VÀO ĐỜI ĐỂ VỀ TRỜI
Phải VÀO ĐỜI rồi mới có thể VỀ TRỜI với Đức
Giêsu Kitô. Chính Ngài cũng đã vào đời và chịu nhiều đau khổ, thậm chí còn phải
chết trên Thập Giá.
Ai cũng muốn “về
trời”, nhưng không phải ai cũng thật lòng muốn “vào đời.” Phải thực sự can đảm
mới đủ sức dấn thân vào đời, vì trách nhiệm nhiều mà đau khổ cũng chẳng ít. Nhưng
phải VÀO ĐỜI rồi mới có thể VỀ TRỜI với Đức Giêsu Kitô. Chính Ngài cũng đã vào
đời và chịu nhiều đau khổ, thậm chí còn phải chết trên Thập Giá.
Là những người
đi theo Ngài, chúng ta cũng không thể đi lối tắt hoặc đường khác mà về trời. Chắc
chắn như thế! Thật vậy, trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài bảo chúng ta phải
vào đời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương
thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15). Tuy nhiên,
chúng ta không lẻ loi hoặc đơn độc, vì Ngài hứa chắc: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Hơn nữa,
chính Đấng Bảo Trợ là Thần Chân Lý sẽ dạy chúng ta những điều phải làm (x. Ga
14:26). Cứ an tâm mà vào đời!
Trước khi về trời,
Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông Đồ mà Ngài đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Ngài
còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Ngài vẫn sống sau khi đã chịu
khổ hình. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các
ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha
đã hứa, điều mà họ đã nghe Ngài nói tới, đó là: “Ông Gioan làm phép rửa bằng nước, còn họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh
Thần” (Cv 1:5).
Đã có những người
“vô tư” hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có phải
bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn
Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần
khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại
Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất”
(Cv 1:7-8). Thời đó, người ta cứ tưởng Chúa Giêsu là một chính trị gia có thể đảo
chính để cướp chính quyền mà khôi phục quốc gia Ít-ra-en. Nhưng ai cũng lầm, vì
có lần Ngài đã xác định trước mặt tổng trấn Phi-la-tô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36).
Sau 40 ngày sống
lại, Chúa Giêsu căn dặn xong, Ngài được cất lên ngay trước mặt các tông đồ, và
rồi có đám mây quyện lấy Ngài, khiến họ không còn thấy Người nữa. Đang lúc các
ông còn đăm đăm ngước lên trời, nhìn theo phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn
ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi
những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các
ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”
(Cv 1:11).
Lên trời là một
hiện tượng vô cùng lạ, các ông ngạc nhiên là điều tất yếu. Lên trời ở đây là “về
trời” chứ không phải lên trời du lịch một thời gian, cũng chẳng phải như Chú Cuội
bám gốc đa bay lên cung trăng, hoặc như Táo quân cưỡi cá chép bay lên trời. Đó
chỉ là huyền thoại. Lại càng không phải như các phi hành gia bay lên cung trăng
bằng phi thuyền. Đó chỉ là dạng lên trời không chính thức, họ lên trời nhưng
không thể sống được nếu không có bình dưỡng khí. Phải trở lại đất cho nhanh, kẻo
hết dưỡng khí là chết. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định với ông Ni-cô-đê-mô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người,
Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13).
Chúa Giêsu lên
trời là sự kiện vô cùng kỳ lạ. Các ông đã từng ngơ ngẩn khi thấy Thầy Giêsu bị
người ta giết chết, tưởng thế là hết, nào ngờ Thầy phục sinh. Hạnh phúc tràn ngập.
Nay các ông lại càng ngơ ngẩn hơn vì Thầy đi rồi, còn lâu Thầy mới trở lại, tiếc
hùi hụi, nhớ ngẩn ngơ, nhưng chắc chắn các ông phải vào đời. Và mỗi chúng ta
ngày nay cũng vậy, ai cũng phải vào đời để hy vọng và mong chờ ngày về trời.
Cuộc chia tay
nào cũng có phần lưu luyến, thường buồn hơn vui, nhưng khi Chúa Giêsu chia tay
lại không buồn vời vợi mà lại tràn đầy niềm hy vọng. Ngài về trời là dấu chỉ
cho biết chắc chắn chúng ta cũng được về trời. Vậy là vui chứ không buồn. Tác
giả Thánh Vịnh mời gọi: “Vỗ tay đi nào,
muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối
Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).
Chúa Giêsu
thăng thiên, Ngài về trời, nơi Ngài đã xuất phát, chúng ta vui mừng khôn tả,
tác giả Thánh Vịnh mô tả là “rộn rã tiếng
hò reo, vang dội tiếng tù và, đàn ca kính mừng Ngài.” Nhưng cuộc sống đôi
khi không êm đềm như thảm lụa, nên chúng ta luôn phải tiếp tục động viên nhau: “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy
dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên
Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:8-9).
Trước khi về trời,
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em
hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc
16:15). Đó không chỉ là lời căn dặn, là lời người ra đi, mà còn là mệnh lệnh –
tức là điều phải thực hiện bằng mọi giá. Ngài vừa hứa hẹn vừa cảnh báo: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn
ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16:16). Đó là hệ lụy tất yếu chứ không là sự
hù dọa.
Đức tin rất
quan trọng, tạo nên sức mạnh vô song, tạo nên điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng
của loài người. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ
sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống
nhằm thuốc độc cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những
người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:17-18). Thực tế cũng đã và đang có những
người làm được như vậy, đó là tặng phẩm mà Thiên Chúa trao cho ai thì người đó
phải biết sử dụng hợp lý. Ai cũng có một tặng phẩm, người được tặng phẩm này, kẻ
được tặng phẩm khác, có người được hai hoặc ba tặng phẩm, cũng như kẻ được một
nén, ba nén, năm nén, nhưng dù nhiều hay ít cũng chỉ là để làm sáng danh Thiên
Chúa, chứ không phải để cậy mình hoặc nhắm tư lợi nào đó.
Thánh sử Mác-cô
cho biết: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa
lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi,
có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời
các ông rao giảng” (Mc 16:19-20). Rõ ràng, Chúa Giêsu về trời rồi thì các
ông đã vào đời, làm chứng về Đức Giêsu Kitô “ba-trong-một”, với ba sự kiện: Chịu
chết trên Thập Giá, phục sinh và lên trời.
Vào đời như thế
nào? Thánh Phaolô cho biết về phong cách vào đời: “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban
cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được
ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ
khuyên răn. Ai phân phát thì phải chân thành. Ai chủ toạ thì phải có nhiệt tâm.
Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm” (Rm 12:6-8). Mỗi người mỗi việc, mỗi
người mỗi hoàn cảnh và trình độ khác nhau, mỗi người là một các chi thể khác
nhau nhưng vẫn chung một Nhiệm Thể Đức Kitô. Tất cả các chi thể phải đồng tâm
nhất trí, cùng hợp lại để phát triển Nhiệm Thể Thánh.
Thánh Phaolô
nói thêm về phong cách vào đời: “Lòng bác
ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều
lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt
thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì
có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy
chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp
đãi khách đến nhà” (Rm 12:9-13). Được vậy thì thật hạnh phúc cho chúng ta,
và Thiên Chúa cũng vui mừng vì Ngài được tôn vinh nơi chính mỗi người chúng ta.
Lạy Thiên Chúa,
xin giúp chúng con biết “ái mộ những sự trên trời” bằng cách sống nhân bản, nên
hoàn thiện hàng ngày, chứng tỏ sự sống dồi dào của Đức Kitô qua việc thể hiện
lòng thương xót với mọi người, nhất là đối với những người hèn mọn. Xin Đức
Maria và Đức Thánh Giuse hướng dẫn chúng con biết đi đúng lối về trời và đưa
chúng con đến đích thật. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ
chúng con. Amen.
Trầm Thiên Thu