Các bài suy niệm LỄ LÁ – Năm B
MỤC LỤC
1. Phêrô
2. Vua Bình An – Mc 11,1-10.
3. Ngã rẽ cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Nhiệt thành của thập giá.
5. Lễ lá.
6. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ.
7. Giờ chiến thắng vinh quang – Lm. Ignatiô Trần Ngà
8. Bệnh “hùa theo đám đông”
9. Vác đỡ Thánh Giá Chúa – PM. Cao Huy Hoàng
10. Thập giá, tình yêu cứu độ
11. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
12. Ông này là ai vậy?
13. Xin đừng theo ý con (Mc 11, 1-10).
14. Cuộc khải hoàn của Người Tôi Trung
15. Cô đơn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
16. Vâng phục ngay cả chấp nhận cái chết
17. Chúa Giêsu lên Giêrusalem
18. Những im lặng sau tiếng hoan hô
19. Tình Chúa Tình Người – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
20. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
21. Baraba và Đức Giêsu.
22. Con đường thập giá – Lm. Đam. Trần Quang Hiền
23. Cuộc khổ nạn Chúa Giêsu _ Noel Quesson.
24. Lễ lá.
25. Cuộc Thương Khó.
26. Cuộc Thương Khó
27. Hoan hô- Đả đảo.
28. Ơn cứu chuộc.
29. Thánh giá.
30. Cuộc khổ nạn.
31. Tội lỗi của ta.
32. Vụ án.
33. Vào thành.
34. Bóng tối và niềm tin – Peter Feldmeier
Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
Thế thái nhân tình là thế Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Đấng là con Thiên Chúa... Lm. Phêrô Lê văn Chính
Chúa Giêsu còn tiếp tục chịu ... Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Hiện thân của tình yêu Cha JKN
Con Thiên Chúa là vua Chú giải của Noel Quesson
Rước lá - Vua đến Chú giải của William Barclay
Vâng lời cách sáng suôt Sưu tầm
Theo Chúa chịu thương khó Catholic.org.tw
Người tôi tớ của Thiên Chúa. Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Đấng là Con Thiên Chúa. Lm. Phêrô Lê văn Chính
Hiện thân của tình yêu Cha JKN
Tuân theo ý Chúa Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Lễ Lá Chú giải của Fiches Dominicales
Đấng Messia tiến vào thành... Jacques Hervieux
Rước Lá - Vua đến William Barclay
Theo Chúa đường núi sọ Lm Giuse Đinh tất Quý
Trung thành ... theo Chúa Lm Giuse Đinh tất Quí
Con đường thập giá Sưu tầm
Những bất ngờ Sưu tầm
Ngước nhìn thập giá Sưu tầm
Trung thanh với lời tung hô Sưu tầm
Thái độ Sưu tầm
1. Phêrô
Bài tường thuật sự thương khó Chúa Giêsu, tự bản chất đã chứa
đựng rất nhiều điều đáng cho chúng ta suy gẫm. Bởi đó, phải đọc trong tinh thần
cầu nguyện, để sống lại những chặng đường Chúa Giêsu đã đi qua, để những khổ
đau của Chúa thấm vào tâm hồn chúng ta, cũng như hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận
sứ điệp của Chúa. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta dừng lại ở kinh
nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ vừa tự phụ, vừa yếu đuối lại vừa sám
hối ăn năn.
Qua những giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy
nơi Phêrô có những mâu thuẫn. Một đàng ông nhất quyết trung thành với Chúa và
tìm mọi cách để bảo vệ Ngài. Đàng khác ông không nghĩ tới mưu chước cám dỗ bất
ngờ ập xuống một cách dữ dội, vì quá tin tưởng vào sức riêng, nên thay vì vâng
lời Chúa, thì ông lại phản đối lại lời Ngài. Thực vậy Chúa báo trước cho ông
hay các môn đệ sẽ lìa bỏ Chúa, nhưng ông lại cho đó là chuyện khó tin, không
thể xảy ra được. Chúa còn nói thêm rằng: Chính ông sẽ chối bỏ Ngài trước khi gà
gáy. Lẽ ra ông phải lo sợ, phải cầu xin cho khỏi sa ngã, thì ông lại phản ứng
một cách mạnh mẽ và hết sức tự tin. Ông cảm thấy như không có gì lay chuyển nổi
tình yêu của ông đối với Chúa, nên ông không thể nào chấp nhận lời tiên báo
rằng ông sẽ sa ngã, ông sẽ phản bội. Cuối cùng khi Chúa dặn ông phải tỉnh thức
và cầu nguyện thì ông lại ngủ vùi, cho dù tận đáy lòng, ông vẫn một mực tin
tưởng vào mình.
Từ những vấp ngã ấy, ông đã rút ra một kinh nghiệm đau thương,
được phảng phất qua lời khuyên nhủ sau đây: Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh
thức, vì ma quỷ, kẻ thù của anh em, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn
xé.
Kẻ thù ồn ào và gào thét đã tấn công vào Phêrô, đó là đám đông
đi bắt Chúa và tìm mọi cách để tỏ lộ sự căm phẫn đối với Ngài. Phêrô lo sợ mà
không biết mình lo sợ. Vì không biết mình nên ông đã không thấy rõ sự yếu đuối
của mình, do đó ông đã liều lĩnh theo Chúa xa xa, đến dinh thầy cả thượng phẩm,
ông cả dám mon men đến gần dịp tội. Ông tưởng rằng sự việc rồi cũng kết thúc êm
đẹp như bao lần Chúa đã chấm dứt những hành vi gây hấn của bọn biệt phái. Ông
chờ đợi mà không đề phòng, cho nên đã sa ngã chỉ vì một câu hỏi của người đàn
bà. Ông bối rối, ông sợ hãi và ông đã chối bỏ Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là Phêrô đã hối
hận. Tiếng gà gáy làm cho ông nhớ lại lời tiên báo của Chúa Giêsu. Ở đây, vẻ
cao quý của Phêrô là lòng khiêm nhường, thành thực và tin tưởng dù đã sa ngã.
Ông khiêm nhường vì nhận ngay mình có tội mà không cần phân tích
lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành thực vì không quanh co trong việc nhìn
nhận một lỗi lầm đã nghịch lại lời cam kết với Chúa. Ông tin tướng vì cảm nhận
rằng nhờ nhận lỗi mình một cách thành thật, ông được Chúa khoan dung tha thứ.
Ông khóc vì cảm động. Và đối với một người khí phách như ông, thì đó có lẽ là
cách duy nhất để xin lỗi.
Phêrô sám hối, đã được Chúa tha thứ và hơn thế nữa còn được Chúa
đặt làm đầu Giáo Hội. Chính vì thế, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Chúa,
dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu, nếu chúng ta biết sám hối ăn năn, chắc
chắn chúng ta sẽ được Chúa tha thứ.
2. Vua Bình An – Mc
11,1-10.
Đâu là mục đích của việc Chúa vào thành Giêrusalem một cách long
trọng trong ngày hôm nay?
Mục đích thứ nhất là để ứng nghiệm lời
tiên tri đã nói trước trong Cựu Ước. Thực vậy như nhiều lần chúng ta đã tìm
hiểu, Cựu Ước là hình bóng, còn Tân Ước là thực tại. Cựu Ước thì chuẩn bị, còn
Tân Ước thì thực hành. Tất cả dòng lịch sử của Cựu Ước đều hướng tới cao điểm,
đó là Đức Kitô. Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời của Ngài từ lúc sinh ra cho
đến khi chết và sống lại đều đã được Cựu Ước tiên báo và đã xảy ra rất phù hợp
với lời Kinh Thánh. Điều đó chứng tỏ Ngài thực là Con Thiên Chúa, là Đấng phải
đến để cứu độ nhân loại. Hôm nay khi nhìn thấy Chúa long trọng tiến vào thành,
chúng ta không khỏi nhớ đến lời tiên tri Giacaria đã nói: Hỡi thiếu nữ Sion
hãyvui mừng vì này Vua ngươi đến với ngươi, Ngài hiền từ và khiêm hạ, cỡi trên
lưng lừa con.
Mục đích thứ hai là để chúng ta thấy
Ngài là Đấng Cứu thế. Thực vậy, việc Chúa đi vào thành là một việc nguy hiểm vì
đi vào chỗ chết. Ngài biết rõ giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái đang căm thù Ngài,
muốn hãm hại và tiêu diệt Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ đi. Dân chúng thì tung hô tán
tụng Ngài. Thái độ này càng làm cho bọn biện phái phẫn uất, họ đã thưa cùng
Chúa Giêsu: Xin Thầy bảo dân chúng im đi. Nhưng Chúa chỉ trả lời: Nếu họ im đi
thì đất đá sẽ lên tiếng. Chúa công khai chấp nhận lời dân chúng chúc tụng, và
bằng lòng với những lời chúc tụng ấy.
Sau cùng, mục đích thứ ba
là để chúng ta nhận ra Ngài là một vị vua hoà bình. Trên đường vào thành thánh,
dân chúng trải áo, cầm lành lá trong tay và tung hô Chúa Giêsu là Con Vua
Đavít. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Nhiều
lần họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Hôm nay họ được dịp làm việc đó. Nhưng trong
thâm tâm, họ chỉ nghĩ đến một vị vua trong phạm vi xã hội và chính trị, đến để
giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách nô lệ của đế quốc Lamã.
Thế nhưng Chúa Giêsu cho thấy điều quan trọng hơn hết, đó là
Ngài làm vua trong cõi lòng của họ và muốn chiếm hữu tâm hồn của họ. Hiệu quả
mà Ngài đem đến, đó là sự bình an. Chúa cưỡi trên lưng lừa, đó là dấu chỉ của
vua hoà bình. Cả cuộc đời trần thế của Chúa đã chứng minh điều ấy. Thay vì bạo
động, Ngài đã dùng phương pháp tốt đẹp nhất đó là tình yêu nhân từ của Ngài.
Sức mạnh vũ khí của người Do Thái đã không quật ngã được Lamã, trái lại đã
khiến họ bị huỷ diệt và đền thờ Giêrusalem bị tàn phá vào năm 70. Nhưng Chúa
Giêsu đã đến với họ và chỉ sau mấy mươi năm đã cảm hoá, để rồi Tin Mừng được
rao giảng trên toàn lãnh thổ Lamã. Đế quốc Lamã bị tan rã không phải vì sức
mạnh của binh đội, nhưng chính vì đạo đức của họ đã bị suy đồi, và không chòn
nữa. Đúng như lời Napoléon đã nói: Alexandre, César và cả ta nữa, đã dựng nên
nhiều đế quốc bằng vũ lực. Nhưng những đế quốc đó ngày nay không còn nữa. Còn
Chúa Giêsu, Ngài đã thiết lập vương quốc Ngài trong tình thương, và ngày nay,
vương quốc đó vẫn lớn mạnh. Hằng triệu người vẫn sẵn sàng chịu chết vì Ngài.
Đức Kitô là Đấng cứu thế, là Vua hoà bình. Ngày hôm nay, Ngài
muốn chúng ta tuyên xưng lại hai danh hiệu ấy. Hãy mở rộng cửa tâm hồn để đón
mừng Ngài ngự đến.
3. Ngã rẽ cuộc đời
– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá,
biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say,
kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào
Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng
kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm
nay.
Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì
những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã
phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón
tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá
đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng
đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ
đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người
bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ
trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin
cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn
ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác.
Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa
chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người
khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất
thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người
có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên
Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối
khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani,
Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì
trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm
nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ
đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã
theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng
nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những
người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ
sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe
Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người
ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa,
lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của
hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa
vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và
trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục
Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm
2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ:
“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của
Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại,
các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động.
Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định
này” (Thư chung 2005, 9).
Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang
họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh
Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng
khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực
hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những
chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng
tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ
hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn
trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi
dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương
của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?
2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã
chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống
những cơn cám dỗ kể trên?
3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?
4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?
5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?
4. Nhiệt thành
của thập giá.
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại
tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành
Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập
tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại
là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước
mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không
đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa
nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai
triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật
đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.
Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giê-ru-sa-lem,
thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh
Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 2,17).
Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành” ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu
được đón rước trọng thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với
phong trào chính trị được gọi là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ. Ngoài ra
người ta còn kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước
tòa Philatô: “Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12). Tất cả để
dẫn đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.
Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ
ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức
người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên
bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi
để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến
ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông
Mattathias bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông
cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần,
rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành
đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26).
Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm
dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào
này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và
độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta
cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng
một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa
Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng
bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm
về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả
lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó
không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc
Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.
Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào
Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng
hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của
ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn
ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri
Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh,
còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên
lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của
người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được
bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang,
rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung
của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải
thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự
nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách sống của người
môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Có những lúc người môn
đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa
phải là những hành động bạo lực thì cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù
là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn,
đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết
bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa. “Chúng ta đã biết quá rõ
những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây
dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí
cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ
nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II,
15).
“Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành
chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này
phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu”. Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI
đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình.
Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường
trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta.
5. Lễ lá.
Tại một ngôi nhà thờ nọ ở Tây Ban Nha có một cây thập giá được rất
nhiều người tôn sùng. Đó là tượng chịu nạn tha tội: Chúa Giêsu bị đóng đinh tay
trái, còn tay phải của Ngài thì thõng xuống.
Truyền thuyết kể lại: Có một người tội lỗi tìm đến với cha xứ.
Tuy ông đã xưng thú mọi tội lỗi với lòng sám hối, nhưng cha xứ lưỡng lự không
biết có nên tha cho ông hay không, vì thấy ông phạm quá nhiều tội. Sau cùng,
cha nghiêm giọng nói:
- Tôi ban bí tích Giải tội cho ông, nhưng trong tương lai ông
phải cố gắng sửa mình.
Ông hứa với cha xứ, nhưng vì yếu đuối ông lại sa ngã và một thời
gian sau lại tìm đến tòa cáo giải. Lần này thì cha xứ nói với ông bằng một
giọng nghiêm khắc:
- Tôi ban bí tích Giải tội cho ông lần này là lần cuối cùng đấy.
Ông đã nghe thấy chưa.
Vài tháng trôi qua và ông lại đến quỳ dưới chân cha xứ và năn
nỉ:
- Con thực lòng ăn năn, xin cha tha tội cho con một lần nữa.
Cha xứ đáp:
- Đừng đùa giỡn với Chúa. Tôi không ban bí tích Giải tội cho ông
nữa đâu.
Khi nói thế, cha bỗng nghe thấy có tiếng nấc nghẹn ngào. Rồi từ
trên thập giá, cánh tay phải của Chúa từ từ hạ xuống và ban phép giải tội cho
người tín hữu thành tâm sám hối. Và Ngài nói với vị linh mục:
- Chính Ta đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải là con.
Và cũng từ ngày đó, cánh tay phải của Chúa thõng xuống trong tư
thế ban phép tha tội.
Chính Ta đã đổ máu ra để cứu chuộc con. Lời
ấy chính Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta trong tuần thánh này. Thực
vậy, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê.
Thập giá trước mắt người đời là dấu chỉ của tủi nhục và thất bại, là hình phạt
được dành cho bọn nô lệ và phản loạn. Thế nhưng, Thiên Chúa đã biến đổi nó
thành dấu chỉ của tình thương, của ơn cứu độ và của sự tha thứ. Khi tuyệt đối
trung thành với thánh ý Chúa Cha bằng cách chấp nhận thập giá, như lời thánh
Phaolô đã viết:
- Đức Kitô đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài đã dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị cứu độ của đau
khổ. Con đường Đức Kitô đã đi qua là con đường của đau khổ, của thập giá, của
khiêm nhu, của thất bại, con đường ấy không đưa chúng ta vào ngõ cụt, nhưng dẫn
chúng ta tới vinh quang phục sinh.
Là người môn đệ của Chúa, chúng ta cũng không có một con đường
nào khác ngoài con đường thập giá, tức là chấp nhận những khổ đau trong cuộc
sống như lời Ngài đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Mỗi khổ đau, mỗi hy sinh chúng ta vui lòng chịu vì lòng yêu mến
Chúa sẽ là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô để đền bù tội lỗi, cũng
như để thu tích công nghiệp cho chính bản thân của mình. Và như thế, đau thương
là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn
tới vinh quang phục sinh.
6. Lừa con
chưa ai cưỡi bao giờ.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Trong trình thuật Đức Giêsu vào Giê-ru-sa-lem với tư cách đấng
Mê-si-a, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có
tác giả như Mác-cô và Luca còn xác định chi tiết hơn: Người cỡi lên ‘con lừa
con chưa ai cỡi bao giờ’. Hình ảnh Đức Giêsu khải hoàn tiến vào thành thánh
ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài
(điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua
rặng núi Alpes của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và
sâu sắc đến khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi
trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!...
Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng
Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr
9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như “Các
ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi
trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như
vị tướng quân” (Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa
giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên
ngoài như một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các
diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do Thái, trong đời
thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ
phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả
(Tl 10,3; 1,14; 1Sm 25,23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở
phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi
ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như
ngựa là biểu tượng của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên
lưng lừa!”. Đức Giêsu tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con
Người của đời thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng
Mê-si-a chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền
bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ
thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18,36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết
‘Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật
chở đồ’ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; A-bra-ham sát tế I-xa-ác, và con
lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông
Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ
củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang
ngày thứ ba, ngước mắt lên, Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ:
“Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc
thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh”… Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của
lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi
cả hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa
mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của
dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Ba lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong
tay…’ và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con
lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt
Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con
lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!
Như vậy cảnh tượng Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem
cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế
Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình
ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn
đồng trong Ga 3,14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không
luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót
thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’
phải là như thế, không thể nào khác được!
Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở
miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những
người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa,
biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ
kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không
biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập
giá vì yêu con! Amen.
7. Giờ chiến
thắng vinh quang – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Đức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Người được tôn vinh: "Giờ
đây, Con Người được tôn vinh" (Ga 13, 31).
Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ
điều, rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, bị vác thập giá và cuối cùng là cái chết
thảm thương ô nhục trên đồi Canvê!
Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở đâu? Vì sao Chúa Giêsu gọi đây
là giờ Người được tôn vinh?
Đối với người không am hiểu, cái chết của Chúa Giêsu trên thập
giá là một thất bại não nề; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng
rất oanh liệt và vinh quang.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung.
Đối diện với cuộc kết án bất công, đứng trước những thượng tế,
kỳ mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi
đóng đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời
thách thức, đứng trước đội quân hành quyết dã man tàn bạo... Chúa Giêsu vẫn
không may may oán hận! Người chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ
bến. Người nhìn họ với ánh mắt thương xót, vẫn yêu họ bằng trái tim khoan
nhân... Rồi vì sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, Người tha
thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Người:
"Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23, 34).
Đó là tâm tình đẹp nhất, cao thượng nhất trên cõi đời nầy.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng tính khiếp nhược và lòng tham
sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao cường.
Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua
những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu
nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Người không bị khuất phục bởi cái chết. Người
đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Người đã chấp nhận chết cách can
trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng đau đớn thể xác và đau khổ
tinh thần.
Là người ai cũng sợ khổ và tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng
Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp nhất cách can đảm
phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng tính khiếp nhược của
phận người.
* * *
Qua cách thức Chúa Giêsu đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy
không một thách thức nào làm cho Người lùi bước; không một đe doạ nào làm cho
Người khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Người nổi giận hay mất bình an;
không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến của Người...
Người thắng được bản năng tham sinh úy tử; Người vượt lên trên
nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Người thắng được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản
thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn ác... Trong cuộc khổ nạn
của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua các thách
thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân
mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con
người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng
thay! Vinh quang thay!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã
chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con
là những kẻ đớn hèn khiếp nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách
dễ dàng nhưng giúp chúng con kiên cường chiến đấu chống lại tội lỗi và thói hư,
để mai ngày được khải hoàn vinh quang như Chúa.
8. Bệnh “hùa
theo đám đông”
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Khi làm sai một điều gì đó, người ta thường biện minh rằng:
"Người ta làm sao, tôi làm vậy. Người ta làm bậy, tôi làm theo".
Câu nói này không hẳn là lời nói cho vui mà dường như là căn
bệnh của xã hội qua mọi thời đại. Một cách đơn giản, mỗi khi dừng trước đèn đỏ
mà có một người vượt lên trước, thì y như rằng sẽ có rất nhiều người vượt lên
theo. Lúc này người ta không để ý đến đèn chỉ dẫn mà chạy theo đám đông. Đám
đông làm bậy, tôi làm theo.
Người ta kể rằng: có một cậu bé đang đi trên lề đường bỗng dừng
lại, ngửa mặt lên trời. Có vị giáo sư đi tới, thấy thế cũng ngạc nhiên dừng
lại, ngước mắt nhìn theo. Rồi một bà đứng tuổi đi ngang qua cũng làm y như vậy;
một người, rồi một người nữa… Lúc cậu bé cúi xuống, quay qua quay lại, ngạc
nhiên khi thấy cả chục người đứng chung quanh mình đều ngửa mặt nhìn trời. Cậu
thành thực hỏi: "Ủa! Các ông các bà cũng bị chảy máu cam như cháu
sao?".
Đây là căn bệnh "hùa theo đám đông". Đám đông làm mình
cũng làm. Sự làm theo đám đông đôi khi bất chấp lề luật, bất chấp tội lỗi.
Dường như người ta nghĩ rằng nhờ đám đông mà dảm bớt tội, hay giảm bớt trách
nhiệm. Những bệnh "hùa theo đám đông này", ta có thể thấy nhan nhản
qua các tội: nam nữ sống "góp gạo thổi cơm chung" nơi khá đông tầng
lớp công nhân và sinh viên xa nhà; chuyện phá thai nơi những bà mẹ mang con
ngoài ý muốn; chuyện buôn gian bán lận để có đồng lời trong thời buổi cạnh
tranh mà nhiều người nói rằng "không gian làm sao có lời"; chuyện hối
lộ và tham nhũng để được việc và giữ được ghế lâu dài ...; Lợi dụng đám đông để
người ta phạm tội mà không e ngại, không xấu hổ và nhất là không còn ý thức đâu
là tội. Đám đông làm bậy đã khiến cho tội trở thành điều bình thường như: nói
tục, chửi bậy, nói dối, nói sai sự thật của người Việt nam hôm nay. Đám đông
làm bậy đã làm cho nhiều trẻ nhỏ và những người kém hiểu biết mất ý thức về sự
việc là tội hay không tội. Họ đã làm theo đám đông mà không còn ý thức về căn
tính sự việc.
Lần giở lại lịch sử cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu được
hoan nghênh và kết án, được tôn vinh, và tẩy chảy cũng chỉ một đám đông. Đó
chính là đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem. Họ đã từng tung hô Chúa Giêsu. Họ đã
từng lấy áo lót đường cho Chúa Giêsu đi qua. Họ cầm ngành lá vạn tuế để cùng
nhau tung hô Chúa là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Thế nhưng, cũng đám đông
đó, chỉ nghe nhóm biệt phái và thượng tế định tội Chúa Giêsu, họ đã mau chóng
quay lưng lại với người mà họ đã từng tung hô. Những bàn tay cầm cành lá vạn
tuế lại được giơ lên trong tư thế nắm đấm đòi triệt hạ Chúa Giêsu. Những lời
tung hô đầy niềm vui được thay bằng những lời hằn học đầy căm phẫn. Có lẽ có
rất nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ trong đám
đông đó còn có rất nhiều người đã từng nhận ân nghĩa của Chúa Giêsu. Thế nhưng,
họ đã bị đám đông lôi cuốn vào chuyện gian ác để đòi đóng đinh người vô tội
trên thập tự giá.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người công chính bị hạ bệ, bị
lấy mất thanh danh bởi đám đông đang rỉ tai nhau bỏ vạ, cáo gian, nói hành, nói
xấu ...
Dòng đòi hôm nay vẫn còn đó những người bị tước mất tất cả danh
dự, lẫn vật chất vì đám đông hãm hại mà không biết thanh minh từ đâu.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những bất công khi đám đông cuồng
tín bất chấp lề luật toa rập với nhau hãm hại người công chính.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người công chính dám bảo vệ
chân lý lại bị đám đông tẩy chay theo chủ nghĩa đồng cảm chứ không đồng thuận.
Dòng đời hôm nay tội lỗi vẫn lan tràn, khi mà đám đông đã không
đủ tỉnh thức để hồi tâm, để dừng lại. Nhưng lại hùa theo nhau để làm bậy đến
mức độ mất ý thức về tội.
Đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem đã toa rập với nhau giết hại
người công chính. Có lẽ, họ đã hối hận sau cái chết của Chúa Giêsu. Có lẽ, họ
đã hoảng sợ khi nghe tin Ngài đã từ cõi chết sống lại. Nhưng đã muộn. Giu-đa đã
tự vẫn. Phê-rô xấu hổ. Viên đội trưởng chỉ thở não nề mà nói "Người này
thật là Con Thiên Chúa". Đám đông xôn xao lo lắng. Tất cả đã muộn khi sự
ác chiến thắng. Người công chính đã bị kết án tử hình.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống yêu thương. Tình yêu
thương đòi buộc chúng ta đừng làm điều gì có lỗi với lương tâm. Tình yêu đòi
buộc chúng ta vượt trên đám đông, trên dư luận để đừng hùa theo đám đông mà
phải can đảm bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải. Tình yêu đòi buộc chúng ta phải
sống trung thực với chính mình, biết tôn trọng sự thật và can đảm bảo vệ sự
thật. Đừng vì sợ hãi mà im lặng để bất công lan tràn, sự dữ ngự trị.
Xin cho mỗi người chúng ta luôn tỉnh thức trước sự dữ, luôn có
lập trường vững chắc trong cuộc sống. Xin đừng vì nhát đảm mà làm ngơ trước bất
công nhưng luôn can trường bảo vệ chân lý và sự thật. Amen.
9. Vác đỡ Thánh
Giá Chúa – PM. Cao Huy Hoàng
Vào Tuần Thánh với Lễ Lá, bài Thương khó đã kể lại cho chúng ta
nghe về Con Một Thiên Chúa mang thân phận con người với tên Giêsu. Ngài đã cô
đơn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu như bị bỏ rơi, chấp nhận hóa thân mình nên
thần lương cho nhân loại, bị chính môn đệ phản bội nộp thầy cho quân dữ, bị
đứng trước vành móng ngựa, nghe bản cáo trạng hàm oan, rồi lại nghe tuyên án tử
hình, chịu vác thập giá, đánh đòn, đội mão gai, té ngã trên đường lên Núi Sọ,
và cuối cùng, chịu đóng đinh và chết thật.
Đó là cái giá phải trả để chuộc lại tội bội phản của tổ tông
loài người. Cụ thể hơn, chỉ có hy tế thập giá của Chúa Giêsu mới là lễ dâng đẹp
ý Thiên Chúa Cha, để nhờ án tử hình của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa Cha xóa đi bản
án tử hình đời đời cho con người.
Tham dự vào cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu với lòng biết ơn
Người đã mang lại cho chúng ta niềm hy vọng được tham dự vào cuộc sống vĩnh cửu
của Thiên Chúa, nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa Cha.
Có người đặt vấn đề khá thời sự rằng: Chúa Giêsu đã chịu thương
khó, đã chết và sống lại hai ngàn năm rồi. Chúng ta đang nghe việc thuật lại
như một chuyện kể, một cổ tích. Làm sao chúng ta có thể lại bước đi trên Đường
Thương Khó với Chúa Giêsu nữa?!? Thật mơ hồ.
Tôi đồng ý với bạn rằng: chúng ta không tận mắt thấy Chúa Giêsu
đổ mồ hôi máu trong đêm Vườn Dầu. Nhưng thiết tưởng, chúng ta có thể thấy rất
cụ thể từng nếp nhăn cằn cỗi trên khuôn mặt của những Chủ Chiên ngày qua ngày
phải đối phó với bầy quân dữ của Satan đang rình mò cắn xé Giáo Hội là Thân Thể
Chúa Giêsu Kitô. Xin đừng nghĩ là các Chủ Chiên đang vô tư, vô tình, vô cảm
trước những bức bách mang tính chủ trương và toàn diện đang xảy ra trong và cho
Giáo Hội địa phương của mình. Nhưng nên nghĩ là các Ngài đang đổ mồ hôi máu mà
thưa với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống
chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi”.
Những chủ chiên ấy, không chỉ là những Giám Mục, Linh Mục, mà cụ
thể hơn là bạn, là tôi, là tất cả những người làm ông bà, cha mẹ, anh chị đang
mang trong mình trọng trách bảo vệ Đức Tin cho những thành viên non trẻ của
mình trước những trận cuồng phong duy vật, vô thần, vô cảm, vô nhân đạo, vô
lương tâm, vô luân lý.
Một người bạn tôi, đã từng là Đại Chủng Sinh Giáo Hoàng Học Viện
Đà Lạt, từng Giáo Lý Viên dự tòng và hôn nhân nhiều năm liền tại Giáo Xứ của
mình, hôm nay, thầy lại đành bó tay, đành cắn răng chờ xem người con rể tương
lai vốn con nhà Cộng Sản kia định liệu thế nào cho số phận con gái mình khi đã
trót “ăn cơm trước kẻng”: có thể là nó chịu theo Đạo để cưới vợ, cũng có thể là
nó bảo Đạo ai nấy giữ, rồi cũng có thể là nó xúi dại con gái mình phá cái thai
ấy đi. Thật là đau khổ! Thế rồi, đúng là nhà ông sui của thầy đã ép thằng nhỏ
phải bắt con gái thầy phá thai. Hai vợ chồng thầy đau khổ lắm. Đêm đêm bên ngọn
đèn dầu thầm thĩ kêu van xin Chúa sáng soi cho con gái mình biết đường mà tuân
giữ lề luật của Chúa.
Tôi vẫn nghĩ là sự chọn lựa để bảo vệ Đức Tin, để trung thành
với lề luật Chúa, để tuân hành thánh ý Chúa cũng làm cho người yêu mến Chúa đến
phải đổ mồ hôi máu như Chúa vậy.
Một cha giải tội cho một hối nhân thường xuyên, lần nào xưng tội
cũng bấy nhiêu tội tày trời ấy, có khi còn nặng nề hơn. Cha vừa nghe tội vừa
khẩn khoản tha thiết kêu xin lòng thương xót Chúa đến độ vã cả mồ hôi, lạnh ớn
người ngay trong Tòa Giải Tội.
Những người đau đầu nhất, đang đổ mồ hôi máu nhất hiện nay có
phải là những Giám Mục, Linh Mục, những chủ chiên đang “lựa chiều bẻ lái” cho
con chiên của mình một cách ứng xử Công Giáo nhất trước tình trạng thế quyền
quá lộng quyền đối với Sự Sống con người hiện nay. Nếu con người thời bây giờ
biết rằng: vài chục năm trước đã có chủ trương phá thai cách toàn diện, cấp
quốc gia như thế, thì hẳn đã không thể còn có chính họ hiện diện trên đời ngày
hôm nay để chủ trương phá thai nữa. Là những người bảo vệ Đức Tin Công Giáo,
làm chứng cho Chân Lý của Thiên Chúa, nối tiếp công cuộc Sáng Tạo và Cứu Rỗi
của Thiên Chúa, không đổ mồ hôi máu được sao?
Cũng vậy, chúng ta không thấy cảnh Chúa Giêsu bị bắt bớ, không
tham dự phiên tòa xét xử Chúa Giêsu, không thấy những vết bầm tím trên thân
mình Chúa Giêsu khi bị quân dữ đánh đòn, không thấy Chúa Giêsu vác thập giá,
ngã lên ngã xuống trên đường lên đồi cao chịu chết, hoặc nếu có thấy, thì thiết
tưởng, cũng chỉ là thấy qua những bản vẽ do các họa sĩ.
Thế nhưng chúng ta có thể thấy được tận mắt các tín hữu của Chúa
đang bị bắt bớ giam cầm tra tấn khắp nơi nơi đấy chứ? Nhất là, trong thời đại
truyền thông nầy, thì tin tức về những chuyện bắt oan các tín hữu, bỏ tù gian,
ném đá giấu tay, hay mượn tay người gây thương tích cho các Linh Mục trên đường
Mục Vụ đều có thể truyền đi nhanh như chớp, làm sao mà lấy “thúng úp voi được”?
Ấy vậy, những chuyện “quả tang”, “công khai” tra tấn những người theo Chúa Kitô
trong Giáo Hội Chúa Kitô đang diễn ra hàng ngày khắp nơi và cả trên đất nước
chúng ta, mà chúng ta nói rằng chúng ta không tham dự được với Thập Giá Chúa
Kitô sao?
Tại nơi chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn đang bị bán đứng với
giá 30 đồng bạc, có khi ít hơn chỉ vài đồng, hoặc chỉ cần là sự đổi chác một
chỗ ngồi, chỗ đứng cho vinh thân phì gia. Chúa Giêsu vẫn đang chịu bao lời phỉ
báng, bôi nhọ, hạ nhục. Chúa Giêsu vẫn đang bị bắt bớ giam cầm, đánh đập tra
tấn, đổ máu và cả mất mạng nữa. Vâng cuộc Thương Khó Chúa Giêsu đang hiển hiện
nơi các tín hữu Chúa.
Như vậy, tín hữu Công Giáo Việt Nam vào cuộc Thương Khó với Chúa
Giêsu không chỉ là những giờ ngắm rằng, ngắm đứng, ngắm quì sốt sắng đến rơi
lệ, không chỉ là những vành khăn tang trắng xóa quấn trên đầu suốt Tuần Thánh,
không chỉ là những cử hành Phụng Vụ long trọng trong Thánh Đường, không chỉ là
những việc chay tịnh sám hối chỉ với Chúa, mà thiết tưởng còn phải cụ thể hơn
là: khẩn cấp nhận ra và tham dự vào nỗi lo, niềm đau của các chủ chiên, của các
tín hữu khắp nơi trên đất nước.
Là con cái trong nhà, xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá
cho cha mẹ mình trong việc lo cái ăn, cái mặc, cái học và nhất là trong việc
bảo vệ đời sống Đức Tin trước những nguy cơ. Là con chiên trong một đoàn chiên
Giáo Hội, xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá cho những Chủ Chiên, những
tín hữu đang gặp bức bách, giam cầm, tra tấn. Là tín hữu Công Giáo trong xã
hội, xin dâng những hy sinh và chia sẻ niềm đau thương của mọi người, niềm đau
do gian ác, bất công, đàn áp, niềm đau của bệnh hoạn tật nguyền, niềm đau của
những mảnh đời nghiệt ngã không ai giống ai…
Đang viết bài này, tôi nhận được cú điện thoại của chị H, có
người chồng 15 năm bại liệt, mọi sinh hoạt tại chỗ, con trai lớn cột sống dính
khớp 9 năm nay cũng nằm luôn một chỗ cho chị H. lo lắng, con trai thứ có vợ tận
Cà Mau, con gái út vừa đi học đi làm ở Sàigòn, nhà mái tôn rách nát. Mùa mưa
tới rồi, chẳng biết tính sao? Tôi có thể trả lời rằng trong cuộc Thương Khó của
Chúa Giêsu đâu thấy có cảnh bại liệt hay dính khớp cột sống để từ chối một cảm
thông được không?
Tôi bỗng nghe tiếng lòng nhắc bảo: xin đừng vừa sốt sắng tham dự
Phụng Vụ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu lại vừa dửng dưng vô tâm trước cảnh
thương khó của biết bao người.
Lạy Chúa, Thánh Phanxicô đã thưa: “Xin cho con biết mến yêu và
phụng sự Chúa trong mọi người”. Xin cho chúng con cũng nhận ra Chúa Giêsu đang
đau buồn, thương tích, bị nhục mạ, bắt bớ, giam cầm, đánh đập nơi những anh chị
em chúng con, và cho chúng con nhiệt tình vác đỡ Thánh Giá của anh em, như vác
đỡ Thánh Giá Chúa Giêsu vậy. Amen.
10. Thập giá,
tình yêu cứu độ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay được mở đầu với bầu khí hân
hoan phấn khởi qua nghi thức rước lá nhằm tưởng nhớ lại việc Đức Giêsu khải
hoàn vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng tung hô Chúa Giêsu “Hosana, chúc
tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Nhưng liền sau đó, phụng vụ Lời Chúa lại
trình bày cho chúng ta con đường thập giá và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua bài
thương khó. Giáo hội muốn làm nổi bật Mầu nhiệm Thập giá trong suốt Tuần thánh
để người Kitô hữu xác tín: Thập giá, tình yêu cứu độ. Thập giá, con đường vinh
quang phục sinh.
Sau đây, chúng ta chiêm ngắm cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua Tin
mừng thánh Marcô vào dịp lễ Vượt Qua năm 30; lễ vượt qua cuối cùng trong cuộc
đời của Chúa Giêsu. Hôm đó, người ta đổ về Giêrusalem để mừng lễ, nhiều người
ngoại quốc cũng đến để chung vui với người Do Thái vào dịp đại lễ này. Họ chứng
kiến một vị ngôn sứ là Chúa Giêsu bị kết án tử hình đóng đinh thập giá. Người
ta tố cáo Ngài với hai tội danh là phạm thượng “tự xưng mình là Thiên Chúa” và
tội phản động chống lại hoàng đế Rôma “Người này nói dân nổi loạn”. Nhưng trước
mắt toàn dân, quan án Philatô xét xử và xác nhận: Ông Giêsu không có tội, ta
truyền đánh đòn và tha ông.
Các thượng tế, luật sĩ, biệt phái nhất định giết Đức Giêsu. Họ
sách động dân chúng lên án Chúa Giêsu “đóng đinh nó vào thập giá”. Sau cùng
Philatô đã viết bản án “đóng đinh ông Giêsu” và tha cho tên trộm cướp giết
người là Baraba.
Để cứu độ nhân loại, Đức Giêsu đã chấp nhận án tử hình thập giá,
chấp nhận chết để cứu sống nhân loại tội lỗi. Con đường Đức Giêsu đã đi là con
đường thập giá, con đường tử nạn để cứu nhân loại khỏi tội và đưa con người vào
cõi sống muôn đời như lời thánh Phêrô đã nói: “Tội lỗi của chúng ta, chính
Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội
lỗi, chúng ta sống cuộc đời công chính” (1Pr 2, 24). Vì thế Giáo hội đã hướng
nhìn thập giá với niềm tin:
“Ôi Thập giá, phước lành thế giới,
Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan”
(Thánh thi kinh trưa Thứ sáu tuần thánh)
Thập giá là đỉnh cao của con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã
dành cho nhân loại được thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu Kitô: “Không có
tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu dám chết cho người mình thương. Đức Giêsu
đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân, đó là bằng chứng Thiên
Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Chúa Giêsu chết trên thập giá: một cái chết yêu thương, tự
nguyện, tha thứ để con người được cứu sống: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì
chúng lầm không biết”. Chỉ khi Chúa chết mới giải quyết được mọi vấn đề liên
quan tới sự kiện Đức Giêsu Kitô “Ngài là ai”? Người Do Thái thời Chúa Giêsu
không thể chấp nhận Ngài là Đấng Messia, bởi người ta chỉ trông chờ một Đấng
Messia có tính cách chính trị để giải phóng dân Do Thái khỏi đế quốc Rôma. Họ
không thể hiểu được “Đấng Cứu Thế phải chết thay cho muôn người”, “Đấng Messia
cứu độ”. Qua cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta tìm được lời giải đáp về căn
tính của Đức Giêsu.
Chính khi Đức Giêsu tắt thở trên thập giá, là lúc Chúa Giêsu trở
nên Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại như lời Ngài đã nói trước: “Phần Tôi,
một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”.
Chính lúc Chúa chết là lúc Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết, vì
Ngài đã chu toàn sứ mạng cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chính giờ phút Chúa chết là
lúc Chúa được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Chứng kiến Chúa chết trên thập giá, viên sĩ quan Rôma đâm cạnh
sườn Chúa đã phải thốt lên với niềm tin vào Đức Giêsu: “Ông này quả thật là con
Thiên Chúa”. Người trộm bên hữu cùng chịu đóng đinh đã tuyên xưng đức tin vào
Chúa Giêsu: “Ông Giêsu ơi! Khi Ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi… Tôi bảo
thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 42-43).
Dưới chân thập giá nhiều người đã đấm ngực và tuyên xưng niềm
tin vào Đức Giêsu “Ông này quả thật là Con Thiên Chúa”.
Cái chết đầy yêu thương và tha thứ của Chúa Giêsu đã tìm ra lời
giải đáp cho câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và là
Thiên Chúa thật.
Bước vào Tuần thánh là bước vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô và
cũng là hành trình tiếp cận tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa.
Bước vào Tuần thánh là đi vào cuộc hành trình tiến lên đỉnh cao
phục sinh với Đức Giêsu. Nhưng sẽ chẳng có Đức Giêsu phục sinh nếu không có Đức
Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết. Sẽ chẳng có chiến thắng vinh quang, nếu không
có chiến đấu gian nan và đau khổ tột cùng trên thập giá. Thật đúng như tục ngữ
Hoa Kỳ: “Không có thập giá, không có triều thiên, không có đau khổ, không có
thắng lợi. (No cross, no crown, no pain, no gain).
Đón nhận khổ giá với sức mạnh của tình yêu là đồng hành với Đức
Kitô trên con đường cứu thoát chính mình và tha nhân. Như thế, thập giá, tình
yêu cứu độ; Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
11. Suy niệm của Lm.
Giuse Phạm Ngọc Khuê
Chủ đề: Chúa Giêsu, Người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa,
chịu chết vì sự sống trần gian.
Chết vì người khác là một nghĩa cử anh hùng, cao quý luôn được
người đời tán dương và ca ngợi.
Cha Maximilian Kolbe, Linh mục dòng Thánh Phanxicô khó khăn,
được cả thế giới biết đến vì một nghĩa cử anh hùng. Bị bắt giam trong nhà tù
Auschewitz. Tại đây người ta áp dụng một đạo luật hết sức tàn nhẫn và bất công:
nếu một người trốn trại thì người khác phải chết thay. Mục đích là để các tù
nhân tự coi nhau. Năm đó, một tù nhân trốn trại, tất cả được gọi xếp hàng chờ
tên cai ngục chỉ gọi tên. Gọi tên ai thì người đó phải chết. Một tù nhân được
gọi tên mình, anh khóc lóc kêu gào vì còn cha mẹ già, vợ và bốn con. Đột nhiên
một tù nhân bước ra khỏi hàng đến trước mặt tên quản trại: “Tôi muốn chết thay
cho người này”. Hắn hết sức kinh ngạc trước hành động anh hùng của người tù.
Hắn gằn giọng: “Mày là ai?” “Là linh mục công giáo”. “Không cần biết danh tính
địa vị, ngu thì chết, vào hàng”. Thế là mười người được dẫn đi, bị bỏ đói cho
đến chết. Cha Maximilian Kolbe là một trong số họ.
Ngày 10 tháng 10 năm 1982, Cha được Đức Giáo Hoàng J-P. II tôn
phong lên hàng các thánh tử đạo. Một người đã chết vì sự sống của anh chị em
mình. Cha thật là hình ảnh của Đức Kitô, Mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh
tính mạng vì đoàn chiên: “Ta đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào”
(Jn 10, 10).
Câu chuyện cha Maximilian Kolbe mở lối cho chúng ta vào phụng vụ
Lời Chúa hôm nay: Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa, chịu nạn,
chịu chết vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách Ngôn sứ Isaia, phác họa chân dung Người
Tôi Tớ Chúa:
· Là Người được Chúa huấn luyện để phục vụ lợi ích cộng đoàn,
nhất là những người bé nhỏ, nghèo hèn, bất hạnh: Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi
đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Chúa huấn
luyện để ngài luôn sống trong tỉnh thức, luôn sẵn sàng tìm kiếm và đáp trả
thánh ý Chúa.
· Là Người ngoan ngoãn dễ dạy, khiêm tốn, hiền lành như con
chiên bị dẫn đi làm thịt, không mở miệng than van, hiền lành nhẫn nại dạy đường
lối Chúa cho kẻ bất lương với châm ngôn: cây lau bị dập, Người không bẻ gãy,
tim đèn còn khói, Người không dập tắt.
· Là Người can đảm cứ đường lối Chúa mà đi, nghĩa là cương quyết
sống trong và bảo vệ chân lý, chứ không phải là hạng người cuồng tín và liều
lĩnh.
Người Tôi Tớ mẫu mực này chỉ có thể đậu lại nơi Chúa Giêsu, nơi
Ngài hội tụ đến mức hoàn hảo các nhân đức mà Ngôn sứ Isaia diễn tả.
Marcô, trong bài Tin Mừng, ghi lại bản án tuyên đọc trên Chúa
Giêsu. Chủ đích của ngài, không nhằm kê khai những tội trạng người ta vu khống
và gán cho Chúa, nhưng đề cập đến những ân huệ dẫy tràn trên chúng ta trong
cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa:
Ân huệ lớn lao nhất là bí tích Thánh Thể. Trong khi cử hành lễ
Vượt Qua theo truyền thống Do Thái, Chúa Giêsu muốn sống lại biến cố được giải
thoát khỏi kiếp nô lệ Ai-Cập, đồng thời Ngài muốn thực hiện cho dân mới một lễ
Vượt Qua mới mà chiên vượt qua là chính bản thân Ngài được hiến tế vì chúng ta.
Này là Mình Ta, này là Máu Ta, máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các
con và nhiều người được ơn tha tội, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Ân
huệ ấy được thực hiện trong thời gian cho đến tận thế, vì lẽ, mỗi khi bí tích
Thánh Thể được cử hành là mỗi lần ơn cứu độ chúng ta được thực hiện.
Hồng ân sự sống được ban tặng trong sự chết của Đức Giêsu, Người
Tôi Tớ Thiên Chúa. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã thực hiện kế hoạch của Chúa
Cha: “Nơi cạnh sườn của Đấng bị đâm thâu qua, máu và nước chảy ra, từ đó phát
sinh các bí tích của Hội Thánh, để lôi kéo mọi người đến cùng trái tim rộng mở
của Đấng Cứu Thế, thì muôn đời hân hoan kín múc tận nguồn ơn cứu độ” (kinh tiền
tụng lễ Thánh Tâm).
Người kitô hữu không coi thập giá là phương tiện hành hình tội
nhân, mà coi như dấu chỉ của sự bình an, của tình yêu, ơn tha thứ và sự sống:
“Phần tôi, khi nào được giương cao lên khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với
Tôi” (Ga 12, 32). Do vậy, trong ngày thứ sáu tuần thánh, chúng ta tôn vinh thập
giá của Đấng chịu đóng đinh: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi
Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta” (phụng vụ thứ sáu
tuần thánh).
Đức Giêsu vì yêu thương đã tự hiến, tự hủy mình ra không vì
chúng ta và vì sự sống trần gian. Thánh Phaolô, trong bài đọc II, nhìn thấy
thập giá trong biến cố Ngôi Lời nhập thể: “Đức Giêsu Kitô, tuy là thân phận
Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa ...”.
Trong sự tự hủy “trở nên người”, Ngài đã kéo chúng ta lên địa vị làm con Thiên
Chúa.
Bạn thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta điều này: Thiên Chúa
rất mực yêu thương, rất khôn ngoan lo liệu hết mọi phương thế để chúng ta được
ơn cứu độ và được sống. Chúng ta có thâm tín rằng: Chúa yêu tôi và Ngài đã chết
vì tôi không? Đây là câu trả lời hệ trọng, vì nó kéo theo cả cuộc đời vào trong
tâm tình cảm mến tri ân Đấng đã yêu thương và chết vì chúng ta là kẻ có tội.
Khi anh em còn là tội nhân thì theo kỳ hẹn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta là
những kẻ có tội.
Để cảm tạ và đáp đền lòng Chúa yêu thương, mỗi người chúng ta
cần có lòng sám hối, ăn năn và nhất là sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. Một
đời sống phù hợp với Tin Mừng: công bằng, chính trực, bác ái, yêu thương, nhất
là xây dựng tình hiệp thông từ trong gia đình tới cộng xã hội nơi chung ta cùng
chung sống.
Một khi đã được mặc lấy Chúa Giêsu, anh em đừng theo lối sống
xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Nếu cuộc
đời chúng ta sống tâm tư của Chúa, chắc chắn sẽ có con người mới, gia đình mới,
xã hội mới và một thế giới mới.
Xin Chúa thương chúc lành cho chúng ta trong ngày Chúa Nhật Lễ
Lá hôm nay. Amen.
12. Ông này là ai vậy?
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút
vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán
tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm
tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò
reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách
làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe bài
thương khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa
lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi,
điều đó khó hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ nạn, ta sẽ
thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta
đón nhận mọi gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những đau noun trên thân xác Chúa, nhưng đừng
quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là đừng quên nhận ra một
Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm
cho khổ đau sinh trái.
Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết
thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô
đơn và giết chết.
Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau
khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn Dầu đến tận
Núi Sọ.
Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ
mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá
của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người
khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì
đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại
sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi
khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa
ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con
hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà
không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự
yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho con tim con rướm
máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
13. Xin đừng theo
ý con (Mc 11, 1-10).
Suy Niệm
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui, nhưng cũng là ngày tưởng niệm
cuộc khổ nạn của Chúa. Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Đức Giêsu được đón rước vào thành, giữa tiếng
hò reo vang dậy. Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa, đi trên con
đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ. Không có tiếng tung hô,
chỉ có lời kết án. Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó, và thấy mình
dửng dưng, xa lạ, bàng quan. Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa là vì
tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi, và bước theo Chúa
qua từng chặng đường. Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này. Cần cảm nghiệm
được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài. Họ ngủ say để mặc Ngài một
mình khắc khoải. Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ hôn. Các môn đệ sợ hãi bỏ
Ngài mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.
Đức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi
đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Không rõ đám
đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Đức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn khi Ngài cảm thấy
chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người nay bị khạc
nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi. Đôi mắt với cái nhìn bao dung ấy nay bị bịt lại
để làm một trò chơi trẻ con. Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người giờ đây
được phơi ra cho những trận roi cầy nát. Đôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành,
nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo
đường truyền giáo, nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng. Đức Giêsu bị bắt làm
hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm
vương trượng. Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không? Đức Giêsu bị lột
áo trước khi bị đóng đinh. Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày, và giúp
tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu khổ đau như bao người trên mặt đất: bị xét xử bất
công, bị áp bức và hãm hại. Hôm nay, bạn có thấy những người đang vác thập giá
với Chúa trên khắp thế giới không? Họ là ai?
Bạn có nhận ra thập giá của một người trong gia đình, trong
nhóm, trong môi trường sống của bạn không? Bạn đã làm gì để giúp họ trong mùa
Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người
nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức
đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực
sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được
tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật
được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được
bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với
trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con
biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
14. Cuộc khải
hoàn của Người Tôi Trung
(Suy niệm của Đức ông James M. Reinert – Đan Quang Tâm dịch)
“Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại
đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!”
Cũng như Thánh Mátthêu và Thánh Luca, Thánh Máccô sử dụng lời
ngôn sứ của Dacaria mô tả việc Đức Giêsu vào Giêrusalem. Điều lý thú về lời
ngôn sứ này là sự tương phản: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi
thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến
với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng
lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9).
Ta có thể hỏi liệu có thể nào vừa khải hoàn và chiến thắng mà
đồng thời vừa khiêm tốn. Bằng cách chọn đi vào Giêrusalem theo phương cách
Người đã làm, Đức Giêsu cho người ta thấy Người thực sự thuộc loại vua
nào. Người khải hoàn nhưng không đắc thắng. Người đã giảng dạy như một mục tử,
chứ không phải như một vị tướng quân. Những ai nghe Người nói hoặc chứng kiến
phép lạ Người làm thì bây giờ được gọi để làm chứng về các kinh nghiệm của họ.
Họ làm chứng bằng cách tuyên xưng Đức Giêsu là “Con của Đavít”, ca tụng Thiên
Chúa Cha đã gửi đến đấng cứu thế mà người ta mong đợi từ lâu.
Theo Thánh Máccô, Đức Giêsu chắc chắn biết ý nghĩa của điều
Người chuẩn bị làm. Người sai các môn đệ đi tìm con lừa con, giải thích một
cách chi tiết điều sẽ xảy ra. Khi ta đồng hành với Đức Giêsu và các Tông đồ
trong mấy ngày sắp tới, ta sẽ thấy một số hình ảnh sẽ nhắc nhở ta về sự kiện
Đức Giêsu, Con Đavít, đã đến cứu chúng ta và giải thoát chúng ta.
Điều lý thú cần ghi nhận là, theo các Phúc âm Nhất lãm, câu
truyện thương khó không trực tiếp theo sau việc đi vào thành Giêrusalem. Trong
Phúc âm Máccô có hai chương tách việc vào thành với trình thuật Bữa Tiệc Ly.
Chương khải hoàn vào Giêrusalem dịu giọng một chút và lại tập
trung vào Sách Ngôn sứ Isaia. Ta nghe về “Người Tôi Trung của Chúa” – lời tiên
tri thứ hai trong ba lời tiên tri của Isaia nói về Đấng Mêsia. Trong những đoạn
này, ta đi đến chỗ nhận biết bản chất đích thực của Đấng Mêsia – Người xuất
hiện không phải như một vị vua vinh quang mà như người tôi tớ khiêm tốn.
Trong Thư gửi Tín hữu Philípphê, Thánh Phaolô kiện toàn sự nhận
biết đó. Trong “bài thánh ca Philípphê”, ông bảo ta rằng Đức Giêsu này thực sự
là ai và Người đã làm gì cho ta: “…Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi
bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự!” Tất cả điều này cho ta thấy rằng
đây là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa. Những lời hứa trong Cựu Ước được
thành sự và chúng ta trở thành các nhân chứng. Với tư cách là người làm chứng,
ta được kêu gọi hãy đáp ứng lại.
“Nơi Người, luôn luôn có thể nhận ra dấu chỉ sống của tình yêu
khôn lường và siêu việt đó của Thiên-Chúa-ở-với-chúng-ta, Đấng mang lấy những
thương tích tật bệnh của dân mình, đồng hành với họ, cứu thoát họ và hợp nhất
họ nên một. Trong Người và nhờ Người, có thể tái khám phá cuộc sống trong xã
hội, dù cuộc sống còn đầy mâu thuẫn đối kháng và nhập nhằng tranh tối trang
sánh, như một nơi chan chứa sự sống và hy vọng: đó là dấu hiệu của ân sủng
không ngừng được đề nghị ban tặng cho mọi người, và đó cũng là lời mời gọi hãy
vươn đến những hình thức chia sẻ ngày càng cao hơn và tích cực hơn.
Đức Giêsu Nadarét đã làm cho mối dây liên kết giữa liên đới vào
bác ái sáng chói trước mặt mọi người, chiếu sáng toàn bộ ý nghĩa của mối dây
liên kết này: “Dưới ánh sáng đức tin, liên đới tìm cách vượt qua chính nó, mang
lấy các chiều kích Kitô giáo cụ thể là trao ban một cách hoàn toàn vô điều
kiện, tha thứ và hoà giải. Lúc ấy, người gần bên chúng ta không những chỉ là
một con người có những quyền lợi và về cơ bản, bình đẳng với hết mọi người, mà
còn là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha, đã được máu Đức Giêsu Kitô cứu
chuộc và được đặt dưới tác động trường kỳ của Thánh Thần. Thế nên, phải yêu
thương tha nhân, cho dù đó là kẻ thù, bằng cùng một tình yêu mà Thiên Chúa yêu
thương họ; và chính vì ích lợi của người ấy mà ta hãy sẵn sàng hy sinh, thậm
chí hy sinh đến mức cuối cùng: hy sinh tính mạng vì anh em (x. 1 Ga 3,16)”
(Sách Tóm lược HTXHGH, 196).
Khi nghe trình thuật Thương Khó theo Thánh Mátthêu, bắt đầu với
việc thoả thuận phản bội Đức Giêsu và chấm dứt với việc Philatô lệnh cho chính
quyền canh gác ngôi mộ, ta nhìn các lời tiên tri trong Cựu Ước dưới một ánh
sáng mới. Ta cũng thấy diễn tiến của các biến cố xoay quanh cuộc thương khó,
bắt đầu với trình thuật Bữa Tiệc Ly và việc thiết lập Bí tích Thánh Thể theo
đúng sứ mạng mục vụ của Đức Giêsu. Người đã đến với chúng ta và đã đề nghị tặng
ban một món quà vĩ đại. Nếu ta chấp nhận món quà đó, ta được mời gọi đáp trả
lại Người trong cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người.
15. Cô đơn – Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền
Có bao giờ bạn cảm thấy cô đơn khi lạc vào chốn đông người,
nhưng lại xa lạ, tìm một người quen để chào hỏi, để bắt tay cũng chẳng thấy.
Lúc đó có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy trống vắng tận cõi lòng. Đây cũng là ca từ
của bài hát “Khi người lớn cô đơn”. Lời hát được viết như sau:
Thành phố bé thế thôi
Mà tìm hoài chẳng được
Tìm hoài sao chẳng thấy nhau giữa chốn đông người
Nỗi cô đơn càng dâng cao khi mà giữa phố xá đông người mà chẳng
có ai đó của riêng mình để yêu thương, để chăm sóc, quan tâm . . .
Thành phố bé đến thế thôi
Mà tìm hoài không thấy
Chút ấm áp, chút yêu thương riêng mình.
Nỗi cô đơn thật quạnh hiu khi mà ngồi bên ai đó nhưng cũng xa
lạ, không tìm được sự thông cảm, sự chia sẻ giữa tình người với nhau.
Rồi có những đêm mưa
Nằm nghe câu ca rất xưa
Từ radio phát lên, nghe thật buồn (buồn lắm)
Người lớn cô đơn, tự mình trong bao nghĩ suy
Ngồi bên ai sao thấy riêng tôi quạnh hiu!!!
Người ta nói cô đơn là cho đi mà không có người nhận, là muốn nhận
mà chẳng có ai cho. Tựa như hai bờ sông liền nhau mà vẫn cách biệt. Thấy nhau
mà vẫn ngăn sông cách trở nên chẳng qua lại được với nhau. Cô đơn bị ngăn cách
không phải bởi không gian mà ngăn cách của cõi lòng. Khi con tim xa nhau thì
ngồi bên nhau vẫn như xa lạ.
Thế nên, càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay
nghiệt. Càng gần nhau mà không tìm được sự cảm thông thì nỗi cô đơn càng cay
đắng hơn. Có thể nói nỗi cô đơn khi bị chính người mình yêu thờ ơ trước sự
thống khổ của ta có khi còn đau đớn hơn tù đầy, có khi u ám hơn sự chết, vì đây
là nỗi cô đơn của dửng dưng, của sự bỏ rơi nơi những người ta yêu.
Cô đơn có thể đưa tới sợ hãi và tuyệt vọng. Kinh nghiệm đau
thương này có thể xẩy ra cho con người trong mọi thời đại, nhất là thế giới hôm
nay, một thế giới văn minh có đầy đủ mọi phương tiện để hưởng thụ, nhưng tình
con người lại xa cách nhau. Họ ít quan tâm đến nhau. Họ sợ liên đới với nhau.
Họ chủ trương “Makeno” cho yên thân. Con người của thời đại văn minh vẫn có thể
chết cô đơn trên đống nhung lụa của mình. Đây là lý do mà con số người tự tử
ngày một tăng, tỷ lệ nghịch với sự phát triển của văn minh nhân loại. Nhân loại
càng văn minh thì càng có lắm kẻ cô đơn.
Chúa Giêsu cũng từng nếm trải sự cô đơn giữa những người mình
thương. Ngài ở cùng các môn đệ nhưng không tìm được sự ủi an. Một mình vẫn cô
đơn trong đêm tối đầy sao! Ngài đã từng ngao ngán nói rằng: “Các con không thức
với Ta một giờ sao!”. Ngài cần các môn đệ chia sẻ với Ngài trong đêm tối của sự
dữ nhưng các ông vẫn tìm cho mình một cõi đi về trong cơn say của ngủ mê. Nỗi
cô đơn ấy đã dâng cao trong nhiều giờ phút cuối đời Ngài khi bị treo lơ lửng
giữa trời và đất, làm trò cười cho những người xung quanh. Ngài lại còn cảm
thấy như bị chính Chúa Cha bỏ rơi. Ngài đã đi đến tận cùng sự cô đơn của con
người.
Nhưng chính trong nỗi cô đơn cùng cực ấy mà Ngài đã mạc khải cho
chúng ta thấy một lối thoát giữa cô đơn là sự tín thác vào Thiên Chúa. Ngài đã
hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác nơi Cha”. Chính niềm tín
thác ấy đã giúp Ngài vượt qua được nỗi cô đơn để bình thản đón nhận cái chết cô
đơn.
Cuộc đời thật hạnh phúc biết bao nếu cuộc sống mang đến cho ta
những người bạn. Những người bạn để có thể đi bên ta trong những khó khăn, cầm
tay ta trong những lúc thất bại, và có lẽ cuộc đời sẽ không cô đơn khi mà cuộc
sống thật bận rộn nhưng vẫn có người dành cho ta 3 giây chỉ để nói “xin chào”
thật thân thương, hay chỉ gửi một tin nhắn 3 chữ “chúc bình an” là đủ ấm lòng
những con tim đang lạnh giá!
Nhưng nếu cuộc đời có những lúc cô đơn thì đừng bao giờ tuyệt
vọng. Hãy theo gương Chúa Giêsu để tín thác mọi sự cho Thiên Chúa. Thiên Chúa
không bao giờ bỏ rơi chúng ta ngay cả khi người mẹ có bỏ con thì Chúa vẫn ở bên
ta. Ngài có đủ quyền năng để có thể rút ra điều tốt từ điều xấu. Thiên Chúa
chính là thành lũy vững chắc nhất cho cuộc đời chúng ta.
Xin cho cuộc đời chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng, nhưng luôn
tin tưởng, phó thác cậy trông nơi Chúa trong những gian nguy của cuộc đời.
Amen.
16. Vâng phục ngay cả
chấp nhận cái chết
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Biến cố chi phối toàn bộ đời sống Kitô hữu, là biến cố Đức Giêsu
chết và phục sinh. Qua biến cố này, Kitô hữu nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên
Chúa, và Đức Giêsu trở thành gương mẫu sống cho mọi Kitô hữu.
I. Người Tôi Tớ Đau Khổ của Yavê
Bài ca thứ ba về người tôi tớ Yavê trong sách tiên tri Isaya cho
thấy hình ảnh người tôi tớ Yavê, luôn lắng nghe và vâng phục Thiên Chúa; Ngài
đã bị đánh, bị xỉ nhục; tuy nhiên, người tôi tớ Yavê luôn tin tưởng và trông
cậy Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ Yavê được thấy nơi các tiên tri, chẳng
hạn như tiên tri Yêrêmia, và hình ảnh này được thấy thật rõ nét nơi Đức Giêsu.
Đức Giêsu không đi tìm cái chết. Ngài không muốn chết, và Ngài
sợ đau khổ như bất cứ ai khác: “Ngài bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người
nói với các tông đồ: tâm hồn thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh
thức” (Mc.14, 33-34). Ngài cầu xin với Thiên Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm
được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm theo điều con muốn, mà
làm theo điều Cha muốn” (Mc.14, 36).
Đức Giêsu đã chia sẻ thân phận con người cho đến cùng. Ngài chia
sẻ sự sợ hãi, chia sẻ nỗi buồn, cả nỗi buồn đến độ muốn chết được. Đức Giêsu sợ
hãi cái chết, vì con người khi đứng trước cái chết luôn run sợ. Đức Giêsu đã
vượt thắng nhờ cầu nguyện và lòng tin tưởng phó thác. Con người chỉ có thể an
bình trước cái chết với một niềm tin và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Không phó thác cho Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình, con người không thể an
bình đón nhận cái chết. Khi nói như vậy, không có nghĩa những người không là
Kitô hữu không thể có cái chết an bình, trong trường hợp này, Thiên Chúa chính
là Đấng Tuyệt Đối mà họ tin, hoặc ít là, Đấng là chủ lương tâm họ.
II. Đức Giêsu vâng phục cho đến chết
Đức Giêsu không chỉ là người. Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Khi
Ngài còn đang sống, không ai dám tin và nhờ đó mà biết thân phận của Ngài, tuy
dù đã có những lần Ngài mặc khải: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30), “không ai
biết Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt.11, 27), “ông này
phạm thượng. Ai có quyền tha tội ngoại trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7), “trước
khi có Abraham, đã có Ta” (Ga.8, 58), “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên
hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62).
Không những không ai dám tin, kể cả các tông đồ, vì làm sao các
ngài có ý niệm “Thiên Chúa nhập thể” hay “Thiên Chúa làm người.” Tất cả những
điều này hoàn toàn xa lạ với con người. Chỉ sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết,
các tông đồ mới dần dần hiểu trọn vẹn về Ngài: “Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài
sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật” (Ga.16, 13). Không có sự trợ giúp của Thiên
Chúa, con người không thể nhận biết về Ngài.
Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng thuộc về Thiên Chúa
hoàn toàn đến độ Ngài và Cha là một (Ga.10, 30). Ngài có quyền tha tội (Mc.2,
7), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Và sau đó tác giả tin mừng
theo Yoan viết: “Từ nguyên thủy đã có Lời, Lời vẫn ở nơi Thiên Chúa, và Lời là
Thiên Chúa… Lời đã thành xác phàm” (Ga.1, 1.14). Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu,
tuy là thân phận Thiên Chúa, nhưng không đòi cho được ngang bằng Thiên Chúa”
(Pl.2, 6). Ngài thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ nói Ngài là Thiên Chúa,
nhưng Ngài vẫn khác Cha. Ngài vẫn luôn quy hướng về Cha qua cầu nguyện (Mc.1,
35), qua việc lấy Ý Thiên Chúa làm của ăn của uống cho Ngài (Ga.4, 34), đến độ
Ngài xịn cho Ý Cha được thể hiện nơi Ngài (Mc.14, 36; Mt.6, 9-10). Ngài vừa là
Thiên Chúa, vừa khác Thiên Chúa: Ngài là Lời Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là
Ngôi Hai. Nói một cách nôm na, không thể tách Ngài khỏi Thiên Chúa. Ngài vừa
khác với Thiên Chúa, vừa là một với Thiên Chúa.
III. Vạn tuế Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến
Phụng vụ hôm nay cho thấy Đức Giêsu vào thành Yêrusalem và được
dân chúng long trọng đón rước như một vị vua, vị vua được Thiên Chúa xếp đặt và
sai gởi tới. Người ta trải áo lót đường, chặt nhành cây trải lối để vị vua
thiên sai đi qua. Dân chúng hôm nay đón tiếp Ngài vì coi Ngài là Đấng Thiên
Sai, nhưng chỉ mấy ngày sau những người dân này đã xin Philatô đóng đinh Đức
Giêsu, vì cho rằng Ngài lộng ngôn phạm thượng: “dám cho mình là Con Thiên Chúa”
(Ga.19,5), dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Người Do Thái không thể hiểu tại sao một người lại có thể là Con
Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế nên khi phải xử tử Đức Giêsu, họ hoàn toàn ý
thức và cho rằng họ làm đúng hoàn toàn: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và
trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25). Sự thật về Đức Giêsu vượt quá sức hiểu
biết của con người. Chân tính của Đức Giêsu không ai có thể ngờ được. Dân chúng
Do Thái chỉ muốn giết một tên phạm thượng, vì đối với họ, làm gì có chuyện
Thiên Chúa nhập thể. Chính vì vậy, họ không ngờ rằng họ giết Thiên Chúa.
Đức Giêsu cứ sống như Ngài là. Ngài làm điều phải làm, nói điều
phải nói. Số phận Ngài nằm trong tay của Thiên Chúa tình yêu. Tuy dù lo lắng
xao xuyến như bao người, nhưng cuối cùng Ngài vẫn phó thác, tin tưởng trông cậy
tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu trở thành gương và mẫu mực sống cho mọi
Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao người công chính phải đau khổ và phải chết?
2. Tại sao Đức Giêsu, người công chính, bị hành hạ và phải chết
ô nhục trên thập giá như vậy?
3. Xin bạn tìm ba chỗ trong Tin Mừng Máccô Đức Giêsu loan báo
Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Theo bạn, tại sao Đức
Giêsu lại thốt lên khi bị treo trên thập giá “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” khi
đã có lúc Ngài biết rõ ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại?
17. Chúa Giêsu lên
Giêrusalem
(Fx. Phạm Đình Phước – viết dựa theo Bênêđictô XVI, Gesù di
Nazaret. Dall'ingresso in Gerusalem fino alla risurrezione, LEV, Città del
Vaticano 2011, pp.11-21)
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta rằng vào ngày lễ Vượt Qua, Chúa
Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương diện địa lý, có thể nói rằng chuyến đi này
là một hành trình đi lên theo nghĩa đen. Quả vậy, biển Galilê thấp hơn mặt nước
biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn mực nước biển 460 mét nữa, như thế hành trình
của Chúa Giêsu có độ cao gần 760 mét.
Đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên
Giêrusalem là "thánh giá", nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho
nhân loại, "yêu mến cho đến tận cùng" (Ga 13,1). Nhưng mục đích gần
nhất của hành trình này là tiến lên Đền Thánh Giêrusalem, và dự lễ Vượt Qua của
người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu khởi hành cùng với nhóm Mười Hai, nhưng dần
dần trở thành một đoàn người hành hương đông đảo. Mátthêu và Máccô thuật lại
cho chúng ta rằng có "đoàn lũ đông đảo" theo Chúa Giêsu từ thành
Giêricô.
Bên vệ đường của cuộc hành trình có một người mù ăn xin tên là
Bartimêô. Anh biết Chúa Giêsu trong đoàn hành hương, nên anh xin Chúa thương
xót và chữa lành anh: "Lạy Thầy, xin cho con được thấy", và Chúa
Giêsu đã chữa lành anh. Khi được chữa lành, Bartimêô gia nhập đoàn hành hương
tiến lên Giêrusalem (Mc 10, 48-52).
Từ làng Betphagiê và Bêtania khi đến núi Cây Dầu nơi mọi người
đang đón chờ Đấng Messia, Chúa Giêsu sai hai môn đệ và bảo hai ông:"Các
anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó,
có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói
gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay"
(Mt 21, 2-3). Thánh Máccô thêm một chi tiết thú vị là “con lừa chưa ai từng
cỡi” (Mc 11,2). Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. Sự việc
này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri Da-ca-ri-a: “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa
Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Dcr
12, 15). Việc Chúa Giêsu tiến vào thành “trên lưng lừa” cho thấy Chúa Giêsu
diễn tả vương quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm tốn và trong
bình an của Thiên Chúa.
Việc “mặc áo choàng” mang ý nghĩa vương đế trong truyền thống
Israel (x. 2 V 9, 13). Các môn đệ đã biểu lộ hành động tôn vinh Chúa Giêsu “lên
ngôi”. Đông đảo khách hành hương thấy nhiệt tâm của các môn đệ cũng trải áo
choàng xuống trải xuống mặt đường, chặt nhành chặt lá mà rải trên lối đi. Dân
chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy và tung hô: “Osanna, chúc
tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11, 9; Tv 118, 25).
“Osanna” có nghĩa là “xin cứu giúp chúng con”. Vào
ngày thứ bảy của dịp Lễ Lều, vị tư tế đi xung quanh xông hương bàn thờ 7 lần và
lặng lẽ lập lại lời đó để cầu xin mưa thuận gió hòa. Vào các dịp lễ, dân chúng
hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem, tay vừa phất các cành lá linh thánh vừa
hát các câu tung hô. Khi các dịp lễ như thế biến thành những lễ hội của niềm
vui, thì lời cầu xin cũng trở thành lời reo vui phấn khích. Trong bối cảnh ngày
lễ, khách hành hương diễn tả niềm vui, niềm hy vọng là Đấng Messia sẽ thiết lập
vương quyền trên Israel.
“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” là lời đón chào
khách hành hương ngay cửa thành Thánh hay ngay cửa Đền Thờ. Nhưng câu này còn
mang một ý nghĩa khác nữa như trong thánh vịnh 118 "Từ nhà Chúa, chúng tôi
chúc lành cho anh em", là lời cầu chúc của các thượng tế dành cho khách
hành hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem. Ở đây, lời chúc lành cho khách hành
hương trở thành lời ngợi khen Chúa Giêsu, Đấng nhân danh Chúa mà đến: Chúa
Giêsu được chào đón như Đấng dân đang mong chờ và Đấng được loan báo qua mọi
lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại việc Chúa Giêsu được tôn
vinh ngay của vào thành Giêrusalem; thánh Mát-thêu còn ghi lại rằng "khi
Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động xôn xao". Các thánh sử cũng
cho thấy rằng những kẻ tôn vinh Chúa không phải là những người dân trong thành,
mà là những người hành hương, những người cùng đồng hành với Chúa Giêsu; họ
cùng với Chúa bước vào thánh thánh Giêrusalem.
Khi vào đền thánh, ngay sau việc thanh tẩy đền thờ, thánh sử
Mátthêu tường thuật thêm hai chi tiết khác. Trước hết, Chúa Giêsu nói về đền
thờ là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc và “có những kẻ mù loà và què quặt
đến với Ngài trong đền thờ. Ngài đã chữa họ lành”. Chúa Giêsu tỏ hiện như một
Đấng yêu thương và quyền năng của Ngài là quyền năng tình yêu. Như thế, Ngài
dạy các kitô hữu về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và
thiện tâm săn sóc. Hơn nữa, Mat-thêu còn nói rằng các trẻ em reo hò trong đền
thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương trong đền thờ: “Hoan
hô Con Vua Đavít” (Mt 21, 15). Để vào Nước Thiên Chúa thì một trong những điều
cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Chúa Giêsu, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế
giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ con người, đưa họ về với
Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, thì cần thiết phải từ bỏ sự kiêu hãnh và
để gặp Thiên Chúa thì cần phải nhìn bằng con tim, phải học để nhìn với một tâm
hồn trẻ thơ và với một tâm hồn tươi trẻ.
Thánh thi Benedictus được đưa vào phụng vụ như muốn nói rằng đối
với Giáo Hội, ngày Chúa Nhật Lễ Lá không thuộc về quá khứ. Như ngày xưa Chúa
Giêsu cỡi lừa bước vào thánh thánh, Giáo Hội đón nhận Chúa Giêsu đang đến với
chúng ta cách khiêm tốn trong bánh rượu. Giáo Hội chào đón Chúa Giêsu trong bí
tích Thánh Thể đang đến và ngự giữa cộng đoàn.
Mỗi Kitô hữu hãy đón chào Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể như
Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và đón chào Đấng hiện diện luôn mãi và Đấng
sẽ ngự đến trong vinh quang. Như khách hành hương vào đến thánh Giê-ru-sa-lem,
mỗi một kitô hữu được mời gọi gặp Chúa trong Thánh Thể.
Với lễ Lá, các Kitô hữu đang bước vào tuần thánh, với cao điểm
của phụng vụ Kitô giáo là Tam Nhật Thánh. Phụng vụ trong những ngày này thuật
lại sự thương khó, khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu độ
cho nhân loại, kể cả những người, cho dẫu không biết Thiên Chúa, sống với lòng
ngay thẳng và chân thật.
Con người được dựng nên để sống và sống để yêu mến: yêu mến Chúa
và để yêu thương nhau. Thiên Chúa là tình yêu, đã sáng tạo muôn loài, đã tạo
dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha để đem lại yêu thương cho con người.
Thiên Chúa cho con người được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự
Thật, và là Sự Sống”, để cho họ “được sống dồi dào” và sống viên mãn trong tình
yêu.
18. Những im
lặng sau tiếng hoan hô
(Lm Trịnh Ngọc Danh)
Lần thứ ba, Chúa Giêsu tiên báo về sự chết và sự sống lại của
Ngài: “Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng
tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình Người, và nộp Người cho dân
ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người và ngày
thứ ba Người sẽ sống lại”. (Mc. 10,33)
Thế là Thầy trò lên đường đi lên Giêrusalem. Chúa Giêsu dẫn đầu
đi trước các môn đệ và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi.
(Mc. 10,32)
Khi đến gần thành Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphagê, giáp núi Cây
Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào
làng, các con sẽ gặp một con lừa cột sẵn, trên lưng nó chưa hề có ai đã cỡi,
các con hãy cởi dây mà dắt về đây.” Nếu có ai hỏi thì bảo Chúa cần dùng rồi
Ngài sẽ trả lại ngay. Hai môn đệ dẫn lừa con về, trải áo lên mình lừa và Ngài cỡi
lên. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt cành cây trải lối đi: kẻ đi
trước, người theo sau tung hô: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến:
chúc tụng nước Đavít tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời”.
Chúa Giêsu đã long trọng tiến vào thành Giêrusalem bất chấp
những đối thủ đang hầm hực tìm cách bắt Ngài. Đến thành Giêrusalem, Ngài tiến
vào đền thờ và sau khi đã quan sát mọi sự, thấy trời đã xế chiều, Ngài về
Bêtania cùng với nhóm mười hai môn đệ.
Vinh quang trong ngày Lễ Lá chỉ là một thoáng qua và sau đó là
những gì sẽ xảy ra? Thưa, đó là những bội phản, những trốn chạy, những a dua và
những im lặng khó hiểu.
Chúa Giêsu im lặng
Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa xét xử, Ngài đã bị áp giải đến
dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín vào thời đó, nhưng lại là người
có ác cảm với Chúa Giêsu. Ông muốn biết cặn kẽ về Ngài, nhưng ông cũng không
khai thác được gì, vì Ngài vẫn một mực giữ thái độ im lặng. Tức giận, ông
truyền áp giải Chúa Giêsu sang cho Caipha, con rể của ông đang làm thượng tế
năm ấy.
Caipha cho triệu tập 72 thành viên của Thượng Hội Đồng, tòa án
tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều vị đã đứng lên tố cáo Chúa Giêsu
là lộng ngôn, phạm thượng dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, đã công khai
tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem và xây lại trong ba ngày, đã nhiều lần vi phạm
qui luật về ngày Sabbat…Trước những lời tố cáo ấy, Chúa Giêsu vẫn im lặng không
một lời phân bua, biện hộ. Và Ngài chỉ trả lời cho Caipha những gì Ngài cần
phải nói khi ông hỏi Ngài có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không, Ngài đã
trả lời: “Đúng như lời ngài nói”. Và Caipha bực tức, xé áo và tuyên bố: “Chúng
ta còn cần chi đến nhân chứng nữa! Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông
nghĩ sao?” Ai nấy đều lên án Ngài đáng chết. Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô
hộ, người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự ưng
thuận của chính quyền Rôma. Nên sáng hôm sau, họ lại áp giải Chúa Giêsu tới tòa
tổng trấn Philatô, một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma
tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, thay vì tố cáo Chúa Giêsu về tội thuộc lãnh
vục tôn giáo, họ lại chuyển những lời tố cáo sang lãnh vực chính trị: tội tự
xưng là vua dân Do thái. Philatô thấy không có gì đáng kết tội, nhưng thấy họ
lại càng hung hăng dữ tợn hơn đòi đóng đinh Chúa vào thập giá; vì muốn tránh né
trách nhiệm, ông đã chuyển vụ án qua cho Hêrôđê, một người từ lâu đã muốn gặp
Chúa Giêsu, nhưng gặp rồi, ông lại thất vọng vì Ngài chẳng thỏa mãn được tính
tò mò ham vui của ông. Ông đã hùa với lính để chế diễu Chúa, rồi trao trả lại
cho Philatô.
Tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng Philatô rửa tay thanh minh mình
vô can trong việc đổ máu người vô tội và sau cùng đã buông xuôi trao Chúa Giêsu
cho họ để mặc cho họ hành động theo ý họ. Họ đã bắt Chúa vác thập giá, đóng
đinh vào thập giá và cuối cùng Ngài đã chết trên thập giá.
Từ đầu vụ án cho đến lúc kết thúc, Chúa Giêsu đã im lặng trước
những gì người ta vu khống. Không một lời kháng cáo, không một lời biện hộ.
Cái im lặng của Chúa Giêsu là vâng phục, là chấp nhận trong tinh
thần tự nguyện, không oán trách, không kêu ca: “Lạy Cha, nếu có thể được thì
cho con khỏi uống chén này, nhưng không phải theo ý Con mà xin vâng theo ý
Cha.” Chính vì tinh thần tuân phục theo ý Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã im lặng
chấp nhận những gì sẽ xảy đến.
Sự im lặng như thế phải chăng là một hình thức im lặng như
Euripide đã nói: “Im lặng là thú nhận”, là xác nhận những lời người ta tố cáo
như: “phá đền thờ, ba ngày sẽ xây dựng lại, tự xưng là Con Thiên Chúa, là vua
dân Do thái”. Tất cả những lời tố cáo ấy là đúng như Chúa đã từng nói; nhưng
khi bị người ta xuyên tạc, bóp méo tố cáo là “xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản
nộp thuế cho Xêsarê…” thì Chúa Giêsu lại im lặng không một lời thanh minh, cải
chính! Với suy nghĩ của con người, thì đây là một sự im lặng khó hiểu!
Nếu những lời tố cáo là chân lý, là đúng sự thật thì tại sao con
người lại kết tội. Phải chăng tiếng nói thiện tâm đã bị tà tâm bắt im tiếng!
Lương tâm im lặng.
Philatô biết rõ chỉ vì ghen ghét mà người ta đã nộp Ngài (Mt.
27: 18), đã tuyên bố:“ Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi”
(Mt. 27: 24), “ Ta không thấy người này có tội gì” (Lc. 23: 4), “ Ta không thấy
nơi người này có lý do để kết án” (Ga. 18: 38). Thế mà ông lại không dám quyết
định, lại sợ đụng chạm đến uy thế và quyền lợi của mình, và cuối cùng đã xếp
Con Thiên Chúa ngang hàng với một tên trộm cướp.
Các thầy thượng tế và toàn thể công nghị cố tìm cho được một
chứng cớ buộc tội Chúa Giêsu để giết Ngài, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ
cáo gian Ngài, nhiều kẻ làm chứng gian, nhưng chứng cớ của họ không ăn khớp.
Cáo gian, làm chứng gian để buộc tội một người vô tội như thế là hợp tình, hợp
lý ư? Thế mà họ cứ khăng khăng cho là sự thật; vậy lương tâm ngay thẳng của họ
ở đâu? Phải chăng nó đã chết, đã buộc phải im hơi lặng tiếng để cho ác tâm, thù
hận, ghen ghét lên tiếng!
Thỏa hiệp, đồng ý, đồng lõa với những gì sai trái, những gì
không đúng sự thật là im lặng với chân lý, với lẽ phải. Một sự im lặng khó
hiểu!
Lòng tin và lòng mến im lặng
Hơn ai hết, các môn đệ là những người theo Chúa, được Chúa yêu
thương dạy dỗ để mai sau còn tiếp nối công việc của Ngài, thế mà vào những giấy
phút gay go nhất thì có người đã đang tâm bán đứng Thầy mình với mấy chục đồng
bạc như Giuđa Iscariốt; có người đã nhiều lần thề thốt sống chết với Thầy,
nhưng trước hiểm nguy lại ba lần chối bỏ Thầy mình: Tôi không biết, tôi không
quen..Dường như tất cả các môn đệ đã rút vào bóng tối vì sợ liên lụy, sợ nguy
hiểm đến tính mạng..
Về phía dân Do thái, họ đã từng theo Chúa Giêsu để nghe Ngài
giảng dạy giáo lý, đã được thấy Ngài làm nhiều phép lạ, đã được cho ăn no nê.
Hôm trước, người ta lớn tiếng: Hoan hô Con vua Đavít, thì hôm sau lại gào thét:
Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập gia! Và nhục nhã hơn, họ xem người họ đã từng
tin tưởng không bằng tên trộm khét tiếng là Baraba!
Sợ liên lụy, tin hời hợt, a dua, phản bội…phải chăng đó là bất
trung, bất tín! Là những im lặng khó hiểu nơi những người mang danh Kitô hữu!
Qua thái độ im lặng của các môn đệ và của dân Do thái, có lẽ đây
cũng là cơ hội để chúng ta xét đến thái độ im lặng của chúng ta ngày nay.
Có những lúc chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu im lặng để nghe
theo thánh ý Thiên Chúa, để chấp nhận những nghịch cảnh, những bất ưng vì Thiên
Chúa và có những lúc chúng ta không được im tiếng khi cần phải bảo vệ công lý
và lẽ phải, khi cần phải loan báo Tin mừng đến cho muôn người nhận biết.
Với một tâm tình đơn sơ, chân thật, chất phát của trẻ em, chúng
ta hãy bắt chước trẻ em Do thái reo vang ca tụng: Hoan hô Con vua Đavít; chúc
tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Đừng như dân Do thái: Hoan hô! Chúc tụng Đấng
nhân danh Chúa mà đến, rồi lại nhất quyết đòi đóng đinh Chúa vào thập giá, lại
xin tha Baraba, một tên trộm cướp và giết Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại.
19. Tình Chúa Tình Người – Lm.
Giuse Trần Việt Hùng
Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội bắt đầu cử hành Chúa Nhật Lễ Lá.
Có nghi thức làm phép lá, phát lá và kiệu lá. Chỉ những người trong đạo mới
hiểu được ý nghĩa của ngày Lễ Lá. Khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem thì các
trẻ Dothái cầm nhành ôliu đi đón Chúa, lấy áo trải xuống đường và reo vang ca
tụng rằng: Hoan hô con vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Lạy vua
Israel! Hoan hô trên các tầng trời! Tiếp theo, chúng ta nghe bài Bài Thương Khó
với những diễn tiến xảy ra mấy ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên trần gian. Dân
chúng hùa theo với quân lính và những kẻ thù ghét Chúa Giêsu với những lời phản
bội sát phạt: Xin phóng thích Baraba và giết đi, đóng đinh nó vào thập giá.
Những cành lá tung hô đã cuốn thành vòng gai nhọn đặt trên đầu của Chúa.
Chương trình cứu độ trải dài suốt dọc lịch sử của dân Dothái,
từng biến cố xảy ra đều mang dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hiện
diện sát cánh qua mọi biến cố thăng trầm với dân riêng của Người. Tình yêu của
Thiên Chúa đã thắng vượt sự dữ và tội lỗi. Tình Chúa bền vững thiên thu không
hề thay đổi trong khi lòng người đổi thay. Biết bao lần chính Dân mà Chúa đã
chọn, bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại bang được đúc bằng đất đá. Dân chúng quay
lưng chạy theo những đam mê sắc dục, tiền tài danh vọng và tìm thoả mãn mọi đòi
hỏi của bản năng thấp hèn. Tiên tri Daniel đã thân thưa cùng Chúa: “Tôi đã cầu
xin Chúa là Thiên Chúa của tôi, đã thú nhận và thưa Người rằng: Chúng con đã
phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa
các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài” (Dn 9,4-5).
Tình yêu Chúa cứ dõi theo những con người lạc bước và tạo cơ hội
cho họ trở về như dụ ngôn ‘Người cha nhân hậu’ hay còn được gọi là ‘Người con
hoang đàng’ (Lc 15,11-32).
Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong lầm lạc, nhưng đã ban và
phó thác chính Con của mình làm của lễ cứu độ. Chúa Giêsu đã phán: “Tôi chính
là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”
(Ga 10,11).
Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa và là Đấng được Xức Dầu
đã hoàn tất mọi lời tiên tri đã loan báo về Người. Biến cố thương khó đã xảy ra
và ứng nghiệm mọi lời đã tiên báo.
Biến cố Chúa Giêsu được đón rước vào thành Giê-ru-sa-lem thì vắn
gọn. Sự vinh quang trần thế tuỳ thuộc vào con người chỉ có thế, luôn đổi thay.
Từ những lời hoan hô ca ngợi mau chóng biến thành những lời nguyền rủa, chế
giễu và kết án. Cách đối xử của con người thật là vô ơn bội bạc. Chúa dạy dỗ, chữa
bệnh, xua trừ ma quỷ, cho ăn uống no say và dẫn về đàng thật nhưng lòng người
thì tráo trở, lật lừa và đổi trắng thay đen. Chúa Giêsu đón nhận tất cả sự xỉ
nhục này như của lễ dâng tiến lên Chúa Cha. Chúa gom tóm tất cả tội lỗi xấu xa
của con người để đóng gim vào thánh giá. Của lễ châu báu trên thập giá là giá
máu cứu chuộc.
Mỗi người nghe bài tường thuật sự Thương Khó của Chúa Giêsu với
những tâm tình khác nhau. Có người nghe qua bài Thương Khó và nghĩ đây là một
câu truyện đáng thương thuộc quá khứ. Đôi người lại có thái độ như khách bàng
quan coi sự sống chết của Chúa Giêsu chẳng liên quan gì tới đời sống tâm linh
của họ. Có người cảm thương sự đau đớn và khổ nhục của Chúa, nhưng rồi lại có
thái độ thù ghét, kết án dân Dothái, chính quyền, trưởng tế, quân lính, người
phản bội và các đồng bọn đã giết Chúa. Hôm nay, chúng ta nên có một tâm tình
tôn kính về sự thương khó của Chúa. Chúng ta suy gẫm và chiêm niệm từng lời
nói, từng hành động, từng giọt mồ hôi, giọt máu rơi xuống và từng bước chân ngã
quỵ trên đường tiến lên Núi Sọ. Tất cả mọi khổ đau về tinh thần và cũng như thể
xác của Chúa đều là sự trả giá cho tội lỗi và bất trung của loài người.
Các lãnh đạo tôn giáo và chính quyền đã toa rợp để tiêu diệt một
người công chính. Vì yêu thương nhân loại, Chúa đã chấp nhận tất cả mọi khổ
đau. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu đang mạnh khoẻ, đã bị bán, bị bắt, bị chối bỏ,
bị xét xử, bị xỉ nhục, bị đánh đập, bị đói khát và bị hành hạ cho đến chết trên
thập giá. Mỗi một hành vi lên án dù nhỏ mọn cũng đã góp phần đưa đến sự chết
của Chúa. Chúa không than van trách móc, nhưng còn thương xin Chúa Cha tha thứ
cho lỗi lầm của họ. Mầu nhiệm của tình yêu gắn liền với mầu nhiệm của sự đau
khổ. Sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu là cao điểm của ơn cứu độ.
Đây là Lễ Vượt Qua mà Giao Ước mới được ký kết bằng Máu Châu Báu của Chúa.
Chúng ta có thể gọi các hành vi xấu ấy là tội lỗi của thế gian.
Tội bất trung, tội phản nghịch, tội làm chứng dối, tội cáo gian, tội đoán xét,
tội thù ghét, tội xỉ vả lăng nhục, tội hại người, tội bất công, tội đồng loã,
tội gian tà và tội giết người bằng môi miệng, thái độ và hành động. Tất cả các
tội đổ dồn trên đầu, trên vai, trên những bước chân trần và trong trái tim đầy
lòng thương xót của Chúa. Qua bài Thương Khó của Chúa, chúng ta đừng gán ghép
tất cả những tội lỗi giết Chúa cho quân Giudêu xưa. Không phải thế đâu! Chúa
chịu hy sinh đền tội chung cho cả nhân loại. Khi chúng ta phạm tội là chúng ta
lại tiếp tục quất những vết roi hằn trên thân mình Chúa. Thánh Phaolô đã kể lại
là trong khi đi ruồng bắt các tín hữu, có một luồng sáng đánh ngã ông: Tôi ngã
xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?
Tôi đáp: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người nói với tôi: “Ta là Giêsu Nazareth mà
ngươi đang bắt bớ” (Cv 22,7-8).
Qua mọi thời, có một số người cứ muốn loại Chúa ra khỏi cuộc
sống. Chối bỏ Thiên Chúa để con người được hoàn toàn tự do làm chủ đời mình. Đi
tìm tự do để có thể thực hành điều mình mong muốn. Những ước muốn của con người
thường là để xuôi theo dòng lạc thú tạm thời. Mọi thoả mãn vẫn không đáp ứng
được những khao khát thầm kín thẳm sâu trong tâm hồn. Một số người muốn có thêm
quyền lực, thêm danh vọng và thêm hưởng thụ. Họ tìm cách tiêu diệt mọi chướng
ngại trên đường để tìm thỏa mãn quyền lực và ý riêng mình. Cha ông chúng ta đã
giết chết các sứ giả, các tiên tri được sai đến và cả người Con Một Yêu Dấu của
Thiên Chúa cũng bị loại trừ và giết bỏ.
Các thứ tội lỗi của chúng ta hôm nay cũng giống như các tội phản
nghịch của người xưa, đều làm phật lòng Chúa. Mỗi khi phạm tội, chúng ta lại
đâm thấu trái tim và đóng thêm gai nhọn vào thân mình Chúa. Thân mình Chúa
chính là Giáo Hội của Ngài. Trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và
chúng ta là chi thể. Thánh Phaolô nói về sự liên kết giữa Chúa Kito và Hội Thánh:
“Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep
5,32). Khi chúng ta phạm tội là chúng ta xúc phạm đến Chúa và chi thể của Chúa.
Mùa Chay mời gọi chúng ta xét mình và xin ơn tha thứ để sửa mình. Giáo Hội
không ngừng kêu gọi con cái mình hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm để được
ơn cứu rỗi.
Trong Tuần Thánh, mỗi người chúng ta dành ít phút thinh lặng và
chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trần trụi trên thập giá. Chúng ta có thể
hợp dâng lên Chúa tất cả những đau buồn, sầu khổ, chán nản, bị đổ vạ cáo gian,
bị hàm oan, những lời châm chọc chỉ trích, nỗi cô đơn và tất cả những khổ đau
của cuộc đời. Xin cho được ơn thông phần nhục nhã với Chúa trên khổ giá để đền
vì tội của chúng ta. Xin Chúa thương tha thứ và ban sức mạnh để chúng ta tiếp
tục vác thánh giá theo Chúa mỗi ngày. Chúa sẽ trao triều thiên vinh thắng cho
những ai bền đỗ đến cùng.
20. Suy niệm của Lm.
Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý OBACE, bầu khí phụng vụ của ngày lễ lá hôm nay gợi
lên cho chúng ta nhiều sắc thái và tâm trạng khác nhau, vừa hân hoan, vừa trầm
buồn, lúc đầu lễ, với cuộc rước lá tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành
Giê-ru-sa-lem trong tiếng reo vang của người Do Thái: Hoan hô Con Vua Đavít,
chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, thì liền sau đó bước vào thánh lễ, chúng
ta lại được nghe thuật lại sự thương khó của Chúa Giêsu. Chính sự tương phản
này cũng đã phần nào nói lên sự thay lòng đổi dạ của con người, sự tráo trở của
những người Do Thái ngày ấy.
Tiếng reo mừng hoan hô của những người Do Thái ngày Chúa vào
thành Giêrusalem, là tiếng reo thể hiện một sự mong đợi hoàn toàn có tính cách
thế tục, họ chờ đợi không phải là một Đấng Mesia cứu thế, mà là mội vị vua trần
thế, họ nghĩ rằng đã đến lúc Chúa Giêsu khởi nghĩa xưng vương quy tụ dân chúng
nổi dậy chống lại đế quốc Roma. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không làm vua trần thế,
mà Ngài tiến vào Giêrusalem hình ảnh thành đô của Thiên Chúa, không phải để làm
chính trị, mà để xây dựng một vương quốc tình yêu và thiết lập vương quyền của
Thiên Chúa, vương quyền của sự sống trên sự chết, sức mạnh của tình yêu tha thứ
trên hận thù gian ác.
Tiên tri Isaia đã báo trước về sứ mạng của đấng Mesia qua bài ca
về Người Tôi Trung của Giavê Thiên Chúa trong bài đọc một; Vị Tiên tri mô tả về
một người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng theo sự hướng dẫn
của Thiên Chúa, chấp nhận tất cả đau khổ roi đòn, bị phỉ nhổ bị nhạo cười chế
giễu, bị người đời khinh khi hành hạ, nhưng người tôi tớ ấy vẫn một mực tín
trung, chấp nhận tất cả sự nhục nhã vì tin vào Đức Chúa là Đấng làm chủ và điểu
khiển mọi sự và làm chủ đời mình.
Thánh Phaolô đã nhìn thấy hình ảnh người tôi trung mà Isai tiên
báo được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không
nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, Người còn hạ
mình vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Tuy nhiên, người Do Thái đã
không dễ dàng chấp nhận một Đấng Mesia khiêm hạ, một Thiên Chúa hạ mình đến như
thế, họ tìm kiếm và chờ đợi một Thiên Chúa khác, do óc tưởng tượng của họ mang
lại: một Thiên Chúa phải thẳng tay trừng trị kẻ áp bức, một Thiên Chúa luôn sẵn
sàng trừng phạt kẻ có tội chứ không thể cúi xuống trên họ, một Thiên Chúa không
thể đến quá gần con người, không thể để cho một người phụ nữ tội lỗi xức dầu
vào chân mình, không thể đồng bàn với người thu thuế…, chính vì không được như
ý họ mong muốn, nên người Do Thái đã sẵn sàng đổi trắng thay đen, những người
gào thét tại sân của quan tổng trấn, đòi giết Giêsu và tha Baraba cũng chính là
những người đã hoan hô con vua Đavít, là những người đã được ăn bánh no nê,
được chứng kiến phép lạ, được chữa lành bệnh tật.
Nghe bài thương khó hôm nay chúng ta nhận thấy lòng dạ của những
người Do Thái đầy nham hiểm, họ khó chịu khi thấy một người phụ nữ xức dầu thơm
quý giá lên chân Chúa, họ lợi dụng mua chuộc một Giuda ham tiền để lập mưu bắt
Chúa Giêsu, những hành động ấy phát xuất từ sự ghen tị thù hằn và họ câu kết
với nhau để loại trừ Chúa Giêsu. Để đạt được mục tiêu này, họ không loại trừ
một thủ đoạn nào, từ vu vạ cáo gian đến gây sức ép, các vị lãnh đạo Do Thái là
những người chủ mưu trong vụ án này, họ đã dàn dựng từ một vài những vấn đề
tranh luận tôn giáo để đi đến một bản án hoàn toàn chính trị bằng việc vu cáo
Chúa Giêsu ngăn cản việc nộp thuế, có ý đồ chống lại hoàng đế Cesare, để rồi
mượn tay người La Mã lên án tử cho Chúa.
Còn Chúa Giêsu Ngài vẫn sống đến cùng tình yêu thương và tha
thứ, dù biết rằng Giuda là một trong các môn đệ sẽ phản bội, nhưng Chúa cũng
không trừng phạt anh, Ngài vẫn nhân từ trao cho anh những cử chỉ yêu thương để
đánh động lương tâm của anh; trong cuộc khổ nạn này Chúa Giêsu không chỉ đau
đớn vì roi đòn và sự hành hạ của những tên lính, mà Ngài còn đau khổ hơn bởi sự
phản bội của những người thân tín nhất của Ngài. Đó là sự phản bội của Giuda,
kẻ đã đi theo Chúa nhiều năm, vậy mà chỉ vì một chút quyền lợi tiền bạc, anh đã
bán đi tình nghĩa thày trò, và đau đớn hơn nữa, anh đã dùng nụ hôn là dấu chỉ
biểu lộ tình yêu thương để làm dấu chỉ của sự phản bội. Cũng thế, Simon Phêrô,
một trong số những môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương tin tưởng nhất, lại là
người chối Chúa đến ba lần, mà lại chối trước mặt một đứa đầy tớ gái. Sau cùng
là sự bội bạc vô ơn của đám đông dân chúng, trong số họ có biết bao người đã
từng chứng kiến các phép lạ, được Chúa chữa lành, vậy mà giờ đây, trước mặt một
vị quan người La mã, họ đã chọn lựa Baraba thay vì chọn Thiên Chúa, họ đã nhận
hoàng đế Cesare làm vua của mình mà loại trừ Thiên Chúa là vua của họ: Chúng
tôi không có vua nào khác ngòai Cesa, họ đã gào thét lên như thế.
Chúa Giêsu đã đón nhận cây thập giá mà ngươi ta đặt lên vai Ngài
như là cách thế mà Thiên Chúa Cha muốn Ngài chấp nhận để đem ơn cứu độ cho trần
gian, Chúa Giêsu đã đi đến tận cùng của con đường cứu chuộc, và chặng cuối của
con đường là cái chết giang tay trên cây thập giá, chết trong đau đớn tất tưởi.
Trên thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã
chuẩn bị từ ngàn xưa, Ngài dùng chính sự độc ác của con người để đem lại ơn cứu
độ cho con người, dùng sự phản bội để đem lại sự thứ tha, dùng cái chết của
Ngài để đem lại sự sống đời đời.
Thưa quý OBACE, nghe lại bài thương khó Chúa không để chúng ta
đổ lỗi cho những người Do Thái, song qua cuộc thương khó này chúng ta có thể
thấy bóng dáng của mình trong cuộc hành hình Chúa Giêsu năm xưa, có thể chúng
ta là người đã gây tổn thương cho Chúa khi chúng là những người mang danh là
Kitô hữu, là mộn đệ Chúa, song chúng ta đã phản bội lại Chúa như Giuda khi
chúng ta cũng vì một chút vật chất, tiền bạc mà chà đạp lên danh dự là một Kitô
hữu, bán rẻ lương tâm của mình, có thể vì sợ hãi hèn nhát hoặc vì bổng lộc của
thế gian mà chúng ta đã từ chối Chúa như Phêrô: Tôi không biết người ấy là ai!
Và cũng có thể chúng ta là những người đã từng nhận được biết bao ơn lành của
Chúa, song chúng ta cũng giống như những người Do Thái đòi tha Bararaba mà giết
Giêsu, chúng ta không muốn để cho Chúa Giêsu ảnh hưởng đến cuộc đời của mình,
của gia đình, khi chúng ta từ chối đọc kinh cầu nguyện, khi chúng ta không đến
với Chúa qua việc thờ phượng và lãnh nhận các Bí tích. Hoặc là chúng ta sẽ thấy
mình giống như các thày thượng tế và luật sĩ, mưu mô gian ác trong cuộc sống
trong công việc, đối với anh em, cứng lòng trước đau khổ thập giá của Chúa Giêsu
khi chúng ta quay lưng lại với Chúa hoặc chúng ta lên án Chúa và Giáo Hội của
Ngài, cho mình quyền định đoạt số phận và xét đoán anh em, nhắm mắt làm ngơ
trước nỗi đau khổ bất hạnh của anh em, và có khi còn nhạo cười trên đau khổ của
họ và gào thét giơ tay đòi kết án họ.
Chúa Giêsu vẫn đang bị hành hình trong thời đại của chúng ta hôm
nay qua những con người đang phải chịu sự bất công đàn áp, những con người bị
đẩy ra bên lề xã hội, bị chính những người anh em ruột thịt của mình khinh bỉ
từ chối; Chúa Giêsu cũng đang bị hành hình qua những con người cùng cực bị bóc
lột khai thác, lạm dụng, bạo hành, kể cả qua những em bé, những thai nhi bị
những Philatô là chính cha mẹ của mình lên án tử, đó là những Giêsu của ngày
hôm nay. Thương cảm cho cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở những
cảm xúc tự nhiên, mà hãy nhận thật rằng chính vì tội lỗi của tôi, của ông bà,
anh chị mà Chúa chịu chết như thế, để từ nay chúng ta cố gắng sống tốt hơn, và
sống ngoan thảo với Chúa hơn, đồng thời biết quan tâm đến anh em để chia sẻ với
sức nặng của thập giá của anh em đó là cách chúng ta cất đi bớt sự đau khổ cho
Chúa ngày hôm nay. Amen.
21. Baraba và Đức Giêsu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn sĩ Fabran Lagerkvist của Thụy Điển đã đoạt giải Nobel văn
chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi tiếng có tựa đề là “Baraba”. Baraba
là một tên cướp được nhắc đến trong vụ án của Chúa Giêsu. Theo các sách Tin
Mừng kể lại: Baraba là một tên cướp khét tiếng đã phạm nhiều tội ác và sa lưới
pháp luật. Hằng năm vào những ngày lễ lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Đế quốc
Rôma tại Palestina có thói quen ân xá cho một tội nhân. Năm đó, Tổng trấn
Philatô đã đưa Chúa Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi họ nên tha
cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha cho Baraba và đóng đinh Chúa Giêsu.
Dựa vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ Lagerkvist đã tưởng tượng ra
quãng đời còn lại của Baraba. Baraba đã trở nên một con người quyền thế được
mọi người biết đến. Baraba có được tất cả, bởi vì chính Chúa Giêsu đã chết thay
cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn nhắc đến Chúa Giêsu và cũng không muốn
biết Ngài là ai.
Lý do khiến văn sĩ Lagerkvist được trao giải Nobel văn chương là
vì qua nhân vật Baraba, ông đã họa được chân dung đích thực của con người.
Baraba chính là con người được cứu độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý
do tại sao. Con người ngày nay không tin vào Chúa Kitô và nhất là muốn loại bỏ
Ngài ra khỏi con người thời đại. Với những tiến bộ vượt bực trong khoa học kỹ
thuật, con người chẳng khác nào một thứ Baraba trong tác phẩm của Lagerkvist:
con người tưởng mình là Đấng cứu độ của chính mình, con người tưởng mình có thể
loại bỏ mọi chiều kích siêu việt của cuộc sống, con người tưởng mình có thể
sống mà không cần một Đấng cứu độ nào.
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên
thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn
năm. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu vào thập
giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài trên
thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa
Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì một cách nào đó, người
có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng
ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta,
nghĩa là do chính tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dù cách xa hai ngàn năm,
vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng
vào thân thể Chúa Giêsu.
Thử hỏi nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa
Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng
tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác thập giá đỡ Chúa
Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết rằng tôi không thể đứng về phía đám
quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm môn đệ trốn
chạy, hay là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và
đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu
đuối, dễ dàng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng
trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng
lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh.
Anh chị em thân mến,
Với Chúa Nhật hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào
thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài
người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám
đông nô nức phất cao càch lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ một cuộc toàn
thắngvang dội. Thực ra đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và có lẽ
cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc thương khó. Bởi vì chúa biết rõ trong
niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ
dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm
chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”
Rước là đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều
khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ
dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rời và lên án,
điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh
vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên
đạo tặc Baraba. nếu kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa kitô thì
chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình
không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buốn. Chúng ta phải có
mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi
Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại
chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin Mừng theo Thánh Marcô. Hãy để cho tâm
tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta.
Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của
đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ
hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu.
Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình
yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Đừng đọc vội vã, hãy ngừng lại khi Chúa có điều muốn nói với
chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta có thể thấy mình giống với Giuđa, Phêrô
hay Philatô. Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài
vẫn còn hấp hối cho đến tận thế.
Đừng theo Chúa như một người quay vidéo cho đám tang, bởi lẽ mọi
sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Sau khi đã suy niệm lâu dài về
cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình yêu Thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá
của mình hơn và trân trọng thánh giá của người khác hơn.
22. Con đường thập
giá – Lm. Đam. Trần Quang Hiền
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào
Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là
mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó,
Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế
nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang,
là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận
Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những
người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt
nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một
vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái
đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân
tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của
họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa
Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn
nhát, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công
chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu
cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3
lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại
chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông
đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là
một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống
trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa,
sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa
phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy
trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết
với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với
một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa
ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu
tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi
người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì
chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời
gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần
thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô
hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ
theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa
ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải
là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết
liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực
để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời,
ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích
kỉ, hận thù, bạo lực... để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao
dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách
đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn
độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ,
đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với
chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau
khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục
sinh với Ngài.
23. Suy niệm của
Noel Quesson.
CUỘC KHỔ NẠN CHÚA GIÊSU
Cái chết của Chúa đã làm đổi thay thế giới, làm xúc động bao tâm
hồn và cũng gây cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ. Bao kiệt tác đã lấy cái chết
của Chúa làm chủ đề. Một họa sĩ đã vẽ cảnh tháo đinh, đưa xác Chúa Giêsu xuống
khỏi Thập giá. Đặc điểm của bức họa là người trong cảnh đều có khuôn mặt quen
thuộc của những người cùng thời với họa sĩ. Và người đang tháo đinh ở Chúa ra
chính là họa sĩ. Người ta hỏi họa sĩ về chuyện này, ông cắt nghĩa: Tôi đã từng
đóng đinh Chúa vào Thập giá, đinh sắt là tội của tôi. Cần phải tháo gỡ những
chiếc đinh tội lỗi ra khỏi thân xác của Chúa.
Để tháo gỡ chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi, Chúa đón nhận tất cả
một cách ý thức và chủ động.
Chẳng những bằng lời nói, Chúa còn chuẩn bị đi vào khổ nạn bằng
hành động. Chúa lập phép Thánh Thể, dùng một lối khác diễn tả tình yêu vĩnh cửu
Người dành cho nhân thế. Chúa dùng chính thịt máu làm của nuôi chúng ta, đó
cũng như nói tình yêu và cái chết của Chúa đem lại sự sống muôn đời cho tâm hồn
người ta.
Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn hoàn toàn đơn độc. Cái chết cũng
đơn độc, và khi Chúa Giêsu mang thân phận con người, Chúa không muốn thoát khỏi
số phận đó. Trong vườn Cây Dầu, Chúa không biết chia sẻ đau buồn với ai. Bao
nhiêu âu lo chồng chất mà không ai hiểu, hay an ủi một lời. Chúa để ba môn đệ
thân tín gần chỗ Người cầu nguyện, nhưng ba lần Chúa trở lại đều thấy họ ngủ
say. Trên thập giá nhìn xuống, Chúa thấy mình hoàn toàn trơ trọi, bên Người chỉ
còn Gioan, Mẹ Maria và vài phụ nữ. Chính Thiên Chúa Ngôi Cha như cũng như xa
vắng, vì thế Chúa thốt lên lời cầu nguyện như một tiếng than van: “Lạy Chúa,
Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con!”.
Chúa Giêsu bị kết tội trước tòa đạo cũng như trước tòa đời. Hội
đồng công nghị, cơ quan tối cao của Do Thái giáo kết án Chúa vì đã tự xưng là
Con Thiên Chúa. Trong khi Philatô, Tổng trấn đại diện Đế quốc La mã xử Chúa vì
đã nhân danh mình là Vua. Còn Chúa Giêsu, thay vì chối bỏ những lời cáo buộc,
Người chỉ bình thản quả quyết mình là Con Thiên Chúa và là Vua. Nhưng cả hai
danh hiệu này không phải có ý nghĩa như những người tố giác đã hiểu. Chúa là
Con Thiên Chúa toàn năng. Người đã từng làm nhiều phép lạ, nhưng không làm gì
để tự bảo vệ và thoát khỏi tay địch thù. Chúa không phải vị Vua như mọi người
mong chờ. Chúa là Con Thiên Chúa, là Tình yêu tột đỉnh, yêu đến mức sẵn sàng
chết vì người khác. Chúa là Vua, Người cai trị mọi tâm hồn bằng tình yêu mà xét
xử nhân loại cũng theo luật Tình yêu. Chỉ khi ta nhìn Chúa chết trên thập giá,
ta mới hiểu Người đã là Con Thiên Chúa và là Vua như thế nào.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra tội lỗi và thật lòng sám
hối, chiến thắng tội lỗi là tháo gỡ những mũi đinh chúng con đã đóng vào chân
tay Chúa.
24. Lễ lá.
Lắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta
hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng như hiểu được tội lỗi thật xấu
xa, đến nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, để tẩy sạch dấu vết của
nó trong tâm hồn chúng ta.
Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên
Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta Ngài đã hạ mình xuống như lời
thánh Phaolô đã viết:
- Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi cho mình được
đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống, mang thân phận tôi đòi, trở
nên giống chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng bộ bên
ngoài, nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài không phải chỉ là một kẻ
lạ mặt, đứng bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không phải là một ông cảnh sát
lăm le biên phạt những hành động sai trái của chúng ta.
Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào kiếp người và
cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng đã vất vả lao động, chịu
đói chịu khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ với chúng ta mọi cảnh
huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì yêu thương chúng ta như lời
Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Kể từ nay, thập giá không còn là một hình phạt dành cho những kẻ
nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn nhất nói lên tình thương của
Chúa.
Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào những ước vọng
thầm kín, cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng ta.
Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh, chúng ta
không muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền bính. Hãy nhìn vào thái độ
khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui thú cho thân
xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá giữa những đớn
đau phải chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với Thiên Chúa, trong
khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị, với danh vọng hay một tạo
vật nào đó. Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta.
Chính Ngài đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno như thế này:
- Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không phải là một
trò cười.
Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân thưa với Chúa
như lời thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi, một kẻ
tội lỗi đáng thương.
Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình thương của
Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước được tẩy rửa tâm hồn mình
nên trong trắng như tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của
chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm
thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
Winston Churchill, cố thủ tướng Anh Quốc, đã chia sẻ kinh nghiệm
riêng của ông và cho chúng ta biết rằng sự hoan hô ủng hộ của dân chúng không
phải là bằng chứng của sự thành công thực sự. Xưa kia, có một lần sau khi nói
chuyện với một cử tọa khoảng 10 ngàn người hiện diện hoan hô thủ tướng, một
người bạn đã hỏi: “Thưa thủ tướng, ngài không cảm thấy xúc động vì 10 ngàn
người đã đến nghe ngài nói chuyện sao?” Churchill trả lời: “Không hẳn thực sự
là như thế. Một trăm ngàn người sẽ đến nhìn khi tôi bị treo lên”.
Hôm nay Chúa nhật lễ lá, chúng ta bắt đầu Tuần Thương Khó bằng
việc cử hành việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm
Vượt Qua của Ngài. Sách Giáo lý Công giáo số 272 đã viết: “Thiên Chúa Cha đã
mạc khải sự Toàn năng của Ngài một cách hết sức mầu nhiệm trong sự tự nguyện
chịu nhục… nhờ đó Ngài đã chiến thắng sự ác”. Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập
giá là “quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bởi vì sự
điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên
Chúa thì mạnh sức hơn loài người”.
Ngày xưa, có hai anh em nọ sống chung với nhau trong cùng một
căn nhà. Người anh tốt lành, siêng năng làm việc và kính sợ Thiên Chúa. Còn
người em bất lương, lừa lọc, gian manh, và phạm đủ thứ tội như cướp của, giết
người. Người anh khuyên răn mãi mà người em vẫn chẳng thay đổi tính nết. Một
đêm nọ người em chạy về nhà với quần áo dính đầy máu. Nó tự thú với người anh:
“Tôi đã giết người”. Vài phút sau căn nhà bị cảnh sát bao vây và hai anh em đã
biết rằng không còn cách nào trốn thoát được. “Tôi không có ý giết nó”, người
em sợ hãi nói, “Tôi cũng không muốn chết”. Vào lúc ấy cảnh sát đang gõ cửa.
Người anh bèn nảy ra ý tưởng: anh thay đổi quần áo của mình cho người em, và
mặc lấy bộ quần áo còn đang dính đầy vết máu của người em. Cảnh sát xông vào
nhà bắt người anh, bỏ tù, và chờ ngày bị kết án tử hình. Sau cùng, người anh đã
hy sinh chết thế cho em mình.
Qua câu chuyện hình sự về cái chết hy sinh của người anh vì
thương em, chúng ta hiểu phần nào về sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu được
diễn tả trong bài Thương Khó. Đây là câu chuyện của tình yêu, tình yêu Thiên
Chúa dành cho con người chúng ta.
Thánh Phaolô đã viết: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên
Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại,
Người hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như
loài người… Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập
giá”.
26. Cuộc Thương
Khó
Chúa Giêsu rất thương xót những người đau khổ. Ngài đã làm phép
lạ để cứu chữa họ, và dạy mọi người phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm
khổ cho nhau. Đối với Chúa Giêsu đau khổ là điều xấu. Khi nghĩ về cuộc thương
khó trong vườn Giệtsimani, Ngài đã bồi hồi, xao xuyến, sợ hãi đến đổ mồ hôi
máu.
Thánh Kinh cho ta thấy căn nguyên của đau khổ là tội lỗi. Vì đau
khổ là xấu nên con người phải tránh gây đau khổ cho nhau bằng mọi hình thức.
Đồng thời phải tích cực xây dựng sự công bằng và bác ái. Rất nhiều đau khổ ở
thế gian do con người, tội lỗi và sự bất công gây ra. Khi chấp nhận đau khổ để
cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một số nguyên tắc luân lý:
1. Chỉ chấp nhận đau khổ và hy sinh vì hạnh phúc
của người khác. Sự hy sinh phải nhằm vào những mục đích tốt, và những mục đích
đó phải có một giá trị cao hơn sự thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã tự ý chịu đau khổ để tiêu diệt tội lỗi theo đường
lối của Thiên Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa
Cha trao phó, Ngài đã phải đụng chạm với sức mạnh của chính quyền, xung khắc
với sự tự do của con người. Và sự đau khổ đã đến như một hậu quả tất yếu vì sứ
mệnh của Ngài. Ngài đã phải chọn lựa giữa việc chu toàn sứ mạng dù phải chấp
nhận sự đau khổ và cái chết trên thập giá hơn là sự đào ngũ, chạy trốn của
người hèn nhát.
2. Để sự đau khổ trở nên một giá trị cho người
khác, nó phải là tự nguyện như chính Chúa Giêsu đã tự hiến mạng sống mình làm
giá cứu chuộc nhân loại: “Không ai đoạt được mạng sống tôi, nhưng tôi tự ý hiến
mạng sống mình”.
Thiên Chúa ban cho con người tự do để cộng tác vào việc sáng tạo
của Thiên Chúa. “Con người thường là những hợp tác viên vô ý thức của thánh ý
Chúa, nhưng con người cũng có thể chủ ý hợp tác vào kế hoạch của Ngài bằng hành
động, lời cầu nguyện, và bằng cả những đau khổ của mình”.
3. Đau khổ hy sinh sẽ trở nên sai trái khi nó
hủy diệt chính con người của mình. Chúa Giêsu đã không đánh mất bản tính Thiên
Chúa của Ngài khi chết trên thập giá. Ngài chết trên thập giá nhưng Ngài vẫn là
Thiên Chúa, độ lượng, tha thứ và nhân từ. Đau khổ không làm Ngài rơi vào hận
thù và tuyệt vọng. Chính tình yêu làm cho đau khổ trở thành giá trị. Con đường
khổ giá từ Giêrusalem lên núi sọ chịu đóng đinh của Chúa Giêsu chính là con
đường của tình yêu.
Sách Giáo lý Công giáo số 609 viết rằng: “Khi gắn bó với tình
thương của Chúa Cha đối với mọi người, trong trái tim nhân tính của mình, Chúa
Giêsu “đã yêu thương họ đến cùng”, “bởi vì không có tình yêu nào lớn hơn là thí
mạng sống mình vì những người mình yêu thương”. Bởi vậy, trong đau khổ và trong
khi chết, nhân tính của Ngài đã trở thành dụng cụ tự do và tuyệt hảo của tình
thương thần linh của Ngài muốn cứu vớt mọi người”.
Bắt đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta nhìn vào
thánh giá để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu đó:
Nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu Thiên
Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống lại của Thiên Chúa, bóng tối
tội lỗi của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của ta và sự hy sinh
của Thiên Chúa, sự kiêu căng của ta và sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất lực
của ta và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con người và sự tha thứ
của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh
giá ta thấy nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Quả vậy, như lời thánh Phaolô đã dạy: “Lời rao giảng về thập giá
là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta
là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa”.
27. Hoan hô- Đả đảo.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành
Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm
có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu
lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu lên
thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu
tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt
những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò
tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ.
Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên
Chúa mà đến”. Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ
đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài
không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để
giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo ấm no cho họ.
Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương và hòa bình.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài
tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ
sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa
Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài
đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng
trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết
trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau
của dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ
Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay,
lòng dạ tráo trở của những người đó phải không? Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có
người đã viết như thế này: “Giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể
phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng
Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng
đinh, hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai
chúng ta oán ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm
nay chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng,
ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn
có thể tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh
có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu”.
Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã dùng một
cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc tính tích cực của
Chúa nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin
tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống như khước từ, oán
ghét, buồn phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để
lại cọng của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó
roi có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều trên đây?
Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau
nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa
nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà
thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi
khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh
Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng
ta hoan hô “vạn tuế” để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương
trình xây dựng hòa bình và tình thương của Chúa.
28. Ơn cứu
chuộc.
Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết vào ngày Thứ Sáu, chúng ta quen
gọi là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hay ngày Thứ Sáu chịu nạn. Xưa kia người ta cho
ngày thứ sáu chịu nạn là một ngày đáng ghét hơn bất cứ ngày nào khác trong năm,
bởi lẽ ngày hôm đó có một người vô tội đã bị kết án tử hình và đã bị giết chết
một cách rất tàn nhẫn, bất công. Vì sự kiện đó người ta đã định nghĩa ngày Thứ
Sáu chịu nạn là “Thêm một người vô tội được ghi tên vào trang sổ dài trong lịch
sử nhân loại, cuốn sổ của biết bao nhiêu người bị tố cáo một cách oan uổng, bị
đánh đập, bị hành hạ tàn nhẫn, và có khi bị giết chết”. Theo ý nghĩa này thì
quả thật ngày Thứ Sáu chịu nạn là một ngày xấu xa, một ngày đen đũi. Nhưng đối
với chúng ta, ngày Thứ Sáu chịu nạn không phải là một ngày đáng ghét, chúng ta
phải nghĩ ngược lại, ngày đó là một ngày đáng ghi nhớ, một ngày có ý nghĩa thật
tốt đẹp và hoàn toàn cao cả, một ngày tốt đẹp hơn hết mọi ngày, bởi vì ngày đó
là ngày Chúa Giêsu đã chết để cứu chuộc chúng ta, là ngày mở ra một trang sử
mới của loài người.
Quả thực, không phải Chúa Giêsu đã chịu thua trước bạo lực,
trước rủi ro hay số phận, cái chết của Ngài không phải là một sự thất bại, thua
cuộc, nhưng là một sự nghiệp anh hùng và cao quý, vì chỉ có cái chết của Ngài
mới có đủ khả năng đền bù tội nguyên tổ và mọi tội lỗi của con người một cách
cân xứng, bởi vì tội phạm đến trời thì chỉ trời mới tha được. Hơn nữa, muốn cứu
chuộc chúng ta, thật ra Chúa Giêsu đâu có cần phải xuống thế, phải nghèo khổ,
phải nhục nhã, phải bị giết chết một cách tức tưởi như vậy, nhưng tất cả những
sự ấy Ngài đã lãnh nhận chỉ vì Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến cùng,
yêu thương không bờ bến.
Như vậy, không gì chắc chắn bằng Chúa Giêsu đã đổ máu ra chết
cho tất cả chúng ta, nhưng cũng không gì chắc chắn bằng Chúa Giêsu đã chết một
cách vô ích cho chúng ta nếu chúng ta không muốn tham dự vào công lênh cứu
chuộc của Ngài bằng nỗ lực riêng của mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã làm bật
lên mạch nước, nhưng chúng ta cần cúi xuống mà uống, nguồn mạch Chúa Giêsu sẽ
vô ích nếu chúng ta không muốn uống. Nói rõ hơn, ơn cứu chuộc đòi hỏi chúng ta
một nghĩa vụ, đó là chúng ta phải cộng tác với ơn Chúa, như thánh Âu tinh đã
nói: “Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng
để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta”.
Thực vậy, khi bị treo trên thập giá, trước khi thở hơi cuối
cùng, Chúa Giêsu đã kêu lớn tiếng: “Mọi sự đã hoàn tất”. Như vậy, công việc cứu
chuộc của Chúa đã xong, nhưng công việc của chúng ta thì chưa xong, chúng ta
còn phải luôn luôn kiện toàn đời sống của mình, từ đó chúng ta mới hiểu câu nói
của thánh Phaolô: “Tôi bổ khuyết nơi tôi những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn
của Chúa Kitô”. Vì thế, chúng ta hãy nhớ hai điều: Thứ nhất, người thế gian
thường xét đoán theo hiệu quả, còn Chúa thì đoán xét theo cách thức người ta
chu toàn và kiện toàn bổn phận Chúa trao. Nói cách văn hoa, ở đời này, tất cả
chúng ta đều là những diễn viên trên sân khấu trần gian, khi màn bi hài kịch
cuộc đời hạ xuống, Thiên Chúa không hỏi chúng ta đã giữ vai trò gì mà chỉ hỏi
chúng ta đã diễn xuất thế nào về vai trò được trao cho. Thứ hai, khi chấm dứt
cuộc sống ở trần gian, có hai câu hỏi được đặt ra: người đời sẽ hỏi: “Người ấy
để lại những gì?”, Còn thiên thần thì hỏi: “Người ấy đem đi được những gì?”.
Điều đó có nghĩa là trong cuộc hành trình trên trần gian, chúng ta có thể đem
theo mình nhiều thứ, nhưng khi đến trước tòa Thiên Chúa, chỉ còn những việc
thiện đi theo chúng ta mà thôi.
Tất cả những điều tìm hiểu trên nhắc nhở chúng ta: hãy ý thức
hơn về ơn cứu chuộc, hãy thấm nhập ơn cứu chuộc vào chính tâm hồn mình, và hãy
sống ơn cứu chuộc trong đời sống hằng ngày. Ước mong chúng ta hãy dành nhiều
thời giờ trong Tuần Thánh này để suy nghĩ về ơn cứu chuộc của Chúa và sự cộng
tác của mỗi người chúng ta để hoàn thành cuộc đời mình. Cụ thể, trong những
ngày cuối cùng của Mùa Chay này, ngoài việc cầu nguyện, suy ngắm sự thương khó
Chúa, ăn chay để tỏ lòng thống hối, chúng ta còn phải xưng thú tội lỗi để tháo
những chiếc đinh nhọn ra khỏi tay chân Chúa.
Đinh nhọn đây có thể là những thù hận và vu cáo bất công như
những người đầu mục Do Thái đã làm. Đinh nhọn cũng có thể là sự khiếp nhược
chối bỏ Thầy hay phản bội nộp Thầy như các môn đệ Chúa đã làm. Đinh nhọn cũng
có thể là những sự độc ác vô lương tâm như tên trộm bên trái Chúa đã chê trách
Chúa trên cây thập giá. Đinh nhọn cũng còn là những sự dửng dưng, thậm chí hùa
theo kẻ mạnh để làm khổ người thân yếu cô thế như đám đông dân chúng đã la to:
“Đóng đinh nó vào thập giá…”
Ngày nay chung quanh chúng ta không thiếu những người đau khổ là
hiện thân của Chúa Giêsu trên thập giá. Họ chính là những người mắc bệnh nan y
mà không tiền chữa trị, hoặc là những người đang chịu đựng những lời khích bác
và vu khống bất công của những kẻ thù giấu mặt mà không ai động viên an ủi. Họ
cũng chính là những người đang gặp đau khổ như què quặt, đui mù, đi xin ăn mà
không biết ngày mai sẽ ra sao…
Chúng ta có thể làm gì? Hãy cảm thông với họ như các phụ nữ gặp
gỡ Chúa trên đường thập giá, hãy giúp đỡ họ như ông Si-mon vác đỡ thập giá
Chúa, như bà Vêrônica trao khăn cho Chúa lau mặt, hãy bênh vực công lý như
người trộm lành bên hữu Chúa, hãy giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy như hai
môn đệ xưa đã tháo đinh và cất xác Chúa xuống khỏi thập giá…
Tóm lại, chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu
độ, vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu xa nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của
Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra những khổ đau của anh em chung quanh. Càng
suy niệm về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa
hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
29. Thánh giá.
Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã suy nghĩ về việc chết đi cho
chính mình để sinh nhiều hoa trái cho Nước Thiên Chúa. Một cách diễn tả khác
cho sự thật này là hình ảnh vác thập giá của chính chúng ta. Các bài đọc Kinh
Thánh hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về thực tại thập giá và đau khổ trong
cuộc sống của Chúa Giêsu. Việc suy niệm này chắc chắn làm chúng ta nghĩ đến
những đau khổ mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta đã ẵm lấy thập giá
đau khổ và hy sinh trong cuộc sống của chúng ta như thế nào?
Khi chúng ta đương đầu với đau khổ trong cuộc sống và ẵm lấy
thập giá mà Chúa Giêsu trao cho, thì chúng ta làm điều mà Chúa Giêsu đã làm
trước chúng ta và Người đã chuẩn bị con đường dẫn đến chiến thắng cuối cùng
trong cuộc đời của chúng ta. Dầu vậy, đôi khi con đường trước mắt có vẻ tối tăm
và bấp bênh, những lúc đó chúng ta cần xác tín Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta
mọi ngày cho đến tận thế. Người sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta và Người cũng
không bao giờ để chúng ta phải chịu đau khổ quá sức mình. Thánh Phaolô trong
thư gửi tín hữu Philipphê đã nhắc cho chúng ta, cuối cùng, Chúa Giêsu sẽ chiến
thắng và Người sẽ lãnh nhận vinh quang trọn vẹn mà Chúa Cha muốn ban cho Người.
Đây cũng là lời hứa cho chúng ta, nếu chúng ta chọn lựa trung thành chịu đựng
đau khổ cùng với Người.
Kinh Thánh cũng như giáo huấn của Giáo Hội không bao giờ khẳng
định đau khổ tự nó là một điều tốt, tuy nhiên, cả hai lại khẳng định giá trị
cứu độ của đau khổ. Khi chúng ta kết hiệp đau khổ của mình với đau khổ của Chúa
Giêsu thì chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Những gian nan thử thách Đức
Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức”. Khi chúng ta gặp
phải bất kỳ một loại đau khổ nào thì đoạn Kinh Thánh này đem lại cho chúng ta
một niềm hy vọng lớn lao. Thiên Chúa cho phép chúng ta kết hiệp đau khổ của
chúng ta với đau khổ của Ngài, và vì thế trở nên những người cộng tác với Ngài
trong việc đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Đây là dấu chỉ đích thật cho phẩm
giá cao cả của con người. Khi suy niệm về mầu nhiệm đau khổ của Chúa Kitô,
chúng ta kín múc được một sức mạnh từ việc nhận thức chúng ta được kết hiệp với
Ngài trong một cách thức mầu nhiệm.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới có thể đem lại sức sống và sự
thiện hảo đến cho con trong những tình huống đau thương nhất. Xin giúp con luôn
biết tín thác vào Chúa, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
30. Cuộc khổ
nạn.
Trong suốt ba năm, Đức Giêsu đã đi từ ngôi làng này đến ngôi
làng khác, làm việc lành, giảng dạy, và chữa bệnh cho dân chúng. Khi đi đến bất
cứ nơi đâu, Đức Giêsu cũng đều được đám đông vây quanh lắng nghe và tìm kiếm
nhiều điều nơi Người. Đây là ba năm mà Người đã hoạt động một cách trọn vẹn và
tích cực ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, Đức Giêsu
vẫn ở thế chủ động. Người đã đi đây đi đó ít nhiều theo ý của Người.
Nhưng khi Người giao nộp mình vào tay kẻ thù trong Giệtsimani
(Người bị một trong những môn đệ của Người giao nộp), thì tất cả thế chủ động
của Người chấm dứt. Điều này tượng trưng cho một điểm xoay chuyển trong sứ vụ
của Người. Kể từ đây, Người bắt đầu phải chịu đựng đau khổ. Và đó là lúc bắt
đầu cuộc khổ nạn của Người. Từ thời điểm đó, Người không còn làm chủ những điều
đang diễn tiến nữa. Bấy giờ, các sự việc được thực hiện nhắm vào Người, hơn là
do người.
Từ đó, Người bị ngăn chặn, giam giữ và giải đến cho Hêrôđê, Cai
pha, Philatô thẩm vấn, đánh đập, đội mão gai, bắt vác thánh giá, lột quần áo,
đóng đinh, bị chế nhạo… và cuối cùng, Người đã chịu chết. Đức Giêsu đã hoàn tất
sứ vụ của Người, không chỉ bằng những hành động của Người, mà đặc biệt hơn, còn
bằng những điều người ta làm cho Người nữa – bằng cuộc khổ nạn của Người. Chúng
ta phải hiểu rõ một điều: Chúa Cha không ném Người vào tay những kẻ độc ác. Đức
Giêsu đã chịu chết một cách tự nguyện. Người đã hiến mạng sống của Người.
Nhiều lúc, cuộc sống của chúng ta được xác định bằng những điều
xảy đến với chúng ta, hơn là những việc chúng ta thực hiện: theo một ý nghĩa
rất thật, thì đâu chính là cuộc khổ nạn của chúng ta. Nếu chúng ta có thể thực
sự chấp nhận được cuộc khổ nạn này, cũng như những hành động của chúng ta, thì
điều đó sẽ dẫn đến sự cứu độ cho chúng ta.
Điều quan trọng là nhận ra phạm vi mà chúng ta hoạt động. Khi
còn bé, chúng ta chỉ biết trông cậy vào “lòng thương xót” của những người lớn.
Trong hành trình cuộc đời, chúng ta còn có số phận, sự phản bội, những rủi ro,
đủ mọi loại bệnh tật, mất mát tình bạn, thất bại trong các tương quan, thất
vọng đối với người bạn đời hoặc con cái, cái chết của những người thân yêu,
công việc làm ăn vất vả v.v…
Tất nhiên, chúng ta cũng có những lúc vui vẻ và những giai đoạn
được sống an bình. Nhưng sự thật là vẫn có nhiều điều vượt ra ngoài tầm kiểm
soát của chúng ta. Đó là những yếu tố làm nên kiếp người. Tuy nhiên, chúng ta
vẫn có sự chọn lựa trong cách thức đáp trả lại những gì mà cuộc sống gửi đến
chúng ta. Cách đáp trả này có thể làm nên con người chúng ta, hoặc bẻ gãy chúng
ta.
Đức Giêsu vẫn tồn tại với tư cách là chính bản thân Người, đầy
sức mạnh, trong sạch, và tốt đẹp. Chúng ta sẽ trở thành con người nào, nếu cảnh
mất mát, khủng hoảng, hoặc những sự tước đoạt thì giờ đã lấy đi của chúng ta vẻ
bên ngoài thành công, tầm quan trọng cá nhân, thậm chí ngay cả nhân cách nữa?
Câu chuyện Cuộc Khổ Nạn chứng tỏ cách thế Đức Giêsu đáp trả lại
những điều xảy đến với Người. Người đã chấp nhận tất cả cảnh bạo lực, biến đổi
chúng, và chuyển chúng thành tình yêu và ơn tha thứ. Đây là sự chiến thắng của
tình yêu vượt lên trên tất cả những sức mạnh tàn phá. Không có gì ngoài tình
yêu nơi Đức Giêsu. Ngay cả khi người ta đóng đinh vào tay chân Người. Người vẫn
yêu thương. Điều này giúp chúng ta suy nghĩ đến những lúc chúng ta trải qua
cảnh khó khăn.
31. Tội lỗi của
ta.
Đó là vào đầu tháng 11, lá cây phủ đầy các con đường, rải rác
trên mặt đất. Người ta kêu gọi mỗi gia đình thu gom những lá cây của nhà mình
vào những giỏ nhựa, và chuyển đến cho những người hốt rác. Bây giờ, khi sử dụng
những lá cây như một biểu tượng của tội lỗi, chúng ta hãy nhận xét xem sự việc
diễn tiến ra sao.
Một số người không hề cảm thấy phiền toái gì cả, khi nhìn thấy
những lá cây rơi xuống, phủ đầy trên bãi cỏ, bồn hoa và lối đi. Họ nhìn thấy
chúng ta bắt đầu mục nát và làm cho không khí bốc mùi hôi thối. Nhưng mỗi ngày,
họ đều bước lên trên những lá cây thối rữa đó, dường như thể chúng chưa bao giờ
hiện diện. Đây là những người mà đối với họ, tội lỗi không là gì cả. Hêrôđê là
một trong những người này.
Một người quét ra ngoài đường những lá cây trên bãi cỏ và lối đi
cả nhà họ. Tại đó, chúng trở thành một đống xấu xí khó coi, và tạo ra một mối
nguy hại đối với các tài xế. Nhưng người đó không hề bận tâm, họ cứ để mặc cho
người khác đến dọn sạch đống rác đó đi. Người này nhắc nhở chúng ta về những kẻ
làm phiền người khác vì tội lỗi của họ. Philatô, bọn quân lính và đám đông
thuộc loại người này.
Hầu hết người ta thường quan tâm đến việc dọn dẹp những lá cây
của nhà họ, nhưng họ không màng đến việc nhặt một chiếc lá trên bãi cỏ nhà hàng
xóm. Đây là phần đất và trách nhiệm của người đó. Loại người này đại diện cho
những người biết nhận trách nhiệm đối với tội lỗi của mình. Phêrô là một ví dụ.
Cuối cùng, có một người đang chú ý. Người này không chỉ thu gom
những lá cây trên bãi cỏ nhà mình, mà còn thu gom cả những lá cây ngoài đường
nữa. Và người đó làm công việc này một cách âm thầm, không hề phàn nàn gì cả.
Người đó nhắc nhở chúng ta đôi chút về Đức Kitô, Đấng đã chịu chết vì tất cả
chúng ta. Nhưng Đức Kitô là một người duy nhất không hề phạm tội.
Tuần Thánh không phải là một tuần lễ để chúng ta ẩn núp phía sau
người khác. Chúng ta phải nhận trách nhiệm đối với tội lỗi của mình. Nếu biết
nhìn nhận tội lỗi của mình, chúng ta không có gì phải sợ hãi, bởi vì Đức Kitô
đã đến gánh tất cả tội lỗi của chúng ta. Sau đó. ít nhất chúng ta có thể cố
gắng cảm thấy một số trách nhiệm đối với tội lỗi của đồng loại và của cả thế
giới nói chung.
Không ai là một hòn đảo. Mỗi người chúng ta đều là một phần tử ở
trên mảnh đất của nhân loại.
32. Vụ án.
Chúa Giêsu đã bị kết án tử hình hơn hai ngàn năm rồi. Thế mà hồ
sơ vụ án kể như chưa kết thúc. Một số người trong chúng ta vẫn chưa hiểu thấu
hết nội dung cũng như bối cảnh lịch sử của “vụ án” này. Bài tường thuật cuộc
thương khó của Chúa đã kể lại đầy đủ mọi chi tiết. Vì thế mỗi khi đọc lại bài
thương khó này là chúng ta lật lại hồ sơ của vụ án Chúa Giêsu. Đề nghị mỗi
người ngày hôm nay cũng như những ngày trong Tuần Thánh hãy tìm hiểu để hiểu rõ
hơn và xác tín hơn nữa ý nghĩa và giá trị cuộc thương khó và cái chết của Chúa
Giêsu.
Trước hết, chúng ta biết: Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm.
Ngài lần lượt bị đưa ra xét xử trước tòa án Do thái, tòa án Philatô, tòa án
Hêrôđê, rồi trở lại tòa án Philatô. Chúng ta hãy theo Chúa đến các tòa án này
để xem người ta xét xử Chúa ra sao.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa án để xét xử, Chúa Giêsu đã
bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín thời đó, nhưng
lại có ác cảm với Chúa Giêsu. Theo một số sử gia, chính Anna là người có trách
nhiệm lớn nhất trong vụ án này. Ông muốn điều tra Chúa Giêsu, nhưng ông không
khai thác được gì, vì Chúa Giêsu chỉ một mực giữ thái độ im lặng. Bực tức, ông
truyền áp giải Chúa sang Caipha, là con rể ông, đang làm thượng tế năm ấy.
Caipha nổi tiếng là một nhà chính trị có tài. Tức khắc ông cho triệu tập 72
thành viên của Thượng hội đồng và cũng là tòa án tối cao của người Do thái.
Trước tòa, có nhiều người đứng lên tố cáo Chúa. Những lời tố cáo của họ đều
xoay quanh những vấn đề liên quan tới đạo Do thái. Họ cho rằng Chúa đã lộng
ngôn phạm thượng khi công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem; đã vi phạm
nhiều lần luật ngày Sabát; đã không giữ những tục lệ truyền thống tổ tiên để
lại… Trước những lời tố cáo đó, Chúa Giêsu chỉ im lặng, không hề biện hộ một
lời nào. Cuối cùng, Caipha đưa ra một câu hỏi có tính quyết định. Nhân danh
Thiên Chúa, ông hỏi Chúa Giêsu có phải là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa” không?
Tôn trọng tư cách thượng tế của quan tòa, Chúa trả lời: “Đúng như lời ngài
nói”, tức là Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Nghe vậy, lập tức
Caipha xé áo bên ngoài từ cổ tới bụng, chừng ba mươi phân, theo tục lệ Do thái,
để phản ứng lại lời nhận tội mà ông cho là lộng ngôn phạm thượng. Ông nói: “Hắn
nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quí vị vừa nghe hắn nói
phạm đến Thiên Chúa”. Theo luật Do thái: “Hễ ai nói phạm thượng thì người đó
đáng chết”. Số phận của Chúa Giêsu đến đây coi như đã được quyết định: Ngài bị
kết án tử hình.
Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền
kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự đồng ý của chính quyền Rôma. Nên sáng
sớm ngày hôm sau, họ áp giải Chúa tới tổng trấn Philatô, là một viên chức cao
cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản
án tử hình.
Trước tòa Philatô, người Do thái đã phơi bày hết ác tâm của họ.
Để Philatô chuẩn nhận bản án tử hình, họ đã đổi những lời tố cáo từ lãnh vực
tôn giáo sang lãnh vực chính trị, nghĩa là họ dứt khoát muốn Philatô giết Chúa
như một kẻ tội phạm chính trị chống lại đế quốc Rôma. Chúng ta thấy rõ ràng:
khi hỏi Chúa Giêsu thì họ giải thích danh hiệu Mêsia bằng danh hiệu Con Thiên
Chúa; còn khi tố cáo trước tòa Philatô, thì họ lại giải thích bằng danh hiệu
vua, để lôi kéo Philatô vào trò chơi gian ác của họ. Nhưng Philatô trả lời họ
rằng: ông không thấy người này có gì đáng kết tội. Họ càng tố cáo mạnh hơn,
nhai lại một luận điệu chụp mũ, vu khống và quyết liệt đòi đóng đinh Chúa vào
thập giá.
Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, Philatô muốn gỡ mình ra khỏi
trò chơi nguy hiểm này. Ông thảy trái banh cho Hêrôđê, tức là ông yêu cầu đưa
Chúa Giêsu qua cho Hêrôđê xét xử để tránh mọi phiền phức. Hêrôđê từ lâu đã mong
gặp Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ mong gặp để thỏa mãn sự tò mò và tính ham vui mà
thôi. Thấy Chúa Giêsu ông mừng lắm. Nhưng rồi ông thất vọng vì Chúa Giêsu không
đáp ứng điều gì ông trông đợi. Để trả thù, ông nhập bọn với lính hầu của ông mà
chế diễu Chúa, rồi ông truyền trao trả Chúa Giêsu lại cho Philatô. Philatô lại
phải nát óc tìm cách thoát thân: làm sao một đàng vừa để trấn an, làm hài lòng
những người tố cáo quá khích; đàng khác lại vừa không kết án bất công người vô
tội. Nên ông tuyên bố rằng: ông chẳng thấy có điều gì để kết án người này. Vậy
ông cho đánh đòn Chúa một trận rồi tha về. Đánh đòn rồi dân Do thái vẫn khăng
khăng gào thét dữ dội hơn, đòi kết án tử hình Chúa. Thế là Philatô sợ hãi, hèn
nhát rửa tay thanh minh mình vô tội trong việc đổ máu Chúa và ông buông xuôi
trao Chúa cho họ hành động theo ý họ. Họ bắt Chúa vác thập giá, rồi đóng đinh
vào thập giá. Và Chúa đã chết trên thập giá.
Đọc lại hồ sơ vụ án, chúng ta thấy Philatô và Hêrôđê là những
nhà cầm quyền chính trị, không tìm thấy điều gì để kết án Chúa. Chỉ có giới
lãnh đạo Do thái muốn giết Chúa mà không cần tội trạng nào cả. Vì thế, trách
nhiệm chính trong vụ giết người này là giới lãnh đạo Do thái, đúng như Chúa đã
báo trước.
Nói theo tôn giáo, đối với chúng ta hôm nay, rõ ràng vụ án Chúa
Giêsu không phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án tôn giáo: Chúa Giêsu
chết không phải vì xưng mình là vua nhưng vì đã xưng mình là Con Thiên Chúa. Và
đó chính là ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa Giêsu. Ngài là Con Thiên Chúa,
nên cái chết của Ngài có ý nghĩa vô cùng, cái chết của Ngài có giá trị cứu
chuộc mọi người. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã nói: “Máu của Chúa đổ ra để
muôn người được cứu độ”. Lẽ ra loài người phải chết vì đã phạm tội, nhưng Thiên
Chúa đã dủ lòng thương, sai Con Ngài đến để chết thay cho chúng ta.
33. Vào thành.
Trong một trung tâm cải tạo tại Hoa kỳ, người ta có thể đọc bài
thơ vô danh như sau:
Tôi đã kêu xin Thiên Chúa cho tôi sức mạnh để đạt thành công,
Ngài đã khiến tôi trở thành yếu đuối để tôi học vâng lời trong khiêm tốn. Tôi
đã xin cho được sức vóc để làm những việc trọng đại, Ngài đã cho tôi tật nguyền
để tôi làm những điều tốt lành hơn. Tôi đã xin Chúa cho tôi của cải giàu sang
để được sung sướng, Ngài đã cho tôi cái nghèo khó để tôi biết sống khôn ngoan.
Tôi đã xin được chức quyền để mọi người kiêng nể kính trọng và Ngài đã cho tôi
sự yếu đuối để tôi cảm thấy tôi cần đến Thiên Chúa.
Tôi đã xin có bạn đường để khỏi phải sống lẻ loi, Ngài đã cho
tôi một con tim để yêu thương hết mọi người. Tôi đã kêu xin những điều khiến
cho cuộc đời tôi vui sướng, Ngài đã cho tôi cuộc sống. Để tìm vui trong mọi sự,
tôi đã không nhận được gì trong số những điều tôi kêu xin cùng Thiên Chúa,
nhưng tôi đã nhận được những gì tôi hy vọng. Các lời nguyện không thành, lời
của tôi đã được khứng nhận và tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian.
Lời cầu nguyện của người vô danh trên đây cho chúng ta thấy một
cái nhìn khác về cuộc đời và các giá trị đích thực vượt xa nhãn quang chúng ta
hiểu. Sứ điệp Mẹ Giáo hội muốn nhắn gởi chúng ta qua Phụng vụ Chúa nhật lễ lá
đó là biết nhận ra các chiến thắng của Chúa Giêsu và của tình yêu trong những
thất bại ê chề bề ngoài của một người tử tội. Ngôn sứ Isaia và bài ca thứ ba
trong bốn bài ca trình bày gương mặt của người tôi tớ khổ đau, nó diễn tả kinh
nghiệm bị bắt bớ mà ngôn sứ phải gánh chịu là người loan báo Lời Chúa cho những
kẻ thất vọng. Ngôn sứ nêu gương sống tin yêu và hy vọng khi nhẫn nhục chịu đựng
cảnh đối xử.
Qua đó, bài ca nêu bật các đặc thái sau đây của người tôi tớ
Giavê:
Thứ nhất người tôi tớ được đưa vào trong khung trời
mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận thực hiện ơn cứu độ Thiên Chúa
muốn ban cho dân Ngài.
Thứ hai để thực hiện chương trình ấy theo ý muốn và
nhãn quan của Thiên Chúa, người tôi tớ sống đón nhận thánh ý của Ngài mà không
phản đối cũng không chần chừ tìm cách thoái thác và viện dẫn lý do.
Thứ ba tuy là người vô cùng khôn ngoan, người có Lời
Chúa trong mình, người tôi tớ chứng nhận mọi xỉ nhục, mọi khinh bỉ. Bị xỉ nhổ,
bị đánh đòn như người điên dại và không còn phẩm giá gì nữa và nhất là không
chấp nhận dàn xếp lèo lái để tránh né cái khó khăn và khổ đau xuất phát từ sứ
mệnh đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha.
Thái độ sống đó của người tôi tớ khổ đau diễn tả cách hành xử
siêu việt khác hẳn cách hành xử kiêu căng hiếu chiến của loài người. Cách hành
xử đấy đưa nhân loại vào vòng bạo lực không có lối thoát.
Rồi trong bài đọc II Chúa nhật Lễ lá trong thơ gởi giáo đoàn
Philipphê thánh Phaolô đã mời gọi tín hữu hãy noi gương cách hành xử của Chúa
Giêsu Kitô và sống theo tinh thần của Ngài, tinh thần của người tôi tớ đau khổ.
Thánh Phaolô đã lấy lại bài ca diễn tả lại lòng tin của cộng đoàn tiên khởi vào
Chúa Kitô. Bài ca nêu bật bản tính Thiên Chúa và cuộc sống đời đời của Chúa
Kitô trong liên hệ với Thiên Chúa Cha và nhấn mạnh đến ý nghĩa cuộc đời dương
thế và bản tính nhân loại của Ngài. Đó là một bài khảo luận Kitô học súc tích.
Từ ngữ nòng cốt trình bày mấu điểm thần học căn bản trên đây là sự từ bỏ trọn
vẹn, đổ hết ra làm cho trống rỗng đi.
Tuy phận mình là Thiên Chúa, khi nhập thể làm người để hiện thực
chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã lột bỏ mọi vinh quang
siêu việt thần thiêng của Ngài. Chúa đã đổ hết bản tính Thiên Chúa của Ngài, đã
trở thành trống rỗng hoàn toàn để chia sẻ thân phận yếu hèn thấp kém và tội lỗi
vong thân của con người.
Chúa Giêsu đã ra khỏi chính mình để hoàn toàn sống vâng phục
thánh ý Thiên Chúa Cha là Đấng đã dùng chính cái chết và thập giá của con Ngài
để trao ban ơn cứu rỗi cho nhân loại. Chính thái độ khiêm hạ vô cùng và tự hủy
bỏ mình đó đã khiến Thiên Chúa Cha tôn vinh Chúa Kitô và trao ban trở lại cho
Ngài mọi phẩm giá cao trọng và một quyền bính trên trời dưới đất. Phẩm giá cao
trọng và quyền năng ấy trong cách hành xử của Thiên Chúa không phải là kết quả
sức mạnh của con người, mà là hoa trái của khổ đau và nhục nhã khiêm cung.
Chúa Giêsu Kitô được đặt làm Chúa và là Đấng Cứu thế. Người đã
từ bỏ điều kiện Thiên Chúa của mình để sống như người phàm, như người tôi tớ
đau khổ. Từ nay trở đi loài người chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua chính cuộc
đời của Chúa Giêsu và thập giá. Thập giá giúp chúng ta tẩy rửa lòng tin của
mình khỏi mọi thần tượng do chính chúng ta đã tạo ra trong cuộc đời mình. Thiên
Chúa của thập giá là một người Thiên Chúa tự lột bỏ, tự đổ dốc hết phẩm giá cao
vời của mình đi để chia sẻ thân phận tội lỗi khốn cùng của con người.
Thiên Chúa của thập giá không phải là một vị Thiên Chúa luôn kéo
chúng ta ra khỏi lòng cuộc sống trần gian và thế giới này, nhưng Ngài là Đấng
bước vào trong lịch sử con người để yêu thương, hoán cải và trao ban cho lịch
sử loài người một ý nghĩa. Khi trở thành người anh em của chúng ta, Ngài cống
hiến cho chúng ta sự hiệp thông thần linh của Ngài và kêu mời chúng ta trở
thành anh chị em với nhau.
Trong tuần lễ đặc biệt sắp tới này, chúng ta hãy xin Chúa giúp
cho chúng ta được theo Chúa cho đến cùng trên con đường thập giá Chúa đã đi
qua.
34. Bóng tối và niềm
tin – Peter Feldmeier
(Lm. Gioan B. Văn Hào chuyển ngữ)
“Ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mc
15,34).
Bước vào tuần thánh, chúng ta dấn bước theo Đức Giêsu tiến vào
Giêrusalem. Cùng với Ngài, Chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn
dân đón chào và tung hô, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên núi sọ. Thoạt
đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng bỗng chốc họ đã
trở mặt. Tất cả đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm đốn mạt
nhất.
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình tiến vào Giêrusalem,
một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là nơi có đền thờ
thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu
tượng. Đây là kinh thành biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy
gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là nơi chốn của ánh sáng, nhưng cũng là một
thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức
Giêsu, nhưng sau đó nơi họ là cả một sự phẫn nộ đượm tính căm thù. Giuđa bán
đứng vị tôn sư đáng mến. Trò phản thầy. Các đầu mục tôn giáo thì quá gian ác đã
dàn dựng một phiên tòa rùng rợn. Các môn sinh thân thiết nhất đã vội quên thầy
của mình. Họ đã ngủ vùi trong mệt mỏi chán chường và cuối cùng đã tháo chạy.
Phêrô thẳng thừng chối bỏ người Thầy đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ
đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu, cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác
và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới, và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ
trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo
từ ngữ Aram, có nghĩa là “ con của Cha”. Họ đã chọn một người “con” với một quá
khứ đan kín tội ác, và đòi kết án người “Con” duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn
toàn vô tội đã gánh trên vai mọi tội lỗi khủng khiếp của cả trần gian.
Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của thập
giá là một chứng tá và là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ
gửi giáo đoàn Philip mà giáo hội đọc lên trong phụng vụ lễ lá hôm nay, Thánh
Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và
biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho
rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời đó. Phần dẫn
nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau “
Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ
chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong thần khí, nếu chúng ta sống thân
tình và biết cảm thương nhau… anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu
Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở “
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa
vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy
thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập Gía như là cách diễn bày sự khiêm
nhường và vâng phục sâu thẳm của Chúa Giêsu. Và kết quả của hành vi tự biến
mình ra không, là “Thiên Chúa đã tôn vinh Người… mọi loài phải mở miệng tuyên
xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa”.
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức
phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập Gía.
Đức Giêsu đã tự nguyện hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp
người hèn hạ, cho đến chết và chết trên Thập Gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta
thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và
Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (Sáng thế 1,26-28), nhưng
lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả
là sự sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu- Ađam mới, đã
sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả
là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại một chân trời mới của ơn cứu
độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa, liên kết với
nhau. Chúa Giêsu như là Ađam mới, và cũng là một người con thực sự của Chúa
Cha. Ngài đã tự hư vô hoá chính mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa,
đó là tình trạng sống kiếp nô lệ và tiến nhận cái chết, để cứu chúng ta, giải
thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.
Khi chúng ta gẫm suy việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy,
chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi
hùng trên thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước tất
cả những gì sẽ xảy ra. Nếu quả thật Đức Giêsu đã biết, và Ngài không thể có một
chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục
sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Ngài trong vườn cây
dầu chẳng còn ý nghĩa gì. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ
hôi và máu tuôn đổ đến mức thảm thiết như thế? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi
lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7) “Lạy Cha nếu có thể,
xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn
cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài phải gào thét lên một cách não
nuột “Cha ơi, sao cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã viết: Vì Đức Kitô đã hư vô
hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín
thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của mầu
nhiệm thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh
trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy
u ám nữa. Nhưng, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể
Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng
nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất
cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi loài người chúng
ta, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt
đối giữa những tăm tối nhất khi bị treo thân trên Thập giá. Đây là nguyên mẫu
đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và tan nát
trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như
thế không, khi chúng ta bị mất mát, chìm lặng trong bóng tối của kinh khiếp?
Khi gặp những thất bại cay đắng, bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào những chán
chường và tuyệt vọng… chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không?
Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và trên thập giá. Sự bi thương
của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta gặp
phải. Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Ngài đi vào lộ trình lên
Giêrusalem, và thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế
của Ngài.