thiên Chúa đã có đó trong
cuộc sống hôn nhân. Không phải ngẫu nhiên mà phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu,
dấu chỉ về sự hiện diện của Nước Trời giữa trần gian, lại đã được Ngài thực
hiện trong một đám cưới.
Ngày nay, gia đình tại nhiều nơi đang
lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chồng bỏ vợ và vợ bỏ chồng, con cái
thì bơ vơ vất vưởng. Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa củng cố nền tảng
của gia đình bằng cách làm cho vợ chồng biết trung thành và gắn bó với nhau
trong suốt cuộc sống yêu thương của mình.
5. Bài tình ca đầu tiên – Lm. Hồng Phúc
"Đây là xương bởi xương
tôi..."
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta
một quan niệm về tình yêu hôn nhân và gia đình trong đạo mới.
Trước hết, Sách Sáng thế mô tả cái nhìn
đầu tiên, âu yếm và ngây ngất của ông Ađam trên Eva, người bạn đường từ trong
bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa xuất hiện. Đó là bài tình ca đầu tiên:
"Đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là
đàn bà (Ishâh) vì bởi đàn ông (Ish) mà ra". (Stk 2,23). Hai nguyên tổ là
những tạo vật do Thiên Chúa dựng nên, giống hình ảnh Người và do một tình
thương đặc biệt. "Người đàn ông ở một mình không tốt, Ta phải ban cho nó
một người bạn tri kỷ". Vì thế, hai người sẽ phối hợp với nhau trở nên một
xương một thịt. Tình yêu vợ chồng phải là một tình yêu, duy nhất và chung thủy:
"Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly".
Nhưng tình yêu loài người có thể vươn
lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm. Sách Sáng Thế
mở màn bằng mối tình keo sơn giữa hai nguyên tổ. Nhưng, than ôi, lịch sử cũng
đầy nhan nhãn những cuộc chia ly, đổ vỡ và phản bội. Không phải chỉ trong hàng
ngũ người ngoại đạo mà cả trong tập đoàn dân Chúa. Theo linh mục Lawrence
Wrenn, chánh án tòa án hôn phối giáo phận Hartfort, Connecticut, thập niên trước
đây có 120,000 đôi ly hôn tại tòa án dân sự và có phân nữa tái hôn. Họ cảm thấy
bối rối, buồn phiền nên lập ra nhiều nhóm đòi sự thông cảm của Giáo Hội.
Ngày xưa, người Do Thái nói với Chúa:
Ông Môsê cho phép rẫy vợ thì ngày nay họ nói: Luật pháp cho phép! Như xưa Chúa
trả lời vì sự cứng đầu của các ông, thì ngày nay Chúa vẫn khẳng định: "Sự
gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly". Lời Chúa đưa ta
đến nhận định này: Luật pháp trần gian chỉ có hiệu lực khi không phản lại luật
Thiên Chúa. Chứng chỉ ly dị, trước mặt Chúa chỉ là mảnh giấy vụn: "Ai bỏ
vợ mình mà lấy vợ khác thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người
nữ bỏ chồng và lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình". Những nguyên
tắc căn bản của luật Chúa sẽ giúp cho đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, bão
bùng, giông tố, biết tự chủ, biết nhịn nhục, để giữ vững hạnh phúc. Đó cũng là
một ơn của Bí tích hôn nhân.
Và Phúc Âm Marcô kết luận bằng một bối
cảnh rất dễ thương. Một đám con trẻ đến quây quần chung quanh Chúa. Ngài ôm
chúng vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng. Phải chăng đó cũng là một sự mời
gọi các đôi vợ chồng, các người làm cha mẹ? Khi trái tim đôi bên không còn cùng
rung một nhịp, khi phải chước cám dỗ muốn từ bỏ, chia ly, hãy nhìn vào con cái
mình, những nạn nhân vô tội. Bỏ nhau, đường ai nấy đi là một cách giải quyết
cho mình, nhưng còn chúng, chúng đi đâu? Biết dâu chúng lại trở nên kẻ thù của
cha mẹ, bỏ công sinh thành. Đây chứng từ của một em bé tên là Nina, trích trong
cuốn "Dossier des enfants du divorce" (Con cái người ly dị) của
Jeanne Delas: Ba thương mến, con viết về bàn giấy của ba vì con không biết bây
giờ ba ở đâu, vì ba đã bỏ gia đình. Con mong rằng ba mạnh khoẻ và nhớ đến bé
Nina mỗi tối khi ba đi ngủ. Con mong rằng bà ấy không dữ lắm. Con chắc là bà
dữ, vì bà đã bắt ba bỏ nhà ra đi. Con hôn ba. Nina" (trg 74).
Chúa phán: "Hãy để con trẻ đến với
Ta, dừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những người giống như
chúng". Nước Trời là thiên đàng của nhi đồng. Một người thanh niên đã nói:
"Nhìn thấy cha mẹ tôi thương yêu nhau, tôi hiểu hơn về Thiên Chúa".
Phía sau đại thánh đường kính Bà Thánh
Têrêxa Hài Đồng Giêsu ở Lisieux, có hai phần mộ nằm song song. Đó là các phần
mộ của thân phụ và thân mẫu của Thánh Nữ. Ông Louis Martin và bà Zelie Guérin.
Trước hai phần mộ có pho tượng vị Thánh Nữ, với câu khắc ghi lời Bà đã nói: Tôi
cám ơn Thiên Chúa đã cho tôi những người làm cha mẹ đáng thiên đàng hơn là trần
thế (Đọc: Chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu của H.P. trg 246).
"Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa
trái, trogn gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như chồi non của nhóm ôliu,
ở chung quanh bàn ăn của bạn. Đó là phúc lột dành cho người biết kính sợ
Chúa" (Tv 127, 1-2 - Đáp Ca)
6. Chung thủy trong tình yêu.
(Suy niệm của Thiên Phúc, "Như Thầy
đã yêu")
Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm
ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê
thăm vợ và mẹ. Khi về gần đến nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp
đang hái dâu bên đường.
Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu
cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.
Hồ Tử nói:
- Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng
cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được
một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng
thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân!
Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng
dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.
Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp
thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc nãy.
Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học:
- Chàng đi làm quan năm năm mới về. Đáng
lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc
đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ
gì đến mẹ, cũng chẳng thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng
dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người
như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quý được!
***
Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về
sự chung thủy vợ chồng mà Tin mừng hôm nay xác định lại. Đó là luật đơn hôn và
vĩnh hôn trong bậc hôn nhân: "Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã
dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến
ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết
hợp, loài người không được phân ly" (Mc.10,6-9). Ý định của Thiên Chúa là sáng
tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục
"là giao ước tình yêu". Hiệu quả của giao ước này là "hai người
trở nên một". Điều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng
thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.
Kể từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình
keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và
chung thủy: "Mình với ta tuy hai mà một". Nhưng tình yêu hôn nhân ấy
có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.
Có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau
trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia
đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình không trọn vẹn, như mơ ước của
thiên đường.
Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia
tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua Đavít
chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp
diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ
hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ
côi.
Xét cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là
một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, giông tố,
biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và lành mạnh hóa xã hội.
Đó cũng là một ơn huệ của bí tích Hôn nhân.
Hình ảnh "Đức Giêsu ôm các trẻ nhỏ
vào lòng và chúc lành cho chúng" (Mc.10,16) là một lời nhắc nhở các bậc
cha mẹ. Nếu "cơm không lành canh không ngọt", muốn chia tay, hãy nhìn
vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp "đường ai
nấy đi" thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu?
Thống kê cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ
ly tán.
Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia
đình, số 59, có viết: "Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét
như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của
Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu
nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn".
****
Lạy Chúa, "Chúa là tình yêu",
xin ban Tình yêu Chúa xuống trong các gia đình đã nguội lạnh tình yêu.
Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhẫn
nhục và tha thứ cho nhau, để họ trọn đời chung thủy trong tình yêu mà Chúa đã
chúc phúc cho họ trong ngày thành hôn. Amen.
7. Suy niệm của Guy Marin.
Những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu xem
người ta có thể hủy bỏ mối liên hệ hôn nhân không. Chúng ta biết câu trả lời
rồi. Trước nỗi khó khăn mà giáo lý này đặt ra, phản ứng đầu tiên của chúng ta
là chúc dữ cho những kẻ đặt câu hỏi ấy. Khốn cho các ngươi, hỡi những người
biệt phái! Không hài lòng với việc làm cho Chúa Giêsu phải lúng túng, các ông
còn phá rầy chúng tôi, báo hại cả ngàn năm sau nữa. Ước gì họ không bao giờ nêu
lên câu hỏi này và Chúa Giêsu chẳng bao giờ phải trả lời cả! Như vậy các nhà
chức trách trong Giáo Hội sẽ có một khoảng cách không gian để xoay sở và các
Kitô hữu có một khoảng không gian để sống.
Chúng ta có thể thực sự nghĩ như thế
không? Chúng ta có thể nghiêm túc nghĩ như vậy không, nếu chúng ta tin vào Lời
Chúa? Chắc chắn là không. Chúng ta không có quyền lựa chọn trong Tin Mừng những
gì hợp với chúng ta hoặc tuyên bố rằng lời này lời nọ không phải là lời của Tin
Mừng. Thực ra tội ở địa đàng lại không phải là khẳng định cái gì tốt hoặc xấu
theo ý chúng ta chứ không theo ý Thiên Chúa đó sao?
Có được phép rẫy vợ không?
Vào thời Chúa Giêsu, việc rẫy vợ thường
được chấp nhận nơi người Do Thái. Người chồng có quyền rẫy vợ và điều này bao
giờ cũng cho phép người chồng được tái giá. Người vợ không có quyền này. Những
cuộc tranh cãi thường liên quan đến những lý do khiến người chồng sử dùng quyền
rẫy vợ: tùy theo trường phái đó có thể là vì người vợ xấu nết hoặc làm cháy món
ăn. Bởi vậy trong Phúc Âm thánh Matthêu, câu hỏi gần với thực tại hơn: “Có được
phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?”.
Thánh Marcô nêu lên ý xấu của những kẻ
nêu câu hỏi, đó là “để làm cho Ngài lúng túng”. Người ta đưa ra cho Chúa Giêsu
một câu hỏi để gài bẫy Ngài, tương tự như câu hỏi về việc trả thuế cho Xêda
vậy. Trả lời câu hỏi ấy xem ra rất khó về nhiều phương diện. Ngài phải tránh
nói ngược với luật Môsê cho phép ly dị. Khó khăn khác nữa: lúc bấy giờ Chúa
Giêsu ở trên lãnh thổ của Hêrôđê, và ông này vừa mới cho chém đầu Gioan Tẩy Giả
vì đã trách ông về cuộc hôn nhân bất hợp pháp của ông (6,17). Đây không phải là
một địa điểm dễ dàng để nói sự thật. Và Ngài có thể bị chống đối bởi những
thính giả thuộc phái đàn ông kiên quyến bảo vệ quyền được rẫy vợ. Phản ứng của
các môn đệ cho thấy rõ điều này: “Nếu không thể rẫy vợ được thì thà đừng cưới
vợ còn hơn” (Mt 19,10). Khi trả lời, xem ra Chúa Giêsu phải mạo hiểm lắm.
Chúa Giêsu đề nghị một cái nhìn đức tin.
Trước hết, Chúa Giêsu đưa ra cho mấy
người Pharisiêu một câu hỏi về lệnh truyền của Môsê và sau đó Ngài giải thích
câu trả lời của họ: đây là một sự nhượng bộ. Nhưng Ngài sẽ không để mình bị
giam hãm trong một cuộc tranh cãi về những gì được phép và không được phép.
Ngài mời gọi các thính giả của Ngài hãy có cái nhìn đức tin hướng về Thiên Chúa
và về con người từ bản văn của sách Sáng Thế. “Lúc ban đầu khi Thiên Chúa tạo
nên nhân loại, Ngài đã làm ra cho họ có nam có nữ…” Chúa Giêsu khẳng định rằng việc phân biệt phái tính không những là một sự
kiện tự nhiên nhưng còn là ý muốn của Thiên Chúa nữa. Giới tính không do bởi
ngẫu nhiên, cũng không do bởi sự trà trộn những giống loại sinh vật, nhưng do ý
muốn của Thiên Chúa. Ở đây ta thấy có giáo huấn về con người. Con người không
phải là một hòn đảo, nhưng là một hữu thể tương quan. Con người cần thiên nhiên
để có thức ăn, áo mặc. Tuy nhiên, nỗi cô đơn của họ vẫn không được lấp đầy; họ
cần một kẻ ngang hàng, với người này họ có thể chia sẻ mọi sự. Và Thiên Chúa
ban cho con người người phụ nữ. Để triển nở theo ý định của Thiên Chúa, con
người cần phải liên hệ với thiên nhiên, với tha nhân và đặc biệt là với một
người phối ngẫu.
Thánh Kinh rút ra những hậu quả từ việc
sáng tạo này. Khi người nam và người nữ rời bỏ cha mẹ để gắn bó với nhau và trở
thành một thân xác, thì họ tự do chấp nhận làm theo điều Thiên Chúa muốn về họ.
Quả thật, theo quan niệm Thánh Kinh, việc sáng tạo vẫn còn tiếp tục chứ không
phải chỉ là một tác động lúc ban đầu mà thôi. Như vậy mối dây liên hệ vợ chồng
không do bởi lề luật cũng không do bởi sự lựa chọn của cha mẹ, nhưng do Thiên
Chúa sáng tạo hành động trong sự ưng thuận của đôi vợ chồng. Sự kết hợp này từ
Thiên Chúa mà đến, vì vậy nên nó không thể bị cắt đứt được.
Sứ điệp không tưởng.
Nếu cứ nhìn vào thực tại hiện nay: vô số
những cuộc ly dị, ly thân, tái giá, không kể những cặp nam nữ chung sống với
nhau ngoài hôn nhân thì trong Tin Mừng này lại chẳng là không tưởng ư? Nó không
tưởng theo nghĩa là nó đề nghị một lý tưởng mà các Kitô hữu được mời gọi theo
đuổi phải triệt để cậy dựa vào Chúa Thánh Thần, Đấng tạo nơi họ một quả tim
mới.
Một điều chắc chắn là các nhà chức trách
của Giáo Hội cũng như dân Kitô không thể chối bỏ một giáo huấn như thế được.
Đàng khác, không ai được kết án những anh chị em mà đã thất bại trong quan hệ
hôn nhân. Chúng ta vừa buộc phải theo lý tưởng được Chúa Giêsu đề nghị và buộc
phải có tình thương huynh đệ đối với những kẻ đã phạm lỗi. Trong cuộc thi
Olympic, không phải tất cả các lực sĩ đều lãnh huy chương, nhưng mục đích của
hết thảy mọi người trong họ đều là đạt cho được huy chương.
8. Gia đình- Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Gia đình là phần tử nền tảng của Giáo
Hội và xã hội. Gia đình được xây dựng trên tình yêu: tình yêu của vợ chồng với
nhau, tình yêu của cha mẹ đối với con cái, và tình yêu của con cái đối với cha
mẹ. Tình yêu, tương quan giữa con người với nhau, cần được trân trọng và vun
trồng, để đạt tới mức trọn hảo trong Thiên Chúa.
I. Thật tuyệt vời tình yêu nam nữ
Sách Sáng Thế chương hai cho thấy Thiên
Chúa đã tạo dựng con người, đặt con người trong vườn địa đàng, và cho con người
được quyền đặt tên mọi sinh vật. Adam không tìm thấy cái gì thích hợp với mình
cho tới khi Thiên Chúa tạo dựng Evà, và dẫn Evà tới gặp Adam. Adam tìm được
niềm vui đặc biệt khi được Evà sống bên cạnh làm bạn đồng hành. Người nam và
người nữ được tạo dựng, để sống bên nhau và nâng đỡ nhau, để cùng nhau tiến
bước về với Thiên Chúa.
Thật đẹp tình yêu giữa người nam và
người nữ. Hai người quyến luyến và cảm nghiệm hạnh phúc bên nhau. Họ sẵn sàng
hy sinh cho nhau, hạnh phúc khi thấy người mình yêu hạnh phúc. Họ sống cho nhau
và vì nhau. Con cái là tình yêu của hai người, là điểm nối kết hai người, giúp
họ sống triển nở và hạnh phúc. Tình yêu và hạnh phúc giữa hai người nam nữ, là
dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và chúc phúc cho con người, cụ thể là hai người đang
yêu nhau này. Không ai phá hủy được tình yêu giữa hai người, nếu không phải là
chính một trong hai người. Hành vi tội của một trong hai, có thể phá vỡ hạnh
phúc của họ.
Sau khi Evà và Adam phạm tội, Adam đã
nhìn Evà với một ánh mắt khác, như nguyên nhân làm cho mình trở nên tệ hơn và
xa lìa Thiên Chúa: “chính người đàn bà mà Ngài đã đặt bên tôi, đã hái trái Ngài
cấm đưa cho tôi nên tôi đã ăn”. Adam đã không dám nhận trách nhiệm và đổ lỗi
cho Evà. Đúng là Evà có cám dỗ Adam ăn trái cấm, nhưng Adam hoàn toàn tự do.
Nếu Adam dứt khoát không ăn, thì Evà đâu có làm gì được ông. Adam ăn, là do
chọn lựa của ông, vì Adam tự do!
II. Điều Thiên Chúa liên kết con người
không được phân ly
Tình yêu không chỉ là cảm tính mà còn là
hành vi nhân linh. Để thành vợ thành chồng, hai người nam nữ phải chọn nhau
suốt đời. Họ muốn chọn nhau ngay cả lúc bệnh hoạn yếu đau, họ chọn nhau lúc vui
cũng như khi buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Tuy nhiên, con người
là hữu thể tự do, một hữu thể có thể thay đổi chọn lựa của mình. Hôm nay một
người chọn điều này, ngày mai có thể họ lại chọn điều khác. Hai người nam nữ
muốn thành vợ thành chồng, họ cũng ý thức thân phận con người mong manh mỏng
dòn đó, nhưng họ vẫn muốn tình yêu của họ thành vĩnh cửu, thế nên họ đã thề
nguyền chọn nhau cả đời, thề nguyền trọn đời chung thủy với nhau.
Tội là cố tình làm điều xấu. Chính hành
vi chọn điều xấu này đã làm biến dạng con người phạm tội, đã làm họ ra khác,
trở nên “xấu như quỷ”. Quỷ chính là thiên
thần đã muốn độc lập với Thiên Chúa, đã không vâng phục Thiên Chúa, đã từ chối
sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Evà đã muốn thành một thần linh không tùy
thuộc Thiên Chúa; tuy nhiên không thể là một thần linh mà không tùy thuộc Thiên
Chúa vì con người chỉ là tạo vật. Không chấp nhận thân phận thụ tạo, là không
chấp nhận chính mình, là muốn phản kháng chống lại Thiên Chúa. Một hành vi như
vậy không làm con người triển nở và hạnh phúc; Hành vi đó đã làm biến dạng con
người, đã làm họ ra xấu, và làm họ không hạnh phúc; Họ không hạnh phúc với chính
họ, và không hạnh phúc với người khác.
Không chung thủy, muốn chọn người khác,
là một cám dỗ có thể xảy đến trong đầu của một người đã lập gia đình. Con người
được mời gọi để thắng vượt cám dỗ, để là một người vợ người chồng chung thủy và
tuyệt vời. Muốn những điều mới lạ, đó là khuynh hướng bình thường của con
người; tuy nhiên, con người được mời gọi vươn lên thành người tuyệt vời qua
việc thắng vượt chính mình, để người bạn đời là người chồng người vợ và con cái
được hạnh phúc hơn. Chung thủy trong đời sống gia đình, là dấu chỉ của một
người trưởng thành thật sự.
III. Tình yêu cần được vun tưới nuôi
dưỡng
Tình yêu là tương quan giữa ngôi vị. Làm
sao để hai người mãi yêu nhau? Làm sao để hai vợ chồng tin nhau hơn, trân trọng
nhau, quan tâm săn sóc nhau hơn? Có lẽ hai người cần biết rằng tình yêu có thể
chết nếu không được vun tưới chăm bón. Nghĩa là, họ có thể mất nhau nếu họ
không cố gắng để đẹp hơn mỗi ngày. Nét đẹp về thể lý có thể mai một nhưng nét
đẹp về tinh thần có thể được tăng lên với thời gian. Để được vậy, người này
phải để ý tới người kia, phải quan tâm đến người bạn mình khi họ vui khi họ
buồn, nâng đỡ họ khi họ gặp khó khăn.
Con người, cần được yêu một cách thật cụ
thể, chẳng hạn, cần được yêu qua lời nói, qua sự quan tâm săn sóc. Con người cần
thấy mình được yêu mỗi ngày. Mỗi người cũng cần cho thấy mình đẹp, mình đáng
yêu mỗi ngày. Để được vậy, mỗi người phải tập quên mình, phải tập sống cho
người khác, phải tập quan tâm đến người khác, tập săn sóc và biểu lộ tình
thương yêu đối với người khác, tập coi người khác là quan trọng và rất quý đối
với mình. “Anh (em) cần em (anh) để hạnh phúc” là một câu mà người bạn đời của
mình thích được nghe lại, vậy tại sao mình lại tiết kiệm lời này?
Thiên Chúa là tình yêu. Mọi tình yêu đều
đến từ Thiên Chúa. Tình yêu nam nữ cũng có nguồn gốc nơi Thiên Chúa. Ba Ngôi
Thiên Chúa yêu thương nhau đến độ tất cả tùy thuộc lẫn nhau. Đức Yêsu luôn lấy
Ý Cha làm lương thực và lẽ sống cho mình; Ngài luôn cố gắng lấy Ý Cha làm ý
mình. Là một trong thân xác, chưa đủ để duy trì và phát triển tình yêu; con
người cần là một trong tâm trí, trong phán đoán, trong chọn lựa giáo dục con
cái, trong cách sống... Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai.
Thiên Chúa Ba Ngôi là nguyên mẫu và phải là nguyên mẫu của tình yêu gia đình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Làm sao để chung thủy trong đời sống
gia đình?
2. Làm sao để tình yêu vợ chồng không bị
mai một nhưng mỗi ngày một sâu đậm hơn?
3. Theo bạn, có nên ly dị không? Tại
sao?
9. Mors sola - Chỉ có sự chết – Lm. GB. Trần Văn Hào
Đại hội quốc tế về gia đình năm nay được
tổ chức tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Một trong những vấn đề mà Giáo hội rất quan
tâm hiện nay là tình trạng gia đình đổ vỡ và những hệ lụy của nó. Lập trường
bất di bất dịch mà Giáo hội luôn khẳng định là tôn trọng giá trị gia đình với
tính cách bất khả phân ly của Bí tích Hôn nhân mà chính Chúa Giêsu đã thiết
định. Tính bền vững của định chế hôn nhân trong đời sống Kitô giáo được lặp lại
trong giáo huấn Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu đã khẳng quyết: “Sự gì Thiên Chúa
đã tác hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).
Hôn nhân, Một bí tích Thánh thiêng
Hôn nhân Công giáo là một bí tích linh
thánh chứ không phải đơn thuần chỉ là một khế ước mang tính xã hội. Xã hội ngày
nay, người ta vẫn cho ly dị là hợp hiến. Giáo hội nói không. Giáo hội không bao
giờ cho phép, và thực sự Giáo hội cũng không có quyền cho phép. Quyền đó dành
cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Hiểu như vậy, ly dị trong
Kitô giáo chính là tiếm quyền của Thiên Chúa, hay nói thẳng ra là ăn cắp độc
quyền duy nhất dành choNgài. Cho dù Giáo hộikhông loại bỏ những nạn nhân của sự
đổ vỡ trong đời sống gia đình và cố gắng đưa ra những giải pháp để chữa trị tận
căn (sanatio), nhưng Giáo hội tuyệt đối không bao giờ cổ xúy việc ly dị. Các
bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn quan trọng này.
Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách
Sáng thế gợi lại định chế “một vợ một chồng” giữa người nam và người nữ do
chính Đức Chúa Giavê thiết định ngay từ thuở ban đầu: “ Bởi thế, người đàn ông
lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24
). Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu cũng lặp lại xác quyết đó: “ Lúc khởi đầu
công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ. Vì thế người
đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai nên một xương một thịt
(Mc 10,7-9)”. Khi nhắc lại giáo huấn này, Đức Giêsu cũng gợi nhắc về tội ngoại
tình mà chúng ta thường dễ mắc phải qua nhiều dạng thức khác nhau. Khi đọc diễn
văn trước quốc hội Mỹ ngày 25 tháng Chín vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng
đã mạnh mẽ tái khẳng định học thuyết xã hội mà Giáo hội chủ xướng, là nói không
với hôn nhân đồng tính. Ngồi ngay trước mặt vị chủ chăn đáng kính là ông chủ
tịch Thượng viện, người đã ký vào văn bản cho phép hôn nhân đồng tính trở thành
luật hợp pháp. Đức Thánh Cha không run sợ trước bất cứ một áp lực chính trị nào
để công bố cho cả thế giới biết những gì thuộc quyền thánh thiêng của Thiên
Chúa.
Chủ nghĩa thực dụng hiện nay
Ở bên Mỹ, lớp trẻ rất tâm đắc câu châm ngôn:‘Easy
come, easy go’. Thích thì đến với nhau, ở với nhau, không thích nữa thì đường
ai nấy đi, đơn giản thế thôi. Đây là một não trạng thực dụng mang tínhvô thần,
đang dần dần loại bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Ở Hoa kỳ, người ta ước tính
khoảng 50% các cặp vợ chồng sau khi đã thành hôn, sẽ bỏ nhau. Nhanh hay chậm
còn tùy mỗi hoàn cảnh. Cũng may mắn, con số các vợ chồng công giáo ly dị ít
hơn. Ở Việt Nam, theo khảo cứu của tiến sỹ Nguyễn minh Hòa thuộc Đại học Khoa
học xã hội nhân văn, tỷ lệ ly hôn từ 31 đến 40%, và hơn một nửa thuộc các gia
đình trẻ ở độ tuổi từ 23 đến 30. Sự chia tay có muôn vàn lý do, nhưng tựu trung
cũng do lối sống ích kỷ và thích hưởng thụ (consumerism), là lối sống mà trước
đây Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã mạnh mẽ cảnh báo.
Sống trung thành
Người ta vẫn thường nói: “Một người vợ
trung thành là một cô gái suốt đời chỉ đay nghiến duy nhất một ông chồng mà
thôi”. Đời sống vợ chồng không phải lúc nào cũng bình yên và phẳng lặng. Có
những lúc cơm không lành canh chẳng ngọt, và điều đó rất thường xảy ra. Nhưng
làm cách nào để chúng ta có thể vượt qua những sóng gió và sống chung thủy. Hơn
10 năm về trước, khi quốc hội Hoa Kỳ cho công bố công khai những cuộn băng tự
thú của ông Bill Clinton về những lăng nhăng tai tiếng của ông với cô đào
Monica Lewinski, gia đình ông cựu tổng thống Hoa Kỳ bắt đầu dậy sóng. Một con
người tài ba đã thành công trong việc điều hành một cường quốc đứng đầu thế
giới lại thất bại trong việc điều khiển chính bản thân và gia đình mình. Nạn
nhân đầu tiên của sự phản bội này chính là bà Hilary, phu nhân của ông. Cho dù
bà ta có bản lĩnh ngoan cường, rất bình tĩnh chống đỡ, nhưng bà đã tỏ lộ sự cay
đắng phũ phàng khi phải hứng chịu những búa rìu của công luận. Người ta thường
nói khôn ba năm nhưng lại dại một giờ, và sự dại dột đó có khi phải trả giá khá
đắt.
Nhìn lại một cách thoáng chung nơi các
gia đình Công giáo ở Việt Nam chúng ta, tình trạng ly dị tương đối không nhiều,
nhưng không phải là hiếm. Có lẽ, do truyền thống văn hóa, hoặc do lối sống tình
làng nghĩa xóm khá chặt chẽ, nên các vợ chồng khó bỏ nhau. Sống giữa một giáo
xứ đa phần toàn tòng, nếu một cô gái nào lăng nhăng bỏ chồng đi sống với người
khác, chỉ còn cách độn thổ hoặc đi biệt xứ, còn nếu trở về làng, chắc chắc sẽ bị
thiên hạ ném đá khủng khiếp. Nhưng điều quan trọng nhất trong đời sống gia
đình, là vợ chồng luôn luôn phải canh tân sự trung thành của mình mỗi ngày với
cảm thức đức tin và tín thác vào ơn thánh. Người ta vẫn ví von khi so sánh nụ
hôn đầu tiên của hai vợ chồng lúc mới cưới nhau, giống hệt cái bắt tay rất lịch
lãm và thân thiện của hai võ sĩ trước khi thượng đài. Một nhà xã hội học nọ
cũng đã diễn tả: Sự ngọt ngào của hai vợ chồng trong những ngày tháng trăng mật
đầu tiên được sánh như những cơn gió hiu hiu giữa bầu trời vần vũ mây đen. Sau
làn gió thoảng và những giọt mưa dịu mát, là chớp lòe và sét nổ. Tình trạng này
không phải là hiếm, khi chúng ta nhìn vào thực trạng các gia đình của chính
chúng ta. Có rất nhiều nguyên do gây nên đổ vỡ. Những lý do ban đầu xem ra
chẳng đâu vào đâu, nhưng nếu vết thương không được cứu chữa kịp thời, nó sẽ dần
khoét sâu vào cơ thể và biến dạng thành một khối u ác tính vô phương chữa trị.
Để có thể khắc phục, phương thuốc quan
trọng nhất chính là sự khiêm tốn và hiền dịu đi đôi với lòng quảng đại biết tha
thứ. Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy học với tôi vì tôi có sự hiền lành và khiêm
nhường trong lòng”. Đây là quy chuẩn căn bản để bảo toàn hạnh phúc trong các
gia đình. Nếu không biết ứng xử trong sự hiền lành và nhẫn nhục, chúng ta sẽ
dần biến gia đình thành một bầu khí hỏa ngục đáng sợ. Khi mới cưới nhau, anh
nói em nghe và ngược lại em nói anh nghe. Cưới nhau về một thời gian, nhiều
xung khắc xảy ra dẫn đến tình trạng anh nói anh nghe, và em nói chỉ mình em
nghe. Cao điểm cuối cùng là chiến tranh bùng nổ: Anh và em chúng ta cùng nói,
cả làng cả xóm đều nghe. Có bao giờ trong gia đình của chúng ta, vợ chồng cùng
ngồi lại bên nhau để giải gỡ những khó khăn hay không? Đối thoại là điều rất
cần thiết để hóa giải những nghi kỵ và hiểu lầm, nhưng đừng bao giờ biến cuộc
đối thoại thành một cuộc họp ‘chi bộ đảng’ chỉ để đay nghiến hay kết án lẫn
nhau.
Mors Sola
Có một giai thoại thuật lại. Cô
Catherine kết hôn với anh Jean Wasa, một sĩ quan Phần Lan. Người chồng bị kết
án tù vì bị gán vào tội phản loạn. Nhà vua khuyên cô Catherine đi lấy chồng
khác, vì số phận tù nhân hầu như không có ngày được ra. Catherine đã từ chối và
còn xin nhà vua một đặc ân, là cho được vào tù ở chung với chồng mình. 17 năm
sau, vua Eric băng hà, cả 2 vợ chồng được tha bổng. Người ta hỏi cô động cơ nào
cô xin vào tù cùng sống với chồng, cô chỉ chiếc nhẫn cưới đeo trên tay, trên đó
có khắc hàng chữ ‘Mors Sola’, nghĩa là, chỉ có sự chết mới có thể phân lìa
chúng tôi. Chúng ta đều quá biết điều đó, đặc biệt được nghe nhắc đi nhắc lại
trong các thánh lễ hôn phối, nhưng nhiều người vẫn lạnh lùng xé rào và gián
tiếp tiếm quyền của Thiên Chúa.
Kết luận
Trên đời này không có gì ghê tởm và đáng
khinh bỉ cho bằng sự phản bội. Ông Ford, Tổng giám đốc một công ty lớn chuyên
sản xuất xe hơi tại Mỹ đã rất thành công trong sự nghiệp xã hội cũng như nơi
chính bản thân và gia đình ông. Trong ngày kỷ niệm 50 năm thành hôn, người ta
hỏi ông đâu là bí quyết khiến ông thành công và hạnh phúc trong đời sống vợ
chồng. Ông dí dỏm trả lời: “Trong cuộc sống gia đình, tôi vẫn tôn trọng nguyên
tắc giống như nguyên tắc sản xuất xe hơi, đó là “luôn trung thành với mẫu mã
ban đầu”.
Trong đời sống vợ chồng, mẫu mã ban đầu
của chúng ta có thể đã dúm dó và cũ kỹ theo thời gian, nhưng chỉ sống trung
thành, chúng ta mới có thể thành công và hạnh phúc.
10. Đừng chia tay với người mình yêu.
Hôn nhân là con đường thông thường của
phần đông nhân loại. Có những người đã bước vào cuộc đời hôn nhân và đang sống
với một tổ ấm tươi đẹp, êm đềm và hạnh phúc. Cũng có những người đang kéo lê
cuộc sống gia đình “cơm không lành, canh không ngọt”, một cuộc sống khổ đau
không lối thoát.
Montaigne đã trình bày hôn nhân như một
chiếc lồng sơn son thiếp vàng: những con chim ở ngoài khao khát được vào, còn
những con ở trong thì lại làm hết cách để thoát ra. Ca dao Việt Nam cũng có câu
ý tương tự: “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt. Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”.
Cách đây không lâu, màn ảnh thành phố
chúng ta có chiếu bộ phim mang tựa đề: “Chúng tôi muốn ly hôn” rồi một bộ phim
khác mang tựa đề ngược lại: “Đừng chia tay người mình yêu”. Chắc chắn các bạn
trẻ đã biết nội dung những cuốn phim này nói gì. Chúng đã nêu lên những lý
khiến những đôi vợ chồng đưa nhau ra toà án để xin dị:
- Tại sao chị xin ly dị? Trước toà án,
người vợ trả lời: “Tại vì ông ấy ngáy to quá, không để cho tôi ngủ”.
Một bà vợ khác trả lời: “Tại vì ông ấy
hôi mùi thuốc lá quá, tôi không chịu được”… và mỗi người đều có lý do không đâu
cả, để bỏ nhau một cách dễ dàng, nếu như được phép ly dị.
Vậy có được phép ly dị không? Đây là một
vấn đề thời sự, nhưng cũng là một vấn đề đã được đặt ra từ xa xưa: Từ thời Chúa
Giêsu những người Biệt Phái Pharisiêu đã từng đặt vấn đề này để thử Chúa Giêsu,
bởi vì ông Môsê đã cho phép họ được làm giấy ly hôn để đuổi người vợ nào không
vừa mắt chồng ra khỏi nhà (Đnl 24,1-4). Điều này cho ta thấy số phận hẩm hiu
của người phụ nữ trong chế độ “chồng chúa vợ tôi”.
Chúa Giêsu đã giải quyết thế nào? Ly dị
là một trục trặc của tình yêu, nó không phải là vấn đề chính yếu. Cái chính yếu
của hôn nhân là tình yêu hiệp nhất. Với Thiên Chúa không có vấn đề ly dị. Vấn
đề ly dị là vấn đề của con người. Chúa Giêsu đã trả lời với họ: “Chính vì lòng
chai dạ đá của các ông mà ông Môsê đã phải nhượng bộ cho phép các ông làm giấy
ly hôn, chứ từ ban đầu, ý muốn của Thiên Chúa không phải như thế”.
Chúa Giêsu phân biệt rõ rệt đâu là ý
muốn của Thiên Chúa và đâu là ảnh hưởng của thời đại. Và ảnh hưởng của thời đại
không những làm lu mờ, mà có khi còn làm mất cả ý muốn rõ rệt của Ngài. Thánh ý
Thiên Chuá khi dựng nên con người có nam có nữ là để sống chung với nhau. “Đàn
ông ở một mình không tốt”. Và Ngài đã dựng nên người đàn bà. Người đàn bà,
trước tiên là hông ân của Thiên Chúa ban cho người đàn ông. Đây là quà tặng cao
nhất mà Thiên Chúa ban cho người đàn ông, sau khi Ngài đã dựng nên cả vũ trụ
đặt dưới chân của ông Ađam. Nhưng Ađam vẫn cảm thấy cô đơn, thiếu thốn, cho đến
khi Ađam gặp được chiếc xương sườn cụt của mình là Evà, ông đã reo lên: “Đây
đúng là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi”. Đó là hôn nhân đầu tiên. Từ
đó “người đàn ông luôn luôn đi tìm chiếc xương sườn đã bị lấy mất, còn người
đàn bà luôn luôn luyến tiếc nơi mình đã xuất phát” (Osty) để kết hợp với nhau
thành một xương một thịt, một thân một thể. “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài
người không được phân ly”.
Điều Chúa Giêsu muốn bảo vệ trước hết là
phẩm giá con người. Con người càng thấp bé, càng bị hiếp đáp bao nhiêu, càng
phải được bảo vệ bấy nhiêu. Trong chế độ “chồng chúa vợ tôi”, Chúa đã đòi phải
trả lại cho phụ nữ quyền làm con người, phải nhìn phụ nữ theo ý muốn của Thiên
Chúa. Phải nhìn chân giá trị của người phụ nữ như là người hỗ trợ, bổ túc và
làm sung mãn cho người đàn ông. Vì vậy, hôn nhân phải đặt căn bản ở sự tương
trợ lẫn nhau, tôn trọng giá trị của nhau. Chính sự hiệp nhất này làm cho hai
người trở nên một và phát sinh hoa trái cho sự sống mới. Đó là những đứa con
của tình yêu. Cha mẹ có yêu thương nhau thì mới yêu thương con cái là kết quả
của tình yêu giữa vợ chồng với nhau. Cha mẹ không được bỏ rơi con cái. Phải đón
nhận tất cả con cái Thiên Chúa đã ban cho, bởi vì các em bé là con người. Phải
tôn trọng các em như con người, từ bào thai các em đã là hơi thở và là đối
tượng của tình yêu Thiên Chúa. Cha mẹ, vợ chồng có chung tình vẹn nghĩa với
nhau mới có thể đảm bảo hạnh phúc cho con cái mình.
Sở dĩ khi xưa, ông Môsê đã chăm chước
cho dân Israel được rẫy vợ là vì lòng dạ họ lì lợm, bướng bỉnh, chai đá. Còn
ngày nay, Chúa Giêsu đã rút lại luật Môsê, chính thức thay thế nhừng gì là hủ
tục trong Cựu ước bằng luật Tân Ước, chính thức xác nhận ý muốn của Thiên Chúa
từ thuở ban đầu là nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly của hôn nhân. Hơn nữa,
từ ngày Chúa Giêsu đến, từ ngày Ngôi Lời nhập thể làm người, hôn nhân đã tìm
thấy lại tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bởi vì, việc kết hợp vợ chồng
trong hôn nhân là biểu tượng, là hình ảnh của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội
Thánh. Đó là điều Thánh Phaolô đã nhiều lần nói đến trong thư gởi tín hữu
Êphêsô: “Cũng như Đức Kitô không thể chia cắt với Hội Thánh, thì chồng cũng
không thể chia ly với vợ”. Chính với tư cách là
Hiền Thê của Chúa Kitô mà Hội Thánh buộc các con cái của mình khi lập gia đình
phải tuân giữ định luật vẫn chi phối sự kết hợp giữa Hội Thánh với Chúa Kitô,
như Hiền Thê với vị Hôn Phu của mình. Làm sao Hội Thánh có thể trở về với những
nhượng bộ của thời Cựu Ước về hôn nhân được, khi mà Hội Thánh đã được nghe
chính miệng Chúa Giêsu trả lời cho những người Biệt Phái Pharisiêu: “Sự gì
Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”.
Thánh Phaolô (1Cr 7,10-11) nói rất rõ về
điều này: “Ai đã kết hôn, thì tôi truyền –thực ra không phải tôi, mà là Chúa–
là vợ không được lìa chồng, và giả như đã lìa chồng, thì phải ở độc thân, hay
phải làm hoà lại với chồng, và chồng không được rẫy vợ”.
Hôn nhân là một định chế do chính Đấng
Tạo Hoá thiết lập, là một giao ước có tầm vóc vững chắc, vĩnh viễn, nghĩa là
một sự thoả thuận cá nhân không thể rút lui lại được. Vì lợi ích của vợ chồng,
của con cái, của xã hội và của Giáo Hội nữa, nên mối dây liên kết thánh thiện
của bí tích Hôn Nhân không lệ thuộc vào sở thích của con người, nghĩa là không
còn được tự ý bỏ nhau, một khi đã thề hứa chung tình vẹn nghĩa, nên vợ nên
chồng. Vì vậy, Chúa Giêsu còn nói rõ ràng rằng: phải liệt kê vào tội ngoại
tình, khi người chồng hoặc người vợ bỏ nhau đi lấy người khác trong lúc mối dây
hôn nhân vẫn còn hiệu lực. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia
được tái hôn mà thôi.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa chúc phúc cho
mọi gia đình, nhất là các gia đình Kitô hữu mà Chúa đã thánh hiến một cách đặc biệt
bằng bí tích Hôn nhân. Nhờ đó, những phẩm giá tự nhiên cũng như những giá trị
thiêng liêng cao cả của đời sống hôn nhân được bảo toàn, được cổ võ, được kiên
cường và ngày càng tiến gần đến tình yêu trung thành và vĩnh cửu của Thiên
Chúa.
11. Suy niệm của Lm. Nguyễn Cao Siêu.
Suy niệm:
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài
người không được phép phân ly”
Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai
mươi thế kỷ và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.
Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng
ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng?
Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu
vẫn tăng.
Sống với nhau suốt một đời trở thành ước
mơ khó đạt.
Trong xã hội Do thái giáo thời Đức
Giêsu, người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới. Người vợ là một thứ tài
sản của người chồng, nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi ly dị vì
một lý do cỏn con.
Trước câu hỏi: “Chồng có được rẫy vợ
không?” Đức Giêsu kiên quyết nói không. Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế. Họ
không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần.
Lập trường của ngài đi ngược với nền văn
hóa và tôn giáo của thời đó cũng như thời nay.
Điều này khiến các môn đệ của Đức Giêsu
có lần bị sốc. Họ nói: “nếu vậy thì thà đừng lấy vợ thì hơn” (Mt 19, 10). Hóa
ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ nếu muốn.
Khi người Pharisêu trích sách Đệ Nhị
Luật để biện minh cho việc ly dị đúng theo luật Môsê, Đức Giêsu lại trích sách
Sáng Thế, để nhấn mạnh đến sự hiệp nhất vĩnh viễn của vợ chồng.
Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một
xương một thịt. Điều này nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một
nhượng bộ tạm thời. Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh luật Môsê và khai mở trọn vẹn ý
muốn của Thiên Chúa.
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp…”
Vậy trong Lễ Cưới, không phải chỉ có hai
người yêu nhau, lấy nhau và cam kết suốt đời sống cho nhau. Hôn nhân không chỉ
là bản hợp đồng giữa hai bên. Còn cần một bên thứ ba là Thiên Chúa, Đấng phối
hợp và làm cho hai bên kia nên vợ nên chồng.
Thiên Chúa có mặt trong mỗi Lễ Cưới, và
tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người muốn bỏ cuộc.
Chung thủy chưa bao giờ là chuyện dễ
dàng.
Khi thịnh vượng, lúc gian nan; khi bệnh
tật, lúc mạnh khỏe. Còn nhiều tình huống khác đe dọa hôn nhân: khi buồn chán và
thất vọng về nhau, khi yếu đuối vấp ngã, khi đổ vỡ quá lớn và vết thương quá
nặng, khi đời sống vợ chồng trở thành như hỏa ngục… Những khi ấy, yêu thương và
kính trọng nhau thật khó. Con người bị cám dỗ tìm giải pháp chia tay.
Chúng ta cầu cho những ai đã và sẽ kết
hôn.
Xin cho họ bớt một chút ích kỷ, thêm một
chút khiêm tốn,
bớt một chút tự ái, thêm một chút phục
vụ,
bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút
hy sinh tha thứ…
Nhờ đó họ cộng tác với Thiên Chúa trong
việc bảo vệ và tưới bón tình yêu.
Gợi ý chia sẻ:
1) Đâu là những hậu quả của việc ly dị?
Việc ly dị ảnh hưởng thế nào trên xã hội và Giáo hội?
2) Theo ý bạn, đâu là những nguyên nhân
đưa đến việc vợ chồng chia tay nhau?
Lời nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha
nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay
biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu
vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn
bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành
hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên
thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình
thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn
bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được
đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở
nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia
Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở
ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến
hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc
luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.
12. Hôn nhân trong Tin Mừng nhân ái
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Hôn nhân, với các khía cạnh liên quan
của nó, vẫn luôn là một vấn đề lớn của xã hội loài qua các thời đại. Trước đây
tôi vẫn thường coi nó là một vấn đề thuần luân lý. Chính vì suy nghĩ như thế
cho nên trong công tác mục vụ, tôi thường xuyên phải đối mặt với, một bên là
những đòi hỏi bền vững của các ràng buộc luân lý, bên kia là sự yếu đuối mỏng
dòn của thực tế con người. Không ít lần trong thâm tâm tôi cảm thấy bị xâu xé
khủng khiếp; không biết cách nào trung hòa giữa hai trạng thái đối nghịch nhau
như thế.
Xét về khía cạnh con người vốn mãi mãi
là ‘lòng chai dạ đá’, thì luân lý hôn nhân, ngay cả trong các nền luân thường
đạo lý chặt chẽ nhất, chẳng hạn như Luật Mô-sê của Cựu Ước, cũng vẫn phải mở ra
lối thoát; “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”. Đối với một xã hội thượng tôn luật pháp như Do Thái
Giáo thời Đức Giêsu, thì ly dị trong một số trường hợp được pháp luật qui định,
đúng là một lối thoát cần thiết. Xã hội nào cũng vậy, thời xưa cũng như ngày
nay, mọi người đều nhận thức, cách này hay cách khác, giá trị của hôn nhân, và
đều mong muốn duy trì nó cho thật bền vững. Thế nhưng thực tế phũ phàng không
ngừng yêu cầu phải chấp nhận, trong một số trường hợp bất khả kháng, một sự
phân ly dưới hình thức này hay hình thức khác, ly dị hay ly thân… hay gọi là gì
cũng được. Mấy ông Pha-ri-sêu quen đề cao luật pháp, khi đặt câu hỏi trước Thầy
Giêsu, họ cũng thừa biết rằng học thuyết mà Người đang giảng dạy, cho dầu có
cao đẹp tới mấy, cũng khó có thể đi ra ngoài cái lẽ thường tình này. Hiểu như
thế, ta sẽ thấy câu Đức Giêsu trả lời họ thực không đơn giản chút nào. Rõ ràng
ở đây Thầy không giới thiệu một nền luân lý mới, chắt chẽ hơn, khắt khe hơn
những gì họ từng giảng dạy. Vì là một người phàm ‘giống chúng ta mọi đàng’ (Dt
4:15), Người chắc chắn không thể nhắm mắt làm ngơ trước một nhân loại mỏng dòn
yếu đuối, nhất là trong lãnh vực tình dục nhạy cảm của hôn nhân. Và vì là người
đang rao giảng về một Thiên Chúa nhân ái và thứ tha, Đức Kitô chắc chỉ muốn
cống hiến một giải pháp cho vấn đề hóc búa này hoàn toàn dưới nhãn quan Tin
Mừng. Theo một số nhà chú giải Kinh Thánh thì, trong nền văn hóa cổ đại, ‘lúc
khởi đầu công trình tạo dựng’ không chỉ mang ý nghĩa thời gian hoài cổ, mà còn
để chỉ thời vàng son của mạc khải Thiên Chúa (xem chú thích trong Christian Community
Bible). Vậy thì rõ ràng Đức Giêsu đang muốn đặt hôn nhân trong bối cảnh của Tin
Mừng cứu độ.
Phải rồi, chỉ trong tình yêu bao dung và
tha thứ của Thiên Chúa - Đấng đã yêu thương con người tội lỗi tới độ chết trên
thập giá, thì ‘lòng chai dạ đá’ của con người đầy dục vọng mới tìm được thuốc
chữa. Chữa đây không phải là tiêu diệt hoàn toàn bất trung - lăng loàn -
‘fornicatio’ (xem Mt 19,9), để có thể sống trọn đời trung thủy. Nếu có phương
pháp cụ thể nào giúp cho các cặp vợ chồng đạt được điều này, thì thật đáng mừng
cho hôn nhân biết mấy… Mong rằng, luật pháp cũng như các tổ chức xã hội loài
người sẽ ngày càng tiến bộ hầu có thể tiến dần tới mục tiêu hoàn hảo đó. Hãy cứ
để các xã hội dân sự, với nền văn hóa và truyền thống của riêng mình, giúp cho
hôn nhân ngày càng được thêm củng cố bền vững, dựa trên các qui định của luật
pháp con người! Kitô hữu chúng ta chân thành cầu mong cho nền dân luật ngày
càng tiến bộ và sáng suốt hơn. Thế nhưng tham lam và yếu đuối vẫn luôn mãi là
thực tế phũ phàng mà chỉ lòng nhân ái bao dung của Tin Mừng Đức Kitô mới cống
hiến được liều thuốc chữa lành hữu hiệu nhất. Phaolô đã từng so sánh hôn nhân
với tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội Thánh; một tình yêu bền vững, không phải
là vì Hội Thánh tự mình đã ‘xinh đẹp lông lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc
bất cứ một khuyết điểm nào’, nhưng vì nhờ ‘Người thánh hóa và thanh tẩy Hội
Thánh bằng nước và lời hằng sống’ mà Hội Thánh mới được nên ‘thánh thiện và
tinh tuyền’ như thế (Ep 5,25-27).
Hôn nhân Tin Mừng là như thế đó! Ta không
thể hiểu đây là một nền luân lý đối kháng với các nền luân lý khác, cũng chẳng
phải là một lề luật cạnh tranh với các luật lệ dân sự hay tôn giáo khác, nhưng
là niềm tin thâm sâu vào tình yêu Thiên Chúa cứu độ. Thế nhưng, như Đức Giêsu
chứ không như các Pha-ri-sêu, mỗi khi đề cập tới hôn nhân gia đình, chúng ta sẽ
luôn đề cao giá trị nhân ái - bao dung của Tin Mừng làm nền tảng cho lòng trung
tín. Hôn nhân, nếu muốn thực sự là Tin Mừng, phải lấy giới luật yêu thương mới
làm nền tảng duy nhất cho mình; “anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu
thương anh em” (Ga 13:34). Phải chăng đó mới đích thực là mong muốn của Đức
Giêsu khi Người lên đưa ra một khẳng định xem ra mang nặng tính luật pháp: “Vậy
sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”?
Lạy Chúa là Đấng thủy trung, Chúa đã đến
trần gian không phải để dạy cho con người biết cách cử xử với nhau dựa trên một
luân lý hay luật pháp cao đẹp. Tin Mừng nhân ái của Chúa phải trổi vượt trên
tất cả, vượt thắng mọi bế tắc của con người yếu đuối! Xin Chúa giúp con, trong
khi thi hành mục vụ hôn nhân, luôn biết xa tránh nhãn quan luân lý - luật lệ
hạn hẹp, để biết hướng các anh chị em Kitô hữu tới diện mạo Thiên Chúa nhân ái,
thứ tha và cứu độ, như cột trụ chống đỡ cho đời sống hôn nhân của họ. Amen.
13. Suy niệm của Noel Quesson.
Đừng chia cắt những gì Thiên Chúa đã kết
hợp
Một ngày kia, có hai vị tu sĩ già cùng
ngồi đọc Tin Mừng, hôm đó họ đọc chuyện người con đi hoang. Một vị nhận xét:
“Đây thật là một câu chuyện hay. Chúa đã vẽ nên bức tranh sinh động: Người em
tự cao tự đại, ham hưởng thụ; người anh cần cù lam lũ nhưng lại nhỏ nhen ganh
tỵ; còn người cha thì dịu hiền nhân ái… Mà sao không thấy nói tới người mẹ
nhỉ?”.
Vị tu sĩ thứ hai là một người lớn tuổi,
điềm đạm trả lời: Nhưng bạn ơi, nếu gia đình đó còn mẹ, chắc người con sẽ không
bỏ nhà đi hoang đâu!
Một gia đình đầy đủ, mỗi người đều làm
chu toàn sứ mệnh của mình thì đó là một bảo đảm về hạnh phúc cho từng người và
cũng là một cái nôi an toàn cho đức hạnh, tư cách của mỗi người. Đó cũng là bảo
đảm thành công trong hoạt động xã hội, và trợ lực người ta rất nhiều trong việc
rèn luyện các đức tính tự nhiên cũng như siêu nhiên.
Và một gia đình như vậy phải xây dựng
trên nền tảng hôn nhân vững chắc, một hôn nhân theo đường hướng Chúa Giêsu đã vạch
định và củng cố. Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên mọi sinh vật, từ thực vật, động
vật có đực có cái, đến con người có nam có nữ, có đàn ông, đàn bà. Những khác
biệt về giới tính đi tới một hòa hợp diệu kỳ, bổ túc cho nhau để đạt thăng tiến
phát triển. Nhưng trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, quan niệm về giới tính
đã trải qua nhiều giao động thăng trầm; khi thì bi quan nghiêm khắc muốn tiêu
diệt tính dục, có lúc lại quá lạc quan đến mức tự do phóng túng, chủ trương tìm
hưởng lạc thú như mục đích đời người.
Nền luân lý của Do Thái cổ truyền cũng
qua nhiều biến động. Các tổ phụ đều chấp nhận đa thê, và luật Môisê cho phép bỏ
vợ nếu có lý do chính đáng, chỉ cần thành lập một chứng từ ly hôn. Nhưng tới
thời Chúa Giêsu thì luật đó cũng được đưa ra mổ xẻ. Vì thế mới có câu hỏi: “Có
được phép bỏ vợ không?”. Nhân dịp này Chúa Giêsu xác định quan điểm của Người
về hôn nhân. Trước hết nhận xét về luật cho ly dị của Môisê. Chúa bảo đầu tiên
không phải như vậy, nhưng Môisê đã chiều theo sự yếu đuối của con người mà tạm
thời đưa ra những quy luật rộng rãi. Đã đến lúc phải đặt vấn đề vào đúng chỗ
ban đầu của nó. Hôn nhân phải có hai đặc tính: một vợ một chồng và không ly dị.
Chỉ có một vợ một chồng, vì hai người
nam nữ phải được bình đẳng. Đó là hai nhân vị cùng quan trọng như nhau, bổ túc
cho nhau, chu toàn những sứ mệnh riêng không ai thay thế được. Và phải có tư
thế bền vững để mọi thành phần gia đình được yên vui hạnh phúc, nhất là cho
những đứa con đang hình thành về thể chất và tinh thần. Không ổn định, không vững
chắc thì không thể nào xây dựng những giá trị lâu dài được.
Quan điểm này phần nào khác với một số
người đồng thời với Chúa Giêsu, nhất là trái với nếp sống của đa số nhân loại
thời nay. Nhưng lại rất cần thiết để đạt hạnh phúc. Hôn nhân phải xây dựng trên
tình yêu. Kết hợp với nhau là phải nghĩ tới người khác. Chỉ được hưởng hạnh
phúc khi tạo dựng hạnh phúc cho người bạn, cho thành phần khác trong gia đình.
Còn nếu chỉ nghĩ tới mình thì rồi sẽ có lúc thấy người khác là gánh nặng mình
muốn trút bỏ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết xây
dựng niềm tin trên quan điểm của Chúa. Cho chúng con biết kiên tâm bảo vệ hạnh
phúc gia đình để chúng con được hạnh phúc trong cuộc sống này trong khi mong
đợi cuộc sống hạnh phúc mai sau.
14. Vợ chồng bất khả phân ly.
Ngày hôm nay bọn Biệt phái đã đưa ra vấn
đề ly dị để gài bẫy Chúa Giêsu. Họ hỏi Ngài có được phép ly dị hay không? Bởi
vì trong sách Đệ Nhị Luật, Maisen đã khẳng định: Một người đàn ông lấy vợ,
nhưng sau đó nhận thấy người vợ không đẹp mắt mình, ông ta có quyền dãy vợ và
đuổi vợ đi.
Đây là một vấn đề được tranh cãi rất
nhiều nơi dân Do Thái. Có người thì chủ trương được ly dị với bất cứ lý do nào,
có người thì quan niệm chỉ được ly dị với lý do thật nghiêm trọng và chính đáng
mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu chấp thuận ly dị thì đi
ngược lại với lề luật của Thiên Chúa, còn nếu Ngài không chấp thuận thì Ngài sẽ
mất đi cảm tình của dân chúng và không tôn trọng luật lệ Maisen. Đằng nào thì
Ngài cũng sẽ rơi vào cái bẫy được gài sẵn.
Hơn thế nữa, lúc bấy giờ chính Hêrôđê cũng
đã dãy vợ để lấy người chị dâu của mình. Gioan Tiền hô đã lên tiếng can ngăn và
đã phải trả giá bằng chính cái chết của mình.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy rõ âm mưu thâm
độc ấy và đã nói với họ: Sở dĩ Maisen chấp nhận là vì sự cứng lòng của họ, chứ
từ thuở ban đầu thì đã không như thế. Bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên người nam
và người nữ, để cả hai trở nên một xương một thịt. Nghĩa là cả hai phải bổ túc
lẫn cho nhau. Sợi giây hôn nhân này còn bền chặt hơn cả sợi giây máu huyết. Bởi
đó người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ để kết hiệp với vợ mình. Và Chúa Giêsu đã kết
luận: - Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly.
Lời xác quyết của Chúa Giêsu thì vững
vàng như đá tảng. Chính vì thế mà Giáo hội luôn bênh vực cho tính cách bất khả
phân ly của hôn nhân.
Như chúng ta đã biết gia đình là tế bào
sống động của nhân loại, là nền tảng kiên vững của xã hội. Nền tảng này tồn tại
được là do tính cách bất khả phân ly của hôn nhân. Nếu vợ chồng tan rã thì đang
sẽ sụp đổ. Một khi gia đình đã sụp đổ hẳn sẽ kéo theo nhiều hậu quả tai hại cho
xã hội.
Thực vậy, vì lợi ích của cả hai vợ
chồng mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Một cuộc tình tan vỡ, hẳn sẽ
gây đau khổ cho cả hai, nhất là người vợ. Nơi những quốc gia mà chế độ đa thê
còn tồn tại, thì người phụ nữ phải chăng chỉ là một thứ đồ chơi không hơn không
kém. Với đặc tính bất khả phân ly, Giáo hội đã lớn tiếng bênh vực quyền lợi của
người phụ nữ.
Tiếp đến vì lợi ích của con cái
mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Trẻ nhỏ như một mầm non, cần phải được che
chở bởi sức mạnh của người cha và tình thương yêu của người mẹ. Gia đình là mái
trường đầu tiên dạy cho trẻ thơ những bài học làm người, trong đó cha mẹ chính
là những bậc thày, những người hướng dẫn không thể thay thế.
Con cái sẽ như thế nào nếu như cha một
nơi, mẹ một nẻo và như thế, chính bản chất của hôn nhân đòi buộc tính cách bất
khả phân ly.
Để duy trì được đặc tính này, dĩ nhiên
chúng ta phải hy sinh và từ bỏ nhiều lắm, nhưng nhờ chính những hy sinh và từ
bỏ ấy mà tình yêu của chúng ta ngày một thêm mặn nồng và đằm thắm.
Có lẽ giờ này Chúa Giêsu cũng muốn nhắn
nhủ chúng ta, những cặp vợ chồng Công giáo, đó là: Sự gì Thiên Chúa đã
liên kết, thì loài người không được phân ly.
15. Hôn nhân.
Bài Tin Mừng có hai phần: Phần thứ nhất
là lập trường của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân. Phần thứ hai là thái độ của
Chúa Giêsu đối với các trẻ em. Phần thứ nhất chính là đoạn Tin Mừng thường được
đọc trong thánh lễ hôn phối, chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.
Đề tài của đoạn Tin Mừng này là vấn đề
ly dị do những người Pharisêu đặt ra với ý đồ gài bẫy Chúa Giêsu. Chúng ta nên
biết: các kinh sư Do thái thường tranh luận với nhau về những lý do cho phép ly
dị chứ không tranh luận về chính việc được phép ly dị hay không. Và luật Do
thái chỉ cho phép đàn ông bỏ vợ chứ không cho phép đàn bà bỏ chồng. Như vậy,
chuyện những người Pharisêu đặt vấn đề với Chúa Giêsu: “Có được phép ly dị
không?” quả là khúc mắc, tế nhị và phức tạp. Họ muốn Chúa phải xác định lập
trường rõ ràng trước mặt dân chúng và trước mặt họ. Luật đã cho phép ly dị, nếu
Ngài bảo không được, tức là Ngài chống lại luật. Ngược lại, nếu Ngài bảo được,
thì họ sẽ chống lại Ngài. Cho nên, rõ ràng những người Pharisêu có ý gài bẫy
Chúa. Chúa trả lời thế nào?
Chúa hỏi lại họ: “Ông Mô-sê truyền dạy
thế nào?”. Thật sự trong Cựu ước không có một chỗ nào ghi một mệnh lệnh tổng
quát phải ly dị hay không được ly dị, cũng chẳng có chỗ nào trực tiếp chỉ thị
muốn ly dị thì phải làm gì. Vậy những người Pharisêu trả lời câu hỏi của Chúa
thế nào? Họ trích dẫn sách Đệ Nhị Luật, đoạn 24 câu 1 đến câu 4. Trong đoạn
này, sách Đệ Nhị Luật cũng chỉ gián tiếp nói về việc làm giấy ly dị. Đó là
trường hợp một người đàn bà đã bị chồng ly dị và có làm giấy ly dị đàng hoàng,
nay đi lấy người khác, rồi lại bị ông chồng mới này ký giấy ly dị, thì người chồng
thứ nhất, dù có vì tình xưa nghĩa cũ, muốn đoàn tụ với nàng, cũng không được
phép. Vậy khoản luật này chỉ trực tiếp đề cập đến vấn đề người chồng cũ có
quyền cưới lại người vợ mình đã ký giấy ly dị không? Luật trả lời không được.
Nhân vấn đề đó mà sách này cho chúng ta biết: luật gia đình của người Do thái
cho phép chồng ly dị vợ.
Chúa Giêsu đã trả lời cho những người
Pharisêu: sở dĩ ông Mô-sê đã ra luật đó, “vì lòng các ông chai đá”, nên đó chỉ
là điều nhân nhượng mà thôi, chứ từ ban đầu không có như vậy, và Chúa kết luận:
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Như thế, Chúa
Giêsu cho mọi người biết rõ lập trường của Ngài là không bao giờ được ly dị,
nghĩa là một người nam và một người nữ đã kết hợp với nhau nên một trong hôn nhân
theo luật của Chúa, thì họ không có quyền và cũng không ai có quyền phá vỡ cái
nên một ấy.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng
ta biết rõ luật của Chúa và Giáo hội: sự nên một trong hôn nhân là một công
trình tuyệt vời của Thiên Chúa, nên những ai đang sống trong sự nên một ấy phải
tôn trọng và giữ nó cho thật đẹp và thật bền, và phải làm cho nó trọn vẹn hơn
mãi, không những một thân xác mà một tâm hồn, một cuộc sống, một hạnh phúc.
Chính do sự nên một ấy mà đứa con xuất hiện như một đóa hoa, một trái ngọt ngào
và được nên người. Thánh Phaolô đã nêu cao giá trị của sự nên một ấy khi đem
đối chiếu với sự nên một giữa Chúa Kitô và Giáo hội.
Còn những người chuẩn bị đi vào cuộc
sống hôn nhân phải thận trọng và chuẩn bị kỹ lưỡng để sự nên một ấy có thể được
thành tựu tốt đẹp. Nếu Chúa đã an bài con người có nam có nữ để rồi nam nữ
thành một, thì Chúa vẫn dành cho con người quyền tự do để lựa chọn. Chuyện hôn
nhân là chuyện của hai người trong cuộc. Những người khác dù là cha mẹ, vẫn
phải tôn trọng, giúp cho người liên hệ chọn lựa, chứ không có quyền áp đặt. Cần
dứt khoát với hủ tục ép buộc con lấy người này người khác. Người ta đã coi đó
là lễ giáo, nhưng chắc chắn nó không phù hợp tinh thần Tin Mừng. Vì thế, Giáo
hội không bao giờ chấp nhận sự cưỡng ép trong vấn đề hôn nhân.
Xin Chúa cho những ai đang sống đời hôn
nhân luôn trung thành với nhau; và những ai sắp bước vào đời hôn nhân, chuẩn bị
cẩn thận để bảo đảm trung thành luôn mãi.
16. Sống đạo trung tình nghĩa vợ chồng
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Theo Kinh thánh thì mỗi liên hệ giữa
Thiên Chúa với loài người được gọi là một giao ước. Thiên Chúa khởi sự giao ước
bằng việc bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Và Thiên Chúa mời gọi loài
người đáp trả lại tình yêu đó. Không những Chúa thiết lập giao ước hàng dọc,
nghĩa là giao ước giữa Thiên Chúa với loài người, Chúa còn thiết lập giao ước
hàng ngang giữa người với người nữa. Sách Sáng thế có ghi lại Chúa thiết lập
giao ước hôn nhân hàng ngang bằng việc kêu gọi Ađam và Evà sống trung thành với
nhau: Bởi thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ, mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ
thành một xương một thịt (St 2:24). Lời Kinh thánh này được Chúa Giêsu trích
lại để nói lên tính cách bất khả phân ly của hôn nhân (Mc 10:7).
Khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người,
Người đã nâng khế ước hôn nhân lên hàng bí tích. Vậy bí tích hôn nhân là việc
hai người công giáo đã chịu phép Rửa tội, thề hứa trung thành yêu thương và
phục vụ lẫn nhau cũng như yêu thương và phục vụ con cái. Sự trung tín giữa vợ
chồng là phản ảnh lòng trung tín giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Chúa khẳng định
tính cách bất khả phân ly của bí tích hôn nhân: Sự gì Thiên Chúa đã liên kết,
loài người không được phân ly (Mc 10:9). Khi mấy người Pharisêu thắc mắc tại
sao ông Môsê cho phép li dị thì Chúa Giêsu bảo là tại lòng dạ chai đá của họ mà
ông Mosê cho li dị. Thực ra từ đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã trù liệu
kế hoạch hôn nhân bất khả phân li để nhằm xây dựng hạnh phúc gia đình: của vợ
chồng và con cái. Còn li dị khiến con cái nhất là còn nhỏ tuổi thiệt thòi về
mọi phương diện: thể chất, tình cảm, tinh thần và đời sống thiêng liêng.
Trong quá khứ, hôn nhân được bảo vệ một
cách tối đa: được gia đình, tôn giáo và xã hội che chở. Hôn nhân còn được phong
tục và lễ giáo ràng buộc. Đời sống vợ chồng được cha mẹ, anh chị em, họ hàng,
bạn hữu và hàng xóm khuyến khích, nâng đỡ và ủi an khi vợ chồng có chuyện buồn
giận lẫn nhau. Trái lại sống trong xã hội hiện tại và hiện đại, hôn nhân bị tấn
công bởi nhiều yếu tố như báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và cả
mạng tin. Bằng cách cho phép ly dị, luật pháp xã hội hiện tại và hiện đại không
bảo vệ hôn nhân.
Nhận thức được rằng đám cưới chỉ kéo dài
có một ngày, còn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống, mà đa số các giáo phận tại
Mỹ đời nay đòi hỏi những cặp dự bị hôn nhân phải qua chương trình học hỏi và
đợi chờ tối thiểu là sáu tháng. Thời gian học hỏi và đợi chờ nhằm giúp cho
người dự bị hôn nhân học hỏi về giáo lý hôn nhân và tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau
xem hai người có thể đi tới đời sống lứa đôi không?
Có những cặp nam nữ sau thời gian tìm
hiểu và đợi chờ thấy không hợp đã tự ý chia tay vĩnh viễn. Những cặp dự bị hôn
nhân mà thực sự chú tâm học hỏi để sửa sọan bước vào đời sống hôn nhân thì cũng
khiến cho các linh mục làm đám cưới hứng khởi. Có linh mục kia không biết nói
chơi hay thật cho rằng giả như trước đây nếu người đi tu biết được cái đẹp của
tình yêu và đời sống hôn nhân thì chưa chắc đã đi tu. Để cho hôn nhân có thể
kéo dài suốt cả cuộc sống, người ta cần khám phá ra nét đẹp và sống nét đẹp của
tình yêu và đời sống hôn nhân công giáo. Người ta cần đem Chúa vào đời sống hôn
nhân để Chúa cùng đồng hành và làm chủ đời sống hôn nhân. Như vậy ta thấy mối
liên hệ hôn nhân là một thứ liên hệ gần gũi và thân mật nhất trong các thứ liên
hệ của loài người, đem lại cho hai người niềm an vui và tin cậy. Có người nói
yêu nhau là cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích. Khi hai người
cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích, họ sẽ giúp nhau hoàn thành
ơn gọi của đời sống hôn nhân.
Tuy vậy đời nay người ta lại thấy cảnh
li lan tràn khắp đó đây. Nếu phân tích tại sao đời nay vợ chồng lại li dị dễ
dàng như vậy, người ta có thể nêu ra tại những lí do sau đây (dĩ nhiên còn có
những lí do khác nữa):
(1) Tại đặt nặng yếu tố tiền bạc trong
đời sống hôn nhân. Khi thấy chồng làm ít tiền mà vợ lại thích mua sắm, thì nàng
có thể bắt đầu để ý đến người có nhiều tiền hay làm nhiều tiền hơn.
(2) Tại đặt nặng vấn đề chăn gối. Có lẽ
vì ảnh hưởng bởi phim ảnh, nghệ thuật quảng cáo, và công ty xây cất nhà cửa với
phòng ngủ của chủ gia đình thật lớn và sang có phòng tắm đặc biệt, có bồn tắm
jacuzzi sóng ngầm chẳng hạn, mà người ta để ý đến vấn đề này. Vợ chồng cần tìm
hiểu và để ý xem những lúc nào, hoặc thời kì nào người phối ngẫu không muốn
chuyện chăn gối để tôn trọng nhau. Ngoài ra việc chăn gối hôn nhân phải là việc
bày tỏ sự ưng thuận của cả hai người, lòng yêu thương, âu yếm, thông cảm, và
coi trọng phẩm giá của nhau, chứ không phải là việc làm ép buộc, chỉ nhắm tìm
khoái lạc. Vợ chồng cũng cần tìm những thoải mái về đời sống tinh thần và đời
sống thiêng liêng có tính cách bền lâu bằng việc cầu nguyện, săn sóc gia đình
và con cái hoặc làm việc xã hội và từ thiện bác ái nữa. Khi người ta cảm nghiệm
hạnh phúc thoải mái về đời sống tinh thần và thiêng liêng, thì vấn đề chăn gối
không còn phải là một nhu cầu lớn.
(3) Tại ích kỉ trong đời sống hôn nhân.
Nếu một người phải đi làm lụng vất vả để nuôi gia đình mà người kia không góp
phần mình, để cho nhà cửa lôi thôi, con cái nheo nhóc, cơm nước thất thường,
thì người góp phần nhiều sẽ nản lòng. Nếu nấu giở thì cũng nên học cách nấu ăn
sao cho người ăn được. Như vậy vợ chồng cần phải để ý để đáp ứng những gì mà
người kia đã làm cho mình. Nói cách khác là có đi có lại mới toại lòng nhau.
Còn không thì sẽ làm mất lòng.
(4) Tại để ý nhiều đến tình, mà quên
nghĩa. Có những khi người ta còn lẫn lộn tình yêu với cảm tình hay cảm xúc trìu
mến. Do đó khi không còn cảm thấy có cảm tình là người ta chia tay. Người ta
quên đi những hi sinh và công ơn mà người khác đã làm cho mình. Có những người
trọng nghĩa vợ chồng mà vẫn có thể chung sống với nhau mặc dù tình đã phai
nhạt.
(5) Tại quên rằng vợ chồng còn là thánh
giá cho nhau. Lập gia đình là để vợ chồng nâng đỡ nhau và săn sóc con cái về
đời sống vật chất, tình cảm, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Tuy nhiên vợ
chồng còn là thánh giá cho nhau nữa nếu hiểu thánh giá là những bất đồng quan
điểm với tính tình khác nhau, ăn ngử khác biệt, lại thêm tập quán, cách nói
năng, cách nhìn đời cũng khác. Nếu học để chịu đựng và chấp nhận, những thánh
giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và mang lại ơn phúc cho đời sống hôn nhân.
(6) Tại quên đi phần sau của lời hứa hôn
nhân. Trong thánh lễ cưới, vợ chồng hứa với nhau: Anh hứa nhận em làm vợ, em
hứa nhận anh làm chống, và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em (anh), khi thịnh
vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh nạn cũng như lúc mạnh khoẻ để yêu thương
và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em). Vợ chồng phải thường xuyên
nhắc nhở cho mình giữ lòng chung thuỷ lúa gian nan và khi bệnh nạn nữa cũng như
yêu thương và tôn trọng nhau suốt cả cuộc sống.
(7) Tại không chịu tìm cách thăng tiến
hoá đời sống hôn nhân. Tự nhìn và xét mình, người ta thường chủ quan hay vì tự
ái mà không nhìn thấy mặt trái của mình. Do đó mà có những phong trào ra đời
như Hội Ngộ Phu Thê (marriage Encounter) để giúp vợ chồng thông đạt với nhau
cách hữu hiệu; hay phong trào Teams of our Lady để hướng dẫn vợ chồng cách thế
phát triển đời sống hôn nhân; hoặc phong trào Thăng tiến Hôn nhân Gia đình để
giúp vợ chồng đả thông những vấn đề bất hoà trong đời sống hôn nhân để mà tiếp
tục thăng tiến.
(8) Tại nhìn thấy trước mắt có lối
thoát. Vì có luật cho phép li dị cho nên khả dĩ tính của việc li dị được nằm
trong tiềm thức của người chồng hay vợ nghĩa là đầu óc họ quan niệm rằng họ có
lối thoát nếu không cảm thấy thoải mái trong đời sống hôn nhân. Trái lại thời
xưa không có luật li dị, cho nên ông bà tổ tiên ta không nghĩ đến chuyện có thể
li dị. Vì thế ông bà tổ tiên chỉ nhắm đến tính cách bất khả phân ly của đời
sống hôn nhân cho nên cố xây dựng trên những ưu điểm của nhau thay vì chỉ nhìn
đến những khuyết điểm. Nếu người ta cứ nhắm đến ý tưởng trung thành trong đời
sống hôn nhân thì trong đời sống hàng ngày mà họ có súc phạm đến nhau bằng lời
nói hay hành động, thì họ sẽ tìm cách hàn gắn, điều chỉnh và sửa sai, để có thể
lèo lái tới đích. Còn nếu nghĩ rằng mình không sống với nhau được thì chia tay,
thì người ta sẽ không cố gắng chỉnh đốn vấn nạn hôn nhân, mà cứ để vậy cho tới
lúc không còn chịu đựng được nữa thì sẽ bỏ cuộc. Vì thế việc tâm niệm về tính
cách bất khả phân ly của hôn nhân sẽ giúp định hướng cho hướng đi trong đời
sống lứa đôi. Trong quá khứ luật pháp không cho phép ly dị, vậy mà ông bà tổ
tiên ta vẫn sống bên nhau cho đến bạc đầu long răng. Chẳng thế mà quan sát
người ta thấy có những ông bà già ngồi ghế đá công viên, nhìn ngắm cảnh vật và
người đi qua lại. Ông thì thẩy thức ăn cho chim câu, còn bà thì ngồi ngắm. Hai
ông bà chỉ cần ngồi đó, có sự hiện diện của nhau là đủ, mà không cần nói nhiều.
Vả lại sống với nhau lâu năm rồi, bây giờ lại lớn tuổi, nói nhiều làm chi cho
mỏi miệng, mà cũng chẳng còn gì để nói.
(9) Tại đặt nhẹ việc phát triển tình bạn
trong đời sống hôn nhân. Ở xã hội Việt Nam, vợ chồng được gọi là bạn trăm năm,
nhưng nhiều vợ chồng lại không phải là bạn. Có lẽ người ta sẽ tìm thấy tình yêu
bền vững trong hôn nhân nếu người ta tìm nó trong tình bạn hữu. Trong thời đại
ta đang sống, người ta nói nhiều về tình yêu hôn nhân mà ít nói về tình bạn.
Tình bạn trong đời sống hôn nhân rất là quan trọng trong việc phát triển tình
yêu và đời sống hôn nhân. Nếu trước khi cưới, hai người chưa phải là bạn, họ
cần tìm cách để trở thành bạn. Bạn hữu là những người có tính tình, tập quán và
cách nhìn đời giống nhau, cùng chia sẻ những giá trị giống nhau. Nếu trước khi
cưới chưa phải là bạn, thì sau khi cưới việc quan tâm và đáp ứng nhu cầu người
khác cũng có thể khiến họ trở thành bạn với mình. Nếu bạn hữu không muốn xa
nhau thì tình bạn trong đời sống hôn nhân sẽ giúp người ta muốn sống bên nhau
mãi mãi.
(10) Tại quên đem Chúa vào đời sống hôn
nhân. Người ta có thể nhớ đem Chúa vào đời sống cá nhân, nhưng lại quên đem
Chúa vào đời sống hôn nhân và đời sống gia đình. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân
có nghĩa là tuân giữ giới răn Chúa. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân để Chúa cùng
đồng hành trong đời sống hôn nhân khi vui cũng như khi buồn, khi thành công
cũng như lúc thất bại, khi yếu đau cũng như lúc mạnh khoẻ. Đem Chúa vào đời
sống hôn nhân còn có nghĩa là để Chúa làm chủ đời sống hôn nhân. Cũng nên biết
khi vợ chồng cùng chung một niềm tin vào Chúa thì dễ thực hiện việc đem Chúa
vào đời sống hôn nhân. Theo thánh Gioan định nghĩa thì Thiên Chúa là tình yêu
(1 Ga 4:16). Và Thiên Chúa chia sẻ tình yêu cho loài người và cho vợ chồng
nghĩa là Thiên Chúa có liên hệ mật thiết trong đời sống hôn nhân bằng cách kết
hợp hai người nam nữ trong một tình yêu. Nói như vậy có nghĩa là khi chồng yêu
vợ thì chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho vợ mình. Ngược lại khi vợ yêu chồng
thì cũng chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho chồng mình. Thế nên ngay cả trong
những tác động chăn gối, vợ chồng cũng cần đem Chúa vào để cho khỏi trở thành
những tác động chỉ bao hàm nhục dục mà thiếu yếu tố yêu đương. Thống kê cho
thấy những gia đình thường ăn chung và đọc kinh chung là những gia đình tránh
cảnh đổ vỡ.
Sự trung thành giữa vợ chồng thường được
Chúa dùng để so sánh với lòng trung thành của Thiên Chúa với loài người. Trong
Phúc âm, Chúa Giêsu ví Người như đức lang quân, còn Giáo hội được ví như là
hiền thê. Thiên Chúa luôn trung thành với lời giao ước với loài người và Chúa
muốn loài người cũng trung thành với giao ước mà người ta đã làm với Chúa qua
các bí tích họ lãnh nhận.
Lời cầu nguyện xin cho được trung thành
trong đời sống hôn nhân:
Lạy Thiên Chúa hằng sống! Đấng luôn
trung thành với lời giao ước, Chúa làm với loài người.
Xin dạy con cũng biết trung thành với
lời giao ước mà con đã làm qua các bí tích mà con lãnh nhận: hôn nhân cũng như
thánh chức.
Xin cho con được giữ trọn lời thề. Đừng
để con nghe lời cám dỗ rỉ tai mà bất trung với nhau và bất trung với Chúa. Amen.
17. Chú giải của Noel Quesson.
Đàn ông và đàn bà! Tại sao trai và Gái!
Tại sao? Tính dục? Tại sao? Ai tình, khoái lạc, âu yếm, hôn nhân. Tại sao?
Tại sao cả thế giới sống động: thực vật,
thú vật hay con người, đều được tạo ra theo "mẫu" này? Tại sao sinh
vật phải gồm có hai “giống”, chia ra làm hai phần “đực và cái” khác nhau, nhưng
được tạo ra “cho nhau". Tư tưởng con người không ngớt giao động về vấn đề
này giữa phái Janséniste, và những người mệnh danh là lạc quan phóng khoáng,
loại người đòi được tự do tình dục và ca tụng lạc thú như mục đích của con
người.
Luân lý Kitô giáo trong những thế kỷ vừa
qua, đã quá thổi phồng mặc cảm tội lỗi quanh vấn đề "Thanh sạch " và
“không Thanh sạch”.
Tâm trạng con người hiện nay có khuynh
hướng từ bỏ mọi khuôn mẫu và ca ngợi sự phóng khoáng: “Hãy làm điều bạn muốn
làm, hãy làm những gì vừa ý bạn".
Đức Giêsu nghĩ gì về vấn đề này?
Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu
và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?".
Đó là câu hỏi đầy ác ý. Họ đặt ra để bắt
bí Đức Giêsu, một câu hỏi nhằm gài bẫy. Dù Chúa có trả lời như thế nào đi nữa,
thì Người cũng phải lãnh chịu một phần công luận, vì đây là vấn đề nóng bỏng và
chạm đến những gì thâm sâu nhất của con người. Không ai có thể trung lập trước
câu hỏi, vì phải chấp nhận tình trạng này hay tình trạng kia một cách cụ thể.
Những vết thương lòng rất khó lành. Câu hỏi do người Pharisêu nêu lên là đáng
ngạc nhiên, vì giải đáp đã do luật đưa ra rồi. "Một người nào lấy vợ và đã
cưới hỏi rồi, nếu xảy ra là vợ không được vừa mắt chồng nữa, vì chồng gặp thấy
nơi nó có điều gì thô bỉ, vậy chồng đã viết cho nó lá thư, mà trao tay nó và đã
thải hồi khỏi nhà mình" (Đnl 24).
Câu trả lời của luật pháp thật là rõ
ràng: Sự ly dị là hoàn toàn hợp luật, vào thời Đức Giêsu, cũng như thời nay.
Chúng ta cũng ngạc nhiên về sự giống nhau giữa những tình huống của các Kitô
hữu đầu tiên và tình huống ngày nay mà chúng ta biết: Trong hầu hết các nước
trên thế giới đều có luật chấp nhận ly dị và tái giá.
Người đáp: "Thế ông Môsê đã răn dạy
các ông điều gì? Họ trả lời ông Môsê đã cho phép viết chứng thư ly dị mà rẫy vợ”.
Trả lời như thế thật là đẹp đẽ để giúp
ta giữ thái độ khiêm nhường trước- những câu hỏi khó khăn. Những kiểu chú giải
Kinh thánh "mang tính truyền thống" (nghĩa là chủ trương phải hiểu
Kinh thánh theo nghĩa đen từng chữ một) thực sự chỉ đạt đến những điều ngây ngô
và trẻ con. Hiển nhiên là mạc khải luôn tiệm tiến, và luân lý, giáo huấn cũng
tiến bộ theo thời đại. Môsê, phần lớn chỉ lấy lại "luật theo tục lệ"
của thời ông, mà thời đó chế độ đa thê và ly dị đã nằm trong truyền thống có cơ
sở vững chắc. Vì không thể làm hơn được, ông đã cố sửa chữa những sở thích tùy
tiện, bằng cách "hợp thức hóa", "quy định" và thiết lập
một; “thủ tục". Ong muốn giới hạn sự ác bằng cách buộc phải theo thủ tục
rõ ràng. Nhưng cũng như mọi luật lệ, luật này có thể được áp dụng rộng rãi hay
là ngược lại: Có hai cách giải thích đối nghịch nhau vào thời Đức Giêsu. Thực
vậy vấn đề là giải thích chữ "việc làm gây đụng chạm nặng" trong điều
luật mà theo ý của Rabbi Shammai, phải hiểu từ này ám chỉ một tình trạng
"vô luân trầm trọng" mà thôi, như thái độ ngoại tình. Trong khi
trường phái kém khắt khe hơn của Rabbi Hillel đã hiểu rộng hơn, như đã lỡ để
mất một bữa ăn bị cháy khét (Mischna Gittin IX 10).
Qua thí dụ này, chúng ta có thể kết luận
rằng: "Tất cả những gì hợp pháp, không hẳn là hợp luân lý". Người
Kitô hữu sống trong một thế giới đa dạng. Họ phải đủ sức chịu động để sống theo
lương tâm của mình, dù điều đó có thể đưa tới một thái độ anh hùng theo Tin
Mừng nào đó, đi ngược lại đa số. Nhưng nói cho cùng, đa số những đòi hỏi của
Tin Mừng không yêu cầu chúng ta làm như thế cả sao? Thái độ bất bạo động không
phải là một sự điên rồ sao? Tha thứ vô điều kiện, không phải là một lệch lạc
sao? Tự nguyện sống nghèo không phải là một điều không tưởng sao? Chính trong
bối cảnh ly dị trở thành hợp pháp như thế, mà Đức Kitô sắp bày tỏ lập trường
đối với thời đại của mình.
Đức Giêsu nói với họ: "Chính vì các
ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn ấy”.
Lần này, đáng lẽ Người ta không nên dịch
từ Hy Lạp “Sclérocardia" mà nên chuyển từ này sang tiếng Pháp thì mọi
người sẽ hiểu: "Vì chứng bệnh "sơ cứng tim" của các người, mà
Môsê đã cho phép ly dị". Đây là một chứng bệnh tim rất phổ biến, sự chai
cứng của quả tim, sự cứng lòng. Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết thực sự
yêu thương Người kia (người phối ngẫu). Có một áp lực xã hội rất mạnh (hãy làm
như mọi người). Ngày nay cũng như thời xưa, thúc đẩy chúng ta chỉ cần những mối
"tương quan lực lượng". Thí dụ; Thống kê chứng minh rằng ba phần tư
những trường hợp ly dị trong năm năm đầu của cuộc hôn nhân xảy ra đối với những
đôi vợ chồng đã ăn ở với nhau trước khi cưới. Khước từ "hôn nhân",
khước từ "những tiêu chuẩn xã hội", không phải là bằng chứng của sự
trưởng thành! Sống chung, ăn ở với nhau mà không làm đám cưới, thực ra điều đó
có nghĩa gì? 'Không phải đó là giữ cảm tình ở một mức thiếu niên, và làm cho nó
không vượt khỏi trình độ sơ đẳng sao? Không phải đó là giữ một lối thoát. Khước
từ dấn thân thể sự, không "tự trao hiến" có nguy cơ cứ ở mãi trong
tương quan thống trị giữa hai Người phối ngẫu sao? Tôi luôn phải làm chủ! Tôi
phải tỏ ra tự do!
Coi chừng bệnh "chai tim" của
bạn đó, Đức Giêsu đã cảnh giác như thế. Có cái gì đang núp ẩn dưới vẻ thân mật
tự chủ, tự do? Tình yêu cho người kia, hay là tình yêu của tình bạn?
Còn thuở ban đầu, lúc tạo thành vạn vật,
Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ.
Luật căn bản của lứa đôi cần phải kiếm
tìm, luôn nằm trong lãnh vực đó: Sự bổ túc của hai phái tính là một "sáng
tạo", một "Thánh ý" của Thiên Chúa, được ghi khắc trong bản chất
thâm sâu của người nam và người nữ.
Một lần nữa, Đức Giêsu không diễn tả
bằng những từ luân lý được phép và bị cấm dù trên thực tế những điều này dẫn
đến những thái độ rõ ràng. Người đưa ra một lý tưởng. Chúng ta không thể coi
việc áp dụng luật là đủ. Đối với Đức Giêsu, cần phải có chiêm ngưỡng "dự
án của Chúa về người nam và người nữ".
Trước những quan điểm xã hội, những
luồng tư tưởng khác nhau, những chủ truơng "làm như mọi người", chúng
ta quan niệm thế nào về tình yêu hôn nhân? Có phải quan niệm như một minh tinh
điện ảnh nào đó? Như trong một bài hát nào đó trên máy thu thanh, dành cho
những người bình dân? Đức Giêsu nói.. Hãy coi chừng! Trước tất cả những điều
này, Thiên Chúa đã có một quan niệm về tình yêu và đã diễn tả quan niệm này
trong sự sáng tạo của Người.
Vì thế người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà gắn
bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn là
hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.
Như vậy, Đức Giêsu đã tham chiếu bản văn
sách Sáng Thế mà chúng ta đọc trong bài đọc một hôm nay. Chúng ta sẽ không bao
giờ khám phá hết những kỳ diệu trong lời khẳng định phi thường của Sách Thánh:
"Chúng ta hãy tạo con người theo hình ảnh của chúng ta, theo họa ảnh của
chúng ta". Và Thiên Chúa đã tạo con người theo hình ảnh của Người, theo
hình của Thiên Chúa, Người đã tạo ra con người nam và nữ (St 1,26-27). Không
phải tình cờ mà bản văn Kinh thánh đã chuyển từ số ít ra số nhiều. Thiên Chúa
là một trong ba ngôi, đã tạo nhân loại theo hình ảnh của Người, "nhiều” mà
chỉ là “một". Từ nhiều người, khác nhau sâu xa, làm nên một. Đó là nguồn
gốc của sự hiệp nhất trên thế gian, ngay từ lúc đầu cuộc sáng tạo.
Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con vinh
quang của Chúa. Chúa đã tạo người nam và người nữ theo hình ảnh của Chúa. Oi,
một giao ước mầu nhiệm thay! Lạy Chúa, là tình yêu chia sẻ, xin cho dân của
Người nghị lực yêu thương.
Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài
người không được phân ly.
Chỉ có Thiên Chúa sống động trong ta,
mới có thể làm được những gì mà chúng ta coi như bất lực. Bí tích hôn phối đúng
là một hồng ân, một quà tặng nhưng không, để chữa bệnh con người không biết yêu
thương như Thiên Chúa của giao ước hằng thương yêu. Sự bất khả phân ly của hôn
nhân như Đức Giêsu đã tuyên bố, đi ngược lại chuẩn mực thông thường của chúng
ta, không thể trở nên dịp cho chúng ta xét đoán hay lên án những gia đình gặp
khó khăn: Chúa Kitô không kêu gọi chúng ta làm việc đó! Sự bất khả phân ly là
lời thề hứa sâu sắc nhất của tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cảm tạ Chúa đã nói
lại điều đó cho chúng con, dù đó là điều khó sống theo, nhưng nhờ sự thương khó
và thập giá Chúa, xin cứu giúp tình yêu chúng con. Xin làm cho chúng con biết
yêu thương như Chúa.
Ai rẫy vợ mà lấy người khác, là phạm tội
ngoại tình đối với vợ mình, và ai bỏ chồng để lấy người khác thì cũng phạm tội
ngoại tình.
Sự đối xung hoàn hảo của hai kiểu nói
song hành này, rất có ý nghĩa.
Đối với Đức Giêsu, sự hỗ tướng cần trọn
vẹn: Người nam và Người nữ đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Trong thế
giới mà các tương quan thống trị đang thắng thế như hiện nay, Đức Giêsu yêu cầu
chúng ta phải biết yêu thương người phối ngẫu. Và Người cho chúng ta "sức
mạnh" để yêu thương như thế, dù có gặp khó khăn.
Sự hiệp nhất đời sống lứa đôi là do Chúa
muốn, không phải chỉ từ "lúc đầu”, không phải "một thiên đường đã
mất" trong quá khứ. Đây là đường đi hằng ngày mà nơi đó "Thiên đàng
đã tìm lại" đang xây dựng, nơi cuối cùng chúng ta sẽ trở nên hình ảnh của
Thiên Chúa "Ba" mà là "Một".
18. Đức Giêsu đối với việc
ly dị và các trẻ em
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ
Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm
nay bỏ câu Mc 10,1 là một tóm lược nhỏ quen thuộc của tác giả Mc: một chi tiết
địa lý khá mơ hồ (“miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan”); một mô tả tổng
quát về hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu cho đám đông đã quy tụ lại. Truyện kế
tiếp không liên hệ gì với nội dung của c. 1 cả. Nhưng tác giả có một ý hướng
thần học: Đức Giêsu đang tiến đến gần Giêrusalem.
Khi nghiên cứu kỹ đoạn văn cc. 2-12,
người ta nhận thấy nòng cốt là cc. 2-9, một cuộc tranh luận với mấy người
Pharisêu. Vì bản văn Kinh Thánh được trích từ Bản LXX, người ta nghĩ đến Do
Thái giáo thuộc môi trường Hy Lạp. Sự độc lập của phân đoạn này với cc. 10-12
được xác nhận bởi Lc 16,18 trong đó chỉ có câu đầu của giáo huấn ban cho các
môn đệ. Có lẽ cc. 10-12 đã được thêm vào sau.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần :
1) Vấn đề ly dị
(10,2-12):
a) giáo huấn cho dân
chúng (cc. 2-9),
b) giáo huấn cho các
môn đệ (cc. 10-12);
2) Đức Giêsu chúc lành
cho trẻ em (10,13-16).
3.- Vài điểm chú giải
- chồng có đựơc phép rẫy vợ không? (2): Câu hỏi đề cập đến tính hợp pháp của ly dị, chứ
không phải lý do đưa đến ly dị có xung khắc với sự hiểu ngầm theo Đnl 24,1-4.
Vào thời ấy, người ta chỉ tranh luận về các lý do. Một nhóm kinh sư nêu ra các
lý do: ngoại tình, một bệnh truyền nhiễm, chứng điên hoặc không thể có con. Đối
với đa số các kinh sư, còn có nhiều lý do khác: chỉ cần người đàn ông không
bằng lòng một điều gì đó nơi vợ mình là có thể rẫy vợ. Dù thế nào, người chồng
có tự do rất lớn.
- để thử: Có tác giả cho rằng có lẽ họ nhắm đẩy Đức Giêsu vào
thế xung đột với đại gia đình Hêrôđê đầy những vụ ly dị. Nhưng hợp lý hơn thì
cho rằng ngưòi Pharisêu muốn gài Đức Giêsu vào thế phải nói ra quan điểm nhiệm
nhặt của Người, và như thế Người trở thành đáng ghét trước mắt người ta do
Người giới hạn “tự do” của họ.
- Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông
điều gì? (3): Đnl 24,1-4 coi
việc ly dị như được phép; đoạn văn này chỉ đề cập đến thủ tục phải theo khi một
người chồng đã quyết định ly dị vợ mình, và lệnh cấm tái kết hôn sau khi cuộc
hôn nhân của người phụ nữ này đã chấm dứt. Các lý do để được ly dị được diễn tả
mơ hồ: “thấy nơi nàng có điều gì chướng” (bh ‘erwat dbr). Sự mơ hồ này đã đưa
tới một tranh luận của giới kinh sư. Những nố ngoại lệ trong TM Mt (5,32; 19,9)
được hiểu trong bối cảnh này. Nhưng trong TM II, vấn đề được đặt ra tận căn
bản: có được phép ly dị không?
- Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị
rẫy vợ (4): Người Pharisêu
đã trả lời câu hỏi của Đức Giêsu dựa vào nền tảng của Đnl 24,1-4. Trong Do Thái
giáo xưa kia, ly dị không phải là một hành vi pháp lý công khai tại toà án.
Người chồng chỉ việc viết một giấy (“Tôi bỏ và ly dị vợ tôi ngày này”), rồi đưa
giấy ấy cho vợ. Ta thấy rằng người Pharisêu nói về phép (cc. 2.4) trong khi Đức
Giêsu lại hỏi họ là có một lệnh truyền (= điều răn) nào chăng (hẳn là người
Pharisêu sẽ khó mà tìm được một lệnh truyền nào như thế trong Luật!). Trong Mt
19,7-9, người Pharisêu lại nói về một lệnh truyền của Môsê, còn Đức Giêsu lại
trả lời họ rằng đó chỉ là một sự cho phép.
- vì các ông có lòng chai dạ đá (5): Đức Giêsu coi lời dạy của Đnl 24,1-4 như một sự
nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người và một sự miễn chuẩn cho chương trình
nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân. Trong câu trả lời, Đức Giêsu đi từ một
lời cho phép ly dị đến lời làm nền tảng cho hôn nhân: sự miễn chuẩn không hủy
bỏ được luật căn bản.
- Lúc khởi đầu công trình tạo dựng (6): Đức Giêsu cho thấy Người phản đối ly dị là do
Người dựa vào Kinh Thánh: Người trích St 1,27; 2,24. Người khẳng định rằng
trong chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa, những người kết hôn thì nên “một
xương một thịt”, nên không được ly dị. Đnl 24,1-14 cho phép ly dị là một cách
nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người. Lời giáo huấn của Đức Giêsu nhằm tái
lập lại chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng, nên không hề đối lập với Kinh
Thánh.
- Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một
xương một thịt (8): Lý tưởng hôn nhân
này là một suy diễn dựa trên St 2,24; nó cung cấp lý do vì sao không thể ly dị.
- loài người không được phân ly (9): “Loài người” đây là người chồng, chứ không phải
là đệ tam nhân như vị thẩm phán. Bởi vì theo Đnl 24,1-4, người chồng có thể một
mình bắt đầu thủ tục, thì không cần một đệ tam nhân. Ở đây Đức Giêsu triệt tiêu
thủ tục Cựu Ước.
- khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi
Người (10): Đây không thể
là ngôi nhà ở Caphácnaum (x. 1,29; 9,33), bởi vì Đức Giêsu và các môn đệ đã bỏ
miền Galilê. Đây là một sáng tạo của Mc để tạo cơ hội cho Đức Giêsu dạy riêng
các môn đệ.
- Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội
ngoại tình đối với vợ mình (11): Giáo huấn tuyệt đối này cũng xuất hiện trong Lc 16,18c.
- và ai bỏ chồng… (12): Luật Do Thái chỉ nói rằng người chồng có thể
tiến hành thủ tục ly dị, chứ không nói là người vợ. Thường thường, các tác giả
cho rằng c. 12 này là một cách tác giả ứng dụng giáo huấn của Đức Giêsu cho
những người sống dưới luật Rôma và Hy Lạp.
- trẻ em (13): có thể ở trong khoảng ấu nhi đến 12 tuổi. Người
ta mong Đức Giêsu đặt tay để chúc lành cho chúng.
- chạm tay vào chúng: để Đức Giêsu chúc lành cho chúng.
- Người bực mình (14): Phản ứng này của Đức Giêsu (x. 1,43; 3,5; 8,12;
14,33-34) đã phát sinh do các môn đệ không hiểu Người và bản chất của Nước
Thiên Chúa mà Người rao giảng. Một lần nữa, lối xử sự của các môn đệ lại là cớ
để Đức Giêsu ban một giáo huấn tích cực. Mt 19,14; Lc 18,16 đã bỏ đi phản ứng
rất người này, có lẽ vì thấy bất xứng với Đức Giêsu.
- vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai
giống như chúng: Đặc tính chính yếu
của trẻ em là khả năng đón nhận. Vì không có sức mạnh thể lý và không có quy
chế pháp lý, trẻ em biết cách đón nhận tốt nhất. Nước Thiên Chúa phải được đón
nhận như một quà tặng, bởi vì không một sức mạnh hoặc quy chế nào của loài
người tạo ra được hoặc đòi hỏi cho có được Nước Thiên Chúa (x. c.15).
- Thầy bảo thật (15): Từ “thật” dịch từ amên trong bản Hy Lạp: “điều
vững vàng”, “điều chắc chắn là thế”.
- đặt tay chúc lành cho chúng (16): Trong các tác phẩm thời ấy, trẻ em được coi như
ví dụ về phong cách thiếu hợp lý hoặc là những đối tượng cần được đào tạo.
Trong đoạn này (x. cả 9,33-37), chúng được trân trọng như những nhân vị và được
quan hệ với Đức Giêsu và Nước Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Vấn đề ly dị (2-12)
Đức Giêsu đã sang miền Giuđê. Giáo huấn
của Người về hôn nhân và ly dị lại là một thách đố nữa cho những ai muốn bước
theo Người. Cựu Ước cho thấy có thể ly dị (x. Đnl 24,1); điều chắc chắn là
người đàn ông có thể rẫy vợ. Dù các lý do để ly dị thế nào, hệ thống luật lệ
thời ấy cho các người chồng một tự do rất lớn và khiến các bà vợ phải trả giá
đắt cho tự do này: vị trí của các bà rất mong manh và các bà phải lệ thuộc sự
quyết đoán của chồng.
Khi đặt câu hỏi cho Đức Giêsu, người
Pharisêu muốn lôi kéo Đức Giêsu vào trong cuộc tranh luận về các lý do cho phép
ly dị. Đức Giêsu không đi vào trong tranh luận về các lý do hợp pháp để ly dị.
Như trong các trường hợp khác, Người đăt cuộc tranh luận trên một bình diện
khác. Người đưa các người đối thoại trở lại với Kinh Thánh, với cách xử sự và ý
muốn của Thiên Chúa Tạo Hóa vào thuở tạo thiên lập địa. Tương quan giữa người
nam và nữ không phải là điều mà con người tự do định liệu, bởi vì không phát
xuất từ con người, nhưng từ Thiên Chúa trong tư cách là Đấng Tạo Hóa. Ngài đã
tạo dựng loài người trong sự khác biệt nam nữ; Ngài đã nhắm người này cho người
kia, đã quy định rằng họ kết hợp với nhau và nên “một xương một thịt”. Phá hỏng
sự bố trí này của Thiên Chúa Tạo Hóa là một hành vi xuyên tạc thô bạo và chống
lại ý muốn của Đấng Tạo Hóa. Như thế, hậu quả tiêu cực là cấm ly dị và tái kết
hôn. Vì vậy, sau đó, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng ly dị và cưới vợ hoặc
lấy chồng khác là phạm tội ngoại tình.
* Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (13-16)
Sau một đoạn nói về hôn phối, có một
đoạn nói về trẻ em cũng là chuyện hợp tình hợp lý. Nhưng thực ra bản văn này đề
cập đến Nước Thiên Chúa và hạng người hy vọng được tham dự vào đó. Các em bé
không tự mình hành động theo sáng kiến của mình; chúng không có khả năng lo
liệu cho bản thân; chúng chỉ được an toàn dưới sự che chở của cha mẹ. Chỉ những
ai nhận biết và đón tiếp Nước Thiên Chúa như một quà tặng (như một em bé nhận
quà) mới hy vọng được thông phần vào Nước Thiên Chúa; Nước này được dành cho
những ai không cậy dựa vào quyền thế hoặc đặc quyền, bởi vì Nước này vượt trên
mọi quyền lực và quy chế loài người. Công thức đặc biệt nói về việc đón nhận
Nước Thiên Chúa gợi ý cho ta coi ở đây Nước này như một thực thể hiện tại. Quả
thật người ta đi vào trong Nước tương lai, nhưng dĩ nhiên việc đón nhận Nước ấy
phải xảy ra trước. Nước ấy cũng đã hiện diện rồi. Tác giả Mc đã hiểu tương quan
với hiện tại này theo nghĩa Kitô học: Ngay bây giờ người ta đã có thể trải
nghiệm Nước Thiên Chúa trong hoạt động của Đức Giêsu. Một hình ảnh được cung
cấp trong cảnh kết thúc, khi Đức Giêsu ôm lấy các trẻ em và chúc lành cho
chúng: qua hành động này, nguyện vọng của dân chúng được đáp ứng (c. 13), và
nhất là lời hứa được công bố ở cc. 14t được xác nhận.
+ Kết luận
Có thể nói, trong phần thứ nhất, tác giả
Mc muốn mô tả Đức Giêsu tiếp tục hoạt động, cả trong chuyến đi lên Giêrusalem.
Trong cuộc hành trình này các môn đệ cần được Thầy giáo huấn kỹ càng để có thể
bước theo Thầy. Câu hỏi của các ông cho thấy các ông không có khả năng hiểu
đường lối của Thầy, và do đó rất cần được giáo huấn. Khi đã nhận được một giáo
huấn đặc biệt, các ông có tư cách để truyền đạt Lời Chúa cách thuyết phục cho
các cộng đoàn.
Phần thứ hai cho thấy cách mà người môn
đệ phải hiểu về chính mình. Họ phải thanh thoát khỏi những định kiến ích kỷ và
sống như một em bé trước nhan Thiên Chúa. Chỉ như thế, họ mới có thể gặp người
thân cận với tình yêu. Bản văn này cũng cho thấy quan niệm của tác giả về Nước
Thiên Chúa. Nước này tuy thuộc về tương lai, nhưng đã bắt đầu hoạt động mạnh mẽ
trong hiện tại rồi. Đó là vì Đức Giêsu không những loan báo Nước Thiên Chúa, mà
còn đưa Nước này đến gần con người trong hiện tại.
Ngoài nội dung riêng của hai phần trong
đoạn này, ta thấy hai phần có một nét chung: người phụ nữ và trẻ em bị coi nhẹ
trong xã hội lúc ấy, nhưng dưới mắt Đức Giêsu, họ cũng là những nhân vị, và có
lẽ còn được Thiên Chúa chiếu cố đến đặc biệt, vì họ là những người bé mọn. Nước
Thiên Chúa được dành cho những con người như thế.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Xuyên qua dây hôn của đôi vợ chồng,
phát sinh một điều mới, một đơn vị mới và có thể nói, một hữu thể nhân loại
mới. Họ vẫn là hai người với đặc tính riêng và trách nhiệm riêng, nhưng họ
không còn độc lập, tách biệt và riêng rẽ nữa. Thiên Chúa đã nhắm làm cho sự kết
hợp của họ đưa tới sự phát sinh một đơn vị mới chuyên biệt và thực hữu, một dây
liên hệ thường hằng. Đó là cách bố trí của Thiên Chúa. “… Gia đình là tế bào cơ
bản của xã hội, ở đó chúng ta học sống chung với nhau bất chấp những khác biệt
của người này với người khác và nương tựa vào nhau; gia đình cũng là nơi cha mẹ
chuyển giao đức tin cho con cái” (Đức giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Niềm vui
Tin Mừng, số 66).
2. Các môn đệ phải đón nhận Nước Thiên
Chúa như các trẻ em, nghĩa là họ không thể đi vào đó bằng sức riêng. Như các em
bé, họ phải cảm thấy mình được che chở bởi tình yêu của Thiên Chúa, phải để cho
mình được Người lấp đầy bằng những ân huệ. Đi vào Nước Thiên Chúa luôn luôn là
một ân huệ mà ta đón nhận với lòng biết ơn.
3. Các môn đệ chu toàn bổn phận chính
yếu, bổn phận phục vụ, bằng cách chu toàn trách nhiệm đối với các trẻ em. Cũng
như con cái có bổn phận đối với cha mẹ, cha mẹ cũng có bổn phận đối với con
cái. Các bổn phận được giao cho chúng ta có thể là lớn lao và đẹp đẽ, nhưng
trước nhan Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là như các trẻ em: chúng ta phải
luôn luôn tin tưởng vào tình yêu của Người và để cho Người ban chan hòa các ân
huệ.
4. Đức Giêsu dạy chúng ta tôn trọng nhân
vị của mỗi người, người lớn cũng như em bé. Chúng ta không có quyền khinh bỉ
hay chê bai người nào cả, cũng không có quyền coi mình tốt hơn người khác vì
mình là Kitô hữu. Thật ra, nếu chúng ta không thấy được những điều sai phạm của
mình để xin tha thứ, thì chúng ta có còn là Kitô hữu nữa chăng?
LỄ MÂN CÔI
1. Chuỗi Mân Côi
Ngày kia có một vị linh mục nói chuyện
với đám tù nhân vừa mới được trả tự do. Sau khi đã thăm hỏi họ về chuỗi ngày
cực khổ, thì một người trong đám họ đã nói: Chính những cực nhọc của kiếp sống
đoạ đày đã đem lại nhiều lợi ích cho chúng con. Vì nhờ đó chúng con mới hiểu
được giá trị và yêu thích sự cầu nguyện. Rồi anh ta giơ ra cho vị linh mục xem
một khúc tràng hạt, chỉ gồm có 10 hạt mà thôi. Vị linh mục ngỏ ý muốn tặng anh
một chuỗi khác, nhưng anh đã cám ơn, đã từ chối và nói: Thưa cha đây là một kỷ
niệm sâu xa nhất trong cuộc đời của con, con sẽ cẩn thận gìn giữ nó, vì nó gợi
cho con nhớ đến chuỗi ngày bi thảm. Chúng con cả thảy gồm 3 người, bị thương
nặng trên trận địa và nằm chờ chết. Bấy giờ trong thinh lặng giữa lúc màn đêm
buông xuống, con khẽ lần hạt, và rồi hai người bạn kia lên tiếng xin một mẩu
tràng hạt để cùng lần, thì ra họ cũng là người công giáo. Con bèn dứt chuỗi
tràng hạt thành ba khúc, mỗi người một khúc, và chúng con cùng nhau lần hạt một
cách sốt sắng như thể là lần cuối cùng trong cuộc sống.
Nghe xong câu chuyện này, có thể một số
người trong chúng ta sẽ nói: Tôi sẽ không chờ cho đến những giây phút bi thảm
và đen tối như vậy mới cầu nguyện. Tốt lắm. Phải cầu nguyện liên tục, nhất là
những lúc gặp phải gian nguy thử thách. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta
lại thờ ơ với chuỗi Mân côi, vì nó tẻ nhạt, vì nó buồn chán. Thật là đáng tiếc.
Cách đây 1000 năm, đạo quân Thổ Nhĩ Kỳ
đe dọa trầm trọng thế giới công giáo. Tình hình càng thêm bi thảm hơn nữa vào
thế kỷ XVI. Họ tiến vào châu Âu và quyết tâm dứt điểm bằng một cuộc hải chiến
tại vịnh Lépante. Trong khi đạo quân Công giáo với một lực lượng yếu kém hơn
nhiều xông ra chiến trận, thì tại Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tổ chức những hiệp
hội Mân Côi, liên tục lần chuỗi, dâng lên Mẹ những lời kinh thắm thiết để xin
Mẹ nâng đỡ phù trợ. Và sau cùng đạo quân công giáo đã chiến thắng. Để tạ ơn Đức
Mẹ và để ghi nhớ cuộc chiến thắng này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ Mẹ
Mân Côi mà chúng ta mừng kính ngày hôm nay.
Còn với chúng ta thì sao? Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, ngán ngẩm khi phải
lần chuỗi. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta chưa lần chuỗi cho đúng cách. Tại một
giáo xứ nọ, thầy giúp xứ hướng dẫn một số em vào nhà thờ để lần hạt chung với
nhau. Tại mỗi ngắn, thầy bèn trao cho các em xem một bức hình liên hệ. Chẳng
hạn năm sự Mừng thứ nhất thì ngắm, Đức Chúa Giêsu sống lại. Các em sẽ nhìn thấy
bức hình lộng lẫy: Chúa Giêsu phục sinh, khải hoàn ra khỏi mồ, còn những tên
lính canh thì hoảng sợ vứt bỏ khí giới trước luồng ánh sáng chói loà.
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm như vậy
mỗi khi lần hạt, nhưng chúng ta có thể nghĩ tưởng trong đầu óc, nhờ đó mà chúng
ta như được tham dự vào chính những biến cố mà mỗi ngắm, mỗi mầu nhiệm của kinh
Mân Côi gợi lên. Trong tháng 10 cũng như trong suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy
dâng lên cho Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, là như những bông hồng tươi
xinh, để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.
2. Lời kinh của mỗi cá nhân.
Sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu
ảnh hưởng của kinh Mân côi đối với cá nhân mỗi người chúng ta.
Trước hết tôi xin đưa ra một vài trường
hợp cụ thể. Năm 1507, ông Valentinô bị một bọn cướp bắt cóc để tống tiền. Chúng
đã xiềng chân và khóa tay ông, rồi giam ông trong một ngọn tháp cao, tối tăm,
bẩn thỉu và hôi hám. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, ông và gia đình vẫn tin tưởng
và lần hạt kính Đức Mẹ. Rồi một lần kia, khi đã cầu nguyện xong, ông vô cùng bỡ
ngỡ vì bỗng thấy xiềng xích đều mở ra. Tay chân được thong dong, ông bắt đầu
lần mò trong bóng tối, gõ khắp lượt vào tường tháp, đến một chỗ ông nghe bục
bục và ọp ẹp. Ông đẩy mạnh và viên đá nhúc nhích. Ông vội cậy viên đá để tìm
lối thoát thân và thế là ông chạy trốn được bình an vô sự. Phải chăng Đức Mẹ đã
cứu chữa ông và ban xuống cho gia đình ông niềm an ủi.
Kinh Mân côi không phải chỉ cứu chữa
phần xác, mà nhất là nó còn cứu chữa phần hồn. Hélène là một nàng kỹ nữ đã làm
cho bao nhiêu người say đắm. Ngày kia nàng theo chị em bạn vào trong một nhà
thờ, gặp lúc vị linh mục đang giảng về kinh Mân côi. Về nhà, nàng mua một cỗ
tràng hạt, và thỉnh thoảng cũng lần trộm vì sợ thiên hạ trông thấy và chê cười.
Ít lâu sau, nàng được Đức Mẹ ban ơn sốt sắng khi lần hạt. Rồi từ đó, nàng ăn
năn sám hối, làm lại cuộc đời, quyết tâm dâng mình cho Đức Mẹ, sống một cuộc
sống nghèo khó và nhân đức.
Có một thiếu phụ khác, thuộc gia đình
quí phái, chẳng may bị bệnh nặng và đang trong cơn hấp hối. Đức cha Dupanloup
được mời đến viếng thăm. Ngài nhận thấy bệnh nhân rất bình thản khi hỏi: Thưa
Đức cha, liệu con có được lên trời hay không? Cha hy vọng là có. Bệnh nhân đáp
lại: Còn con, con tin đó là một điều chắc chắn. Sao con có thể tin chắc chắn
như thế? Thưa Đức cha, từ nhỏ cho đến nay, mỗi ngày nhiều lần con đã kêu xin Mẹ
giúp con trong giờ lâm tử, lẽ nào Mẹ lại bỏ rơi con.
Qua những chứng tích sống động ấy, chúng
ta nhận thấy kinh Mân côi đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều cả về phần hồn lẫn phần
xác. Bởi đó từ xưa cho đến nay, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen
thuộc với người tín hữu.
Tuy nhiên, chúng ta phải lần hạt như thế
nào để việc đạo đức này thực sự đem lại những lợi ích cho bản thân chúng ta?
Tôi xin thưa vừa đọc, chúng ta vừa phải suy gẫm về những mầu nhiệm kinh Mân côi
đã gợi lên cho chúng ta, và nhất là chúng ta phải sống tinh thần kinh Mân côi,
thực hiện những nhân đức mà chúng ta van xin ở mỗi ngắm. Có như thế, kinh Mân
côi mới trở nên là như hơi thở của tâm hồn, cũng như trở nên là như những cánh
hồng tươi xinh dâng kính Mẹ, để Mẹ ban xuống cho bản thân chúng ta những ơn
lành hồn xác.
3. Kinh Mân Côi.
Hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về
kinh Mân Côi. Trước hết kinh Mân Côi là một việc đạo đức bắt nguồn từ Phúc
Âm.
Thực vậy, kinh Lạy Cha là
gì nếu không phải là lời kinh mà chính Chúa đã dạy cho các môn đệ. Còn kinh
Kính Mừng là gì nếu không phải là lặp lại lời chào của sứ thần Gabriel
và của bà Elisabet. Tất cả đều được rút ra từ Phúc Âm. Hơn thế nữa, chúng ta
còn sống lại trọn bộ Tin Mừng qua những mầu nhiệm của kinh Mân Côi. Đúng thế 20
mầu nhiệm làm một bản tóm lược Tin Mừng, trình bày cho chúng ta những giai đoạn
chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu từ khi nhập thể cho đến lúc về trời, cao điểm
của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Với
một nội dung như thế, kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc
trên môi trên miệng, mà còn là những đề tài suy gẫm. Đây là một việc làm hết
sức đơn giản. Chúng ta chỉ cần mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh mà
mỗi mầu nhiệm gợi lên, cũng giống như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Nó
không đòi buộc chúng ta phải suy gẫm từng lời chúng ta đọc hay dừng lại lâu giờ
nơi mỗi mầu nhiệm. Chẳng hạn chúng ta mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thánh
giá và chúng ta nghĩ đến những khổ đau chúng ta phải gánh chịu. Như thế mà thôi
cũng đã đủ lắm rồi. Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, chỉ đánh giá
theo những kết quả đã đạt được, nhưng Ngài còn là một người cha nhân từ thấu rõ
thiện chí của mỗi người chúng ta. Nói vậy không có nghĩa là xoá bỏ những con
đường dẫn chúng ta tới đỉnh cao trọn lành. Như thế kinh Mân Côi sẽ là một việc
đạo đức thích hợp cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, sẽ đem lại cho
chúng ta một nguồn nghị lực thiêng liêng.
Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo
đức luôn được Giáo Hội cổ võ.
Thực vậy các Đức Thánh Cha không ngừng
khuyến khích chúng ta siêng năng lần chuỗi. Đức Thánh Cha Piô IX khuyên chúng
ta lần hạt tại gia đình trong những giờ kinh tối sớm. Ngài nói: Kinh Mân Côi là
một kho tàng quý giá của Giáo Hội công giáo. Tiếp đó, Đức Thánh Cha Lêô XIII
còn đi xa hơn nữa và người ta đã dành cho ngài tước hiệu là Đức Thánh Cha của
kinh Mân Côi. Ngài đã công bố cả thảy 12 thông điệp và 8 văn kiện khác nữa bàn
về kinh Mân Côi. Chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi để thúc đẩy việc lần
chuỗi, cũng như đã thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắn nhủ: Nếu các con muốn cho gia đình mình được bình
an và hạnh phúc thì hãy lần chuỗi với nhau mỗi buổi tối. Đức Thánh Cha Piô XII
đã huấn dụ: Chúng ta khuyên nhủ những người cha, những người mẹ trong gia đình,
hãy tập cho con cái thói quen lần chuỗi, và ngay cả chúng ta nữa, chúng ta vẫn
lần chuỗi mỗi ngày. Năm 1951, trong một thông điệp, ngài đã tha thiết hêu gọi
những người công giáo hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng này để cầu xin những ơn
lành cho Giáo Hội và cho nhân loại. Chính ngài khi đã 80 tuổi, mặc dù bận rộn
nhiều công việc nhưng ngài đều lần chuỗi trước khi đi ngủ. Rồi gần đây, Đức
Thánh Cha Gioan XXIII, Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
cũng đều đề cao giá trị của kinh Mân Côi và khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng
lần chuỗi.
Để kết luận tôi xin kể lại mẫu gương của
thầy Peyton. Thầy bị bệnh nặng, các bác sĩ đều chịu thua, tuy nhiên trong âm
thầm mẹ thầy đã xin được chết thay cho thầy. Lời cầu xin được Đức Mẹ nhận lời,
thầy được bình phục và được thụ phong linh mục. Mẹ chết. Dành trọn cuộc sống để
loan truyền sứ điệp Fatima và kinh Mân Côi.
Với chúng ta cũng vậy, hãy dâng lên Mẹ
những lời kinh Mân Côi sốt sắng, để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ cho bản thân chúng
ta, gia đình chúng ta luôn mãi.
4. Này tôi là tôi tớ của Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
nhân dịp Kỷ niệm 95 năm ngày Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. 1917-2012)
Với lời thưa "Xin Vâng" của
Đức Mẹ, điều vô cùng kỳ diệu xẩy ra: Thiên Chúa đến ở với loài người. Thiên
Chúa vô hạn đến ở trong thân xác hữu hạn. Thiên Chúa vô thủy vô chung đi vào
lịch sử để trở nên có sinh có tử. Đây là đại hạnh của con người. Nhân loại khổ
đau có Thiên Chúa đến cùng chia sẻ nâng đỡ, chữa lành. Nhân loại đi trong đêm
tối có Thiên Chúa đến dẫn đường chỉ lối. Nhân loại bơ vơ có Thiên Chúa đồng
hành. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa không chỉ đến để đồng hành, để an ủi nhưng
Thiên Chúa còn đến biến đổi thân phận con người. Thư Galata cho biết Thiên Chúa
sinh làm con loài người để ta được nâng lên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa chịu
nghèo để ta được giầu có vì được thừa kế gia tài, được hưởng vinh phúc của
Thiên Chúa.
Những điều kỳ diệu ấy chỉ được thực hiện
nhờ thái độ của Đức Mẹ. Khi thưa với thiên thần: "Này tôi là tôi tớ của
Chúa", Đức Mẹ đã cộng tác trọn vẹn với Thiên Chúa để chương trình của
Thiên Chúa được thực hiện. Vào thời Đức Mẹ nô lệ có nghĩa là không có quyền gì
hết. Nô lệ hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chủ. Chủ có thể bán đi. Chủ có
quyền hành hạ, giết chết nô lệ mà không có tội trước pháp luật. Nô lệ không có
quyền sống cho mình, mà sống vì chủ, cho chủ. Khi xưng mình là "tôi
tớ", Đức Mẹ từ bỏ tự do, từ bỏ quyền sống của mình để hoàn toàn cho Thiên
Chúa sử dụng. Từ đó Chúa ở trong Đức Mẹ. Đức Mẹ đi đâu cũng có Chúa ở cùng. Vì
thế sự hiện diện của Đức Mẹ là hiện diện của Chúa. Đức Mẹ đi đến đâu là sinh ơn
phúc đến đấy. Đến thăm bà Isave đem ơn cứu độ cho thánh Gioan Baotixita khiến
thánh nhân nhảy mừng từ trong lòng mẹ. Đến tiệc cưới Cana làm cho đám cưới ngập
tràn niềm vui vì được thưởng thức thứ rượu ngon chưa bao giờ có.
Từ khi về trời Đức Mẹ vẫn tiếp tục viếng
thăm con cái trần gian. Lavang, Lộ đức, Fatima... không sao kể xiết những ơn
lành Chúa xuống qua tay Đức Mẹ. Tuy Lavang, Lộ đức đều là chứng tích việc Chúa
và Đức Mẹ đồng hành với con người trong những nỗi khổ đau. Nhưng Fatima mới tỏ
tường là nơi Chúa và Đức Mẹ can thiệp vào lịch sử nhân loại. Thực vậy vào tháng
5 năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ tiên báo nước Nga sẽ gieo rắc lạc thuyết vô thần
khắp thế giới. Đúng tháng 10 năm đó cách mạng vô sản nổ ra tại Nga và thế giới
bị chia đôi. Một nửa theo lý thuyết cộng sản vô thần gay khổ đau cho biết bao
người. Tuy nhiên Đức Mẹ cũng chỉ cho ta con đường thoát khỏi sự dữ này bằng
cách cầu nguyện cho nước Nga và tuân giữ 3 mệnh lệnh là : ăn năn sám hối, lần
hạt Mân Côi và tôn sùng đền tạ Trái Tim Đức Mẹ. Có thực hành lời Đức Mẹ dậy,
nhân loại mới thoát khỏi cơn thịnh nộ của Chúa, thế giới mới được hòa bình. Sứ
điệp Fatima quả đã đi vào lịch sử thế giới, hướng dẫn lịch sử thế giới và chữa
trị những vết thương của thế giới.
Nếu chương trình của Chúa cần có Đức Mẹ
"xin vâng", thì trong chương trình của Đức Mẹ cũng cần một người con
quảng đại dâng hiến toàn thân cho Đức Mẹ sử dụng. Người đó chính là Đức Cố Giáo
hoàng Gioan Phaolô II.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lòng
yêu mến Đức Mẹ nồng nàn. Ngài đã viết Tông huấn "Kinh Mân Côi" để tôn
vinh Đức Mẹ. Ngài là vị Giáo hoàng lần hạt chung với dân chúng. Ngài đã lập
thêm Năm Sự Sáng cho tràng chuỗi Mân Côi. Nhưng nhất là Ngài dâng hiến toàn
thân cho việc phụng sự Đức Mẹ. Khẩu hiệu của ngài là "Totus Tuus",
trích từ câu nói của thánh Louis Grignon de Monfort:Totus Tuus ego sum et omnia
mea Tua sunt (Con là tất cả của Mẹ và mọi sự của con đều là của Mẹ).
Ngài đã dâng nước Nga cho Đức Mẹ. Và đáp
lại Đức Mẹ đã thực hiện những lời hứa và những bí mật Fatima trong cuộc đời của
ngài. Việc nước Nga được ơn trở lại dưới triều Giáo hoàng của ngài là bằng
chứng rõ rệt nhất về lời hứa Fatima: "Trái Tim Mẹ Sẽ Thắng". Theo sau
nước Nga là các nước Đông Âu khác. Bản đồ thế giới được vẽ lại. Tình hình thế
giới đổi mới khác hẳn. Quả thật Chúa và Đức Mẹ đã can thiệp vào lịch sử thế
giới.
Tuy nhiên Đức Thánh Cha phải chịu đau
khổ. Và thị kiến chị Lucia thấy người áo trắng bị ám sát đã ứng nghiệm trong
đời ngài. Ngài bị bắn đúng ngày 13-5-1981. Tay thiện xạ Ali Agca đứng sát ngài
và nhắm bắn trúng chỗ hiểm. Nhưng ngài thoát chết trong gang tấc. Ngài biết Đức
Mẹ đã cứu ngài. Nên ngài đến hành hương Fatima tạ ơn Đức Mẹ và đặt đầu viên đạn
lên triều thiên Đức Mẹ để tôn vinh quyền phép của Đức Mẹ. Vết thương hành hạ
suốt đời đã biến cuộc đời ngài thành cuộc đền tạ Trái Tim Mẹ không ngưng nghỉ.
Đã 95 năm trôi qua kể từ ngày Đức mẹ
hiện ra tại Fatima, nhưng sứ điệp Fatima vẫn còn mang tính thời sự và cấp
thiết. Vì hiện nay biết bao lạc thuyết vẫn lan tràn gieo đau thương chết chóc
cho con người. Đức Mẹ vẫn luôn đồng hành với ta như Người đã cùng cầu nguyện
với các tông đồ trong nhà Tiệc ly. Đức Hồng Y Fulton Sheen diễn giải lời thiên
thần Gabriel: "Này cô Maria, cô có đồng ý đem xương thịt cho Con Thiên
Chúa không? Liệu Thiên Chúa có trở nên loài người qua thân xác của cô
không?". Hôm nay Đức Mẹ cũng hỏi ta: "Con có đồng ý cho ta thân xác
của con để ta hiện diện với các con, đồng hành với các con không". Nếu ta
đồng ý Đức Mẹ sẽ nhờ thân xác ta mà hiện diện trong thế giới, sẽ uốn nắn thế
giới và lịch sử sẽ thay đổi. Ta hãy noi gương ĐTC Gioan Phaolô thưa với Mẹ: Lạy
Mẹ, tất cả của con là của Mẹ, xin Mẹ hãy dùng con theo ý Mẹ để Thiên Chúa được
vinh danh và nhân loại được hạnh phúc. Amen.
5. Hoa Mân Côi – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Mỗi khi tháng Mười về, những người con
thảo của Đức Mẹ lại rộn ràng với những điệu vãn lời kinh để cùng tôn vinh Mẹ và
cùng Mẹ suy ngắm cuộc đời Chúa Cứu thế. Mỗi lời kinh "Ave Maria" được
sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với
chúng ta biết bao điều tốt đẹp.
"Vườn Rôsa bao quanh lái (trái)
đất,
Cảnh thiên nhiên thật rất diệu
huyền" (Ngắm Rôsa)
Vườn Rôsa trong câu thơ trên chính là
Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa được sánh ví như một vườn hoa rộng lớn mênh mông,
mà ở đó được trồng những cây hồng với muôn sắc hoa rực rỡ. Giáo Hội của Chúa
thật đẹp biết bao. Vẻ đẹp ấy không thể hiện nơi những tòa nhà cổ kính khang
trang kiến trúc cầu kỳ, mà là nơi những cộng đoàn tín hữu, nhất là khi họ hội
họp nhau để cử hành phụng vụ: tất cả cùng một đức tin, một tình mến, một tâm
hồn để tôn vinh và ca tụng Chúa. Vẻ đẹp của Giáo Hội được tỏa rạng từ nụ cười
móm mém của các lão ông lão bà, đến những gương mặt rất thơ ngây của các em nhỏ
trong những cuộc rước tôn vinh Chúa, Đức Mẹ hay các thánh. Vẻ đẹp của Giáo Hội
còn được thể hiện nơi những người cha người mẹ, nơi các bạn trẻ công giáo, được
thấm nhuần tinh thần Phúc âm, đang hăng hái nhiệt tình góp phần làm cho quê
hương đất nước thêm tươi đẹp. Những nụ cười, những tâm hồn hy sinh ấy chính là
những đóa hồng trong vườn Giáo Hội, làm cho Danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Lời "Vãn Mân Côi" cũng đưa
chúng ta về một thời của lịch sử Giáo Hội: vào thế kỷ 13, Giáo Hội gặp nhiều
khủng hoảng, nhất là từ những nguy cơ đến từ một bè lạc giáo có tên là
Albigeois ở miền nam nước Pháp. Năm 1213, Đức Mẹ đã hiện đến với Thánh Đaminh
và trao cho ngài một cỗ tràng hạt. Mẹ hứa, nếu các tín hữu siêng năng lần hạt
thì Giáo Hội sẽ được an bình trở lại. Thánh Đaminh vâng lời Đức Mẹ, nhiệt thành
kêu gọi mọi người đọc kinh Mân Côi và đúng như lời Đức Mẹ hứa, bè lạc giáo đã
tan rã và Giáo Hội được hưng thịnh. Chính từ biến cố lịch sử này mà Giáo Hội
được gọi là "vườn Rôsa" - vườn của những đóa hoa hồng, vì nhờ kinh
Mân Côi, Giáo Hội đã tìm lại được vẻ đẹp huy hoàng của mình. Ngày lễ Đức Mẹ Mân
Côi vào ngày 7-10 hằng năm cũng được Đức Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng
của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571.
Chiến thắng này có được là nhờ các tín hữu lần hạt Mân Côi trong ngày giao
chiến.
Một câu chuyện kể rằng Thánh Đaminh đã
có sáng kiến kết 150 bông hoa hồng thành một chuỗi dài, tượng trưng cho 150
thánh vịnh. Ngài đã dùng những cánh hồng thơm ngát, nén chặt như ép khuôn và
làm thành từng hạt hình tròn, nối liền với nhau thành một tràng hạt. Từ đó,
tràng hạt được gọi là chuỗi Mân Côi, tức chuỗi hoa hồng.
"Đức Bà như Hoa Hường (hồng) màu
nhiệm vậy" (Kinh cầu Đức Bà)
Trong vườn Rôsa, tức vườn Giáo Hội, có
một đóa hoa vượt trổi về màu sắc và hương thơm. Đóa hoa ấy mang tên là Maria.
Đức Maria vừa là Mẹ của Giáo Hội, đồng thời cũng là chi thể của Giáo Hội. Mẹ là
mẫu mực cho đời sống đức tin của các tín hữu. Nơi Mẹ, Giáo Hội chiêm ngưỡng
hình ảnh của mình trong tương lai. Mẹ diễn tả một hình ảnh không tỳ ố, không
vết nhơ của Giáo Hội. Mẹ là hy vọng của Giáo Hội đang vươn tới vinh quang rạng
rỡ như Mẹ.
Là Mẹ của Đức Giêsu, Mẹ cũng là Mẹ của
Giáo Hội. Bằng sự quan tâm hiền mẫu của mình, Mẹ luôn đỡ nâng chúng ta là môn
đệ của Đức Giêsu. Cũng như tại Cana ngày nao, Mẹ đang dặn dò chúng ta:
"Người bảo sao, các con hãy cứ làm như vậy" (Ga 2,5). Mẹ dạy chúng ta
phó thác nơi Chúa, như Mẹ đã kiên trung tín thác suốt đời, để Thánh ý của Chúa
được thực hiện, vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại.
Khi tôn vinh Đức Mẹ là Hoa Hồng, chúng
ta ca tụng quyền năng của Chúa đã tác tạo nên Mẹ, như một tạo vật hoàn hảo,
xứng đáng là ngai tòa cho Ngôi Lời nhập thể. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao siêu của
Mẹ, chúng ta nguyện ước noi gương Mẹ, trau dồi các nhân đức, mến Chúa yêu
người, luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
"Mỗi người là một cành hoa, cùng
đem về đây góp gió,
Làm thành vườn hoa, muôn màu muôn sắc
tươi xinh" (Lời một bài hát)
Mỗi chúng ta, khi sinh vào cuộc đời,
cũng giống như một loài hoa để tô điểm cho thế giới này tươi đẹp. Sự khác biệt
về tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa hay điều kiện kinh tế không phải là
những lý do gây mâu thuẫn, nhưng làm cho cuộc sống thêm phong phú. Thánh Têrêsa
Hài đồng Giêsu đã nhận mình là một loài hoa được Thiên Chúa chăm sóc yêu thương
một cách đặc biệt. Đã là hoa trong vườn, dù thuộc chủng loại nào, những bông
hoa đều cống hiến hương sắc cho đời. Con người cũng thế, dù trong bất cứ hoàn
cảnh nào, cũng có trách nhiệm góp phần làm cho cuộc sống thêm nhân ái hơn.
Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa.
Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa
đời sống chúng ta. Cuộc đời được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn. Những
ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến có vui buồn ấy, sẽ trở thành
môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Đức Mẹ đã thực hiện điều ấy và Mẹ đang mời gọi
chúng ta tiến bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Tràng hạt Mân Côi cũng tượng trưng cho
tình liên đới giữa con người với nhau. Là những đóa hoa trong vườn hoa cuộc
đời, chúng ta liên kết với nhau làm thành một chuỗi hoa hồng. Những
đóa-hoa-cuộc-đời được gắn liền với nhau bằng tình mến Chúa yêu người, làm cho
cuộc sống này thêm tươi đẹp và thi vị hơn.
Khi ước mong trở thành những đóa hồng
dâng kính Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng cần phải là một đóa hoa để trao tặng
cho nhau. Những nghĩa cử thân thiện, những lời động viên khích lệ hoặc sự chia
sẻ tinh thần vật chất mà chúng ta thực hiện xuất phát từ tình mến, đó chính là
những đóa hoa lòng mà chúng ta trao tặng cho nhau. Những đóa hoa ấy không tàn
phai theo thời gian, nhưng mãi mãi thắm sắc ngát hương, làm nên một cuộc sống
an bình. Đó là ý nghĩa của Kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày.
Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã nói:
"Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh
tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta
lặp lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người
chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh
ấy" (Tông thư Kinh Mân Côi).
Lạy Mẹ Mân Côi, xin chúc lành và hướng
dẫn chúng con trên mọi nẻo đường trần gian. Amen.
6. Xin Vâng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai
tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hai tiếng “Xin vâng” thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại
có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng “Xin vâng” có ảnh
hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho
loài người. Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng
thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người được hạnh phúc. Nhưng nếu
con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương
trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa.
Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa. Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý
riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng
phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu độ loài người
của Thiên Chúa nhờ hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ vọng lại
hai tiếng “Xin vâng” của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã
vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng “Xin vâng” với
Thiên thần, Đức Giêsu cũng nói “Xin vâng” với Đức Chúa Cha. Với hai tiếng “Xin
vâng”, Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng
“Xin vâng”, Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới cả
cuộc đời.
Hai tiếng “Xin vâng” nghe thật bé nhỏ,
khiêm tốn, những ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh
Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời Thánh vịnh: “Máu chiên
bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận. Thì này con đến để làm
theo ý Cha”. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé
nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết,
chết nhục nhã trên cây Thánh giá: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi
uống chén này. Những xin đừng làm theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi”.
Cũng vậy, khi nói tiếng “Xin vâng” với
Thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa.
Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn
chạy sang Ai cập. Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: “Một lưỡi gươm
sẽ đâm thấu tim bà”. Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường
truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ
nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng “Xin vâng” với
Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói “Không” với chính mình. Để một lần
nói “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói “Không”
với chính mình. Tiếng “Vâng” lớn thành hình nhờ những tiếng “Không” nhỏ bé. Ý
Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công nhờ những
hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương
trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu
ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được. Để chương trình
của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng “Xin vâng” với
Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương trình riêng
để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng khi vui. Hãy xin vâng khi
buồn.Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức
Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân
thập giá đau buồn. Xin Vâng từng giây phút trong cuộc đời. Khi chương trình của
Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người
chung quanh ta.
Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng XIN VÂNG
như Mẹ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ có
ảnh hưởng thế nào đến chương trình của Thiên Chúa?
2- Hai tiếng “Xin vâng” Đức Mẹ có ảnh
hưởng thế nào đến cuộc đời của Đức Mẹ.
3- Chúa Giêsu đã sống lời “Xin vâng” thế
nào?
4- Ta phải làm gì để chương trình của
Chúa nơi ta được thực hiện”
7. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính
Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một
gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20
mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này,
đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4
năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt
vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt
Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống
Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng
giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy
ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Ma-ri-a, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu
sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở
nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu
độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố
truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Ma-ri-a nói chung, theo
như tác giả Lu-ca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân
cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân
này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của
Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư
cách một Ki-tô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và
xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm
cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi
thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với
đức Ma-ri-a, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui,
những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn,
những đổ vỡ..., những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những
kỳ vọng hay hoài bão…
Đối với một Ki-tô hữu như tôi, tất cả
mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình
yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Ki-tô hữu, sẽ không chỉ
có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng
lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Ki-tô hữu cần
làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ.
Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Ma-ri-a sống như thế. Mẹ đã
‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51).
Ma-ri-a đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và
sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình
và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở
thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá
trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện
sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến
cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi
không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại
tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ
của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống
Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt
tới một cuộc sống Ki-tô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi
ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi - không
theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn - nhưng ngày càng thâm
tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại)
không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn
trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi
cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn
tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con
sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi
tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được
nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa - nhân lành, không có gì là không thể làm
được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường
Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
8. Phương thuốc thần diệu – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Mọi tội lỗi của con người đều do một cội
rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người là
A-đam và E-và bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết,
để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời sau... là vì hai ông bà đã không vâng
lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Sự bất tuân nầy cũng giống như
tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy, cả đoàn
tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực thẳm. "Thật vậy, vì một người
duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân..."
(Rôma 5, 19)
Vậy muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi
đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên
gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên Chúa.
Tràng chuỗi Mân Côi được xem là phương
thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi Mân Côi dạy
ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
* Gương Vâng Phục Của Mẹ Maria
Lắm khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi
hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.
Khi đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa
chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn Thiên Chúa lo liệu cho
chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng
ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thành công;
khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy túi...
Nếu Thiên Chúa không mau mắn nghe lời
chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ đạo, có khi chúng ta
hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ...
Thế nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa
đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình
là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa điều gì mà chỉ biết vâng
theo lệnh Chúa truyền. "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi
như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua
mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn
của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn
vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng)
rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Gương Vâng Phục Của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ
Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn
xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22,
44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà làm
theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải
chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu
đựng và xin thưa với Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một
thứ 'vương miện', chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo
cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng chịu đựng và xin
thưa với Cha: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải
vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn
nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn xin vâng:
"Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu
chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại
thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và
xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)
Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ năm
thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa Giêsu. Tấm
lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh Phaolô khắc hoạ lại trong bài ca gửi
tín hữu Philíp:
"Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu
chết,
chết trên cây thập tự..." (Philíp 2, 6-8)
Sự vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa
Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống
lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn
Chúa Giêsu vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban
cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt
đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư
mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy
nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ
một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ
thành người công chính.(Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi chứa đựng bài học
vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ tận gốc
cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa; vâng lời là phương thế giúp
con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa nhân loại về cõi trời.
Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ
Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước
gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để diệt trừ tận căn mầm mống
tội lỗi ngay trong lòng mình.
9. Lá sầu riêng – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao
cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế
nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi
nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất
nhiều về những hy sinh của mẹ như:
"Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn".
Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ
cũng quặn đau vì con:
"Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi".
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện
"Lá sầu riêng" của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu
chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh
phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với
cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của
đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà
tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng
trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa
đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và
chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo
cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con
nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con
không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó
sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt
nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên
trong tiếng nấc nghẹn ngào: "Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục
kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng
xua đuổi mẹ hở con?".
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng
quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên
quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ
thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ.
Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta
hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây
thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm
mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao
bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc
chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên
cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của
chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con.
Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn
con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: "Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ
- Năm canh dài thức trọn năm canh".
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm
mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi
Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an
nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa
con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau
khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà
đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản "lá sầu riêng" đang diễn tả nỗi
lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: "Con ơi!
Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ?
Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao?
Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và
để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con".
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra
tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng
ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng
tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta
lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.
10. Lễ Mẹ Mân Côi.
"Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được
đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt
tên trẻ ấy là Giêsu" (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh
Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó
là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng
thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính Mừng Maria, Hãy Vui
Lên".
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa:
"Hỡi Maria, hãy vui lên", vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như
vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để
thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta
chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm
tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
"Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước", vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn
thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: "Đây là
tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng" (Is 42,1). Mẹ
được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ
Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước
niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc
khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu
chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca
trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: "Linh
hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu
ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà". Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia
loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng
Bà". Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được
hay tin Đấng là: "Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Mẹ vui mừng
vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính
cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì
Ngài đã đến ở với nhân loại.
"Hỡi Maria đừng sợ". Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính
mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ
còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một
điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những
ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm
với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta
cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: "Vui và Sợ". Mẹ Maria nhờ ơn
Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong
Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ
thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc
tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan
kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn
Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức
Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng
con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với
chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ,
Đấng "Đầy Ơn Phước", Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để
giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng
với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết
sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn
sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc
sống hằng ngày của chúng con. Amen.
11. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi.
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà –
Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Mọi tội lỗi của loài người đều do một
cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông
loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường
lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải
chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi
trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu
là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. "Thật vậy, vì một
người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội
nhân..." (Rm 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư
vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn
tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là "đầu tàu" nầy:
"Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà
muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng
lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính". (Rm 5, 19)
Tràng chuổi Mân Côi chính là một lời
động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo
con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc
muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của
Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của
mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại
những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên
Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội
dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ
của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của
Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần
Gabrien trong ngày truyền tin rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa
cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy
chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn
của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho
Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi
lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự
mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ
Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn
xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca
22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà
làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù
phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng
chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: "Xin cho ý Cha thể
hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một
thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng,
nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén
đắng Cha trao: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải
vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn
cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn
đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: "Xin đừng theo ý Con, mà xin
theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu
chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại
thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và
xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu
rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và
lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu
vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người
một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt
đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư
mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy
nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ
một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ
thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi
chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý
Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và
cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa
Giêsu dạy: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! "
là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng
ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
12. Đức Chúa Ở Cùng Bà – Lm. Nguyễn Cao Siêu.
Suy Niệm
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng
thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an để
chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền
tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc
biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình
thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế,
nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân
phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương được tẩy
xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên
Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng
Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang
Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện
diện giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh
mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng và
được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1,
42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và
cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có
phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa
và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình
đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc: "Phúc cho ai không
thấy mà tin" (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn
mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách
tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực
thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra
Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài: "Mẹ tôi và anh
em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống,
chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay. Ngài vẫn cần những người mẹ để
có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách
viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ
lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có
biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và
lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là
Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức
tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào
chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh
Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và
đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối
cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm
thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường
mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn
tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên
Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến
gặp gỡ Thiên Chúa.
13. Mẹ Đầy Ơn Phước – R. Veritas.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh
nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng
cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta
tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần
Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính mừng Maria, hãy vui lên,
Maria". Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên
vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được,
khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo
hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúc Mẹ Maria qua kinh Kính
Mừng "Kính Mừng Maria đầy ơn phước" chúng ta tham dự vào niềm vui và
niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn
về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương
42 câu 1: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được
đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa". Mẹ
Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm
trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu
được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn
lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung
thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà", Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước
về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều
mang một ý nghĩa sâu xa. "Thiên Chúa ở cùng Bà", giây phút quan trọng
nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại
Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui
mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự
hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm
tạ Thiên Chúa.
"Hỡi Maria, đừng sợ", kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính
mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên
Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa
thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên
Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một
niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời
Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ
Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào
Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự
vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi
của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay,
chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
"Lạy Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ
khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa
cứu rỗi chúng con,
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng
con".
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện
của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria,
chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của
Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng
con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống
trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống
trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng
con.
14. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
HỌC SỐNG KHIÊM NHƯỜNG VỚI CHÚA QUA KINH
MÂN CÔI.
Để cho kinh Mân Côi thực sự là một
phương thế giúp ta nên thánh, cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm
và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân
Côi.
Trong những lần hiện ra, Mẹ Maria thường
cầm tràng hạt trên tay. Khi hiện ra với ba trẻ ở Fatima, Mẹ còn lần hạt với ba
trẻ tại đó. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng như nhiều vị giáo hoàng khác
rất siêng năng lần hạt và kêu gọi tín hữu năm châu sốt sắng lần hạt hằng ngày.
Như thế, Mẹ Maria cũng như Hội Thánh luôn khuyến khích chúng ta lần hạt vì Kinh
Mân Côi là một phương thế giúp cho người ta nên thánh.
Nhưng để cho kinh Mân Côi thực sự là một
phương thế giúp ta nên thánh, thì chỉ đọc suông ngoài miệng không đủ, mà cần
phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa
Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Giờ đây, chúng ta cùng chiêm ngắm lòng
khiêm nhường sâu thẳm của Ngôi Hai Thiên Chúa qua Kinh Mân Côi.
Gương khiêm nhường của Ngôi Hai Thiên
Chúa nổi bật trong những phần suy gẫm sau đây:
- Gẫm thứ nhất năm sự vui: Ngay khi Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa
Ngôi Hai là Đấng cao sang quyền phép đã chấp nhận hóa thân thành một phôi thai
nhỏ, chỉ bằng hạt cát thôi, nằm trong tử cung của Mẹ Maria để chờ ngày được
sinh ra làm người. Một Thiên Chúa cao sang là Chúa Tể trời đất mà lại hạ mình
đến thế thì tôi là ai mà dám nhắc mình lên cao!
- Gẫm thứ ba năm sự Vui: Khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu trong hang đá, Thiên Chúa
Ngôi Hai là Vua Trời đầy quyền uy phép tắc hiển trị trên các tầng trời đã chấp
nhận chọn hang bò lừa làm nơi nương náu, chọn máng súc vật làm nôi để đến ở
cùng nhân loại. Hạ mình và khiêm nhường như vậy là hết mức, không thể hạ mình
sâu hơn được nữa.
- Gẫm thứ nhất trong năm sự Sáng: Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan; Chúa
Giêsu là Thiên Chúa hoàn toàn vô tội, ngàn trùng chí thánh, vậy mà Người chấp
nhận hòa mình với những người tội lỗi bên bờ sông Gio-đan, xếp hàng đứng chung
với những người tội lỗi, những tay đâm thuê chém mướn, những cô gái điếm, những
gã côn đồ… để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan,
cúi mình xuống để cho Gioan làm phép rửa cho. Đấng không hề biết tội là gì lại
khiêm nhường cúi mình nhận tội, còn tôi thì cứ cho mình vô tội và tìm mọi cách
trút tội lên đầu người khác.
- Và đặc biệt là trong năm sự Thương, chúng ta thấy nổi lên hình ảnh Chúa Giêsu quá đỗi
khiêm nhường khi Người tự xóa mình đi, trở thành tên tử tội, để cho người ta
hành hạ Người đủ cách cho đến chết.
- Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Chúa tốt lành thánh thiện vô cùng nhưng lại bị đưa ra
tòa xét xử như một tên gian phi, bị vu cáo, bị khạc nhổ vào mặt, bị đánh đòn
tan nát thân mình mà vẫn khiêm nhường chịu đựng chẳng hé môi kêu trách hay phản
kháng.
- Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Thay vì đội mão triều thiên vinh hiển của các bậc vua
chúa cao sang, Chúa Giêsu chịu đội vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu, để cho người
ta sỉ nhục nhạo cười mà không hận thù hay oán trách. Khiêm nhường hạ mình đến
thế thật là hết mức.
- Chúa Giêsu vác thập giá: Là Chúa Tể trời đất, lẽ ra Chúa Giêsu bắt mọi người
quy phục mình, nhưng trái lại, trên chặng đường thương khó, Chúa để cho quân
lính chế ngự Người, bắt Người vác thập giá lảo đảo tiến lên pháp trường theo
lệnh truyền và những lời quát tháo của những tên lính hung hăng. Chúa Tể trời
đất đã khiêm nhường chịu thua hết thảy mọi người và để mặc cho người ta hành
hạ.
- Chúa chết trên thập giá: Cuối cùng, tuy là Chúa Tể càn khôn, Chúa chịu để cho
quân lính lột áo ra, đóng đinh tay chân Người vào thập giá và bị treo thân trên
thập giá giữa hai tên đạo tặc, chia chung án chết với những kẻ côn đồ. Dù bị
hành hạ đến mức nào đi nữa, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường chịu mọi nhục hình cho
đến chết.
Kiêu ngạo là đầu mối, là nguồn mạch phát
sinh nhiều tội lỗi, là một trong bảy mối tội đầu; còn khiêm nhường là nhân đức
cao vời và là liều thuốc thần diệu cứu con người khỏi kiêu căng tự mãn. Ước chi
mỗi lần đọc Kinh Mân Côi, chúng ta biết nhìn ngắm tấm gương khiêm nhường sâu thẳm
của Chúa Giêsu, học sống khiêm nhường như Chúa để nhờ đó, chúng ta triệt bỏ
được tính kiêu căng và làm cho đời sống mình trở nên cao đẹp và giống Chúa hơn.
15. Tại sao chúng ta đọc Kinh Mân Côi
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Kính thưa cộng đoàn, Trên các trang mạng
công giáo ngày hôm nay, cách riêng trang mạng của HĐGMVN, người ta thấy xuất
hiện một lá thư của Hội đồng gửi đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa Việt Nam. Bức
thư ấy cho biết nỗ lực làm việc của Đại hội XI mới kết thúc hôm qua, tập trung
vào tài liệu làm việc dành cho đại hội dân Chúa sẽ được qui tụ vào cuối tháng
11. Ở cuối bức thư, có xin toàn thể mọi người bằng kinh Mân Côi, hãy cầu nguyện
cho Đại hội đem lại những thành quả tích cực.
Tại sao xin cầu nguyện mà lại cầu nguyện
bằng kinh Mân Côi? Có lẽ vì lý do thực tế bức thư được viết vào lễ Đức Mẹ Mân
Côi, bức thư được viết vào tháng Mân Côi. Nhưng bên trong, HĐGMVN muốn kêu gọi
toàn thể dân Chúa vốn là dân vẫn yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, vẫn yêu mến tràng
hạt Mân Côi, hãy bằng chính tràng hạt Mân Côi ký thác Đại hội dân Chúa tháng 11
này cho Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một tình cảm rất đậm đà, mà cũng là nhiều gợi
ý cho chúng tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn trong thánh lễ sáng nay về kinh Mân
Côi trong nhãn giới mầu nhiệm hiệp thông và sứ vụ.
I. Trước hết, thưa cộng đoàn, kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm ai trong
chúng ta cũng biết từ thưở còn tấm bé, vẫn nghe nói đến và sướng lên những mầu
nhiệm Mân Côi. Ngày xưa là 15 mầu nhiệm, nhưng hôm nay là 20: Vui, Sáng, Thương,
Mừng đầy đủ. Mỗi một sự kiện được xướng lên, mệnh danh là một mầu nhiệm trong
tâm tình kinh đọc.
Nhưng cùng với Đức Maria và trong Đức
Maria, người ta thấy những mầu nhiệm ấy cũng thoát lên cả một sức sống mầu
nhiệm mà Đức Trinh Nữ Maria cá nhân đã được dẫn dắt vào, và mở ra cho cộng đoàn
Giáo Hội cả một sức sống rộng dài lịch sử cứu rỗi hôm qua cho đến hôm nay, và
còn mãi ngàn sau.
Chỉ xin đan cử mầu nhiệm Truyền Tin
trong Tin Mừng hôm nay vừa gợi lên, cũng là ngắm thứ nhất Mùa Vui. Cộng đoàn
chúng ta cũng thấy là cả một mầu nhiệm tuyển chọn Thiên Chúa dành cho Đức
Maria. Nếu như trong Tin mừng hôm nay có tô đậm lời chào của Thiên sứ Gabrien
dành cho Đức Mẹ trong buổi Truyền Tin với một danh xưng tuyệt vời, nằm mơ cũng
không thấy, đó là danh xưng Đấng Đầy Ơn Phúc. Một danh xưng họa hiếm trong
Thánh Kinh, và cũng là một danh xưng nói lên cả một mầu nhiệm sự sống Thiên
Chúa tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria, để thông qua Mẹ tuôn đổ xuống tất cả mọi
người. Ông bà anh chị em cứ nghĩ mà xem, trước đó Đức Maria chưa là gì. Thế
nhưng, kể từ buổi Truyền Tin, cách riêng với lời chào Đấng Đầy Ơn Phước, Mẹ đã
trở nên một nhân vật không thể thiếu được, và cũng là nhân vật mẫu gương, nhân
vật điển hình, hay nói theo kiểu ngày hôm nay, Mẹ là người mẫu để khởi đi từ đó
mở ra một nhãn giới sự sống mầu nhiệm cho toàn thể Hội Thánh.
Mẹ được tuyển chọn trong mầu nhiệm mà
ngày hôm nay chúng ta gọi là mầu nhiệm Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ cũng được tuyển
chọn trong mầu nhiệm đồng trinh khi thụ thai, và cũng là mầu nhiệm tuyển chọn
khi Mẹ cung cấp chất liệu xác thân của mình cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống
đồng hành làm người trong cuộc sống nhân lọai. Ở đây, Mẹ chính là Mẹ Thiên
Chúa. Và mầu nhiệm của tháng 8 vừa qua chúng ta cử hành, mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác
Lên Trời, tất cả đều quyện lại trong một sự sống, sự sống Thiên Chúa đã ban cho
Mẹ trong mầu nhiệm tuyển chọn, để rồi với hình mẫu ấy, tất cả mọi tín hữu đều
gắn bó với Mẹ, đi theo bước đường Mẹ đã đi, cũng được tháp nhập vào trong sự
sống của Đức Kitô, để đến với sự sống của Thiên Chúa, vốn là sự sống hồng ân
Chúa dành cho tất cả mọi người.
Vâng, mầu nhiệm không phải là cái gì đơn
thuần mình nghĩ là vượt quá tầm hiểu biết, có tin cũng không đạt được. Mà mầu
nhiệm ở đây trước hết xin hiểu là một sự sống mênh mông trong đó mỗi người chúng
ta được dìu dắt đến và cứ như vậy, như biển cả, như đại dương, càng ngụp lặn
đến thỏa thích, mà vẫn không bao giờ no thỏa cơn khát của tấm lòng. Bằng kinh
Mân Côi, Đức Maria đã dẫn chúng ta vào tất cả những mầu nhiệm từ ân tuyển chọn
cho đến thông qua Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu độ, và
còn mở ra cho tương lai của hậu thế của mọi người chúng ta trong Đức Kitô. Đó
là mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa trao gửi cho con người, ban tặng cho con người,
và làm sao mỗi người khi đọc kinh Mân Côi, cũng để cho chính mầu nhiệm sự sống
ấy được triển nở lên trong cuộc đời riêng của mình cũng như trong cộng đoàn mà
mình là thành phần.
Kết thúc mấy ngày đại hội vừa qua, các
Giám mục chúng tôi được mời tra lại sức khỏe, ở đó có việc thử máu, cũng như
các Linh mục của các giáo phận nước Việt Nam trong năm vừa qua cũng được mời để
làm như thế. Kết quả là Giám mục nào cũng khám phá ra được điều gì đó trong vận
hành máu huyết của mình không phù hợp lắm với chính bước đi của mình hôm nay.
Có những lắng lo, và bên cạnh đó cũng có những vui mừng khi ai đó khám phá ra
mình hôm nay vẫn còn khỏe mạnh cho dẫu đã ở tuổi 65 hoặc 70. Quan sát như thế
và cũng chia sẻ với nhau ưu tư một chút về vấn đề ấy, chúng tôi trộm nghĩ mỗi
một tín hữu, từ Giám mục cho đến mọi người giáo dân, ắt hẳn ai cũng khám phá
trong máu huyết của mình có một sức sống. Sức sống ấy không được ý tự, sức sống
có thử máu cũng không tìm ra. Nhưng sức sống ai cũng cảm nghiệm được, cũng nhận
thấy, đó là sức sống Kitô nơi chính máu huyết của mình, bất kể đó là những loại
máu A, B, C, D,… Nhưng ở đây, là Kitô hữu, chúng ta mang dòng máu Kitô. Dòng
máu ấy chỉ được thử nghiệm trong tình yêu thật với Đức Kitô và cách riêng bằng
tràng hạt Mân Côi. Vào dịp này, ta sẽ nghiệm được đó là mầu nhiệm dàn trải và
mời gọi mỗi người chúng ta đón nhận cũng như sống lấy. Vâng, đó là khía cạnh
trước hết trong nhãn giới mầu nhiệm.
II. Khía cạnh thứ hai chia sẻ với cộng đoàn, bằng kinh Mân Côi, người ta cũng
nhận ra khía cạnh hiệp thông trong đời sống tín hữu. Nếu như phần đầu của từng
mầu nhiệm Mân Côi, theo như thói quen chúng ta vẫn đọc. Ví dụ ngắm thứ nhất Mùa
Vui Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ,…, và phần sau là Ta hãy xin cho được
khiêm nhường. Phần sau này chính là tâm tình hiệp thông của tất cả mọi tín hữu,
của từng cá nhân, khởi đi từ mầu nhiệm mình gẫm suy, cũng như của từng cộng
đoàn gắn bó nhịp sống của mình với mầu nhiệm mà mình đang suy tưởng. Ở đây là
một sự nối kết giữa mầu nhiệm sự sống với hành trình sự sống của mỗi người
trong tinh thần hiệp thông. Chính nhãn giới hiệp thông này, ta gặp thấy trọn
vẹn đời sống của mình được dàn trải ra từ những ngóc ngách của suy tư, cho đến
những lối ngõ của hành động. Ở đó, đâu đâu cũng có sự đồng hành của Đức Trinh
Nữ Maria. Cộng đoàn cứ thử nghĩ mà xem, trong ngày thăm viếng, Đức Maria đã làm
gì. Ngài không đến để chia sẻ, để niềm vui của Mẹ được hiệp thông với Bà Isave,
mà cuối cùng là bừng vỡ lên niềm vui của hai thai nhi, hai bà bầu trẻ và trọng
tuổi hơn gặp nhau, làm cho hai thai nhi cũng gặp gỡ. Rốt cuộc, phát tỏa trong
điệu nhảy niềm vui của Gioan Baotixita, nhảy hôm qua cho đến hôm nay và ngàn
đời vẫn cứ tiếp tục nhảy.
Trong lịch sử của âm nhạc, có nhiều điệu
nhảy kết thúc bằng chữ A, điệu nhảy Chachacha hay Lămbada… Vì thế, đây cũng có
thể gọi là điệu nhảy Gioan Baotixita, để tất cả mọi người trong mầu nhiệm ấy
được hiệp thông niềm vui của mình, làm sao cho kinh đọc, cho suy tưởng, và cho
đời sống của mình cũng vươn lên trong những điệu nhảy của tấm lòng, điệu nhảy
niềm vui, sẻ chia. Và rồi còn nhiều mầu nhiệm khác trong 15 hoặc là 20 ngắm Mân
Côi, người ta cũng thấy Đức Trinh Nữ Maria ở đó khuôn mẫu cho tình hiệp thông
gắn bó. Gắn bó với đối tượng mà Mẹ tìm đến gặp gỡ, cũng như gắn bó trong nhãn
giới của Hội Thánh hôm nay. Đây là một niềm vui không bao giờ chấm dứt.
Ngày hôm nay, cộng đoàn của mỗi người
chúng ta cử hành lễ Mân Côi, được nhìn trong nhãn giới hiệp thông. Hiệp thông
của từng người với nhau làm thành niềm vui lớn đã đành, nhưng còn là niềm vui
hiệp thông cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho Hội Thánh hiệp thông
với Đức Trinh Nữ Maria. Đó là nhãn giới thứ hai, nhãn giới hiệp thông. Và gắn
với liền đó là mênh mông bao là những biến cố cũng như tâm tình mà cộng đoàn có
thể gắn bó tiếp nối vào đó mà tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.
III. Nhãn giới thứ ba chính là nhãn giới sứ vụ. Bản chất của Giáo Hội là truyền
giáo. Không phải vì có Giáo Hội, rồi mới có sứ vụ truyền giáo. Nhưng bởi vì đã
có lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu trao cho các tông đồ, thế nên phải thành lập
một tổ chức để thi hành, đó chính là Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh từ lệnh
truyền truyền giáo của Đấng Phục Sinh, và khởi đi từ đó, tất cả những ai biết
mình là thành viên của Giáo Hội luôn luôn canh cánh bên lòng, từ ước vọng cho
đến thao thức, và thể hiện ra qua những công việc truyền giáo cụ thể mình thực
hiện được tại địa bàn dân cư mà mình là thành phần. Nói một cách vắn gọn, sứ vụ
ở đây có nghĩa là mình đã hiệp thông với mầu nhiệm sự sống, mình đã đáp ứng
bằng nhịp sống cá nhân làm thành niểm vui, thì tới phiên mình, trong tư cách là
thành viên của Hội Thánh, mình cũng trao gửi, mình cũng sẻ chia niềm vui ấy cho
tất cả những ai mình gặp gỡ. Có thể là những người chưa biết đến đạo giáo, có
thể là những người năm nào đó đã biết rồi, đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đã là
Kitô hữu rồi, nhưng đã bị lớp bùn thời gian và nếp sống của họ phủ lên chính
lòng tin. Vì vậy, khi mình trao gửi niềm vui, khi mình chia sẻ lại ơn mình lãnh
nhận được, mình mời gọi họ bước vào nẻo đường tạ ơn. Đó cũng chính là lúc mình
đang sống tinh thần sứ vụ của Hội Thánh.
Kinh Mân Côi là một kinh mở ra cho mỗi
tín hữu nhãn giới sứ vụ ấy. Nếu như trong biến cố thăm viếng, Đức Maria đã bước
chân trong sứ vụ vượt qua nẻo đường cả một trăm kilômét, không biết bằng đi bộ
hay ngồi trên lưng lừa, nhưng Mẹ đã vượt nẻo đường xa để chia sẻ niềm vui với
một người chị em trọng tuổi hơn mình. Hay là trong năm sự sáng, Đức Maria hiện
diện tại đám cưới Cana, Mẹ đã đôn đáo, mới đầu chỉ như một thông tin cỏn con
dành cho người con thân yêu của mình họ hết rượu rồi, để rồi sau đó ngược xuôi,
chạy đi chạy lại đôn đáo, làm sao cho hòa cùng vào một nhịp. Nhất là giải quyết
được vấn đề - rượu được tràn đầy và niềm vui của đám cưới được diễn tả ra.
Không mất danh dự của đám cưới, mà còn khơi thêm niềm vui, cách riêng khơi thêm
niềm tin cho các môn đệ đầu tiên tìm theo Chúa Giêsu. Rõ ràng, trong biến cố
ấy, Đức Maria là hình mẫu của con người sứ vụ, để rồi hôm nay, mỗi người chúng
ta qua Kinh Mân Côi cũng khám phá lại được tiếng gọi sứ vụ đang thúc đẩy chúng
ta đến với tất cả những anh chị em xung quanh mình. Bất luận bằng một lời kinh,
bằng một tâm tình chia sẻ, bằng một lời nói ủi an. Rõ hơn nữa, bằng một cử chỉ
gì đó giúp đỡ, Vâng, chỉ xin thâu tóm lại trong nhãn giới ấy, nhãn giới mầu
nhiệm, nhãn giới hiệp thông, nhãn giới sứ vụ của kinh Mân Côi.
Trong dịp cử hành thánh lễ Mân Côi cùng
với cộng đoàn đây. Trong niềm vui cảm tạ khơi lên cùng với HĐGMVN lời chia sẻ
dành cho cộng đoàn dân Chúa – hãy yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy cầu nguyện
bằng tràng hạt Mân Côi, và hãy thả vào đó tất cả tâm tình của mình. Một mặt để
nhận được sức sống mầu nhiệm Thiên Chúa gửi trao, và một mặt khác, chính mình
cũng nhận ra sức sống ấy trong từng nhịp sống, trong từng lời kinh của mình.
Một khi đã nhận được như vậy, chính mình trở thành tông đồ sẻ chia cho những người
xung quanh.
Xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ
Maria Mân Côi, mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ đây, cho mỗi người tín
hữu chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi.
Trước đây đã yêu rồi, đã lần hạt nhiều lần rồi, nhưng ta thử đọc lại bằng một
tâm tình, một tâm tình mới mà HĐGM mời gọi ấy, để thấy được rằng cả một sức
sống nhiệm mầu, hiệp thông, và sứ vụ đang ùa vào tâm hồn mỗi người chúng ta.
Xin kết thúc bằng một vần thơ nhỏ:
Gửi em một chục Mân Côi
Để em sớm tối học lời cầu kinh
Mẹ trên cao sẽ thương tình
Cho em hạnh phúc, gia đình an vui.
Gia đình đây là cộng đoàn. Gia đình đây
là gia đình riêng của mỗi người. Gia đình đây cũng là tập thể giáo xứ, là giáo
phận, là đất nước, là tất cả mọi người chúng ta.
Xin Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi ban muôn
ơn lành xuống trên tất cả mọi người. Amen.
16. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu.
(Trích trong ‘Từng Bước Một Thôi’ – ĐGM.
Vũ Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần
xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô
II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi
cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp
mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân
cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh
kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần
là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican
II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho
hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào,
nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức
Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức
Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống
cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt
kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu
bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng
có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh
Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm
là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành
lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người.
Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria
là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm
giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu
nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu
và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau
xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì
Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng
giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với
người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ
là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa
Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp
dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu
trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự
Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong
Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất
gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống,
sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu
sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc
Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa
Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp
người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc
đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là
Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ
trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ
và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm
suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng
phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết
cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng
thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng
hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật
diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người
người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh
Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên
gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi
của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh
nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ
hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981
kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói
bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác
thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập
tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là
một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ
và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm
ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh
nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo
điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ
nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn
định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu
thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui
đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính
là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh
hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác
gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói
của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ
tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với
cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết
tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an
hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là
từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
17. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng.
(Trích trong ‘Với cả tâm tình’ – ĐGM. Vũ
Duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận
chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức
Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công
Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương
yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante,
với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ
đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo
ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó
danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối,
hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung
Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên
sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm
nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho
mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở
phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng
không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng
“Xin Vâng”.
“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn
rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin
Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình
đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần
dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một
lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc
của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt
ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường,
chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm
nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi
phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng
của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria
trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính
mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của
Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng
“Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho
chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra
độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước
là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ
Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận
người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh
Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội
dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong
đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng
những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn
đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng
Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót
xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo
Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có
tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức
để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu
như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin
“Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày
cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ
chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho
lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua
Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ
hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh,
và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về
một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và
cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người
con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến
thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ
Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ
Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì
thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín
hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận
mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng
định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để
thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu
yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một
vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối,
Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất
hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh
Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro
tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ
Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn
đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của
mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối
cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi
là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp,
thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài
Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng:
thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho
chúng con. Amen.
18. Kinh Mân Côi và Giáo Hội.
Kinh Mân côi là một việc đạo đức của
Giáo hội Công giáo.
Thực vậy, trước hết các Đức Giáo Hoàng,
nhất là các Đức Giáo Hoàng gần đây nhất, đã không ngừng kêu gọi chúng ta hãy
siêng năng lần chuỗi, nơi mỗi cá nhân cũng như trong các gia đình.
Chẳng hạn Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên
nhủ chúng ta hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình. Cũng chính ngài đã xác
định:
- Kinh Mân côi là một kho tàng quý giá
nhất của Giáo hội.
Tiếp đến Đức Thánh Cha Lêô XIII đã nhấn
mạnh đến sự cần thiết phải lần hạt, và người ta đã gọi ngài là vị Giáo Hoàng
của kinh Mân côi. Ngài đã xuất bản khoảng 12 thông điệp nói về Kinh Mân Côi, ấy
là không kể đến 8 văn kiện khác nữa, chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi và
thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo chúng
ta:
- Nếu các con muốn cho gia đình được
bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI cũng đồng quan điểm
ấy khi ngài viết:
- Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm
mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ
chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng
tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII cũng đã khuyên nhủ
các bạn trẻ:
- Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân
côi.
Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh
Mân côi, ngài xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong
một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:
- Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu
nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa
đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII, ngay trong
năm đầu của triều đại, ngài cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Xem đó chúng ta thấy các Đức Thánh Cha
đều nhất trí về sự tuyệt hảo của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy
siêng năng lần chuỗi.
Và các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi
khẩn thiết ấy. Từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, đâu đâu người ta cũng lần
chuỗi. Tôi xin kể lại mẫu gương của thày Patrick Peyton.
Thày là một đại chủng sinh bị đau yếu
trầm trọng. Các bác sĩ đều bó tay. Trong âm thầm, mẹ thày đã cầu nguyện và xin
được chết thay cho thày. Và sự thực đã xảy ra. Người mẹ chết và thày được sống.
Sau khi thụ phong linh mục và để tạ ơn Đức Mẹ, thày đã dâng hiến trọn cuộc đời
cho việc loan truyền sứ điệp Fatima bằngcách thành lập một tu hội với lời dốc
quyết lần chuỗi mỗi ngày. Tu hội này ngày nay có trên mười triệu người gia
nhập. Họ thường đọc kinh chung với những người khác trong nhà thờ, nơi xưởng
thợ và trong những môi trường khác nhau.
Có những trường đại học bên Mỹ vẫn lần
chuỗi mỗi ngày để cầu cho những người tội lỗi ăn năn. Có những chương trình lần
chuỗi trên truyền thanh, truyền hình vào những giờ giấc nhất định, để những
người Công giáo có thể hợp ý cầu nguyện, dù ở nhà, trong xe hơi hay đang làm
việc.
Bởi vậy, hãy siêng năng lần hạt để thực
thi lệnh truyền của Mẹ, để đáp trả lại những lời mời gọi của các Đức Thánh Cha
và nhất là để chúng ta được Mẹ yêu thương và chúc phúc.
19. Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần.
THÁNG MÂN CÔI: NHỚ LỜI ĐỨC MẸ NHẮN NHỦ
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh
nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của tâm hồn con người: Lỗi lầm cá
nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức tăng. Người ta huỷ hoại nhau
và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã. Quỉ ác xem ra đã thiết lập
được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới, kể cả những vùng cực kỳ hữu
thần.
Tình hình này đang bùng nổ ra những bất
ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến
bi thảm.
Những thời sự gay gắt đang khiến những
ai thao thức với sự sống con người và Nước Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại
những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức, tại La Salette, tại Fatima.
Đức Mẹ báo trước những tai hoạ khủng
khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên.
Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ
nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy cầu nguyện,
Hai là hãy ăn năn sám hối.
Dưới đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về
sự thực hiện hai điều trên đây.
Cầu nguyện.
Nhìn qua thế giới xung quanh, tôi thấy
có những người không hề cầu nguyện, có những người không thích cầu nguyện, có
những người rất ít cầu nguyện, có những người không biết cầu nguyện. Bốn hiện
tượng này đã khá phổ biến.
Vì thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên
khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi
thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh
Phaolô viết: “Có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta
không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện
giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm
can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các
thánh đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu
nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý
chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một
cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ không với cách khiêm nhường kín
đáo như người thu thuế.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần
cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng ta cũng có thể sa vào những tư
tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh Phaolô đã than: “Sự lành tôi muốn,
thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn, thì tôi lại làm” (Rm 7,20). Hiện
tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô khan, với những tâm tình ghen ghét hận
thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm
hoi gì.
Những việc cầu nguyện như thế chắc chắn
không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy xin ơn biết cầu nguyện với Chúa
Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập
cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người tội lỗi van nài lòng thương xót
Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng
ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.
Ăn năn sám hối.
Chúa đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ.
Như thánh vương David nói: “Tạ ơn Chúa đã thương con cách lạ lùng. Công trình
Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con Ngài không
lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt
Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con, đều thấy ghi trong sổ sách
Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi sự” (Tv 139,14-16).
Chúa thương ta và muốn ta phát triển
theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi ta phát triển
sai hướng. Tiên tri Baruc nói: “Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên
Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với
chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà
phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng
tôi” (Br 1,21-22).
Các thần tượng mà nhiều người chúng ta
thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh vọng, tiền của, thành công, lạc
thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi.
Khi Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn
sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là
gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu, là cùng đích và là hạnh phúc của
ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin là sống theo thánh ý Chúa. Tin là
thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người.
Với niềm tin như thế, người sám hối cầu
xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn
thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết
tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống
trong’ tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn đi theo Chúa, dấn thân cứu đời.
Dấn thân đòi phải có tinh thần chiến
đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm
tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu
dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và thương cảm còn cần hơn.
Ăn năn sám hối cũng còn đòi tinh thần
đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần đức tin và xuất phát từ tinh thần
đức tin.
Chúng ta tin chắc rằng: “Không phải
chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta
trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).
Nếu chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn
để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì không lẽ chúng ta lại được phép dửng
dưng với việc đền tội của chính chúng ta.
Hiện nay, việc đền tội được hiểu một
cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói
quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã phán: “Giống quỉ này không chịu ra,
nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt 17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có
thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã
qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm con người sám hối.
Với vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất
nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và
sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu bầu cho nhân loại đáng thương này.
20. Tôi là nữ tỳ của Chúa.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn
trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối
Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người
mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên thần
gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp
lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm
mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự
ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng
Cứu Thế. "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ
rợp bóng trên cô" (c.35). Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận
làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây
xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư. Nếu Maria đã khấn sống khiết
tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Nếu Maria đã muốn sống
bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô
có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn
phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp
đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối. Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang
mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài
không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác. Tiếng xin vâng
này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao
xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có. Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một
tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời. Nói tiếng xin vâng khi
mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin. "Phúc cho em là kẻ đã
tin..." (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ
Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa
có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ tất cả những
tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ
không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị
thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn
có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố
trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần
phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa
không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào
chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh
Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và
đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối
cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm
thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm
hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường
mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn
tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở
thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa
21. Cầu nguyện và cải thiện đời sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm
nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi
Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành
một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương
giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng
tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức
Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma
quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc
biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái nhất:
* Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi
ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của
tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau...
* Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi
năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
* Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong
năm, khoảng 24 lít trên/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã
trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và
Trung Quốc.
* Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao
động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất
khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi
từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất
phát từ… người lớn.
Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo
động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của
người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn
nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc... Phải chăng đây cũng là
thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng
cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh
Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê
đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh
Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc
và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và
cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân
đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với
ngài và nói:
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba
Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền
sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc
chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của
Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ
về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy
nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung
Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi
dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy,
một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm
kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm
giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và
tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những
hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương
tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan
trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng
Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng
kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu.
Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận
một cách chắc chắn rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người
ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.
Trong tháng Mân côi, giáo hội mời gọi
chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ
trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa
ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống
lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý
Chúa.
Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các
linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình
cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn
trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm
ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta
biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của
con người hôm nay. Amen.
22. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi,
nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao giờ có thể phủ nhận được con
đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu nhiệm: Nhập thể, Đau khổ và Phục sinh của
Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố
của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết:
"Vào bình minh của ngàn năm mới, chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên
'chiều kích Thánh Mẫu' của Hội Thánh, ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất
của việc canh tân do công đồng đề xướng". Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi
từng chặng đường của Con Mẹ đã đi qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con
đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại muốn đi vào nước trời không thể nào không
bước qua những chặng đường ấy.
MẸ MARIA TRONG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
Maria được Thiên chúa tuyển chọn để làm
Mẹ Đức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả
lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không
có lời Xin Vâng của Mẹ, nhân loại đã khác hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày
hôm nay. Với tiếng Xin Vâng, Mẹ Maria đã tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên
Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương
trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm một vai trò thật đặc biệt và quan trọng
trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn
lao, quan trọng như thế là vì Maria được tràn đầy ân sủng,Thiên Chúa luôn ở
cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là hạnh phúc lớn nhất, khiến Mẹ luôn đầy
phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa ánh sáng và ân sủng cho mọi người.
Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy
yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ Maria là một người trong nhân loại, là
một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria
làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện,
tinh trong, sáng ngời của Mẹ. Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên
Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là
Chúa Giêsu đã bước qua.
"CÁC CON ĐỪNG SỢ, THẦY ĐÃ THẮNG THẾ
GIAN"(Ga 16,33)
Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại,
lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở thành niềm cậy trông vững bền
cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân loại: " Sẽ ở cùng các con
mọi ngày cho tới tận thế "(Ga 14,18). Chúa là con của Mẹ Maria,nên Chúa
phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ
cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng
và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết:
" Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là người chiến thắng". Mẹ đã
hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Đức, Fatima, Labouret, Nam Tư, La Vang và nhiều
nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng khuyên nhủ:" phải ăn năn sám
hối, và năng lần chuỗi Mân Côi ". Mẹ đã luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn
con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời. Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh
của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần."Trái tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội
lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự dữ…"
LỄ MÂN CÔI NÓI GÌ CHO NHÂN LOẠI
Lễ Mân Côi làm cho dân Chúa hồi tưởng
lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự
can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria.Tuy nhiên, đó chỉ là lý do phụ. Điều cốt thiết
của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương An Bình, cầu nguyện cho mọi người
nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người. Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho
nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Đức, Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự
giới thiệu ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba
trẻ là Lucia, Phanxicô và Jacintha. Trong các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ
và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc
chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng
thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân như thế nào? Ta đã sám hối và cầu
nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa? Nếu chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần
chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào các biến cố, các chặng đường của
Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã sống bác ái, yêu thương đủ chưa?
Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi vào định luật của tình yêu: "
Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con".
Lễ Mân Côi, một dịp để ta đi vào chương
trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp để chúng ta cố gắng thay đổi con
người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện
và Lần chuỗi.
Chuỗi Mân Côi là phương thế dễ dàng và
hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Đạo tình thương của Chúa Giêsu.
"Lạy Chúa,…xin đổ ơn thánh đầy lòng
chúng con,để nhờ công ơn con Chúa chịu khổ hình thập giá,và nhờ Thánh Mẫu Maria
chuyển cầu,Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh" (Lời nguyện
nhập lễ, lễ Đức Mẹ Mân Côi).
23. Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi.
“HÃY CANH TÂN ĐỜI SỐNG & LẪN CHUỖI
MÂN CÔI MỖI NGÀY”
* Câu hỏi gợi ý
1. Đức Ma-ri-a có vai trò gì trong
Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa?
2. Đức Ma-ri-a và việc lần hạt Mân Côi.
3. Hãy học cùng Mẹ trên con đường theo
Chúa Giêsu Kitô.
* Suy tư gợi ý
1. Vai trò của Đức Ma-ri-a trong Chương
trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa:
1.1 Bài Tin Mừng về Truyền Tin trong
Phúc Am Lu-ca cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của Đức Ma-ri-a trong Chương
trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa. Như bao thiếu nữ Do Thái khác khi sắp
đến tuổi lấy chồng, Ma-ri-a cũng đã có chương trình riêng của mình. Người thanh
niên mà nàng yêu thương và tính lấy làm chồng là Giu-se, thuộc chi tộc Đa-vít.
Nhưng sau khi thiên sứ trình bày về kế hoạch của Thiên Chúa và được giải đáp
thắc mắc một cách thỏa đáng, thì Ma-ri-a đã mau mắn chấp thuận lời đề nghị của
Thiên Chúa và phó thác cuộc đời mình cho Ngài: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của
Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
1.2 Bài đọc 1 của Sách Tông đồ Công vụ
cho chúng ta thấy vị trí của Đức Ma-ri-a giữa các Tông Đồ, tức giữa lòng Giáo
hội sơ khai. Các vị chờ đợi Thánh Thần trong thanh vắng và cầu nguyện.
1.3 Bài đọc 2 của Thư Gá lát của Thánh
Phaolô nói về việc Con Thiên Chúa sinh ra từ một phụ nữ theo đúng chương trình
của Thiên Chúa để cứu chuộc mọi người và làm cho mọi người trở thành con Thiên
Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha (Abba).
2. Đức Ma-ri-a và việc lần hạt Mân côi.
2.1 Một trăm năm mươi Thánh vịnh đã được
thay thế bằng 150 kinh Kính Mừng: Miệng đọc lòng suy 15 Mầu Nhiệm Mân Côi: Năm
Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa
Giêsu Kitô và cũng là của Đức Ma-ri-a, vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con
bước các chặng đường Vui-Thương-Mừng ấy với tinh thần của lời “XIN VÂNG =
FIAT!” mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa đầu thai làm người
trong cung lòng Mẹ.
2.2 Khi chúng ta đọc sự tích về các cuộc
Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fa-ti-ma, dù ở Gua-da-lu-pe hay ở Mễ Du, hay
ở La Vang…. chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời
sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: "Ta là Đức
Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha
thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá
phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục
lần chuỗi hàng ngày." (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lu-xi-a 13/10/1917).
2.3 Thánh Đa Minh là người cố công rất
lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi trong Giáo hội, để cầu xin Chúa
bảo vệ Giáo hội trước sự tấn công của kẻ thù.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ:
"Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi
tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ
thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi".
Còn cha Stefano Gobbi viết: "Chuỗi
Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận
được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh
hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân." Và "Chuỗi
Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh
cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của
thế giới và của các tín hữu"
3. Hãy học cùng Đức Mẹ trên con đường
theo Chúa Giêsu Kitô.
Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể
cứu độ nhân loại. Chân lý ấy không bao giờ chúng ta được lãng quên! Đức Mẹ, dù
là Mẹ Thiên Chúa cũng chỉ là tạo vật. Nhưng Mẹ là tạo vật hoàn hảo nhất của
công trình Tạo Dựng của Thiên Chúa và Mẹ là môn đệ “gương mẫu” nhất của Đức
Giêsu. Tuy thế, Mẹ cũng đã phải vất vả, khổ đau trên con đường theo Đức Giêsu.
Vì thế mà Mẹ có đủ khả năng, kinh nghiệm hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta nếu chúng
ta muốn bước theo Mẹ trên con đường theo Chúa! Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để
học cùng Mẹ!
Hơn nữa Thiên Chúa đã có ý đặt Đức Mẹ
bên cạnh Chúa Giêsu và giữa Chúa Giêsu và chúng ta. Nếu nhờ có Chúa Giêsu mà
Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người hơn, thì cũng nhờ có Đức Mẹ mà chúng
ta mạnh dạn và tin tưởng hơn khi dâng lời khẩn nguyện và tạ ơn lên Thiên Chúa.
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ
Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cũng cảm tạ Cha vì Cha đã chọn
cho Con Một Cha một người Mẹ tuyệt vời là Đức Ma-ri-a. Cha đã đổ tràn ân sủng
của Cha trên người Nữ Tỳ đặc biệt này. Chúng con xin ngợi khen và chúc tụng
Tình Thương và Quyền Năng của Cha!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sinh ra từ
một người mẹ, đã lớn lên và trưởng thành bên cạnh Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se,
đã lên đường rao giảng Nước Trời với sự cộng tác của Mẹ, đã trao Mẹ cho thánh
Gio-an trước giờ tắt thở. Chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã xuống
tràn đầy trên các Tông Đồ và Đức Ma-ri-a, để khai sinh Hội Thánh là Cộng đoàn
của Chúa Kitô Phục Sinh. Xin Chúa xuống trên tất cả chúng con, để chúng con
nhận được ánh sáng, bình an và sức mạnh cần thiết cho cuộc lữ hành của chúng
con.
24. Suy niệm của ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần.
CẦU NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là
tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc
biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một
đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng
chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp,
dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình
dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu
nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát
với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành
hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh
Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm
1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh
chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ
Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh
thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan
trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng
hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là
trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được
tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng
chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều
kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến
khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế
nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân
côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong
trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và
bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được
đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút
ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh
của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi
Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng
đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân
thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi
đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã
được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu
độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn
kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy
trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị
tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân
côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở
vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ
Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi
như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm
lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp.
Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé.
Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc
chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người
hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân
tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi
liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII
chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho
các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong
trào "Kinh Mân côi sống". Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi
người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người
trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng
mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các
nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm
đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của
những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ
họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư,
lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu
bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa
tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua
các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy
hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu
Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn
những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức
Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá
bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ,
Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã
khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành
hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng
dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các
người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác.
Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời,
ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên
đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát
xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau
đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì
thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với
nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức:
"Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau".
Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương
ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều
vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ
từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu
nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần
đã nói với Đức Mẹ xưa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm
được" (Lc 1,37).
25. Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
KÍNH MỪNG MARIA ĐẦY ƠN PHÚC ĐỨC CHÚA Ở
CÙNG BÀ
Julbell có một bài hát nổi tiếng khắp
thế giới từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, và chắc có lẽ mãi mãi còn đọng lại
trong lòng người nghe. Bài hát rất quen thuộc. Đó là bài Ave Maria.
Điều gì đã khiến cho nhạc sĩ có được cảm
xúc một cách dạt dào để viết lên một bản nhạc tuyệt vời như vậy?
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa
Trời ở cùng Bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”. Chính lời kinh tuyệt vời đó đã làm nên cảm xúc không
phải chỉ một Julbell mà cho biết bao nhạc sĩ trong lịch sử âm nhạc của thế giới
viết nên những bản nhạc tuyệt vời và chính lời kinh đó làm nên ngày lễ Mân Côi
hôm nay. Tại sao vậy?
Trong lịch sử Giáo Hội vào khoảng thế kỷ
16. Anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới. Bởi vì họ đi từ vùng
Trung Đông sang Á châu đến Ấn Độ. Họ đổ bộ lên Âu châu. Đi đến đâu thắng đến
đó. Khi đổ bộ đến Âu châu, đi vào một vịnh của nước Ý. Một đoàn quân thiện
chiến như thế thì quân Ý làm sao mà đối đầu được. Nếu để thua thì Ý sẽ thất
thủ, thủ đô của Hội Thánh Công giáo là Rôma cũng biến mất và cả Âu châu cũng bị
đe dọa.
Đức Giáo Hoàng Piô V bấy giờ lên tiếng
kêu gọi cầu nguyện, và cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng.
Ngày 7/10 năm ấy quân của Công giáo
chiến thắng. Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân sự mà là nhờ sự phù trợ
của Mẹ Maria. Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm ngày lễ Đức Bà chiến
thắng. Sau này thành lễ Mân Côi.
Nói đến chiến thắng, có lẽ chúng ta nghĩ
đến chiến thắng về quân sự, kinh tế, chính trị. Không, Chúa Giêsu không ban cho
mình chiến thắng đó. Khi đối diện với Philatô Ngài đã trả lời: “Nước tôi không
thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì binh lính tôi đã
đến giải thoát tôi khỏi tay người Do Thái”.
Ta cần nhìn vào chiến thắng ở một góc độ
khác. Đó là chiến thắng chính mình. Một danh tước trong lịch sử thế giới đã
thường nói: “Không có cuộc chiến đấu nào khó khăn hơn chiến đấu với chính bản
thân mình.”
Mỗi chúng ta có thể cảm nghiệm điều đó
trong cuộc sống. Đức Cha Pul-ton-Shin, Ngài nói: “Nếu bạn chấp nhận một cuộc
chiến đấu trong tâm hồn bạn, thì sự bình an sẽ giải tỏa trong cuộc sống xã hội.
Ngược lại, nếu bạn không chấp nhận cuộc chiến đấu đó, mà bạn đi tìm thỏa hiệp
với cái xấu và tội lỗi trong tâm hồn bạn, thì chiến tranh sẽ lan tỏa trong cuộc
sống xã hội”.
Nói như thế có nghĩa là chuyện chiến
thắng chính mình là một cuộc chiến rất khó, nhưng nó lại là căn bản để dẫn đến
cuộc sống bình an cho mọi người. Chuỗi Mân Côi, những lời kinh Kính Mừng đan
kết lại với nhau thành xâu chuỗi. Chuỗi Mân Côi đó có khả năng giúp cho ta tập chiến
thắng chính mình. Tại sao vậy?
Ở phương Đông khi nói về con người,
người ta hay nói đến thân, trí, tâm. Triết học phương Tây ngày xưa, khi học tâm
lý học nói đến con người, người ta nói đến tình cảm và ý chí. Cũng tựa như
nhau. Khi các bạn lần chuỗi Mân Côi thì cả thân, cả trí, cả tâm, có nghĩa là
tất cả con người toàn diện chúng ta được chi phối. Chúng ta hãy nhớ lại, khi ta
lần chuỗi có nghĩa là trong tay của mình cầm chuỗi đó là cái thân. Việc cầm một
xâu chuỗi ảnh hưởng đến trí và tâm mình.
Có một linh mục kể chuyện: Trong một lần
ngài đi máy bay, ngồi cạnh nhà sư, thấy trên tay nhà sư cầm xâu chuỗi, miệng
lâm râm nam-mô-a-di-đà-phật. Linh mục hỏi nhà sư: Tại sao lần chuỗi vậy? Nhà sư
bảo: Chúng tôi lần chuỗi như thế này tâm trí đỡ căng thẳng. Thế thì bên các
ngài không có cái gì giống vậy à?
Linh mục trả lời: Có chứ, nhưng mà chúng
tôi lần chuỗi không phải để cho tâm trí bớt căng thẳng, mà chúng tôi nhắm cái
khác cơ. Nhà sư nói với vị linh mục thế này: Cha ạ, nếu cha muốn tập trung vào
một điều gì, thì trong tay của cha phải có một cái gì, nhờ đó cha sẽ dễ tập
trung hơn.
Vị linh mục học được một bài học, hóa ra
chuỗi Mân côi mình cầm trong tay giúp cho cái trí của mình tập trung. Khi các
bạn lần chuỗi là trong tay cầm xâu chuỗi, nó giúp cho trí của mình tập trung
vào lời kinh, và còn tập trung vào cuộc đời của Chúa Giêsu mà kinh Mân Côi mô
tả từ khi Ngài sinh ra cho đến cuộc sống công khai, đến khi bị chết trên thánh
giá chịu táng trong mồ, sống lại, lên trời, ban Thánh Thần xuống cho Giáo Hội.
Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Một thứ
Tin Mừng thu gọn được tóm lại ở trong chuỗi Mân Côi, đồng thời khi chúng ta lần
chuỗi như vậy tâm của mình tịnh lại. Đối với người trẻ hôm nay đang sống trong
một thời đại tốc độ, mà người đọc như thế thật mất thì giờ. Tôi đã từng nghĩ
như vậy. Nhưng sau này khi tìm hiểu lại lịch sử linh đạo, tôi mới thấy đó là
một phương pháp rất hay cho cuộc sống tâm linh. Những lời con người vắn tắt
được lặp đi lặp lại như thế nó làm cho tâm của mình tĩnh lại.
Có một người học trò người Việt Nam, sau
này sang Mỹ viết thư về kể cho tôi nghe kinh nghiệm về việc sống đạo của anh
ta: Cuộc sống quá nhiều khó khăn đến mức độ chịu không được, nên đêm đến về nhà
muốn phá toang, la toáng lên: Tại sao lại đổ trên đầu tôi những sự khổ sở thế
này. Bất chợt nhìn lên đầu giường thấy một tràng chuỗi treo ở đấy. Nó liền chạy
đến cầm lấy ngồi đọc kinh. Chỉ mới có 10 kinh thôi là thấy tâm hồn của mình
lắng xuống….
Khi lần chuỗi Mân côi thì toàn diện con
người của mình: thân, trí và tâm đều được chi phối. Cùng sự chi phối đó thì
chuỗi Mân côi làm cho nơi chúng ta hình thành một con người mới chống lại những
gì xấu trong tâm hồn mình.
Con người ta sống ở đời này bao giờ cũng
sống trong ba mối tương quan chính: tương quan với Thiên Chúa, tương quan
với tha nhân, tương quan với thế giới vật chất. Tội lỗi chúng ta nó
cùng nằm trong ba mối tương quan đó. Khi lần chuỗi Mân Côi, Mẹ Maria sẽ giúp
chúng ta sống những tương quan đó tốt đẹp.
Chẳng hạn khi chúng ta lần chuỗi chúng
ta đọc: Chúa Giêsu lên trời, xin cho lòng con được hưởng những sự lên trời.
Chúng ta sẽ sống mối tương quan với Thiên Chúa; chúng ta sẽ sống một tâm hồn
siêu thoát hơn; khi chúng ta đọc: Mẹ Maria đi viếng thăm bà Isave, xin cho được
lòng yêu người. Đó là lời cầu xin tương quan với tha nhân, bằng tình yêu thương
chứ không phải là hận thù ghen ghét; khi chúng ta đọc Chúa Giêsu chịu đóng
đinh, xin cho đóng đinh tính xác thịt mình vào thánh giá Chúa; đó là tương quan
với thế giới vật chất, với chính xác thịt của mình.
Chuỗi Mân Côi giúp cho chúng ta chiến
thắng cái xấu ở nơi bản thân mình, hoàn thành một con người mới, con người mới
đó sẽ tác động trong cuộc sống, làm cho cuộc sống được đẹp hơn.
Đức Cha Pul-ton-Shin là một diễn giả nổi
tiếng ở Mỹ. Ngài chỉ giảng trên đài truyền hình chứ không giảng ở nhà thờ.
Nhiều bạn trẻ xin Ngài chứng hôn cho lễ cưới của mình. Ngài đồng ý chứng nhận
với hai điều kiện, hai bạn đó phải hứa với Ngài mỗi ngày vợ chồng phải đọc
chung với nhau 50 kinh Kính Mừng. Lời kinh nối kết vợ chồng giúp cho vợ chồng
xây dựng cuộc sống gia đình tốt đẹp hơn.
Hình như bây giờ các bạn trẻ ít lần
chuỗi lắm. Hôm nay tôi muốn nói về giá trị của kinh Mân côi. Chúng ta đừng xem
thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ tiền. Chúng ta hãy cầu
nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh Mân Côi. Nếu chúng ta không
đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính
Mừng, 1 kinh Sáng Danh. Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm trí mình ý nghĩ: khi
tôi đọc kinh Mân Côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản thân, để tôi chiến
thắng chính mình, để tôi sống đời đức tin tốt hơn. Amen.
26. Kinh Mân Côi – Lời
kinh kết nối (Lc 1,26-38)
(Trích trong ‘Nút Vòng Xoay’ - ĐGM. Vũ
duy Thống)
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó
Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình
vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi
chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều
Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay
trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì
khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã
nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu
áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người
Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế
giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh
bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một
chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm
người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục
Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út
nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui
ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên
thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet
trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng
chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân
khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ,
nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa
tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của
con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc
Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng
tác bằng lời “xin vâng” thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng “xin vâng” không chỉ bằng lời mà
là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp
nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin bên cạnh
Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự “nối mạng”,
nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không
những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên
Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó
nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria
xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như tình
mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi
là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình
cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa
Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu
có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria
cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều
này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ
lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng
muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu
được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy
ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con
lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ,
kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa
Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy
rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi
truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống
cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho
cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở
ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh
cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết
nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô
nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai
mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức
Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây
lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần
hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết
người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người
Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng
gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường……? Tại sao
ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em
thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp
với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta
đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt
xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí
thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp
thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân
Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo
và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người
hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết
nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức
Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã
quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh
cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là
người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi
nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và
cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói
với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ
có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp
thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.