Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm B
CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm B
Lời Chúa: Cv 10,2-26.34-35.44-48; 1Ga 4,7-10;
Ga 15,9-17
MỤC LỤC
22. Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
23. Chúa sống lại dạy ...như Chúa thương catholic.org.tw
24. Dòng suối yêu thương Linh mục Inhaxiô Trần Ngài
25. Hãy yêu như Thầy Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
26. Dòng suối yêu thương Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
1. Yêu thương anh em.
Sống trong cuộc đời, chúng ta phải yêu thương nhau. Đó là điều
dễ hiểu. Bởi vì nếu không yêu thương nhau, xã hội sẽ bất ổn và bản thân chúng
ta cứ phải nơm nớp lo sợ trước những hận thù chồng chất. Thế nhưng, phải yêu
thương nhau như thế nào?
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một
khuôn mẫu để noi theo và bắt chước. Ngài phán: Các con hãy yêu thương nhau, như
Thày đã yêu thương các con. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta như
thế nào, để rồi chúng ta sẽ lấy tình yêu của Ngài làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi
hành động, làm khuôn vàng thước ngọc để đo mọi việc làm của chúng ta?
Không cân phải nói, hẳn chúng ta cũng đã quá rõ: Vì yêu thương
chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người, sinh ra nơi máng cỏ Bêlem, lớn lên trong
xưởng thợ Nagiarét. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã sống một cuộc sống vất vả
và nghèo túng. Ở nhà thì phải lao động cực nhọc. Đi rao giảng Phúc âm thì vất
vưởng nay đây mai đó, không có lấy cả một nơi để gối đầu và nghỉ ngơi. Nhất là
Ngài đã chết một cái chết ê chề và nhục nhã, như lời Ngài đã phán: Không ai yêu
hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Liệu chúng ta có thể biểu lộ tình yêu
thương của chúng ta bằng những hành động cụ thể như vậy hay không? Liệu chúng
ta có dám chấp nhận những hy sinh và ngay cả cái chết cho những người mình thương
mến hay không?
Hẳn chúng ta còn nhớ một Maximilianô Kolbê đã chết thay cho một
bạn tù ở trại tập trung của Đức Quốc Xã trong cuộc thế giới đại chiến lần thứ
hai. Hẳn chúng ta còn nhớ một Đamiêng, vị tông đồ người hủi, đã đến hải đảo
Molokai, đã sống giữa họ và đã chết giữa họ, để nâng đỡ và xoa dịu những đớn
đau họ phải chịu do chứng bệnh phong cùi gây nên. Và còn biết bao nhiêu tu sĩ
nam nữ đã âm thầm hy sinh cuộc sống của mình để chăm sóc cho những người già
cả, đau yếu và bất hạnh.
Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ bên Tàu, có một em bé đói rách,
tiều tụy và mắc bênh phong cùi. Em bị dân chúng đánh đập và đuổi ra khỏi làng.
Trước cảnh tượng ấy, một nhà truyền giáo phương xa đã bế em trên tay, che chở
em khỏi gậy gộc phũ phàng. Thấy có người chịu mang em đi, dân làng mới thôi
không đánh đập em nữa, nhưng miệng thì vẫn không ngớt rủa xả. Giờ đây, những
giọt nước mắt chảy xuống trên gò má em. Không phải là những giọt nước mắt đau
buồn và tủi hận, nhưng là những giọt nước mắt vui mừng và tin tưởng. Em đã hỏi:
Tại sao ông lại lo lắng cho tôi? Nhà truyền giáo trả lời: Vì ông trời đã tạo
nên cả hai chúng ta. Em là em gái của tôi và từ nay em sẽ không còn phải đói
khổ, long đong vất vả nữa. Suy nghĩ một hồi, em hỏi tiếp: Vậy tôi phải làm gì?
Nhà truyền giáo trả lời: Em hãy tro tặng cho người khác tình yêu của em, càng
nhiều càng tốt. Từ đó cho đến khi qua đời, trong suốt ba năm, em luôn chăm sóc,
giúp đỡ, băng bó vết thương và đút cơm cho các bệnh nhân trong trại cùi mà nhà
truyền giáo đã đưa em vào. Tới năm mười một tuổi, khi em qua đời, các bệnh nhân
đã khóc và nói với nhau vói tất cả niềm thương nhớ: Bầu trời bé nhỏ đang xa lìa
chúng ta.
Lề luật của Chúa được gồm tóm trong hai điều, đó là mến Chúa và
yêu người. Chúng ta hãy cố gắng thực thi hai điều ấy với niềm xác tín rằng: qua
những yêu thương nho nhỏ, chẳng hạn như một ánh mắt dịu hiền, một nụ cười cảm
thông, một lời nói an ủi, một việc làm giúp đỡ…chúng ta sẽ trở nên là những môn
đệ đích thực của Chúa. Bởi vì như lời Chúa đã xác quyết: Người ta cứ dấu này mà
nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.
2. Yêu như Chúa yêu – ĐTGM Ngô Quang Kiệt.
Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng lại là một từ
ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Vì người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác
nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý
chặt chẽ. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính. Để tránh những hiểu lầm,
khi truyền cho ta yêu thương, Đức Giêsu đã đưa ra một khuôn mẫu cho tình yêu.
Khuôn mẫu đó là: yêu như Chúa yêu.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”.
Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ
tình yêu nào, nhưng phải yêu như Chúa. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự
Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào,
Thày cũng yêu mến anh em như thế”. Thế là đã rõ. Tất cả bắt nguồn từ cùng một
tình yêu. Đức Chúa Cha là nguồn cội. Từ nguồn mạch ấy, tình yêu tràn ra, lan
toả đến mọi người. Mọi tình yêu, muốn chân thực, phải quy chiếu về trái tim
Chúa Cha.
Tình yêu của Chúa Cha như thế nào? Đọc trong Tin Mừng, ta thấy
Đức Giêsu đã nói nhiều về tình yêu Chúa Cha.
Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát.
Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù
ghét những người ghét mình, chỉ yêu những người nào dễ yêu, ghét những người dễ
ghét, chỉ giới hạn tình yêu vào một số người thân quen. Tình yêu của Chúa Cha
là một tình yêu phổ quát. Tình yêu ấy lan tới tất cả mọi người không phân biệt
tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ một ai dù lành dù dữ. Thế nên “Người cho
mặt trời mọc lên soi kẻ lành cũng như người dữ. Và cho mưa rơi xuống trên cả
người công chính lẫn kẻ gian ác” (Mt 5,45). Tình yêu ấy lan toả tới súc vật cỏ
cây: “Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn
nuôi chúng. Hãy xem bông huệ ngoài đồng. Chúng không dệt không may, thế mà Cha
trên trời mặc cho chúng bộ áo đẹp hơn cả áo vua Salomon” (Lc 12,24-27).
Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hy sinh.
Vì yêu thương, Đức Chúa Cha đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Người đã nhận
con người làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Nhưng loài người vô tình
không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên Chúa. vì thế, loài người
đã bị phạt. Nhưng Đức Chúa Cha vẫn yêu thương loài người, nên đã có kế hoạch
cứu độ loài người. Chính ở điểm này ta nhận biết tình yêu vô cùng tha thiết của
Đức Chúa Cha. Không những Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị
loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám
ngờ tới. Tình yêu thương mãnh liệt ấy đã thúc đẩy Ngài hy sinh Con Một yêu dấu
để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hy sinh tất cả những gì
có thể để cứu chuộc loài người.
Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu tha thứ.
Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Trong Tin
Mừng, Đức Giêsu nói nhiều về tình yêu tha thứ của Đức Chúa Cha. Cảm động nhất
là dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Tóm tắt như sau: Người Cha có hai con trai. Đứa
út xin Cha chia gia tài cho nó. Được rồi, nó cầm tiền, bỏ nhà ra đi, ăn chơi
phung phí. Khi nó tiêu hết tiền thì vùng ấy xảy ra nạn đói. Đói bụng nó phải đi
chăn lợn. Nó muốn ăn cám lợn mà chủ không cho. Bấy giờ nó hối hận và nghĩ: ở
nhà cha mình các đầy tớ còn được ăn no, còn mình ở đây phải chết đói. Thế rồi,
nó chỗi dậy, trở về nhà. Cha nó ngày nào cũng ra đầu ngõ chờ mong con trở về.
Khi thấy nó về, ông chạy lại ôm lấy nó mà hôn lấy hôn để, rồi ông gọi gia nhân
mang áo đẹp, nhẫn, giầy ra cho cậu và ra lệnh mở tiệc ăn mừng (cf Lc 15). Người
cha ấy là hình ảnh Đức Chúa Cha. Thật là kỳ diệu tình yêu Người. Người quên hết
những lỗi lầm của ta. Người yêu yêu ta trước khi ta yêu Người. Người tha thứ
cho ta trước khi ta xin lỗi Người.
Đức Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa Cha. Biết
đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người
không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất
hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một
lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hy sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì
tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt
nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại.
Lạy Cha, xin cho con hiểu được tình yêu của Cha. Xin cho con trở
nên giống Cha, biết yêu thương bằng tình yêu của Cha. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Từ trước tới nay, bạn hiểu tình yêu thế nào?
2- Mỗi khi nghĩ đến Đức Chúa Cha, bạn nghĩ đến đặc tính nào của
Người: yêu thương, quyền năng, thưởng phạt công minh…?
3- Đối với bạn, yêu thương người khác dễ hay khó?
4- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Chúa Cha.
3. Ở lại trong tình thương.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Tôi là một linh mục công giáo Ba Lan, tôi đã già, tôi muốn
chết thay cho ông này, vì ông có vợ con". Quyết định của Cha Maximilianus
Maria Kolbe đã cứu được ông Francis.
Không phải chỉ mình ông và gia đình ông, cha còn cứu được 9
người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng, những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết với
cha.
Từ hầm giam, không còn nghe thấy tiếng khóc than nguyền rủa. Chỉ
có tiếng hát và lời kinh.
Cái chết của cha làm mọi người kinh ngạc, vì nó là bằng chứng
của một tình yêu. Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu hiến mạng cho người
bạn của mình.
Ông Francis chẳng phải là bạn của cha Kolbe, nhưng ông thành bạn
của cha vì được cha hiến mạng.
Hãy ở lại trong Thầy, ở lại trong tình yêu của Thầy.
Đây không phải là một lời mời đầy tính lãng mạn của một người
đang yêu. Đây cũng không phải là một mệnh lệnh cao siêu dành cho những nhà thần
bí.
Đức Giêsu dạy ta biết cách ở lại trong Ngài.
Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy thì phải giữ các điều răn
(x. câu 10), mà điều răn quan trọng nhất là yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em. Như thế chúng ta có một kết luận kỳ diệu: muốn ở lại trong Thầy
thì cũng phải ở lại trong nhau.
Cành nào muốn hiệp thông với cây thì cũng phải hiệp thông với
các cành khác. Có một dòng nhựa từ cây nuôi các cành. Chúng ta là những cành
cây được nuôi bằng một dòng nhựa.
Khi gắn bó thân thiết với Chúa, chúng ta cũng được gắn bó với
nhau sâu thẳm.
Yêu anh em là thước đo đáng tin cậy để thấy được tình yêu của
mình đối với Chúa. Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển: như Cha đã
yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em; như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau.
Dòng tình yêu phát xuất từ Cha và đi khắp thế giới.
Yêu thương là không làm cho nó ngừng lại thành ao tù.
Thế giới hôm nay đói khát tình yêu đích thực.
Môn đệ Đức Kitô phải là chứng nhân tình yêu, yêu như Chúa đã
yêu, yêu bằng tình yêu lớn nhất.
Chúng ta không có dịp để chết như cha Kolbê, nhưng mỗi ngày ta
có nhiều dịp để sống cho người khác.
Sống cho tha nhân đòi hỏi những cái chết nho nhỏ. Những cái chết
nhỏ chuẩn bị cho cái chết lớn khi cần.
Mỗi lần trái tim ta héo khô và chai cứng, hãy trở lại với Đức
Giêsu như suối nguồn để được Ngài tưới đẫm yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ thiếu yêu thương. Bạn đánh giá thế
nào về tình yêu thương trong gia đình, khu xóm, trường học, giáo xứ, nơi làm
việc... của bạn? Các Kitô hữu ở đó có làm chứng về yêu thương không?
Có khi nào bạn cảm thấy yêu thương người khác là điều quá khó
không? Làm sao để thoát ra khỏi nỗi tức bực và hờn oán của mình đối với người
khác?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, đón nhận những
người khác, là điều vượt quá sức con, vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, con không thể nào
kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, mà yêu mến người
khác, làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn
của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là con cái Chúa và đừng để
con quên Lời Chúa nói: "Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm
cho chính Ta."
4. Yêu như Chúa yêu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày 10.10.1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha
Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã thực hiện từng chữ lệnh truyền
của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.
Trong thánh lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói: “Như anh chị em đã biết, giữa
những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời đại chúng ta chìm trong vũng máu,
Thánh M. Kolbe đã tự nguyện biến mình chịu chết để cứu một người anh em mà
chính ngài không thân thuộc, đó là ông Francis Gajouniseck. Ông là một người vô
tội bị kết án tử hình để trả thù cho một ngươi tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh
hùng đã bị kết án chết đói ngày 14.8.1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở
Auschwitz, Ba lan. Linh hồn tốt lành của ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng
đỡ ủi an các bạn tù cùng số phận khốn khổ như ngài… chính tình yêu cao cả đã
giúp ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích
lạ lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước
gì gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết
yêu thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng là người Kitô hữu, đối
với tất cả các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo
cuộc sống con người…”
Khi chia tay với các tông đồ để ra đi nộp mình chịu chết, Chúa
Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng
có thể hoá giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gắm được coi như bí mật cuối cùng
và quí giá nhất của tâm hồn Ngài. Đó là lệnh truyền: “Anh em hãy yêu thương
nhau”. Trước đây, Ngài đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương này rồi, nhưng
chỉ trong giời phút chia tay này mới thấy đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài.
Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: “Người
ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương
nhau”.
Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài
muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu
lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một
lần thay cho tất cả. Và Chúa Giêsu đã nói: “Đây là giới răn của Thầy: anh em
hãy yêu thương nhau”. Thế là lời trăn trở một mình đã biến nên lời trăn trối
cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ,
như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và một
lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên “yêu thương
nhau” đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm
nên căn cước của họ “Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra”.
Nhưng, thưa anh chị em, lệnh truyền yêu thương nhau không phải
muốn thực hiện thế nào cũng được, mà phải quy chiếu khít khao và chính tình yêu
của Chúa Giêsu- một tình yêu vốn đã quy chiếu vào tình yêu Chúa Cha – bây giờ
trở nên kiểu mẫu và cội nguồn tình yêu cho nhưng kẻ thuộc về Ngài: Yêu như Chúa
yêu. “Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy
yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Đó là một tình yêu mở ra cho hết
mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x. Bài đọc 1), một tình yêu san
bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gũi
nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x. Bài đọc 2), cho tôi tớ trở
thành bạn hữu, cho xa lạ trở thành thân quen, cho mỗi niềm riêng tư trở thành
tâm sự muốn chia sẻ,và cho môn đệ được trở thành những người cộng sự với đầy đủ
hành trang lên đường sứ mạng. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến
liều mạng sống: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống
mình vì bạn hữu”. Thật ra, Chúa Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về Ngài bằng chính
tình yêu lớn nhất đó trong suốt cả đời công khai của Ngài, nhưng qua cuộc tử
nạn Phục Sinh, chúng ta nhận ra tình yêu lớn nhất khi Ngài để lại bí tích Thánh
Thể làm bảo chứng và chết trên Thánh Giá làm hy lễ cứu độ, để rồi bước vào Phục
Sinh, mở ra sự sống và niềm hy vọng cho hết mọi loài.
Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu,
chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tín đối với Chúa và tình yêu
chân thành đối với mọi người anh em: Phải biết “yêu như Chúa yêu” và “yêu người
như yêu Chúa”.
Yêu như Chúa yêu, nghĩa là không đóng khung giới hạn, không kéo
bè kết cánh, cũng chẳng chọn lựa thành phần này để loại trừ thành phần khác, mà
trái lại, biết đến với mọi người. Tình yêu như vây làm
bùng phá mọi thứ hàng rào cản trở, kể cả hàng rào muôn thuở của sự oán thù.
Yêu người như yêu Chúa, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những
con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt
của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài.
Tình yêu như thế luôn luôn là một mạo hiểm của mầu nhiệm Tử Nạn-Phục Sinh,
nhưng bên trong lại là một niềm vui bất tận.
Tuy nhiên, thưa anh chị em, nói yêu bao giờ cũng dễ, chính khi
thực hành yêu thương chúng ta mới thấy hết những nét quyết liệt của lệnh truyền
này. Ở quy mô hẹp như một gia đình đã có những va chạm nhiều khi đưa đến sứt
mẻ; ở quy mô rộng hơn như một giáo xứ, lại cho thấy những đụng chạm có nguy cơ
rơi vào đổ vỡ. Cũng vì tính nết ích kỷ, đầu óc hẹp hòi, nếp nghĩ giới hạn, tầm
nhìn phe cánh… Cũng vì quyền lợi hay quyền lực, để rồi nhắm mắt trước giới luật
yêu thương. Và rộng hơn nữa là quy mô của một xã hội, ở đó thường diễn ra cảnh
huynh đệ tương tàn, chém giết, hận thù, chiến tranh…
Vậy, hỏi rằng lệnh truyền yêu thương nhau của Chúa Giêsu có còn
là một trăn trở thường xuyên cho đời tín hữu không? Biết đến bao giờ người hết
là lang sói cho nhau? Hàng loạt những câu hỏi như vậy có thể được đặt ra, nhưng
chỉ có được lời giải đáp nếu lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu được tôn
trọng. Cho nên để có được niềm vui đích thực của người sống trong sự Phục Sinh
của Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy bắt đầu bằng quyết tâm sống yêu thương chan hoà.
Mỗi Thánh Lễ là một cử hành về tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa
Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình
là kẻ đã được Chúa yêu, để sống được là kẻ biết yêu người khác. Và xin Chúa
luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành
yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là Tình yêu.
5. Phải có hoa hồng trên cây hồng – Guy
Morin.
Chúng ta đã quen với qui luật về hiệu năng. Tại nhà máy, người
ta cho thôi việc người thợ nào sản xuất kém. Cũng vậy, người công dân đòi hỏi
phải có những cảnh sát hữu hiệu, bắt được tội phạm. Người làm vườn không thể
chấp nhận một cây hồng mà lại không sinh hoa. Ai trong chúng ta chịu để một cây
hoa tàn héo trong bồn hoa nhà mình?
Mặc dù Tin Mừng đầy dẫy những cử chỉ nhưng không thế mà người ta
cũng gặp nơi đó qui luật về hiệu năng. Chúa Kitô chúc dữ cho cây vả không có
trái, kết án người đầy tớ đã chôn vùi nén bạc của mình. Lời Ngài, hạt giống
gieo vào lòng con người, phải sinh hoa kết quả. Bản thân Chúa Giêsu cũng không
thoát khỏi qui luật này. “Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất có chết đi thì nó mới
sinh nhiều bông hạt”.
Chúa nhật trước chúng ta đã đọc câu chuyện về cây nho mà người
ta tỉa những cành không sinh trái. Chúa Giêsu đã nói: “Điều làm vinh danh Cha
Thầy là các con mang nhiều hoa trái, và như vậy các con sẽ trở thành môn đệ của
Thầy”. Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta biết phải sinh hoa trái nào.
Hoa trái, đó là đức ái huynh đệ.
“Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con làm điều Thầy truyền
dạy. Điều Thầy truyền dạy các con là hãy yêu thương nhau”. Qui luật về hiệu
năng được áp đặt cho người môn đệ đó là đức bác ái. Không gì thay thế được.
Không phải là chuyện xây cất một tòa nhà hay một vương cung thánh đường nhưng
là xây dựng Thân Mình Chúa Kitô bằng tình yêu thương. Giáo Hội có thể triển nở
mà không cần nhà thờ nhưng không thiếu những mối tương quan huynh đệ được. Hoa
quả làm vinh danh Chúa Cha, đó là xây dựng Thân Mình Chúa Kitô. Thánh Giacôbê
tóm tắt qui luật này một cách mạnh mẽ rằng đạo thật là viếng thăm trẻ mồ côi và
kẻ góa bụa lâm cảnh cơ cực.
Đức ái huynh đệ không phải là tình cảm cũng không phải là thiện
cảm tự nhiên nhưng là vâng phục Thiên Chúa trong và bằng việc phục vụ người
đồng loại. Việc phục vụ cụ thể: chia sẻ của cải, nâng đỡ tinh thần, quan tâm
đến người nghèo và những người bên lề xã hội, tôn trọng tha nhân. Đối với kẻ
thù, việc phục vụ này là kiên nhẫn chịu đựng và cầu nguyện cho họ. Đây là đức
ái vô vị lợi. Cho mà không mong đáp trả và không điều tra về công trạng của
người được yêu thương. Cứu giúp mọi người và cho đi cách rộng rãi như Thiên
Chúa đã làm cho chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô.
Những dấu chỉ nội tâm để nhận ra đức ái huynh đệ.
Khi người Kitô hữu, môn đệ của Chúa Giêsu thực thi đức ái, đức
ái này được biểu lộ nơi những cử chỉ, những thái độ, những lời nói, những cách
nhìn và đối xử với người khác. Đó là những dấu chỉ bên ngoài. Nhưng thánh Gioan
nêu cho chúng ta ba dấu chỉ nội tâm: biết Thiên Chúa, lời cầu xin được chấp
nhận, niềm vui.
Ở khởi điểm, người Kitô hữu trở thành môn đệ bởi vì họ đón nhận
tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải nơi Chúa Giêsu. Về sau, nhờ thực thi đức
ái huynh đệ, họ đào sâu kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa. Quả thật, mỗi
một cử chỉ huynh đệ nhắc nhở họ nhìn nhận rằng Thiên Chúa đã yêu thương họ
trước nơi Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, họ càng ngày càng cởi mở đối với tình yêu
của Chúa Cha. Vì tình yêu lớn lên khi tự hiến mình đi.
Một dấu chỉ nội tâm khác, đó là lời cầu xin được chấp nhận: “Tất
cả những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con”. Tên
Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Những lời cầu xin của chúng ta nhân danh Chúa
Giêsu tức là hướng về ơn cứu độ, thì sớm hay muộn, chắc chắn Chúa Cha cũng sẽ
chấp nhận. Dấu chỉ này không hiển nhiên. Nhiều Kitô hữu than phiền là Thiên
Chúa làm thinh. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra lời đáp của
Chúa đối với lời cầu xin của chúng ta. Một lời đáp khó hiểu hoặc làm ta phải bỡ
ngỡ.
“Thầy đã nói với các con điều này để cho niềm vui của Thầy ở
trong các con và niềm vui của các con được trọn vẹn”. Niềm vui cũng là một dấu
chỉ nội tâm cho những ai thi hành đức bác ái. Khi sự sống được triển nở, đó là
niềm vui. Mỗi lần đức ái huynh đệ được thể hiện, thì sự sống của Thiên Chúa và
ơn cứu độ của Ngài tăng thêm nơi chúng ta hơn một chút và trở thành cụ thể.
Triều đại của Thiên Chúa tiến một bước vì loài người cảm nghiệm được tình yêu
của Thiên Chúa đối với họ qua tình yêu của người anh em. Lúc đó, chúng ta là
dấu chỉ cho nhau rằng Thiên Chúa tiếp tục hành động và cứu độ. Do đó mà niềm
vui, dù niềm vui này thường đi chung với đau khổ.
Sứ điệp.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi sinh hoa kết quả, hoa quả của đức ái.
Đức ái sẽ xiết chặt những mối liên hệ giữa tôi với Ngài, sẽ làm cho lời cầu
nguyện của tôi mang lại hiệu quả và sẽ ban cho tôi niềm vui của Ngài. Lẽ nào
tôi từ chối?
6. Chỉ là một nhịp đập của tim.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn 15 của Phúc Âm thánh Gioan là “điệu nhạc chậm rãi” của một
đại hòa tấu ca ngợi Đức Ái. Không phong phú về từ ngữ bằng Thánh thi ca ngợi
Đức Ái của thánh Phaolô, đoạn Phúc Âm của thánh Gioan có những chuyển điệu tha
thiết hơn, với những dấu nhạc, những âm thanh không thể nào quên được. Đoạn này
trích trong diễn từ thứ hai của Chúa Giêsu ở bữa Tiệc ly, mà chúng ta đọc hôm
nay, mở ra cho chúng ta tư tưởng thân mật của Chúa. Đề tài thực đơn sơ, đơn sơ
như một nhịp đập của con tim, song nhịp đập đó đã làm sống cả thân thể. Thiên
Chúa là tình yêu. Người yêu tất cả mọi người trong Đức Giêsu Kitô. Loài người
yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Loài người phải yêu thương nhau trong Đức
Giêsu Kitô. Giáo huấn đó được ban ra qua những khúc phục tấu nhịp nhàng, thanh
thản, nhẫn nại và trìu mến với giọng điệu tâm sự:
1) Chúa muốn truyền đạt niềm vui của người cho các môn đệ.
Ta nói điều đó để sự vui mừng của Ta ở trong các con và sự vui mừng của các con
nên trọn. Niềm vui của Chúa Giêsu là niềm vui nào? Niềm vui đó hệ tại nơi việc
Chúa tự biết mình là Con Thiên Chúa, là khả năng loan báo cho mọi người biết
Tin Mừng ơn cứu độ; là mạc khải Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu không phải là
không biết cuộc Khổ nạn của mình đã gần kề, nhưng Người biết rằng, nhờ cuộc Khổ
nạn ấy, Chúa cứu chuộc loài người. Người nghĩ đến sự Phục Sinh của Người và mầu
nhiệm đời sống mới Người sẽ thiết lập trên trái đất. Chúa Giêsu sống trong bầu
không khí thiêng liêng trong đó ngự trị niềm vui trọn vẹn: Người phó thác trong
tay Chúa Cha, Người múc lấy nơi Thân Phụ lòng can đảm và niềm an ủi, linh hồn
Nguơì mở rộng ra thành những lời cảm tạ và không khen. Đó là tất cả những gì
Người muốn truyền đạt cho các môn đệ Người.
Người ta vui mừng, khi người ta cảm thấy trong toàn thân mình
chiếm hữu được một của gì. Niềm vui ấy trọng vẹn, nếu người ta biết rõ ràng:
của ấy quý giá và nếu người ta biết chắc chắn của ấy thuộc về mình vĩnh viễn.
Vậy thì niềm vui ấy chính là niềm vui của Chúa Giêsu. Là Con Thiên Chúa, Người
có được của cải tuyệt đối, viên mãn, không nhuộm bóng lo âu. Của cải tuyệt đối
là tình yêu của Chúa Cha. Người muốn mở lòng các môn đệ Người cho tình yêu âý.
Nhờ đó, Người muốn đặt niềm vui của Người vào các môn đệ. Con người đón nhận
niềm vui của Thiên Chúa, từ lúc mà họ ý thức là họ được Thiên Chúa yêu thương.
Biết mình được yêu, biết chắc chắn điều đó, và tự nhủ mình là được Thiên Chúa
Cha yêu, đó là nguồn gốc của niềm vui lớn lao nhất.
2) Thày gọi chúng con là bạn hữu, vì Thày đã tỏ cho chúng con
biết mọi điều Thày đã nghe nơi Cha Thày. Chúa Giêsu không ngần
ngại nhắc nhở cho các môn đệ Người, là họ là những tôi tớ, và hơn thế nữa là
những tôi tớ không cần thiết. Nhưng Người đã chọn họ. Chính Thày đã chọn các
con. Sự chọn lựa của Chúa Giêsu dành cho một người nào thì nâng người đó lên
đến độ cao của những lý lẽ chứng minh cho sự chọn lựa ấy. Vậy những lý lẽ ấy là
những lý lẽ nào? Điều cốt yếu là tỏ ra cho biết tình yêu của Thiên Chúa Cha.
Tức khắc, họ không còn là những kẻ thừa hành mệnh lệnh mà họ chẳng hề hiểu ý
nghĩa lẫn lý do. Họ là những sứ giả của tình yêu sống động và truyền cảm qua
trái tim của Đức Kitô. Chúa Giêsu nâng các môn đệ Người lên đến độ cao của trái
tim Người, và gọi họ là bạn hữu.
Bởi thế cho nên Người dẫn dắt họ vào tận chỗ thâm sâu của tư
tưởng Nguơì. Người cho họ biết những gì Người đã học được từ nơi Cha Người. Sau
này, công việc soi sáng và thêm sức nơi họ, sẽ do Chúa Thánh Thần hoàn tất.
Nhưng ngay từ bữa Tiệc ly, họ đã là những kẻ tham gia và là chứng tá cho tình
yêu cao cả, họ trở nên bạn hữu. Ngày nay Chúa có gọi chúng ta là bạn hữu không?
Điều đó tuỳ thuộc chúng ta.
7. Phép lạ của tình yêu – Lm. Mark Link.
Chủ đề: "Tình yêu làm nên những phép lạ nơi những kẻ tin
vào tình yêu và thực hiện tình yêu"
Cách đây mấy năm tập san Readers Digest có thuật lại một câu
chuyện cảm động về một em bé trong bệnh viện Milwaukee. Em này bị mù, đần độn,
lại còn bị liệt não nữa. Em chỉ khá hơn loài thảo mộc một chút là biết đáp ứng
lại âm thanh và sự ve vuốt mà thôi. Cha mẹ em đã bỏ rơi em. Nhưng bệnh viện
cũng chả biết xử lý thế nào với trường hợp của em. Thế rồi có một người nhớ đến
May Lempke, bà y tá 52 tuổi sống gần đấy. Bà nầy đã từng nuôi nấng năm đứa con
của chính mình, nên bà sẽ biết cách chăm sóc cho một đứa trẻ như thế. Họ yêu
cầu bà chăm sóc đứa bé và bảo: "Thằng bé có lẽ sẽ chết yểu!". Bà May
trả lời: "Nếu tôi chăm sóc đứa bé, nó sẽ không chết yểu đâu, và tôi rất
sung sướng được chăm sóc cho nó".
Thế là bà May đặt tên cho cậu bé là Leslie. Chăm sóc cho cậu bé
quả thật không dễ dàng chút nào. Ngày nào bà cũng phải xoa bóp toàn thân đứa bé,
bà đã cầu nguyện cho nó, đã khóc vì nó, bà đã đặt đôi tay nó lên những giọt lệ
của bà. Một hôm, có người nói với bà: "Tại sao bà không gởi đứa bé ấy vào
viện? Nó chỉ làm phí cuộc đời của bà thôi?
Leslie càng lớn thì càng có nhiều vấn đề phải đặt ra cho bà May.
Bà phải giữ nó chặt vào một chiếc ghế để nó khỏi bị té xuống. Thời gian trôi
qua, năm mười, mười lăm năm. Mãi đến khi Leslie 16 tuổi, bà May mới có thể tập
cho nó đứng một mình được. Suốt thời gian đó, bà May vẫn tiếp tục yêu thương và
cầu nguyện cho cậu bé. Ngoài ra bà còn kể cho cậu bé nghe những mẩu chuyện về
Chúa Giêsu dù xem ra cậu chẳng nghe được tiếng bà.
Thế rồi một ngày nọ, bà May chợt nhận thấy Leslie dùng ngón tay
của mình búng vào một sợi dây căng thẳng trên một gói đồ. Bà tự hỏi; điều ấy có
ý nghĩa gì? biết đâu Leslie lại nhạy cảm với âm nhạc chăng? Và bà May bắt đầu
cho Leslie nghe âm nhạc. Bà chơi đủ loại hình âm nhạc mà bà tưởng tượng ra được
với hy vọng có một loại nào đó có thể lôi cuốn cậu bé. Cuối cùng, bà May và
chồng mua được một chiếc dương cầm cũ kỹ. Họ đặt nó vào giường ngủ của Lislie.
Bà May cầm những ngón tay của Leslie đặt vào tay bà và tập cho cậu bé biết cách
nhấn phím xuống, nhưng xem ra cậu ta chả hiểu.
Thế rồi vào một đêm đông năm 1971, bà May bừng thức giấc vì nghe
có tiếng đờn của ai đó đang chơi bản hoà tấu dương cầm số 1 của Tchaikovsky. Bà
lay lay chồng đánh thức ông dậy, và hỏi xem ông có quên tắt radio không. Ông ta
nói rằng không, nhưng họ quyết định tốt hơn là nên xem xét lại. Và họ khám phá
ra một điều vượt khỏi mọi giấc mơ kỳ quái nhất của họ. Cậu Leslie đang ngồi tại
chiếc dương cầm. Cậu đang mỉm cười và chơi đàn một cách ngẫu hứng không thể nào
tin được đây là sự thật!
Trước đây Leslie chưa bao giờ bước ra khỏi giường một mình.
Trước đây cậu bé chưa bao giờ tự mình ngồi vào chiếc dương cầm được, cậu cũng
chưa bao giờ tự dùng tay ấn được vào phím đàn. Thế mà bây giờ đây cậu lại đang
chơi đàn tuyệt vời như thế! Bà May vội quì gối xuống và thốt lên: "Lạy
Chúa! Con xin cảm tạ Ngài, Ngài đã không bỏ quên Leslie".
Chẳng bao lâu, Leslie bắt đầu kiếm sống bằng cây dương cầm. Cậu
chơi được nhạc cổ điển, nhạc đồng quê miền tây, nhạc trữ tình, nhạc dạo và cả
nhạc Rock nữa. Hoàn toàn không thể nào tin nổi. Tất cả những bài nhạc bà May đã
từng chơi cho cậu nghe đều tồn trữ trong óc cậu và giờ đây tuôn trào ra trên
phím dương cầm qua đôi tay cậu. Giờ đây ở tuổi 28, Leslie bắt đầu nói chuyện.
Tuy không thể đối thoại lâu giờ. Nhưng cậu có thể đặt câu hỏi, trả lời những
câu đơn giản và phát biểu được những lời phê bình ngắn gọn. Chẳng hạn, một buổi
tối kia, đang xem một vở hài kịch trên truyền hình, cậu cảm thấy cuộc đối thoại
chán ngắt, cậu bèn nói:
"Tốt hơn là chúng ta nên tắt nó đi, cả bọn chỉ toàn là lũ
điên!".
Dạo này, Leslie chơi nhạc hoà tấu cho những ca đoàn nhà thờ, cho
các cơ quan dân sự, cho các nạn nhân liệt não và cha mẹ họ, cậu còn xuất hiện
cả trên đài truyền hình quốc gia nữa! Các bác sĩ mô tả Leslie như là một người
thông thái bị mắc một loại tâm bệnh, nghĩa là một người chậm phát triển về trí
tuệ do tổn thất nơi não nhưng lại cực kỳ tài năng. Họ không thể cắt nghĩa được
hiện tượng dị thường này cho dù họ biết về nó gần 200 năm rồi. Bà May Lempke
cũng không thể cắt nghĩa được điều ấy nhưng bà biết chắc rằng nhờ tình yêu mà
tài năng ấy được khai mở.
Chúng ta cần đọc đi đọc lại nhiều lần câu chuyện của bà May
Lempke với những gì bà đã làm được cho Leslie nhờ tình thương không mệt mỏi của
bà. Nó đặc biệt thích hợp với chúng ta ngày nay vì ba lý do;
Thứ nhất, bằng một cốt chuyện gây cảm động, câu chuyện cụ thể
hoá sứ điệp hàm chứa trong các bài đọc hôm nay, được gọi là giáo huấn của Đức
Giêsu về việc yêu thương nhau.
Thứ hai, nó đã cụ thể hoá thành một cốt chuyện lý do tại sao
chúng ta lại dành ngày hôm nay để làm Ngày Cho Mẹ, bởi vì, thông thừơng, các bà
mẹ sống lời Đức Giêsu dạy về tình thương một cách kiên nhẫn và trung thành hơn
bất cứ nhóm người nào khác.
Sau cùng, câu chuyện cũng cụ thể hoá năng lực kinh khủng của
tình yêu. Những gì mà bà May đã làm vì tình yêu cho Leslie qủa thật là lạ lùng.
Đó chính là những gì Đức Giêsu đòi hỏi phải có cho một tình yêu thương đích
thực. Đó là một phương cách để tạo nên những phép lạ trong đời sống của những
người thuộc thời đại này, đúng như cách Đức Giêsu đã tạo nên những phép lạ
trong đời sống của những người thuộc thời đại Ngài.
Qua tình yêu, Thiên Chúa đã để chúng ta tùy nghi sử dụng cái
năng lực mãnh liệt nhất, trên thế gian này, đó là thứ năng lực mà mọi tiền của
trên thế gian không thể mua được. Đó là thứ năng lực mà mọi tri thức trên thế
gian không thể tạo ra được. Đó là thứ năng lực mà mọi lãnh tụ trên thế giới
không thể chiếm hữu được. Đó cũng là thứ năng lực mà mọi đạo quân trên trần thế
không thể tập trung lại được. Và kiều kỳ diệu hơn nữa, Tình yêu là năng lực mà
mọi người đều có.
Bất chấp nam hay nữ
Bất kể thuộc tôn giáo nào
Bất kể thuộc quốc tịch nào
Bất kể được giáo dục theo phương pháp nào.
Tình yêu chẳng dành riêng cho người khoẻ mạnh
Cũng chẳng dành riêng cho người giàu có
Cũng chẳng dành riêng cho kẻ khôn ngoan
Cũng chẳng dành riêng cho người danh giá.
Tình yêu dành cho tất cả mọi người
Tình yêu làm cho tất cả chúng ta bình đẳng
trước mặt Thiên Chúa và bình đẳng đối với nhau.
Đây chính là Tin Mừng chứa đựng trong các bài đọc Kinh Thánh hôm
nay. Đây là Tin Mừng có khả năng biến đổi thế giới chúng ta một cách tuyệt hảo
chẳng khác nào tình yêu của bà May Lempke đã biến đổi thế giới của Leslie. Đây
chính là Tin Mừng mà chúng ta phải rao to từ trên mái nhà và sống nó thật trọn
vẹn.
Và nếu chúng ta là được thế, chúng ta cũng có thể làm được những
phép lạ bằng tình yêu của chúng ta ngay trong kiếp sống này y như Đức Giêsu đã
làm nên những phép lạ nhờ vào tình yêu của Ngài trong thời gian Ngài sống trên
dương thế.
8. Mến Chúa và yêu người.
Chúa Giêsu đã quan niệm về hạnh phúc như thế nào? Theo tôi nghĩ
Ngài đã quan niệm hạnh phúc như là sự hòa hợp của mối tương quan ba chiều:
Thiên Chúa, bản thân và tha nhân.
Trong toán học, hễ có ba điểm trong không gian thì người ta có
thể vẽ được một vòng tròn cố định. Cái vòng tròn hay tình trạng viên mãn của
hạnh phúc cũng phải được hình thành từ mối tương quan giữa con người và Thiên
Chúa, cũng như giữa con người với nhau. Chẳng hạn trong đời sống gia đình, hạnh
phúc hệ tại mối tương quan hòa hợp giữa cha mẹ và con cái, cũng như giữa con
cái với nhau. Thực vậy, con cái không thể nào hạnh phúc nếu chỉ hòa thuận với
cha mẹ mà không hòa hợp với anh chị em. Hay trái lại, không thể hạnh phúc nếu
chỉ hòa thuận với nhau mà không hòa hợp với cha mẹ.
Điểm mới lạ Chúa Giêsu đem đến chính là khẳng định tính cách
ngang bằng và bất khả phân ly giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối
với tha nhân, hay nói đúng hơn chỉ có một tình yêu liên kết con người với
Thiên Chúa và liên kết con người với con người. Cũng như hai mặt của
một đồng tiền. Nếu nó rách bên này thì cũng rách bên kia, không thể có sự
nguyên vẹn của mặt này nếu mặt kia không có hay đã nhàu nát.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phán: Điều răn thứ nhất đó là kính
mến Chúa hết lòng. Còn điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất,
đó là hãy yêu mến tha nhân như chính bản thân mình. Và chúng ta thấy, cây thập
giá là biểu tượng cho sự gắn bó và hòa hợp giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu
tha nhân: chiều dọc biểu tượng cho mối tương quan đối với Thiên Chúa, còn chiều
ngang biểu tượng cho mối tương giao giữa người với người. Không có thanh dọc,
thì thanh ngang chỉ có thể nằm dưới đất, không thể nâng cao được. Trái lại nếu
thiếu thanh ngang thì cây thập giá chỉ còn là một cái cọc chơ vơ. Không có tình
yêu Thiên Chúa thì tình yêu con người khó có thể được nâng cao và không thể đạt
tới viên mãn, nhưng nếu không có tình yêu con người thì tình yêu Thiên Chúa
cũng không thể đến với con người, bởi vì chẳng ai thấy được Thiên Chúa bao giờ.
Vì thế, tình yêu của Ngài đối với chúng ta đã được biểu lộ qua
trung gian của tình yêu huynh đệ giữa chúng ta. Nếu chúng ta yêu thương nhau
thì Thiên Chúa luôn kết hợp với chúng ta và tình yêu của Ngài mới đạt tới mức
hoàn hảo nơi chúng ta. Nơi Đức Kitô, Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, nghĩa là
Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mang một khuôn mặt của con người, sống hoàn toàn
như một con người trần thế, ở giữa mọi người và hơn thế nữa, còn hạ mình sống
thân phận một kẻ nô lệ để có thể phục vụ và chết cho mọi người. Ngài đã lấy
chính cái chết trên thập giá để mạc khải trọn vẹn chân tính của mình là Thiên
Chúa hằng hữu. Sự hy sinh dâng hiến ấy, đối với Ngài, chính là nguồn vui, an
bình và vinh quang. Con người chỉ có thể đạt tới hạnh phúc khi thể hiện lòng
kính mến Thiên Chúa qua tình yêu thương đối với tha nhân, với một ý thức rằng
cho một kẻ bé mọn một chén cơm, một manh áo, một ly nước là phục vụ cho chính
Chúa. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào tha nhân cũng như hạnh phúc của tha
nhân tùy thuộc vào chính chúng ta.
9. Yêu thương anh em.
Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
Ai trong chúng ta cũng đã biết: con người đầu đội trời, chân đạp
đất. Vì thế, sống trong cuộc đời, chúng ta có hai loại bổn phận phải chu toàn.
Bổn phận hàng dọc và bổn phận hàng ngang. Bổn phận đi lên và bổn phận đi xuống.
Bổn phận đối với trời và bổn phận đối với đất. Hay nói một cách cụ thể hơn đó
là bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với anh em.
Chính Chúa Giêsu đã xác quyết điều ấy:
- Giới răn thứ nhất, đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn
giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương
anh em như chính mình. Hai giới răn này gồm tóm mọi điều Kinh Thánh truyền dạy.
Thế nhưng, chúng ta có cảm tưởng là dường như Chúa Giêsu đặt
nặng vấn đề thương người, hơn cả mến Chúa, bởi vì như lời Ngài đã phán:
- Khi các ngươi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em
có điều chi bất bình với các ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với
người anh em mình trước đã, rồi hãy tới mà dâng của lễ sau.
Sở dĩ như thế cũng là điều dễ hiểu bởi vì Thiên Chúa là tình
yêu, tất cả mọi thứ tình yêu chân thật của chúng ta đều bắt nguồn từ Thiên
Chúa, để rồi cuối cùng sẽ lại qui hướng về Ngài. Hơn nữa, chính tình yêu đối
với anh em là dấu chỉ chắc chắn nhất để xác quyết về lòng kính mến của chúng ta
đối với Thiên Chúa như Ngài bảo:
- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là
các con yêu thương nhau.
Hay như thánh Gioan cũng đã xác quyết:
- Ai nói rằng mình kính mến Thiên Chúa mà lại ghét bỏ anh em thì
người đó là một kẻ nói dối. Bởi vì anh em là những người sống bên cạnh mình mà
chẳng yêu thương thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa là Đấng chẳng hề thấy
bao giờ.
Thế nhưng, chúng ta phải đối xử với anh em như thế nào? Đâu là
cái tiêu chuẩn để hướng dẫn chúng ta trong phạm vi này?
Truyền thống của người Do Thái có một câu chuyện kể lại như sau:
Ngày kia một người tìm đến với thầy Samai, thuộc phái giải thích
luật một cách nghiêm khắc và cho biết mình có ý định tìm kiếm chân lý. Ông hỏi:
- Thầy có thể dạy tôi tóm lược tất cả các lề luật trong thời
gian tôi đứng trên một chân. Vì tôi không thể ở lại Giêrusalem lâu được.
Nghe nói thế, thầy Samai nổi giận và truyền đuổi ông ra khỏi nhà
mình. Không mất niềm hy vọng, ông ta tìm đến với thầy Gillen, một người vừa
thông thái, vừa cởi mở lại vừa phóng khoáng. Có kẻ cho rằng Gillen chính là
người mà Chúa Giêsu khi lưu lại trong đền thờ ba ngày vào năm lên 12 tuổi, đã
chất vấn ông về lề luật.
Trước cùng một câu hỏi được đưa ra, thầy Gillen đã trả lời ngay
không cần phải suy nghĩ:
- Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Đó
là cái cốt lõi của lề luật. Tất cả những thứ khác, chỉ là để giải thích cho
giới luật này mà thôi. Anh hãy đi và suy nghĩ chín chắn về điều tôi vừa nói.
Phải chăng đó chính là bước đầu tiên để chu toàn giới luật:
- Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Tuy
mang tính cách thụ động và tiêu cực, nhưng nếu tuân giữ cho trọn vẹn, thì chúng
ta còn phải thực hành rất nhiều điều tích cực, chẳng hạn như không nói xấu,
không ganh tỵ, không trộm cắp và hàng lô những cái không khác nữa, nhờ đó cuộc
sống sẽ được an vui và bản thân sẽ được hạnh phúc. Nhất là nhờ đó chúng ta sẽ
trở nên những môn đệ đích thực của Đức Kitô.
10. Yêu thương.
Dọc theo triền núi Trường Sơn, có một ngôi mộ đã lâu đời, trên
bia mộ có khắc dòng chữ: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”. Đây là
câu nói của Hy Thanh, người nằm trong mộ. Tại sao lại khắc dòng chữ đó trên mộ
của anh ta? Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh chịu khó đi học nghề tìm
mạch nước. Bạn bè khinh chê: “Dưới đất lúc nào chẳng có nước, học chi cái nghề
vô dụng ấy”, gia đình cũng rủa chàng: “Học cái nghề vô ích ấy làm gì, đi đâu
thì đi” Hy Thanh ra đi, ngày kiếm ăn, đêm tìm đến chùa ngủ, cắn răng chịu đựng
và vẫn tiếp tục theo đuổi cái nghề ấy. Hai mươi năm trôi qua, gặp thời đại hạn,
giếng khô cạn, nhiều người chết vì khát. Lúc bấy giờ người ta chợt nhớ đến
chàng, chạy tới cầu cứu. Hy Thanh tìm ra mạch nước, nước chảy lênh láng khắp
nơi. Dân chúng từ bốn phương hay tin đến uống, họ vui mừng ca ngợi chàng. Tuy
nhiên, có kẻ vì khát lâu ngày, nay uống quá độ nên ngã lăn ra chết. Người ta
quay lại mạt sát chàng, đám người có thân nhân bị chết xông vào đánh đập chàng
cho đến chết. Trước khi chết, chàng nói: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng
người”.
Đó là câu chuyện ngày xưa, sau đây là chuyện ngày nay: Trên báo
Tuổi Trẻ Chúa Nhật số 18 năm 1989 có một câu chuyện tựa đề là “Máu Cá”, tức là
máu lạnh, trích trong tập “Ngồi buồn viết mà chơi” của nhà văn Nguyễn Minh Châu
như sau: Tại sân ga Hàng Cỏ vào lúc tờ mờ sáng, khách đứng xếp hàng chuẩn bị
lên tàu, khách ngồi chờ đợi rất đông, cùng với số lượng hàng hóa chất cao từng
đống. Giữa cảnh đông đúc chen chúc như vậy, có một người đàn bà còn trẻ, y như
một người mất trí, cứ hét vang cả sân: “Các ông các bà, có ai thương tôi, cứu
tôi với”. Chị ta kêu đến khản cả giọng mà chung quanh chẳng ai đoái hoài. Người
ta chỉ quay nhìn chị một cách thờ ơ. Có chuyện gì xảy ra vậy? Thì ra thế này:
chị ta xuống tàu trong đêm với hai đứa con: đứa ba tuổi, đứa nửa tuổi, ngồi chờ
sáng. Lúc trời gần sáng, chị bảo đứa con lớn ngồi trông em để đi giặt đồ. Giặt
xong, quay trở lại thì mẹ mìn đã dụ dỗ đem đứa lớn đi, chỉ còn đứa nhỏ nằm ngửa
giữa sân ga một mình. Nghe xong câu chuyện, tôi (tác giả Nguyễn Minh Châu) chạy
đến gặp một đồng chí công an đề nghị: “Các đồng chí nói loa đi, yêu cầu hành
khách thấy ai khả nghi thì giữ lại, đứa dụ dỗ đứa trẻ, thế nào cũng có vẻ khả
nghi, biết đâu nó còn quanh quẩn đâu đây, yêu cầu mọi người giúp chị ta”. Đồng
chí công an chẳng nói chẳng rằng, chẳng trả lời tôi lấy một lời, còn hàng ngàn
con người thì vẫn dửng dưng. Người đàn bà đau khổ vẫn kêu gào giữa hàng ngàn
hành khách sân ga Hàng Cỏ như kêu gào giữa sa mạc.
Kể lại hai câu chuyện trên tôi muốn nói lên nhân tình thế thái,
nói lên lòng người đối với nhau, như là gợi ý để mọi người suy nghĩ một chút về
lệnh truyền và cũng là lời trăn trối, lời di chúc của Chúa Giêsu nói với các
môn đệ trước khi từ biệt các ông để đi chịu nạn chịu chết trong bài Tin Mừng:
“Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em… Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”.
Yêu thương là một trạng thái tình cảm xưa như trái đất, tức là
ngay từ khi có con người trên mặt đất đã có vấn đề yêu thương. Dân tộc nào cũng
dậy yêu thương, tôn giáo nào cũng dậy yêu thương. Trong Cựu Ước, lề luật Do
Thái cũng đã có luật yêu thương, chẳng hạn luật Môsê dạy: “Phải yêu thương tha
nhân như chính mình”. Tới khi Chúa Giêsu xuống thế, Ngài đã giảng dạy yêu
thương, thực hiện yêu thương trọn vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt mới mẻ trong
luật yêu thương Chúa dạy là Ngài nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật
mến Chúa, đồng thời coi những hành động yêu thương như dấu chỉ để mọi người
nhận ra môn đệ Ngài và là tiêu chuẩn Ngài căn cứ vào đó để khen thưởng sau này.
Như vậy, luật yêu thương nhau không những là một lời khuyên mà
còn là một lệnh truyền, một sứ mệnh của người Kitô hữu. Vậy chúng ta phải thực
hành luật này thế nào? Nói khác đi, chúng ta phải yêu thương nhau thế nào? Xin
đề nghị ba điều:
Thứ nhất, yêu thương là đối xử nhân hậu với nhau.
Nhân hậu là biết chịu đựng và nhường nhịn: chín bỏ làm mười, một nhịn chín
lành; nhân hậu là biết đón nhận những chướng tai gai mắt, những quê mùa nông
cạn của người khác, không tranh chấp cãi cọ, tránh lời thóa mạ, cộc cằn, mỉa
mai. Chúng ta hãy nhớ: khi chúng ta sống khó tính, nóng nảy, trịch thượng, bất
mãn, bất đồng, thì bị mọi người xa lánh và mình làm khổ mình. Trái lại, nhân
hậu là bùa mê, là nam châm thu hút lòng người.
Thứ hai, yêu thương là không nổi giận.
Tức giận là một tình cảm thông thường của con người. Nói theo Á Đông, tức giận
là một trong thất tình của con người. Con người có vui, có buồn, có ham muốn,
có giận dữ. Vì vậy, vấn đề không phải là có giận hay không, nhưng là tại sao
giận, giận ai, giận gì việc gì… Dù lý do nào đi nữa, chúng ta cũng hãy nhớ:
người giận mất khôn, giận dữ chẳng được ích gì, nóng giận làm tan vỡ tất cả.
Thứ ba, yêu thương là không nói hành nói xấu.
Người ta thường đổ tội nói hành nói xấu cho cái lưỡi để nói lên sự nguy hại của
nó: lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, tay đã dài mà lưỡi còn dài hơn, không
nọc độc nào nguy hại bằng cái lưỡi. Lời nói hành nói xấu được ví như một mũi
tên tẩm thuốc độc, bắn một phát giết chết ít nhất ba người; giết kẻ bị nói xấu,
giết kẻ nghe nói xấu và giết chính kẻ nói xấu. Chúng ta hãy nhớ lời cầu nguyện
sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con rơi vào số phận của kẻ nói xấu nói hành, mà
phần phạt của họ là ở trong hồ lửa diêm sinh cháy bừng bừng”.
Tóm lại, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương nhau, và chúng
ta cũng đã biết có rất nhiều cách để thể hiện lòng yêu thương đối với nhau, hôm
nay chúng ta hãy nhớ ba điều: hãy đối xử nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức
giận nhau, và đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.
11. Niềm tâm sự – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu có nói: “Cha Thầy dạy Thầy thế nào,
Thầy cũng dạy anh em như vậy, nên anh em hãy dạy nhau như Thầy đã dạy anh em”
không? Hay nói: “Cha Thầy làm gì cho Thầy, Thầy cũng làm điều ấy cho anh em, nên
anh em hãy làm cho nhau như Thầy đã làm cho anh em”? Điều đó có nghĩa gì?
2. Xét về gương của Đức Giêsu: Ngài yêu thương con người đến mức
độ nào? Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau ở mức độ nào?
3. Để yêu thương mọi người, ta có thể làm gì cụ thể và ích lợi
cho họ nhất? Họ cần gì nhất?
Chia sẻ
1. Đức Giêsu bắt chước Chúa Cha, sau đó Ngài mời gọi ta bắt
chước Ngài
Trong bài Tin Mừng, ta thấy có những lời của Đức Giêsu có hình
thức ít nhiều tương tự như sau: “Chúa Cha làm cho Thầy, Thầy cũng làm như vậy cho
anh em”, nên “anh em hãy làm như vậy cho nhau, giống như Thầy đã làm cho anh
em”. Chẳng hạn:
- Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế
nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”. Sau đó Ngài mời gọi: “Anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”
- “Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình
thương của Người”, Vậy “anh em (hãy) giữ các điều răn của Thầy và ở lại trong
tình thương của Thầy”
- “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh
em biết”, nghĩa là: Tất cả những gì Cha Thầy nói với Thầy, Thầy lại nói hết với
anh em, nên tất cả những gì Thầy nói với anh em, anh em hãy nói hết với nhau.
Vì nói cho nhau biết hết tức coi nhau như bạn hữu, nên lời trên có thể diễn tả
cách khác: Cha Thầy đã coi Thầy như bạn hữu, Thầy cũng coi anh em như bạn hữu,
vậy anh em hãy coi nhau như bạn hữu, giống như Thầy đã làm như vậy với anh em.
Như vậy, Chúa Cha nêu gương cho Đức Giêsu noi theo, Đức Giêsu
lại nêu gương cho chúng ta noi theo. Đức Giêsu cũng đã nói rõ điều ấy: “Thầy đã
nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga
13,15). Vì thế, bổn phận của chúng ta là tiếp tục nêu gương tốt cho nhau, và
cho mọi người. Nhờ đó, chúng ta trở nên “muối cho đời” và “ánh sáng cho trần
gian” (x. Mt 5,13-16).
Trong nghi thức phong chức giáo sĩ, Đức giám mục đại diện Giáo
Hội trao cho các tân chức bổn phận phúc âm hóa, gồm hai nhiệm vụ được tóm lại
trong câu: “Facete et docete” (=Hãy làm và dạy). Không phải là không có dụng ý
khi Giáo Hội đặt chữ làm trước chữ dạy. Giáo Hội không bảo: “Hãy dạy và làm”,
mà bảo: “Hãy làm và dạy”. Giáo Hội có ý nói: hãy làm gương trước đã rồi hãy dạy
bảo sau, vì làm gương thì cần thiết và quan trọng hơn dạy bảo rất nhiều. Nhưng
dường như nhiều nhà phụ trách phúc âm hóa thời nay thường chú tâm đến việc dạy
bảo hơn là làm gương, thậm chí coi rất nhẹ việc làm gương. Nhiều khi lời dạy và
việc làm của người dạy trái ngược hẳn nhau. Vì thế, việc phúc âm hóa và việc
giáo dục Kitô hữu không đi đến kết quả mong muốn vì chưa đi đúng tinh thần của
Đức Giêsu và Giáo Hội. Cần nhận thức rõ ràng rằng gương sáng có tác dụng giáo
hóa hữu hiệu gấp nhiều lần lời dạy: “Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn”. Các
nhà phúc âm hóa và giáo dục Kitô hữu nên tránh vết xe đổ của những người
Pharisiêu xưa là “nói mà không làm” (Mt 23,3), hay “nói một đằng, làm một nẻo”.
2. Gương yêu thương và hy sinh của Đức Giêsu
Điểm nhấn của bài Tin Mừng hôm nay là gương yêu thương và hy
sinh của Đức Giêsu, và lời Ngài yêu cầu chúng ta hãy bắt chước Ngài mà yêu
thương nhau: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em”.
Gương của Ngài trong việc yêu thương chúng ta là: Ngài yêu bằng
những hành động cụ thể, nghĩa là hy sinh thật sự cho người mình yêu. Khi yêu
ai, người ta có thể hy sinh cho người ấy thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công
việc, cơ hội, tình cảm khác, v.v… Nhưng hy sinh cao độ nhất là hy sinh chính
mạng sống mình: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã
hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Đức Giêsu đã thực hiện chính sự hy sinh
cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,6.8; x. Ep 5,2; 1Ga 3,16).
Không ai thật sự yêu thương mà lại không sẵn sàng hy sinh cho người mình yêu.
Ai nói mình yêu thương mà lại không muốn hy sinh, kẻ ấy nói dối, hay tình yêu
của kẻ ấy chỉ là thứ môi miệng.
Như vậy, một trong những lý do quan trọng khiến chúng ta phải
yêu thương nhau, đó là chính Thiên Chúa và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta:
“Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương
nhau” (1Ga 4,11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương
chúng ta trước” (1Ga 4,19); “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả
chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16).
3. Yêu thương nhau bằng cách làm gương sáng cho nhau: gương tốt
nhất là gương yêu thương nhau
Người yêu thương đích thực thì sẵn sàng hy sinh bất kỳ điều gì
mà người mình yêu cần đến. Điều mà người mình yêu cần đến có thể rất khác nhau,
tùy theo mỗi người và theo từng trường hợp cá biệt. Để hy sinh, để thể hiện
tình yêu một cách thích hợp, chúng ta cần phải tìm hiểu xem người mình yêu cần
những gì, và cần gì nhất. Đức Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương tất cả mọi
người không trừ ai. Vậy chúng ta thử tìm hiểu xem con người thời nay, nhất là những
người chung quanh ta, cần gì nhất.
Trong vô số những nhu cầu tinh thần cũng như vật chất, điều mà
con người cần nhất là được cứu rỗi; nói cụ thể và chi tiết hơn là tin vào Thiên
Chúa, đồng thời biết sống xứng đáng với phẩm giá của mình là hình ảnh và là con
cái Thiên Chúa để nhờ đó được hạnh phúc vĩnh cửu. Vì thế, người yêu thương tha
nhân cách sáng suốt là người biết quan tâm tới sự cứu rỗi của họ, nghĩa là
chẳng những giới thiệu cho họ biết Thiên Chúa, tin Đức Giêsu, ý thức phẩm giá
cao quí của mình, mà còn giúp họ sống cho xứng với phẩm giá cao quí ấy.
Để sống xứng với phẩm giá cao quí ấy, không gì tốt cho con người
bằng thực hiện chính bản tính Thiên Chúa mà Ngài đã chia sẻ hay thông phần cho
họ: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã
hứa, là cho anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Mà điều cốt
yếu trong bản tính Thiên Chúa chính là tình yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga
4,8.16). Vì thế, sống yêu thương - yêu Thiên Chúa và tha nhân - chính là thực
hiện bản chất cao quí nhất của con người, là sống xứng với phẩm giá của con
người là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều mà con người
cần thiết phải làm để được cứu rỗi. Chính vì thế, Đức Giêsu chỉ truyền cho con
người một giới luật duy nhất là yêu thương nhau: “Điều Thầy truyền dạy anh em
là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17; x. Ga 13,34-35; 15,12; 1Ga 3,23; 2Ga 1,5).
Vào ngày chung thẩm, Thiên Chúa chỉ căn cứ vào một điều duy nhất để phán xét
chúng ta, đó là tình yêu của chúng ta đối với tha nhân (x. Mt 25,31-46).
Vì thế, tìm cách làm cho những người chung quanh ta yêu thương
nhau, hy sinh cho nhau, chính là làm cho họ được cứu rỗi. Và không cách nào hữu
hiệu để giúp họ yêu thương nhau cho bằng chính ta làm gương sáng cho họ về điều
ấy. Nghĩa là ta không chỉ dạy họ yêu thương nhau và yêu thương mọi người, mà
chính chúng ta phải thật sự gương mẫu trong việc yêu thương mọi người và yêu
thương chính họ (những người ta dạy dỗ). Phải sống làm sao để có thể nói được
tương tự như Đức Giêsu, chẳng hạn: “Thiên Chúa và Đức Giêsu yêu thương tôi, nên
tôi cũng yêu thương anh chị em như vậy… và anh chị em cũng hãy yêu thương nhau
giống như tôi đã yêu thương anh chị em”. Tình yêu của ta đối với mọi người phải
là tấm gương để mọi người nhìn vào đấy mà yêu thương nhau.
Tình yêu thật sự sẽ như một mồi lửa có thể lan truyền từ người
nọ sang người kia và cuối cùng biến trần gian này thành Nước Trời. Chính Đức
Giêsu đã mong ước lửa tình yêu mà Ngài đã đem đến trái đất lan truyền đến mọi
người và bùng cháy lên: “Thầy đã đem lửa đến trần gian, và Thầy những ước mong
phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12,49). Lửa ấy có bùng lên hay không, điều ấy
tùy thuộc vào mỗi người chúng ta có lửa ấy trong tâm hồn mình hay không, và có
biết truyền lửa ấy đến tâm hồn những người chung quanh ta hay không!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha và Đức Giêsu đã yêu thương con vô bờ bến, xin cho
con cũng biết yêu thương mọi người chung quanh con bằng những hy sinh cụ thể về
thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc, cơ hội… Xin cho mọi người chung quanh
con cảm nghiệm được tình yêu chân thật của con dành cho họ, để chính họ cũng
bắt chước con mà yêu thương nhau.
12. Yêu.
Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên
Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi
vị tu sĩ: “Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?”.
Vị tu sĩ đáp “có chứ”.
Người thanh niên hỏi “Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?’.
Vị tu sĩ đáp “Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người.
Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta”.
Người thanh niên hỏi “nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra
được?
Vị tu sĩ đáp “Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm
được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan
biến trước ánh nắng mặt trời vậy”.
Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi
“Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?”.
Vị tu sĩ đáp “Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng
yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không
ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con
sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất
tử của linh hồn. Điều này đã được thử nghiệm. Đây là đường lối đúng đắn”.
Người thanh niên chỉ phản ánh lại những lời nói của thánh Gioan
“Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên
Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết
Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là
tình yêu”. (Bài đọc 2).
Tình yêu là điều kiện đầu tiên, để thực sự hiểu biết về cuộc
sống, và đặc biệt là hiểu biết về Thiên Chúa. Như cha Zosima nói trong cuốn
sách Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky “Bạn phải yêu thương tất cả những gì
mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mỗi hạt cát trong
đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiệm có
trong tất cả mọi sự”. Van Gogh đã nói một câu tương tự: Cách thức tốt nhất để
nhận biết Thiên Chúa là yêu thương nhiều thứ. Hãy yêu thương bạn bè, vợ con…,
và bạn sẽ được đi trên đường lối đúng đắn trong việc nhận biết Thiên Chúa”.
Tình yêu là người giáo viên tốt nhất mà chúng ta có. Nhưng tình
yêu không đạt được sự hòa hợp riêng của nó. Người ta phải trả giá đắt cho tình
yêu. Tình yêu thường đòi hỏi nhiều năm tháng kiên trì, qua những công việc lặt
vặt, trước khi người ta có thể đạt được khả năng biết yêu thương.
Có một khoảng cách lớn, giữa việc nhận biết Thiên Chúa và yêu
mến Người. Không biết yêu mến, có nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nhưng khi
chúng ta biết yêu mến, thì khoảng cách này được lắp đầy. Biết yêu mến, có nghĩa
là biết Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu, ở đó có Thiên Chúa; ở đâu có Thiên Chúa,
ở đó có tình yêu. Sự nhận biết không phải là chứng tỏ hoặc giải nghĩa.
Ghen ghét là một điều tồi tệ. Ghét bất cứ thứ gì cũng đều là xấu
xa cả. Thật là điều tốt đẹp, khi yêu mến tất cả mọi sự, ngay cả một bụi hoa
hồng. “Đối với tôi, tôi hài lòng được trở thành một người làm vườn, một người
biết yêu quí những cây cỏ của mình” (Van Gogh).
Bởi vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, cho
nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương. Tuy
nhiên, để được như vậy, trái tim phải ngay thẳng. Nếu chỉ có được một trái tim
ngay thẳng, thì chúng ta có thể hiến tặng nhiều hơn nữa. Nhưng than ôi! Nhiều
khi trái tim con người lại thờ ơ lạnh lẻo, đôi khi còn trống rỗng, tan vỡ nữa.
Chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này. Tất cả điều đó nói lên rằng chúng ta
có một trái tim bằng máu thịt, chứ không phải là bằng đá. Nhưng chúng ta phải
chữa lành những vết thương của trái tim, để có khả năng tạo ra được những hoa
quả của tình yêu.
Khi chúng ta biết yêu thương, thì hình ảnh của Thiên Chúa đạt
mức độ tươi đẹp nhất và rạng ngời nhất nơi chúng ta.
13. Tình yêu.
Trong một ngôi làng tại dãy núi Alp ở Thụy Sĩ, có một nhà thờ
nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù
không hề có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn
dành một tình cảm đặc biệt cho ngôi nhà thờ này. Điều này khiến cho nơi đây
mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân? Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi
nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Câu chuyện như
sau:
Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản
phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn, người em còn độc thân. Khí
hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi, huê lợi trở lên hiếm hoi.
Ngày kia, người em tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản
phẩm bằng nhau. Mình còn độc thân, nhưng anh mình phải nuôi cả một gia đình”.
Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi
hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai
ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.
Đồng thời, người anh cũng có cùng một tư tưởng đó, và tự nhủ
“Thật không công bình khi sản phẩm bằng nhau. Mình có cả một gia đình nâng đỡ
mình, nhưng em mình vẫn độc thân”. Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra
ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm
đổ vào thùng của người em.
Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không
hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ
đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt
xuống, và ôm nhau. Đột nhiên, có một giọng nói xuất phát từ trên trời “Tại nơi
đây, Ta sẽ xây dựng một ngôi nhà thờ. Bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong
lòng yêu thương, thì ở đó, có sự hiện của Ta”.
Nếu không có tình yêu, thì mục đích các cuộc sống là gì? William
Blake đã nói một câu như sau: “Chúng ta được đặt để vào trong trái đất này một
không gian nhỏ bé, để chúng ta có thể học hỏi được việc mang lại những tia sáng
của tình yêu”.
Nhưng chúng ta không thể nào ban tặng tình yêu, trừ phi chúng ta
đã đón nhận tình yêu từ trước đó. Một lò sưởi không thể tỏa ra sức nóng, trừ
phi nó đã được đón nhận sức nóng từ trước đó. Điều này cũng đúng cả với Đức
Giêsu. Người nói với các môn đệ của Người “Như Cha Ta đã yêu mến Ta, nên Ta
cũng yêu mến anh em”. Tình yêu mà Người chia sẻ một cách quá quảng đại cho các
môn đệ của Người, và cho mọi người nói chung, chính là tình yêu mà Người đã đón
nhận từ Chúa Cha, Đức Maria, Thánh Giuse và cả những người khác nữa.
Không phải là một dấu hiệu yếu đuối, khi thừa nhận rằng người ta
cần đến tình yêu. Chúng ta nên nhìn nhận và biết ơn vì tình yêu mà chúng ta đã
được đón nhận. Chúng ta không cần phải tìm kiếm tình yêu đó, bởi vì có liên
quan đến tình yêu của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta
trước. Người yêu thương chúng ta, không phải vì chúng ta tốt lành, nhưng chỉ vì
Người là Đấng nhân lành. Chính sự hiện hữu của chúng ta là một dấu hiệu về tình
yêu của Thiên Chúa. Tất cả điều mà chúng ta phải làm là đón nhận tình yêu này,
và rồi cố gắng chia sẽ tình yêu đó cho những người khác.
Được yêu thương nghĩa là có hạnh phúc. Tình yêu làm cho cuộc
sống trổ sinh hoa quả. Khước từ tình yêu nghĩa là bắt đầu chết. Khi yêu là bắt
đầu sống. Ít người nào có cơ hội bày tỏ tình yêu của mình với người khác bằng
cách chết đi cho họ. Nhưng tất cả mọi người đều có cơ hội sống cho người khác.
Tình yêu có cái giá của nó. Yêu là chấp nhận rằng chúng ta có
thể phải chết đi bằng một cái chết khác, trước khi chúng ta chết thật. Con
đường yêu thương là con đường của thánh giá, và chỉ thông qua con đường thánh
giá, mà chúng ta mới đến được với sự sống lại. Nếu nỗi đau khổ dạy cho chúng ta
về cách thức yêu thương, thì không có gì là khủng khiếp, khi phải chịu đôi chút
đau khổ trên trái đất này.
Có một lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin khoan để con chết
đi, bởi vì con chưa yêu đủ”. Đây là một lời cầu nguyện mà chúng ta nên đọc cho
bản thân mình.
14. Yêu thương.
(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)
Nhà văn nữ Harriet Beecher Stove có viết một quyển tiểu thuyết
nhan đề “Túp lều bác Tôm” kể chuyện đời của một người nô lệ da đen tên là Tôm.
Chủ của bác Tôm là một trong số rất ít những người chủ da trắng biết thương yêu
những người nô lệ da đen của mình. Đáp lại bác Tôm cũng rất yêu thương chủ và
tận tụy hết lòng phục vụ chủ. Nhưng ông chủ này vì làm ăn thua lỗ nên đã nợ một
món tiền rất lớn. Một tên da trắng khác chuyên buôn bán nô lệ đã tìm cách nắm
được các giấy nợ và dùng chúng để làm áp lực với ông Senbi, tên của ông chủ da
trắng nhân hậu ấy. Hắn buộc ông phải bán bác Tôm cho hắn để trừ nợ. Lúc đầu ông
Senbi nhất định không chịu. Nhưng vì tên lái buôn hăm dọa sẽ tịch thu tất cả
tài sản của ông, nên cuối cùng ông đành phải bán bác Tôm. Sau đó cuộc đời bác
Tôm đã phải lao đao lận đận chịu đủ thứ khổ sở và cuối cùng phải chết.
Câu chuyện này đã giúp ta hiểu rõ hơn bài Tin Mừng của Chúa nhật
hôm nay. Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương chúng con”. Trong câu này, có ba chữ then chốt, là: yêu
thương, nhau, và như.
. Chữ thứ nhất yêu thương thì chúng ta dễ hiểu, bởi vì
Đức Giêsu luôn luôn dạy chúng ta phải sống yêu thương. Yêu thương là điều răn
quan trọng nhất của Chúa, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác.
. Chữ thứ hai: nhau. Yêu thương nhau là yêu thương ai?
Đây không phải là câu Chúa nói với hai vợ chồng hay với một cặp tình nhân,
người này yêu thương người kia và người kia yêu thương người này. Nhưng Chúa
nói với tất cả mọi người. Vì thế ta không nên hiểu chữ nhau này theo nghĩa hẹp,
chỉ nhắm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta thôi, mà
phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn
của Chúa là như vậy. Nhưng thực tế, chúng ta chỉ mở rộng con tim để yêu thương
một số người rất ít thôi, có thể đếm trên đầu ngón tay, như: cha mẹ, anh chị em
ruột, một vài bè bạn thân thiết, và người yêu của chúng ta. Chỉ thế thôi. Còn
lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu
thương, và thậm chí chúng ta còn ghét nữa. Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào
để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như giới răn Chúa đã dạy?
. Chữ thứ ba là chữ như. Đây là chữ quan trọng nhất trong
câu. Nếu muốn yêu thương tất cả mọi người, thì chúng ta phải làm như Đức Giêsu
đã làm. Vậy, Đức Giêsu đã làm như thế nào? Ta hãy đọc tiếp đoạn Tin Mừng hôm
nay, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy không coi các con là tôi tớ,
nhưng Thầy coi các con là bạn hữu của Thầy”. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy; còn
các môn đệ là người, là đệ tử. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì
cũng được thôi. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn
coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của
Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng. Vậy nếu chúng ta muốn có thể yêu
thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như
Đức Giêsu đã yêu thương.
Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận thực hành:
* Chúng ta đang thương một số người, như cha mẹ, anh chị em, bạn
bè, chồng vợ, người yêu của mình. Để cho những tình yêu thương ấy được bền
vững, chúng ta hãy biết tôn trọng nhau. Dù những người đó có điều gì trái ý ta,
dù có điểm tính tình họ khác ta, ta cũng phải tôn trọng họ, bởi vì mọi người là
một cá thể độc đáo không ai hoàn toàn giống ai. Ta không được bắt buộc ai phải
giống như mình. Ta phải tôn trọng cái quyền họ có quyền khác với ta. Có thế mới
tránh được những xung đột, sứt mẻ trong tình yêu thương nhau.
* Và còn rất nhiều người mà chúng ta chưa yêu thương. Tuân giữ
giới răn của Chúa, ta cũng phải cố gắng yêu thương họ. Muốn vậy, việc đầu tiên
phải làm là ta phải dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi kỳ thị, phải tôn trọng họ: tôn
trọng những điểm khác biệt nơi họ, tôn trọng quyền tự do của họ, ngay cả khi họ
có những khuyết điểm lỗi lầm ta vẫn phải tôn trọng con người của họ, bởi vì lỗi
lầm là lỗi lầm, nhưng con người vẫn là con người, vẫn có nhân phẩm, và ta yêu
thương là yêu thương chính con người đó, yêu thương chính nhân phẩm đó.
Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương chúng con”. Theo lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng yêu thương tất cả
mọi người, và theo gương Chúa làm, chúng ta hãy cố gắng tôn trọng tất cả mọi
người.
15. Tình yêu trao ban.
Có một câu truyện được truyền tụng qua nhiều năm kể về một vị
chức sắc chính trị đến dự cuộc lễ đăng quang của Vua Edward VII tại Anh Quốc
năm 1901.
Vị chức sắc này chứng kiến một giây phút lịch sử khi chiếc triều
thiên được đặt trên đầu vua. Ông đã nhảy múa tại cuộc dạ vũ đăng quang vĩ đại
này. Sau cùng, ông đã hòa nhập với các vương tôn và tiếp chuyện với những nhân
vật nổi tiếng.
Khi ông trở về nhà, có người hỏi ông có một giây phút hay một dữ
kiện nào trong cuộc hành trình thăm viếng của ông tại Anh Quốc đặc biệt nổi bật
hơn hết không.
"Có," ông nói, "thật sự có giây phút đó."
Ông tiếp tục nói rằng lúc đó xảy ra vào một đêm nọ khi ông trở về khách sạn của
ông.
Ngoài trời thì lạnh rét. Và trong khi ông đi qua một căn nhà bỏ
hoang, ông đã thấy hai đứa bé nhỏ tội nghiệp đang nằm co với nhau tại cửa nhà.
Một trong hai đứa là cậu bé khoảng 12 tuổi; còn đứa kia là bé
gái khoảng 4 tuổi, rõ ràng là em gái của cậu bé.
Cậu bé đã cởi áo choàng của mình ra và quàng quanh bờ vai bé
bỏng của người em gái. Và cậu lấy chiếc mũ len của cậu mà bọc quanh chân của cô
em.
Nhà chức sắc nói rằng hình ảnh của hai đứa trẻ, đang nằm co bên
cửa nhà, nổi bật hơn hết. Nó hoàn toàn làm lu mờ vẻ tráng lệ và nghi thức đăng
quang, sự nhộn nhịp của cuộc dạ vũ đăng quang, cũng như những cuộc đối thoại
với các nhân vật nổi danh.
Đó chính là hình ảnh mà ông không bao giờ quên được bao lâu ông
còn sống.
Câu chuyện này diễn tả loại tình yêu mà được diễn tả thật tuyệt
vời trong những bài đọc hôm nay.
Nó diễn tả, đặc biệt loại tình yêu mà Chúa Giêsu diễn tả trong
bài Phúc Âm hôm nay khi Ngài nói, "Hãy yêu thương nhau như Ta yêu thương
các ngươi."
Và một lần nữa, khi Ngài nói, "Không ai có tình yêu nào lớn
hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu."
Chúa Giêsu đã dạy và đã thực hành điều Ngài dạy. Chúa vì yêu
thương chúng ta đã trao ban mạng sống chịu chết để đền tội chúng ta, để cứu
chuộc chúng ta. Thánh Phaolô nói: "-t có ai chết cho tội nhân, họa may mới
có kẻ chết cho người công chính. Chúa Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta
còn là tội nhân." Chúa yêu chúng ta dường nào.
Chúng ta biết ơn Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Chúng ta hãy
yêu mến Ngài và tuân theo lời Ngài: "Hãy yêu thương nhau như Ta yêu thương
các ngươi." Chúng ta hãy quên mình để yêu thương quan tâm đến anh chị em
chúng ta. Tình yêu được tóm tắt trong sự trao ban, trao ban trong lời nói và
việc làm. Câu chuyện của hai đứa bé, nằm co bên cửa nhà, đã quảng diễn nó.
Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, dâng hiến cuộc đời cho Chúa và yêu thương
anh chị em.
16. Giới răn mới – Lm. Trần Thanh Sơn.
Chúa Nhật 5 Phục Sinh vừa qua, phụng vụ cho chúng ta thấy hình
ảnh của Giáo Hội như là cây nho. Trong đó, Chúa Cha là người trồng nho, Đức
Giêsu là thân nho và mỗi người chúng ta là nhành. Tiếp tục những suy tư về Giáo
Hội, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy đâu là nhựa sống nuôi dưỡng cây nho đó
và hoa trái của nó là gì. Nếu đọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy chữ
“yêu mến” được lập lại tới 9 lần, và nếu tính chung cả các bài đọc thì chữ
“yêu, thương yêu, tình yêu” được nhắc tới tất cả là 18 lần. Điều đó cho thấy
Tình yêu có một vị trí quan trọng đặc biệt trong Giáo Hội mà Đức Giêsu mới
thiết lập. Tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Đức Giêsu, chính là nguồn nhựa
sống phong phú nuôi dưỡng và làm phát triển cả cây nho là Giáo Hội.
Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn được cùng quý ông bà anh
chị em, một lần nữa, tìm hiểu về tình yêu của Thiên Chúa đối với từng người
chúng ta, để rồi đến lượt mình, chúng ta cũng biết đáp lại tình yêu đó bằng
cách sống yêu thương đối với những người đang cùng chúng ta chung sống.
1. Tình yêu của Thiên Chúa
Trước hết, chúng ta cần xác tín lại với nhau một điều: đó là mọi
tình yêu chân thật đều phát xuất từ chính Thiên Chúa, như lời thánh Gioan:
“Tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra”. Hay nói một cách khác, Thiên Chúa chính là
nguồn mạch của mọi tình yêu. Chính trong Tình yêu mà Chúa Cha đã sinh Chúa Con.
Như thế, chúng ta nhận ra đặc tính đầu tiên của tình yêu Thiên
Chúa, đó là không đóng kín nơi mình mà mở ra cho một đối tượng
khác bên ngoài mình, hay nói một cách khác, tình yêu chân thật phải là một tình
yêu hướng tới một ai đó khác với mình. Tình yêu của Chúa Cha đã hướng tới Đức
Giêsu và chúng ta lại là đối tượng cho tình yêu của Đức Giêsu. Tất cả những
điều đó, đã được Đức Giêsu tóm tắt thật ngắn gọn nhưng thật súc tích khi nói:
“Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con”. Và đến lượt mình, chúng
ta cũng phải yêu thương anh chị em, như lời mời gọi của Đức Giêsu: “Các con hãy
yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con”. Như thế, mở ra chính là một trong
những dấu hiệu đầu tiên của một tình yêu chân thật.
Câu chuyện mà chúng ta vừa nghe trong bài sách Công vụ Tông đồ
là một minh hoạ cụ thể cho sự mở ra của tình yêu Thiên Chúa. Đoạn trích từ sách
Công vụ hôm nay thuật lại việc thánh Phêrô đến nhà Cornêliô để thanh tẩy và ban
Thánh Thần cho ông. Chúng ta nên biết rằng, Cornêliô là một viên quan bách quản
của Roma, một người dân ngoại dưới cái nhìn của người Do thái. Đây là một sự
kiện quan trọng đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của Giáo Hội,
bởi vì theo quan niệm của các tín hữu gốc Do thái lúc bấy giờ, Giavê chỉ là
Thiên Chúa của riêng họ, dân được Chúa chọn mà thôi. Thế nhưng, tình yêu của
Thiên Chúa không thể bị giới hạn bởi suy nghĩ của con người, như lời thánh
Phêrô nói ngay khi bước vào nhà Cornêliô,: “Quả thật tôi nghiệm biết rằng Thiên
Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực
hành sự công chính, đều được Người đón nhận”. Tình yêu của Thiên Chúa là như
thế đó, nó luôn rộng mở sẵn sàng đón nhận hết mọi người, mọi dân tộc, mọi lứa
tuổi thuộc mọi nền văn hoá trên khắp thế giới, trong đó có quý ông bà anh chị
em và tôi. Từng người chúng ta đang hiện diện trong ngôi Thánh Đường này, ngay
trong giờ phút này đây cũng đang được bao phủ bởi Tình yêu mở ra của Thiên
Chúa.
Kế đến, dấu chỉ thứ hai của một tình yêu chân thật là luôn tôn
trọng người mình yêu. Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã nói rõ:
“Các con là bạn hữu của Thầy”. Mặc dù có một khoảng cách bao la giữa Thiên Chúa
chí thánh và chúng ta là thụ tạo đầy tội lỗi, nhưng vì yêu chúng ta, Đức Giêsu
vẫn vượt qua, để đến với từng người chúng ta và coi chúng ta như một người bạn
tâm phúc, đến nỗi Ngài có thể chia sẻ trọn nỗi niềm của Ngài cho chúng ta như
lời Ngài nói: “Thầy gọi các con là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết
nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. Vì yêu thương, Ngài đón nhận trọn
vẹn con người của chúng ta như chúng ta là, nghĩa là Ngài đón nhận toàn thể con
người chúng ta với tất cả những ưu điểm cũng như những yếu đuối của chúng ta.
Ngài đón nhận để rồi tha thứ cho chúng ta như lời thánh Gioan: “Điều này biểu
lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con
Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống… Chính Người đã
yêu thương chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh đền thay vì tội
lỗi chúng ta”.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là thế đó. Nó bao la,
rộng mở như tấm lòng Người Cha nhân lành chiều chiều vẫn ra đứng trước ngõ để
chờ đón chúng ta là những người con tội lỗi trở về mà không một lời trách mắng
(x. Lc 15, 11-32). Cũng như dòng nhựa trong cây nho không dừng lại ở bất cứ một
điểm nào, nhưng lưu truyền khắp nơi để nuôi sống cây nho, khi trao ban cho
chúng ta tình yêu luôn mở ra của Ngài, Thiên Chúa cũng muốn chúng ta sống tình
yêu đó với anh chị em của mình. Đây cũng chính là lệnh truyền và là ước vọng
của Đức Kitô: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con”.
2. Sống tình yêu
Tuy nhiên “không ai có thể cho điều mình không có”. Do đó, để có
thể sống yêu thương như Đức Kitô đã dạy, điều đầu tiên, mỗi người chúng ta cần,
là phải có tình yêu của Đức Kitô trong chúng ta. Mà muốn có tình yêu của Đức
Kitô, chúng ta chẳng còn cách nào khác hơn là thực hiện điều Ngài dạy chúng ta:
“Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con
sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy,
nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người”.
Hơn nữa, sống yêu thương không những là một lệnh truyền, nhưng
còn là một dấu chỉ chứng tỏ rằng chúng ta đã được sinh ra bởi Thiên Chúa và
thuộc về Thiên Chúa. Đây là điều mà thánh Gioan, vị thánh của tình yêu đã nói
lên với tất cả xác tín của mình: “Hễ ai thương yêu thì đã sinh bởi Thiên Chúa,
và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì
Thiên Chúa là tình yêu”.
Khi yêu thật, yêu theo cách của Thiên Chúa người ta không chỉ
nghĩ đến mình, cho bằng nghĩ đến lợi ích và nhu cầu của người mình yêu. Đây là
một điều thật tự nhiên, nhưng có lẽ trong cuộc sống thường ngày, tôi và quý ông
bà anh chị em chưa sống đủ. Mỗi khi làm bất cứ việc gì, chúng ta vẫn thường
nghĩ đến mình trước: điều này đem lại cho tôi lợi ích gì? Những quyền lợi này
không chỉ là quyền lợi vật chất, nhưng có khi là một lời khen, một tấm bằng
danh dự… Do đó, chúng ta chỉ thực sự sống yêu thương nhau theo mẫu gương của
Đức Kitô khi chúng ta biết nghĩ đến những nhu cầu và hoàn cảnh của người khác,
và luôn mở rộng tấm lòng, sẵn sàng đón nhận họ với những giới hạn của họ để
giúp họ lớn lên, và thăng tiến theo khả năng, hoàn cảnh riêng của họ chứ không
phải theo sự áp đặt chủ quan của chúng ta. Đây là điều không phải dễ đối với
sức tự nhiên của chúng ta, nhưng với ơn Chúa thì mọi sự đều có thể.
Giờ đây, ý thức sự giới hạn của mình, mỗi người chúng ta hãy dọn
tâm hồn sốt sắng để đón nhận Nguồn Tình yêu là Đấng Phục Sinh trong bí tích
Thánh Thể, và nhờ sức mạnh của Ngài nâng đỡ, chúng ta sẽ biết cách sống yêu
thương tha nhân như Ngài đã yêu chúng ta. Amen.
17. Suy niệm của Lm. Đan Vinh.
Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em.
Tin Mừng hôm nay tiếp theo dụ ngôn cây nho và cành nho. Đức
Giêsu nói về mối tương quan mật thiết giữa các cành nho là tình yêu thương giữa
các môn đệ, các tín hữu với nhau. Như Chúa Cha đã yêu thương Chúa Con thế nào,
thì Đức Giêsu cũng yêu thương các môn đệ như vậy, và người truyền cho các môn
đệ cũng phải yêu thương nhau giống như Người đã yêu thương và hy sinh chịu chết
để cứu độ họ.
2) Chú thích:
- Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu mến anh em
như vậy, Anh em hãy ở trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn
của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy giữ các điều răn
của Cha Thầy, và ở lại trong tình thương của Người (Ga 15,9-10):
+ Chúa Cha đã yêu mến Thầy: Đức Giêsu nhiều lần nói về tình yêu
của Chúa Cha dành cho Người (x. Ga 3,35; 5,20; 17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần
xác nhận điều này (x. Mt 3,17; 17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là
thứ tình yêu chia sẻ và trao ban, và tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là
thứ tình yêu tôn kính và vâng phục.
+ Thầy cũng yêu mến anh em: Noi gương Chúa Cha, Đức Giêsu cũng
yêu thương các môn đệ bằng một tình yêu như vậy.
+ Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy: Đây là lời mời
gọi tha thiết của Đức Giêsu đối với các môn đệ. Người kêu gọi họ hãy luôn kết
hiệp với Người, và đừng bao giờ từ chối hay phản bội tình yêu của Người.
+ Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy: Giữ các giới răn là một
cách thế diễn tả tình yêu của các môn đệ đối với Đức Giêsu. Đó cũng là dấu chỉ
cho thấy các ông đang “ở lại trong” tình thương của Người.
+ Nếu Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy: Trong suốt cuộc
sống ở trần gian, Đức Giêsu luôn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha (x. Ga 6,38;
8,29; Dt 10,9). Người vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết
và chết trên cây thập giá (x. Pl 2,8). Nhờ tuân giữ các giới răn của Chúa Cha,
là bằng chứng cho thấy Đức Giêsu luôn “ở lại trong” tình thương của Người.
- Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở
trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. Đây là điều răn của
Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình (Ga 15,11-13):
+ Để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em
được nên trọn vẹn: Niềm vui hân hoan mà Đức Giêsu cảm nhận được là kết quả của
việc Người đã tuân giữ các giới răn của Chúa Cha, luôn làm theo Thánh Ý Chúa
Cha. Niềm vui ấy các môn đệ cũng sẽ nhận được, nếu các ông biết tuân giữ giới
răn yêu thương nhau như Đức Giêsu đã truyền dạy.
+ Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy
đã yêu thương anh em: Điều răn mà các môn đệ phải thi hành là yêu thương nhau
không phải bằng tình cảm suông hay lời nói cử chỉ bề ngoài, nhưng tình yêu phải
thể hiện qua việc tình nguyện hiến thân chịu chết vì anh em, noi gương Đức
Giêsu yêu thương và đã phó nộp mình chịu chết để đền tội thay cho các môn đệ và
các tín hữu chúng ta.
+ Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã
hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình: Tình thương đòi phải hy sinh và cho đi. Món
quà trao tặng càng có giá trị thì tình yêu càng lớn lao. Sự trao tặng cả mạng
sống của mình là dấu hiệu một tình yêu tột đỉnh. Đức Giêsu đã sẵn sàng chịu
chết để đền tội thay cho môn đệ, thay cho mọi tín hữu chúng ta. Người cũng đ¨°i
môn đệ phải noi gương Người để sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì anh em (x. 1
Ga 3,16; Pr 2,21).
- Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều
Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tối tớ nữa, vì tối tớ không biết
việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe
được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết (Ga 15,14-15):
+ Anh em là bạn hữu của Thầy: Các môn đệ là học trò sẽ được Đức
Giêsu nâng cấp lên trở thành bạn hữu của Người, với điều kiện họ thực thi những
điều Người truyền dạy.
+ Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa nhưng là bạn hữu: Tình
bạn đưa tới sự hiệp thông về tư tưởng, tâm tình vàsức sống. Đức Giêsu đã cư xử
với các môn đệ bằng thứ tình bạn này, vì Người đã bày tỏ cho các ông biết tất
cả những gì Người đã đón nhận được từ nơi Chúa Cha.
- Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh
em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh
em tồn tại. Hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì
Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là: Hãy yêu thương nhau (Ga
15,16-17):
+ Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh
em: Ơn gọi trở thành môn đệ của Đức Giêsu không phải do các ông có công xứng
đáng và chủ động chọn Người, nhưng chính Người đã tuyển chọn và kêu gọi các ông
trước và các ông đã sẵn sàng đáp lại bằng việc từ bỏ mọi sự mà đi làm môn đệ
Người, như hai đôi anh em: Simon Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan (x. Mt
4,19.21).
+ Và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa
trái của anh em tồn tại: Chính Đức Giêsu đã huấn luyện và sai các môn đệ ra đi
truyền giáo bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời và làm chứng nhân cho Người
(x. Mt 10,1-10; 28,19; Cv 1,8). Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu và nhờ Ơn
Thánh Thần tác động mà các ông đã đem lại nhiều hoa trái tốt là đưa nhiều người
gia nhập vào Hội Thánh (x. Ga 20,22-23; Cv 2,37-41).
+ Những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người
ban cho anh em: Trong sự hiệp thông với Đức Giêsu như cành nho liên kết với
thân cây nho, thì những lời cầu xin nhân danh Đức Giêsu sẽ được Chúa Cha chấp
nhận.
+ Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau: Yêu thương
nhau là một giới răn mới và quan trọng nhất nên được Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại
nhiều lần. Tình yêu ấy là dấu hiệu người môn đệ đích thực của Đức Giêsu.
HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”
(Ga 15,12):
- Câu chuyện: Tình yêu mạnh hơn sự chết.
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6
tuổi. Cả hai đều gầy yếu và hay đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị đau gan cấp
tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần
lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít
ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội
và được mang đi cấp cứu tại cùng một bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá
nhiều cần phải được tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn loại máu của
cô để truyền cho cô. Rất may là máu của cậu bé anh cô lại cùng một loại với em.
Khi được hỏi có muốn cho máu để truyền cứu sống em gái hay không, thì lúc đầu
cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã bình
tĩnh lại và can đảm trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em
con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm”. Sau đó các
bác sĩ đã tiếp máu của cậu bé cho em. Khi tỉnh dậy, mọi người trong phòng đều
ngạc nhiên và buồn cười khi nghe cậu bé hỏi: “Ô hay! Con vẫn còn sống đấy ư?
Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em gái con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?”
- Suy nghĩ và quyết tâm: Thì ra cậu bé tưởng lầm rằng khi cho
máu, thì mình sẽ phải hy sinh mạng sống của mình cho em, vì bác sĩ sẽ lấy hết
máu của cậu mà tiếp sang cho đứa em gái! Vì quá thương em và không muốn em
chết, nên sau một lúc ngần ngại, cậu đã can đảm hy sinh mạng sống của mình để
cho em cậu được cứu sống! Quả thật, trong trường hợp này: “Tình yêu mạnh hơn sự
chết”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình thương nào
cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình’ (Ga
15,13). Con Thiên Chúa đã yêu các môn đệ là chúng ta đến cùng, nên đã hy sinh
chịu chết trên thập giá để đền tội thay và đã sống lại để cứu sống chúng ta để
ban cho chúng ta sự sống đời đời. Vậy trong Mùa Phục Sinh này, bạn quyết tâm
làm gì để biểu lộ tình thương đối với các người thân yêu trong gia đình mình,
noi gương Chúa Giêsu như cậu bé trong câu chuyện trên đã thể hiện?
2) Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy:
- Câu chuyện: Mục sư Mác-tin Lu-tơ Kinh (Martin Luther King):
Vào năm 1963, tại Thủ đô Wa-sinh-tân (Washington), 200.000 người
đã lắng nghe vị mục sư da đen là Mác-tin Lu-tơ kinh, người đã đoạt giải No-ben
Hòa Bình nói chuyện. Nội dung bài phát biểu của ông được cô đọng trong mấy lời
như sau: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Gioóc-giơ
(Georgia), con cháu của những người nô lệ và của những chủ nôsẽ ngồi chung với nhau
trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi sẽ
trở về sống trong một đất nước mà chúng sẽ không bị đánh giá, đối xử bất công
dựa trên màu da, nhưng là trên những công lao đóng góp xây dựng của chúng …”.
Ong luôn cố gắng thực hiện ước mơ đó, dù gặp biết bao khó khăn trở ngại, ganh
ghét đố kỵ. Đến năm 1968, Mác-tin lu-tơ Kinh đã ngã gục dưới làn đạn của những
kẻ thù ghét ông. Nhưng chương trình hành động của ông vẫn được tiếp tục. Bởi vì
ước mơ hòa bình và bình đẳng giữa các dân tộc của ông đã được hàng triệu người
trên thế giới đồng cảm cùng quyết tâm thực hiện.
- Suy nghĩ và quyết tâm: Hiện nay tại môi trường bạn đang sống
như: khu xóm, trường học, xí nghiệp, nhà máy, công sở, bệnh viện, nhà thờ…có sự
kỳ thị về Nam Bắc, tôn giáo, cũ mới, nam nữ…hay không? Bạn sẽ làm gì để khắc
phục tình trạng kỳ thị ấy, hầu xã hội của chúng ta ngày một công bình nhân ái
hơn?
3) “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã
hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13):
- Câu chuyện: “Anh phải sống”.
Có hai vợ chồng nhà kia, hàng ngày cùng nhau vào rừng từ sáng
sớm để kiếm củi bó thành từng bó rồi chất lên một chiếc thuyền, xuôi dòng ra
chợ bán. Họ phải vất vả kiếm tiền nuôi một gia đình gồm 4 miệng ăn: hai vợ
chồng và hai đứa con thơ: Đứa lớn được 7 tuổi và đứa em mới 4 tuổi. Một hôm,
vào buổi chiều, trên đường chèo thuyền về nhà thì trời bổng tối sầm và đổ mưa
tầm tã. Sấm chớp ầm ầm và gió mạnh làm mặt sông dậy sóng. Chiếc ghe nhỏ bé của
họ đầy nước đang trôi nhanh giữa dòng sông và rồi bị lật úp, khiến hai vợ chồng
bị văng ra khỏi ghe. Rất may là họ đã bám được vào một thân cây đang trôi gần
đó. Tuy nhiên thân cây chỉ đủ cho một người bám. Bấy giờ chị vợ ôm chặt lấy cổ
chồng đang khi anh chồng một tay bám vào thân cây, còn tay kia cố bơi vào bờ.
Nhưng phần vì bị sóng gió vùi dập, phần phải đỡ vợ nên anh dần dần đuối sức.
Cảm thấy mình quá mệt và có nguy cơ cả hai vợ chồng có thể đều chết chìm, người
chồng nói với vợ rằng: “Em hãy buông anh ra và bám vào khúc cây rồi cố bơi vào
bờ để nuôi các con em nhé!”. Nhưng chị vợ đáp: “Không! Anh phải sống mà nuôi
con!”, rồi chị đã tự buông tay ra cho chìm xuống để anh đủ sức bơi được vào bờ.
Sáng sớm hôm sau, người ta thấy người chồng và hai đứa con thơ, đầu chít khăn
tang, dắt dìu nhau ra bờ sống lập bàn thờ và thành tâm khấn vái để cầu xin
hương hồn người chết phù hộ cho ba bố con.
- Suy nghĩ và quyết tâm: Cao cả thay tình thương của một người
vợ, người mẹ! Chị đã quên mình, sẵn sàng hy sinh chịu chết để cho chồng và con
được sống! Đúng như lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”
(Ga 15,13). Còn bạn, bạn quyết tâm làm gì trong những ngày Mùa Phục Sinh này để
chứng tỏ tình thương đối với các người thân yêu ruột thịt của mình?
HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Con hiểu rằng: Đạo của Chúa lấy giới răn Mến
Chúa Yêu người làm căn bản. Nhưng trong thực tế, con đã chưa làm theo giới răn
ấy. Lòng chúng con còn đầy sự ích kỷ vụ lợi, trong khi lẽ ra con phải vị tha
bác ái. Gia đình chúng con chưa thực sự có tình yêu của Chúa, chưa hiệp nhất
yêu thương nhau, trên thuận dưới hòa như Chúa đã dạy. Các bậc cha mẹ hay cãi
lộn nhau, vợ chồng chưa quên mình và hy sinh cho nhau, con cái chưa hiếu thảo
với cha mẹ, anh chị em chưa thực sự tôn trọng lẫn nhau và chia sẻ tình thương
cho nhau.
Vậy lạy Chúa, xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu dọi vào tâm
trí chúng con. Xin ngọn lửa tình yêu của Chúa sưởi ấm và biến đổi lòng chúng
con ngày một quảng đại hơn. Xin cho tình yêu đích thực của Chúa luôn ngự trị và
tỏa sáng trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết cảm thông chia sẻ đón
nhận người khác và sẵn sàng quảng đại cho đi. Nhất là xin cho chúng con biết
yêu thương đến độ dám hy sinh quên mình để noi gương Chúa xưa. Nhờ đó, ánh sáng
vinh quang của mầu nhiệm Phục Sinh sẽ tỏa chiếu rạng ngời trên chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Xưa trong cuộc thương khó của Đức Giêsu, Mẹ đã
luôn hiện diện và kết hiệp mật thiết với Người. Mẹ đã cảm thông và chia sẻ với
nỗi đau khổ của Chúa. Mẹ đã chấp nhận đi đường thương khó của Chúa, để cùng
chết và cùng sống lại vinh quang với Người.
Giờ đây, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ: luôn sống mầu
nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh trong cuộc đời chúng con, thể hiện trong cách suy
nghĩ, nói năng và hành động. Xin cho chúng con mỗi ngày biết chết đi cho những
sự ganh ghét hận thù, ích kỷ vụ lợi, đam mê lạc thú bất chính và các thói hư
tật xấu. Xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu soi vào mọi sinh hoạt của
chúng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ cảm thông với nỗi đau khổ của người
khác. Xin cho chúng con biết nở nụ cười cởi mở để giơ tay ra trước làm hòa với
người không ưa chúng con, sẵn sàng đi bước trước đến với người chúng con chưa
quen biết. Xin cho chúng con biết nhìn nhận người khác là anh chị em để quên
mình mà phục vụ họ, nhất là đối với những người đang đau khổ thể xác cũng như
tâm hồn. Xin Mẹ giúp con luôn ý thức rằng: yêu thương không phải chỉ là tình
cảm suông, nhưng là hành động cho đi, là luôn hy sinh để làm cho người yêu được
hạnh phúc. Xin cho chúng con biết yêu thương bằng tình yêu của Đức Giêsu, Đấng
đã tặng cả mạng sống của mình, sẵn sàng chịu chết để chúng con được sống. Nếu
chúng con thực hành tình yêu như thế là chúng con đang hòa nhịp với trái tim
yêu thương của Chúa, đang làm chứng rằng ‘Thiên Chúa là Tình yêu”, và hy vọng
chúng con sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa, và đưa được nhiều anh em về làm
con cái Chúa với chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
18. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
CÁC MÔN ĐỆ HAY ĐIỀU RĂN YÊU THƯƠNG
Phần thứ hai của diễn từ chỉ hướng đến các môn đệ là những kẻ đã
khéo léo lựa chọn. Trong phần này, chỉ còn những kẻ thân tình với Chúa Giêsu ở
lại. Danh từ “yêu thương” vang lên 12 lần, và sự bao hàm với động từ “yêu
thương” (cc. 9-17) bao trùm và tô điểm toàn bộ bài diễn từ.
Ở đây rõ ràng ẩn dụ trở thành tỷ dụ: các hình ảnh lần lượt được
giải thích cặn kẽ. “Sinh hoa trái” tương đồng với “yêu thương”. Trong khi mà
Chúa Giêsu yêu thương đến cùng (13,1), Người mời gọi các môn đệ tự ghép vào
chính tình yêu đó. Tính tương hỗ là luật yêu thương vận dụng cách kỳ diệu trong
đoạn này: Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như
vậy… Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau. Trong tình
huống này, sự hoàn lại và sự đáp nghĩa, luật của mọi tình yêu, luôn luôn hướng
đến một đối tượng khác là nguồn mạch của nghĩa tình. Việc Chúa Giêsu đáp trả
lại tình yêu của Chúa Giêsu dành cho họ phải được hướng đến mọi người anh em.
Từ “như” được lặp lại hai lần quả là quan trọng,
vì nó nói lên mầu nhiệm sâu kín nhất của mặc khải: trước hết đó không phải là
một sự so sánh; mà chính yếu là một sự ăn rễ sâu, một nền tảng. Tình yêu của
Chúa Cha và của Chúa Giêsu biểu lộ trong sự nhập thể mà sự chết tỏ hiện cùng
đích và ý nghĩa. Nhiều người đã nhận thấy trong việc nhấn mạnh về mối tương hỗ
Cha / Con, Chúa Giêsu / cộng đoàn, môn đệ / môn đệ một giới hạn của tình yêu vô
bến bờ trong Mt 5,44.46: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù… như vậy
anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì nếu anh
em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?”. Nhưng mà ở đây
Gioan nói về vấn đề khác, về tình yêu sâu xa giữa Chúa Cha và Chúa Con, tỏ hiện
trên thập giá (3,16), khuôn mẫu và điểm quy chiếu để thiết lập cộng đoàn mới:
“Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta
trước” (1Ga 4,19). Trong phân đoạn này của diễn từ, không còn có chỗ cho sự đe
dọa hình phạt, những kẻ đối nghịch đã biến mất, dành chỗ cho bạn hữu, là những
người đã được chọn và đã chọn.
Ở đây Chúa Giêsu nêu ra tiêu chuẩn để nhận ra bạn hữu của Người:
đó là những ai thực hiện những điều Chúa Giêsu truyền dạy cho họ (c.14), nghĩa
là những kẻ yêu thương nhau (cc. 15-17). Trong Tin Mừng, tình yêu
luôn hiện hữu trong mọi bản văn Kinh Thánh: một đòi buộc cụ thể, một sự trung
thành trong mọi hành động. Vốn là tôi tớ, các môn đệ đã trở thành bạn hữu. Chúa
Giêsu đã chia sẻ với các môn đệ điều Người tâm đắc nhất, sự hiểu biết Chúa Cha
(17,26) trong hết mọi sự (16,15). Nhờ Người, các môn đệ được Chúa Cha yêu mến
như Người (16,27). Qua mọi thời đại, sự thân mật với Thiên Chúa là ước mơ của
mọi người. Trong Cựu Ước, có vài bạn hữu của Thiên Chúa, như Abraham, đã gặp gỡ
Thiên Chúa như gặp một người thân cận. Ông Môsê cũng đã kinh qua kinh nghiệm
huyền nhiệm này. “Ông thân thưa cùng Chúa, diện đối diện, khác nào người ta
chuyện vãn với bạn mình vậy” (Xh 33,11). Điều chỉ là đặc ân của một vài người,
nhờ Chúa Giêsu, đã được trao ban cho tất cả những ai chấp nhận và trở thành môn
đệ của Người.
Thật vậy, tình yêu này không thể là thành quả do quyết định duy
nhất của người tín hữu: Chính Chúa Giêsu đã chọn bạn cho mình (6,70; 13,18). Đó
là một ân nhưng không mà con người không nên tự phụ.
19. Chú giải của Noel Quesson.
Theo Thánh Gioan, vài giờ trước khi chết, Đức Giêsu đã bày tỏ
cho các bạn của Người viễn ảnh "Chương trình của Thiên Chúa trên thế
giới”, và ý nghĩa của việc hiến dâng sự sống cho đến chết của Người.
Trong trang sách đáng yêu này của Thánh Gioan là một bài hát ca
tụng tình yêu. Danh từ “yêu" "tình yêu" “ban”, được lặp lại 11
lần... và được dùng với từ “giới răn”. Đối với Đức Giêsu, niềm vui của người
được yêu, đó là làm theo ý muốn của người yêu mình.
Ta không thể không để ý đến sự “sinh động" trong trang sách
này: Như một bài hát nội tâm, những điệp khúc có cùng một trọng tâm xuất hiện,
biến đi và trở lại như những đợt sóng vỗ vào bờ, như giòng thác từ trên đổ
xuống từ Thiên Chúa rồi lại trở về nguồn là chính Người.
Trọng tâm của mạc khải này là: Niềm vui "Ta đã nói những
điều này cho các con để chia sẻ ‘niềm vui của Ta’, và để các con được tràn đầy
niềm vui".
Vào giờ Đức Giêsu bước từ thế giới này sang bên kia với Chúa
Cha, Người nói với các môn đệ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu
mến anh em như vậy”.
Đây là những lời tâm sự cuối cùng của Đức Giêsu, đêm trước người
"ra đi". Đối với Đức Giêsu, tất cả bắt đầu trong huyền nhiệm của
Thiên Chúa, trong vực thẳm vô hình là "Nguồn" của tất cả mọi sự. Nơi
Thiên Chúa, không có sự cô độc không có buồn bã, nhưng có niềm vui yêu thương
luôn hiện diện giữa ba Ngôi vị hằng yêu thương nhau.
Thiên Chúa là tình yêu: Chúa Cha yêu Chúa
Con, và hai Đấng thông chuyển niềm vui yêu thương này cho Chúa Thánh Thần. Tình
yêu vô hình đó, một ngày kia đã hiện thân trong một con người, là Giêsu thành
Nagiarét. Huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa đã trở nên hữu hình, có thể ngắm nhìn
và cảm nhận được tình yêu này đã làm xúc động trái tim một con người: "Chúa
Cha đã yêu thương Thầy”.
Thầy cũng đã yêu thương anh em.
Nhưng giờ đây, trong con người Chúa Giêsu, mãnh lực tình yêu bắt
đau lan ra khắp nhân loại. Thiên Chúa chia sẻ tình yêu của Người, nơi Chúa
Giêsu Kitô. Chúng ta không bao giờ được quên Chúa Giêsu đã hành động thế nào để
yêu thương chúng ta.
Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng
sống mình cho bạn hữu.
Câu nói: "Thầy thương yêu anh em" của Chúa Giêsu hàm
ẩn sự mê say. Một say mê tình yêu điên cuồng và vô biên: Người vẫn thương yêu
những kẻ thuộc về mình còn ở trên trần gian, Người thương yêu họ đến tận
cùng" (Ga 13,1). Tột đỉnh của tình yêu chính là Thập giá vinh quang. Đấy
là vinh quang của Chúa Giêsu và niềm vui tình yêu vô tận.
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết
việc chủ làm. Còn anh em, Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy
nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết.
Chúa Giêsu dám nói rằng, Người xóa bỏ sự phân biệt giữa
"Thầy và tôi tớ", giữa "Thiên Chúa" và "Con
người". Từ nay chỉ còn là "Bạn hữu”. Không có gì giấu diếm nhau. Tình
yêu có khuynh hướng chia sẻ để tất cả là của chung.
“Tất cả những gì 'Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho
anh em biết". Tình yêu khước từ sự "thống trị"
người khác nhưng luôn tôn trọng và làm cho người kia "bằng" chính
mình.
Qua những kinh nghiệm về tình yêu của con người, chúng ta biết
rằng, hai người yêu nhau thường hướng đến sự trong sáng: tình yêu là trao đổi,
là hiệp thông. Ta tự tỏ ra cho người kia biết. Chúa Giêsu đã nói: Tất cả những
gì Thầy đã nghe được ở Chúa Cha, Thầy đã tỏ ra cho anh em biết. Trong Chúa
Giêsu, Thiên Chúa đã nói hết tất cả, không còn gì khác để biết về Thiên Chúa
nữa. Thiên Chúa đã nói tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa.
Đây là điều răn của Thầy: "Anh em hãy thương yêu nhau như
Thầy đã thương yêu anh em".
Giòng sông tình yêu của Thiên Chúa vẫn tuôn chảy. Nước của giòng
thác, khi rơi xuống đất, trải ra, bắn tung lên. Con người khi được Thiên Chúa
"yêu thương" chính họ cũng phải trở nên tình yêu theo hình ảnh tình
yêu của Thiên Chúa: “như Chúa Cha thương yêu Thầy, Thầy thương yêu anh em”
"Như Thầy thương yêu anh em, anh em hãy thương yêu nhau”.
Chúng ta đừng đọc lướt quá nhanh chữ "cũng như” huyền nhiệm
này. Lạy Chúa, Chúa dẫn chúng con đi tới đâu? Chúa yêu cầu chúng con thương yêu
đến mức nào? tình yêu của Chúa đã đưa Chúa đến đâu? "Không ai có tình yêu
lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Yêu thương
đến hy sinh mạng sống của chính mình. "Đây là Mình Thầy, bị trao nộp, đây
là Máu Thầy bị đổ ra. Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy, hãy làm việc này
như chính Thầy" Giới hạn của tình yêu đó là trao tặng không hạn giới mức
độ đo lường. Tình yêu là Thập giá. Thương yêu, thương yêu và yêu thương. Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Yêu thương là giới răn của Chúa và dường như chỉ có
một giới răn duy nhất đó. Giới răn này làm Chúa quan tâm nhất. Khi con yêu
thương tha nhân, con làm điều mà Chúa đã luôn luôn làm. Khi yêu thương, chúng
ta làm cho "Thiên Chúa ngự trị" và tạo được một khung trời đẹp cho
con người. Tôi duyệt xét lại cuộc sống cụ thể của tôi dưới ánh sáng này. Người
này, người kia đối với tới họ là ai? Tôi phải thương yêu ai? Tôi phải chịu
trách nhiệm về ai? Ai đang mong đợi gì ở tôi? thái độ của tôi đối với người
xung quanh, gia đình và đồng nghiệp thế nào?
Anh em hãy ở trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều
của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy. Anh em là bạn hữu của Thầy.
Nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.
Đối với nhiều người trong thời đại chúng ta, động lực tình yêu
dừng lại ở sự đoàn kết với anh em. Những đôi vợ chồng, những gia đình, và các
chủng tộc cần phải thương yêu lẫn nhau. Lúc bấy giờ ta có thể nói đến
"chân trời tình yêu” (tình yêu theo một chiều ngang); vũ trụ của con người
giới hạn ở chân trời trên mặt đất.
Đối với Chúa Giêsu, rõ ràng có một "chiều dọc thẳng
đứng" kép đôi xuyên qua con người: Tình yêu từ trên cao Thiên Chúa đến với
chúng ta, cũng phải trở về chốn cao sang, trở về với Thiên Chúa. Còn phải có
một số rất đông người trở thành "Môn đệ của Chúa", nghĩa là những
người ý thức được những gì đang diễn ra tuồng tình yêu ở nơi trần thế. Phải
nhận ra tình yêu, phải nhận biết Thiên Chúa và yêu mến người. Và chúng ta thấy
Chúa Giêsu đòi hỏi tình yêu này: "Anh em hãy trung tín, và ở trong tình
yêu của Thầy, anh em hãy là bạn hữu của Thầy. Những môn đệ của Chúa Giêsu, các
Kitô hữu, là thành phần của nhân loại đang mến Chúa Giêsu một cách có ý thức:
Trách nhiệm vô cùng lớn lao!
Nói cho cùng loài vật cũng thương yêu lẫn nhau. Nhưng con người
trong vũ trụ chẳng những có khả năng sống năng lực tình yêu lớn lao này, mà còn
biết được khả năng này từ đâu đến, và sẽ đi về đâu, để tạ ơn Thiên Chúa nguồn
mạch tình yêu.
Cũng như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở trong tình
thương của Người.
Lúc bấy giờ vòng chuyển động đã hoàn tất. Chuyển động vĩ đại,
phát xuất từ Chúa Cha, đã trở về với cội nguồn, và chúng ta có thể chiêm ngắm
viễn tượng mà Chúa Giêsu đang có về con người. Một nhân loại được Thiên Chúa
thương yêu. Một Thiên Chúa Cha. Một nhân loại huynh đệ, thương yêu lẫn nhau.
Một nhóm môn đệ, một Hội Thánh biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa Cha.
Các điều ấy Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở trong
anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
Niềm vui của Chúa Giêsu là được Chúa Cha thương yêu và yêu
thương anh em, là nhận ra Chúa Cha và yêu mến Người. Niềm vui phải là đặc tính
của người Kitô hữu, đó cũng là đặc tính của Chúa Giêsu.
'Thế mà có một số người thường hỏi: trở nên người Kitô hữu thì
có khác gì.
20. Chú giải của Fiches Dominicales.
GIỚI RĂN MỚI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương anh em”
Bài Tin Mừng trích trong chương 15 của thánh Gioan nối tiếp đoạn
Tin Mừng tuần trước. Như bức tranh in chìm trong giấy, biểu tượng Cây Nho chỉ
tái hiện vào cuối đoạn Tin Mừng. Nó nhường chỗ cho điều làm nền tảng cho nó:
Tình yêu phát nguồn từ Chúa Cha, tình yêu làm nền tảng cho tình yêu của Đức
Giêsu đối với nhân loại. Chuyển động vòng tròn của việc độc thoại về đời sống
cộng đoàn các môn đệ sau khi Người "về" cùng Cha, vốn là tiêu biểu
của tư tưởng của thánh Gioan. Một tình yêu duy nhất, nhưng không ngừng trào
tràn:
- từ Chúa Cha qua Chúa Con: "Như Cha đã yêu Thầy"
- từ Chúa Con qua các môn đệ: "Thầy cũng yêu anh em"
- rồi giữa các môn đệ với nhau: "Anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em". Như thế là trung tín với giới răn của
Người và ở lại trong tình yêu của Người, như thế họ sẽ được "tràn đầy niềm
vui”.
Từ ngữ chìa khoá của chuyển động vòng tròn này là "tình
yêu" (tiếng Hy lạp: agape), được sử dụng 12 lần trong bản văn này, dưới
những hình thức khác nhau. A.Marchadour đưa ra một nhận xét lý thú: Trong
trường hợp này, hoàn trả và tặng đáp lễ, luật của tình yêu, luôn hướng về một
đối tượng khác với người đã trao tặng. Sự đáp trả của Đức Giêsu đối với tình
yêu của Chúa Cha lại hướng về các môn đệ. Cũng thế sự đáp trả của các môn đệ
đối với tình yêu của Đức Giêsu dành cho mình lại hướng về anh em (Tin Mừng theo
thánh Gioan Centurion, trang 202).
2) “Như Thầy đã thương anh em, anh em hãy thương nhau”
Vừa khẳng định: "Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương
anh em”, Đức Giêsu nói tiếp ngay: "Giới răn của Thầy là anh em hãy thương
nhau như Thầy đã thương anh em”. Hai từ "như” nói lên mầu nhiệm sâu
xa nhất của mặc khải. Marchadour lưu ý ta: Đó không phải là một lối so sánh,
nhưng là một đào sâu, một thiết lập nền tảng. Ở đây Gioan nói về tình yêu mật
thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con, đã biểu lộ trên thập giá (3,16), là kiểu mẫu
phải qui chiếu, tình yêu đó là nền tảng của cộng đoàn mới: "Phần chúng ta,
chúng ta yêu thương vì Người đã yêu thương ta trước" (1 Ga 4, 19)"
(Sđd, trang 202).
Chính do cách thực hiện lời Người truyền: yêu nhau,
mà Đức Giêsu nhận ra họ là môn đệ Người, mà Người trở nên "bạn hữu"
của họ khi Người chia sẻ cho họ điều thiết thân nhất: sự hiểu biết Chúa Cha.
Từ bao đời, sự gần gũi với Thiên Chúa là ước mơ của con người.
Trong Cựu ước, vài người bạn của Thiên Chúa như Abraham, đã gặp gỡ Thiên Chúa
như gặp một người thân. Môsê cũng đã sống cái kinh nghiệm thần bí ấy,
"Yahvê đã chuyện trò với Môsê diện đối diện, như người ta chuyện vãn với
bạn bè" (Xh 33, 11).
Đó là đặc quyền Đức Giêsu dành cho những ai chấp thuận làm môn
đệ Người. Thực ra, tình yêu này không phải do người tín hữu chọn mà được; chính
Đức Giêsu chọn lựa bạn hữu của Người (6,70; 13,18). Đó là một ân ban nhưng
không để con người không thể tự mãn (Sđd, trang 202).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) "Con đường tình yêu”.
(Đức Cha L.Daloz, trong "Chúng tôi đã thấy vinh quang của
Người", DDB, trang 194).
Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ Người một giới răn mới (13,34).
Người nhắc đi nhắc lại 2 lần: "Điều răn của Thầy là: anh em hãy thương
nhau như Thầy đã thương anh em. Điều Thầy truyền cho anh em là: anh em hãy
thương nhau”. Người dạy ta một cách yêu thương mới. Tình yêu tự nhiên bộc phát phải
chăng là mối tình có lợi cho ta, giúp ta phát triển. Một tình yêu dựa trên sự
hấp dẫn, cảm tình; một tình yêu không những trong đó ta vẫn là ta, mà ta còn
cảm thấy mình được đánh giá cao, có cảm giác mình lớn lên khi cho và nhận. Thứ
tình yêu bè bạn, tình yêu hôn phối như thế đúng là một lý tưởng giúp ta triển
nở. Tự nhiên ta dễ cảm xúc trước mặt tình yêu như vậy. Chính Đức Giêsu cũng đã
biết đến thứ tình bạn rất nhân loại ấy, Người yêu thương Mátta, em gái bà và
Ladarô (11, 5).
Nhưng Người muốn ta tiến xa hơn trong tình yêu. Người muốn đưa
ta lên đến tận ngọn nguồn tình yêu: "Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng
thương các con: Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”: Điều Đức Giêsu mong đợi,
mời gọi các môn đệ, đó là hãy tháp nhập vào tình yêu phát xuất từ Chúa Cha, để
yêu như Thiên Chúa.
Tình yêu Thiên Chúa hoàn toàn nhưng không. Đó thật là một quà
tặng. Tình Yêu Thiên Chúa thì phổ quát Người cho mặt trời mọc lên soi người
lành cũng như kẻ dữ, cho người công chính cũng như kẻ bất lương! Trái tim Thiên
Chúa vui rộn ràng khi thấy kẻ tội lỗi ăn năn hối cải, Người không ngừng kêu
gọi, Người sẵn sàng tha thứ cho bất cứ ai trở về với Người. Thiên Chúa yêu
thương trần gian đến nỗi đã ban Con Một mình! Tin Mừng có gì khác hơn là một
mặc khải về tình yêu vô biên của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã biểu lộ khi Người
yêu ta đến cùng? Thiên Chúa là tình yêu. Làm sao ta có thể yêu như Thiên Chúa
được?
Đức Giêsu vạch cho ta một con đường. Nếu muốn học yêu như Chúa,
ta hãy để Người chỉ dạy. Ta đâu phải là người mở ra con đường tình yêu. Chính
Lời Chúa chỉ cho ta. Ta phải nghe và trung thành tuân giữ Lời Chúa. Như thế là
ta thực tập yêu theo đường lối của Thiên Chúa: "Nếu anh em tuân giữ
điều răn của Thầy anh em sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy tuân giữ
điều răn của Cha nên Thầy ở trong tình yêu của Cha”. Đó không phải chỉ
là cảm tính. Đó là sự hoà hợp giữa ý muốn của ta với ý muốn của Chúa. Đó là sự
hoà hợp giữa đời sống của ta với đời sống của Đức Giêsu. "Không ai có tình
yêu lớn hơn người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu”. Đức Giêsu, người mục tử
tốt lành, đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Người kêu mời ta; hãy làm đầy tớ
phục vụ anh em, hãy hiến mạng sống vì anh em. Người mời gọi ta yêu đến cùng như
Người: "Như Thầy đã yêu anh em ".
Lời mời gọi này quả là một thách đố bất khả kham nếu chỉ nhắm
vào sức riêng của ta. Tình yêu trong ta không phải là kết quả của năng lực
riêng của ta. Nếu Đức Giêsu trao phó cho ta sứ mệnh yêu như Người, thì chính
Người làm trổ sinh trong ta những hoa trái của một tình yêu như thế: "Chính
Thầy đã tuyển chọn và cắt đặt anh em để anh em ra đi và sinh nhiều hoa trái và
để hoa trái của anh em tồn tại”. Vì thế chỉ có ta mới có thể loan báo tình yêu
đến cùng và làm chứng về tình yêu ấy bằng chính đời sống của ta. Biết được
nguồn mạch phát sinh tình yêu ấy rồi, ta sẽ tin tưởng trở về với Đấng duy nhất
có thể khơi nguồn tình yêu ấy trong ta. "Tất cả những gì các con xin Chúa
Cha nhân danh Thầy, người sẽ ban cho các con”.
2) "Như” từ ngữ chìa khoá nhưng thường bị cố ý bỏ qua và
rất thường bị quên lãng.
(F. Deleclos, trong "Hãy cầm lấy mà ăn Lời",
Centurion-duculot, trang 124).
Hãy yêu thương nhau. Lời trích dẫn thiếu sót ấy có thể chẳng đi
đến đâu nếu ta không quy chiếu về khuôn mẫu, không vượt qua được những khía
cạnh cảm tính, hời hợt và chiếm hữu của tình yêu.
Để hiểu biết thực tại, phải ngụp lặn trong dòng sông huyền nhiệm
mà Tin Mừng thánh Gioan trình bày cho ta. Không mơ mộng đâu, nhưng đó là lời
tâm huyết của con Người. Một xâm chiếm khu vườn bí ẩn của Thiên Chúa nhập thể,
một tuyên ngôn tình yêu, thú nhận một tâm tình dịu dàng vô biên: “Như Cha đã
thương Thầy, Thầy cũng thương anh em”. Khó tin, nhưng có thật! Người nói với cả
tôi nữa đấy. Người nài nỉ: "Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy; để niềm vui
của Thầy ở trong anh em và anh em được tràn đầy niềm vui”. Nhưng tình yêu có
qui luật ở lại trong ta để trái tim ta có thể đập nhịp đập của trái tim Người;
để tâm tư, hành động của ta rập khuôn theo tâm tư và hành động của Người:
"Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. "Như”, từ
chìa khoá nhưng thường bị cố ý bỏ qua và rất thường bị lãng quên.
21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
DẤU CHỨNG TÌNH YÊU LỚN NHẤT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Như Cha đã yêu mến Ta, Ta cũng đã yêu mến các ngươi":
Tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu đối với Cha Người, mà tương ứng là tình yêu
tôn vinh Người của Chúa Cha, tạo nên nền tảng và mẫu mực cao cả cho đời Kitô
hữu, một cuộc đời từ đây được phô diễn ra bằng đức ái.
"Hãy lưu lại trong tình yêu của Ta":
Nguyên tự: "hãy ở trong tình yêu vốn thuộc về Ta" (xe lu Abel,
Gl:ammaire du treo biblique 33r Rem.I) nghĩa là ‘trong tình yêu Ta dành cho các
ngươi’. Cả bản văn toàn là thuộc cách chủ thể (génihfs Subectifs): tình yêu của
Cha đối với Ta, tình yêu của Ta đối với các ngươi (trong đó các ngươi phải lưu
lại), các lệnh truyền của Ta (c.10), các lệnh truyền của Cha Ta, và, lần nữa,
tình yêu của Cha Ta đối với Ta.
"Để niềm vui của Ta ở trong các ngươi và niềm vui các ngươi
được trọn vẹn": Là dấu hiệu của một đời sống triển nở, niềm
vui được Cựu ước xem như là điểm đặc trưng của thời cứu độ và của bình an cánh
chung (Is 9,2; 35,10; 55,12; 65,18; Xp 3,14; Tv 126,3-5) và chủ đề này xuất
hiện lại trong các Tin mừng (Mt 25,21.23; Lc 1,14; 2,10). Nơi Gioan, niềm vui
của Chúa Kitô phục sinh được chia sẻ ngay từ bây giờ cho các môn đồ sống sự
sống mới; niềm vui này phải chiếm hữu tất cả con người và như vậy phải đạt được
sự sung mãn nào đó (x. Ga 17,13; 1Ga 1,4; 2Ga 12). Hiện giờ, nó có thể cùng
đồng hành với đau khổ (16,20-24;14,28).
“Không có tình yêu nào lớn hơn":
Nếu cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu thức cao cả nhất của tình yêu
Người đối với Chúa Cha (14,30), thì nó cũng là chóp đinh của tình yêu Người đối
với những kẻ Người đã chọn làm bằng hữu (13,1.4). Đó chính là nền tảng và quy
phạm của tình anh em.
"Và đã cắt cử anh em để anh em ra đi":
Động từ Hy lạp tithenai, như công thức Hy Bá tương ứng, diễn tả sự kiện đặt một
người nào trong một chức vụ gì đó đồng thời bảo đảm cho kẻ ấy những phương thế
để thực thi một cách kiến hiệu (x. Cv 13,47; 20,28; 1Cr 12,28; 2Tm 1,11). Như
vậy là nhóm môn đồ, nhờ một hồng ân của Chúa, được trao ban trách nhiệm truyền
giáo (x. Mc 3,14; 6,7; Mt 10,1; Lc 9,1).
KẾT LUẬN
Niềm vui hoàn hảo là hậu quả của lời mặc khải của Chúa Con và
của việc tuân giữ các lệnh truyền mà lời đó bắt buộc. Bao giờ cũng vậy khi
người ta tiếp xúc với những sự xếp đặt của chương trình Thiên Chúa: chương
trình này thường đòi hỏi khổ chế hy sinh nhưng cũng bao hàm một sự tiền nếm
niềm vui mà chúng ta sẽ được trên trời khi kết hiệp hoàn toàn với chiến thắng
của Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu vừa cho chúng ta biết bí mật cuối cùng và quý giá
nhất của tâm hồn Người. Trong một màn độc thoại dài "trước khi qua khỏi
thế gian này mà về với Cha'', Người trút những tâm sự sau hết, nói lên những
dặn dò cuối cùng; Người xem ra muốn để lại cho các sứ đồ một di chúc thiêng
liêng. Thoạt nghe đoạn văn của diễn từ sau Tiệc ly này, điều đánh động chúng ta
là việc Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tình yêu mà các sứ đồ cần có đối với nhau.
Trong một đoạn rất ngắn như đây mà Người đã lặp lại chữ "lệnh truyền"
bốn lần cả thảy. Như thế Người muốn nhắc nhở một điều tuyệt đối, không bao giờ
được đặt lại vấn đề; như thể đó là thực tại chủ chốt, ưu tư thiết yếu, nỗi bận
tâm duy nhất của những ai tự cho là thuộc về Người và đáng được vào số những kẻ
thừa kế thiêng liêng của Người.
2) Việc nhấn mạnh này của Chúa Giêsu làm chúng ta bối rối lắng
lo. Phải chăng Người không muốn qua đó nói rằng: nguy hiểm chính yếu luôn rình
rập nhóm sứ đồ rồi những người sẽ trở nên môn đồ quanh họ, rồi tất cả những ai
trong các thế hệ kế tiếp sẽ được quy tụ trong cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa
Giêsu Phục sinh, chính là sự thiếu tình yêu. Điều này cũng là cám dỗ thường
xuyên nhất là có lẽ là sai lầm thường gặp nhất.
3) Có lẽ! Vì dù sao, xét lại thái độ hiện thời của chúng ta và
những nứt rạn mà mỗi thế hệ không ngừng tạo ra trong sự duy nhất của thân thể
Chúa Kitô, chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa Kitô đã chẳng quá nhấn mạnh. Không
cần phải nói đến gương xấu của việc các Giáo hội ly khai, những mối bất hòa lớn
lao trong mỗi Giáo hội, hay biết bao tranh chấp của các phong trào ngay trong
mỗi Giáo hội địa phương; không cần phải xét đến những gì xảy ra chung quanh
chúng ta mà thực sự không tùy thuộc chúng ta, chỉ cần mỗi người hãy nhìn đến
mình là đủ, vì mỗi người chỉ có trách nhiệm về chính mình, về phương cách: để
tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu, chúng ta yêu mến thế nào? Dù trả lời ra
sao đi nữa, thì mỗi một người, nếu thành thật, đều biết mình có thể tiến bộ
hơn. Để được như vậy, phải nghe Chúa. Người vừa nói với chúng ta: "Hãy yêu
thương nhau như Ta đã yêu các ngươi". Mẫu gương của tình yêu chính là
Người. Thành thử phải đọc lại Tin mừng, khám phá trong mỗi lời nói, mỗi hành vi
của Chúa Giêsu, làm sao đã tỏ lộ cái tình yêu hằng có trong Người, để biết được
chúng ta phải cư xử thế nào đến phiên chúng ta. Đừng mất công tìm đâu xa; trong
diễn từ mới nghe lúc nãy, Chúa cho chúng ta thấy quá rõ Người yêu mến ra sao.
4) Ngay từ đầu cuộc đàm đạo; Người đã bảo chúng ta: "Hãy
lưu lại trong tình yêu của Ta" sau khi quả quyết: "Ta đã yêu các
ngươi". Người không đòi hỏi chúng ta đáp trả tình yêu của Người đối với
chúng ta, không đòi hỏi chúng ta yêu mến Người. Người chỉ xin chúng ta hãy lưu
lại, hãy để mình bị bao bọc, để mình chìm đắm trong tình yêu mà Người đang bao
phủ chúng ta và đừng làm gì phá vỡ việc lưu lại ấy. Điều tùy thuộc chúng ta là
đừng chối từ những gì Người ban cho chúng ta. Người bảo dấu hiệu cho biết ta
lưu lại trong tình yêu Người là tuân giữ lệnh truyền Người, một điều thực ra
không liên hệ tới Người. Lệnh truyền của Người, ấy là đến phiên chúng ta yêu
thương kẻ khác; như thể Người không muốn tình yêu Người ban trở về lại với
Người, nhưng đổ tràn trên kẻ khác; tình yêu Người biểu lộ như thế sánh được với
một con sông luôn tuôn chảy, chẳng bao giờ trở lại về nguồn. Xa hơn Người sẽ
nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì bạn hữu”. Tình
yêu mà Chúa dành cho chúng ta không giống tình yêu của chúng ta, thứ tình yêu
luôn thắc mắc về sự đáp trả nó nhận được: sự đáp trả này đã đủ chưa? Có thành
thật và không giả hình chăng? Có bền vững chăng? tình yêu Thiên Chúa là một
tình yêu luôn tiến tới, không chờ đợi đáp trả tí nào. Đó là tình yêu của Chúa
Giêsu, tình yêu không trở lại với chính nó. Nó phong phú luôn mãi; đấy là lý do
giải thích mềm vui của Chúa Giêsu mà Người có đề cập chỗ khác: "Cho thì
vui hơn nhận" (Cv 20,35).