Các bài suy niệm LỄ THĂNG THIÊN – Năm B
Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mc 16,15-20
MỤC LỤC
1. Đường vinh quang
2. Lên trời.
3. Hãy đi loan báo Tin Mừng
4. Chúa Thăng Thiên – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
5. Chuyển giao thông điệp cứu độ
6. Xin được theo Chúa về Trời
7. Chúa lên trời.
8. Ngước mắt nhìn trời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
9. Hãy loan báo Tin Mừng _ ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
10. Có Chúa cùng hoạt động.
11. Nơi Chúa hẹn gặp ta.
12. Thiên đàng.
13. Ra đi.
14. Lên trời.
15. Cùng lên trời với Chúa – Lm Nguyễn Nguyên
16. Sứ mạng người Kitô hữu.
17. Làm chứng.
18. Kêu gọi.
19. Tầm nhìn.
20. Hành trình.
21. Con đường.
22. Ái mộ những sự trên trời
23. Khát vọng lên trời – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
24. Ý nghĩa việc Chúa Lên Trời
25. Loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo _ Lm. Vũ Phan Long
26. Chú giải của Noel Quesson.
27. Niềm hy vọng Nước Trời
28. sự chết bị tiêu diệt - Lm. HK
29. Chúng ta sẽ cùng sống với Người - Lm. HK
30. Sự sống đời đời - Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
31. Đường lên trời - Logos
Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
Chúa lên trời sai chúng ta đến với muôn dân catholic.org.tw
Khởi điểm cho một kỷ nguyên mới Lm Giuse Đinh lập Liễm
Hướng về trời cao Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Đường mời gọi làm chứng... Lm. Phêrô Lê văn Chính
Mừng Chúa phục sinh Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Chúa Giêsu hiện ra lần cuối...Fiches Dominicales
Loan báo tin mừng Chú giải của Noel Quesson
Lời kết thúc Jacques Hervieux
Trờ nên hoàn thiện là Lm. Vincent Travers
Những lời cuối cùng .... Suy niệm của JKN
Hãy rao giảng tin mừng Lm. Đặng Quang Tiến
Bây giờ con về cùng Cha Lm Anphong Trần Đức Phương
Để có Chúa cùng hoạt động Lm Phêrô Vũ Văn Quí
Công giáo Lương Thực Ngày Chúa Nhật
Lên đường Sưu tầm
1. Đường vinh quang
2. Lên trời.
3. Hãy đi loan báo Tin Mừng
4. Chúa Thăng Thiên – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
5. Chuyển giao thông điệp cứu độ
6. Xin được theo Chúa về Trời
7. Chúa lên trời.
8. Ngước mắt nhìn trời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
9. Hãy loan báo Tin Mừng _ ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
10. Có Chúa cùng hoạt động.
11. Nơi Chúa hẹn gặp ta.
12. Thiên đàng.
13. Ra đi.
14. Lên trời.
15. Cùng lên trời với Chúa – Lm Nguyễn Nguyên
16. Sứ mạng người Kitô hữu.
17. Làm chứng.
18. Kêu gọi.
19. Tầm nhìn.
20. Hành trình.
21. Con đường.
22. Ái mộ những sự trên trời
23. Khát vọng lên trời – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
24. Ý nghĩa việc Chúa Lên Trời
25. Loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo _ Lm. Vũ Phan Long
26. Chú giải của Noel Quesson.
27. Niềm hy vọng Nước Trời
28. sự chết bị tiêu diệt - Lm. HK
29. Chúng ta sẽ cùng sống với Người - Lm. HK
30. Sự sống đời đời - Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
31. Đường lên trời - Logos
Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
Chúa lên trời sai chúng ta đến với muôn dân catholic.org.tw
Khởi điểm cho một kỷ nguyên mới Lm Giuse Đinh lập Liễm
Hướng về trời cao Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Đường mời gọi làm chứng... Lm. Phêrô Lê văn Chính
Mừng Chúa phục sinh Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Chúa Giêsu hiện ra lần cuối...Fiches Dominicales
Loan báo tin mừng Chú giải của Noel Quesson
Lời kết thúc Jacques Hervieux
Trờ nên hoàn thiện là Lm. Vincent Travers
Những lời cuối cùng .... Suy niệm của JKN
Hãy rao giảng tin mừng Lm. Đặng Quang Tiến
Bây giờ con về cùng Cha Lm Anphong Trần Đức Phương
Để có Chúa cùng hoạt động Lm Phêrô Vũ Văn Quí
Công giáo Lương Thực Ngày Chúa Nhật
Lên đường Sưu tầm
Mừng Chúa lên trời có nghĩa là mừng Ngài được tôn vinh sau
khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha đã trao phó. Ngài đã hoàn thành trong
sự vâng phục và yêu thương, ngay cả trong việc chấp nhận thập giá để cứu chuộc
mọi người. Vinh quang được trao ban cho Ngài, vì Ngài đã chấp nhận hy sinh tất
cả. Nói cách khác, Ngài đã đi trọn con đường của yêu thương, không nề hà bất cứ
một cử chỉ hay một hành động nào, để bày tỏ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối
với con người.
Sứ mạng ấy Chúa Giêsu cũng đã trao lại cho các môn đệ: Các con
hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Các ông đã hoàn tất với sự trợ giúp của
Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan ghi nhận là chính Chúa Giêsu sống lại đã thổi hơi
ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Và theo thánh Luca, thì nếu Chúa Thánh Thần đã
gầy dựng Con Thiên Chúa làm người nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, thì nay khi
Ngài sắp sửa từ giã các ông, thì Ngài đã hứa ban cho các ông Chúa Thánh Thần
như là một sức mạnh để gầy dựng cộng đoàn của Hội Thánh. Chúa Giêsu căn dặn các
môn đệ chờ đón Chúa Thánh Thần tại Giêrusalem. Nhận được sức mạnh của Chúa
Thánh Thần, các môn đệ đã trở thành những chứng nhân sống động của Đức Kitô cho
đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Trong bối cảnh ấy Chúa Giêsu đã từ biệt các môn đệ, đây là một
cuộc từ biệt không gây nên đau buồn vì Chúa Giêsu có hứa hẹn ngày tái ngộ. Thời
gian chờ đợi sẽ là thời gian cần thiết để hoàn thành sứ mạng được trao phó,
đồng thời cũng là thời gian chờ đợi vinh quang sẽ đến. Như thế mừng lễ Chúa lên
trời cũng chính là lúc chúng ta chờ đợi vinh quang sẽ đến, cũng chính là chờ
đợi ngày Ngài trở lại.
Nhưng sự chờ đợi chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó trở thành nỗi bận
tâm chu toàn sứ mệnh được trao phó. Người Kitô hữu hôm nay cũng như các môn đệ
ngày xưa không phải là những kẻ đứng nhìn lên trời, mà là những người dấn thân
rao giảng Tin Mừng cứu độ, đem lại niềm vui của ơn giải thoát cho tất cả mọi
người nhất là những kẻ nghèo khổ và bất hạnh. Chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ
mạng ấy bằng những hy sinh và quên mình. Lịch sử Giáo Hội xưa cũng như nay cho
thấy nơi nào và khi nào toàn thể Giáo Hội cũng như từng người Kitô hữu biết hy
sinh những quyền lợi của mình để nghĩ đến những lợi ích chung, nhất là của
những tầng lớp bị quên lãng hay bị áp bức trong xã hội, thì ở đó và lúc đó,
Giáo Hội cũng như người Kitô hữu làm cho người khác nhận ra được Tin Mừng của
Đức Kitô. Và đó cũng chính là vinh quang của Giáo Hội cũng như của người Kitô
hữu.
Như thế, con đường dẫn đến vinh quang, là con đường hoàn thành
sứ mạng Chúa đã trao phó, trong quên mình và trong hy sinh.
2. Lên trời.
Người ta thường bảo ra đi là chết trong lòng một chút. Sự chia
lìa với người thân yêu bao giờ cũng đem lại buồn đau, mặc dù chúng ta biết rằng
người ấy sẽ gặp được những may mắn. Vậy phải chăng Giáo hội mặc lấy những tâm
tình sầu khổ khi cử hành lễ Chúa về trời. Không, trái lại đây là một ngày lễ
ngập tràn niềm vui. Chúng ta vui mừng cho Chúa cũng như cho chúng ta.
Trước hết, ngày lễ Lên Trời chính là ngày chiến thắng ngày khải
hoàn của Đức Kitô.
Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại mọi chặng đường Ngài đã đi qua
trong suốt cuộc sống nơi trần thế. Ngài đã tự hạ mình xuống mặc thân xác phàm
trần trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Sinh ra trong cảnh khó nghèo của hang đá
Bêlem. Vất vưởng nơi đdất khách quê người khi chạy trốn sang Ai Cập. Lao động
mệt mỏi với cuộc sống tăm tối tại Nadarét. Rồi những năm tháng hăng say rao
giảng Tin Mừng, tìm kiếm những con chiên lạc. Và sau cùng là cái chết ê chề
nhục nhã trên thập giá. Tại sao Ngài lại chấp nhận? Tại sao Ngài lại ưng thuận?
Tôi xin thưa chỉ vì yêu thương chúng ta. Chỉ vì muốn cứu chúng ta khỏi quyền
lực ma quỷ, dẫn đưa chúng ta vào quê hương Nước Trời. Giờ đây, công cuộc cứu
độ, qua đó Ngài đã hiến dâng tất cả tình yêu và những giọt máu cuối cùng, đã
hoàn tất, Ngài vui mừng nhớ lại những gia đoạn đã đi qua.
Phụng vụ hôm nay muốn trình bày Đức Kitô như một vị chiến thắng
và khải hoàn đang tiến lên, theo sau Ngài là tất cả chúng ta, những người đã
được Ngài cứu chuộc, đã được thông phần vào niềm hạnh phúc Nước Trời. Chúa
Giêsu trở về nhà Cha và giới thiệu những người em mới mà Ngài đã chuộc lấy bằng
máu châu báu của Ngài. Ngày lễ lên trời phải chăng là ngày Đức Kitô được Cha
tuyên phong làm Vua trời và đất.
Tiếp đến, ngày lễ Lên Trời còn là một ngày vui mừng cho chúng
ta, nhờ đó mà bản tính nhân loại được nâng lên cao.
Thực vậy, qua biến cố này, bản tính nhân loại của chúng ta được
tham dự vào những vinh quang của Thiên Chúa, vì Đức Kitô đã về trời cả thân
xác, với cả bản tính nhân loại. Phải chăng đây là một mầu nhiệm mà chúng ta sẽ
không thể nào hiểu thấu. Một người như chúng ta giờ đây đang được ngồi bên hữu
Thiên Chúa. Ngài là đầu và chúng ta là chi thể, như trong kinh Tiền Tụng chúng
ta sẽ đọc. Ngài về trời để chúng ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa.
Tuy nhiên, cho được như vậy, chúng ta phải nâng tâm hồn lên, như
lời kinh Tiền Tụng kêu gọi, bởi vì tội lỗi sẽ ngăn trở không cho chúng ta về
trời với Chúa. Tội lỗi như một sợi dây xích cột chặt chúng ta lại với trần
gian. Hãy phá tan xiềng xích tội lỗi. Hãy hướng tới quê trời bằng lòng ao ước
khát mong từ đó chúng ta sẽ hằng ngày phục vụ Chúa. Hãy khử trừ tội lỗi trung
thành bước theo để rồi chúng ta cũng sẽ được về trời với Ngài.
3. Hãy đi
loan báo Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho
mọi loài thọ tạo!”
Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ
cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ
một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ
nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì họ
chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm
chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã
đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần
Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích
thực của nó (Ga 14,26; 16,12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa
truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó
thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2,4).
Đối với Kitô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời
gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích
thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Kitô
hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin
Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là
một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.
Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự
hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn
là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là
đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và
phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng
người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao
giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta
hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giêsu được đưa lên trời và
ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc
tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa
Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không?
Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều
nữa, đó là, trong tư cách Kitô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự
hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn,
và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực
trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).
Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà
ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng
có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ - chẳng qua là hoàn lại sức
sống tình yêu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ -
chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ
và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng
chẳng sao’ - sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không
ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này
sẽ được mạnh khỏe’ - sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của
Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi
chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong
phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin
Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Kitô hữu của mình.
Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Kitô Giêsu, Tin Mừng ‘Thiên Chúa
hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù
Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến
phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu
trong tăm tối như Mẹ Têrêxa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ
thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có
Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng
cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Têrêxa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những
người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ
vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành,
nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’
Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có
thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều
cách thức rất khác nhau.
Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều
ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu
hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì
khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình
thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thương. Xin đổ tràn
Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để - vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa
yêu thương - con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. Amen.
4. Chúa Thăng
Thiên – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Bốn mươi ngày sau Chúa Phục Sinh là ngày thứ năm sau Chúa Nhật
thứ sáu phục sinh. Như vậy lễ Chúa Thăng Thiên đúng ra đã được cử hành vào ngày
thứ năm vừa qua, nhưng ở một số nơi lễ này được dời vào Chúa Nhật để tín hữu có
dịp tham dự và hiểu hơn về mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người.
I. Khỏi bốn mươi ngày Ngài Lên Trời
Truyền thống Giáo Hội vẫn cử hành lễ Chúa Lên Trời bốn mươi ngày
sau lễ Chúa Phục Sinh. Truyền thống này theo sát trình thuật sách Công Vụ Tông
Đồ: “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống
sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày Người đã hiện ra nói chuyện với các ông
về Nước Thiên Chúa…. Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có
đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv.1, 3.9).
Bốn mươi ngày, là thời gian các tông đồ còn có thể nhìn thấy Đức
Giêsu, có thể cùng ăn cùng uống với Ngài, còn được Ngài dạy bảo như những ngày
nào. Trong thời điểm ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ cũng vẫn còn
u mê, vẫn còn tưởng Ngài sẽ khôi phục nước Israel theo nghĩa phàm trần. Đức
Giêsu vẫn tiếp tục kiên trì dạy dỗ những người học trò như thể “chậm hiểu” đối
với con người ngày nay, nhưng thật sự những gì Đức Giêsu đề cập rất khó hiểu vì
các tông đồ đâu có những khái niệm trước như những tín hữu hôm nay đã được nghe
đi nghe lại nhiều lần.
Đức Giêsu “lên trời” ngay trước mắt các tông đồ (Cv. 1,9). Điều
này đã xảy ra tại vườn dầu (Cv. 1,12). Bao nhiều lần Đức Giêsu hiện ra cho các
tông đồ, và rồi Ngài lại biến đi trước mắt các ông. Những lần đó không có sách
nào nói Ngài lên trời cả, chỉ coi Ngài hiện ra và Ngài lại đi thôi, và rồi Ngài
sẽ lại thăm viếng các tông đồ khi các tông đồ cần và Ngài muốn. Sách Tông Đồ
Công Vụ hôm nay diễn tả rất cụ thể và rõ ràng về biến cố Đức Giêsu lên trời.
II. Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế
Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu không nói Đức Giêsu lên
trời, mà lại nói Đức Giêsu ở lại mãi với con người: “Này đây Thầy ở cùng các
con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28,20). Theo thánh Matthêu, Đức Giêsu là
Emmanuel, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Thiên Chúa ở với con người
(Mt. 1,23). Nếu Đức Giêsu là Đấng qua Ngài Thiên Chúa ở với con người, thì đâu
có khi nào Đức Giêsu rời con người nữa. Thiên Chúa không ở xa con người, nhưng
ở gần thật gần con người, một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Tin Mừng theo thánh
Matthêu cũng cho thấy Đức Giêsu đã nói: “nơi nào có hai hay ba người họp nhau
nhân danh Thầy, thì Thầy ở đó, giữa họ” (Mt.18, 20). Tin Mừng Đức Giêsu theo
thánh Yoan cũng có những tư tưởng tương tự: “ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy,
Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”
(Ga.14, 23). Đức Giêsu ở với các tông đồ, ở với những người nhờ lời các tông đồ
mà tin vào Đức Giêsu.
Ý niệm Đức Giêsu ở với con người, hàm chứa niềm tin Đức Giêsu
“đang sống” một cách nào đó. Đây không chỉ là “đang sống” theo nghĩa những
người còn đang sống tưởng nhớ tới Ngài, nhưng thật sự Ngài vẫn đang sống độc
lập và khách quan đối với tư tưởng của con người. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang
sống và ở với con người bất chấp con người có biết hoặc ý thức điều đó hay
không.
III. Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa
Một số người khi đọc tới đây có thể đã nói: “Kinh Thánh mâu
thuẫn; như vậy biết tin thế nào đây, một đàng nói lên trời một đàng nói vẫn ở
dưới thế”! “Phải chăng Kinh Thánh không đáng tin”. Thật sự trong Kinh Thánh có
nhiều điều bị người ta nói “không lô gích và phản khoa học”, chẳng hạn trong
Sáng Thế Ký nói “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi
sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St. 2, 7). Thiên Chúa
là Đấng thiêng liêng làm gì có tay mà nặn, làm gì có hơi thở mà thổi hơi vào
hình đất đó. Khoa học cho thấy con người hình thành qua tiến trình tiến hóa.
Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng. Ngài ở khắp mọi nơi. Không có
gì hiện hữu ngoài Ngài. Ma quỷ cũng luôn hiện diện trước Ngài, không thể tránh
được Ngài. Nếu ai thù hận ghen ghét Ngài, thì sẽ muôn đời khổ vì không thể trốn
đâu được với Ngài. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, nên không có tay phải tay
trái, không có bên phải bên trái. Những cách diễn tả như vậy, đó là cách diễn
tả “nhân hình” về Thiên Chúa. Khi người ta nói “Thiên Chúa ở trên trời”, thì
không có nghĩa Thiên Chúa ở trên trời thăm thẳm mà không ở dưới đất này, nhưng
có nghĩa, Thiên Chúa là Đấng cao vời siêu việt, vượt quá sức hiểu và tưởng
tượng của con người. Thiên Chúa là Đấng cao vượt trên con người như trời cao
hơn đất: Thiên Chúa ngự trên trời. Như vậy khi một số tác giả diễn tả Đức Giêsu
lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, không có nghĩa đen hoàn toàn như vậy, nhưng
phải hiểu là Đức Giêsu được tôn vinh ngang hàng với Thiên Chúa. Công Nghị Do
Thái đã hiểu theo nghĩa này, nên đã đồng thanh kết án tử hình Đức Giêsu: là
người mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa: phạm thượng (Mc.14, 62-64).
Khi nói Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng không có nghĩa rằng Đức
Giêsu ở xa con người, rời bỏ con người, nhưng có nghĩa, Ngài được tôn vinh ngang
hàng với Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa làm người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đức Giêsu nói: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến
tận thế” (Mt.28, 20). Bạn có thấy câu này mâu thuẫn với khẳng định “Chúa Lên
Trời” không? Tại sao bạn nói mâu thuẫn hoặc không mâu thuẫn?
2. Trong Kinh Thánh, những chỗ nào đề cập đến việc “Chúa lên
trời”? Theo ý bạn, “lên trời” trong từ ngữ “Chúa Lên Trời” phải được hiểu như
thế nào?
3. Ở đâu trong Kinh Thánh dùng từ ngữ “lên trời ngự bên hữu
Thiên Chúa”? Theo bạn, từ ngữ “ngự bên hữu Thiên Chúa” phải được hiểu như thế
nào, vì Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, đâu có bên phải bên trái?
5. Chuyển
giao thông điệp cứu độ
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Đối với chúng ta hôm nay, việc gửi một lá thư từ Việt Nam đi Âu
hay Mỹ là điều dễ dàng như trở bàn tay, nhất là đối với thư điện tử; chỉ cần
ngồi vào máy tính và nhắp chuột một cái là bức thư sẽ được chuyển qua nửa bên
kia trái đất chỉ trong một vài giây!
Thế nhưng vào thời kỳ ngành Bưu Chính Việt Nam chưa phát triển
(từ thời vua Lý Thái Tôn [1028-1054] đến đầu thời Pháp thuộc), việc chuyển một
bức thư từ Bắc vào Nam là cả một hành trình đầy gian truân khổ ải.
Chuyển giao chiếu chỉ Nhà Vua
Hồi ấy, người lính trạm ở hoàng cung (nay gọi là bưu tá), sau
khi nhận được công văn hay chiếu chỉ của Nhà Vua, tức tốc lên ngựa phóng nước
đại bất kể ngày đêm mưa nắng, để chuyển giao sớm hết sức có thể cho Trạm kế
tiếp (mỗi trạm được gọi là Cung Dịch hay Trạm Dịch). Người lính ở trạm kế đó,
khi vừa tiếp nhận chiếu chỉ, phải lập tức phóng ngựa lên đường không trì hoãn
để chuyển giao cho Trạm tiếp theo... Cứ thế, các lính trạm nối tiếp nhau phóng
ngựa như bay, bất chấp nhọc nhằn, băng qua nhiều chặng đường gian nan hiểm trở
có lắm thú dữ hoành hành, để chuyển giao nhanh chóng chiếu chỉ đến tay người
nhận, dù phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.
Chuyển giao sứ điệp của Chúa Giêsu
Trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng trao cho các Tông Đồ sứ
mạng loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới: "Anh em hãy đi khắp tứ phương
thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16, 15).
Tin Mừng là thông điệp quan trọng bậc nhất vì có liên hệ mật
thiết đến phần rỗi, đến sự sống đời đời của nhân loại: "Ai tin và chịu
phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án" (Mc 16, 16).
Tin Mừng là một thông điệp vô cùng quý báu vì mang lại hoà bình
và hạnh phúc cho toàn thế giới.
Tin Mừng cũng là thông điệp khẩn cấp, cần phải loan truyền nhanh
chóng và rộng rãi khắp nơi vì e rằng có rất nhiều người chết đi mà chưa kịp đón
nhận được sứ điệp mang lại ơn cứu rỗi nầy.
Khi tiếp nhận sứ điệp Tin Mừng, các tông đồ đã cống hiến toàn bộ
cuộc đời còn lại của mình, chấp nhận vô vàn gian lao khổ ải, kể cả ngục tù,
xiềng xích và cái chết, để chuyển giao Tin Mừng cho người Do-Thái và cho dân
ngoại trong đế quốc Rô-ma.
Kế đó, các cộng đoàn tín hữu tiên khởi, sau khi đón nhận Tin
Mừng của Chúa Cứu Thế do các tông đồ truyền lại, tích cực bảo toàn và nỗ lực
chuyển giao cho thế hệ tiếp theo dù phải trả bằng giá máu. Nhờ thế, sứ điệp Tin
Mừng của Chúa Cứu Thế đã được loan báo cho nhiều dân tộc khắp năm châu.
* * *
Chuyển giao Tin Mừng là sứ mệnh cấp bách
Chúa Giêsu và Hội Thánh đã trao sứ điệp quý báu và quan trọng
nầy tận tay chúng ta và thôi thúc chúng ta chuyển đi khắp thế giới. "Anh
em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ
tạo."
Nắm trong tay thông điệp tối khẩn có liên quan đến vận mệnh đời
đời của toàn thể nhân loại, ít nữa là vận mệnh của hơn 75 triệu đồng bào Việt
Nam chưa biết Chúa đang sống quanh ta, nhưng dường như chúng ta còn uể oải chưa
muốn lên đường làm trách nhiệm người "lính trạm" của Chúa Kitô.
Lạy Chúa Giêsu,
Hôm nay, nhiều người phải sống bất hạnh vì chưa được đón nhận
niềm hạnh phúc do Tin Mừng mang đến, nhiều dân tộc phải chịu thiêu đốt trong lò
lửa chiến tranh vì không hề biết giải pháp đem lại hoà bình do Tin Mừng cung
cấp, đang khi Chúa vẫn thôi thúc chúng con truyền rao Tin Mừng cho họ mà chúng
con vẫn lặng im!
Và nếu chung quanh chúng con có nhiều người chết đi mà chưa kịp
đón nhận sứ điệp Tin Mừng cứu độ vì sự chểnh mảng, thờ ơ của chúng con là những
"người lính trạm" của Chúa thì đến ngày phán xét, chúng con sẽ trả
lời với Chúa sao đây?
6. Xin được
theo Chúa về Trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một gia đình kia: chồng là người ngoại đạo. Ông không tin
Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính
mến Chúa. Ngược lại, bà vợ lại rất sùng đạo. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu
nguyện. Dù sống giữa hai chiều hướng trái ngược đối nghịch nhau, đứa con trai
duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với bố mẹ. Một hôm em lâm bệnh hiểm nghèo, em hỏi
bố rằng: "Bố ơi! Trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian. Con
xin bố dạy con phải tin ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên
đàng, chẳng có Chúa hay có mẹ để được yêu thương ở đời sau! Còn tin theo Mẹ thì
có Thiên Chúa là Cha nhân lành. Có cõi trời để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên
Chúa là Cha. Có Đức Mẹ luôn bầu cử chở che?"
Người cha quá sững sờ và kinh ngạc. Ông ôm con vào lòng và nói:
"Con hãy tin theo Mẹ. Con cưng của cha! Đứa bé liền nói tiếp: "Nhưng
nếu bố không tin theo Mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng
được?". Trước lời đơn sơ và chân thành của em bé, người cha đã không kiềm
nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt. Ông đã để những giọt nước mắt xót
xa tuôn rơi trên gò má già nua của mình. Kể từ ngày đó, người cha đã chọn Chúa
là lẽ sống, là Đấng ông tôn thờ.
Vâng, nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời
chẳng còn ý nghĩa gì! Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào
lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người! Điều quan yếu là chúng ta phải tìm
ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu?
Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống nào
cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra sao?
Chúa Giêsu trong tư cách một con người trần thế. Ngài đã sống cả
cuộc đời để tôn vinh Thiên Chúa Cha trong việc phục vụ tha nhân. Ngài đến trần
gian để thi hành thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó Ngài đã thực thi trọn vẹn cho dù
phải trả giá bằng cả mạng sống, miễn sao cho ý Chúa Cha được thực hiện, cho
danh Cha được cả sáng, cho Nước Cha mau hiển trị.
Là người ky-tô hữu chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa
Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi cho đến hơi thở
cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang, mà là con
đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường
thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Cal-vê.
Hôm nay Chúa về trời, Ngài vẫn mang theo dấu vết của thương
tích, của thương đau, của sự chống đối, xỉ nhục, đòn roi mà Ngài đã từng trải
qua... Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu đó, như dấu
tích cho lời xin vâng trọn vẹn theo thánh ý Chúa Cha. Nay, Ngài cũng muốn tất
cả chúng ta hãy đi con đường này để tiến về trời cao. Đó là con đường làm chứng
nhân cho Tin mừng của Chúa bằng chính đời sống tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ
tha nhân. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải đổ máu nhưng quan yếu là
phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm
luôn bao dung, kính trọng, bác ái và công bình. Một cuộc đời làm chứng không
nhất thiết phải có một bản án để người ta thoá mạ, tay chay, nhưng chỉ cần biết
hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn
được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Hôm nay mừng Chúa về trời, chúng ta cũng nghe vang vọng đâu đây
lời mời gọi thiết tha của Thầy Chí Thánh Giêsu: "anh em hãy làm chứng nhân
cho Thầy. Khởi từ Giê-ru-sa-lem cho đến tận cùng thế giới". Xin cho mỗi
người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần
thế trong niềm hân hoan để: "Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo - Ngày trở về,
miệng reo vang câu hát mừng". Amen.
Hôm nay chúng ta mừng kính biến cố về trời ngự bên hữu Đức Chúa
Cha. Hay nói đúng hơn chúng ta mừng kính việc Ngài được tôn vinh, làm chủ thế
giới và vũ trụ. Bởi đó, chúng ta không hướng về trời theo nghĩa là hướng tới
một điểm nào đó trong không gian, để rồi chỉ chờ đợi được di tản, được bốc đi
khỏi chốn lưu đày ở thế giới này.
Chính vì thế, thánh Luca đã ghi lại lời hai người đàn ông mặc áo
trắng nói với các môn đệ, sau khi Chúa đã lên trời: Này các bạn xứ Galilêa, sao
còn đứng nhìn trời làm chi. Đức Kitô Đấng vừa lìa bỏ các bạn và được rước lên
trời cũng sẽ ngự đến y như các bạn đã thấy Ngài lên trời.
Từ lời phán bảo này chúng ta nhận thấy: Người môn đệ của Chúa
không được nhìn trời mà quên đi trái đất, nơi mà bổn phận đang chờ đón họ như
lời Chúa Giêsu đã nói: Anh em sẽ làm chứng về Thày tại Giêrusalem, tại Giuđêa,
Samaria và cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Ngày Chúa Giêsu ra đi là ngày sứ mạng của các môn đệ bắt đầu. Mơ
tưởng tới một cõi trời cao mà quên đi sứ mạng được trao phó cho mình thực hiện
nơi trần gian, chính là mơ tưởng một cách hão huyền. Nếu chúng ta có hướng lên
trời thì điều đó phải có nghĩa là chúng ta hướng tới những thực tại cao quí và
tốt đẹp, khả dĩ giúp cho con người đạt tới những kích thước viên mãn của mình
về mặt tinh thần, và cũng chỉ có thế mà thôi.
Đã đến lúc chúng ta cần phải dứt khoát với những quan niệm lỗi
thời về một thiên đàng, về một nước Chúa lơ lửng trên không trung, một quê
hương chúng ta coi là thật, ở một chỗ nào đó trên trời, khiến chúng ta lơ là,
có khi còn khinh chê cái thế gian phù vân, hư vô giả trá. Cái quê hương lầm
than đau khổ như một thứ quê hương không thật.
Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là chúng ta sẽ đi tới một thái
cực khác, đó là chỉ còn biết vui sự thế gian này, coi thế gian này như là tất
cả, như là vĩnh cửu. Quê hương thật là trời mới đất mới, không đồng hóa với
trần gian, nhưng cũng không đối lập với trần gian. Trái lại, trời mới đất mới
chính là quê hương trần thế này được đổi mới nhờ Thánh Thần của Đức Kitô Phục
sinh. Bởi đó chúng ta không nhìn lên trời, mà cần phải thiết tha hơn ai hết với
sứ vụ Chúa đã trao ban, đó là đổi mới thế gian, xây dựng nước Chúa, kiến tạo
một trời mới đất mới từ chính cái nguyên liệu là thế giới, là xã hội chúng ta
đang sống. Hay nói một cách khác đó là nhờ việc xây dựng xã hội này mỗi ngày
một tốt đẹp hơn, bằng những hành động bác ái yêu thương, nhờ đó chính bản thân
chúng ta sẽ đạt tới quê hương hạnh phúc nước trời.
8. Ngước
mắt nhìn trời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là
những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên
trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh
hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là
những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật
chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất
cập.
Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi
từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với
đất.
Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có
một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những
giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời
là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị
đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung
với thần thánh.
Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con
người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải
chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi.
Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh
phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.
Trời nâng cao địa vị con người. Có
trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn
lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con
Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng
được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển
vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng
đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy
đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ
phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh
phúc nước trời.
Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới
lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là
thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.
Hôm nay Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng
khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người.
Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời.
Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không
phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta
đạt tới nước trời.
Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian,
phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai
ta đến làm việc.
Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng
lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần
gian thành nước trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong
niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.
Gợi ý chia sẻ:
1) Tin có thiên đàng. Điều này có quan trọng đối với bạn?
2) Người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào đối với của cải vật
chất?
3) Khi ngắm thứ hai mùa mừng, đọc “Ta hãy xin cho được lòng ái
mộ những sự trên trời”, bạn nghĩ gì? Bạn phải sống làm sao để thực hiện lời cầu
nguyện này?
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và
ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi
nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn
một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò và con nào là con
trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thày có phải ánh
sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân
biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thày vẫn lắc đầu: Không
phải. Thấy không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất
hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và
nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có
ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng
như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ
sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy
thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy.
Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người
nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người
hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật.
Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ
chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ
người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn.
Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách.
Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại
không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin
phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc
lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây
đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy
chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế
ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không?
Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói
chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn.
Ông đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở
lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn.
Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm
tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các
nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có
ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn
ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh
sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc,
băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh
sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những
trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất
như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc
càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập dòng Nữ tử
Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên
132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó
có giải Nobel Hoà bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong
đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques
Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn độ, đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không
ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc táng. Hai mươi mốt phát
súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ
đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ,
Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ
Mẹ đã thắp lên ngọn đèn cởi mở tin yêu. Giữa đêm tối lạnh lẽo cô đơn. Mẹ đã
thắp lên một ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh
sáng ấy toả lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành
khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt.
Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác
ái, Mẹ đã chiếu toả ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo
Hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi
gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu
thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn
nhận nhau là anh em.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?
2- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?
3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người
chung quanh?
4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?
10. Có Chúa cùng hoạt
động.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Thứ hai thì ngắm Đức Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho
được ái mộ những sự trên trời."
Ái mộ những sự trên trời là một ơn ta phải xin, vì dưới đất có
nhiều điều làm ta ái mộ: một người, một vật hay một việc nào đó. Ái mộ quá có
thể dẫn đến tôn thờ và làm nô lệ.
Trái đất có vẻ đẹp riêng của nó, vẻ đẹp làm dịu lòng ta trong
hành trình cuộc đời. Tiếc thay nhiều lúc vẻ đẹp ấy giữ chân ta lại, không cho
ta bước nhanh tới đích. Lắm khi vẻ đẹp ấy kéo ghì ta xuống, không cho ta ngước
lên cao.
Có vẻ trời ở xa, xa như huyền thoại. Có vẻ chỉ trái đất là có
thật, gần gũi. Ta bị hút vào trái đất, đắm đuối mê say, quên mình chỉ là người
tạm trú trên mặt đất.
Chúa về trời, về với thế giới của Cha, điều đó nhắc ta nhớ đời
là một cuộc hành trình mà đích nằm ở phía bên kia.
Trời là đích xa nhưng chi phối những chọn lựa gần. Cần chọn
hướng đi, chọn phương tiện sao cho đạt đích.
Không có trời thì chẳng biết đi đâu!
Con người cần có một trung tâm nằm ngoài mình, thu hút mình,
nâng mình lên, kéo mình ra khỏi cái tầm thường, thực dụng.
Trời là trung tâm của đất. Đất cho con người sự sống. Trời cho
con người lẽ sống.
Nếu chỉ biết có đất, con người sẽ rơi vào tuyệt vọng, vì đất
chẳng thể thoả mãn con người. Nơi lòng mỗi người đều có một mảnh trời riêng.
Mảnh trời này cứ đòi gặp bầu trời cao rộng như gặp lại chốn cũ người xưa.
Thế giới luôn gặp nhiều bế tắc khó khăn vì người ta đứng ở trên
trái đất mà giải quyết.
Cần nhìn trái đất từ trời, để thấy những giải pháp tận căn, bao
quát, hiệu quả.
"Sao các ông cứ đứng nhìn trời?" (Cv 1,11)
Kitô hữu không chỉ khoanh tay ngước nhìn trời, vì sứ mạng rao
giảng Tin Mừng đang chờ đợi họ, vì trái đất còn bề bộn bao việc phải làm. Sống
tận tình cho trái đất mà vẫn ngước lên trời cao, điều đó thật là một thách đố
không nhỏ, nhưng lại là cốt lõi của đời sống Kitô hữu.
Thiên đàng không phải là bầu trời trên đầu ta. Nhưng bầu trời
cao vút, bao la, thăm thẳm, là một hình ảnh gợi mở về thiên đàng.
Bầu trời càng lúc càng bị che chắn bởi cao ốc. Hãy tìm những
giây phút để ngước mắt lên... Ngắm bầu trời có thể giúp ta biết sống trên mặt
đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi lần hạt Năm Sự Mừng, chúng ta xin được ơn "ái mộ những
sự trên trời". Theo ý bạn, những sự trên trời là gì? Yêu những sự trên
trời có khó không? Người Kitô hữu có bị giằng co giữa đất và trời không?
Lễ Chúa Thăng Thiên cũng là ngày Quốc Tế Truyền Thông. Ai cũng
thấy tác hại của phim ảnh, tivi và những phương tiện truyền thông khác. Theo
bạn, ta có thể dùng những phương tiện ấy để rao giảng Đức Kitô không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa
đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến
hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được
thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả
của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần
gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày
của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
11. Nơi
Chúa hẹn gặp ta.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Là con người sống trong không gian và thời gian, chúng ta thường
suy nghĩ và tưởng tượng theo chiều kích của không gian và thời gian. Vì thế,
khi Kinh Thánh nói “Chúa Giêsu lên trời” chúng ta cũng dễ hình dung Chúa Giêsu
như một “phi hành gia” hoặc như “người bay” tự động cất bổng mình lên trời, để
rồi không biết dừng lại ở hành tinh nào khi ra ngoài quỹ đạo của trái đất? Vậy
thì sau khi sống lại 40 ngày, Chúa Giêsu đi về phương trời nào? Các phi hành
gia đầu tiên vào vũ trụ cho biết họ chẳng thấy trời, cũng chẳng thấy Thiên
Chúa!
Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong một cuốn sách
cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trời đất gặp nhau. Họ quyết
định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ không trở về nhà
nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ rằng tại điểm
giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa
tỏ tường. Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy sinh. Cuối cùng thì họ
cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào cánh cửa
hẹn hò, cánh cửa mở ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của mình. Họ
chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con
người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của họ.
Chúa Giêsu “được rước lên trời”: đó là một lối nói
của Kinh Thánh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng
Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay trở về với Cha. “Không ai đã
lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã-từ-trời xuống” (Ga 3,13). Câu
chuyện Chúa lên trời được sách Công vụ Tông đồ kể lại ở bài đọc 1 hôm nay là
một kiểu nói bình dân để diễn tả một mầu nhiệm của Chúa Kitô Phục Sinh: ngay
sau khi được Phục Sinh, nhân tính của Chúa Giêsu đã được tôn vinh rồi, hay nói
cách khác, đã được vào trong vinh quang. Tuy vậy vinh quang này vẫn còn bị che
khuất. Chúa Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ dưới dáng dấp của một người bình
thường. Lần hiện ra cuối cùng của Chúa Giêsu đánh dấu một bước chuyển mới. Từ
này nhân tính của Ngài được đưa vào trong vinh quang Chúa Cha, được đặt ngồi
bên hữu Chúa Cha.
Lễ Chúa Thăng Thiên không phải là một cuộc chia ly, tiễn đưa
Chúa Giêsu vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan với Ngài. Chúa về
trời là để có thể ở lại với mọi thời, mọi nơi. Điều duy nhất mất đi là chúng ta
không còn có thể thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Nhưng
chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin. Chúa
Giêsu khẳng định: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
(Mt 28,20). Tin Mừng hôm nay cho thấy các tông đồ có cảm nghiệm rằng “Chúa đang
làm việc với họ và xác nhận lời họ rao giảng bằng những dấu lạ kèm theo” (Mc
16,20). Như thế sự vắng mặt hữu hình của Chúa Giêsu không cản trở việc Ngài
tiếp tục hiện diện và hoạt động bên họ. Kitô giáo sống còn chính là nhờ Chúa
Giêsu đang sống và hoạt động nhờ Thánh Thần của Ngài. Được tôn vinh trên trời
không phải là để làm sứ vụ giữa lòng thế giới. Ngài là Thượng Tế cầu bầu cho
chúng ta trên trời (Dt 7,25) và không ngừng thu hút, nâng dậy cả nhân loại (Ga
12, 32).
Mừng lễ Chúa Thăng Thiên là mừng ngày Đức Giêsu được tôn vinh.
Có một con người mang tên Giêsu nay được hưởng vinh quang và danh dự của Thiên
Chúa. Lễ Thăng Thiên thực hiện giấc mơ lớn nhất của con người. Tất cả chúng ta
đều hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa, bên Chúa Giêsu, người Anh
Trưởng. Trời là đích điểm của đời Kitô hữu. Nhưng trời đã bắt đầu rồi từ khi
chúng ta bước vào vũ trụ của Chúa Giêsu Kitô, qua đức tin và các bí tích. Nói
cho cùng, Kitô hữu chỉ có một cuộc đời. Chẳng có cuộc đời nào khác ngoài cuộc
đời hiện tại và sẽ gắn liền với ta mãi mãi. Trời không khiến ta tránh né bổn
phận ở trần gian. Trời không phải là nơi đến của một người chỉ biết chăm lo cho
ơn cứu độ của mình một cách ích kỷ. Trời cũng không chỉ là phần thưởng cho con
người, là sự “bù lỗ” cho những khốn khổ ở đời, là cớ khiến chúng ta tránh né
việc xây dựng trái đất hay phá đổ bất công.
Sứ thần của Chúa hôm nay đã quở trách các môn đệ: “Hỡi người
Galilê! Sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời?”. Các môn đệ đã hiểu ý. Các ông đã trở
về với nhiệm vụ của mình, hoàn thành công việc dang dở của Chúa ở trần gian,
làm chứng về tất cả những gì các ông đã được nghe, được thấy. “Các ông đã
ra đi khắp nơi, rao giảng Tin Mừng cho mọi người; có Chúa cùng hoạt động với
các ông, củng cố lời rao giảng bằng các phép lạ kèm theo” (Mc 16,20).
Rõ ràng, Chúa lên trời không làm cho các môn đệ lên trời, không
làm cho các môn đệ tê liệt, không giải nghệ các ông, mà còn thúc giục các ông
lập tức bắt tay vào việc xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian này và bảo đảm cho
các ông thành công. Cũng vậy, đối với chúng ta ngày nay, Chúa lên trời nhắc
chúng ta nhớ rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời… Anh em hãy tìm kiếm những
sự trên trời” (Pl 3,20; Cl 3,1). Nói thế không có nghĩa là chúng ta phải “xuất
thế”, phải xa lánh trần gian. Trái lại, cần phải nổ lực dấn thân “vào đời”,
“nhập cuộc”. Có Chúa cùng hoạt động với chúng ta để “mở một tuyến đường lên
trời từ mặt đất này” bằng những công việc xây dựng Nước Trời ngày này qua ngày
khác; loại trừ những khổ đau, tội lỗi, tạo cho mọi người được sống ấm no, hiệp
nhất, yêu thương nhau, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người. Đó
là con đường lên trời của chúng ta.
Vui sướng biết bao: “Chúa vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến
tận thế”. Ngài không bao giời rời bỏ chúng ta. Thật là ích lợi cho chúng ta khi
Ngài khuất mắt chúng ta về phương diện thể lý để chúng ta khi gặp Ngài hiện
diện ở khắp mọi nơi mọi lúc: trong kinh nguyện và hoạt động, trong bí tích và
trong anh chị em. Đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, Chúa đến ở trong chúng ta,
ban nguồn sinh lực giúp chúng ta hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nước Trời ở trần
gian này, để một khi Nước Trời được hoàn thành Ngài sẽ trở lại trong vinh quang
đón chúng ta lên trời về với Chúa Cha.
12. Thiên đàng.
Hôm nay mừng kính Chúa về trời, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về
nước trời, về thiên đàng, về quê hương vĩnh cửu của chúng ta.
Những kẻ không có một niềm tin thì cho rằng chết là hết. Nhưng
với chúng ta thì khác, cái chết chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới tốt
đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Cái chết chính là khung cửa hẹp dẫn chúng ta vào quê
hương nước trời. Ý tưởng về nước trời, về thiên đàng vốn được Kinh Thánh nói
tới nhiều lần.
Trong Cựu ước, ông Gióp một con người khổ đau đã kêu lên: Tôi
biết rằng Đấng cứu chuộc tôi hằng sống và trong ngày sau hết, tôi sẽ từ bụi đất
sống lại và tôi sẽ nhìn thấy Thiên Chúa.
Vua thánh Đavid thì xác quyết: Sống công chính tôi được nhìn
thấy Chúa. Thức giấc rồi, tôi no thỏa thánh nhan.
Sách Khôn Ngoan đã diễn tả: Bấy giờ người công chính sẽ chiếu
sáng như những vì sao.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ cho chúng ta hãy tích
lũy cho mình những kho tàng ở trên trời, ở đó sẽ chẳng có mối mọt và trộm cắp:
Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước trời, còn mọi sự khác sẽ được ban thêm cho
các con.
Nhất là trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã yên ủi những
người bị đau khổ, bị bắt bớ bằng niềm hy vọng nước trời: các con hãy mừng rỡ
hân hoan vì phần thưởng của các con sẽ to lớn ở trên trời.
Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ phán với những người lành: Hỡi
những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần thưởng nước trời đã được sắm
sẵn cho các ngươi từ thuở tạo dựng thế gian.
Thánh Phaolô cũng nói: hiện nay chúng ta như đang nhìn vào
gương, nhưng bấy giờ, chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa mặt đối mặt.
Vậy thì nước trời hay niềm hạnh phúc thiên đàng là gì? Tôi xin
thưa: đó là sự chiếm hữu Thiên Chúa như thánh Phaolô đã nói: Tai chưa hề nghe,
mắt chưa hề thấy và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa
dành cho những kẻ yêu mến Ngài. Tất cả những khổ đau trong cuộc sống hiện tại
sẽ chẳng là gì cả, nếu đem so với hạnh phúc nước trời. Đó là nơi vinh quang, đó
là nơi ánh sáng, đó là nơi ân thưởng cho những người đã trung thành phụng sự
Chúa.
Tuy nhiên, niềm hạnh phúc tuyệt vời ấy không phải như là một món
ăn quý giá đã nấu chín và chúng ta chỉ việc dùng mà thôi. Trái lại, chúng ta
phải cố gắng, phải chiến đấu thì mới đạt tới.
Chúa Giêsu đã nói: chỉ những kẻ khỏe mạnh can trường mới chiếm
được nước trời.
Thánh Phaolô đã diễn tả: Như các lực sĩ nơi thao trường, phải cố
gắng giao đấu và phải giao đấu theo đúng những qui luật thì mới đạt được tấm
huy chương vàng.
Có một em nhỏ bị đau nặng. Biết mình sắp chết, em nói với người
mẹ: má ơi, khi con chết đi, thì má hãy mặc cho con bộ quần áo đẹp nhất nhé…
Ngày rước lễ lần đầu, con đã mặc quần áo đẹp, thì ngày con về trời, con còn
phải mặc đẹp hơn thế nữa.
Hãy ra sức xa tránh tội lỗi, để khi xuất hiện trước ngai tòa
Chúa, tâm hồn chúng ta trong trắng như tấm áo ngày rửa tội, nhờ đó mà chúng ta
sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời.
13. Ra đi.
Các sân bay là những nơi có nhiều niềm vui cũng như nước mắt. Có
những người ngẩng đầu lên để nhìn thoáng qua lần đầu người thân của mình đang
đến. Trong khi đó, lại có những người khác với đôi mắt nhòe lệ nhìn lần cuối
một người thân ra đi. Ngày lễ hôm nay tưởng niệm việc Chúa Kitô lên trời, nhưng
thực chất không phải là một cuộc ra đi. Dĩ nhiên, Chúa Kitô không còn được nhìn
thấy bằng mắt thường nữa. Thánh Luca viết: “Chúa Giêsu được cất lên ngay trước
mắt các ông và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người
nữa”.
Lễ Chúa Giêsu lên trời không phải là câu chuyện Chúa ra đi.
Ngược lại là đàng khác! Người vẫn tiếp tục hiện diện, nhưng theo một cách mầu
nhiệm. Người tiếp tục hoạt động trong thế giới này qua các môn đệ. Và vì thế,
chúng ta có thể nói hôm nay là ngày cử hành đại lễ của một kết thúc và cũng là
của một khởi đầu. Việc hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu trên trái đất này đã
kết thúc. Bây giờ khởi đầu một triều đại mới mà Người là Vua trên các vua. Vì
thế, việc cử hành thánh lễ hôm nay không phải là việc tưởng nhớ một người vắng
mặt, nhưng là một cử hành tràn đầy niềm vui cùng với Chúa Kitô đang hiện diện
giữa chúng ta.
Thiên thần đã nói với các môn đệ đừng đăm đăm nhìn lên trời nữa.
Ngài chỉ cho các ông nơi mà Chúa Giêsu đang cần các ông, đó là ra đi loan báo
Tin Mừng cho mọi người. Sứ vụ này vẫn tiếp tục, và đó là sứ vụ của chính chúng
ta. Một Kitô hữu đích thực không phải là người cứ nhìn lên trời, chờ Chúa Kitô
xuất hiện trên đám mây. Nhưng một Kitô hữu đích thực là người đầy lòng nhiệt
thành mang Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Thế giới ngày nay đang khao
khát Tin Mừng của Chúa. Qua chúng ta, Chúa Giêsu muốn đem niềm vui và sự bình
an vào trong một thế giới đầy những tai ương, chiến tranh và bất công. Qua
chúng ta, Chúa Giêsu muốn đem sự hiểu biết, tình yêu và sự cảm thông vào trong
một thế giới đầy tranh chấp, cãi cọ và thù hận. Qua chúng ta, Chúa Giêsu muốn
biến đổi thế giới này trở nên một nơi chốn tốt lành hơn. Ngày hôm nay, chúng ta
cần thức tỉnh về nhiệm vụ của mình. Chúng ta cần nhìn vào thế giới này với
những vấn đề rắc rối của nó, và chúng ta hãy thực hiện việc các tông đồ đã làm
sau khi Chúa lên trời đó là chia sẻ Chúa Kitô Cho mọi người.
Lạy Chúa, con tin Chúa vẫn tiếp tục hiện diện trong thế giới
này. Xin Chúa ban tràn đầy Thần Khí Chúa xuống trên con để con có thể thi hành
nhiệm vụ loan báo Tin Mừng mà Chúa đã ủy thác cho con.
14. Lên trời.
Có những cuốn sách khi khép lại chính là lúc mở ra: mở ra cho
suy tư, mở ra cho trách nhiệm, mở ra cho hành động. Sách Tin Mừng là cuốn sách
như thế, theo ý nghĩa trọn vẹn nhất. Nếu Tin Mừng khép lại cuộc đời Chúa Giêsu
thì đồng thời lại mở ra cho một trang sử mới. Nếu biến cố Thăng Thiên khép lại
cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu, thì đồng thời lại mở ra cho một mệnh lệnh mới
phải được thực thi, một trách nhiệm mới phải được hoàn thành, một hiện diện mới
phải được đón nhận. Chính trong sự đan kết đó mà phụng vụ lời Chúa hôm nay vừa
mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm Thăng Thiên, lại vừa đòi hỏi chúng ta đào
sâu trách nhiệm tông đồ, trách nhiệm truyền giáo, trách nhiệm rao giảng Tin
Mừng trong đời người Kitô hữu.
Trước hết, về mầu nhiệm Thăng Thiên, tức là mầu
nhiệm Chúa Giêsu lên trời. Trong bốn sách Tin Mừng, chỉ có hai sách nói đến
việc Chúa Giêsu lên trời, đó là Tin Mừng Marcô và Luca. Thánh Marcô nói rất vắn
tắt, chỉ nói Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, chứ không nói rõ
Chúa lên trời ở đâu và sau khi sống lại được bao lâu. Còn thánh Luca, đọc Tin
Mừng của ngài, chúng ta có cảm tưởng Chúa Giêsu lên trời ngay ngày Chúa sống
lại và ở gần Bêtania. Nhưng theo sách Công vụ Tông đồ, cũng của thánh Luca, thì
Chúa lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và chỗ Chúa lên trời là núi Cây
Dầu.
Chúa Giêsu lên trời là một điều chắc chắn. Đây là một mầu nhiệm,
một tín điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Ngày thứ ba, Người sống
lại như lời Thánh Kinh, Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha”. Vậy ý nghĩa
của mầu nhiệm này thế nào? Việc Chúa lên trời là một sự kiện tất yếu của quá
trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài, nghĩa là Ngài là Con Thiên Chúa, từ trời
xuống trần gian để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha, Ngài đã giảng
dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống, nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài
đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, được đặt bên hữu Thiên Chúa và ban cho quyền
xét xử vũ trụ.
Chúa lên trời là một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho
chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được về
trời, sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha để cùng với Ngài hưởng
hạnh phúc vinh quang muôn đời. Tuy nhiên, để đạt được nước trời đòi hỏi chúng
ta phải trả giá, cũng như không có thành công nào hay hạnh phúc nào ở đời này
mà lại đạt được quá dễ dàng, thì hạnh phúc nước trời thì lại càng khó hơn biết
bao, đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và cố gắng về mọi phương diện. Những ngày
sống lữ thứ trần gian là để đi vào nước trời, chúng ta phải cố công đi cho tới
đích, không bao giờ được bỏ cuộc, không rẽ ngang, không đi lui, phải đi tới
mãi. Đường vào nước trời thiên nan vạn nan chứ không phải dễ dàng ra vào như đi
chợ hay đi bát phố. Kinh Thánh nói: Người ta phải dùng sức mạnh sấn sả mà đi
vào; qua con đường hẹp, phải ra đi trong nức nở mới trở về trong hân hoan. Cũng
thế, ai cũng biết bài học:nước chảy đá mòn”, “kiến tha lâu đầy tổ”, “có công
mài sắt, có ngày nên kim”, “có khó mới có miếng ăn”, thì trên phạm vi siêu
nhiên cũng vậy, Chúa dạy: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”, vì nước trời
đòi hỏi rất nhiều cố gắng, rất nhiều công lao khó nhọc.
Nhưng làm sao người ta có thể biết Chúa, tin theo Chúa, sống
theo những lời Chúa giảng dạy để rồi cũng được về với Chúa? Chính vì thắc mắc
đó mà trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ của Ngài. Ngài
đã sai các ông ra đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho các ông nhiều quyền
năng để rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chính nhờ các
tông đồ đầu tiên ấy, rồi các tông đồ khác, lại các tông đồ khác nữa kế tiếp
nhau trung thành thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng ấy mà người ta biết Chúa,
tin theo Chúa, được cứu rỗi và rồi sẽ được về trời.
Nói khác đi, Chúa Giêsu đã dùng Giáo hội như đôi tay để
tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Ngài, nghĩa là Giáo hội như một nối
dài của Chúa Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã giảng dạy,
đã làm nhiều điều tốt đẹp. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài
được tiếp tục qua Giáo hội. Sứ mạng của Chúa Giêsu là một sứ mạng thiêng liêng,
nhưng sứ mạng đó cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài.
Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mạng đó cho Giáo hội, Chúa
muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ
thể. Chính nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo hội mà Chúa
Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về
hạnh phúc vĩnh cửu.
Là chi thể của Giáo hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi Kitô
hữu là cánh tay rộng mở của Chúa, nhờ đó Ngài không ngừng giãi tỏa ánh sáng,
trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Để được như thế,
cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt: hãy sống tốt với mọi người trong gia
đình, với xóm ngõ, với bạn bè, trong nơi làm việc và với những người chung
quanh, bất kỳ lương hay giáo. Sống tốt có nghĩa là sống cởi mở, sống hòa đồng,
sống vui tươi, sống bác ái, sống chan hòa tình yêu thương với mọi người.
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời nhắc nhở chúng ta: Chúa đã lên
trời, chúng ta cũng sẽ về trời, đó là cùng đích của hạnh phúc đời người. Vì
thế, chúng ta hãy sống cho thật tốt, thật tròn đầy những bổn phận hằng ngày để
đạt được hạnh phúc ấy. Đồng thời ngày lễ hôm nay cũng mời gọi chúng ta hãy ra
đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới
thiệu Chúa cho anh em bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta.
15. Cùng lên trời
với Chúa – Lm Nguyễn Nguyên
Nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng
còn ý nghĩa gì. Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn
trong bể khổ và chết là hết kiếp người. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải
tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi
đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống
nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra
sao?
Hôm nay, chúng ta cùng với giáo hội mừng lễ Chúa lên trời. Điều
đó dạy cho chúng ta biết rằng ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài
cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có
những giá trị khác. Chúa lên trời để cho chúng ta thấy rằng: Định mệnh của loài
người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Số phận của
con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để
con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau
khổ vất vả trần gian, nhưng để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng.
Đó mới là cùng đích của đời người, đó mới là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.
Thế nhưng, muốn tới được trời, muốn lên thiên đàng thì trước hết
chúng ta phải đi hết con đường dương thế này bằng cách chu toàn những nhiệm vụ
của mình ở đời này. Một trong những nhiệm vụ chính yếu chúng ta vừa nghe trong
tin mừng hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho
mọi loài thụ tạo”. Đây là một nhiệm vụ cao cả mà Chúa đã trao cho chúng ta khi
Ngài về trời. Chúa về trời, Ngài không còn xác thịt trên thế gian này nữa. Ngài
không còn đôi tay nữa, chỉ có đôi tay của chúng ta, để làm công việc ngày hôm
nay của Ngài. Ngài không còn đôi chân, chỉ có đôi chân của chúng ta để dẫn
người ta theo đường lối của Ngài. Ngài không còn tiếng nói, chỉ có tiếng nói
của chúng ta để nói với loài người rằng Ngài đã yêu thương, đã chịu chết như
thế nào. Ngài không còn cách giúp đỡ nào khác ngoài sự giúp đỡ của chúng ta để
đưa tha nhân đến bên cạnh Ngài.
Vì thế, một cuộc đời loan báo tin mừng cho Chúa trên cõi trần
này không nhất thiết phải đổ máu nhưng thiết yếu là phải thể hiện bằng những
nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm, là biết thực hành những lời Chúa
dạy, không gian dối, lừa đảo, không tham lam bất chính, luôn chung thuỷ trong
đời sống gia đình. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất thiết phải có một
bản án để người ta thoá mạ, tẩy chay, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng
của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong
cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất
thiết phải đi đây đi đó rao giảng những lời hay ý đẹp mà là sống trong cùng một
khu xóm, nhưng quý ông không nhậu nhẹt say sưa, không cờ bạc, không la vợ, đánh
con, nhưng biết chăm sóc gia đình chu đáo, đồng thời còn dành thời giờ để đến
an ủi, giúp đỡ, chia sẻ với những người già yếu bệnh tật, cô đơn ; còn quý bà
thì không ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, nhưng biết lo lắng tần tảo, yêu
thương chồng con, vui vẻ với làng xóm; và các bạn trẻ trong giáo xứ thì sống
lành mạnh, biết kính trên nhường dưới, không đua đòi, không ăn nói tục tằn,
nhưng chăm chỉ nhiệt thành với công việc chung… Sống được như vậy là chúng ta
đang làm chứng cho Chúa một cách tuyệt vời nhất, sống được như vậy là chúng ta
đang xây nên con đường dẫn về Trời cho mình, đang làm cho gia đình chúng ta,
giáo xứ chúng ta thành nơi Chúa hiện diện và biến đổi thế giới này thành thiên
đàng.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta sống cho thật tốt, thật tròn đầy
những bổn phận hằng ngày để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần
gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa mà hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.
16. Sứ
mạng người Kitô hữu.
Tin Mừng thuật lại hai điều: sự kiện Chúa Giêsu lên trời và lệnh
truyền rao giảng Tin Mừng. Trước hết, sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng
thánh Marcô ghi lại rất vắn tắt: chỉ nói Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên
Chúa, chứ không nói rõ Chúa lên trời ở đâu và sau khi Chúa sống lại bao lâu.
Theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày,
và nơi lên trời là núi Cây dầu, Vậy Chúa Giêsu lên trời chính xác là khi nào?
Có thể trả lời tóm tắt và rõ ràng như sau: Chúa lên trời ngay ngày
phục sinh, tức là sau khi sống lại, Chúa lên trời ngay. Và sau đó Chúa đã hiện
ra với các tông đồ nhiều lần để củng cố lòng tin của họ, trong một khoảng thời
gian mà sách Công vụ Tông đồ xác định là 40 ngày. Sau cùng, Ngài cho các môn đệ
biết Ngài chấm dứt việc hiện ra bằng sự công khai về trời. Như vậy, mầu nhiệm
lên trời mời gọi chúng ta nhìn nhận hai khía cạnh liên hệ nhưng riêng biệt
nhau: một bên là Đức Kitô được vinh quang lên trời ngay lúc Ngài sống lại. Điều
này giác quan các tông đồ không thể cảm nghiệm được mà chỉ có nhận thức bằng
đức tin. Và một bên là Đức Kitô ra đi sau một thời gian hiện ra nhiều lần. Đó
là cuộc ra đi trở về với Chúa Cha mà các tông đồ được chứng kiến trên núi Cây
Dầu.
Chúa Giêsu lên trời là điều chắc chắn. Nhưng ý nghĩa thế nào?
Việc Chúa lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc
của Ngài, như chu trình phát triển của một hạt lúa: phải tự mục nát trong đất
mới đâm mầm và tăng trưởng dần cho đến thời kỳ trổ bông, sinh hạt. Chúa Giêsu,
sau thời gian đi gieo lời hằng sống, thiết lập và xây dựng một nền móng đạo đức
đặt căn bản trên tình thương, công bằng trong xã hội Do thái thời đó, mảnh đất
thí điểm và khởi điểm… Ngài đã chịu chết, sống lại và vinh hiển về trời. Nói
khác đi, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống trần gian để thực hiện
chương trình cứu chuộc của Chúa Cha. Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả
mạng sống. Nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn
vinh, được đặt bên hữu Thiên Chúa và ban cho quyền xét xử vũ trụ. Đây cũng là
một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin
theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được về trời, chúng ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào
trong nhà Cha cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời.
Nhưng làm sao người ta có thể biết Chúa, tin theo Chúa để rồi
cũng được về trời với Chúa? Chính vì thắc mắc đó mà trước khi về trời, Chúa
Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ của Ngài. Ngài đã sai họ ra đi trên vạn nẻo
đường thế giới, ban cho họ nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu
rỗi đến cho mọi người. Chính nhờ các tông đồ đầu tiên ấy, rồi các tông đồ khác,
lại các tông đồ khác nữa kế tiếp nhau trung thành thi hành sứ mạng rao giảng
Tin Mừng ấy mà người ta biết Chúa, tin Chúa, được cứu rỗi và rồi sẽ được về
trời.
Nói khác đi, Chúa Giêsu đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục
công cuộc cứu rỗi của Ngài, nghĩa là Giáo Hội như một nối dài của Chúa Giêsu.
Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã nói, đã làm nhiều điều tốt đẹp.
Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài được tiếp tục qua Giáo Hội.
Sứ mệnh của Chúa Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó cần phải
được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng
ngạc nhiên khi trao phó sứ mệnh đó cho Giáo Hội, Chúa Giêsu muốn nó được thực
thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh
hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền
chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi Kitô
hữu cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Ngài không ngừng giải
tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Để
được như thế, cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt. Hãy sống tốt với gia
đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với những người chung quanh, bất cứ lương
hay giáo. Sống tốt cũng có nghĩa là sống bác ái, sống chan hòa tình yêu thương
với mọi người.
Người có lòng bác ái, yêu thương giống như một bông hoa đẹp.
Bông hoa không nói gì cả, bông hoa không tuyên xưng gì cả, nhưng vì nó là một
bông hoa đẹp, tuy không nói, nhưng người ta cũng thấy được cái đẹp của nó, cái
hương thơm của nó. Mỗi người Công giáo, mỗi giáo xứ, hãy là những đóa hoa,
những bó hoa tươi, đẹp, thơm, do tinh thần bác ái cởi mở chan hòa. Và nếu được
như vậy, đạo chúng ta sẽ mở ra, và đức tin ấy mới là đức tin truyền giáo thực
sự.
Xin hãy nhớ: Chúa Giêsu về trời sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ ở
trần gian. Chúng ta cũng vậy, bao lâu sống ở trần gian, chúng ta cũng phải nỗ
lực hoàn tất nhiệm vụ Chúa đã trao phó và tích cực đóng góp vào sự mưu ích cho
đồng loại, cho gia đình, xóm đạo, quê hương, Giáo Hội theo tinh thần phục vụ và
bác ái của Tin Mừng.
17. Làm chứng.
Trước khi xa rời các tông đồ, Đức Giêsu đã ủy thác cho họ việc
rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Người còn hứa gửi Chúa Thánh Thần đến với
họ, để giúp đỡ họ thực hiện được sứ vụ đó.
Ngày nay, công việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới tùy
thuộc vào chúng ta. Đây là một đặc ân vĩ đại, nhưng cũng là một công việc dễ
làm nản lòng. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tin tưởng vào sự trợ giúp của
Chúa Thánh Thần. Cách thế tốt nhất để rao giảng Tin Mừng chính là bằng cách
sống đời sống Kitô hữu. Một câu hỏi mà mỗi người chúng ta đều có thể tự hỏi là:
Nếu trở thành người Kitô hữu là một tội ác, và tôi bị thử thách, thì liệu có
thể tìm ra đủ chứng cứ trong cuộc sống của tôi, để làm cho tôi nhận thấy rõ sự
sai lầm không?
Christopher là một Kitô hữu ngoan đạo. Anh không bao giờ bỏ lễ
ngày Chúa nhật. Anh sống cùng với gia đình trong một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi,
tại một khu vực hiện đại của thành phố. Với sức khỏe tốt, một công việc an
toàn, có thu nhập cao, anh cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện.
Tuy nhiên, có một điều làm cho anh bận tâm, liên quan đến người
hàng xóm bên cạnh nhà anh. Đó là một người tự nhận mình là vô thần, và không
bao giờ đến nhà thờ. Với tư cách là Kitô hữu, Christopher cảm thấy rằng anh có
trách nhiệm trong việc cố gắng cải tạo người hàng xóm đó. Nhưng anh phải làm
việc này như thế nào đây? Trong nhiều dịp nói chuyện với người đó, anh đã đưa
đề tài tôn giáo ra một cách hết sức tích cực có thể được. Than ôi, anh chẳng đi
đến đâu cả.
Thế rồi một ngày kia, anh nảy ra một sáng kiến. Nếu anh chỉ làm
sao cho người hàng xóm đó đọc được Tin Mừng, thì chắc chắn là anh thành công
rồi. Ai có thể không được Tin Mừng lay chuyển? Vấn đề duy nhất là làm thế nào
để gửi cho anh ta bản sao của sách Tin Mừng. Anh có thể gõ cửa nhà anh ta, và
đưa tận tay cuốn sách đó. Nhưng chắc hẳn điều đó sẽ gây khó chịu cho anh ta.
Anh phải tìm một cách nào tế nhị hơn. Vậy anh nên làm gì đây? Anh gửi cho anh
ta một cuốn bản sao của sách Tin Mừng, mà không để tên người gửi.
Sau khi làm công việc này, anh chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Nhiều
ngày trôi qua, không có gì xảy ra cả. Không hề có một dấu hiệu nhỏ nhoi nào
chứng tỏ rằng người hàng xóm đó đã đọc được ánh sáng Tin Mừng. Hai tuần sau, vợ
của Christopher có dịp sang thăm nhà bên cạnh. Khi trở về, chị nói với chồng
“Anh có biết gì về cuốn bản sao của sách Tin Mừng, mà anh đã gửi cho anh ta
không?”
“Sao thế?”
“Cuốn sách đó nằm trong thùng rác rồi!”.
Christopher phẫn nộ. Quẳng sách Tin Mừng vào thùng rác là một
việc không phải chút nào. Anh đi sang nhà bên cạnh, và khi đi ngang qua thùng
rác, anh đã nhặt cuốn sách đó lên.
Anh nói với người hàng xóm “Tôi hy vọng rằng tôi không xâm phạm
gì đến anh. Nhưng tôi nhìn thấy cuốn sách này trong thùng rác của anh. Anh biết
không, nếu anh chỉ đọc cuốn sách này thôi, thì anh có thể tìm thấy Thiên Chúa”.
Người kia trả lời một cách đáng ngạc nhiên: “Nhưng tôi đã đọc
cuốn sách đó rồi. Mỗi ngày tôi đều đọc đấy chứ”.
Christopher nói: “Tôi không hiểu gì cả”.
“Anh là một người tín hữu phải không?”
“Đúng vậy. Mà tại sao anh lại hỏi tôi như thế?”
“À, trong suốt 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của
anh”.
Câu chuyện kết thúc ở đây.
Có một bài viết ngắn về điều này:
“Tôi là cuốn sách Kinh Thánh đối với người hàng xóm của tôi;
người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.
Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta
đọc tôi trên đường phố.
Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là
một người quen biết sơ giao mà thôi.
Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn
đang đọc Kinh Thánh qua cuộc đời của tôi”.
18. Kêu gọi.
Lần kia, một nhà lãnh đạo tinh thần gọi sáu môn đệ của ông lại,
và nói “Anh em hãy ra đi và kêu gọi các môn đệ”. Cả sáu người đó liền ra đi
ngay tức khắc. Thời gian trôi qua, từng người một đều trở về.
Người thứ nhất trở về cùng với 500 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh xoay xở cách nào mà có được quá nhiều môn
đệ vậy?”
Người môn đệ kia thưa “Con đã đi đến giữa những khu vực có nhiều
người nghèo khổ hơn. Ở đó, con nhận thấy có những người đau khổ, nghèo nàn và
nhiều thèm muốn. Con hứa với họ rằng chúng ta sẽ chăm sóc tất cả các nhu cầu
của họ”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ hai trở về với 400 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”
Người đó trả lời “Con nói với họ về nước trời và phần thưởng lớn
lao đang chờ đợi ở đó, dành cho những ai đi theo đường lối của chúng ta”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ ba trở về với 300 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”
Người đó trả lời “Con không hề thuyết phục gì cả. Con chỉ nói
với họ rằng họ sẽ bị sa hỏa ngục, trừ phi họ đi theo đường lối của chúng ta.
Nhưng điều này vẫn chưa hoàn toàn thuyết phục được họ, cho đến khi con làm một
phép lạ. Con nguyền rủa một con chó điên, và nó chết lăn ra. Phép lạ này đã
chinh phục họ”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ tư trở về với 200 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”
Người đó trả lời “Con quyết định đi đến giữa những kẻ vô giáo
dục và có cuộc sống giản dị. Con đã thuyết phục họ bằng những lý lẽ. Con làm
cho họ bị mờ mắt bằng kiến thức của mình”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ năm trở về với 100 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”
Người đó trả lời “Con đến với giới trẻ. Con nói với họ về đường
lối của chúng ta. Thế rồi con điều khiển họ một cách đơn giản, và kết quả là
đây. Họ đang đứng chung quanh, chờ đợi người lãnh đạo. Nếu con không đến với
họ, thì có một số vị cứu tinh khác sẽ đến chinh phục họ và khai thác họ”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Cuối cùng, người thứ sáu trở về, chỉ với 12 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Điều gì đã giữ chân anh lại lâu như vậy?”
Người đó đáp “Con không có khả năng gieo hạt giống ngay tức khắc được. Không
thể nào gieo giống vào giữa mùa đông. Phải đợi cho đến khi tuyết tan và mặt đất
trở nên mềm mại. Vì thế, con cứ chờ đợi. Trong khi chờ đợi, con kết bạn với họ,
con cố gắng đưa ra cho họ một ví dụ về đường lối của chúng ta, bằng lối sống mà
con đã sống. “Trong khi đang chia sẻ cuộc sống của họ, con phát hiện ra rằng tự
do rất quan trọng. Khi tước đoạt tự do khỏi họ, sẽ làm xói mòn nhân phẩm của
họ, và làm giảm rất nhiều giá trị nơi quyết định của họ, trong việc họ đồng ý
đi theo chúng ta. Con cũng học hỏi được một số điều khác về họ. Con được biết
rằng họ là những người rất quảng đại và không ngại hy sinh. Con nói với họ về
cái giá của việc trở thành người môn đệ, nhưng con nhấn mạnh vào điều tốt đẹp
mà với tư cách là môn đệ, họ có thể làm cho người khác và cho Thiên Chúa. Dường
như điều này gây ấn tượng nơi họ. Tuy nhiên, đến lúc phải quyết định, thì chỉ
có 12 người đồng ý đến với con mà thôi”.
Nhà lãnh đạo đã khen người môn đệ cuối cùng.
Năm người đầu tiên khơi gợi sự yếu đuối và sợ hãi của con người.
Thật dễ dàng trong việc khai thác nỗi sợ hãi của con người và lôi kéo họ. Nhưng
điều này can thiệp vào sự tự do của họ, và vì thế, hủy hoại sự bằng lòng theo
Chúa nơi họ. Người thứ sáu khơi gợi sức mạnh của họ. Anh kết bạn với họ, và cố
gắng chinh phục họ bằng ví dụ.
Đó là điều mà đạo Công giáo thực hiện. Đây là một phương pháp
chậm chạp hơn và khó khăn hơn, nhưng cuối cùng những người nào cải tạo sẽ được
bén rễ sâu xa hơn. và sẽ được ủy thác nhiều hơn trong việc đi theo đường lối
mới.
19. Tầm
nhìn.
Người ta trình bày Đức Giêsu từ đỉnh núi Ô-Liu mà lên trời. Ngọn
núi là một nơi chốn của tầm nhìn. Trên đỉnh núi, bằng cách này hay bằng cách
khác, chúng ta cảm thấy gần gũi hơn với Thiên Chúa. Thật vậy, chúng ta cảm thấy
mình đang ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Người ta kể một câu chuyện về người đàn ông đã sống trọn cuộc
sống của mình trong khu rừng thưa. Khoảng rừng thưa đó chỉ rộng độ 100 mét Anh,
và được bao bọc bằng nhiều cây cối. Thế giới của người đàn ông đó cực kỳ khép
kín. Ông có rất ít khái niệm về không gian hoặc khoảng cách. Trong một thế giới
như vậy, ngay cả những đối tượng tương đối nhỏ bé, vẫn có vẻ rộng lớn hơn cả
cuộc sống, bởi vì sự gần gũi của con người đối với chúng.
Ngày kia, có một người khai thác rừng đưa người đàn ông đó ra
khỏi khu rừng, và dẫn ông ta đi lên đỉnh núi. Người đó có thể quan sát hết tất
cả khoảng không gian rộng mở tồn tại bên ngoài khu rừng, sự mênh mông của bầu
trời, và sự rộng lớn của đường chân trời. Ông ta kinh ngạc khi phát hiện ra có
một thế giới tồn tại ở một nơi không hề có cây cối và có rất ít thực vật như
vậy. Ông ta giống như một đứa trẻ lúc đang được phấn khích vậy. Ông quá đỗi vui
mừng, đến nỗi chỉ mong muốn được ở lại đó mà thôi.
Nhưng tất nhiên là ông ta phải trở về với cái thế giới nhỏ bé,
khép kín, chật hẹp của mình. Tuy nhiên, không bao giờ ông quên được cuộc thăm
viếng của mình tại đỉnh núi. Điều này để lại cho ông một hiệu quả tuyệt vời,
giúp cho ông có được một tầm nhìn rộng rãi hơn về cuộc sống, đặc biệt khi các
sự việc trở nên quá nhiều đối với ông, và thế giới đang khép lại trên ông ta.
Khi đến lúc sắp rời khỏi thế gian này, thì Đức Giêsu dẫn các
tông đồ lên đỉnh núi Ô-liu. Người đang trở lại với Cha của Người. Người đang đi
đến vinh quang. Trong khi lên trời, Người ngước mắt lên, hướng về nơi mà Người
đang đi tới.
Nhưng Người cũng hướng cặp mắt của Người ra bên ngoài. Người chỉ
cho các tông đồ rằng có một thế giới vĩ đại đang chờ đợi được lắng nghe Tin
Mừng. Người giao phó cho họ công việc đem Tin Mừng đến với thế giới rộng lớn
đó, và hứa gửi Chúa Thánh Thần đến hỗ trợ cho họ trong công việc này.
Các tông đồ quá thích thú phong cảnh trên núi, đến nỗi họ chỉ
muốn được ở lại đó. Nhưng có một giọng nói kêu gọi họ trở về với thực tại “Hỡi
người Galilê, tại sao các ngươi còn đứng đây nhìn lên trời?”. Mặc dù phải trở
lại với thế giới thật, thì cuộc sống của họ sẽ không bao giờ như cũ nữa.
Ngày lễ này nói nhiều về Đức Giêsu. Sự lên trời của Người chứng
tỏ cho chúng ta thấy được mục đích của cuộc hành trình dương thế của chúng ta ở
đâu. Đây là một mục đích mà một số phận, thậm chí lại còn thách đố cả óc tưởng
tượng của chúng ta nữa. Điều này đem đến cho chúng ta một tầm nhìn mới mẻ và
rộng rãi hơn, thúc đẩy những chân trời của chúng ta vượt ra ngoài các biên giới
của thế giới này, mang lại một chiều kích vĩnh cửu cho cuộc sống của chúng ta.
Đức Giêsu trở lại với nguồn gốc, Alpha và Omêga. Đây là ý nghĩa
Sự Lên Trời của Người. Đây không phải là một cuộc hành trình đi vào không gian,
mà là một cuộc hành trình trở về nhà Cha. Sự lên trời của Người không nói lên
việc Người rời khỏi mặt đất, nhưng lại chứng tỏ sự hiện diện liên lỉ của Người
ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này. Trong suốt sứ vụ tại thế của Đức Giêsu,
trong một thời điểm, Người chỉ có thể ở tại một nơi mà thôi. Nhưng bây giờ, do
đã được kết hợp với Thiên Chúa, Người có thể hiện diện tại bất cứ nơi đâu có
Thiên Chúa hiện diện, nghĩa là ở tất cả mọi nơi.
Chúng ta sống trong hy vọng rằng những lời nói của Đức Giêsu sẽ
trở thành hiện thực đối với chúng ta: “Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ được ở đó”.
Trong khi chờ đợi, chúng ta có một công việc phải thực hiện: rao giảng Tin Mừng
và làm chứng cho Người trong thế giới này.
Sách Tông đồ Công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì
các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi
cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông
mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy? Chắc hẳn là vì cảnh
thiên đàng rất là hấp dẫn.
. Cũng như một lần kia, ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng
được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên
núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại
mãi trên ngọn núi đó.
. Còn thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng
cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy
trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng
nghe…”
. Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã
hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em
bé đơn sơ hỏi thánh nữ “Thưa ma sơ, ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp
lắm nhỉ?” Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ “Đẹp
lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được
thấy nữa”.
. Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho ba em Luxia,
Phanxicô và Giaxinta. Ba em đó cũng đơn sơ hỏi Đức Mẹ “Thưa Bà, Bà ở đâu đến
vậy?” Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói “Từ trời xuống”. Ba em liền xin “Vậy xin Bà
cho chúng con cũng được lên trời đi”. Đức Mẹ mỉm cười đáp “Phanxicô và Giaxinta
thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây; còn Lucia thì hãy chịu khó ở lại
trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó hai em kia lúc nào cũng mơ
ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết hai em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn
mừng vì mình sắp được lên trời.
Đó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần
nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia
sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng
thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh
phúc ngất ngây đến chừng nào!
Khi về trời, Đức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ
cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của
chúng ta.
Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh
phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần
thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng
thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế:
. Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ “Hỡi
những người xứ Galilê sao còn mải mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem
và bắt đầu nhiệm vụrao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó…”
. Còn ba ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say
sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.
. Thánh nữ Bernadette, cũng như nữ tu Luxia sau khi được nhìn
thấy Đức Mẹ thì được Đức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Đức Mẹ còn cho biết
trước; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.
Nghĩa là làm sao? Nghĩa là: Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn
của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó.
Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng
được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế
bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.
Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc thiên đàng, chúng ta vẫn
còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau
khổ: Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật; khổ về tinh thần như ganh ghét
hận thù đố kị nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần
ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những lời Chúa
dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xóa đi bớt những đau
khổ đó ở trần gian như: chia sớt cho những người túng thiếu, chăm sóc những kẻ
bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hòa giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp
cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những
lời Chúa dạy.
“Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mải nhìn trời…”
Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng
là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của
việc rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ
trước khi Người về trời “Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho
nhân loại”.
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã để ra ít phút ngước
nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta.
Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho
chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không thụ động mải mê chiêm ngắm hạnh phúc tương
lai ấy. “Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mải nhìn trời…” Chúa nhắc chúng
ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế:
Làm cho cuộc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn,
và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Đó chính là bổn phận hiện tại của
chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với
Chúa.
21. Con đường.
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi
ba người có thể thay thế ông và nói:
- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi
linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai
mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết
sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:
- Món quà quí giá của ngươi đâu?
Người này điềm tĩnh trả lời:
- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất
phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói:
- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất:
Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
Đó cũng là viễn tượng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế
giới qua bài Tin Mừng hôm nay: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin
Mừng cho mọi tạo vật”.
Chúa về trời là về với Chúa Cha – Cuộc đời chúng ta là một cuộc
hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối
những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi
vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin Mừng.
- Tin Mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.
- Tin Mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.
- Tin Mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm
theo.
Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng
say đi loan báo Tin Mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.
Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao
giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với
người cùng khổ.
Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc
sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc
đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ:
“Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy
với con”.
Đã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa
đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa,
là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.
Đã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã
mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở
đó.
22. Ái mộ
những sự trên trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba
người thân cận đến và nói:Ta phải chọn một người kế tục.Các ngươi hãy leo lên
đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý
giá nhất.
Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về
một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.
Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?
Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía
bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống
sung túc tốt đẹp.
Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà
quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là
hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.
Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và
lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh
Maccô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng
Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn
đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn
theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày,
và nơi lên trời là núi Cây Dầu.
Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo
kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha,
Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.
Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy
dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng
cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm
nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng
thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách
quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao
những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành
sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.
Chúa Giêsu lên trời. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy
nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn
luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải
là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không
hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi
chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự
theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên
là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày
kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới,trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt
đối và vật chất đã biến đổi,đã thấm nhuần tinh thần.
Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình.
Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và
đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng
hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ
nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong
tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn
có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài
những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống
vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt
đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như
thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào
trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận
con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát.
Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội
triển nở đến vô biên.Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không
còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh
ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời,
con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông
lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con
chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng
khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đó biết đường
quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt
vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi
người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trở về quê trời.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng
được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển
vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng
đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy
đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ
phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh
phúc nước trời.
Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới
lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng
phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống
đến đó.
Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian,
xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.Tuy nhiên ta
làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước
trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian,
chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Đức
Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ
đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp
nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến
rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ
thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để
làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người
không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình
đẹp hơn, để thấy mình hơn người khác. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những
thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra
một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh
trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.
Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo
khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại
hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những gì cụ thể có
thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà
nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của
con người.
Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm
và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh
khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao
quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận
thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần
linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền
nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc
ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh
thần, của những giá trị đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa về trời, không chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn
tượng hạnh phúc của trời cao.
“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không
bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm
những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc
sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào
được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống,
hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen.
23. Khát vọng
lên trời – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy
thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm
người tài giỏi giúp nước diệt giặc.
Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa
không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tài diệt
giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho
cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền
tài nhắn gởi, Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh.
Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân. Dẹp
xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi về trời. Vua nghĩ là thiên thần
của trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một đền thờ gọi là đền Phù Đổng
Thiên Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.
Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé
luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá
quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp.
Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.
Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất,
ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được
trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em
Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng
kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi
tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16
tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới
mặt trăng.
Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ
trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.
Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà
Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà,
Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và "được đưa về trời ngự bên
hữu Thiên Chúa" (Mc 16,19).
Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác
Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ
dần và hòa biến vào không gian vô tận.
Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ
họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã
chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: "Hỡi các
khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều
đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua
vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến
thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu
lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng
dũng uy linh".
Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu
Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính...đang hoan hỉ vui mừng đi
theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham,
Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng
Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.
Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm
ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan:
"Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên
dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh
cao cả" (Tv 47, 2-3, 6-9).
Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: "Không ai
đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống" (Ga 3,13). Người
đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết
Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm
về con người.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để
rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn
chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn
hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người
ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ
có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh,
khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên
mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục
sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con
người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới
một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn
tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà
vẫn còn thấy rất xa xôi. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều
đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn
tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm.
Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa
Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói
" Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng
ta sẽ đến và ở lại với người ấy" ( Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự
hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho " Thầy là cây nho
các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy
sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được"(Ga 15,5).
Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong
con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà
Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo,
một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
Bài Tin mừng hôm nay kết thúc Phúc âm Maccô nhưng thực ra là một
sự khởi đầu, một sự khai mở. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu
với lệnh truyền của Chúa: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo
Tin mừng cho mọi loài thọ tạo". Nội dung của việc truyền giáo được chỉ
định rõ ràng: "Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa
cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em". Bảo chứng
cho sứ vụ truyền giáo là: "Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng
những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng". Nhờ việc sai đi
và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở
thành người sống đương thời với chúng ta "và đây, Thầy ở cùng anh em mọi
ngày cho đến tận thế".
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi
của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được
thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó
trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt
hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân
lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền
thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: "Anh em hãy đi và làm
cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28,19).
Vì thế, Ngày Thế Giới Truyền Thông gắn liền với sứ mệnh loan báo Tin Mừng.
Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những
phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.
Trong Sứ điệp truyền thông 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
khuyến khích những ai làm công tác truyền thông hãy xây dựng những trang web và
mạng xã hội: "Có thể giúp con người ngày nay tìm được thời giờ suy tư và
tìm hiểu những vấn đề thiết yếu, cũng như tạo khoảng trống cho thinh lặng và cơ
hội cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa". Giáo Hội tìm cách hội nhập sứ
điệp Tin Mừng vào trong "nền văn hoá mới này" do những những phương
tiện truyền thông xã hội tạo nên với những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và
với những cách cư xử mới.
Đứng trước một lục địa mênh mông như Châu Á, làm sao có đủ nhân
lực và phương tiện để đưa Tin Mừng đến từng nhà? Đây là câu trả lời đích xác:
"Giáo Hội cần khám phá những cách thế để tận dụng mọi phương tiện truyền
thông đại chúng vào kế hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ, nhờ biết sử dụng cách
hữu hiệu mà sức mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp xúc một cách rộng rãi với
từng cá nhân cũng như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị của Nước Trời
thâm nhập vào các nền văn hóa của Châu Á". (x. Tông Huấn Giáo Hội tại Châu
Á, số 48).
Cho dù phương tiện truyền thông hiện đại tới mấy, nhân lực vẫn
là yếu tố quan trọng. Sức mạnh của truyền thông cũng phải phát xuất từ đức tin,
chứ không từ những kỹ thuật. Đức tin mạnh mẽ là nhờ chiêm niệm: "Trong
thinh lặng, tư tưởng phát sinh và có được chiều sâu. Trong thinh lặng, chúng ta
hiểu rõ hơn điều mình muốn nói và muốn người khác đón nhận. Trong thinh lặng,
chúng ta tìm cách diễn tả chính mình tốt hơn". (Sứ điệp Truyền Thông
2012).Giữa những ồn ào của truyền thông hôm nay, lời rao giảng Tin Mừng qua
phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet muốn đạt mục đích và kết quả
như mong muốn cần có tĩnh lặng: "Trong thinh lặng của chiêm niệm, Lời hằng
hữu hiện diện cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và chúng ta khám phá ra kế hoạch
cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử bằng lời nói cũng như hành
động" (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Mỗi người Kitô hữu, nhờ thinh lặng,
lắng nghe được tiếng Chúa và đi vào cuộc giao tiếp với Chúa, chúng ta mới có
thể truyền thông Lời Chúa cho người khác. Chỉ có những người tin thực sự và
mãnh liệt mới có thể làm cho Tin Mừng đến với mọi người.
Mỗi Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa
Kitô. Mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó
Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.
Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin mừng cứu độ và loan báo
tin vui, mai này chúng ta cũng sẽ về nhà Cha trên trời.
24. Ý nghĩa
việc Chúa Lên Trời
(Keith Witfield – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)
Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu
xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi sự sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể
Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để
khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.
Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng sâu xa nơi các môn
đệ. Đối diện trước biến cố này, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước
lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng
sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và
tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn
dặn. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người. Các ông trở về Giêrusalem lòng đầy hân
hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).
Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi
vấn. Đức Giêsu vừa “rời bỏ” các ông. Sự ra đi nào cũng để lại biết bao sầu
thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại “ngập tràn niềm vui”.
Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại
trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo
trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó
Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý chữa trị những sầu buồn và
tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình đừng lo lắng,
các ông sẽ không mất Ngài, những Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế
qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.
Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra
rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc.
Trước hết, đó là quà tặng Thánh Thần. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực
hiện tròn đầy. Các tông đồ nhìn xem Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi
vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về “ Đấng sẽ đến”. Những nghi ngại và sợ
hãi dần tan biến. Các tông đồ thâm tín rằng Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn
đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Kitô, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và
hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế,
sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha đem lại cho họ niềm vui. Niềm vui
đó được cắt nghĩa với những lý do sau:
1. Đức Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã
sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương
và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự
phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội
lỗi (Do Thái 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi
chúng ta.
2. Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa
con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế
giới thần linh cùng Chúa Cha (1Ga 2,1).
3. Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai
mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết:
“ Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và
toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).
4. Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban
năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống
lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết:
“Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn
thể hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người,
Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).
Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là
Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy.
Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm
mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật
lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy
Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách tân ước đều khải thị cho chúng
ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi
mời chúng ta tin vào Ngài.
Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm
vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức
Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các tông đồ một
cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.
Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa,
có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của
các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu
đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.
25. Loan báo Tin mừng
cho mọi loài thọ tạo
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tin Mừng Máccô kết thúc với câu 16,8. Tuy vậy, một số Kitô hữu
thuộc thế kỷ i-ii đã tìm cách "bổ túc" truyện sách Tin Mừng bằng cách
thêm vào những cảnh mà họ nghĩ rằng tác giả Mc hẳn cũng đã thêm vào nếu ngài
viết tiếp. Đoạn văn 16,15-20 nằm trong Phần Kết phụ trội thứ nhất gọi là
"Phần Kết Dài" hay là "Phần Kết Vô Danh", từ c. 9 đến c. 20
của chương 16. Phần này nói đến những cuộc hiện ra của Đức Giêsu với bà Maria
Mácđala và với các môn đệ để thúc giục họ, tức Hội Thánh, đi loan báo Tin Mừng
khắp nơi. Các nhà truyền giáo không có gì phải sợ, bởi vì Đức Giêsu Phục Sinh
vẫn ở với họ. Các độc giả tinh ý sẽ thấy có một số đề tài trong các câu này
không giống gì với những điều họ đã thấy trong TM II. Họ cũng còn có thể nhận
ra nơi các đề tài này âm vang của những cảnh quen thuộc ở trong các Tin Mừng
khác, được quy tụ lại để làm cho phần kết của Mc (16,8) bớt đột ngột (x. Ga
20,11-18; Lc 24,13-35; Mt 28,16-20).
Bản văn chúng ta đọc hôm nay tập trung vào sứ mạng phổ quát của
các tông đồ, và giống như Lc 24,36-53, nó kết thúc với việc Đức Giêsu lên trời
mà các ông thấy được. Bài không hề xác định nơi chốn. Tác giả chỉ muốn chúng ta
lưu ý đến điều cốt yếu: sứ mạng được giao phó cho các môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (16,15-18);
2) Lên trời (16,19);
3) Ra đi thi hành sứ mạng (16,20).
3.- Vài điểm chú giải
- Nhóm Mười Một (14): Đây chính là
Nhóm Mười Hai trước đây, nhưng nay chỉ còn mười một tông đồ, vì Giuđa không còn
nữa. Nhóm mang nơi mình dấu chỉ của sự sa sút. Chính là với Nhóm này mà Đức
Giêsu đã hiện ra và giao sứ mạng loan báo Tin Mừng. Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra
và giao sứ mạng, điều này có nghĩa là Người đã tha thứ cho họ, và lòng cứng tin
của họ đã được thắng vượt.
- Tin Mừng (15): Nội dung của sứ
điệp phải loan báo không được giải thích, mà lại được tổng hợp trong khái niệm
"Tin Mừng". Do khái niệm này được nối kết với "các thọ
tạo", nó gần với Cl 1,23. Công thức này đã được chuẩn bị trong Do Thái
giáo, nơi mà Thiên Chúa được ca ngợi là vua của toàn thể công trình tạo thành
của Ngài (Gđt 9,12), là chúa tể của muôn loài thọ tạo và có lòng yêu thương
muôn loài thọ tạo (x. 3 Mcb 2,2.7; 6,2. Sách 3 Mac không thuộc về Kinh Thánh).
Vậy Tin Mừng phải loan báo chính là quyền chúa tể của Đức Kitô Phục Sinh trên
toàn thể thọ tạo.
- phép rửa (16): Các phản ứng
của con người trước sứ điệp Tin Mừng là tin hoặc không tin. Đức tin có kèm theo
thái độ sẵn sàng lãnh nhận phép rửa. Phép rửa nhân lãnh trong đức tin đưa tới
ơn cứu độ trong cuộc phán xét chung cuộc. Trong Tt 3,5 và 1 Pr 3,21, phép rửa
và ơn cứu độ được nối kết với nhau. Sự đối lập giữa cứu độ và kết án khiến ta
nhớ đến Ga 3,18. Tuy nhiên, ở đây bản văn hướng đến cuộc phán xét chung.
- những dấu lạ đi theo (17): Khác với những
gì xảy ra ở Mc 8,11t, dấu (lạ) được dùng theo nghĩa tích cực. Dấu lạ không đi
trước đức tin và cũng không diễn tả một uy quyền chỉ được ban riêng cho các môn
đệ (như ở Mc 6,7-13), mà phải được dùng như là cách Thiên Chúa chuẩn nhận cho
những ai đã trở thành tín hữu. Dấu lạ cho thấy Đức Kitô là vị Chúa tể mới của
tạo thành, Người muốn ban ơn cứu độ cho toàn thể tạo thành. Năm loại phép lạ
quy chiếu về sách Cv: đuổi quỉ (Cv 16,16-18), nói tiếng lạ (Cv 2,1-11), cầm rắn
độc (Cv 28,3-6), chữa bệnh (Cv 31-10; 9,31-35; 14,8-10; 28,8t). Còn thuốc độc
có lẽ dựa theo một truyện kể nào đó (chẳng hạn chuyện sử gia Êusêbiô kể về
Giúttô Bácsaba; x. Hist. Eccl. 3,39,9). Lc 10,19 có nói đến khả năng đạp trên
rắn độc và bọ cạp. Các dấu lạ xảy ra "nhân danh Thầy", tức là với
việc cầu khẩn danh Đức Giêsu. Như thế, Đức Giêsu được tôn vinh tiếp tục ở với
cộng đoàn của Người và hoạt động.
- Chúa Giêsu được đưa lên trời (19):
Danh hiệu "Chúa Giêsu", rất quen thuộc với Phaolô và sách Cv, chỉ
xuất hiện ở đây trong các Tin Mừng. Đấng Phục Sinh, Đấng được tôn vinh, chính
là Kyrios (chúa tể), là Kosmokrator (chúa tể vũ trụ). Cuộc lên trời của Đức
Giêsu giả thiết có hình ảnh của Kinh Thánh về thế giới (= lên trời), được mô tả
phỏng theo cuộc lên trời của ngôn sứ Êlia (2 V 2,11; 1 Mcb 2,58).
- Ngự bên hữu Thiên Chúa: Câu này dựa theo Tv
109 (110), 1 muốn nói rằng nay Đức Giêsu có tất cả quyền năng của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (15-18)
Ta thấy lệnh truyền của Đức Giêsu quá rõ ràng và cấp bách, nhưng
trong thực tế, dường như không phải thế: Đức Giêsu không cho biết rõ khoảng thời
gian kéo dài từ khi Người sống lại đến khi Người quang lâm; Người không loan
báo rằng các Dân ngoại sẽ dần dà đi vào trong Giáo Hội trước khi xảy ra phán
xét chung; các tông đồ đã phải mò mẫm tìm kiếm phương hướng hoạt động, với sự
giúp đỡ của Chúa Thánh Thần (x. Cv 10; 11,1-8; 15,7-11...). Dù sao, ở đây,
chúng ta thấy sứ mạng của Giáo Hội nơi Dân ngoại đã trở nên rõ ràng, không ai
phản đối nữa: các tông đồ phải ra khỏi môi trường Do Thái giáo mà loan báo Tin
Mừng cho "mọi loài thọ tạo". Công thức này tương đương với Mc 1,10 và
Mt 28,19: "mọi dân tộc"; chỉ loài người mới có thể nghe rao giảng và
đáp lại bằng đức tin. Tuy nhiên, cũng có thể, trong chiều hướng của thánh
Phaolô (Rm 8,19-22; Cl 1,1-23), tác giả nghĩ đến ảnh hưởng của công cuộc Đấng
Cứu thế thực hiện trên toàn vũ trụ.
Tại sao lại "loan báo Tin Mừng cho muôn loài thọ tạo"?
Cây cối có thể nghe Tin Mừng? Khi người ta nghe theo sứ điệp của Chúa Kitô,
phải chăng tất cả vũ trụ sẽ được biến đổi? Điều này sẽ được thánh Phaolô giải
thích trong Thư gửi người Rôma: "Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi
chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người... với niềm trông cậy
là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà
được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang" (Rm
8,19-21). Khi chúng ta sử dụng các thọ tạo sai cách, chúng ta làm điều dữ. Khi
sứ điệp Tin Mừng thay đổi con tim chúng ta, muôn loài thọ tạo cũng sẽ được cứu
chuộc; chúng không còn bị sử dụng cho điều xấu nữa, mà được sử dụng đúng mục
tiêu của chúng như khi chúng được tạo thành: một phương tiện để yêu thương và
sống hạnh phúc. Sứ mạng của các môn đệ là làm việc để cho có một nhân loại mới
và một thế giới mới chào đời.
Đức tin chính là lời đáp trả lời rao giảng và được liên kết với
phép rửa tội (Cv 2,41; 8,12...).
Còn về các dấu lạ, trong Hội Thánh lúc ấy, không phải bao giờ
các dấu lạ cũng được các tông đồ thực hiện; nhiều lần Thánh Thần hành động nơi
và qua các thính giả (x. Cv 10,44-46). Các dấu lạ được kể ra như là những ví
dụ, và được chứng thực trong sách Cv.
* Lên trời (19)
Tác giả đã liên kết hai thực tại không thuộc về cùng một bình
diện, một bên là một cuộc tỏ mình hữu hình của Đức Giêsu Phục Sinh kết thúc
những cuộc hiện ra, được diễn tả bằng ngôn ngữ của sách Cv (x. Cv 1,1-11); một
bên là một cuộc tôn vinh trên thiên quốc, gắn liền với cuộc Phục Sinh (x. Ep
4,10; 1 Tm 3,16...). Thật ra, tác giả Mc không tường thuật một biến cố xảy ra
trước mặt các khán giả. Các độc giả sẽ sai lầm nếu tưởng tượng Thăng Thiên như
một "cuộc rời bỏ nhau", "một chuyến ra đi", "một sự
biến mất". Đức Giêsu không ở quanh quẩn đâu đó trong vòng bốn mươi này
trước khi lên trời. Người đã đi vào vinh quang của Cha Người ngay sau khi chết.
Ngày Thăng Thiên không phải là một lễ từ biệt, mà là một lễ mừng sự hiện diện.
Điều mà tác giả muốn kể cho chúng ta là Đức Giêsu Nadarét, đã bị lính Rôma giết
vào trước lễ Vượt Qua, không hề bỏ rơi các môn đệ Người mãi mãi. Người đã sống
lại và tiếp tục sống với họ. Cách thức hiện diện thì khác, nhưng Người không bỏ
rơi họ. Trước khi sống lại, Người không thể ở với mọi người tại mọi nơi chốn.
Nay đã được tôn vinh, Người có thể hiện diện ở mọi nơi. Người có thể ở với mọi
người chúng ta.
* Ra đi thi hành sứ mạng (20)
Tác giả quan tâm khẳng định rằng trong hoạt động truyền giáo,
các tông đồ (và sau các ông, là Hội Thánh mọi thời) có thể cậy dựa vào sự hiện
diện tuy vô hình nhưng hữu hiệu của Đức Giêsu đang ở trên thiên quốc với tất cả
quyền năng Kyrios của Người.
Ngay ngày hôm nay, việc loan báo Tin Mừng cũng phải có kèm theo
các dấu lạ, nhưng các dấu lạ này không phải là những mánh lới phù chú ma thuật,
nhưng là những dấu chỉ cho thấy thế giới mới như các ngôn sứ và tác giả Mc đã
từng lon báo.
+ Kết luận
Bởi vì các nhà chuyên môn cho rằng Kết dài của TM Mc là một huấn
giáo về Phục Sinh, chúng ta có thể đối chiếu bản văn với 1 Cr 15,1-11. Cuộc gặp
gỡ với một nhóm môn đệ giới hạn trở thành nền tảng cho các biến cố liên hệ đến
Đức Giêsu Phục Sinh. Giới hạn về thời gian giữa cuộc Phục Sinh và Lên Trời đảm
bảo cho tính hợp pháp của các chứng nhân chọn lọc, nhưng cũng cho thấy cuộc
Phục Sinh là như một kiểu trở lại tạm thời của Đức Giêsu trong một cuộc sống
trần thế. Quan trọng là đi loan báo Tin Mừng "khắp nơi" và chỉ khi
loan báo như thế, người môn đệ mới trải nghiệm sự hỗ trợ thường trực của Đức
Chúa được tôn vinh vẫn đang ở lại trong cộng đoàn mình.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nay đã sống lại, đã được tôn vinh, Đức Giêsu có thể hiện diện
với từng người trong chúng ta. Có thể gọi Thăng Thiên là lễ nhân ra nhiều sự
hiện diện của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa đích thực của Thăng Thiên, nên chúng ta
có thể thực sự hạnh phúc và chan hòa niềm vui. Đức Giêsu Phục Sinh là Chúa tể
(Kyrios) nhưng vẫn đang "cùng hoạt động" với các môn đệ Người, với
mỗi tín hữu đang dấn thân cho sứ vụ Người giao phó.
2. Nhìn vào Nhóm môn đệ, chúng ta nhớ đến tập thể trong đó chúng
ta đang hiện diện: gồm những con người bất toàn, có thất trung. Nếu hôm nay,
chúng ta còn có thể ra đi loan báo Tin Mừng, là vì Đức Giêsu Phục Sinh đã tha
thứ và khôi phục tư cách cho chúng ta. Sống đời thừa sai là làm chứng rằng
chúng ta đã được ơn tha thứ và chúng ta đã gặp Đấng Phục Sinh.
3. Địa bàn hoạt động của người môn đệ là thế giới, "khắp tứ
phương thiên hạ"; đối tượng họ gặp gỡ là mọi người và từng người trên
đường họ đi, "mọi loài thọ tạo". Người môn đệ của Đấng Phục Sinh
không được để cho những phân biệt về màu da, ngôn ngữ, chủng tộc,... làm cho
mình ngần ngại ra đi chia sẻ Tin Mừng cứu độ.
4. Hôm nay chúng ta đang làm các "dấu lạ" nào? Phải
chăng chúng ta cứ muốn Thiên Chúa làm các phép lạ, hay là chính chúng ta cũng
muốn thực hiện các "dấu lạ"? "Dấu lạ" có phải là chính sự
hiện diện khiêm tốn, nhân ái và có khả năng "chữa lành" của chúng ta?
Con người hôm nay có cảm thấy rằng Đức Giêsu đã lên trời, vẫn đang ở cùng chúng
ta tại đây chăng?
26. Chú giải
của Noel Quesson.
Những câu từ 9 đến 20 của chương cuối cùng Tin Mừng theo Thánh
Maccô không có trong những văn bản cổ xưa nhất vì có nhiều Giáo phụ trong Giáo
Hội không biết đến những câu này. Ý kiến thông thường là những câu này đã được
thêm vào do một tác giả khác không phải là Thánh Maccô (cách hành văn cũng có
khác). Dầu vậy, đoạn cuối này vẫn “Hợp luật Giáo Hội” và là một phần bản văn
chính thức của Thánh Kinh đã được linh ứng. Nên đó cũng là “Lời Chúa” như tất
cả Tin Mừng. Đàng khác chúng ta nhận thấy nhũng câu này không có gì “mới lạ”.
Tác giả vô danh đã tóm lại đoạn cuối của những bản Tin Mừng khác. Trước tiên
đoạn này có giá trị thần học. Chúng ta sẽ lưu ý đến điều mà tác
giả nhấn mạnh trong đoạn này: “Đức Giêsu phục sinh nói với 11 tông đồ:
Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho tất cả loài
người”.
Nếu chúng ta hiếu kỳ đọc câu liền trước câu này, chúng ta sẽ
thấy: Đức Giêsu hiện ra cho 11 môn đệ thấy, Người trách sự cứng lòng của các
ông vì các ông đã không tin theo những người đã trông thấy Chúa sống lại (Mc
16,14). Như thế chúng ta đột ngột đi từ chỗ Chúa Giêsu trách cứ nặng nề sự
không tin của các môn đệ đến việc Người sai các môn đệ đi rao giảng khắp thế
giới. Dĩ nhiên là tác giả đã tóm lược lại qua những trình thuật khác. Chúng ta
biết rằng, ban đầu các môn đệ đã “không tin”. Nhưng trình thuật tóm tắt này
nhắc nhở trong lòng chúng ta rằng: Chúng ta không nên trì trệ trong những hoài
nghi và do dự Đức Giêsu sống lại đã thúc đẩy “Các môn đệ”. Không đếm xỉa đến
việc họ không tin, Đức Giêsu chủ động, đặt niềm tin cậy nơi các ông còn đang
bất toàn -Hai động từ chia vào mệnh lệnh cách: ”Anh em hãy đi” và
“Hãy rao giảng”, hai cách nói này diễn tả một động lực mãnh liệt
biết bao!
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không đợi chúng con –Giáo Hội Chúa cũng
chưa hoàn hảo, những môn đệ cũng không hoàn hảo, và con cũng không hoàn hảo
nhưng đó không phải là nguyên cớ để chúng con không làm gì cả.
“Khắp thế giới” - “Tất cả loài người”.
Những dự án, chương trình của chúng ta nhỏ nhen và tầm thường
biết bao. Đức Giêsu mời gọi các bạn của Người loại trừ thói quen nhỏ nhen, để
đến gặp gỡ mọi người. Có sứ vụ, thì phải có khởi hành, phải ra khỏi chính mình,
ra khỏi thế giới tinh thần nhỏ bé của mình. Đối với các môn đệ, họ phải ra khỏi
môi trường Do Thái để đi về phía dân ngoại. Đối với chúng ta cần phải quan tâm
đến những nền văn hóa mới, chấp nhận những tư tưởng hiện đại, lắng nghe những
ước vọng tân thời, ”rời bỏ sự thoải mái trí thức của những tư tưởng sẵn có”, để
làm cho những người không suy nghĩ như chúng ta hiểu được chúng ta.
Nếu chúng ta trung thành với chiều hướng phổ quát này, chúng ta
sẽ thích thú để thấy những nơi vừa mới được Tin Mừng hoá đã có những ngôn ngữ
mới để loan báo tin mừng. Chúng ta sẽ cầu nguyện sao cho “những lục địa nhân
loại” mới, những tâm thức mới đến được Giáo Hội, dù có phải xáo trộn một chút
những gì đã có sẵn của chúng ta. Tin mừng dành cho “toàn thế giới” và cho “toàn
nhân loại”.
Anh em hãy loan báo Tin Mừng.
Từ Hy Lạp ở đây là “Kèrussein”, nghĩa đen là “la lên”. Tin Mừng
trước tiên là một tiếng “kêu”. Chúng ta tìm gặp lại được chiều hướng này của
những Kitô hữu đầu tiên trong đức tin –Chúng ta đã quá trí thức hoá, chương
trình hoá, tổ chức hoá việc rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu đã nói: ”Hãy
kêu to” Tin mừng cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu không yêu cầu chúng
ta thuyết phục “hay” chứng minh – Nhưng đơn giản chỉ làm chứng tá với sự vui
mừng và sức mạnh của đức tin chúng ta. Than ôi có những người Kitô hữu không
muốn làm chứng nhân như thế. Họ cứ rên siết, lên án, chỉ trích, đoán xét – Lạy
Chúa xin cho chúng con sự vui mừng có sức lôi cuốn mà Chúa đòi hỏi nơi chúng
con – ước gì gương mặt chúng con tỏ lộ cho anh em biết sự vui mừng đến từ Chúa.
Nếu đối với chúng con, đức tin tôn giáo là một điều buồn tẻ, thì tốt hơn là
chúng con nên im lặng về vấn đề này. Nếu đó là một “Tin mừng”, “Tin tốt” thì
xin sự mừng tốt đó phát triển ra từ da thịt chúng con, trên môi miệng chúng con
thành ra một tiếng kêu hân hoan.
Ai tin và chịu phép rửa sẽ đượ cứu độ, còn ai không tin sẽ bị
kết án.
Nếu Tin Mừng phải được rao giảng lớn tiếng cho mọi người, thì
con người cũng có thể chấp nhận hay từ chối một cách tự do. Việc rao giảng Tin
Mừng thể hiện một sự “xét xử” gần như là “phiên toà xử Đức Giêsu”. Một số đáp
lại bằng đức tin, một số khác bằng “sự không tin” – Dĩ nhiên, không thể đẩy
xuống địa ngục vô số con người thiện chí nhưng không thể tin vào Tin Mừng. Cũng
không thể tưởng tượng một sự can thiệp của Chúa để trừng phạt. Toàn bộ Thánh
Kinh chứng minh rằng Chúa không kết án ai, nhưng cứu rỗi tất cả mọi người.
Không bao giờ đặt vấn đề: ”Chúa có tha tội cho tôi không?”. Mà là “Tôi có chấp
nhận sự tha thứ mà Chúa đã ban cho từ trước hay không?”. Nói cách khác, kẻ nào
biết rõ mà lại cố tình chối bỏ Tin Mừng, thì không phải Chúa kết án người đó,
mà chính người đó tự kết án mình.
Làm sao hiểu được điều này?
Hiểu đơn giản như sau: Ngoài Tin Mừng, ngoài Chúa Giêsu Phục
sinh và Hằng sống, không có sự cứu rỗi, không có câu giải đáp cho số phận con
người hay chết. Ngoài Đức Giêsu, con người thực sự chỉ hư mất, số kiếp của con
người ngắn ngủi. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người ra khỏi số kiếp của
nó. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người khỏi phải “chỉ là một con người” mà
thôi. ‘Kẻ nào tin? kẻ nào không tin?’. Đây là phần thưởng đặc biệt cho sự tự do
của chúng ta. Nhưng có một điều chắc chắn là: Không ai bị bắt buộc phải sống
đời đời với Đức Giêsu nếu người đó không muốn -Đức Giêsu tôn trọng chúng ta.
Ngài không ép buộc chúng ta.
Những ai có lòng tin, sẽ làm được các dấu lạ này: “Nhân danh Thầy
họ sẽ trừ được ma quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ có cầm phải rắn hay
uống nhầm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh
hoạn yếu đau thì những người này sẽ được mạnh khoẻ”.
Con người thời nay không thể đặt “câu hỏi” về ma quỷ, rắn, bệnh
tật và những chất độc khác mà con người tin Chúa được miễn nhiễm. Những “dấu
lạ” được hứa này chỉ là những giá trị điển hình, phù hợp với thời đại mà Kitô
giáo được nảy sinh giữa cộng đồng dân ngoại, trong đó những “Thầy phép” (phù thuỷ)
là những ông vua.
Độc giả ngày nay phải hiểu những “dấu lạ” này theo nghĩa tượng
trưng. Điều vẫn đúng là: Người “tín hữu” cùng với Đức Giêsu sống lại, phải lao
vào trận chiến chống lại “tất cả những lực lượng thù địch, nô lệ hoá và làm mất
phẩm giá con người”, tất cả những gì “đầu độc” nhân loại. Ngày nay có những
“dấu lạ” tương ứng với những dấu lạđược tác giả Tin Mừng kể ra trên đây đối với
thời của ông. Chúng ta hãy tự hỏi xem ngày nay cái gì có thể là “dấu lạ” cho
mình thời bây giờ. Chúng ta đừng coi thường “năng khiếu sinh ngữ” vì ngôn ngữ
là một phương tiện truyền thông tuyệt hảo, và nó là một “ân ban của Chúa Thánh
Thần”. Lạy Chúa xin cho mọi Kitô hữu “khả năng một ngôn ngữ mới” để có thể làm
cho Tin Mừng đi vào trong những “tâm hồn mới lạ” (chưa đón nhận Chúa).
Còn về khả năng “săn sóc và chữa bệnh cho người đau yếu” thì
chúng ta biết người anh em chúng ta cần đến năng khiếu này như thế nào. Tin
Mừng là một sức mạnh cứu rỗi, một nguồn hạnh phúc mà Kitô hữu có trong tay. Vậy
thì chúng ta chớ khoanh tay không làm gì cả, chúng ta phải biết xây dựng chúng.
Nói xong Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên
Chúa.
Tác giả vô danh chỉ có nhắc lại mà không dàn cảnh cụ thể những
gì mà thánh Luca đã kể (Cv 1,9). Chúng ta nên lưu ý rằng, trong hai cách nói
này, một cách có thể có giá trị lịch sử đối với con người chúng ta, (sự biến
mất được nhìn thấy rõ ràng của Đức Giêsu), trong khi cách nói kia hoàn toàn căn
cứ vào đức tin (việc bay lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa). Chúng ta coi chừng
đừng “vật chất hoá” cách diễn tả này: Thiên Chúa không có “bên phải” hay “bên
trái” gì cả, Người cũng không “ở trên” trời hay “ở dưới” đất. Trong tâm thức
thời đó, hình ảnh bầu trời xanh gợi lên thế giới thần thánh và người ta cũng đã
có nói về một vài vị hoàng đế La Mã nào đó đã “lên trời”. Đối với Đức Giêsu, sự
Thăng Thiên hoàn toàn khác: Người đạt đến Vương quyền trên toàn vũ trụ, và để
diễn tả điều này, người ta dùng đến ngôn ngữ Thánh Kinh trong Thánh vịnh 110,1:
“Lời truyền dạy của Thiên Chúa cho Chúa tôi: Hãy ngự bên phải của Ta”. Những từ
ngữ gợi hình này nói lên một ý nghĩa thần học về thực tại Đức Kitô Phục sinh:
Chúa vinh quang, một thực tại mà ta không nắm bắt được bằng giác quan hay lý
trí con người, một thực tại mà ta chỉ có thể đạt đến bằng đức tin.
Còn các tông đồ thì đi rao giảng khắp nơi.
Dường như các ông không để chậm trễ một giây nào. Các ông lên
đường ngay lập tức. Đây cũng là một “dấu lạ”. Ngôi mộ trống … “Họ ra đi”… “họ
lên đường “…
Chuá cộng tác với họ và dùng dấu lạ điềm thiêng mà xác nhận lời
họ giảng.
Đức Giêsu không còn “ở trong mồ” nữa. Người đồng thời “ngự bên
hữu Thiên Chúa” và “hoạt động với các môn đệ”. Đây là dấu lạ mà chúng ta không
có từ ngữ nào để diễn tả sự phong phú của mầu nhiệm Thăng Thiên. Những từ ngữ
đúng nhất có lẽ lại là “một hiện diện ẩn khuất”, một hiện diện sinh động đang
“hành động” dưới hình thức của một lời nói.