Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN - B
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN - B
MỤC LỤC
28. Video
Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
29. Chúa
Giêsu bị khước từ Catholic.org.tw
30. Sứ
mạng làm ngôn sứ Lm. Carolo Hồ Bạc Xái
31. Sứ
mạng của tiên tri Lm
Giuse Đinh lập Liễm
32. Đón
nhận Đức Giêsu Kitô Lm. Phêrô Lê văn Chính
33. Cần
xác định lại bậc thang giá trị Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
36. Đức
Giêsu về thăm Nagiaret JKN
1. Tiên tri ở
quê hương mình
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu không
phải chỉ là một tiên tri như những tiên tri khác, mà Ngài chính là Con Thiên
Chúa. Thế nhưng Ngài đã phải đụng đầu với sự cứng lòng tin của chính những kẻ
đồng hương với Ngài. Theo tập tục thì mọi người Do Thái ở tuổi trưởng thành đều
có thể lên tiếng khi tham gia phụng vụ tại hội đường. Chúa Giêsu đã sử dụng
quyền này của Ngài và lên tiếng rao giảng Phúc Âm. Nội dung rao giảng hẳn phải
có một cái gì khác lạ với những điều từng được rao giảng tại đây. Khác đến độ
mọi người đều có thể nhận ra và sửng sốt trước sự khôn ngoan của Ngài. Thực tế
trước mắt đã khởi sự lay động họ, kéo họ ra khỏi giấc ngủ yên tĩnh giữa những
cái biết rồi, đẩy họ vào con đường của những khám phá mới. Thế nhưng những câu
hỏi chỉ loé lên trong thoáng chốc không đủ để chiếu sang cho họ tới được với
Đấng đã đến giải phóng họ. Họ đã bỏ thực tế để trở về với lối lý luận thông
thường của họ. Họ tưởng rằng họ đã biết quá rõ về Ngài khi nói ra được Ngài là
con ai, đã làm gì và ai là những người thân thích với Ngài. Họ đã trở về với
những cái họ đã nắm được để rồi quay lưng trước lời kêu gọi của thực tế trước
mắt. Điều họ mắt thấy tai nghe đã đánh động để họ phải đặt lại vấn đề, thế
nhưng họ đã đóng chặt cửa lòng trước những cái mới mẻ đã từng làm cho họ sửng
sốt và ngạc nhiên. Họ tự tách mình ra khỏi Nước Trời đang đến với họ. Phúc Âm
còn ghi lại: thấy họ cứng lòng tin, Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào,
nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng của Nước Trời cho họ và Ngài đi rao giảng
ở những làng xung quanh.
Thái độ của dân làng Nadarét cũng có thể là cơn cám dỗ của người
Kitô hữu hôm nay. Chúng ta có thể tự hào và tự mãn với những bài giáo lý, những
hiểu biết về đạo, để rồi quay lung trước lời mời gọi của Chúa trong những sự
kiện, những biến cố đang xảy ra chung quanh chúng ta. Nói cách khác, việc sống
đạo của chúng ta hôm nay không thể đóng khung trong một số kiến thức có sẵn về
Thiên Chúa, về ơn cứu độ, cũng như trong một số nghi lễ đã được quy định sẵn,
trái lại phải được thể hiện qua việc lắng nghe, tìm kiếm ý định của Chúa trong
lịch sử, trong chính lòng cuộc đời cá nhân và trong sinh hoạt của cộng đồng xã
hội. Vấn đề là chúng ta có thực sự thoát ra được những thành kiến, những quan
niệm, những lối nhìn sẵn có để thực sự lắng nghe tiêng nói mới mẻ của Chúa qua
các biến cố, qua các sự kiện của thực tế hôm nay.
2. Thân phận
người sứ giả.
Sứ giả là người được chọn lựa và được sai đi để loan truyền Tin
Mừng cho muôn dân, là người nói nhân danh Thiên Chúa.
Đức Kitô là vị Thiên Sai đến mạc khải cho chúng ta biết về Thiên
Chúa và những ý định của Ngài, nhờ đó chúng ta được cứu độ. Trong đời sống công
khai, Ngài đã bị chống đối và khinh miệt, như lời thánh Gioan đã viết: Ngài đã
đến nhà Ngài, nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài.
Phải chăng đó cũng chính là sái số phận của người sứ giả, của
người tông đồ, vì Chúa Giêsu cũng đã bảo: Môn đệ không trọng hơn Thầy, người ta
đã bắt bớ Thầy thì người ta cũng sẽ bắt bớ các con. Thực vậy, ngày hôm nay,
Chúa Giêsu trở về Nadarét để rao giảng Tin Mừng, nhưng Ngài đã bị chính những
người đồng hương chống đối, rồi trên khắp nẻo đường xứ Palestina, Ngài đã loan
truyền Phúc Âm, đã chữa lành những tật bệnh đem lại mọi lợi ích cho con người,
thế nhưng họ đã dám cho Ngài lấy quyền phép ma quỷ mà làm những việc đó. Ngài
mạc khải Thiên Chúa là Cha và mình là Con, thì họ cho Ngài là kẻ phạm thượng,
bị quỷ ám và điên khùng. Ngài đến đem bình an, chân lý và thiết lập nước Thiên
Chúa thì bị mang tiếng là xách động là phản loạn. Họ bắt bớ và kết án Ngài tử
hình trên thập giá. Sau cùng Ngài đã bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp.
Thân phận của người sứ giả là như thế và Chúa Giêsu cũng đã xác
định cho các tông đồ: Các con sẽ phải đau khổ, khóc lóc, sẽ bị bắt bớ và điệu
ra toà. Và như chúng ta thấy: Cuộc đời người sứ giả của Thiên Chúa phải gắn
liền với thập giá và khổ đau, vì nơi thập giá, ơn cứu độ được biểu hiện qua sự
chết và phục sinh của Đức Kitô. Bởi vì đau khổ là đường lên ánh sáng, gian khổ
là đường về vinh quang và thập giá tới phục sinh và là điểm tựa cho người sứ
giả để can đảm loan truyền lời Chúa.
Họ không sợ hãi vì có sức mạnh thần linh yểm trợ. Nơi thập giá,
sức mạnh của Thiên Chúa thể hiện và sự yếu đuối của con người gặp được sự khôn
ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa. Thập giá giải hoà con người với Thiên Chúa và
đem lại ơn cứu độ. Số phận của người môn đệ phải đồng hoá với số phận của Thầy
chí thánh, bởi vì chính Chúa cũng đã ra điều kiện: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ
mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Người môn đệ không phải chỉ chết cho mình mà còn chết cho người
khác. Đúng thế, thập giá họ vác chính là dấu chỉ họ chết cho thế gian. Họ sung
sướng và hãnh diện vì được chịu khổ đau như thánh Phaolô đã viết: Phần tôi
chẳng bao giờ tôi dám vênh vang, ngại trừ nơi thập giá Đức Kitô, Đấng đã đóng
đinh thế gian cho tôi và tôi cho thế gian. Trong những giờ phút đen tối, họ
nhìn vào thập giá Đức Kitô và tìm thấy ở đó một lý tưởng, một sức mạnh, một kim
chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.
Trước những hy sinh gian khổ chúng ta đã có thái độ nào: sẵn
sàng chấp nhận chịu đóng đinh với Đức Kitô nghĩa là dám hy sinh, từ bỏ ý riêng
để phục vụ ý Chúa hay không? Đức Kitô có phải là nguyên lý cứu độ hay đã trở
nên cớ cho chúng ta vấp phạm.
3. Không làm được
phép lạ.
Suy Niệm
Đức Giêsu giảng dạy ở hội đường tại quê nhà. Phản ứng của dân
làng là hết sức ngạc nhiên trước sự khôn ngoan trong lời Ngài giảng.
Nếu họ chân thành tìm kiếm họ có thể nhận ra khuôn mặt thật của
người họ quá quen.
Tiếc thay người làng Nagiaréth đã không đủ vô tư. Họ bị ám ảnh
bởi quá khứ của Ngài, và họ không sao ra khỏi những định kiến sẵn có.
"Ông ta không phải là bác thợ sao?"
Một bác thợ sống bằng đôi tay như bao người. Một bác thợ trong
làng, âm thầm và khiêm tốn, sống bao năm ở đây không một chút hào quang.
Họ cũng bị ám ảnh bởi cái hiện tại trước mắt: Bà Maria và các
anh em, chị em của ông, tất cả vẫn đang sống rất đỗi bình thường, như những
người láng giềng gần gũi.
Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm.
Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là
Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với
Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Không chắc chúng ta đã khá hơn người làng Nagiaréth.
Hôm nay chúng ta vẫn có thể bị đóng khung trong một cái nhìn nào
đó về Đức Kitô, khiến chúng ta chỉ thấy một phần khuôn mặt của Ngài.
Có những người chúng ta rất quen, sống sát bên ta, nhưng chúng
ta chẳng hiểu mấy về họ.
Những gì tôi biết về họ là đúng, nhưng không đủ.
Mỗi người là một mầu nhiệm cần khám phá suốt đời.
Cần phải ra khỏi mình, ra khỏi cái nhìn khô cứng để gặp được mầu
nhiệm tha nhân, để thấy người khác bằng cái nhìn luôn luôn mới.
Chúng ta thường nói đến một Thiên Chúa toàn năng, nghĩa là Đấng
làm được mọi sự. Nhưng Đức Giêsu tại Nagiaréth lại cho ta thấy hình ảnh một
Thiên Chúa yếu đuối và bất lực.
Ngài bó tay trước sự cứng lòng của con người.
Đức Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.
Thế mới hay con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, có thể
dùng chính tự do Ngài ban để khước từ Ngài.
Phép lạ là quà tặng cần được đón nhận với lòng tin.
Phép lạ không phải là phù phép áp đặt trên người nhận.
Có bao điều lạ lùng Thiên Chúa định làm cho đời ta, mà Ngài
không làm được, vì không được làm.
Nên thánh là để cho Ngài yêu thương ta, để cho Ngài tự do hoạt
động trong đời ta. Lúc đó đời ta sẽ trở nên một kỳ công của Thiên Chúa, và nhờ
Ngài, ta có thể làm được những kỳ công.
Gợi Ý Chia Sẻ
Quá khứ của một người có thể làm chúng ta không thấy sự thật về
người đó. Bạn có khi nào giống như người Nagiaréth không?
Có khi nào bạn thấy Thiên Chúa bị bó tay, chỉ vì bạn khăng khăng
từ khước không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Dân làng Nagiaréth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ
thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập
tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như
một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh
mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để
chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình
thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
4. Thiên Chúa luôn làm việc
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
“Cha Ta hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc”
(Ga.5, 17). Đó là câu Đức Giêsu nói với người Do Thái khi họ tra vấn tại sao
Ngài chữa bệnh vào ngày sabát, tức ngày nghỉ theo luật của người Do Thái. Thiên
Chúa luôn làm việc: Ngài lôi kéo con người đến với Ngài. Ngài có thể dùng biến
cố này biến cố kia, hoặc người này người kia, hoặc ngay cả những giới hạn của
mỗi người để giúp con người đến gần Thiên Chúa.
I. Vẫn có một tiên tri ở giữa họ
Tiên tri thường được nhiều người hiểu như người biết trước biến
cố sẽ xảy ra. Một người như vậy, cho thấy người đó có quyền năng của Thiên
Chúa. Thế nhưng theo đúng nghĩa, tiên tri là ngôn sứ, người đại diện Thiên Chúa
nói với dân chúng, người nói với dân chúng theo lệnh của Thiên Chúa. Tiên tri,
là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và quan tâm đến dân Ngài.
Trong lịch sử Do Thái, Thiên Chúa luôn yêu thương và săn sóc
dân. Người Do Thái đã nhận ra các thẩm phán, các vua, là những người được Thiên
Chúa xức dầu, là những người thay Thiên Chúa dẫn dắt và chăn dắt dân. Môsê là
người được Thiên Chúa chọn để dẫn dân ra khỏi Aicập (Xh.3, 9-10), Samson là
thẩm phán được Thiên Chúa dùng để giải phóng dân khỏi cảnh đàn áp của người
Philitinh (Tp.13-16), Samuel là thẩm phán được sai tới để chăn dắt dân.
Tiên tri là người biết nhìn lịch sử, nhận ra sự can thiệp của
Thiên Chúa trong cuộc sống mà nhiều người khác không nhận ra. Cũng có tiên tri
không muốn thi hành chức năng “nói nhân danh Thiên Chúa cho dân” vì vị tiên tri
biết rằng, mình có loan báo, thì dân chúng và những người lãnh đạo dân cũng
chẳng nghe; như vậy, rao giảng chẳng có ích lợi gì mà chỉ chuốc lấy sự thù ghét
và tai họa. Về điều này, tiên tri Yêrêmia là một điển hình. Lời Chúa trong sách
tiên tri Êdêkiel hôm nay cho thấy, cho dù dân chúng có không nghe lời cảnh báo của
Thiên Chúa qua tiên tri, thì ít nhất khi một tiên tri thi hành chức năng ngôn
sứ của mình, cũng làm cho con người thời đại đó biết rằng, có một tiên tri đang
hiện diện giữa họ: Thiên Chúa vẫn đang quan tâm và săn sóc lo lắng cho họ, cho
dù họ có vâng nghe Thiên Chúa hay không.
II. Dầu vậy Đức Giêsu cũng chữa một vài bệnh nhân
Đức Giêsu được dân chúng cho là một tiên tri, và là một tiên tri
lớn (Mt.16, 14). Với người Do Thái, Môsê là một tiên tri lớn. Người Do Thái vẫn
mong ước vị tiên tri lớn cỡ tầm mức Môsê xuất hiện; vì như xưa Thiên Chúa đã
làm những điều kỳ diệu qua Môsê, thì khi vị tiên tri lớn tầm cỡ của Môsê xuất
hiện, Thiên Chúa cũng sẽ làm những điều trọng đại cho dân tộc Do Thái như ngày
xưa Ngài đã làm.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, đã chữa lành nhiều bệnh nhân, đã
phục sinh người chết, đã cho kể điếc được nghe người câm nói được kể què được
đi. Ngài là một tiên tri, và là một tiên tri lớn. Chính Gioan tẩy giả cũng nghĩ
rằng Đức Giêsu là vị tiên tri phải đến, vị tiên tri mà dân Do Thái hằng mong
ước. Có thể đó là lý do tại sao Gioan lại sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài
có phải là Đấng phải đến không?” Đã có lúc dân Do Thái muốn tôn Đức Giêsu làm
vua, vì họ nghĩ rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên Chúa sai đến để
cứu dân khỏi ách thống trị của người Roma (Ga. 6, 15).
Không có tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình. Người ta
quá thành kiến về quá khứ hoặc thành phần giai cấp xã hội của vị ngôn sứ, nên
không nhận ra sứ điệp hoặc sự can thiệp của Thiên Chúa qua họ. Khi Đức Giêsu
trở về làng Nadarét, dân chúng đã không tiếp đón Ngài như một tiên tri, cho dù
làng Nadarét là một làng nhỏ, và dân chúng nơi đó cũng không thông thái gì hơn
những người ở thành thị khác ở đất nước Do Thái. Vì họ thiếu niềm tin, nên Đức
Giêsu không thể làm những dấu lạ cả thể, Ngài phải ra đi. Tuy vây, “Ngài cũng
đã làm một vài dấu lạ bằng cách đặt tay chữa lành một số người ốm đau bệnh
tật”. Thiên Chúa vẫn luôn chứng tỏ sự hiện diện và quan tâm của Ngài đối với
con người, cho dù con người có cố tình từ chối. Đức Giêsu là sự hiện diện đặc
biệt của Thiên Chúa cho con người, không chỉ đối với những người làng Nadarét,
nhưng còn cả đối với tất cả người Do Thái thời đó, và còn cho tất cả con người
của mọi thời đại sau nữa. Đức Giêsu là dấu chỉ và biểu tượng Thiên Chúa đang ở
với con người.
III. Ơn Ta đủ cho con
Trước biến cố ngã ngựa trên đường đi Đamát, Phaolô là nỗi kinh
hoàng đối với Kitô hữu. Tuy nhiên một khi được ơn trở lại, Phaolô lại là dấu
chỉ của Thiên Chúa quyền năng, Đấng luôn hoạt động và làm con người trở lại với
Ngài. Cả cuộc đời còn lại, Phaolô hăng say loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Thiên
Chúa đã làm những điều cả thể cho con người nơi Đức Giêsu Kitô. “Kể từ khi biết
Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là
được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi”. Với những người biết Phaolô, Phaolô là dấu
chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn hoạt động nơi con người.
Với cá nhân Phaolô, “cái dằm” đâm vào xác thịt của Phaolô lại là
điều Thiên Chúa dùng để làm Phaolô ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa và làm
Phaolô gần gũi với Thiên Chúa. “Đã ba lần tôi xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác
thịt tôi, nhưng Ngài nói: ơn Ta đủ cho con”. Thiên Chúa không cất “cái dằm”
khỏi Phaolô, nhưng Thiên Chúa hứa ban ơn để Phaolô vượt lên được: “Ơn Ta đủ cho
con”.
Nhiều người cũng có cái dằm nơi xác thịt mình. Có lẽ những người
này cũng có kinh nghiệm xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt mình. Nhiều người
trong họ có kinh nghiệm “cái dằm” đó vẫn tồn tại cho dù họ đã thành khẩn kêu
xin Chúa nhiều lần. Tuy nhiên, không biết những người này có ý thức được rằng:
câu Thiên Chúa nói với Phaolô cũng là câu Thiên Chúa muốn nói với mỗi người
không? “Ơn Ta đủ cho con”. Hãy tin tưởng nơi Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã
khởi đầu những điều kỳ diệu nơi mỗi người, thì cũng chính Thiên Chúa là Đấng sẽ
hoàn thành những gì Ngài đã khởi đầu. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn
đang hoạt động nơi mỗi người qua Thánh Thần của Ngài. Chỉ cần mỗi người tin
tưởng và đặt tất cả hy vọng nơi Ngài mà thôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn kể một kinh nghiệm Thiên Chúa đã hoặc đang tác động
trên bạn, nếu được.
2. Với kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa là ai?
5. Bụt
nhà không thiêng – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà
nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất
Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học
đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
- Được gặp Võ Tề đại sư, chẳng bằng gặp Phật.
Dương phủ hỏi: Phật ở đâu?
Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải
trên người, đi dép ngược, là chính Đức Phật đó.
Dương phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới
nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội
ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ
ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.
Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính
cha mẹ ở trong nhà. Đúng như cha ông ta vẫn nói:
“Tu đâu cho bằng tu nhà –
Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”.
Thế nhưng, thói đời thì vẫn thường: “Bụt nhà không thiêng” hay
“Gần Chùa, gọi Bụt bằng anh”.
Người ta xem thường những con người đang chung sống với mình. Ít
ai nhận ra điều hay, cái đẹp mà những người thân nhất đang cống hiến cho chúng
ta. Có khi còn dửng dưng, xem thường và cư xử thiếu kính trọng với những con
người đang sống vì chúng ta.
Có nhiều người ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về
nhà lại gắt gỏng, chửi chồng đánh con hay đánh vợ chửi con. Có nhiều người thì
dễ dàng mở miệng khen ngợi hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã, thế
mà, người trong gia đình, lại suốt ngày cau có, phàn nàn. Có nhiều người luôn
nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm nhưng lại tàn bạo thô thiển với gia đình dòng
tộc. Có nhiều người luôn tỏ ra đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại
đáng ghét với người thân họ hàng.Họ chính là những người dại khờ mà cha ông ta
bảo rằng: “khôn nhà dại chợ”, hay “làm phúc nơi nao để cầu cao rách nát”.
Đó cũng là thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ
đã vấp phạm với Chúa. Vì họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ
mộc và bà Maria đang chung sống giữa họ. Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến
nên không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu. Dù rằng họ thán
phục về tài ăn nói lưu loát của Chúa. Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh
Thánh của Chúa. Dù rằng họ đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm để cứu
chữa các bệnh nhân khỏi đau khổ bệnh tật và khỏi cái chết đã định. Nhưng vì sự
kiêu ngạo, cố chấp, dân Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản
dị như Giêsu con của bác thợ mộc thành Nagiarét. Đối với một dân tộc đã từng tự
hào có Thiên Chúa ở cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại
quân thù. Tâm trí họ chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì
muôn nước và sẽ giúp họ làm bá chủ hoàn cầu. Chính vì lẽ đó, người đồng hương
đã không nhận ra Chúa là Đấng Messia và còn có những lời nói, cử chỉ bất kính.
Với thái độ cực đoan đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ với một lời thật
xót xa “Không một tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình”.
Đó là cách cư xử bất công của con người ngày hôm qua cũng như
hôm nay. Họ đánh giá nhau theo định kiến có sẵn trong đầu. Đôi khi còn bị ác
cảm, yên trí về địa vị, gia tộc và quá khứ của một người, khiến chúng ta đánh
giá sai lệch và nông cạn về nhau. Thực tế là vậy, khi chúng ta đã không có cái
nhìn khách quan sẽ dẫn đến những nhận định bất công và thiếu trung thực. Vì “Yêu
ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”. Người tốt hay xấu
tùy thuộc vào cái nhìn của chúng ta. Có người ở đây được coi là xấu, ở nơi khác
lại được đánh giá là tốt. Có người ở nhà được coi là vô tích sự nhưng ở ngoài
lại hoạt bát nhanh nhẹn. Có người ở đây được tán thưởng, ngợi khen, về nhà bị
khinh bỉ, xem thường.
Phải chăng Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở về thái độ vô ơn và
bất cập của chúng ta? Tại sao chúng ta không khuyến khích nhau vươn lên thay vì
kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn nhau? Tại sao chúng ta không có cái nhìn tốt về
nhau để sống vui tươi lạc quan, thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương
chỉ dẫn đến làm đau lòng nhau? Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá
trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa ban cho chúng
ta một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại để chúng ta đón nhận nhau trong
yêu thương, và nhất là biết đối xử tốt với nhau khi còn đang sống bên nhau,
đừng để thời gian trôi qua trong sự tiếc nuối xót xa..., vì mình đã không một
lần đối xử tốt với những người thân yêu mà nay đã không còn. Amen.
6. Cao ngạo
là đánh mất tất cả
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Cao ngạo khiến con người đánh mất Thiên Chúa, đánh mất đồng loại
và đánh mất chính mình.
Sự cao ngạo không bao giờ có lối dẫn người ta đến gặp Thiên
Chúa. Đó là một nguyên tắc đã trở thành kinh nghiệm ngàn đời, không phải của
riêng ai, nhưng là của cả nhân loại.
Cao ngạo làm người ta xa Chúa đã vậy, nó còn có thể giết chết sự
sống con người. Tất nhiên không phải sự sống thể lý, nhưng là những giá trị
thánh thiêng, những giá trị làm nên sự quý báu, làm nên ý nghĩa của cuộc đời,
của mỗi người nói riêng và cả nhân loại nói chung. Chẳng hạn:
* Niềm tin (chưa phải là đức tin của người Kitô giáo). Đó có thể
là lòng tin tưởng giữa người với người bị đánh mất. Đó cũng có thể là lòng tin
giữa con người với đấng thượng đế nào đó mà con người đặt niềm tin vào, nay bị
đánh mất bởi cao ngạo.
* Hay như đức tin của những anh chị em Kitô giáo. Đó là lòng tín
thác tuyệt đối mà họ đặt nơi Thiên Chúa vô biên, Đấng luôn yêu thương và quang
phòng săn sóc mọi loài, mọi người. Đức tin làm nên giá trị vĩnh cửu của đời
người. Nhưng vì cao ngạo, con người có thể hoàn toàn đánh mất đức tin.
* Hay chí ít là những giá trị thường hằng của đời sống như: tình
yêu, lòng khoan dung, sự tha thứ, thái độ siêu thoát đối với của cải, lòng tự
chủ đối với bản năng quyền lực… cũng bị đánh mất do cao ngạo.
Đó là những giá trị làm nên những mối tương quan tương quan sâu
đậm trong mỗi tâm hồn con người. Để gìn giữ những giá trị vô cùng ấy, ta cần
loại trừ mọi thứ cao ngạo trong đời mình. Bởi mối nguy hiểm do cao ngạo là mối
nguy hiểm lớn. Nó làm ta đánh mất Thiên Chúa, đánh mất cả đồng loại quanh ta.
Sự mất mát do cao ngạo, dù đã quá lớn, nó vẫn chưa dừng. Nó biến
ta thành kẻ trơ trụi. Trơ trụi đến mức trần trụi: ta chỉ quay quắt với chính
mình, cố thủ trong pháo đài của riêng mình. Những danh từ như lòng tin tưởng,
bạn bè, người thân… chỉ còn là những khái niệm mơ hồ, xa xăm. Con người có bao
giờ thành người trọn vẹn khi tự mình che chắn, bao bọc lấy mình. Vì không là
người trọn vẹn, do đó, cao ngạo xô ta đánh mất chính mình.
Từ thuở tạo thiên lập địa, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự
nghiệt ngã do lòng người cao ngạo gây ra: Tổ tông loài người đã cao ngạo đến
mức không thể hiểu nổi. Được làm người hạnh phúc, tự do, và thấm đẫm tình yêu
Thiên Chúa đã là một ân phúc tuyệt vời, vậy mà tổ tông đã không coi đó làm đủ,
lại dám nuôi một giấc mộng tầm cỡ thiên đàng: đòi bằng Thiên Chúa, Đấng mà mình
phải phát xuất từ đó. Tổ tông không ngờ giấc mộng của mình lại chính là ảo vọng
và tội lỗi.
Bởi cao ngạo quá đỗi, tổ tông đã kéo theo những mất mát cũng lớn
không kém: mất Thiên Chúa. Bằng chứng là tổ tông đã tìm cách trốn Thiên Chúa.
Mất cả tương quan với đồng loại. Mới ngày nào Ađam còn reo to vui mừng khi được
Eva làm bạn: “Đây xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Nhưng sau khi phạm
tội, tình nghĩa thắm thiết đã không còn. Nguyên tổ bắt đầu đổ lỗi cho nhau:
“Người đàn bà Chúa ban cho con đã hại con”. Và trong tội, nguyên tổ đã đánh mất
chính mình, trở thành những kẻ vong thân, sống trong lầm lũi, sợ hãi và tủi
nhục.
Và hôm nay, một lần nữa, bài Tin Mừng lại cho thấy người đương
thời của Chúa Giêsu, cụ thể là chính đồng hương của Chúa đã sai lầm vì cao
ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất tầm thường của Chúa mà họ đã xúc phạm nặng
nề với Chúa: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy?
Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc
con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”. Cũng chính cái
lý lịch ấy, làm cho họ, thay vì được nhiều ơn lành từ Chúa Giêsu, thì ngược
lại, họ đánh mất tất cả. “Người đã không làm phép lạ nào được”. Có Thiên Chúa ở
với mình, nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ đã đánh mất cả Thiên Chúa:
Không những không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi. Người “qua các làng
chung quanh mà giảng dạy”. Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu ra khỏi cuộc đời mình,
những người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối liên hệ với Chúa Giêsu
xét như một con người: tổn thương mối tương quan giữa người với người.
Mãi đến tận bây giờ, vì không nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa,
sự cao ngạo quá mức ấy, đã làm cho người Dothái, là những đồng hương của Chúa
Giêsu, đã qua hai mươi thế kỷ, vẫn cứ vuột mất ơn cứu độ, vẫn là những người
mỏi mòn trông chờ Đấng Cứu Thế của lời hứa. Ngày xưa, vì cao ngạo, tổ tông đã
thất bại thảm hại. Bây giờ, cũng vì cao ngạo, quê hương của người Dothái, cũng
chính là quê hương của Chúa Giêsu, đã tự mình tách khỏi ơn cứu độ. Đó quả là
một thất bại thảm hại còn lớn gấp ngàn lần thất bại của tổ tông.
Dấu vết thất bại ấy, đã để lại một tấm gương ngàn đời cho muôn
thế hệ. Vậy mà bài học trong tội tổ tông và bài học từ những trang Tin Mừng,
lắm khi cả tôi và bạn vẫn chưa thuộc. Sự cao ngạo của ta đã nhiều lần làm gãy
đổ tương quan giữa ta với Thiên Chúa, giữa ta với nhau, và với chính ta. Có một
cách để chữa trị lòng cao ngạo đó chính là tình thương. Sự cao ngạo của những
người đồng hương của Chúa Giêsu, trước hết là một lối mòn của những kẻ không
biết yêu thương. Chúng ta hãy dành tặng nhau lòng yêu thương. Có yêu, ta sẽ
không còn đố kỵ, không còn kỳ thị, không còn chấp nhất, không còn định kiến,
không thiển cận và cũng hết hẹp hòi. Tất cả những điều đó (đố kỵ, kỳ thị, chấp
nhất, định kiến, thiển cận, hẹp hòi…) là con đẻ của cao ngạo. Bởi đó, tình
thương sẽ giúp ta dẹp bỏ thói cao ngạo. Mọi người hãy yêu thương. Chỉ có tình
yêu thương mới là giải pháp trọng vẹn hòng chữa trị cao ngạo.
7. Ơn gọi làm ngôn sứ
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
“Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương mình” (Mc
6,4).
Theo Điển Ngữ Đức Tin của Linh mục Hồng Phúc, danh từ tiên tri
hay ngôn sứ có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp là chữ prophẻte, có nghĩa là nói nhân
danh người khác. Tiên tri là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho
người ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài. Họ chuyển
đến cho dân những đòi hỏi có trong sách luật, lời cảnh cáo hay lời hứa cho dân.
Không ít lần Thánh Kinh đã nhắc đến cảnh dân Do thái bị lưu đày,
sầu khổ, hoạn nạn, truân chuyên, và các ngôn sứ được phái tới để loan báo cho
dân một niềm hy vọng hay niềm vui của sự cứu thoát. Tiên tri Êgiêkien, Isaiah,
Giêrêmia đã loan báo về lòng thương xót cảm thông của Giavê đối với nỗi khổ của
dân, và Ngài sẽ ra tay cứu thoát họ.
Thế nhưng không ít lần các tiên tri cũng vạch cho dân biết các
nỗi thống khổ là do họ đã bỏ Thiên Chúa. Các ngài can đảm lên tiếng phê phán,
cảnh cáo lối sống sai lạc, và báo trước một hình phạt sẽ sảy đến hoặc sẽ kéo dài
nếu người ta không đổi mới cuộc đời.
Kết quả của lời cảnh báo thường sẽ là: “hoặc họ nghe, hoặc họ
không nghe” (Ez 2:5). Thậm chí, lắm khi mạng sống của vị ngôn sứ còn bị đe doạ,
nhất là khi phải nói lời Chúa cho những vị có quyền lực trong dân.
Ai lại không biết trong một quốc gia phong kiến, vua là trên
hết. Mọi uy quyền sức mạnh đều nằm trong tay vua. Đụng đến vua thì chẳng khác
chi tự đưa mình vào hang cọp. Thế mà để chu toàn sứ mạng, các tiên tri đã không
quản liều mình.
Thánh Kinh có ghi lại hình ảnh của một tiên tri Nathan đầy khôn
ngoan, dám tố cáo tội ngoại tình, giết người, cướp vợ của vua Đavít; hay hình
ảnh can đảm của tiên tri Elia, dám nói thẳng với hai vợ chồng vua Akhab việc họ
đã giết Nabot và chiếm đoạt tài sản của ông cách bất công, nên Thiên Chúa sẽ
giáng phạt tội ác của họ; hoặc dưới triều vua Yosya, tiên tri Sophonia đã trách
cứ các tư tế và chỉ trích thói tục ngoại lai khi tôn sùng các thần giả.
Trước lời loan báo, cảnh tỉnh của tiên tri, “hoặc là họ nghe,
hoặc là họ không nghe”- một là người ta sẽ lùi bước trước điều gian ác để sám
hối canh tân hoặc chính các tiên tri sẽ phải chuốc hoạ khổ đau, như trường hợp
của ngôn sứ Gioan Tiền hô khi dám lên tiếng phản đối hành động loạn luân của
Hêrôđê.
Các tiên tri của Chúa không những dám đánh mất sự sống thân xác
khi đụng đến những kẻ có thế lực và quyền hành trong dân, các ngài còn dám hy
sinh cả an toàn tình cảm khi lên tiếng cảnh cáo răn đe dân chúng. Như tiên tri
Giêrêmia, Amos, Giôna, Nahum, Mica, những vị dám lên án dân Do thái, dám thoá
mạ bọn nhà giàu cướp bóc người nghèo, những kẻ cho vay vô lương tâm, những con
buôn gian lận, những gia đình chia rẻ, các tư tế tham lam, hay các quan án hối
lộ.
Giữa một xã hội vô luân, giữa một dân tộc bị tục hoá, giữa những
con người đang chạy theo những điều vô đạo, vô phép, mà một mình dám đứng lên
để mở ra một hướng đi mới, dạy dỗ một giáo lý mới nhân danh Chúa, tất khó tránh
khỏi cảnh kẻ chê người ghét, kẻ phản đối người hận thù.
Đức Giêsu, vị tiên tri tối cao, cũng không được miễn trừ. Phúc
âm nói rõ: khi trở về quê nhà Nazaret, Ngài vào hội đường để giảng dạy. Ngài
rao truyền một giáo lý yêu thương “họ không nghe.” Hơn nữa họ còn “vấp phạm vì
Người” (Mc 6:3b).
Tất nhiên sự vấp phạm này không chỉ là thái độ thiếu kính trọng
đối với “anh thợ mộc con bà Maria” của những người hàng xóm, nhưng còn cả hành
vi phủ nhận không tin của bà con thân cận (Ga 7:5). Chính Chúa Giêsu đã phải
thốt lên: “Không tiên tri nào mà không bị khinh bỉ nơi quê quán, bà con, họ
hàng nhà mình” (Mc 6:4).
Thế nhưng, dù bị ngược đãi khinh khi, dù phải đối diện với lòng
chai dạ đá, Đức Giêsu vẫn không ngã lòng từ bỏ sứ vụ. Thánh kinh ghi nhận: lúc
đám đông không tin phục thì Ngài đi đến với “một vài bệnh nhân;” khi thành này
từ khước Tin Mừng thì Chúa Giêsu lại đi rao giảng cho “các làng chung quanh.”
Đây phải là thái độ không thể thiếu được nơi các ngôn sứ, những người được mời
gọi rao truyền Lời Chúa cho muôn dân.
Nói đến ngôn sứ xin đừng chỉ liên tưởng đến các vị tiên tri
trong Cựu ước hay những đấng “bạo mồm bạo miệng” dám lên tiếng hăm doạ, kết án
những kẻ sống đời nghịch luân, nghịch thường. Song, ngôn sứ chính là “tất cả
những người Kitô hữu, nhờ phép rửa tội, được hiệp thân với Đức Kitô, kết thành
dân của Chúa và do đó, họ tham dự theo cách thế riêng vào chức vụ tư tế, sứ
ngôn, và vương giả của Đức Kitô. Theo điều kiện của mỗi người, họ được kêu gọi
thực hành sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho Giáo hội chu toàn trong thế giới”
(Giáo Luật số 204).
Như thế, ẩn sâu trong bản chất Kitô hữu của tôi là cả một chức
năng ngôn sứ. Với chức năng đó, đời sống tôi phải đi đôi với việc loan báo chân
lý, bảo vệ luân lý, bênh vực nhân lý nhân danh Thiên Chúa Hằng sống.
Nhưng thử hỏi mấy ai sẽ nghe lời tôi khi đời tôi là một phản
chứng. Làm sao người ta nhận ra chân lý khi mà tôi cứ mãi sống trong gian dối,
lọc lừa, tham lam. Ai có thể nghe tôi dạy dỗ về luân lý khi mà đời tôi đầy dẫy
những thứ vô luân, rối vợ rối chồng, nghiện ngập đam mê. Và ai có thể đồng tình
với tôi để bênh vực nhân phẩm đang khi tôi xúc phạm nhân phẩm, huỷ diệt thai
nhi, cắt đứt tình người.
Như vậy, để đóng trọn vai trò ngôn sứ, đời tôi phải là một nỗ
lực chứng tá liên lỉ. Nhưng tôi tự hỏi: ngay như cuộc đời toàn hảo của Chúa Cứu
Thế cũng không được mọi người chấp nhận và bước theo, huống hồ là cuộc đời
chứng tá của mình?
Nhưng tính chất cần có của đời ngôn sứ vẫn là không ngã lòng bỏ
cuộc. Dù với khó khăn trắc trở của môi trường hay của lòng người, tôi vẫn cứ
tiến tới. Trong niềm tin như Thánh Phaolô, tôi dám nói: “Ơn Chúa luôn đủ cho
tôi. Vì chính trong sự yếu hèn của tôi mà quyền năng Thiên Chúa được tỏ bày” (2
Cr 12,9).
8. Thèm khát.
Có một lực sĩ, trong cuộc tranh tài quốc tế đã đoạt chức vô địch
với tấm huy chương vàng. Các bạn bè hâm mộ anh, đã dựng một tượng đài để tỏ
lòng khâm phục anh. Điều đó đã làm cho một lực sĩ khác tỏ ra thèm khát. Anh
này, ban đêm đã hì hục trong bóng tối để đào bới với hy vọng phá đổ tượng đài
ấy. Trong lúc anh này đang cố gắng xô đẩy bức tượng, người ta nhận thấy bức
tượng lắc lư trên chiếc đế, rồi bỗng dưng đổ nhào xuống trên đầu và đè chết anh
lực sĩ thèm khát này.
Đó là một câu chuyện tiêu biểu cho tính thèm khát, một tính xấu
đã từng thâm nhập vào tâm hồn nhiều người. Tính xấu này cũng đã có mặt qua đoạn
Tin mừng hôm nay. Nhiều người bà con lối xóm tại Nagiarét, nơi Đức Kitô sinh
trưởng đã tỏ ra bực bội tức tối vì Ngài được tôn kính và ca tụng do những lời
Ngài nói và những việc lạ lùng Ngài làm. Họ từ chối không muốn nghe lời Ngài,
không muốn tin vào Ngài, không muốn bước theo Ngài. Kết quả là Chúa Giêsu đã không
làm được phép lạ nào ở chính quê hương bản quán của Ngài, chỉ vì họ cứng lòng
tin.
Thèm khát và ghen tị thì rất gần gũi nhau… Thèm khát thì liên hệ
tới cái người khác có. Còn ghen tị thì liên hệ tới sự chú ý và tình cảm người
khác được. Phải chăng tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi,
giàu sang hơn tôi, có nhà cao cửa rộng hơn tôi. Phải chăng tôi buồn vì một ai
đó được tôn trọng và được kính nể hơn tôi. Chúng ta cần phải lưu ý: nếu chỉ mơ
ước có được một cái gì đó mà người khác đã có thì chưa phải là thèm khát. Mơ
ước đó chỉ trở thành thèm khát khi thiếu những cái đó, sẽ làm cho chúng ta buồn
phiền, bất mãn và khốn khổ.
Chúa đã qui định hai giới răn để kìm hãm lòng thèm khát của
chúng ta. Điều răn thứ chín quy định: chớ muốn vợ chồng người và điều răn thứ
mười: chớ tham của người. Và như thế, thèm khát là ham muốn một cách trái phép.
Hầu hết các tội lỗi đều do sự ham muốn này gây nên, chẳng hạn: vì ham muốn tài
sản của người khác mà mới nảy sinh những tội như ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn
gian.
Sự ghen tị cũng vậy, vì nó mà nảy sinh ra nói hành nói xấu, bỏ
vạ cáo gian và những hành động mờ ám khác nữa. Sự ghen tị xấu xa nhất đã đem
cái chết cho Đức Kitô Đấng cứu độ chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy lòng ghen tị đã làm mù
quáng những kẻ mà đáng lẽ có thể tin theo Ngài. Vậy chúng ta có thái độ nào đối
với lòng ghen tị. Khi người khác được thành công, được may mắn, được kính nể,
chúng ta có biết cảm tạ Chúa cho họ hay không? Còn nếu như chúng ta bị người
khác ghen tị, chúng ta có biết xin Chúa giúp họ chế ngự và sửa đổi lầm lỗi ấy
hay không? Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ chống đối Ngài, thì giờ đây
chúng ta hãy xin Ngài giúp đỡ chúng ta biết vượt thắng sự thèm khát và lòng
ghen tị nơi bản thân chúng ta, cũng như nơi những người chung quanh chúng ta.
9. Đừng để lỡ cơ hội – ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt.
Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt
trăng như sau: Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian
sinh sống ra sao, sai một ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một
người ăn mày già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa
đông mưa lạnh. Ông lão đi ăn xin và xin chỗ trọ. Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là
nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe
nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà thứ hai mà ông gõ cửa
là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông
lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó
là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở
cửa mời ông vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong
bên đống lửa cho khô. Ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho
tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ vội vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông
năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên trí,
thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to
hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ định làm gì thì thỏ đã nhảy
vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một mùi thơm tỏa lan cả căn
nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm một món ăn cho ông
lão ăn mày. Ông lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc
Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt
nặng nề. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần.
Nên người Trung Quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.
Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa
của câu chuyện đáng cho ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội.
Phải chi chúng biết đó là ông tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây
giờ thì đã muộn. Chúng chẳng hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành
thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ trở lại nữa.
Tương tự như thế, những người ở làng quê Nagiarét hôm nay cũng
đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa giả dạng
làm một người thường đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con
ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người rất nghèo, chẳng có danh giá gì
trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để
lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Người
bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Người sẽ chẳng bao giờ trở lại
Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế.
Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những
cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc;
khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng
trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy
tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều
cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân;
qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc
nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao
giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ
trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.
Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh
mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp
ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn
luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để
nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng
mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng
qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những
đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi
lần Chúa đến với con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có khi nào bạn đã để lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?
2) Bạn đánh giá một người theo giá trị thực sự của họ hay theo
cảm nghĩ của bạn dựa trên những hiểu biết về gia cảnh, về lý lịch của họ?
3) Bạn cần chuẩn bị những gì để khỏi lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?
10. Những
điều nghịch lý – Jean Yves Garneau.
Những điều nghịch lý: đó là những ý kiến hoặc thực tại ngược với
những gì vẫn được người ta chấp nhận hoặc ngược với những gì phải có theo lẽ
bình thường.
Trong những đoạn Kinh Thánh của Chúa nhật hôm nay ta có thể rút
ra hai điều nghịch lý: Điều thứ nhất trích từ Tin Mừng; điều thứ hai từ thư
thánh Phaolô gởi giáo đoàn Corintô. Chúng ta hãy bắt đầu với điều nghịch lý của
Tin Mừng.
Bị người nhà của Ngài chối bỏ.
Sau một chuyến đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu trở về quên
hương. Người ta chỉ nghe toàn tiếng vang thuận lợi về Ngài.
Ngài rao giảng như không bao giờ đã có ai rao giảng. Ngài làm
phép lạ, Ngài chữa lành bệnh nhân. Vậy nên, nơi hội đường trong ngày Ngài trở
về cứ tưởng người ta sẽ đón rước Ngài một cách long trọng. Thế mà không. Con
cái của quê hương không được đón tiếp niềm nở. Người ta khó lòng tưởng tượng
tượng đứa con trai bác thợ mộc và của bà Maria lại có thể là người đã được ca
tụng như thế, liệu ông ta có làm được những gì mà người ta nói rằng ông ta đã
làm ở nơi khác chăng? Thánh Marcô viết: “Và họ lấy làm chướng tai gai mắt về
Ngài”.
Khi đọc bản văn Tin Mừng hôm nay liền nghĩ đến điều này, là rất
thường người ta phải khó nhọc lắm mới có thể bắt chúng ta nhìn nhận tài năng
–không phải của con cái hoặc những thành viên trong gia đình chúng ta- nhưng là
của những người lối xóm, những người đồng hương với chúng ta. Sự nhỏ nhen này
không phải là không có hậu quả tiêu cực, bởi vì chúng làm tổn thương người khác
và ngăn cản những dự định tốt.
Khi đọc bài Tin Mừng này tôi cũng nghĩ đến cách mà chúng ta đón
nhận (hoặc không đón nhận) và lắng nghe (hoặc không lắng nghe) những kẻ rất gần
chúng ta, là chứng nhân của Thiên Chúa: Đứa bé này đặt câu hỏi cho chúng ta do
bởi sự sốt sắng của nó; Người hàng xóm này nói về tôn giáo cho chúng ta, người
thiếu niên này chống lại cái mà nó gọi là những giá trị giả tạo của chúng ta.
Vị linh mục này, nhân danh Chúa Kitô, đặt lại vấn đề về những lối hành động và
suy tư của chúng ta. Bởi vì chúng ta quen biết tất cả những người này (có lẽ
quá!) bởi vì chúng ta biết những tật xấu và những yếu điểm của họ, nên chúng ta
có khuynh hướng hạ giá chứng tá của họ.
“Một ngôn sứ chỉ bị chối bỏ nơi quê hương, bởi bà con và gia
đình mình mà thôi”. Đó là điều khiến Chúa Giêsu đã nhận xét. Điều mà chúng ta
thường thấy xẩy ra! Nếu chúng ta thuộc về số những kẻ không có quyền lên tiếng
với bà con của mình, và không được đón tiếp ân cần trong chính nhà của mình,
nơi giáo xứ, môi trường của mình… ta hãy cứ tỏ ra bình thản. Ta hãy tự nhủ rằng
Chúa Giêsu đã bị đối xử như thế và môn đệ không thể hơn Thầy được.
Sức mạnh trong nỗi yếu đuối.
Nghịch lý thứ hai chính thánh Phaolô trình bày cho chúng ta khi
người đặt trong miệng Thiên Chúa Lời này: “Quyền uy của Ta tỏ hiện tột mức
trong sự yếu hèn”. Con người càng mạnh, càng tự hào và tự tin, càng cậy dựa vào
những khả năng của mình thì quyền uy của Thiên Chúa càng ít được thể hiện nơi
họ. Trái lại họ càng khiêm tốn, bé nhỏ, ý thức giới hạn của mình và hoàn toàn
tin tưởng nơi Thiên Chúa, lúc đó quyền năng của Thiên Chúa càng có thể được tỏ
hiện nơi họ.
Nghịch lý thực sự, ngược với những gì chúng ta nghe nói mỗi ngày
và những gì nhiều lần chính chúng ta tưởng nữa. Phải thông thái, giàu có, thống
trị kẻ khác… mới thành công được ở đời. Đó là triết lý thông thường! Ngược hẳn
với những gì Thiên Chúa nghĩ. Thiên Chúa ưa thích làm những điều lớn lao qua những
kẻ bé mọn, nghèo nàn, yếu đuối, khiêm tốn, những kẻ không tôn mình lên, những
kẻ xác tín rằng nếu mình có làm được điều gì lớn lao, thì đó không phải là nhờ
sự cao cả của mình nhưng nhờ sự cao cả của Thiên Chúa được mặc khải nơi mình.
Đức Maria, một phụ nữ mà người ta không để ý đến. Nhưng có biết
bao nhiêu điều tuyệt diệu Thiên Chúa đã làm nơi người và nhờ người! Thánh
Phaolô, một con người kiêu hãnh và tự mãn đã bị thử thách và tổn thương nhiều
nơi thân xác và đã trở thành một người khiêm tốn. Cũng nơi người và nhờ người
nữa, Thiên Chúa đã làm những điều cao cả.
Bao giờ cũng thế. Những kẻ ốm đau, Thiên Chúa ưa thích làm việc
qua họ. Những kẻ coi như không ra gì, lại chính là những kẻ Ngài rất thường
chọn để thực hiện những dự tính đẹp đẽ nhất của Ngài.
Ta hãy kết thúc những suy tư này bằng một cái nhìn về bản thân
chúng ta. Nếu chúng ta có khổ vì những yếu đuối, nhựng rụt rè, những nỗi lo sợ,
những nỗi bất lực của chúng ta, chúng ta cũng đừng ngã lòng. Trái lại chúng ta
hãy phục vụ Chúa hết mình và xin Ngài thực hiện cho chúng ta những gì mà biết
bao lần Ngài đã thực hiện cho những người khác. Xin Ngài biểu lộ quyền năng của
Ngài nơi nỗi yếu hèn của chúng ta.
11. Đánh
giá theo lý lịch.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô
tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia
đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công
trình lớn lao cho hậu thế, cho Giáo Hội.
Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo
Hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê
mùa, chất phát. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị
Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con
người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất
là với Cộng đồng Vatican II mà ngài đã triệu tập, Giáo Hoàng Gioan XXII đã trở
thành một “siêu sao”của thời đại, trổi vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.
Đừng đánh giá con người theo lý lịch, tương tự như dân làng
Nagiraret đã đánh giá Đức Giêsu Nagiarét: “Nagiarét mà có cái chi hay!”. Thế mà
con người làng Nagiarét ấy là Đấng Cứu Thế môn dân trông đợi. Tin Mừng hôm nay
kể lại: Chúa Giêsu trở về Nagiarét, quê hương của Ngài, trong tư thế một vị
Ngôn Sứ, một bậc thầy, có các môn đệ tháp tùng. Ngày Sabbat, Ngài vào Hội đường
đọc Sách Thánh và công bố giáo lý của Ngài. Dân làng Nagiarét lấy làm ngạc
nhiên sững sốt. Họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn
ngoan như vây nghĩa là làm sao? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là
gì?”. “Ông ta là ai?”. “Ông ta không phải là chú thợ mộc trong làng, con của bà
Maria, không phải là anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Giôxê, Giuđa và Simon
sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”. Họ biết
quá rõ lý lịch của Ngài, biết rõ họ hàng nhà Ngài, nên họ không thể nào để cho
khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ chẳng nhìn nhận Ngài là ai
khác hơn là “chú thợ mộc trong làng”.
Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì phải xuất thân từ dòng dõi “trâm anh
thế phiệt”, phải là một “trang anh hùng xuất chúng” đầy uy thế và quyền lực
chứ! Còn ông Giêsu này thì quá nghèo nàn, tầm thường. từ xuất xứ, lý lịch gia
đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội. Tất cả đều trở thành “chướng ngại cho họ
tin vào Ngài”. Nói cách khác đi, chưỡng ngại làm cho những người đồng hương vấp
ngã chính là dáng vẻ đối nghịch giữa con người bên ngoài của Đức Giêsu và sứ
mạng thần linh bên trong của Chúa. Vì thế, họ quay lưng lại với Ngài, với cả
Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài, Cái tội lớn nhất của con người không phải là ngu
dốt, không biết, nhưng thái độ kiêu ngạo, phản loạn, chống đối Thiên Chúa. Cuộc
chống đối này lên đến tột độ khi con người đóng đinh Con Thiên Chúa trên thập
giá dựng trên Núi Sọ. Ở đây, Thánh Marcô cho thấy thái độ của dân làng Nagiarét
đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của “chủ
nghĩa lý lịch”. “Không tiên tri nào không bị khinh chê nơi quê hương mình, giữa
họ hàng và trong nhà mình”. “Không Ngôn Sứ nào được quí trọng tại địa phương
mình”. Biến cố này nói lên cái bi đát trong đời Chúa Giêsu: “Ngài đã đến nhà
mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Ngài” (Ga 1,11). Những người ruột
thịt, đồng hương, không muốn trở thành bà con họ hàng thật của Chúa Giêsu nhờ
lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Câu chuyện này
còn tiếp nối trong lịch sử Giáo Hội: dân ngoại đón nhận Tin Mừng, còn những con
cái trong nhà thì lại không chịu tin vào Ngài. Đó là một kinh nghiệm sống động
của Giáo Hội sơ khai và làm cho mọi người ngạc nhiên như chính Chúa Giêsu đã
phải ngạc nhiên.
Người đồng hương Nagiarét của Chúa Giêsu hôm nay là ai? Chính
chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta đã trở thành
anh em của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta. Nhưng hình như
chúng ta lại biết Ngài quá rõ đến độ chẳng thấy ở nơi Ngài cái gì khác hơn là
một Chúa Giêsu quen thuộc của các lời kinh, các bải giảng. Người ta nói: “quen
quá hoá nhàm”. Chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Tin
Mừng, quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội. Chúng ta đi tìm sự khôn ngoan,
tìm ơn cứu độ ở những người khác, ở những nơi khác. Chúng ta làm như thế Chúa
Giêsu cũng chỉ là “một chú thợ mộc làng Nagiarét”, một người Do Thái của thế kỷ
thứ nhất, không hơn không kém, chẳng có gì để đem lại cho chúng ta. Đọc Tin
Mừng của Ngài có khi chúng ta cũng thấy hay, lý thú… nhưng chẳng thấy gì hơn.
“Bụt nhà không thiêng” vẫn là số phận của Chúa Giêsu phải chịu hôm nay nơi các
Kitô hữu.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải xác định lập trường, thái
độ của mình đối với Đức Kitô. Chúng ta muốn đứng về phía dân làng Nagiarét hay
muốn đứng về phía Chúa Giêsu? Đừng đánh giá con người theo lý lịch, theo thành
kiến. Thiên Chúa đã đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu
Kitô, người Nagiarét. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương của Ngài không ở tiền
tài và giàu sang hay chức quyền mà ở trong con người nghèo hèn. Điều này đã nên
cớ vấp phạm cho người Do Thái, cho người đồng hương với Chúa Giêsu, nhưng lại
mời gọi lòng tin của chúng ta có dám tin như thế không.
Ở đây, niềm tin mời gọi người phải vượt qua dáng vẻ tầm thường
bên ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Ngôn
Sứ tuyệt vời, là Lời Vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngài đã nói thay Thiên Chúa để
đem đến cho nhân loại Tin Mừng cứu độ. Với cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giêsu
đã nói lên tiếng nói cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người phản
bội, chống đối Thiên Chúa. Cái chết thập giá của Con Thiên Chúa không phải là
một thất bại, nhưng là một chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên
Chúa được tỏ hiện trong sự yếu hèn của con người.
Cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được biết Tin Mừng cứu độ qua Ngôn
Sứ, qua chính Con Một Thiên Chúa, qua các Tông Đồ, qua Giáo Hội. Nhờ Tin Mừng
này chúng ta được đến với Chúa, sống với Chúa và hoạt động cho Chúa.
12. Đừng
thèm khát – Gm. Arthur Tone.
Những người cổ Hy lạp thích thể thao, nhất là những cuộc thi
chạy lẹ, thi sức mạnh và dai sức. Những cuộc tranh tài Olypic ngày nay phát
sinh từ những ngày đó. Trong một cuộc tranh tài cổ xưa, một lực sĩ đoạt chức vô
địch. Các bạn hâm mộ ông đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục. Điều đó
làm cho một lực sĩ bạn thèm khát. Anh này, ban đêm trong bóng tối, gắng sức phá
đổ tượng đài ấy. Anh tìm cách xô đẩy bức tượng được vài phân, bức tượng lắc lư
vài cái trên đế, rồi đổ nhào trên đầu và đè chết anh lực sĩ.
Đó là câu chuyện thèm khát. Tính xấu này đã xâm nhập tâm hồn
nhiều người. Chúng ta thấy tính xấu này trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhiều người
trong làng xóm, nơi Đức Giêsu sinh trưởng, đã buồn bực vì Người được tôn kính
và ca tụng. Do lời nói và việc làm lạ lùng của Người. Họ từ chối nghe lời
người, từ chối tin vào Người, từ chối theo Người, kết quả là Đức Giêsu, không
thể làm phép lạ ở đó.
Thèm khát và ghen tỵ gần gũi nhau. Thèm khát liên hệ tới cái
người khác có. Ghen tỵ liên hệ tới sự chú ý và cảm tình người khác được. Phải
chăng tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu hơn tôi, có
xe láng hơn tôi, có nhà đủ tiện nghi hơn tôi? Phải chăng tôi buồn vì một ai đó
được để ý và kính nể. Chỉ mơ ước có một cái gì mà người khác đã có, không phải
là thèm khát. Nó chỉ trở thành thèm khát khi thiếu những cái đó làm bạn buồn,
bất mãn và khốn khổ.
Chúa cho chúng ta 2 giới răn đối lập lòng thèm khát. Giới răn
thứ 9: “Ngươi chớ ham muốn vợ người khác”. Và giới răn thứ 10: “Ngươi đừng ham
muốn của cải người khác”.
Thèm khát là ý muốn trái phép: ham muốn một người không phải là
vợ (chồng) của bạn một cách trái phép là nguyên cớ của hàng triệu vụ ly dị trên
đất Mỹ năm 1997. Tính thèm khát gây nên bao đau thương, bao đổ vỡ.
Hầu hết tội ác đều do sự ham muốn tài sản của người khác cách
trái phép gây nên.
Sự ghen tỵ xấu xa lớn nhất đã đem đến cái chết cho Đấng đáng yêu
mến của thời đại. Chúa chúng ta, Đấng cứu chuộc chúng ta, Đức Giêsu Kitô. Tin
Mừng hôm nay kể lại lòng ghen tỵ đã làm mù quáng những kẻ có thể tin theo Đức
Kitô.
Chúng ta có thái độ gì đối với lòng ghen tỵ? Khi một người thành
công, phát đạt, được kính nể? Chúng ta hãy cảm tạ Chúa cho họ. Nếu bạn bị người
ta ghen tỵ. Bạn hãy xin Chúa giúp cho họ chế ngự được lỗi lầm của họ. Chúa
Giêsu đã cầu nguyện cho kẻ chống đối Người. Đức Kitô sẵn sàng giúp đỡ vì Người
đã từng chịu những kẻ ghen ghét hành hạ. Xin Người giúp bạn vượt thắng tính xấu
này nơi bạn và nơi người khác.
Xin Chúa chúc lành bạn.
13. Suy niệm
của Noel Quesson.
CHÚA NGẠC NHIÊN VÌ HỌ THIẾU LÒNG TIN
Thánh Antôn, người khởi xướng cuộc sống ẩn tu trong Giáo Hội,
một hôm sau khi giảng về Bài Giảng Trên Núi, có một số giáo dân tới hỏi:
- Thưa cha, chúng con phải làm gì để nên trọn lành?
Thánh nhân trả lời:
- Tin Mừng đã dạy: “Ai tát vào má phải ngươi, hãy giơ má trái
cho nó.”
Họ thưa:
- Chuyện này khó quá, chắc làm không nổi.
Thánh Antôn nói:
- Nếu không, ít ra cũng không được báo thù. Phải tha thứ cho
những người xúc phạm đến mình.
Nhóm giáo dân thưa:
- Việc này vẫn quá khó, không thể để yên những người xúc phạm
đến mình được.
Thánh Antôn nghe xong, quay bảo người môn đệ:
- Con hãy đi nấu cháo cho những người này ăn, vì họ quá yếu
đuối, ta hãy cầu nguyện cho họ.
Là nhà giảng thuyết, là nhà truyền giáo, thế nào cũng có lần gặp
thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng. Ngay Chúa Giêsu, nhà giảng thuyết đại
tài mà cũng đã từng thất bại trước nhóm bà con xóm làng quen thuộc.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết từ Capharnaum Chúa trở về
thăm quê nhà, giảng trong hội đường. Tại Capharnaum, Chúa đã làm nhiều phép lạ.
Có nhiều phép lạ nghĩa là có nhiều người tin Chúa, người ta lũ lượt theo Chúa
đến quên ăn quên ngủ. Việc này gây xôn xao khắp miền Galilê, và chắc chắn những
người đồng hương của Chúa cũng đã nghe biết. Bây giờ Chúa trở về quê nhà với
nhóm môn đệ, có lẽ ai cũng tưởng người anh em đồng hương hân hoan đón nhận.
Nhưng tình hình biến chuyển khác hẳn. Khi nghe Chúa đọc và giải nghĩa Thánh
kinh ở Hội đường, họ cũng nhận là có những điều hay, nhưng nghĩ tới gốc gác tầm
thường của Chúa, họ cho Ngài là một người không đáng tin. Bởi không tin nên họ
cũng không nhận được phép lạ nào.
Có thể nói Chúa thất bại nơi quê hương. Cũng vậy, Giáo Hội nhiều
lúc đã thất bại. Có người nói: “Tôi tin Đức Kitô, nhưng không tin Giáo Hội”.
Thực ra Giáo Hội lại chính là khía cạnh nhân tính của Đức Kitô. Giáo Hội gồm
những con người: các giám mục, linh mục, giáo dân. Những con người đó chẳng
những quá quen thuộc mà có khi còn bất toàn nữa. Nhiều người thời nay đã vấp
ngã vì Giáo Hội, cũng như những người đồng hương của Chúa Giêsu đã từ chối,
không tin nhận Ngài. Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng những lời than phiền: “Chúa
Giêsu ngạc nhiên vì họ thiếu lòng tin”. Thực ra, Chúa đâu có ngạc nhiên vì Chúa
đã dựng nên con người có tự do. Chúa quá rõ tâm địa những con người đó, có ngày
họ sẽ nổi lên chống lại Chúa, sẽ làm theo ý họ chứ không theo ý Chúa. Nhưng một
khi đã cho con người tự do thì Chúa không rút lại, Chúa tôn trọng tự do của con
người dù chúng làm cho Chúa buồn lòng. Chính vì vậy, chúng ta thấy ân huệ đức
tin thật là cao quí.
Lạy Chúa, chúng con tin Chúa đã nhập thể làm người để cứu chuộc
chúng con. Xin ban ơn đức tin cho những người đã được nghe biết Tin Mừng để họ
đón nhận Chúa và được Ngài cứu độ. Chúng con xin tạ ơn Chúa.
14. Trân trọng
con người vì phẩm chất của họ.
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Tagore (1861-1941) là một đại thi hào của Ấn Độ, đoạt giải Nobel
về văn chương năm 1913, có tài làm thơ ngay khi còn nhỏ tuổi.
Lúc còn niên thiếu, thỉnh thoảng Tagore làm một vài bài thơ gửi
đăng trên tờ báo do thân phụ của mình đảm trách phần biên tập. Khi thấy những
bài thơ gửi đến ký tên con mình, người cha chẳng thèm đọc thơ mà quẳng ngay vào
sọt rác vì cho rằng con mình còn nhỏ dại thì biết gì thi ca.
Khi hiểu rõ sự tình, Tagore chép lại những bài thơ mà cậu đã gửi
đăng báo, không ký tên thật của mình nữa mà lấy một bút hiệu khác rồi gửi lại
cho toà báo.
Lần nầy, thân phụ của Tagore nhận thấy đây là những bài thơ có
giá trị và cho đăng ngay lên báo mà không hề hay biết đó là những bài thơ của
con trai mình, những bài thơ mà trước đây ông đã quẳng vào sọt rác.
Đúng là: "Bụt nhà không thiêng", hay nói như Chúa
Giêsu: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay
giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi" (Mc 6, 4).
Ngay cả Chúa Giêsu cũng phải chịu cùng một số phận đó.
Mặc dù danh tiếng Chúa Giêsu đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời
rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều người bệnh tật và nhờ những phép
lạ Người làm, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào
gia thế thanh bần của Chúa Giêsu, nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng
dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị
trong làng, nên họ không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Người nữa.
Họ xì xào bàn tán với nhau: "Ông ta không phải là bác thợ,
con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao?
Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì
Người" (Mc 6,3).
Bấy giờ Chúa Giêsu nêu lên một nhận định có phần chua xót:
"Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa
đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi."
Thế là Chúa Giêsu chẳng làm được phép lạ nào tại Na-da-rét (Mc
6, 5) cho người đồng hương. Người rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.
Tiếc thay, vì đánh giá Chúa Giêsu theo lớp vỏ bên ngoài, dân
làng Na-da-rét đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giêsu ưu ái
dành cho họ.
Việc đánh giá Chúa Giêsu dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không
dựa vào phẩm chất của Người đã chứng tỏ cho thấy dân thành Na-da-rét đề cao giá
trị vật chất mà xem nhẹ giá trị tinh thần.
Có giai thoại kể rằng một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã
lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya. Y tháo gỡ
miếng giấy ghi giá bán của những mặt hàng có giá trị cao, đem dán vào những mặt
hàng rẻ mạt, rồi gỡ miếng giấy ghi giá bán những mặt hàng rẻ mạt gắn vào những
món hàng quý báu. Thế là các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những
món hàng rẻ mạt thì được nâng cao giá trị gấp trăm lần. Hành động quái ác nầy
khiến khách hàng không thể nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng
nên đã mua lầm một cách tai hại (ý tưởng của Frère Phong trong cuốn "mắm
muối cho bữa ăn hằng ngày")
Ngày nay, các giá trị của đời sống con người cũng đang bị đảo
lộn y hệt như thế, khiến nhiều người đua đòi chạy theo những điều phù phiếm mà
rời xa những giá trị tinh thần và văn hoá cao đẹp.
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên giới
trẻ ngày nay đua đòi ăn mặc hợp thời trang, dù phải mặc những loại y phục thiếu
nết na và kỳ quái, và cho rằng có như thế mới khẳng định được giá trị của mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên
nhiều người sẵn sàng hiến thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu
sang bằng mọi giá, cho dù phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác
mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên
người ta đánh giá con người dựa theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ
không dựa vào phẩm chất cao đẹp bên trong.
Trước thực trạng đó, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người:
"Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc
phẩm chất của mỗi người"
Nguyện xin Chúa Giêsu giúp chúng ta đừng theo vết dân thành
Na-da-rét ngày xưa, đánh giá con người theo hình tướng bên ngoài, nhưng biết
tôn trọng con người vì phẩm chất cao quý của họ và vì họ là chi thể của Chúa
Giêsu và là hiện thân của Thiên Chúa.
Và xin cho nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh
thần cao quý đáng theo đuổi suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến
luyến ham mê.
15. Lắng
nghe Lời Chúa.
Trước thái độ cứng lòng của dân làng Nagiarét, chúng ta cùng tìm
hiểu và chia sẻ về việc lắng nghe lời Chúa.
Giữa giòng đời huyên náo và quay cuồng, đôi lúc chúng ta cảm
thấy vọng lên từ thẳm sâu cõi lòng lời thì thầm sau đây:
- Hãy dừng lại. Đừng chạy nữa và đừng nói nữa. Hãy để ngoài tai
những âm thanh ồn ào. Vì lòng yêu mến Chúa, hãy dành lấy một khoảnh khắc thinh
lặng. Hãy lắng nghe tiếng nói từ trời cao, vang lên trong tâm hồn mỗi người
chúng ta.
Thực vậy, hãy để ngoài tai những âm thanh ồn ào của thế gian, vì
chúng chỉ nói với chúng ta những điều điên cuồng và dối trá, để rồi sẽ dẫn
chúng ta tới chỗ diệt vong.
Thật là dại dột, nếu để cho cuộc đời vùi dập chúng ta như cánh
hoa bị giòng nước cuốn trôi, vì nguy hiểm đang chờ sẵn. Hãy đề cao cảnh giác và
hãy nhớ rằng tất cả những gì tốt đẹp đều xuất phát từ trời cao, đều do Chúa
Cha, cội nguồn mọi ánh sáng, đổ xuống.
Chính Ngài đã ban cho chúng ta đời sống ơn sủng là như tấm áo
cưới để được đón nhận vào quê hương nước trời. Chỉ mình Ngài mới có thể trao
ban cho chúng ta một cuộc sống không bao giờ tàn úa.
Trong khi con người thì thay đổi và chóng qua như một làn khói
tỏa, như một áng mây bay, thì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng trung thành,
trước sau như một. Trời và đất sẽ qua đi nhưng lời Chúa sẽ chẳng bao giờ qua
đi. Ngài không bao giờ quên mất niềm hạnh phúc vĩnh cửu, như là phần thưởng
Ngài hứa ban cho những kẻ yêu mến và phụng thờ Ngài.
Ngay từ thuở đời đời, Ngài đã tạo dựng chúng ta, chọn lựa chúng
ta và yêu thương chúng ta, mặc dù chúng ta chẳng có công trạng gì. Bởi đó hãy
cảm tạ Ngài không ngớt.
Lời ban sự sống, đó là Tin Mừng, mà chúng ta được nghe ít nữa là
trong ngày Chúa nhật. Vậy thì chúng ta đã đón nhận lời Chúa như thế nào? Chăm
chú lắng nghe? Hay qua lần chiếu lượt, như một bổn phận phải làm cho xong.
Lời đem chân lý đó là Kinh Thánh. Có bao giờ chúng ta mở ra để
đọc và suy nghĩ, hay là chúng ta sẽ thầm bảo rằng: làm gì có thời giờ cho những
công việc phù phiếm ấy.
Mỗi ngày chúng ta có biết bao nhiêu thời giờ để làm lụng, để ăn
uống, để ngủ nghỉ, để giải trí, để cắm đầu vào những cuốn chuyện nhảm nhí như
thuốc độc giết hại tâm hồn. Nhưng lại không có lấy một chút hứng thú cho những
việc đạo đức, cho những sự thiêng liêng.
Hãy cầu xin với Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn mỗi
người, cho chúng ta biết yêu thích lắng nghe lời Chúa, để rồi sẽ ghi nhớ trong
cõi lòng của mình, như lời thánh Phaolô khuyên nhủ:
- Hãy mau nghe nhưng chậm nói.
Đúng thế, hãy yêu thích lắng nghe lời Chúa, và lời Chúa sẽ dần
dần uốn nắn sửa đổi chúng ta. Lời Chúa là ánh sáng đánh tan sương mù vây bủa
cuộc đời. Lời Chúa là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động. Lời Chúa sẽ đánh
động tâm can và là một thứ khí giới bảo đảm cho chúng ta trước mọi cơn cám dỗ
của thù địch.
Hãy mau nghe nhưng chậm nói, vì nói nhiều thì thường là nói bậy.
Ai kiểm soát được lời nói của mình thì đã xóa bỏ được rất nhiều tội lỗi và sai
phạm.
Ước chi lời Chúa được lắng nghe, sẽ đọng lại nơi tâm hồn và trở
nên khuôn mẫu cho đời sống người Kitô hữu chúng ta.
16. Ngạc
nhiên.
Người ta thường nói “không nơi đâu đẹp bằng quê hương”, “ta về
ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Khi nói những điều đó là người
ta muốn minh chứng rằng: bất cứ ai cũng yêu mến quê hương, yêu mến nơi sinh
trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đây là xét về tình cảm cá nhân mỗi
người dành cho quê hương, còn về chính quê hương, đối lại với cá nhân, tức là
tình cảm của những người đồng hương dành cho cá nhân, thì phải chấp nhận chân
lý bất hủ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay là “không một ngôn sứ nào
được chấp nhận tại quê hương mình”. Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân:
“Bụt nhà không thiêng”. Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản
thân Ngài tại quê hương Nagiarét của Ngài.
Ngài trở về quê hương Nagiarét sau hơn một năm đi giảng dạy khắp
nơi. Hôm ấy đúng vào ngày Sabat, mọi người đến hội đường để nghe đọc Kinh Thánh
và nghe diễn giảng. Chúa Giêsu cũng vào đây để dự phụng vụ lời Chúa. Hôm nay,
sau bài đọc, như luật cho phép, Ngài diễn giảng lời Chúa. Kết quả: dân chúng
không nhận ra Ngài là ai và họ khinh khi Ngài, họ có thái độ hiểu lầm Ngài,
hiểu lệch lạc về con người của Ngài. Bởi vì Ngài nói như một người có uy quyền,
như bậc thầy nói với học trò, như một người muốn gây dựng cho mọi người lòng
tín nhiệm nhau để tiến tới tin nhau. Điều Ngài dạy vượt mọi khuôn phép cổ
truyền đến nỗi mọi người phải thắc mắc.
Nghĩa là trước những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, dân làng
Nagiarét ngạc nhiên, vì họ thấy Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có
những lời lẽ khôn ngoan, cao siêu, mới lạ. Mặt khác, họ thấy Ngài chỉ là con bà
Maria và bác Giuse thợ mộc, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh phó mộc, mà sao
có thể đảm nhận chương trình đại sự của Thiên Chúa được? Họ không thể ngờ được
giữa bụi đất lại có kim cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính,
họ không thể nhận ra yếu tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời
và đất, hạnh phúc và đau khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi
con người Chúa Giêsu. Đó là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và
không thiết nghe lời chân lý của Ngài.
Nói rõ hơn, dân làng Nagiarét đã ngạc nhiên về Chúa Giêsu khi
thấy Ngài giảng dạy một cách khôn ngoan, thông thái và có thẩm quyền, nghĩa là
họ vừa thán phục vừa kinh ngạc. Nhưng vì biết quá rõ về Chúa: thợ mộc, con thợ
mộc, từ thán phục kinh ngạc họ chuyển sang thái độ bỡ ngỡ, nghĩa là kinh ngạc
nhưng nghi ngờ. Càng nghĩ đến thân thế, nguồn gốc, địa vị xã hội và họ hàng
Ngài, họ càng thấy khó chịu, nên họ có vẻ châm biếm khi gọi Ngài là thợ mộc.
Một người như vậy mà có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia ư? Trăm lần không, ngàn
lần không, và họ đã bị vấp phạm, có nghĩa là bị xúc động mạnh vì bị chạm tự ái.
Họ không thể công nhận một người như thế làm ngôn sứ, làm Đấng Mêsia của họ, cho
dù Ngài ăn nói giỏi hay làm được phép lạ cũng thế. Từ đó, sự hiện diện của Ngài
khiến họ không thể chịu nổi.
Dân làng Nagiarét ngạc nhiên về Chúa, và Chúa cũng ngạc nhiên về
họ, Ngài ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin, kiêu căng và cố chấp. Chính thái độ kiêu
căng, cứng lòng đó đã làm tê liệt năng lực làm phép lạ của Chúa như Tin Mừng đã
quả quyết: “Ngài không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ cứng lòng tin”.
Chúa Giêsu ngạc nhiên vì dân làng Nagiarét cứng lòng tin, ngày
nay chắc Ngài vẫn còn phải ngạc nhiên hơn nữa vì sự cứng lòng tin của nhiều
người Công giáo, vì dù sao người Công giáo cũng phải biết Chúa rõ hơn dân làng
Nagiarét. Dân làng Nagiarét tưởng rằng họ biết rõ Chúa, nhưng kỳ thực họ biết
rất hời hợt, thiển cận, chẳng hạn: ngay nơi sinh của Chúa họ cũng không biết,
họ cứ tưởng Ngài sinh ra và lớn lên ở chính Nagiarét, một làng nhỏ bé, nghèo
nàn. Nhiều người Công giáo cũng thế, đi đạo vì truyền thống gia đình, vì sinh
ra trong gia đình Công giáo, giữ đạo vì thói quen, cho nên tưởng rằng biết Chúa,
biết đạo lý, nhưng kỳ thực không biết gì hay biết không được bao nhiêu. Thế
nên, mỗi người cần suy nghĩ: Chúa có ngạc nhiên về đức tin non yếu của chúng
ta, về sự hiểu biết Chúa quá ít, hiểu biết về Kinh Thánh, giáo lý quá ít, và
nhất là có phải Chúa rất ngạc nhiên về cách sống của chúng ta không?
Đàng khác, bài Tin Mừng hôm nay còn đặt ra cho chúng ta một điều
nữa cần suy nghĩ, đó là từ chối hay đón nhận Chúa là thái độ hoàn toàn tự do
của con người. Người ta có quyền chối bỏ cũng như có quyền chấp nhận. Thiên
Chúa không áp đặt ai hay cố tình đưa ai vào một thế triệt buộc nào đó. Nhưng
thời nào cái quyền tự do kia cũng là con dao hai lưỡi khiến phải đề phòng,
người khôn ngoan bao giờ cũng dè dặt.
Giả như chúng ta thử đặt mình vào số những người có mặt trong
hội đường Nagiarét hôm ấy để nghe Chúa, chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Chúng ta
có quyền trách dân làng Nagiarét quá vội vàng hoặc tiếc thay cho họ vì họ đã bỏ
lỡ cơ hội ngàn vàng. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ tự trách mình, và còn
tiếc nuối biết bao cơ may trong đời chúng ta đã đánh mất vì quan niệm hay cái
nhìn hẹp hòi của chúng ta.
Nói rõ hơn, thái độ từ khước Chúa Giêsu một cách hấp tấp, hồ đồ,
chỉ vì thành kiến của dân làng nagiarét. Thái độ đó nhắc nhở chúng ta kiểm điểm
về cách chúng ta phán đoán và đánh giá trị người khác, chúng ta cũng đã nhiều
lần phán đoán hay đánh giá người khác hoặc vội vàng, hấp tấp, hồ đồ, hoặc không
trung thực vì thành kiến, vì tự ái, vì ganh tị, đôi khi còn bài bác, dèm pha
nữa. Chúng ta hãy kiểm điểm và sửa chữa lại tật xấu này để mối tương giao của
chúng ta với mọi người được tốt đẹp hơn. Chúng ta hãy nhớ: người hay phán đoán,
nhất là phán đoán hồ đồ, không sống được với ai, không chơi được với ai, và
cũng không ai dám chơi với họ, họ bị mất niềm tin nơi mọi người.
17. Thiên kiến.
Cổ học tinh hoa có thuật chuyện “Mất búa”, đại khái như sau: Một
người thợ mộc làm việc trong vườn. Thằng bé con nhà hàng xóm sang ngồi xem. Mải
làm, lúc cần đến búa, ông tìm mãi không thấy. Ông nghi thằng bé đã ăn cắp búa.
Nhìn mặt nó đúng là mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói đúng là giọng điệu
của thằng ăn cắp búa. Hỏi thì nó chối đúng là tâm địa gian manh. Được một lúc,
ông lại thấy cái búa nằm khuất đâu đó. Nhìn lại mặt thằng bé thì thấy mặt mũi
nó hiền lành dễ thương, khác với mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói, đúng là
con nhà gia giáo, khác với lời ăn tiếng nói của thằng ăn cắp búa. Hỏi nó thì nó
thưa, đúng là con nhà lương thiện, khác hẳn với thằng ăn cắp búa.
Câu chuyện trên nói lên thiên kiến của con người. Thiên kiến là
ý kiến mình có sẵn về một người hay một vấn đề. Người có thiên kiến xét người
và vật theo suy nghĩ riêng chứ không dựa trên cơ sở khách quan trung thực.
Thiên kiến là mắt kính mầu. Vì đeo kính mầu nên ta thấy mọi vật đều nhuộm mầu
của kính. Đeo kính mầu xanh, ta thấy mọi vật đều xanh. Đeo kính mầu hồng ta
thấy mọi vật đều hồng. Hồng, xanh là ở mắt kính chứ không ở sự vật. Vì thế phán
đoán của người có thiên kiến thường không chính xác.
Thiên kiến có nguồn gốc ở sự thiếu học hỏi. Vì
không được học nên hiểu biết giới hạn. Thiếu hiểu biết nên phán đoán thiếu
chính xác.
Thiên kiến cũng do đầu óc thiển cận, hẹp hòi. Tục
ngữ có câu: “Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”. Con ếch ngồi dưới đáy
giếng chỉ nhìn thấy một mảnh trời vừa bằng miệng giếng, cho rằng trời chỉ có
thế. Người có đầu óc thiển cận hẹp hòi cũng tưởng mọi chân lý đều chứa trong
đầu óc của mình cả.
Thiên kiến thường do sự thiếu khiêm tốn. Sự thật
mênh mông. Chẳng ai dám tự hào mình biết tất cả sự thật. Người khiêm tốn là
người thấy rõ giới hạn của mình, nên cố gắng đi tìm sự thật. Chỉ những người
thiếu khiêm tốn mới hay huênh hoang tự đắc và chủ quan.
Thiên kiến thường dẫn đến những hậu quả tai hại. Vì thiên kiến,
vua quan triều Nguyễn đã không chấp thuận những kiến nghị đổi mới của Nguyễn
Trường Tộ. Nên đã để đất nước chìm trong lạc hậu. Nếu nghe theo chương trình
đổi mới, có lẽ đất nước ta đã tiến nhanh hơn Nhật Bản. Vì Nguyễn Trường Tộ đã
nhìn thấy vấn đề và đề nghị từ cuối thế kỷ 19, trong khi Nhật mới chỉ canh tân
từ đầu thế kỷ 20.
Nếu trong đời sống xã hội thiên kiến đã đưa đến những hậu quả
tai hại, thì trong đời sống thiêng liêng, thiên kiến cũng gây ra những thiệt
hại không kém.
Người dân làng Nagiarét mang nặng thiên kiến về Đức Giêsu. Dưới
mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc
biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ
cha mẹ, họ hàng của Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng
Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ,
Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa,
Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi vua trị vì
thiên hạ. Đàng này, Đức Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Người lại quá hiền lành
khiêm nhường. Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong
đầu óc. Vì thế, họ không tin. Vì họ không tin, nên Đức Giêsu không thể làm phép
lạ nào ở đó. Người bỏ họ mà đi. Không bao giờ Người trở lại Nagiarét nữa. Thật
là thiệt hại cho làng quê Nagiarét. Họ đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế.
Họ đã để lỡ cơ hội đón nhận ơn cứu chuộc. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Chỉ
đến một lần trong đời. Rồi thôi. Ai để lỡ sẽ không bao giờ có cơ hội chuộc lại.
Thiên kiến đã làm hại họ.
Rất nhiều khi ta cũng mang nặng thiên kiến. Thiên kiến đối với
anh em. Thiên kiến đối với Chúa. Hôm nay, rút kinh nghiệm của những người dân
làng Nagiarét, ta hãy tránh thiên kiến bằng cách tìm học hỏi để biết Chúa, biết
giáo lý của Chúa hơn. Nhất là có tâm hồn mở rộng và khiêm nhường để biết đón
nhận Chúa, đón nhận thánh ý Chúa. Nếu ta khiêm tốn đón nhận, Chúa sẽ dạy dỗ ta
những chân lý nước trời đem lại hạnh phúc cho ta.
18. Đức
tin.
Nghe Chúa Giêsu giảng dạy, dân làng Nagiarét đã bỡ ngỡ về giáo
lý của Ngài. Hơn nữa, họ còn ngạc nhiên về những phép lạ Ngài làm để rồi đưa ra
câu hỏi:
- Bởi đâu Ngài được như thế?
Dầu vậy họ vẫn không tin và Phúc âm còn ghi lại: Họ đã vấp phạm
đến Ngài. Sự kiện cứng lòng này đã khiến cho Chúa Giêsu phải sửng sốt. Vậy đâu
là lý do tạo nên tình trạng đáng buồn ấy? Để trả lời cho câu hỏi trên, trước
hết chúng ta phải xác định xem trong thực tế, chúng ta được đức tin như thế
nào?
Phần đông các tôn giáo đều tin vào một Đấng tối cao và quan niệm
đạo là một sự cố gắng của con người, để tìm tòi và vươn lên tới thế giới thiêng
liêng.
Sở dĩ như vậy là vì sống trong một thế giới hữu hạn và đầy
khuyết điểm, tự nhiên con người mong ước một thế giới vô biên và hoàn hảo.
Cảm thấy mình yếu đuối và tội lỗi, con người cố tìm một lối
thoát, bằng cách tin vào một Đấng linh thiêng có thể cứu mình thoát khỏi vòng
tội lỗi và đưa tới quê hương hạnh phúc.
Như thế là con người đã cậy dựa vào sức riêng của mình mình để
tìm kiếm một Đấng siêu việt và một thế giới hạnh phúc.
Trong khi đó, quan điểm của Kitô giáo thì trái ngược hẳn.
Thực vậy, trong mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người, sự
bắt đầu không phải là từ phía con người, nhưng là từ phía Thiên Chúa.
Con người không thể tự mình vươn tới Thiên Chúa, nhưng chính là Thiên Chúa đã
cúi xuông đến tận con người.
Kitô giáo không từ dưới mà đi lên, như các tôn giáo khác, nhưng
đã từ trên đi xuống… Chính Thiên Chúa đã can thiệp vào đời sống con người, tỏ
lộ cho con người biết ý định và chương trình cứu độ của Ngài. Nếu con người có
thể đáp lại và tìm đến với Thiên Chúa, là vì chính Thiên Chúa đã tự ý lên tiếng
kêu gọi và tìm đến với họ trước.
Do đó, muốn tìm thấy Thiên Chúa, con người không được dựa vào
sức riêng của mình, nhưng phải dựa vào Chúa.
Như vậy đức tin là một ơn Chúa ban, vì đức tin trước khi là sự
chấp nhận của con người thì đã là một lời kêu mời của Thiên Chúa. Nếu Ngài
không kêu mời, con người chẳng biết gì như lời Đức Kitô đã nói:
- Không ai đến được với Ta mà không được Chúa Cha lôi kéo và
không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Ta.
Như thế, đức tin là việc Chúa kêu gọi trước và con người đáp trả
lại sau.
Vậy tại sao những người Nagiarét nghe Chúa giảng và nhìn Chúa
làm phép lạ mà vẫn không tin?
Như trên chúng ta đã nói:
- Đức tin là một ơn Chúa ban.
Dầu vậy cũng đừng vội kết luận:
- Người không tin là vì không được Chúa ban.
Sở dĩ như thế vì đức tin còn là một sự cộng tác của chúng ta vào
ơn Chúa, còn là sự chấp nhận và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Như vậy
phải kết luận rằng:
- Những kẻ nghe lời Chúa giảng và chứng kiến những phép lạ Chúa
làm mà không tin, vì họ không chấp nhận. Sở dĩ họ không chấp nhận vì họ đã đóng
khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những thành kiến hẹp hòi của họ.
Chẳng hạn vì tinh thần tôn giáo từ ngàn xưa, họ không thế nào chấp
nhận Đức Kitô là hiện thân của nước trời, là phản ảnh của sự khôn ngoan Thiên
Chúa.
Chẳng hạn vì thành kiến về Thiên Chúa và đường lối của Ngài, họ
không thể chấp nhận sự hiện diện của Thiên Chúa nơi một con người đơn giản,
khiêm tốn và nghèo khó, là Đức Kitô.
Họ mang sẵn trong đầu óc những ý nghĩ về Thiên Chúa, cho nên
thay vì đón nhận sự tỏ lộ, sự mạc khải của Ngài, thì họ lại bắt Ngài phải trở
nên giống những điều họ mường tượng.
Chính vì thế khi hình ảnh hoàn toàn của Chúa Cha là Đức Kitô ở
trước mặt, họ đã không thể nhận ra.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta thường mang nhiều thành kiến về
những phương tiện chúng ta tưởng rằng Chúa dùng để đến với chúng ta và đưa
chúng ta về với Ngài.
Do đó, biết bao nhiêu ơn sủng đã bị đóng lại, biết bao nhiêu ân
huệ đã trở thành vô ích chỉ vì chúng ta thiếu sẵn sàng đón nhận cái bất ngờ của
Thiên Chúa.
Đường lối của Thiên Chúa thì khác với đường lối của chúng ta.
Thế nhưng, đường lối ấy sẽ kéo chúng ta tới nguồn ơn cứu độ và tới hạnh phúc
vĩnh cửu.
19. Thành kiến.
Ông ta là ai vậy? Bởi đâu ông ta đã làm được những chuyện lạ
lùng như thế? Ông ta không phải là con ông Giuse và bà Maria sao? Họ hàng anh
chị em của ông ta không phải là những người láng giềng của chúng ta sao? Ông ta
không phải là người đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở đây với chúng ta sao?
Phải, đúng lắm. Đó chính là Chúa Giêsu, con của ông Giuse và bà
Maria, đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở Nagiarét 30 năm trời.Nhưng tại sao
những người đồng hương lại ngạc nhiên và thắc mắc về Chúa như vậy? Bởi vì ít lâu
nay họ đã nghe dư luận đồn thổi về những lời giảng dạy mới lạ, đầy uy quyền của
Chúa, cũng như đã nghe dân chúng bàn tán xôn xao về những phép lạ Chúa đã làm ở
nơi này nơi kia… Đó là những công việc, những phép lạ Chúa Giêsu đã làm trước
khi Ngài về Nagiarét, quê hương của Ngài. Nhưng những người đồng hương của Ngài
không tin và không thể tin. Tin làm sao được ông Giêsu đang đứng trước mặt họ
đây có thể làm được những điều lạ lùng như thế, nhất là tin làm sao được ông
Giêsu đây là Thiên sai, Đấng cứu tinh, là Đấng mà dân tộc họ đang trông đợi cả
ngàn năm?
Dân làng Nagiarét không thể nào chấp nhận một người mà họ đã quá
biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn. Biết cả họ hàng chẳng danh giá
gì. Biết rõ quá như thế thì làm sao người đó có thể là vị cứu tinh, là Đấng cứu
thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc họ được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về
giàu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính
Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Chúa Giêsu. Từ thành kiến sai
lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Chúa làm phép lạ như đã làm ở những nơi
khác. Trước thái độ ít cởi mở và hoài nghi của họ, vì họ không tin, nên Chúa
không làm phép lạ được. Không phải vì Ngài không thể làm, bằng chứng là Ngài
cũng có đặt tay chữa cho mấy người bệnh, nhưng chính vì họ không tin.
Dân làng Nagiarét không tin Chúa Giêsu. Không tin là vì bụt nhà
không thiêng, như có lần Chúa đã nói: “Chẳng ngôn sứ nào được danh tiếng nơi
quê hương mình”, hoặc tệ hơn, như Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Ngôn sứ
có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân
thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Tại sao dân làng Nagiarét không tin? Họ
không tin vì thành kiến. Họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những
định kiến hẹp hòi, có sẵn của họ. Vì thế, họ không thể thấy được những chân
trời rộng lớn và mới mẻ mà Chúa mở ra cho họ. Họ cũng không thể chấp nhận Chúa
Giêsu là hiện thân của nước trời và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có ai ngờ
Đấng cứu thế lại là một người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đối với người Do thái
đương thời, Chúa Giêsu đến quá ư bất ngờ và quá khác xa với quan niệm họ sẵn có
về Đấng cứu thế. Họ không biết rằng đường lối của Thiên Chúa có thể khác xa với
sự toan tính của loài người.
Qua đó chúng ta rút ra được một bài học thực tế: Thành kiến
là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người
mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư
tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai
lầm hoặc nguy hại. Thật vậy, ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết; lưỡi
đắng thì ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét
nên xấu: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”. Lòng
chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng
ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và
hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền.
Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của
loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án lối sống phô
trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên
ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng
cũng có thể sai lầm. Câu nói: “Trông mặt mà bắt hình dong” không phải là nguyên
tắc chính xác, nên chính Chúa Giêsu có lần khuyên chúng ta: “Đừng có xem mặt mà
bắt hình dong”. Khổng Tử cũng xác nhận: “Người tôi yêu chưa chắc đã tốt; người
tôi ghét chưa chắc đã xấu”. Phong dao cũng có câu: “Người xấu duyên lặn vào
trong. Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài”. Lặn vào thì còn lại, bong ra
thì mất đi rồi. Và hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước
sơn”,”Xanh vỏ mà đỏ lòng”. Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề
ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Tóm lại, thành kiến đã làm cho dân làng Nagiarét phán đoán sai
về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng cứu tinh. Đối với chúng ta cũng
vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một
cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi
mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người. Vì thế, chúng
ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc
cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái nhìn
đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một
đời sống yêu thương cởi mở hơn.
20. Chối
bỏ.
Đức Giêsu trở về quê hương, với những người dân mà Người đã lớn
lên ở giữa họ. Bỗng chốc, họ thấy rõ ràng Người đã thay đổi. Khi rời bỏ
Nagiarét, Người đã tìm thấy ơn gọi thật của Người (việc Người làm), và tặng vật
của Người (sự giáo huấn và chữa lành bệnh) đã nở rộ. Giờ đây Người nổi tiếng là
một thầy dạy và một người hay làm phép lạ.
Thông thường, người ta phải đi xa nhà và xa quê hương mình để
được triển nở. Ở nhà người ta cảm thấy gò bó, vướng víu vì thiếu cơ hội, sự
thách đố và thừa nhận.
Khi trở lại quê nhà, những người ở quê nhà không sẵn sàng chấp
nhận điều đó. Họ muốn nhìn một người đi xa trở về như kẻ đã bỏ họ; họ cảm thấy
yên tâm và chấp nhận người ấy. Người ấy không còn là một thách thức đối với họ.
Nếu người đi xa trở về ở tình trạng sa sút càng tốt. Thế là họ
cảm thấy xót xa cho người ấy. Nhưng nếu người ấy trở về và trở thành một con
người đã thay đổi, có lẽ họ cảm thấy bực bội và chối bỏ người ấy. Chính họ bị
kẹt cứng trong những lề thói xưa cũ. Vì thế họ cảm thấy bực bội với một người
trở về mà bản thân đã làm được một điều gì. Họ cố gắng cắt gọt người ấy theo
kích thước riêng của họ.
Dẫu sao, Đức Giêsu đã trở về, và một cách thân tình muốn chia sẻ
quà tặng của Người cho những người dân ở quê nhà. Nhưng thay vì Người được đón
tiếp nồng hậu. Người thấy dân giám sát, dò xét và theo dõi Người.
Ngay khi Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường họ có thể thấy
Người có một món quà đặc biệt – món quà của sự khôn ngoan. Lúc đầu họ có ấn
tượng thậm chí họ rất đỗi ngạc nhiên. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó và
cởi mở với những điều Người đã ban tặng họ, họ lại hỏi: “Bởi đâu ông ta được
như thế?” Đó cũng là câu hỏi mà nhiều cha mẹ hỏi khi nghe con mình biểu lộ một
điều làm họ ngạc nhiên. Ở đây chúng ta gặp một mầu nhiệm về sự phát triển của
con người. Chúng ta là ai mà đặt giới hạn và biên giới cho khả năng của người
khác?
Người dân Nagiarét nhớ lại nguồn gốc khiêm hạ của Đức Giêsu. Vậy
thì, Người là ai ngoài một bác thợ tầm thường, họ biết rõ gia đình của Người.
Thật vậy, họ đã nói: “Ông ấy nghĩ mình là ai?” Họ cảm thấy họ đã nắm rõ về
Người. Họ đã đặt ra những giới hạn cho Người. Một thái độ như thế không cho
phép sự trưởng thành và phát triển.
Họ đã từ chối tin Người. Họ đã từ chối nhìn Người một cách
nghiêm túc. Bởi thái độ của họ, họ làm cho Người không thể làm gì cho họ, và
như thế họ không hưởng được ơn ích từ cuộc viếng thăm của Người.
Đây là một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn – Ngôn sứ không
được quê hương mình chấp nhận. Thường chúng ta không chịu thừa nhận quà tặng và
tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm
chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả
năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ.
Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và chúng ta cũng chịu thiệt hại
bởi vì chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt và quà tặng của họ.
Bị chối bỏ là một điều thương tổn. Nhưng đặc biệt thương tổn khi
bị những người thân chối bỏ. Đức Giêsu đã ngạc nhiên vì thấy họ không tin.
Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người cũng chịu bó tay. Bạn không thể
giúp đỡ những người làm ngược lại ý nuốn của họ. Đức Giêsu buồn rầu vì sự việc
đó nhưng Người không tức giận. Sự chối bỏ thường dễ dàng làm cho người ta tức
giận.
Chúng ta đều có chút ít kinh nghiệm về điều đó. Chúng ta đã muốn
giúp đỡ một người nào đó nhưng người ấy khước từ sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng
ta cảm thấy bực bội và vô dụng. Khi gặp phải sự chối bỏ, chúng ta có thể bị cám
dỗ nói rằng: “Thế đấy! Đừng hòng tôi giúp cho”. Chúng ta quyết định không giúp
đỡ một ai nữa. Điều này làm người ta đau khổ.
Đức Giêsu đã không phản ứng như thế. Người không trở nên cay cú.
Người đã làm điều nhỏ bé còn có thể làm được ở Nagiarét. Người đã chữa lành một
vài bệnh nhân – Rồi người quyết định đem ánh sáng và món quà của Người đi nơi
khác.
21. Chối
bỏ.
Một gánh xiếc đi lưu diễn đóng trại bên ngoài một ngôi làng. Một
buổi tối nọ, không lâu trước giờ trình diễn, ngọn lửa bùng lên trong một chiếc
lều. Ông giám đốc gánh xiếc sai một anh hề, lúc đó đã mặc trang phục cho buổi
diễn đi vào làng kế cận để xin được giúp đỡ. Nếu ngọn lửa lan tràn qua cánh
đồng chỉ còn những gốc rạ khô thì ngôi làng có nguy cơ bị hỏa hoạn.
Anh hề vội vã chạy vào làng. Anh xin người ta ra ngoài làng càng
nhanh càng tốt để giúp đỡ dập tắt đám cháy. Nhưng không ai cho rằng anh nói
nghiêm túc. Người ta nghĩ đó là một màn quảng cáo khéo léo của giám đốc gánh
xiếc. Anh càng cố làm cho họ biết rằng thật sự có hỏa hoạn, thì họ càng cười
anh. Sau cùng lửa đã lan đến ngôi làng và thiêu rụi.
Lý do chính mà dân làng không nghe lời cảnh báo là vì họ nhìn
người đưa tin chỉ như một anh hề. Điều này làm cho họ hầu như không thể xem xét
sự thật trong lời nói anh ta nói với họ.
Có một điều tương tự đã xảy ra với Đức Giêsu khi Người trở về
quê hương Nagiarét. Người ta từ chối nghe lời Người. Họ biết rất nhiều về
Người. Sứ điệp không gặp may vì người ta đã chối bỏ sứ giả. Thật vậy, họ cố gạt
bỏ Người.
Người đã nói sự thật nào cho những người đồng hương để họ thấy
đó như một lời đe dọa đến nỗi họ muốn giết chết Người? Người cho họ biết họ là
dân được Thiên Chúa chọn. Thế nên người ta phải thấy họ có ít đức tin. Tuy
nhiên Người nói với họ Người thấy dân ngoại còn có nhiều đức tin hơn họ. Người
tiếp tục gợi ý dân ngoại sẽ chiếm chỗ của họ trong Nước Trời. Vì thế, họ muốn
giết Người.
Một trong những dấu chỉ Thiên Chúa chăm sóc dân Người là Người
hứa gởi đến cho họ những ngôn sứ để kêu gọi họ trở về với chính họ. Cho dù lời
của các ngôn sứ thường là lời phê phán, lời ấy là lời biểu lộ tình yêu.
Thiên Chúa cũng làm thế đối với chúng ta. Người không bỏ mặc
chúng ta trong bóng tối sai lầm hoặc làm điều sai trái. Người gởi các ngôn sứ
đến với chúng ta, phần lớn ở gần chúng ta. Có thể là ai khác? Nhưng chúng ta
cũng có thể chối bỏ các ngôn sứ, đặc biệt khi ngôn sứ mang đến một sứ điệp mà
chúng ta không thích nghe. Sự thật mất lòng.
“Bạn làm việc quá vất vả. Bạn bỏ bê gia đình quá nhiều. Bạn
không quan tâm đến đời sống trong gia đình và con cái bạn... Bạn làm hư hỏng
con cái bạn... Bạn quá chú trọng về vật chất... Bạn uống rượu nhiều quá... Bạn
có quá nhiều thành kiến... Bạn luôn đề cao bạn nhất... Bạn thờ phượng Thiên
Chúa chỉ bằng môi miệng...”
Nếu có ai nói với chúng ta một hoặc nhiều sự việc ấy, chúng ta
sẽ phản ứng thế nào? Chúng ta không tấn công ông hay bà ngôn sứ đó hay sao? Sự
thật là ít ai trong chúng ta ham thích sự thật. Chúng ta phải cầu nguyện để có
can đảm lắng nghe sự thật cho dù có thể đau đớn và đến như cơn gió làm tan đi
lòng kiêu ngạo của chúng ta. Sự thật như lời Đức Giêsu nói sẽ giải phóng chúng
ta.
Người nào vì yêu thương chúng ta nói với chúng ta sự thật, biết
rằng nói ra sẽ làm chúng ta mất lòng và đánh mất tình bạn, người ấy là một
người bạn chân thành.
Chúng ta cũng phải cầu nguyện để có can đảm nói ra sự thật với
người khác. Kéo một người về với chính lộ là một việc cao cả. Nhưng có một cách
để làm việc đó. Đó là làm với tình yêu thương và sự quan tâm. Bí quyết là đồng
thời phải có lòng trung thực và nhân hậu.
22. Phép lạ.
Bài Tin mừng hôm nay đề cập về phép lạ: Ở quê hương Nagiarét,
Đức Giêsu chỉ làm được một ít phép lạ bởi vì dân Nagiarét không tin. Nhân dịp
này, chúng ta hãy tìm hiểu xem: phép lạ là gì? Và ngày nay phép lạ còn xảy ra
nữa không?
Điều chúng ta cần lưu ý trước tiên là người ta dùng chữ phép lạ
theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, phép lạ là một điều gì có vẻ khác
thường, xảy ra lạ hơn bình thường và không giống như người ta dự kiến. Thí dụ
như người Do thái ngày nay đã vận dụng nhiều cố gắng lao động, kết hợp với khoa
học kỹ thuật mà trồng được những vườn cam ngon ngọt trên miền đất trước đây là
sa mạc. Người ta đã coi đó là một phép lạ (theo nghĩa rộng). Còn theo nghĩa
hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ là điều không những kỳ diệu khác thường, mà còn
xảy ra ngoài những qui luật tự nhiên nữa. Thí dụ: trong khoa vật lý học, chúng
ta biết có qui luật là một vật có trọng lượng thì bị rơi xuống do sức hút của
trái đất. Nhưng nếu có một người nào đó té từ một nhà lầu cao nhưng không rơi
xuống đất mà cứ lơ lửng giữa chừng, thì khi đó sự kiện không xảy ra theo qui luật
tự nhiên nữa, nên được coi là phép lạ.
Sau khi đã hiểu phép lạ là gì theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bây
giờ chúng ta tìm hiểu xem có thể xảy ra phép lạ hay không. Phép lạ hiểu theo
nghĩa rộng thì ai cũng nhìn nhận rằng có, kể cả những người không có đạo, kể cả
những kẻ vô thần. Người ta nói nhiều đến phép lạ cải tạo ruộng đất, làm theo
nghĩa hẹp thì những người vô tín ngưỡng lại không nhìn nhận. Bởi vì muốn có
phép lạ theo nghĩa hẹp này thì cần có sự can thiệp của quyền năng thần thánh.
Kẻ vô tín ngưỡng không công nhận thần thánh nên cũng không công nhận phép lạ.
Còn đối với chúng ta, những người Công giáo thì sao? Dĩ nhiên vì
tin vào quyền năng Thiên Chúa nên chúng ta nhìn nhận có phép lạ. Tuy nhiên cũng
cần lưu ý thêm điều này là: Thiên Chúa không làm phép lạ một cách bừa bãi đâu.
Vì như đã nói trên: phép lạ (theo nghĩa hẹp) là điều xảy ra ngoài qui luật tự
nhiên. Qui luật tự nhiên ấy ai đã thiết lập ra? Thưa là chính Thiên Chúa. Vậy
nếu Thiên Chúa đã thiết lập những qui luật tự nhiên thì đương nhiên Thiên Chúa
cũng muốn cho vạn vật vận hành theo đúng qui luật tự nhiên mà Người đã thiết
lập. Chỉ thỉnh thoảng khi nào có một lý do thật quan trọng thì Chúa mới cho một
sự kiện xảy ra ngoài những qui luật tự nhiên đó (và khi đó là phép lạ).
Vậy lý do quan trọng khiến Chúa làm phép lạ là gì? Thường là đức
tin. Phép lạ xảy ra để đáp ứng một lòng tin mạnh mẽ vững vàng – hoặc để mời gọi
những người chứng kiến càng tin mạnh mẽ vững vàng hơn.
Trong các sách Tin mừng chúng ta đã đọc thấy nhiều lần trước khi
làm phép lạ chẳng hạn trước khi chữa cho một người mà từ thuở mới sinh Đức
Giêsu hỏi “Con có tin không?” Người đó tuyên xưng đức tin thì Chúa mới làm phép
lạ. Ngược lại, đối với vua Hêrôđê không tin mà chỉ muốn có phép lạ để xem cho
thỏa thích hiếu kỳ thì Đức Giêsu không làm một phép lạ nào hết. Trong đoạn Tin
mừng hôm nay cũng thế: những người đồng hương với Đức Giêsu ở Nagiarét một mặt
khinh thường Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ mộc nghèo nàn, tầm thường,
nhưng mặt khác khi nghe biết Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác
thì cũng muốn Đức Giêsu làm phép lạ ở quê hương Nagiarét cho họ hưởng nhờ thì
Đức Giêsu cũng không chịu làm phép lạ chỉ để thỏa mãn tính vụ lợi của họ.
Có những người rất nhẹ dạ dễ tin: chuyện gì hơi lạ một chút cũng
coi là phép lạ.
Có những người rất hay cầu xin phép lạ: phép lạ được trúng số,
phép lạ được khỏi bệnh.
Không phải chúng ta không nên tin cũng như không nên cầu xin
nữa. Nhưng sau những phân tích nãy giờ, chúng ta hãy lưu ý: điều quan trọng
nhất trong các phép lạ không phải là khía cạnh lạ thường, khía cạnh lợi lộc của
chúng, mà chính là đức tin: phép lạ xảy ra là vì đức tin: hoặc để đáp ứng đức
tin mạnh mẽ của con người, hoặc để mời gọi con người qua đó mà càng tin vững
hơn vào Thiên Chúa.
- Ở Lộ Đức, ở Fatima, ở La Salette v.v... khi mà những biến cố
lạ thường xảy ra làm nhiều người xôn xao thì Giáo hội vẫn im lặng. Chỉ sau khi
nghiên cứu kỹ lưỡng một thời gian dài rồi thì Giáo hội mới tuyên bố đấy là phép
lạ. Giáo hội cẩn thận như vậy là để khỏi rơi vào mê tín dị đoan. Thiết tưởng
mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận như thế trước những điều xảy ra có vẻ
khác thường, bởi vì đức tin của chúng ta không phải là nhẹ dạ, mê tín, mà là
một đức tin có nền tảng vững chắc, trong sáng.
- Rồi trong cuộc sống đạo của chúng ta, điều quan trọng mà chúng
ta phải chú ý hơn hết là cố gắng rèn luyện cho đức tin của mình càng ngày càng
vững mạnh trong sáng hơn. Nói cụ thể: tôi giữ đạo, tôi làm theo những điều Chúa
dạy là vì tôi thực sự tin vào Chúa... chứ không phải vì tôi mong Chúa sẽ làm
phép lạ cho tôi giàu có, cho tôi trúng số, cho tôi khỏi bệnh một cách lạ
lùng... Những điều đó nếu thấy cần thì chúng ta cứ cầu xin, và Chúa nếu thấy
rằng tốt thì sẽ ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta không nên chỉ giữ đạo vì những
điều đó. Chúng ta giữ đạo vì chúng ta tin vào Chúa. Tin vào Chúa chẳng những
khi cuộc sống thoải mái dễ chịu, nhưng dù cuộc đời có gặp lúc gian nan, túng
thiếu, bệnh tật, buồn khổ... chúng ta vẫn một niềm tin son sắt vào Chúa. Đó mới
là một đức tin vững mạnh.
23. Đừng
để lỡ cơ hội gặp Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng
tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến
12 giờ trưa.
Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc
sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân
tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt
Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của
Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với
tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm
nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên
Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột
thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông
ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là
gì?”.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu?
Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê,
Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30
năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn,
tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm
thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp
giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có
bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông bỏ quê nhà đi lang
thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện
tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không
thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là
người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm
những việc kỳ diệu như thế ? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài
“nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn
nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ
biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện
Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng,
ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên
trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ
hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ
chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ
được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con
Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài
người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ
khỏi chết đời đời.
Dân làng Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý
lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể
nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của
“chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói : Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng
kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi”.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ
bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen
thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu
thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành
phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến,
chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng,
những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người.
Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh
tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho
tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương,
đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân
loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh
thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức
thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ
bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta
phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín
của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có
chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên
cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà
nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì
tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ
thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng
của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân
lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền
thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng,
thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói
sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá
hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, không tức giận. Ngài quyết
định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê
Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường
dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse.
Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi
thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm
một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các
làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội
cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế.
Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những
cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc;
khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng
trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy
tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều
cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân;
qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc
nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao
giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ
trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải
rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi
chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa
gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn
luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được
tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu
được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận
được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương
của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận
Chúa mỗi lần Chúa đến với con.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy
những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động
trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không
thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.
24. Sức
mạnh trong yếu đuối.
Trong cuốn sách tựa đề The Inner Game of Tennis (Cuộc Chiến Bên
Trong Của Môn Tennis) Timothy Gallwey đã tả lại cái cảnh vào một đêm tối mùa
đông khi ông đang lái xe trên con đường vắng lặng từ tiểu bang Maine đến tiểu
bang New Hampshire
Bất chợt, chiếc xe Volkswagen ông đang lái gặp phải chỗ đường
đóng đá nên đã trượt đi đâm vào đống tuyết ở bên lề đường. Cùng một lúc thì
chiếc xe cũng bị chết máy. Gallwey đã cố gắng tìm đủ mọi cách để nổ máy xe lại
nhưng không có kết quả gì.
Lúc đó, khí trời lạnh buốt tới âm 20 độ và ông chỉ có một chiếc
áo lạnh thể thao đang mặc trên mình.
Gallwey mới chỉ có ra khỏi một thành phố độ khoảng chừng 20
phút. Trong 20 phút qua, ông không nhớ là đã nhìn thấy một chiếc xe nào cả. Ông
cố gắng tìm xem có nhà nào ở ngoài đồng vắng hay có cột điện thoại nào không,
nhưng ông không nhìn thấy một cái gì hết. Ông cũng không biết ông còn cách xa
thành phố kế tiếp bao xa.
Gallwey liền xuống xe và chạy đi tìm người giúp. Khí lạnh đã xâm
nhập vào cả người ông và dần dần ông cảm thấy đuối sức và ông không còn có thể
nào chạy được nữa nhưng phải bước đi.
Sau khi đi bộ được hai phút thì hai cái tai lạnh ngắt và ông
tưởng rằng chúng sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào. Lại một lần nữa, ông lại bắt đầu
chạy, nhưng khí lạnh lại làm cho ông kiệt sức và ông lại phải bước bộ.
Bất chợt, trong tâm trí ông, ông tưởng tượng ra thân xác của ông
sẽ nằm trên con đường này và nó bị đóng đá và bị tuyết bao phủ. Nghĩ đến đây,
ông rùng mình lo sợ.
Sau đó một vài phút, Gallwey la lớn lên: "OK, nếu sự việc
đã định, thì tôi xin sẵn sàng." Sau đó, Gallwey không còn lo ngại gì đến
số mạng của ông nữa, và ông lại bắt đầu chạy tiếp.
Sau một vài phút chạy bộ, nhìn lên bầu trời, Gallwey cảm thấy
ngạc nhiên về vẻ đẹp của những ngôi sao lấp lánh và những cánh đồng xung quanh
ông đều bao phủ tuyết trắng.
Ngoài sức tưởng tượng của ông, Gallwey đã chạy được 40 phút mà
không cần nghỉ ngơi. Bất chợt, ông dừng lại bởi vì đằng xa xa, ông nhận ra một
ánh đèn phát ra từ một nhà nông trại. Diệu kỳ thay, ông đã qua khỏi cơn thử
thách đầy gian nguy này.
Sau cái kinh nghiệm khủng khiếp đó, Gallwey đã tự hỏi mình rằng
đâu là nguồn gốc của sức mạnh đã giúp ông để có thể chạy được một quãng đường
dài như thế. Rồi, ông nhớ lại rằng chính ông đã biết tự phó mặc đời mình theo
thiên mệnh và qua đó, ông đã lãnh nhận được một sức mạnh giúp ông chạy một lèo
40 phút như thế.
Khi biết phó mặc sự sống của mình, Gallwey đã để cho một sự sống
thần linh chiếm đoạt con người của ông. Phó mình trong tay Chúa định đoạt về
mình, ông mở ra một lối cho một sức mạnh thần linh mà ông không bao giờ hay
biết.
Kinh nghiệm của Gallwey giúp chúng ta hiểu được những điều bí
nhiệm của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay.
Thiên Chúa nói với Phaolô, "Sức mạnh của Ta được tỏ bày
trong sự yếu đuối." Và Thánh nhân đã chân nhận, "Vì thế, tôi vui thỏa
trong sự yếu hèn của tôi... khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ."
Nhưng, Thánh Phaolô muốn nói gì, "khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh
mẽ"?
Ngài có ý muốn nói rằng khi ngài nhận ra sự yếu đuối của mình, ngài
biết cậy trông vào Chúa để xin trợ giúp. Khi nhận ra con người yếu đuối của
mình, ngài biết mở mình ra và để cho ơn Chúa xuống và tăng sức cho ngài.
Nói một cách khác là nếu Thánh Phaolô đã không bao giờ cảm
nghiệm được con người yếu đuối của mình thì ngài sẽ không bao giờ biết giơ tay
ra để xin cứu giúp. Và ngài sẽ không bao giờ khám phá ra được sức mạnh tuyệt
vời mà con người có thể khám phá: đó là Thiên Chúa.
Chỉ có những lúc như thế, con người mới nhận ra lý do tại sao
Ngôi Hai lại xuống thế làm người. Ngài đến bởi vì Ngài biết rằng con người
chúng ta bất toàn và cần sự trợ giúp của Ngài.
Vì thế, khi những gian nan thử thách đến trong cuộc sống, và
chắc chắn chúng sẽ đến, chúng ta hãy vững tin và đừng thất vọng. Bởi vì chính
những lúc đó, chúng ta sẽ khám phá ra được sự cần thiết của Chúa. Chúng ta sẽ
biết mở lòng ra, việc mà chúng ta không bao giờ làm từ trước đến nay. Có như
vậy, Thiên Chúa mới ngự vào tâm hồn chúng ta, và chúng ta sẽ cảm nghiệm được sứ
mạnh của Ngài.
Đó chính là ý nghĩa sâu xa của lời Thánh Phaolô. Đó là Tin Mừng
qua bài đọc hôm nay. Đó là mầu nhiệm mà chúng ta đang cùng nhau cử hành nơi
đây.
25. Người
đã không thể
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang
Tiến)
Mc 6:1-6: 1Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán
của Người, có các môn đệ đi theo. 2Đến ngày sabbát, Người bắt đầu giảng dạy
trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta
được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được
những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà
Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của
ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. 4
Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương
mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5 Người
đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh
nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.
Câu chuyện xảy ra ở nguyên quán của Chúa Giêsu (6:1-6a) kết thúc
đoạn khá dài nói về những việc quyền năng Người đã làm ở Galilêa (3:7-6:6a). Ở
nguyên quán dân chúng đã khước từ Người, nên Người đã không làm phép lạ tại đó.
Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa Giêsu về quê quán với các môn đệ (6:1-2a); 2- Phản
ứng của dân chúng tại đó (6:2b-3); 3- Thái độ của Người trước phản ứng của dân
chúng (6:4-6a).
Về lại nguyên quán Nazaréth là sáng kiến riêng tư của Chúa
Giêsu. Người “ra khỏi đó”, nghĩa là tách mình khỏi những hoạt động trước đó
(4:1-5:43), và tìm đến những người bà con thân thuộc trước đây đã đến tìm
Người, và Người đã để họ đứng bên ngoài (3:21.31-35). Như các lần trước, các
môn đệ luôn đi với Người để chứng kiến và học hỏi những điều sẽ xảy ra (c. 1).
Như lúc khởi đầu, Người vào hội đường ngày sabbát để giảng dạy (cc. 2;
1:21-22.27b; 11:18). Phản ứng đầu tiên của dân chúng trong cả hai trình thuật
là họ đầy kinh ngạc bởi giáo huấn của Người. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa
chúng là trong khi dân chúng ở buổi khởi đầu nhận ra quyền năng của Người trổi
vượt mà họ không tìm thấy nơi các biệt phái, dân chúng ở nguyên quán của Người
lại đặt vấn đề về bản chất và nguồn gốc của giáo huấn và những việc quyền năng
của Người, dựa trên quan hệ dòng tộc trần thế của Người. Họ chỉ biết “Người
nầy” là con của bà Maria, anh em của Giacôbê, .... Chừng ấy thôi và không biết
gì hơn (cc. 2b-3). Chính sự giới hạn trong nhận thức về Người bằng đức tin đã
đóng lòng họ lại trước con người và sứ mạng của Người (x. 7:15). Cũng với một
thái độ ấy các thành phần trong hội đồng do thái đã hỏi Chúa Giêsu sau nầy:
“Ông lấy quyền nào mà làm việc đó? hay ai đã ban cho ông quyền để làm việc đó?”
(11:28; 3:22-23). Như thế, “họ vấp ngã về Người” nghĩa là họ không nhận ra
quyền năng Thiên Chúa nơi giáo huấn và công việc Người; nên họ cũng không tin
Người là Đấng được Thiên Chúa gởi đến.
Trước phản ứng thiếu lòng tin của dân chúng ở quê quán Người,
Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu không thể làm phép lạ nào cả (c. 5). Điều nầy xem
ra trái nghịch với những điều quyền năng của Người vừa được tường thuật trong
đoạn trước (4:1-5:43). Người có thể làm được tất cả nếu Người muốn (x. 1:40;
8:4; 9:22; 15:31). Tuy nhiên, có một điều Người không thể làm là áp đặt lòng
tin của những người không muốn tin vào Người. Phép lạ chỉ được thực hiện để dẫn
đến lòng tin; nên nếu không có đức tin, Người không thể làm phép lạ (x. 4:40;
5:34; 5:36). Thái độ của dân chúng ở nguyên quán của Chúa Giêsu tương tự thái
độ của những người ở vùng Gêrasa (5:17).
Sau một loạt tường thuật những giáo huấn và những việc quyền
năng Chúa Giêsu đã làm, sự không thành công ngay tại quê quán tạo nên một tương
phản và gây ấn tượng mạnh, ngay cả cho Người, là rất khó chinh phục con người
cho Thiên Chúa.
26. Đức
Giêsu về thăm Nadarét
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả Máccô cho thấy Đức Giêsu hành động
với uy quyền trước toàn dân (1,16–3,12). Nhưng sau đó, những trở ngại đã xuất
hiện: thân nhân Người đi bắt Người về, vì cho rằng Người đã mất trí (3,21); các
kinh sư thì nói rằng Người bị quỷ vương Bêendêbun ám và dùng quyền của nó mà
trừ quỷ (3,22); bằng kiểu diễn tả bóng bảy, Người đã nói đến sự cứng lòng
của dân Israel (4,11-12); trận bão trên biển không nhận chìm được con thuyền
của Người, là một hình ảnh cho hiểu là sứ vụ của Người sẽ gặp nhiều khó khăn
(4,35t), nhưng vẫn đứng vững; yêu cầu của dân Ghêrasa cũng ở trong chiều hướng
ấy (5,17). Bài tường thuật chuyến về thăm Nadarét cũng nói đến thái độ không
tin của người dân Nadarét, khiến họ không chấp nhận Đức Giêsu (6,1-6). Như thế,
truyện này tóm tắt một vài đề tài đã được triển khai trong các phân đoạn trước:
tư cách môn đệ và lòng tin, Đức Giêsu là thầy và là vị làm phép lạ, sự hiểu lầm
và sự loại trừ Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành bốn phần:
1) Đức Giêsu về quê và giảng dạy ngày sa-bát (cc.1-2a);
2) Các thính giả vấp phạm về Người (cc. 2b-3);
3) Sự cứng lòng tin: đánh giá và kết quả (cc. 4-6a);
4) Đức Giêsu tiếp tục ra đi (c. 6b).
3.- Vài điểm chú giải
- quê quán của Người (1): Đây là Nadarét thuộc
miền Galilê (1,9), cách hồ Ghênêsarét khoảng 30 cs về phía tây. Vào thời đó,
Nadarét chỉ là một làng nhỏ, không quan trọng gì (x. Ga 1,46). Trong Cựu Ước,
làng này không bao giờ được nói đến. Vì làng ở độ cao 300-400m trên mặt biển,
người ta có thể nhận ra làng từ xa.
- có các môn đệ đi theo (1): Khi nói đến các môn
đệ, tác giả Máccô luôn luôn đưa vào đề tài “đi theo” (sequela) (x. 2,15; 10,32;
15,41).
- bắt đầu giảng dạy (2) : Ta nhớ lại đoạn 1,21-28
giới thiệu Đức Giêsu là thầy và là người chữa bệnh. Phản ứng đầu tiên trước sự
khôn ngoan và những việc lẫy lừng của Người là sự ngạc nhiên. Từ đó, câu hỏi
đặt ra “Bởi đâu ông ta được như thế ?” mang tính mỉa mai: trong khi những người
đồng hương gắng tìm cho ra danh tánh của con người Giêsu, thì quyền lực của
Người lại bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.
- nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên (2): Phản
ứng này thường xảy ra trước lời giảng dạy (1,22; 11,18), một phép lạ (7,37)
hoặc một câu nói lạ lùng của Đức Giêsu (10,26). Tác giả nhắc đến phản ứng này
với nhận định về sự khôn ngoan của Đức Giêsu để cho thấy Người vừa ban
một mạc khải, nhưng dân chúng không tin.
- bác thợ (3) : Từ Hy Lạp tektôn (La-tinh
faber) có lẽ phản ánh từ A-ram naggârâ có thể là một người thợ đóng đồ mộc hoặc
là một người thợ xây dựng. Những người thợ ấy thường đi đây đó. Phải chăng Đức
Giêsu cũng đã đi đây đó, ít sống tại Nadarét? Bản văn dùng mạo tự xác định ho
cho hiểu rằng dân Nadarét đã quen gọi Đức Giêsu như thế.
- con bà Maria (3): Phải chăng câu này cho phép
giả thiết là Giuse đã qua đời? Trong ngữ cảnh ở đây, không có gì bảo đảm là
kiểu gọi này có ý nói là Giuse đã chết cả. Chúng ta ghi nhận là trong TM Máccô,
Giuse không bao giờ được nêu tên. Dù sao, “con bà Maria” đã trở thành tên gọi của
Đức Giêsu. Hoặc tên này được dùng để sỉ nhục, bởi vì người Do Thái được gọi
bằng tên của người cha, hoặc để mỉa mai vì muốn ám chỉ đến một cuộc chào đời
bất hợp pháp (con hoang). Nếu trường hợp sau là đúng, thì lời sỉ nhục này lại
là một khẳng định về cuộc sinh hạ trinh khiết. Để ủng hộ cho cách giải thích
này, người ta nêu ra câu hỏi của dân Nadarét về nguồn gốc của Đức Giêsu và sự
kiện Mc tránh nhắc đến người cha.
- ngôn sứ có bị rẻ rúng (4): Có lẽ đây là một câu
tục ngữ phát xuất từ Do Thái giáo nhằm diễn tả kinh nghiệm của các nhà du
thuyết Do Thái. Ta có những câu Hy Lạp tương tự: “Các triết gia khó sống tại
quê hương” (Điônê Crisostômô; x. Epittêtô…). Nhưng ở đây Mc mở rộng câu ngạn
ngữ mà áp dụng cho cả gia đình dòng họ; như thế là nối dài chiều hướng của sự
cố được kể ở 3,20t.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu về quê và giảng dạy ngày sa-bát (1-2a)
Đức Giêsu đã rời nhà và vùng ông Gia-ia ở để về quê, tức là
Nadarét. Nhân dịp cử hành phụng tự tại hội đường vào ngày sa-bát, Người đã
giảng một bài. Đó là việc Người vẫn thường làm (x. 1,21.39).
* Các thính giả vấp phạm về Người (2b-3)
Phản ứng của các thính giả chứng tỏ Đức Giêsu vừa ban một mạc
khải. Họ đã nêu ra năm câu hỏi: ba câu liên hệ đến hoạt động của Đức Giêsu (bản
thân; giáo lý; các phép lạ) và hai câu liên hệ đến gia đình dòng họ của Người.
Chỉ đức tin mới nhận biết nguồn gốc đích thực của Đức Giêsu. Người là Con Thiên
Chúa. Đối với những người đồng hương, sự hiểu biết về môi trường sinh sống của
Đức Giêsu là biến thành một trở ngại không thể vượt qua. Họ từ khước Đức Giêsu
và không chấp nhận giáo huấn của Người. Sự vấp phạm đó chính là sự cứng lòng
tin của họ.
* Sự cứng lòng tin: đánh giá và kết quả (4-6a)
Đức Giêsu xác định lập trường bằng một câu ngạn ngữ. Câu này vừa
giúp Người biện minh cho mình vừa giảm nhẹ tầm mức của các sự kiện. Các môn đệ
(theo Mc, các ông lúc nào cũng đi theo Người) phải học lấy bài học kinh nghiệm
này: không bao giờ được để cho nỗi thất vọng vì bị từ khước đánh ngã mình. Con
Thiên Chúa bị mọi người kể cả gia đình, hiểu lầm, và bị bỏ cô đơn trong thế
gian này. Sự kiện Người không thể làm được phép lạ nào ở quê hương cho thấy
tương quan giữa phép lạ và đức tin. Điều này không có nghĩa là quyền lực của
Đức Giêsu bị hạn chế nhưng có nghĩa là khi ơn cứu độ được ban tặng trong phép
lạ bị từ chối, thì không thể xảy ra phép lạ được. Nếu Đức Giêsu làm khác là
Người không trung thành với sứ mạng của Người. Lời ghi thêm “Người chỉ đặt tay
trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ” nhằm làm giảm nhẹ nét tiêu cực nơi
những gì được nói trước. Nhưng c. 6a kết luận vẫn ghi nhận sự cứng lòng tin và
sự ngạc nhiên của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu tiếp tục ra đi (6b)
Tuy nhiên, thất bại này vẫn không làm Đức Giêsu chán nản chùn
bước. Người tiếp tục ra đi như Người đã nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy đi
nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy
ra đi cốt để làm việc đó” (1,38).
+ Kết luận
Đức Giêsu trở lại quê hương Nadarét. Người vào hội đường để
giảng dạy, tức là thi hành sứ mạng ngôn sứ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dù đã
biết các phép lạ Đức Giêsu làm và nay vừa nghe Người giảng, dân làng Nadarét
lại chỉ coi Người như là “bác thợ, con bà Maria, anh em của các ông Giacôbê,
Giôxết, Giuđa và Simôn” (c. 3a) mà thôi. TM Mc cho thấy liên hệ huyết thống
cũng như tình đồng hương không giúp người ta nhận biết Đức Giêsu trong chân
tính của Người. Muốn khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu, người ta phải để cho
chính Người dẫn dắt và giáo huấn ngày qua ngày.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vấn đề trọng tâm của bản văn là đức tin. Đức tin giúp con
người có sự khiêm tốn và sẵn sàng lắng nghe giáo huấn của Thiên Chúa và của các
vị sứ giả của Người. Cũng chính đức tin giúp người ta nhận biết các việc kỳ
diệu Thiên Chúa đã và vẫn đang làm trong thế giới, để ban ơn cứu độ cho mọi
người. Tại nơi nào con người khép kín lại với Thiên Chúa, khi Người đang ngỏ
với họ trong phép lạ, thì phép lạ trở thành chuyện phi lý. Cũng như quyền lực
của Người là ơn cứu độ cho chúng ta, thì sự cứng lòng tin của chúng ta là sự
bất lực của Người. Điều đó đã được chứng thực tại cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với
dân làng Nadarét: họ đã ngạc nhiên về những gì Đức Giêsu nói, và thế là để vuột
mất ý nghĩa của các lời Người loan báo.
2. Sự từ khước ở Nadarét vẫn tồn tại. Con người hôm nay, những
người Nadarét mới, vẫn đang thấy Đức Giêsu là một cớ gây ngạc nhiên và vấp ngã.
Do sự từ khước của con người hôm nay, hoạt động cứu thế của Thiên Chúa như bị
tắc nghẽn. Bị giam hãm trong các định kiến, họ không hiểu được cốt lõi tinh túy
của sứ điệp, cũng không tạo cơ hội cho các việc kỳ diệu có thể xảy ra hay cho
ơn Chúa có thể đến được với chính họ và người khác. Từ đây, chúng ta có thể đi
đến một nhận định: cộng đoàn Kitô hữu có hai trách nhiệm, bởi vì phải vừa biết
nhận ra các ngôn sứ được Thiên Chúa cho xuất hiện giữa các thành viên của mình,
vừa phải hỗ và làm gia tăng ơn Chúa mà sự hiện diện của họ mang lại. Ý thức này
đòi hỏi cộng đoàn phải trở thành một tập thể sẵn sàng, trong tư thế cầu nguyện,
có cái nhìn khôn ngoan, để nhận ra các dấu chỉ của Thiên Chúa. Tất cả các điều
này không đơn giản: trong đời sống mỗi ngày, chúng ta ghi nhận rằng cộng đoàn
chúng ta đang bước đi giữa hai đe dọa: một bên, cộng đoàn có thể rơi vào một
thứ hứng khởi dễ dãi mà chạy theo bất cứ một chủ trương đổi mới nào, để rồi
cuối cùng bị lạc hướng và bị phân tán; một bên, cộng đoàn dễ bị thu hút bởi xu
hướng bất động và sự cứng ngắc do bám vào một vài điều xác tín nào đó.
3. Người môn đệ của Đức Giêsu không được nản chí khi gặp thất
bại hay chống đối. Nhiệm vụ của họ là cứ ra đi để rao giảng Lời Chúa, để làm
chứng, không nên bận tâm (và nặng lòng) với kết quả. Họ cần phải nhìn vào Thầy
Giêsu mà dấn thân. Như Đức Giêsu, họ cứ quảng đại làm việc, “lúc thuận tiện
cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2). Niềm vui họ sẽ nhận được khơng phải
do kết quả kiểm chứng được, nhưng là do biết rằng họ đã kiên trì thực hiện
những điều Thiên Chúa muốn.
4. Thành kiến là một tật xấu nằm sâu trong tâm khảm con người.
Chính tật xấu này làm cho khả năng đón nhận và loan truyền Lời Chúa bị giới hạn
lại. Các Kitô hữu cần học lấy bài học của thánh Phaolô: “vui khi thấy điều chân
thật” (1 Cr 13,6). Đấy là khả năng nhận ra sự thiện hảo tại bất cứ nơi nào nó
xuất hiện, và sẵn sàng nêu lên.
27. Chú giải
của Noel Quesson.
Đức Giêsu ra khỏi đó và trở về quê nhà, có các môn đệ đi theo.
Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Nagiarét, làng quê, xứ sở của Người.
Sinh tại Bêlem, vì một cuộc kiểm tra dân số Chúa Giêsu đã trải
qua thời thơ ấu và niên thiếu tại Nagiarét, nơi xa xôi cách trở giao thông. Ở
đó có lẽ chỉ có khoảng 150 gia đình. Người ta sống rất đơn giản, trồng ô liu và
nho, cùng với một ít lúa đại mạch và lúa mì. Mỗi gia đình có một vài con dê.
Hằng ngày, mỗi người tự làm bánh mì cho mình tại nhà. Ngày thứ bảy, tất cả đều
đến hội đường để cầu nguyện. Nơi Đức Giêsu, tất cả đều phản ảnh gốc gác của
Người, là một nông dân, một người sống bằng đất đai một người "của quê
hương".
Tin Mừng hoàn toàn mô tả cuộc sống đồng quê, một tường thuật do
những người "nông dân” ghi lại, nói về một “nông dân" sống gia những
người "nông dân” và đã diễn tả ý nghĩ của mình bằng nhượng ẩn dụ của
"nông dân". Như vậy đâu là đặc tính của một người thợ mộc trong kiểu
sống này? Làm bàn ghế, giường, cửa? Tại sao vậy? Mỗi người tự làm những thứ ấy.
Người ta ngồi ăn dưới đất, ngủ trên chiếu trải dưới đất. Anh thợ mộc Giêsu, một
nông dân trong số những nông dân khác; có thể có một vài sự khéo léo đặc biệt
học nơi ông Giuse, một người "sửa chữa" tầm thường, có thể làm hay
chữa những cái ách hay những chiếc cày bằng gỗ. Giêsu, một con người không có
gì khác biệt với người khác. Tôi hãy suy niệm về điều này.
Đến ngày Sabát, Người vào giảng dạy trong hội trường.
Về điểm này cũng thế, Đức Giêsu cũng như mọi người. Chúng ta
đừng lầm lẫn. Đức Giêsu không phải là người cử hành nghi lễ. Người không đóng
vai trò tư tế. Người chỉ là một trong những tín hữu đi dự lễ. Trong dân Israel
bất cứ một người nam trưởng thành nào, kể từ tuổi thành nhân (12 tuổi) đã là
"tư tế", thuộc về "dòng giống tư tế", đều có quyền đọc
Thánh Kinh và chú giải Thánh Kinh. Đấy là việc Đức Giêsu đã làm ngày hôm đó,
khi Người rời chỗ ngồi để lên "đọc" và "diễn giảng". Thánh
Maccô không cho chúng ta biết đề tài của bài giảng hôm đó là đề tài nào.
Đa số thính giả rất ngạc nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta
được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được
những phép lạ như thế, nghĩa là gì?"
Danh tiếng của Đức Giêsu đã về đến làng của Người. Nhưng thay vì
hãnh diện, những người đồng hương của Người lại bất bình. Tất cả những điều đó
không phù hợp với những gì họ biết về Người. Họ biết rõ Người hơn ai hết. Họ đã
thấy Người lớn lên, họ đã cùng đi đến trường học với Người. Người không có
quyền trở thành "một người khác” hơn là những gì họ biết về Người.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng tự giới hạn mình trong một hiểu
biết nào đó, từ chối tiến xa hơn, không chịu khám phá những điều mới mẻ. Lạy
Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi sự bảo thủ, khỏi những tư tướng cũ mòn,
khỏi sự đóng khung về trí tuệ và tâm linh. Xin đẩy chúng con ra khỏi những tập
quán thích tiện nghi, khỏi thế giới quá bình lặng của chúng con.
Ông ta không phải là bác thợ con bà Maria, và anh em họ hàng với
các ông Giacôbê, Gioan, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con
lối xóm với chúng ta sao?
Tin Mừng của Thánh Maccô rất cụ thể, đến nỗi chúng ta cảm thấy
rất gần với Đức Giêsu trong đời thường. Chúng ta hiểu rất rõ những suy nghĩ tầm
thường của những nông dân trong một xóm nhỏ hẻo lánh miền quê. Đó là cuộc sống
thôn dã: Chân trời dường như dừng lại ở những cánh đồi vây quanh làng. Và người
ta kể ra nhiều tên, một danh sách anh chị em bà con. Theo cách thức của phương
Đông, người ta gọi họ là "anh em”, không kể họ bên ngoại, vì truyền thống
không dành chỗ đứng cho người phụ nữ. Người này là ai mà dám phá đổ những tục
lệ của chúng ta, hủy bỏ tổ chức của thế giới nhỏ bé này, nơi đó người ta xác
định con người theo một hộ tịch cứng nhắc, những tương quan xã hội được ấn định
một lần thay cho tất cả. Cuối cùng, mỗi người phải ở tại vị trí của mình, đóng
trong vai trò của mình, không được thay đổi đột ngột.
Và đó là chướng ngại làm cho họ không tin vào Người.
Ba Tin Mừng nhất lãm Matthêu, Luca và Maccô đã kể lại cho chúng
ta "sự thất bại" của Đức Giêsu. Người đã sống những biến cố đau
thương. Đức Giêsu bị chối từ. Ngày nay, nhiều người vẫn có cùng một thái độ như
người dân Nagiarét lúc bấy giờ. Nhiều người nói "Tin Chúa", đồng ý;
Nhưng tin Giáo Hội, thì không. Vâng, Giáo Hội, cũng như Chúa, có một khía cạnh
con người, rất nhân bản. Các giám mục, linh mục, Kitô hữu, là những người mà
người ta biết quá! Ngày nay cũng như ngày xưa, nhiều người "bất bình"
với Giáo Hội, cũng như người ta đã bất bình với Đức Giêsu. (Đó là đúng nghĩa
chữ Hy Lạp ‘éscandali Zonto’). Giáo Hội gây bất bình! Tin Mừng ghi lại, Đức
Giêsu cũng đã gây bất bình sâu xa.
Trang Tin Mừng này là một thử thách nghiêm trọng đối với lý
tưởng của chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận sự không hoàn hảo của Giáo Hội. Đó
là thực tế của việc nhập thể: Thiên Chúa ở trong làng, Thiên Chúa ở góc đường,
Thiên Chúa tập đọc ở nhà trường, Thiên Chúa là anh em của một người nào đó.
Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở
chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà
thôi".
Đức Giêsu bị "khinh miệt" nhất trong nhóm thân nhân
của Người. Người ta đã hiểu lầm về Người. Thái độ quá thân quen có thể che
khuất đi tính chất thâm sâu của những liên hệ. Giản lược Đức Giêsu trong nhiều
kích nhân loại đó là khinh miệt Người. Sự gần gũi đích thực với Đức Giêsu không
phải là một sự gần gũi thể lý, vật chất. Và chúng ta cũng có thể quan niệm sai
lầm về ‘dấu chỉ’ như khi nghĩ rằng: chỉ cần làm những cử chỉ bên ngoài là đương
nhiên thuộc về "gia đình" của Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta vẫn biết,
điều làm nên "gia đình" thực sự của Người, không phải là những liên
hệ huyết thống, mà chính là đức tin - "Kẻ nào làm theo ý Thiên Chúa, đó là
anh em Thầy, chị em Thầy và là Mẹ Thầy" (Mc 3,35). Đức Giêsu đã tự tạo cho
mình một gia đình mới: Đó là những người nghe Chúa và đem ra thực hành.
Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt
tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ.
Đây là một sự mạc khải lạ kỳ, làm đảo lộn những khuôn khổ sẵn có
của chúng ta. Một sự chữa lành, dù là bằng cách đặt tay, không thể là một phép
lạ được. Đức Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh, nhưng đó không thuộc loại những
phép lạ. Như thế, muốn nói lên điều gì? Phải có đức tin mới có phép lạ thực sự.
Một sự chữa lành không đưa đến việc đón nhận Đức Giêsu trong đức tin, không
phải là một phép lạ thật, vì thiếu ý nghĩa cốt yếu của nó.
Điều này có thể chứng minh cho chúng ta rằng: Phép lạ không đủ
để ban đức tin. Những người ở Nagiarét nói: Bởi đâu tay ông làm được những phép
lạ phi thường trong những làng lân cận?" - Hoạt động của Đức Giêsu không rõ
ràng, cả những phép lạ vĩ đại nhất cũng không đủ để làm cho chúng ta hiểu mầu
nhiệm của bản thân Người. Và chúng ta tiếp tục xin Chúa can thiệp để chứng minh
"Người là ai". Tuy nhiên, chúng ta đã được khuyến cáo: “Người ta có
thể nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Mc 4,12) và "mặc dù Đức Giêsu
đã làm những dấu lạ rất lớn trước mắt họ, họ đã không tin Người" (Ga
12,37) Điều đó cho chúng ta hiểu, tại sao một số Kitô hữu nghi ngờ những phép
lạ, và Giáo Hội phải thận trọng thế nào, khác với những hạng người “buôn thần b
án thánh".
Người lấy làm lạ vì họ không chịu tin.
Sự khước từ đức tin dường như là một đặc điểm trong suốt giai
đoạn hai của tác vụ Đức Giêsu. Giờ đây Đức Giêsu đối diện với hiện tượng không tin.
Đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng rằng đó là một hiện tượng tiêu biểu của thế
giới ngày nay, như thể chỉ có những thời đại trước mới là thời đại của đức tin.
Vẫn thường xảy ra là người ta lên án Giáo Hội: "Người ta không còn dạy tôn
giáo nữa, người ta không dạy giáo lý nữa". Vì thế khi Đức Giêsu đích thân
giảng dạy trong làng của Người, là nơi thanh sạch và dành riêng cho Người cư
ngụ, thế mà Người cũng không khơi dậy được đức tin. Ngày nay, biết bao bậc cha
mẹ đứng trước một hiện tướng như thế, trước con cái của họ. Chính Đức Giêsu, dù
là Đấng chí thánh cũng đã gặp những người không tin trong thân nhân của Người.
Sự bất lực của Đức Giêsu trước thái độ không tin của những người đồng hương,
biểu lộ sự hoàn toàn tôn trọng tự do của con người: Đây là hình ảnh biểu lộ
thái độ tôn trọng của Thiên Chúa đối với tự do mà Người đã tạo ra. Sự bất lực
bí nhiệm "thần thiêng" này, phải làm chúng ta suy nghĩ sâu xa: Đức
tin của chúng ta có thể không vững phắc như chúng ta tưởng, Đức tin là một thực
tại mỏng giòn và thường bị đe dọa.
Rồi Đức Giêsu đi khắp các làng mà giảng dạy.
Ở đây tôi nhận được bài học quý giá cho những thất bại của tôi.
Đứng trước thất bại chua cay mà Đức Giêsu đã gặp tại Nagiarét, thay vì chịu
thua, Người lại lên đường tiếp tục. Người lấy làm ngạc nhiên vì sự cứng lòng
của họ. Thánh Maccô ghi lại vắn tắt như thế? Thật khó mà đón nhận thất bại, và
chân thành rút ra từ đó những hệ quả tích cực, nếu không chịu ngã thua.
Ba bài đọc Chúa nhật hôm nay đến với chúng ta về một thứ
"linh đạo của thất bại" Chúa ra lệnh cho ngôn sứ Êgiêkiel (2,15) phải
đứng vững đương đầu với một dân tộc đang khước từ sứ điệp của Người. Còn Thánh
Phaolô (2Cr 22,7-10) ngài thú nhận đã bị một "mũi dằm đâm vào thịt",
một thất bại mà Ngài đã không chiến thắng được. Trước một nỗ lực hoán cải mà
không tiến bộ, hay trước một tình huống đau thương nào đó chúng ta có vượt
thắng được sự chán nản không?