CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY _ Năm B
MỤC LỤC
4. Cho đi thì còn, giữ lại thì
mất
5. Sống đẹp giữa đời – Lm. Giuse Tạ
Duy Tuyền
6. Bây giờ tâm hồn Ta xao xuyến
7. Nếu hạt giống chết đi – Lm. Giuse
Đỗ Vân Lực
8. Mùa gặt tươi tốt – Cố Lm. Hồng
Phúc
9. Hạt lúa mục nát đi mới trổ sinh
bông trái
10. Thuốc bất tử – Lm. Trịnh Ngọc
Danh
11. Hạt lúa mì – Lm. Phạm Quốc Hưng
13. Hạt lúa mục nát – ĐTGM. Giuse
Ngô Quang Kiệt.
14. Hạt lúa trơ trọi – Lm. Antôn
Nguyễn Cao Siêu
16. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng
tình yêu.
23. Con đường hạt lúa – Lm.
Giuse Nguyễn Hữu An
24. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần
Đình Nhi
25. Học Yêu – Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa
26. Chú giải của Lm. Vũ Phan Long.
28. Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
29. Theo Chúa đến cõi sống catholic.org.tw
30. Khuyến khích sám hối để được cứu Lm Carolo Hồ Bạc Xái
31. Lòng Chúa thương xót chúng ta Lm Giuse Đinh lập Liễm
32. Tin tưởng chọn lựa Đức Giêsu Lm. Phêrô Lê văn Chính
33. Thiên Chúa giàu lòng yêu thương Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
34. Chúa Giêsu loan báo Người... Học Viện Đà Lạt
35. Cái chết của Đức Giêsu... Fiches Dominicales
36. Phán xét và cứu chuộc Chú giải của Noel Quesson
37. Giờ của Chúa Giêsu Alain Marchabour
38. Ánh sáng của thập giá Lm. Vũ Phan Long
39. Sẽ được tôn vinh Suy niệm của JKN
40. Hạt lúa phải được vùi xuống Lm. Vũ Thái Hoà
41. Chúng ta đang sống ở giờ nào? Achille Degeest
42. Tôi sẽ lôi kéo mọi người Yvon Daigneaut
43. Giờ Chúa đến Sưu tầm
1. Giờ của Chúa.
Từ đầu mùa Chay cho đến
giờ, chúng ta đã chuẩn bị tham dự vào biến cố quan trọng nhất của lịch sử nhân
loại. Hôm nay chúng ta nghe Chúa Giêsu loan báo về những gì sắp xảy đến, nhưng
thay vì mở ra một cảnh tượng hùng vĩ thì Ngài lại tỏ lộ chính những tâm tình
thầm kín nhất của Ngài.
Thực vậy sau khi Chúa
Giêsu vinh hiển tiến vào thành Giêrusalem, thì có mấy người Hy Lạp đến tìm
Philipphê và nhờ ông giới thiệu mình với Chúa Giêsu. Lúc đầu có lẽ Philipphê
cảm thấy hơi ngại ngùng, nhưng sau đó cũng đã dẫn họ đến với Chúa Giêsu. Lạ
thay, Ngài không tỏ ra chấp nhận hay từ chối họ, nhưng lại mạc khải cho họ một
điều khác. Và chính trong sự mạc khải này, Ngài đã cho biết những tâm tình thầm
kín của Ngài. Ngài nói: Đã đến giờ Con Người được vinh quang.
Giờ mà Ngài đã tiên báo
lần đầu tiên, khi xuất hiện trước quần chúng tại tiệc cưới Cana. Giờ mà Ngài
vẫn mong chờ trong suốt ba năm giảng dạy. Chính vì thế, bây giờ không còn phải
là lúc tiếp nhận hay từ chối những người Hy Lạp, nhưng là lúc phải hoàn thành
sứ mạng cao cả và phổ quát của Ngài.
Tuy là giờ vinh quang, là
giờ Ngài hằng mong đợi, nhưng điều lạ là Chúa Giêsu nói tới giờ đó không phải
với một giọng điệu nao nức, nhưng trái lại, hình như đượm vẻ lo âu. Ngài biết
rõ con đường nào mình sẽ phải đi qua đến tiến tới vinh quang. Như hạt lúa phải
mục nát đi, thì mới trổ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất,
còn ai ghét sự sống mình, thì sẽ được sống đời đời. Qua đó, Ngài muốn nói với
chúng ta rằng: Điều kiện để tiến tới vinh quang là phải chấp nhận thập giá.
Thế nhưng kinh nghiệm cho
chúng ta thấy, thập giá không phải là một cái gì thơ mộng, ngọt ngào, nhưng là
một cái gì cay đắng ê chề. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng hoang mang và run sợ,
nên Ngài đã lên tiếng cầu nguyện: Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con. Đồng
thời Ngài còn thêm: Nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Nơi khác
Ngài cũng đã thốt lên: Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng cũng chính vì
giờ này mà Con đã đến.
Đó là một sự chấp nhận
thật can đảm. Lời cầu nguyện của Ngài vừa là một tiếng xin vâng, vừa là một tâm
tình phó thác cho Chúa Cha, Đấng sẽ biến cái chết của Ngài thành sự phục sinh
vinh quang. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết bước vào con đường mà Chúa
đã đi qua hay không? Bởi vì có trải qua đau khồ thập giá thì chúng ta mới tiến
đến vinh quang phục sinh.
2. Giờ Chúa đến.
Đọc lại Phúc âm chúng ta
nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào cuộc khổ nạn như bước lên sân khấu để trình
diễn một vở kịch, trong đó cái chết sẽ chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài
đã từng băn khoăn lo lắng khi giờ phút trọng đại ấy đến gần.
Mặc dù luôn vâng phục
thánh ý Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn quí trọng sự sống, Ngài vẫn muốn được sống,
vẫn muốn thoát khỏi những khổ đau và cái chết, bởi vì Ngài cũng là một người
như mọi người.
Đức
Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết, đã
nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay về sự đau khổ.
Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các linh mục đừng
nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là gì. Tôi đã
phải khóc lên vì nó.”
Có thể người ta sẽ chê
Đức Hồng y chưa hiểu biết ý nghĩa của sự đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ,
nên mới buồn, mới khóc và không dám nói tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân
thật với chính mình. Không nói hay ít nói về sự đau khổ không có nghĩa là không
sẵn sàng chấp nhận, không yêu mến đón nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao
cho. Chén đắng vẫn là chén đắng, chúng ta vui nhận, nhưng không thể vui sướng
coi đó như là một chén nước ngọt. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ
không vì thích chịu khổ đau.
Chúa Giêsu yêu mến sự
sống bởi vì chính Ngài đã tạo dựng ra sự sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại
sẵn sàng dâng hiến nó như một tặng vật cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời
đời cho chúng ta. Ngài ví mạng sống ấy như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để
làm nẩy sinh trăm hạt lúa mới. Ngài biết rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải
mất đi, nhưng Ngài chấp nhận sự mất mát đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm
lại sự sống của mình trong trăm ngàn hạt lúa mới khác được sinh ra từ cái chết
của Ngài.
Đức Kitô mong muốn không
phải là được chết nhưng là thực hiện thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là
cứu cánh nhưng chính là vinh quang Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới
là cái đích mà Ngài nhắm tới. Giờ mà Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng
là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa Cha đã trao phó, đó là làm cho mọi người được sống
nhờ cái chết của Ngài và làm cho toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất
với nhau khi cùng hướng nhìn về cây thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào
Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã
yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi
chúng ta cũng hãy yêu thương và hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ
đó mọi người đều được hiểu biết, đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần
hạnh phúc của gia đình những người con cái Chúa.
3. Hạt lúa gieo vào lòng đất
(Trích trong ‘Cùng Đọc
Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu chúng ta có một lượng
vàng trong tủ, làm sao để nó hoá thành năm? Nếu có trăm triệu, làm sao cho số
vốn đó đẻ ra gấp mười? Hầu như đó là chuyện không thể làm được bằng những
phương cách hợp pháp.
Giá như có bí thuật nào
làm được điều đó, thì ai cũng muốn thủ đắc cho bằng được với bất cứ giá nào.
Vậy mà hôm nay, Chúa
Giêsu tặng không cho ta một bí quyết làm gia tăng một giá trị không chỉ gấp
năm, gấp mười, mà là đến gấp trăm!
Thật khó tin! Làm gì có
chuyện thần kỳ như thế trên cõi đời nầy?
Thưa, dù điều nầy rất khó
tin, nhưng hoàn toàn có thật. Bí quyết nầy rút ra từ hạt lúa.
Hôm ấy, có người nông dân
mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió
lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt
lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống
nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy phận mình thật là diễm phúc, so với bao
nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp, ngụp lặn dưới bùn. Chúng tỏ lòng thương
hại các hạt thóc bạn dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Thật đáng thương
thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi được ở nơi khô ráo, thì
các anh lại phải ngụp lặn trong sình. Đang khi chúng tôi được ngước mắt nhìn
ánh dương rực rỡ, được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong
chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những
bông hoa tươi đẹp bên vệ đường, được ngắm nhìn người qua kẻ lại nói cười vui
vẻ, thì chung quanh các anh chỉ là tăm tối và tanh hôi. Cuộc đời chúng tôi đang
lên hương, còn cuộc sống các anh đang lụi tàn! Thật bất hạnh thay cho các
anh!"
Hạt lúa ấy vừa dứt lời
thì bỗng đâu có một bàn chân người dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy thành
ba. Sau đó, mấy chiếc xe ào đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác
thành bụi tro. Những hạt lúa may mắn còn sót lại thì hoá thành mồi ngon cho chim
chóc và các loại côn trùng!
Trong khi đó, những hạt
lúa tưởng là bất hạnh đang ngụp lặn trong bùn, thì qua vài ngày sau đã ngoi lên
thành những chồi non đầy sức sống, rồi thành những cây lúa xanh tươi cứng cáp.
Cây lúa lớn dần, nở bụi sum suê. Không đầy ba tháng sau, nó trổ thành những
bông lúa, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng, đem lại sức sống
cho bao người.
Từ một hạt lúa đơn độc,
nó đã được chuyển hoá thành trăm! Thật nhiệm mầu!
Hôm nay, Chúa Giêsu mời
gọi chúng ta hãy cùng với Ngài chuyển hoá đời mình như thế.
"Thật, Thầy bảo thật
anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một
mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Rồi Ngài nói rõ hơn:
"Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở
đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời."
Khi bước chân vào đời,
mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận mang
thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Ngài chấp nhận khổ hình, chấp nhận
vác thập giá, chấp nhận chết treo trên thập giá như một tên tử tội khốn nạn
nhất. Người đời tưởng rằng đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu... nhưng họ
đã lầm. Thay vì huỷ diệt, họ đã giúp Ngài chiến thắng. Qua thập giá, Chúa Giêsu
đạt đến vinh quang, được phục sinh vinh hiển và được hiển trị đời đời! Giờ tử
nạn cũng chính là giờ Ngài được tôn vinh.
Chúa Giêsu không muốn
chúng ta sống như hạt lúa đơn độc trên vệ đường, chỉ biết sống cho mình rồi rốt
cuộc phải tiêu vong. Ngài muốn chúng ta bước theo Ngài để chuyển hoá gấp trăm.
Để được như thế, chúng ta
hãy nên như hạt lúa bị chôn vùi, nghĩa là hãy chấp nhận hy sinh quên mình vì
hạnh phúc người khác; hãy cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu, cùng vác thập giá
hằng ngày với Chúa Giêsu, chấp nhận cống hiến tài sức để phụng sự Chúa và phục
vụ muôn người.
Nhưng sự việc đâu có giản
đơn. Xác thịt con người vẫn nặng nề và không dễ dàng chịu khuất phục. Phải có
rất nhiều can đảm mới có thể đáp lời Chúa mời gọi. Ôi, lạy Chúa, xin giúp sức
cho con!
4. Cho đi thì còn, giữ lại thì mất
(Trích trong ‘Cùng Đọc
Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Qua Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu nêu ra một nghịch lý gay gắt người đời khó hiểu được: "Ai yêu
quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì
sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời." (Ga 12,25)
Ai nâng
niu sự sống mình thì sẽ đánh mất nó.
Người đời cho rằng muốn
bảo tồn được mạng sống thì phải nâng niu cưng chiều nó tối đa, phải dành ưu
tiên cho mình trong tất cả mọi sự. Còn Chúa Giêsu thì chủ trương ngược lại:
"Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất!" (Ga 12, 25).
Làm sao hiểu được chân lý
nầy?
Nếu tim chỉ sống cho
riêng mình mà không bơm máu nuôi toàn thân thì tim sẽ bị ứ đầy máu và ngừng
đập.
Nếu phổi chỉ phục vụ bản
thân, không đưa dưỡng khí nuôi toàn cơ thể, thì phổi chết.
Nếu bao tử và ruột chỉ
chăm lo cho mình, giữ lại tất cả dinh dưỡng cho mình mà không chuyển đi nuôi
những bộ phận khác, bao tử và ruột tự kết án tử cho mình.
Ai liều
mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được nó.
Người đời cho rằng:
"mạng sống hơn đống vàng" nên người ta chăm sóc, bảo bọc, che chở nó
bằng mọi giá. Trong khi đó, Chúa Giêsu dạy, muốn bảo tồn mạng sống thì hãy hy
sinh nó đi: "ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được
mạng sống ấy" ( Mc 8,35).
Đây là chân lý hết sức hệ
trọng nên được các tác giả Tin Mừng nhắc lại nhiều lần: Gioan 12, 25b / Matthêu
10,39/ Matthêu 16, 25/ Luca 9,24/ Luca 17,33.
Làm sao hiểu cho được
những nghịch lý nầy?
Sở dĩ tim sống khoẻ vì
tim rất quảng đại và hy sinh, luôn luôn bơm hết dòng máu quý báu của mình để
cống hiến cho toàn thân được sống. Lẽ sống của tim là liên tục cho đi những gì
đã lãnh nhận.
Sở dĩ hai buồng phổi sống
trong tình trạng sức khoẻ sung mãn vì phổi vị tha, không tìm ích riêng cho
mình, nhưng luôn luôn chuyển đi dưỡng khí trong lành cho những phần chi thể
khác.
Sở dĩ bao tử và ruột hoạt
động tốt là vì chúng luôn trao ban và dâng hiến: một khi tiếp nhận được thức
ăn, bao tử và ruột chuyển hoá thành chất dinh dưỡng và chuyển hết cho những bộ
phận chung quanh, không giữ lại gì cho riêng mình.
Nói chung, lẽ sống của
từng cơ quan là hy sinh, là quên mình, là dâng hiến tất cả cho những cơ quan
khác cũng như cho toàn thân.
Ở Israen có hai biển hồ:
một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.
Biển hồ Galilê tiếp nhận
nước từ sông Jordano rồi xả xuống phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận
được. Nhờ đó, nước hồ lúc nào cũng trong lành, trở nên môi trường thích hợp cho
tôm cá sinh sôi nẩy nở, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh
những cánh đồng và vườn cây ăn trái, đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn,
đem lại sung túc cho bao triệu người qua các thời đại. Vì thế, nó đáng được gọi
là biển sống.
Xuôi về phía nam chừng
200 km dọc theo sông Jordano, người ta gặp thấy một biển hồ khác rộng lớn hơn
biển hồ Galilê gần năm lần nhưng bị gọi tên là biển chết; vì tuy cùng nhận nước
từ sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó giữ lại tất cả cho mình, không cho
chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước ao tù, mặn đến độ không sinh
vật nào sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không
sinh vật nào có thể lập cư...
Chúa Giêsu dạy: nếu hạt
lúa được giữ nguyên trong kho, được bảo quản kỹ càng, thì nó chỉ là hạt lúa trơ
trọi, một hạt lúa cô đơn, một hạt lúa chết dần mòn. Còn hạt lúa nào chịu huỷ
mình đi trong ruộng sình sẽ vươn lên phơi phới và sinh được gấp trăm.
Cuộc đời của Đức Giêsu
cũng là một minh chứng hùng hồn cho chân lý Người dạy. Chúa đã chịu gieo mình
xuống cõi đời ô trọc, chịu hy sinh, chịu đủ thứ khổ nhục, cuối cùng chịu chết
trên thập giá và mai táng trong mồ. Trước mắt người đời, Chúa Giêsu đánh mất
tất cả và thất bại hoàn toàn!
Thế nhưng qua khổ nạn và
sự chết, Người đã phục sinh, lên trời vinh hiển. Nhờ gieo mình xuống và tự hủy
đi như một hạt lúa gieo vào bùn đất, Chúa Giêsu đã sống lại khải hoàn đem lại
ơn cứu độ cho muôn người và cho họ được hưởng phúc trường sinh.
Quy luật sinh tồn là thế:
chỉ khi cho đi, mới là lúc được nhận lại dồi dào; chính khi hiến mình là lúc
nhận lại bản thân. Vì thế, khi sắp chịu huỷ mình trên thập giá và chịu mai táng
trong mộ, Chúa Giêsu gọi đó là giờ Người được tôn vinh: "Đã đến giờ Con
Người được tôn vinh!" (Ga 12, 23).
Thế là nghịch lý trên đây
giờ đã được sáng tỏ và trở thành chân lý soi dẫn cho cuộc đời.
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho chúng con sẵn sàng hiến thân để phụng sự Chúa và nhân loại,
như hạt lúa bị chôn vùi cho nhiều hạt khác được phát sinh, để trở thành
"biển sống Galilê" và không bao giờ là "biển chết.”
5. Sống đẹp giữa đời – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người xưa thường đề cao
lối sống của người quân tử. Người quân tử thấy chuyện bất bình thường ra tay
cứu giúp. Người quân tử luôn sống hào hiệp, sống vì đại nghĩa nên hy sinh bản
thân. Thế nhưng, con người ngày nay lại an phận thủ thường. Người ta ngại hy
sinh cho người khác. Người ta sợ "mang hoạ vào thân.” Người ta tìm an nhàn
cho bản thân nên chẳng dại gì "ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng.” Xem ra
lối sống của người quân tử thấy chuyện bất bình ra tay giúp đỡ chỉ còn trên
trang giấy học trò. Lối sống ấy đã mất dần trong thời đại hôm nay.
Người
ta kể rằng: Ở bên Trung Quốc, có một chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên
đường đồi. Trên xe, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô tài xế xinh đẹp.
Chúng bắt cô dừng xe và muốn "vui vẻ" với cô. Tất nhiên là cô tài xế
kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Lúc ấy
một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng
tay, nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các
hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô
lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường.
Một giờ
sau, ba tên du côn và cô tài xế tơi tả trở về xe để tiếp tục lên đường...
"Này
ông kia, ông xuống xe đi!" cô tài xế la lên với người đàn ông vừa tìm cách
giúp mình.
Người
đàn ông sững sờ, nói:
"Cô
làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?"
Cô gái
nhăn mặt nói: "Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy."
Điều
bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây của bọn du côn,
bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe. Thậm chí một vài hành
khách khỏe hơn đã lôi người đàn ông xuống xe.
Chiếc
xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên
hết cỡ. Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải
xe là một vực thẳm sâu hun hút.
Tốc độ
của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô
lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.
Một tên
du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô tài xế:
"Chạy
chậm thôi, cô định làm gì thế hả?"
Cô tài
xế không nói tiếng nào nhưng xe chạy ngày càng nhanh hơn. Tên du côn tìm cách
giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài, rơi xuống vực như mũi tên
bật khỏi cây cung.
Hôm
sau, báo địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng "Phục Hổ
Sơn.” Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt
mạng.
Trong
thành phố, có một người đàn ông đọc bản tin trên báo đã khóc!
Quả thực, con người ngày
xưa khi thấy chuyện bất bình, người ta thường lăn xả để hoà giải cho nhau,
nhưng xem ra hôm nay, ít ai dám can thiệp vào chuyện người khác. Ít ai dám xông
pha để bảo vệ kẻ yếu đang bị ức hiếp. Người ta ngại dấn thân vào chuyện của người
khác. Xem ra con người ngày nay thường có xu hướng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân
mình nhiều hơn là cho đồng loại. Con người ngày nay thích an nhàn nên ngại hy
sinh.”
Thế mà, hôm nay Chúa
Giêsu lại bảo: "kẻ nào giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai chịu chịu từ
bỏ cuối cùng sẽ được lại.” Đó là chân lý, là định luật tất yếu của cuộc đời.
Nếu thế giới này không có những con người dám quên đi bản thân thì làm sao có
những phát minh khoa học, làm sao có những kỳ quan để lại cho đời sau? Có lẽ
thế giới hôm nay sẽ thiệt hại biết bao, nếu không có những người dám quên đi sự
an nhàn cá nhân, sự yên vui vị kỷ, những lợi lộc cá nhân để sống vỉ lợi ích tha
nhân! Thế giới này đang mắc nợ những con người đã tận tuỵ làm việc quên mình để
xây dựng thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Thế giới hôm nay rất cần những con
người quân tử để cuộc đời được phong phú và yên vui hơn.
Chính Chúa Giêsu, Ngài đã
sống điều đó. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã trở nên
bất diệt khi Ngài trở thành hạt lúa chịu nghiền nát để trổ sinh muôn vàn bông
lúa. Ngài đã trở nên vĩ đại khi Ngài dám chết vì bạn hữu. Thực vậy, người vĩ
đại trong cuộc đời chúng ta không phải là những người nổi tiếng, không phải là
các ngôi sao điện ảnh hay ca nhạc mà là chính những người đang hy sinh vì chúng
ta. Họ là những người cha "chân lấm tay bùn" đang đổ mồ hôi nơi nương
đồng, đang miệt mài nơi công trường. Họ là những người mẹ đang lặn lội ngược
xuôi nơi bến chợ, đang hao gầy vì đàn con. Họ là những người anh, người chị
đang bôn ba đó đây để bòn nhặt từng đồng tiền để phụ giúp gia đình. Đó là những
con người cao cả, là những hạt lúa miến đang chịu nghiền nát vì tha nhân để trở
thành tấm bánh cho anh em. Đó là những con người dám quên đi niềm vui riêng của
bản thân để lo cái lo của đồng loại, để sống có ích cho tha nhân.
Nhưng thật đáng tiếc! Ý
niệm phục vụ tha nhân. Ý niệm sống vì người khác đang mất dần trong thế giới
hôm nay. Người ta đang lo cho bản thân. Người ta đang chạy theo danh lợi thú để
thoả mãn nhu cầu của chính mình. Có mấy ai dám quên mình để sống cho thân nhân?
Có mấy ai chịu nghiền nát đời mình để đem lại niềm vui cho tha nhân?
Thiết tưởng, mùa chay là
mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp hơn. Hãy hy sinh niềm vui của mình, những
đam mê sở thích của mình để đem lại niềm vui cho những người chúng ta yêu mến.
Thiết tưởng mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm
người của mình là biết sống vì hạnh phúc tha nhân. Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm
vui của Adam. Chúa cũng tạo dựng chúng ta vì niềm vui của thân nhân. Xin Chúa
là Đấng đã chết cho người mình yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để
kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Amen.
6. Bây giờ tâm hồn Ta xao xuyến
(Suy niệm của Lm. Giuse
Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu là một người
hoàn toàn như tất cả mọi người. Trong cuộc sống trần thế, Ngài cũng sợ hãi, bồi
hồi xao xuyến, khóc lóc cầu xin Thiên Chúa giải phóng Ngài khỏi chết. Tuy
nhiên, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa; nơi Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa là
Đấng yêu thương con người vô cùng.
I. Tâm
hồn Ta bồi hồi xao xuyến
Đức Giêsu biết những gì
đang chờ đợi Ngài. Cái chết đang đến gần khi Ngài quyết định lên Yêrusalem dự
lễ Vượt Qua. Là người Do Thái, theo luật phải lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua;
nhưng nếu lên, chắc sẽ chết vì những người lãnh đạo tôn giáo đang ghét, nên sẽ
giết Ngài. Đức Giêsu phải chọn lựa. Các tông đồ cũng ý thức điều này. Theo các
ông thì không nên lên Yêrusalem dịp này: “Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm
cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” (Ga. 11,8). Nhưng nếu Thầy quyết
định đi, thì các tông đồ cư xử làm sao? Thomas khuyến khích các bạn: “Cả chúng
ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga. 11,16). Có những người
trong chúng ta có kinh nghiệm chọn lựa trong những tình huống tương tự, và đã
chọn điều phải chọn cho dù nguy hiểm đến cả tính mạng.
Một vài người Hylạp gốc
Do Thái về dự lễ muốn gặp Đức Giêsu. Họ cậy nhờ Philíp để được gặp Đức Giêsu.
Philíp đã nói với Anrê; và cả hai đã đến nói với Đức Giêsu. Trong hoàn cảnh
bình thường, có lẽ cứ dẫn họ đến gặp Đức Giêsu, tuy nhiên trong hoàn cảnh này,
hai môn đệ ý thức cần phải hỏi ý kiến Đức Giêsu, vì có thể có những hậu quả xấu
không lường được. “Giờ đã đến.” Giờ mà làm Đức Giêsu lo sợ, bối rối xao xuyến.
Đồng ý cho họ gặp, là dường như “chọn chấp nhận cái chết.” Có nên xuất hiện như
Đấng người ta chờ đợi không? Có nên cho họ gặp không? Đức Giêsu đã chấp nhận
cái chết. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi
một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt” (Ga. 12, 24). Ngài
chọn điều sinh lợi cho nhiều người, cho dù phải chết.
Ông già Aleazar không
muốn giả bộ ăn thịt heo để khỏi chết, vì nếu sống mà làm gương xấu thì sống làm
gì (2Mac. 6, 18-31)? Yoan Tẩy Giả phản đối Hêrôđê khi ông lấy vợ của anh; dĩ
nhiên khi phản đối những người có quyền hành như vậy, ông biết điều gì có thể
xảy tới cho mình; tuy vậy, ông đã phản đối Hêrôđê. Yoan Tẩy Giả đã chọn nói
điều phải nói, cho dù phải chết. Hôm nay Đức Giêsu cũng đã chọn lựa điều tương
tự. Đứng trước chọn lựa này, Đức Giêsu bồi hồi xao xuyến như bao người khác.
II. Đức
Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc
Đức Giêsu là người như
mọi người. Ngài đã làm nghề để kiếm sống, nuôi mình và nuôi mẹ. Ngài cũng bị
cái đói hành hạ như bất cứ ai bị đói (Mt. 21, 18). Ngài bị đói khủng khiếp đến
độ muốn biến đá thành bánh. Chỉ khi bị đói cùng cực, người ta mới bị cám dỗ mơ
tưởng như vậy. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ “nổi tiếng”, vì vậy cám dỗ nhẩy từ trên
đỉnh đền thờ đã đến trong đầu Đức Giêsu. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ có quyền hành
để bắt mọi sự phải theo ý mình. Chỉ satan mới có cách hành xử không tôn trọng
tự do của con người; còn Thiên Chúa, Ngài luôn tôn trọng tự do của con người,
ngay cả khi con người dùng tự do để chống đối Ngài.
Đức Giêsu đã phải chọn
lựa liên lỉ trong cuộc sống. Ngài đã chống lại cám dỗ, trong hoang địa (Mt. 4,
1-11) và trong cuộc sống thường ngày, cả qua những người theo Ngài (Mt.16,
22-23; Ga.11, 8). Ngài cũng sợ toát mồ hôi, và sợ đến độ toát mồ hôi máu: “Ngài
lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như
những giọt máu rơi xuống đất” (Lc. 22,44). Thư gởi tín hữu Do Thái nói Đức
Giêsu không chỉ sợ toát mồ hôi máu, mà còn khóc lóc rơi lệ cầu xin Thiên Chúa
cứu Ngài khỏi chết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu
van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài
khỏi chết” (Dt. 5,7).
Đức Giêsu thật sự là
người như mỗi người chúng ta. Không có cám dỗ nào con người bị mà Ngài không
bị. Không có ai bị cám dỗ mãnh liệt như Ngài. Ngài cũng học vâng phục, và chấp
nhận vâng phục ngay cả phải chết. Ngài bị cám dỗ cả về đức tin: “Lạy Cha, sao
Cha nỡ bỏ con” (Mc. 15,34). Khi bị cám dỗ về đức tin, Ngài đã phó thác cho
Thiên Chúa tương lai và vận mạng của Ngài. Đức Giêsu gần và giống mỗi người hơn
người ta tưởng.
III. Ta
viết luật của Ta trong tim chúng
Thiên Chúa đã ký giao ước
với con người, để bảo vệ con người. Qua dấu chỉ cầu vồng, Thiên Chúa giao ước
với Noe và tất cả tạo vật, để không bao giờ dùng lụt hồng thủy tiêu diệt con
người nữa; qua thập giới tại núi Sinai, Thiên Chúa giao ước với dân Do Thái, để
làm dân Do Thái thành dân tư tế, thành dân riêng của Thiên Chúa. Thiên Chúa
loan báo qua tiên tri Giêrêmia, Ngài sẽ ký kết với dân một giao ước mới, và
Ngài sẽ khắc ghi luật Ngài trong tim con người, để không ai phải dạy ai về
Thiên Chúa nữa. Đức Giêsu chính là giao ước mới: “Rồi cùng một thể thức ấy,
Ngài cầm lấy chén đầy rượu, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: tất cả các con
cầm lấy mà uống, này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con
và nhiều người được tha tội.”
Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa
giao ước ở với và yêu thương con người mãi mãi. Đức Giêsu vừa là dấu chỉ giao
ước, vừa là diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, vừa là bảo đảm
Thánh Thần hiện diện nơi con người. “Anh em không biết anh em là đền thờ của
Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1Cor.3, 16)? Thánh
Thần Tình Yêu đang ngự trong tâm hồn, trong tim mỗi người.
Nhờ Đức Giêsu và Thánh
Thần, con người nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Con người được gọi để sống yêu
thương. Chính khi yêu thương, con người trở nên giống Thiên Chúa, và được chia
sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, cho dù người đó ở bất cứ đâu. Chính khi yêu
thương, con người gặp gỡ Thiên Chúa, và cảm nghiệm hạnh phúc. Đây là điều có vẻ
mâu thuẫn, nhưng đó là sự thật, và được biểu lộ qua cái chết của các anh hùng
tử đạo và cái chết của Đức Giêsu.
Câu hỏi
gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, Đức Giêsu
giống bạn ở điểm nào, và khác bạn ở điểm nào?
2. Bạn có cảm nghiệm
Thiên Chúa ở với bạn không? Nếu được xin chia sẻ.
7. Nếu hạt giống chết đi – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Con người muôn đời vẫn ưu
tư về đau khổ và cái chết. Đó là một cản trở lớn cho niềm tin vào Thiên Chúa.
Nếu Thiên Chúa toàn năng và thương yêu con người, tại sao người lành phải đau
khổ? Bởi đó niềm tin Thiên Chúa cũng gặp bế tắc. Bế tắc đó chỉ có thể được khai
thông nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã đem lại cho đau khổ và cái
chết một ý nghĩa lớn lao nhờ chia sẻ sâu xa thân phận bi đát của con người.
Thân phận con người cũng như hạt giống phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái.
Đau khổ và sự chết của Đức Giêsu trở thành cần thiết cho một mùa màng lớn lao
tức là ơn cứu độ muôn dân. Người chính là hạt giống Thiên Chúa gieo xuống trần
gian. Cát bụi trần gian đã vùi lấp con người nhỏ bé của Người. Nhưng người sẽ
trỗi dậy, vươn cao như bầu trời, đem niềm hi vọng đến muôn dân.
BỨC TRANH VÂN CẨU
Người Hi lạp ái mộ, “muốn
gặp Đức Giêsu”(Ga 12,21). Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào
Chúa. “Trong Tin Mừng Gioan, gặp có nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ gặp
Người nếu họ tin vào Người ngang qua cái chết” (Disciples in Mission 1999:22).
Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời
trực tiếp, Đức Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước
vào vinh quang: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12:23). Nhưng vinh
quang đó phải ngang qua khổ giá. Đúng hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương
trình cứu độ được thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những
người Hi lạp phải ngang qua thập giá mới đạt được. Đó là lý do tại sao Đức
Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên bước đường theo Chúa.
Muốn theo Chúa, tiên vàn
“Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26). Thầy leo lên khổ giá,
môn đệ không thể đứng dưới nhìn lên như khách bàng quan. Khi leo lên khổ giá,
Thầy sẽ trở thành một sức mạnh thu hút tất cả môn đệ lên theo. “Phần tôi, một
khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga
12,32). Nghĩa là “Người sẽ kéo các tín hữu đi theo Người lên thập giá bằng cách
để cho họ phải bị thù ghét, phải chịu bách hại như Người” (Thánh Kinh Tân Ước
1995:448). Thày đã hi sinh cuộc sống trần gian cho môn đệ. Nếu muốn tiếp tục
làm môn đệ Thày, họ không thể không biết đến thang giá trị giữa sự sống trần
gian và sự sống vĩnh cửu. Thày nói rõ: “Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời
đời” (Ga 12,25). Tại sao phải hi sinh tới mức đó? Hi sinh như thế có thực tế
không? Theo Thầy làm gì cho khổ? Phục vụ Thày có được lợi gì đâu?
Nhưng Đức Giêsu nói: “Ai
phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy” (Ga 12,26). Theo Thầy để bước lên khổ giá, tức
là bước vào vinh quang, sẽ chiếm được tình yêu Chúa Cha như Thầy. Đó là điều
quả quyết: “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy” (Ga 12,26).
Còn gì giá trị hơn tình yêu của Chúa Cha? Đó là nguồn suối duy nhất phát sinh
mọi hồng ân, tự do và hạnh phúc. Chính vì giá trị tuyệt vời đó, Đức Giêsu đã
nhận được tất cả sức mạnh để xông vào cuộc chiến với Satan. Người mạnh đến nỗi
“giờ đây thủ lãnh thế gian sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12,31).
Dù sao, trong tình thế
hiện tại, Đức Giêsu cũng vẫn là con người. Đứng trước cái chết, Thầy cũng cảm
thấy luống cuống. “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga
12,27). Thầy rùng mình kinh khiếp. Tất cả thân thể Thầy nổi da gà. Thầy nhìn
vào mình quá kỹ. Bởi thế Thầy không thấy lối thoát. Thày thấy chóng mặt, quay
cuồng với những ưu tư về chính mình. Chợt một tia sáng bừng lên dẫn theo một
tiếng nổ long trời (Ga 12,29). “Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ‘Ta đã tôn
vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!’ (Ga 12,28). Đó là tiếng Chúa Cha trả lời
tâm nguyện vâng phục của Chúa Con (c.28), một sự vâng phục dẫn Đức Giêsu vào
màn đêm tăm tối của đau khổ. “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều
đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức
thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục
Người” (Dt 5, 8-9). Nhưng chính lúc đất trời nối liền, quyền lực âm phủ tiêu
tan. “Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này” (Ga 12,31), một cuộc
phán xét sẽ cho thấy tất cả bộ mặt thật của ác thần. Thật là khủng khiếp!
Đối với những ai vâng
phục như Đức Giêsu, không hề có phán xét. Trái lại một giao ước mới, giao ước
tình thương sẽ được thiết lập (Gr 31,31). Họ sẽ nghe những lời âu yếm: “Ta sẽ
là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31,33). Như thế một
tương quan mới đã được thiết lập. “Chính nhờ đau khổ, cái chết và phục sinh của
Đức Giêsu và Thánh Linh hiện xuống, dân Chúa đã bước vào một tương quan mới”
(Disciples in Mission 1999:22) với Thiên Chúa tình yêu.
RAU NÀO SÂU ẤY
Cuộc đời Đức Giêsu quả
thật như “bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” (Cung Oán Ngâm Khúc). Nhưng
ngược với nàng cung phi bị ngã gục dưới thực tế đau buồn, Đức Giêsu đã trỗi
dậy, “đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ và cái chết, vì qua đó, Người đã đem
lại ơn cứu độ cho toàn thế giới” (Disciples in Mission 1999:23). Đó là một
chiến thắng lớn lao, đem lại nguồn hứng khởi cho nhân loại. Đức Giêsu là một hạt
giống đã chết đi, sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24) là cộng đoàn các Kitô
hữu. Từ đó, nhờ sự kết hợp với Người, Kitô hữu sẽ cống hiến cho thế giới cả một
mùa màng vô cùng tốt đẹp. Nói khác, “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại
trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga
15,5). Thầy chính là năng lực, là ý nghĩa sau cùng của mọi nỗ lực thắng vượt
đau khổ và sự ác.
Thực ra, tự bản chất, đau
khổ vô nghĩa. Sở dĩ đau khổ có ý nghĩa vì đó là một phương tiện để Đức Giêsu
chứng tỏ tình yêu của Người với Chúa Cha và nhân loại. Ngày nay vẫn có nhiều
môn đệ Chúa Kitô biết lợi dụng những đau khổ như là con đường đi tới vinh
quang. Dù phải vào tù hay có thể bị lây nhiễm những bệnh nguy hiểm, họ vẫn một
lòng xả thân cho đồng loại. Họ là những người đang chiến đấu cho quyền làm
người, đang âm thầm hi sinh cho những người nghèo, chăm sóc những người già,
bệnh tật, những trẻ em mồ côi. Không có những gương hi sinh như thế, không biết
nhân loại sẽ đi tới đâu.
Những môn đệ Chúa Kitô đó
đang nỗ lực thiết lập nền tảng giao ước mới trong lòng mọi người, đang lợi dụng
“cơ hội tuyệt vời để khởi đầu xây dựng một mối tương quan vĩnh hằng và thân mật
với Thiên Chúa” (xc. Gr 29,11; 32,38-40) (Life Application Study Bible
1991:1345). Họ đang học vâng lời như Đức Giêsu, dù có phải hi sinh chính mạng
sống. Chính sự vâng lời ấy sẽ kiện toàn con người và đưa họ tới mức hoàn hảo
hay trưởng thành như Đức Kitô. Nói khác, vâng lời không hề gợi lên ý hướng tiêu
cực, nhưng hoàn toàn đẩy con người vào một chiều hướng giao ước mới đặt nền
tảng trên Đức Kitô (Dt 8,6). Vâng lời như thế, họ sẽ thấy phải “từ bỏ luật lệ
khắc nghiệt của cái tôi muốn lấy mình làm trung tâm” (Life Application Study
Bible 1991:1905). Trung tâm cuộc đời phải là Thiên Chúa, Đấng giải thoát con
người khỏi những ràng buộc của cái tôi cồng kềnh. Rời xa trung tâm đó, con
người chìm vào những tham vọng ngông cuồng của văn hoá sự chết, “phủ nhận Thiên
Chúa là Đấng tạo dựng sự sống. Khi kinh tế thống trị, người ta đổ xô đi
tìmnhững giải pháp dễ dãi như phá thai, chết êm dịu.” (Igor Kowalewsky: Zenit
4/4/03) Tự do không có nghĩa là buông thả. Trái lại, “tự do xây trên chân lý là
nền tảng duy nhất bảo đảm xã hội dân chủ tự do.” Chân lý đó là Đức Kitô. Khi
xây dựng trên nền tảng đó, “cộng đoàn và gia đình Công giáo chiếu sáng như
những mẫu mực của cộng đoàn sự sống và tình yêu để canh tân nền văn hoá hiện
đại.” (Igor Kowalewsky: Zenit 4/4/03)
8. Mùa gặt tươi tốt – Cố Lm. Hồng Phúc
Với Phụng vụ hôm nay,
Giáo hội đọc lại cho chúng ta những lời ca thán của tiên tri Giêremia, những
lời não nuột thống thiết khi đạo quân Babylone bao vây Giêrusalem, dân Chúa lâm
cảnh lưu đày. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa tình thương, giữa đêm tối
vẫn lóe lên ánh sáng, giữa bao đổ vỡ thất vọng vẫn tái xuất niềm hy vọng. “Đây
tới ngày Ta ký kết với dân Ta Giao ước mới, Ta sẽ là Chúa của chúng và chúng sẽ
là dân của Ta… Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của
chúng nữa.” Những lời ấy sẽ thực hiện nơi Chúa Giêsu khi Ngài đến cứu độ chúng
ta, sẽ cho “chúng ta uống vào chén tân ước vĩnh cửu, chén máu của Ngài sẽ đổ ra
cho chúng ta và nhiều người được tha tội.”
Trong Thư gửi Giáo đoàn
Hebrô, niềm hy vọng ấy lại được nhắc lại cho nhóm giáo dân tiên khởi, cũng đang
hoang mang run sợ khi nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát. Từng đoàn người bị phát
lưu đi cùng đế quốc, sau biến cố năm 70 thành Giêrusalem bị bình địa, đền thờ
bị phá hủy, “không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào.” Chúa Giêsu, Phaolô viết,
“Mặc dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu và
khi hoàn tất Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho những kẻ tùng
phục Ngài.” Chúa đã đi qua con đường sự chết để vào chốn vinh quang và trở nên
nguồn gốc ơn cứu độ cho chúng ta hết thảy.
Chúa Giêsu là câu hỏi
ngàn đời, cho người Do thái, người ngoại bang cũng như cho chúng ta ngày nay
hết thảy.
Hôm nay, Gioan cho biết
có một nhóm người Hy lạp đến Giêrusalem trong dịp lễ Vượt qua, tìm cách được
gặp Chúa. Họ là những người ngoại bang, nhưng lại có cảm tình với Do thái giáo.
Họ đến nhờ hai vị Tông đồ Anrê và Philiphê, hai Tông đồ biết chút ít ngôn ngữ,
giới thiệu để được gặp Chúa Giêsu. Gặp đây không phải là chỉ nhìn thấy, nhưng
theo từ ngữ của Gioan muốn nói, là được thấu hiểu phần nào con người bí ẩn của
Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không đáp ứng
trực tiếp điều họ mong muốn. Nhưng Ngài lại cho họ thấy giờ vinh quang của
Ngài, giờ mà Ngài đi vào cuộc tử nạn, mọi người đều thấy. Và để giải thích,
Ngài tự ví như hạt lúa gieo vào trong lòng đất, phải được mục nát đi, rồi mới
vươn lên, sinh hoa kết quả. Thì xác thánh của Ngài cũng bị chôn vào mồ, rồi mới
phục sinh sống lại trong vinh quang.
Theo từ ngữ Thánh Kinh,
giờ là cuối điểm của một sứ mạng. “Giờ của người đàn bà” (Gio. 16,21) là giờ
sinh đẻ, “Giờ của Chúa Giêsu” là giờ tử nạn vì là giờ Ngài hoàn tất sứ mạng cứu
chuộc. Hình ảnh hạt lúa vùi xuống đất, bừng lên đầy nhựa sống là hình ảnh mầu
nhiệm phục sinh thì mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng phục sinh. Chúng ta
trong đời, có phải là hạt giống hứa hẹn một mùa gặt tươi tốt cho chính mình và
cho kẻ khác không?
Gioan không tường thuật
cuộc hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn Giệtsêmani, mồ hôi chan hoà lẫn máu.
Nhưng đã nhìn thấy cuộc ấy diễn ra trong sân đền thờ. Chúa phán: “Bây giờ linh
hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này? Nhưng chính
vì thế mà con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha.” Và câu
trả lời của Chúa Cha đã vang vọng như trong khi Ngài vừa chịu phép rửa và khi
Ngài biến hình. Dân chúng xao xuyến. Nhưng Chúa giải thích: “Bây giờ là lúc thế
gian bị xét xử… Còn Ta khi bị đưa lên cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi
người lên cùng Ta.”
Cây Thánh giá sẽ được tôn
vinh, sẽ làm dụng cụ cứu rỗi nhân loại.
Thánh Phanxicô Xaviê khi
rao giảng cho dân chúng luôn luôn cầm trong tay một cây Thánh giá lớn. Một hôm
đang giảng cho dân từng từng lớp lớp đứng trên bãi biển, mệt quá cây Thập giá
rời khỏi tay và rơi tỏm xuống biển. Ngài buồn rầu cầu nguyện. Thì bỗng nhưng có
một con cua từ dưới biển bò lên, hai càng gậm cây Thánh giá. Ngài vui mừng cám
tạ ơn Chúa. Vị Thánh Quan Thầy xứ truyền giáo ấy đã rửa tội gần một triệu
người.
“Tôi
mong đợi Chúa, vì Chúa giàu ơn cứu độ
Và giải
thoát Israel khỏi mọi gian ác”
(Tv. 129 – Đáp ca)
9. Hạt lúa mục nát đi mới trổ sinh bông trái
(Suy niệm của Lm. Trần
Bình Trọng)
Danh tiếng Đức Giêsu lúc
này đã phải vang dội như sóng bạc đầu, nhất là việc Người vừa làm cho ông
Ladarô đã chết bốn ngày sống lại ở Bêtania cách Giêrusalem có hai dậm. Vì thế
mà một số người hành huơng Hy lạp xin ông Phi-líp-phê, có tên Hy-lạp cho yết kiến
Đức Giêsu, có lẽ với hi vọng được sự thông cảm của người cũng có tên Hy lạp.
Ông Phi-líp-phê lại hỏi ý kiến ông An-rê cũng mang tên Hy-lạp. Nhóm người Hy
lạp đây không phải là người Do thái nói tiếng Hy lạp, nhưng là người Hy lạp
sống ở Do thái, đã phải nghe đồn thổi về việc Ladarô được Đức Giêsu cho sống
lại (Ga 12,17). Trước khi đế quốc La mã thống trị Do thái, thì đế quốc Hy lạp
đã đặt chân ở đây. Người Hy lạp được tiếng là chuộng triết học, kiến trúc và
nghệ thuật. Có lẽ vì những lí do đó mà họ đến viếng thăm Đền thờ Giêrusalem với
kiến trúc đồ sộ nguy nga và xin được gặp Đức Giêsu.
Dịp này các thượng tế và
nhóm người Pharisêu đang tìm cách hạ sát Đức Giêsu vì họ sợ ảnh hưởng của
Người. Phúc âm ghi lại, họ sợ thiên hạ theo ông ấy hết (Ga 12,19). Còn Đức
Giêsu thì gián tiếp trả lời nhóm người Hy lạp khi bảo các môn đệ rằng: Nếu hạt
lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24). Thoạt nghe, người ta cho
rằng đó là lời phát biểu có tính cách tầm thường, vì ai quan sát cũng đều thấy
và biết như vậy. Tuy nhiên Đức Giêsu không chỉ nói đến tiến trình biến đổi của
thực vật, như cỏ cây hoa lá mà thôi. Luật đó còn được áp dụng cho cả loài người
về đời sống thể lý, tinh thần và thiêng liêng nữa.
Phúc âm còn ghi lại, Đức
Giêsu cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến: Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này,
nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha (Ga
12,27-28). Khi Giuđa phản đối việc bà Maria xức dầu thơm cam tùng hảo hạng lên
chân Đức Giêsu, Người cũng đã ám chỉ về cái chết của Người khi bảo cứ để bà
yên, hầu giữ lại dầu thơm cho ngày mai táng Người (Ga 12,7). Đức Giêsu còn ám
chỉ Người sẽ phải chết cách bị treo lên khỏi mặt đất (Ga 12,32), nghĩa là trên
thánh giá.
Qua miệng ngôn sứ Isaia,
Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao ước mới và vĩnh cửu, để thay thế giao
ước cũ trên núi Sinai, giao ước mà dân Chúa đã không tuân giữ. Giao ước mới này
không được viết trên bia đá và không phải bằng máu chiên cừu, mà Môsê đã dùng
để phê chuẩn giao ước cũ, nhưng được phê chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Đó là ý
nghĩa của lời truyền phép mà linh mục chủ tế tuyên xưng trong thánh lễ: Đây là
máu Tân Ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Theo thư gửi tín
hữu Do thái, ta được biết vâng lời và chấp nhận khổ giá là một phần của giao
ước mới (Dt 5,8-9).
Sứ điệp mà Đức Giêsu đến
để công bố trong giao ước mới đưa tới sự chết. Và vì vâng lời, nên Thiên Chúa
đã cho Người sống lại từ cõi chết. Xét theo bản tính Thiên Chúa, Đức Giêsu
không thể chịu đau khổ và chịu chết. Người chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong
thân xác loài người của Người mà thôi. Vì thế khi sống lại, Đức Giêsu cũng sống
lại trong thân xác loài người của Người. Còn xét về bản tính Thiên Chúa, thì
trước sau, Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một, không hơn không kém, không thêm,
không bớt, không thể chết đi, cũng không thể sống lại.
Theo định luật đào thải
của bộ máy tiêu hoá, thì cái gì vào, nó phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Còn
theo định luật cung cầu của kinh tế, thì có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu
không, quốc gia sẽ không có ngoại tệ. Về đời sống tâm lý và đời sống thiêng
liêng cũng có định luật. Khi người ta chỉ sống cho mình, không cho đi, thì mối
liên hệ với người khác sẽ bị cằn cỗi, và đời sống liêng liêng sẽ không được
vươn lên. Tất cả những định luật đó: định luật tự nhiên, định luật tâm lý, định
luật kinh tế, nguyên tắc làm giàu cho đới sống tinh thần và đời sống thiêng
liêng đã được Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ và trong tâm khảm loài người.
Để chia sẻ sự sống mới
với Đức Kitô, ta phải đi theo tiến trình của kiếp sống con người: sinh lão bệnh
tử. Trường hợp các vị tử đạo đã làm, là chấp nhận cái chết vì đức tin vào Chúa
để được hưởng sự sống mới. Tuy nhiên rất ít người được phúc tử vì đạo. Đa số
loài người trải qua cái chết tự nhiên. Ta cũng có thể hiểu cái chết ở đây theo
nghĩa bóng. Có những văn sĩ cũng đã dùng quan niệm chết đi theo nghĩa bóng như
"chia ly là chết cho mình một nửa" để nói lên sự mất mát về tình cảm
và tinh thần.
Như vậy theo nghĩa bóng
của cái chết thì người tín hữu phải sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho
tính mê nết xấu, chết đi cho tính tham lam ích kỷ, chết đi cho tính thù hằn
giận ghét, chết đi cho tính kiêu căng tự phụ, chết đi cho thái độ sống chết mặc
bay để có thể được tham dự vào đời sống mới với Đức Kitô. Sẵn sàng chịu chê
cười nhạo báng và chịu bách hại vì tin yêu Chúa là chết đi một phần. Sẵn sàng
trả giá trong cách sống, cách nói năng và hành động để làm môn đệ Chúa, cũng là
chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng chịu mất mát, mất bạn bè, mất việc làm, mất
địa vị xã hội, nếu những sự việc trên làm cản trở cho bước đường làm môn đệ,
làm sứt mẻ mối liên hệ với Chúa, cũng là chết đi cho mình một phần. Nói tóm lại
chỉ khi nào người ta tham dự vào cuộc hi sinh khổ hình của Chúa, ta mới có thể
chia sẻ cuộc phục sinh vinh hiển với Người (2 Tim 2,11).
Lời cầu nguyện xin cho
được chết đi cho tội lỗi:
Lậy
Chúa Giêsu! Chúng xin cảm tạ Chúa
đã đến
thế gian, chấp nhận hi sinh thánh giá
để cứu
chuộc tội lỗi loài người, gồm tội riêng con.
Xin cho
con được sẵn sàng chết đi cho tội lỗi
và các
thứ tính mê nết xấu
để con
được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
10. Thuốc bất tử – Lm. Trịnh Ngọc Danh
Thời
Chiến quốc, có một người đem dâng cho vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy
bưng vị thuốc vào, đi ngang qua một viên quan canh cửa. Viên quan này hỏi:
- Vị
thuốc này có ăn được không?
Người
kia đáp:
- Ăn
được.
Tức
thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn. Chuyện đến tai vua. Vua truyền bắt viên
quan đem giết.
Viên
quan kêu:
- Thần
đã hỏi người đem dâng thuốc là có ăn được không. Người ấy bảo: “ăn được”, nên
thần mới dám ăn. Như thế là thần vô tội mà lỗi là ở người dâng thuốc. Hơn nữa,
người đem dâng thuốc nói là thuốc “ bất tử”, nghĩa là thuốc ăn vào thì không
chết nữa. Thế mà thần mới vừa ăn xong, lại sắp phải chết; vậy là thuốc “tử” chứ
đâu phải thuốc “bất tử”? Nhà vua giết thần, thực là oan uổng cho một người vô
tội; điều đó có nghĩa là thiên hạ dối lừa nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Nghe
nói có lý, nhà vua bèn tha chết cho viên quan.
Một
khát vọng
Chẳng ai muốn chết, và ai
cũng muốn sống lâu, sống trường thọ; nhưng oái ăm thay! chết lại là số kiếp của
con người, ai cũng phải một lần đi qua kết cuộc ấy.
Sống được trên trăm tuổi
đã là tuổi hiếm thấy trên thế gian; vì thế người ta mới ghi vào sổ kỷ lục những
ai sống trên trăm tuổi: cụ già sống được 110 tuổi một tháng, đạt kỷ lục trường
thọ hơn cụ già sống 110 tuổi 20 ngày! Càng về cuối đời, người ta không tính
sống được bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng nhưng tính hơn nhau từng ngày. Sống
lâu trường thọ đến thế là một điều khâm phục, một niềm tự hào. Thọ là một trong
ba nguyện ước con người thường cầu chúc cho nhau: Phúc- Lộc- Thọ.
Những mỹ phẩm mà người ta
rao bán: làm trẻ mãi không già, thực ra chỉ có thể che lấp đi được những nếp nhăn
nheo cằn cỗi trên thân xác, nhưng không thể níu kéo hay xoá đi tuổi già của
thời gian. Và giả như ai đó phát minh ra được một thứ thuốc kéo dài tuổi thọ
đến 100 hay 200 năm, chắc chắn người ấy sẽ trở thành nhà tỷ tỷ phú, và nếu chế
được một thứ thuốc trường sinh bất tử thì chắc người ấy sẽ là người giàu nhất
thế giới.
Thế mới biết: làm sao cho
được “trẻ mãi không già”, được “sống lâu, bất tử” là khát vọng, nhưng đồng
thời cũng là tuyệt vọng của con người.
Muốn
sống, phải chết
Người đời bảo: chết là
hết; thế mà có một người dám quả quyết: muốn sống, phải chết đi để được sống mà
không phải sống trường thọ 2,3 trăm năm mà sống bất tử, sống đời đời: “Nếu hạt
lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu
nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai
ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời.” Người ấy
là Chúa Giêsu.
Nhưng chết bằng cách nào?
Là tự tử? Là hủy hại thân thể? Không. Chết là “thối đi”, là “ghét sự sống ở đời
này”; đó là cái chết cho những tiêu cực nơi tâm hồn.
Như thế, chết là hãm mình
trước những cám dỗ của dục vọng, của ý riêng, là vượt thắng 7 mối tội đầu, là
hy sinh vì 10 điều răn Chúa dạy, là từ bỏ những gì không thuộc ý muốn của Thiên
Chúa; vì “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái nghịch với Thần Khí; còn
Thần Khí lại ước muốn những điều trái nghịch với xác thịt… Những việc do tính
xác thịt gây ra thì ai cũng rõ; đó là dâm bôn, ô uế, phóng đảng, thờ quấy, phù
phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái,
ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những việc khác giống như vậy… Còn hoa quả của
Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín,
hiền hoà, tiết độ.” ( Gl 5, 17.19-20.22-23)
Chết là canh tân đổi mới,
là cải thiện tâm hồn, là thay đổi não trạng, thay đổi cách suy nghĩ sao cho hợp
với thánh ý của Thiên Chúa: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải
biến con người anh em bằng các đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý
Thiên Chúa: cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” ( Rm. 12,2)
Chết là chấp nhận hy
sinh, chịu “thối đi” nơi con người thể xác để cho hạt giống đức tin và Tin Mừng
có điều kiện nẩy sinh và mang lại nhiều hoa trái cho người và cho đời.
Người không chịu “thối đi”,
không dám “ghét sự sống của mình ờ đời này”, là người gạt bỏ sự siêu nhiên ra
khỏi cuộc đời của người Kitô hữu, không còn tìm thánh ý Chúa, không còn hành
động cho sáng danh Chúa; là cho rằng hy sinh, khiêm nhường, nhịn nhục là dại
dột, chỉ vâng phục khi nào mình thấy hợp lý, có lợi cho bản thân.
Người không chịu “thối
đi”, không dám “ghét sự sống của mình ở đời này” là người chỉ xem hạnh phúc
trần thế là cứu cánh của cuộc sống; là người vẫn dự lễ, đọc kinh tối sáng, vẫn
làm những công việc bác ái, nhưng cuộc sống của họ lại xa lạ với Tin Mừng.
Trọng tâm của cuộc đời của họ là quyền hành, lạc thú, tiền của. Bạn hữu của họ
là những người giàu sang quyền thế, ngay cả những kẻ bóc lột, tham nhũng… Họ
không nghĩ đến đời sau, bình thản như thể họ sẽ sống muôn đời trên cõi đời này
và thiên đàng đối với họ là trần gian.
Đó là những hạt giống
không chịu “thối đi”, không chịu mục nát, những hạt giống “sống trơ trọi một
mình”, nên không “sinh nhiều bông trái” cho đời, cho người, không manh ích lợi
gì cho ai và như thế, cuộc sống của họ “sẽ mất.”
Thuốc
bất tử
Phương thuốc bất tử mà
Chúa Giêsu muốn mang đến cho con người là: sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc
1,15).
Trước tiên, phải sám hối,
chịu “thối đi”, chịu “mất mạng sống mình” mới chỉ là những thứ chúng ta phải
kiêng khem, phải hy sinh, phải hãm mình như người mắc bệnh tiểu đường phải
kiêng ăn ngọt, người cao máu phải kiêng ăn mặn.
Kế tiếp, là tin vào Tin
Mừng như lời Chúa đã phán: “Ai nghe lời Ta và tin Đấng đã sai Ta, thì được từ
cõi chết mà qua cõi sống.” (Ga. 5,24); hay “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì
có sự sống đời đời.” (Ga. 6,55)
Tóm lại, bài thuốc bất tử
mà Chúa muốn ban cho chúng ta là Thập gía. Chúa Giêsu đã chấp nhận chết đi để
trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại được nhìn lên Ngài và được sống.
Hạt lúa phải chịu nghiền
nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài
chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc tư nạn đau thương để trở thành bánh thánh
dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ, đồng thời trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thập giá đã trở thành
ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết để đi vào vinh quang của
Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống đời đời cho chúng ta.
Cách thức để đi đến chiến
thắng vinh quang lại là cách thức đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian.
Đáp lời kêu gọi của Thầy
Chí Thánh: “Hãy đến mà xem”, “Hãy theo Ta”, chúng ta đã “đến mà xem”, đã “theo
Thầy”, nhưng còn một điều kiện nữa để được sống bất tử là “vác thánh gía mình
mà theo Thầy”, không biết chúng ta đã thực hiện điều kiện ấy chưa! đã chịu
“thối đi” , đã “ghét mạng sống mình” được bao nhiêu!
11. Hạt lúa mì – Lm. Phạm Quốc Hưng
Thập giá là hình ảnh được
dùng nhiều hơn cả để nhắc chúng ta nhớ đến Chúa Giêsu và tình yêu hy sinh tận
tuyệt của Người, cũng như tinh thần mỗi Kitô hữu phải có trong đời sống của
mình. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh khác, dù rất đơn
sơ bé nhỏ gần gũi nhưng lại giàu ý nghĩa, để diễn tả tâm tư và lối sống của
Người. Chúa Giêsu còn chỉ ra đó tất cả một bí quyết hay một quy luật căn bản mà
mỗi Kitô hữu phải theo để trở nên giống Người, để đạt đến ơn cứu độ và vinh
quang đích thực.
Đó là hình ảnh hạt lúa
mì.
Người nói: “Đã đến giờ
Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì
rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình; nhưng nếu nó thối
đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự
sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12:23-25).
Chúa Giêsu nói những lời này khi Người sắp bước vào Cuộc Thương Khó. Thật thích
hợp khi Giáo Hội cho chúng ta được nghe những lời này một tuần trước Chúa Nhật
Thương Khó.
Thánh Sử Gioan chia Tin
Mừng của người thành hai phần: sách các dấu chỉ và sách vinh quang. Phần sách
các dấu chỉ thuật lại các phép lạ của Chúa Giêsu, và phần sách vinh quang thuật
về Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Thánh nhân muốn cho mọi người
nhận biết rất rõ rằng: với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu, vinh quang đích thực
được thể hiện nơi tình yêu hy sinh phục vụ, tình yêu xả kỷ vị tha, tình yêu thí
mạng vì người mình yêu. Và chỉ có tình yêu này mới đem lại sự sống thật, sự
sống thần linh, sự sống đời đời.
Đây là một quan niệm khác
hẳn lối suy tư tự nhiên của con người. Thật vậy, con người tự nhiên bao giờ
cũng sống theo bản năng sinh tồn của mình. Với ảnh hưởng của tội tổ, con người
nhiều khi sống theo bản năng rừng rú của mình, sống theo luật rừng: mạnh được
yếu thua, mạnh dùng sức yếu dùng mưu, miễn sao đem lại ích lợi cho bản thân
mình, miễn sao làm cho mình được sống sung sướng, giàu sang, quyền lực, bất
chấp luân thường đạo lý, bất chấp thiệt thòi của người khác.
Đây cũng là một quan niệm
đi ngược với sự trông mong của người Do thái về “Con Người”, về Đấng Thiên Sai,
Đấng Mêsia. Họ nghĩ Đấng Mêsia phải là một lãnh tụ chính trị đầy tài năng và
quyền uy, và dùng tài năng và quyền uy của mình để đánh đuổi ngoại bang, chinh
phục các dân tộc lân bang, đem lại vẻ vang cho dân tộc được tuyển chọn.
Trong Tin Mừng Gioan, mầu
nhiệm nhập thể được đặt làm nền tảng cho toàn bộ công cuộc cứu độ. Sự hiệp nhất
giữa thần tính và nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể được diễn tả cách tuyệt vời:
Cuộc Khổ Nạn với bao đau thương nhục nhã của Thập Giá bao giờ cũng gắn liền với
Cuộc Phục Sinh đầy ánh sáng vinh quang. Vì vậy, khi Chúa Giêsu bắt đầu bước vào
Cuộc Khổ Nạn, thì cũng là lúc Người bắt đầu bước vào Vinh Quang hay bắt đầu bày
tỏ vinh quang đích thực của Người.
Với Chúa Giêsu, giờ của
Chúa là giờ của Cuộc Thương Khó, giây phút vinh quang là giây phút chịu khổ nạn
trên thập giá. Với thế gian, thập giá là hình cụ ghê sợ và nhục nhã nhất để
trừng phạt những người tử tội. Chúa Giêsu đã biến thập giá thành Thánh Giá, và
Thập Giá của Chúa Giêsu chính là Ngôi Báu của Người. Điều này đã được xác định
khi Chúa Quan Phòng định cho Philatô ghi trên thập giá hàng chữ: “Giêsu
Nazareth-Vua Dân Do Thái.” Giây phút Chúa Giêsu được treo trên thập giá là giây
phút Người bước lên Ngôi Báu của Người.
Không phải Chúa Giêsu chỉ
chịu đau khổ vì yêu thương khi bắt đầu bước vào Cuộc Khổ Nạn, nhưng đó luôn là
đặc nét chính trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tác giả Thư gửi tín hữu Do thái trong
bài đọc hai đã xác định điều này trong bài đọc hai của Phụng Vụ hôm nay: “Khi
còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn
nguyện lên Đấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được
nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người
đã chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất
cả những ai vâng phục Người” (Dt 5:7-9).
Thánh
Anphong Liguori thuật rằng có một nữ tu đau đớn bệnh tật rất nhiều năm. Một hôm
đau đớn quá, Chị kêu trách Chúa Giêsu: “Xưa Chúa chỉ phải vác thánh giá và hấp
hối mấy giờ trên thánh giá, nay sao Chúa để con đau đớn lâu năm thế?” Chúa
Giêsu liền hiện ra quở trách Chị: “Con nói sao? Cha chỉ có đau khổ ít giờ mà
thôi ư? Cha đã bắt đầu đau khổ từ giây phút nhập thể!” Thánh nhân nói rằng vì
có linh hồn hoàn bị, Chúa Giêsu từ giây phút nhập thể đã nhìn thấy và cảm nhận
trước nơi linh hồn Người những đau khổ Người sẽ phải chịu trên thân xác sau này.
Vì vậy, Đức Cha Fulton J
Sheen hay nói mọi người sinh ra trên đời để sống, nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên
Chúa và là Sự Sống Đời Đời sinh ra trên trần gian để chịu đau khổ và chịu chết
để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Vì vậy, cả đời Chúa Giêsu đều hướng về
Đồi Canvê, đều hướng về Thánh Giá. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Đức Cha
còn xác quyết rằng bài giảng nào càng hướng về Thập Giá bài giảng ấy càng có
tính thần thiêng.
Liền sau khi nói về quy
luật chết để sống, mất để được, Chúa Giêsu liền nói về thân phận của những ai
muốn trở thành môn đệ đích thực của Người: “Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta
ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó” (Ga
12,26). Ở đây, Chúa Giêsu cho thấy các môn đệ đích thực của Người, những ai
thực sự phụng sự Người, phải là những người cùng bước theo Người trên con đường
thập giá, là con đường chính Người đã đi trước. Và chỉ có những người này,
những người cùng ở trên thập giá với Người, mới được cùng ở với Người trên Nước
Trời để chia sẻ vinh quang đích thực vì cùng được Chúa Cha tôn vinh.
Chính Thánh Thể nơi Bánh
Thánh và Rượu Thánh-trung tâm đời sống Công giáo cũng không ngừng nhắc chúng ta
về quy luật thần thiêng này. Để trở nên tấm bánh, những hạt lúa mì phải chấp
nhận chịu nghiền tán và hòa trộn với nước rồi chịu nướng trong lò lửa. Để hóa
thành rượu nho, những trái nho chín phải chịu vắt trong bồn đạp nho và trải qua
thời lên men. Vì vậy, cùng với cầu nguyện, việc hy sinh hãm mình là yếu tố
không thể thiếu được trong đời sống Kitô hữu. Một trong những lý do chính đem
lại sự suy đồi trong đời sống đức tin của nhiều tín hữu ngày nay là sự khước từ
sự khôn ngoan của thập giá, sự chối bỏ tinh thần hy sinh hãm mình và vâng phục.
Bài thánh ca “Thân Lúa
Miến” của Mi Trầm được dùng trong phần tiến lễ có giá trị tuyệt vời vì nhắc nhớ
chúng ta về lý tưởng hy sinh bác ái, xả kỷ vị tha của đời người Công giáo đích
thực.
Thánh Giuse-Maria Escriva
đã giúp chúng ta sống Tin Mừng hôm nay với những lời sau: “Nếu hạt lúa
không chết đi, nó không sinh hoa trái. Bạn có muốn trở thành hạt lúa miến phải
chết đi bằng những hy sinh hãm mình, để đem lại một mùa lúa phong phú không?
Xin Chúa Giêsu chúc lành cho ruộng lúa của bạn.”
Lạy Mẹ
Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Chúa Giêsu, trở nên như hạt lúa mì,
chết đi cho ý riêng và những đam mê trần thế, để sống cho Chúa và tha nhân qua
việc quảng đại hy sinh hãm mình và yêu thương phục vụ. Amen.
12. Hạt giống nảy mầm.
Vào một
đêm giông bão có một người đàn ông đứng tuổi cùng bà vợ ghé vô một khách sạn
nhỏ và hỏi viên thư ký: Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng. Viên thư ký trả
lời: Thưa ông, tất cả mọi phòng đều có người thuê, nhưng tôi không nỡ để ông bà
phải ra đi vào lúc một giờ sáng như thế này. Người chồng hỏi lại: Anh nói chi?
Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi. Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu? Tôi sẽ tìm được, xin
đừng lo lắng cho tôi. Sáng hôm sau, ông khách trả tiền phòng và nói với viên
thư ký: Anh là một người quản lý có tài, khả dĩ có thể làm chủ một khách sạn
lớn. Rất có thể một ngày nào đó, tôi sẽ xây cho anh một cái.
Hai năm
sau, viên thứ ký nhận được một bức thư, kèm theo vé máy bay khứ hồi đi Nữu Ước
và tấm danh thiếp của người khách trong đêm giông bão. Người khách dẫn viên thư
ký tới một đại lộ, chỉ vào một ngôi nhà cao tầng và nói: Đây là khách sạn tôi
đã xây để cho anh quản lý. Không nói nên lời, người thanh niên rất đỗi ngạc
nhiên, ấp úng cám ơn. Mạnh thường quân của anh là Astoria, chủ nhân của một
mạng lưới khách sạn tại Mỹ. Và khách sạn ông dành cho anh ta là một khách sạn
tiện nghi nhất thời bấy giờ.
Từ câu chuyện trên, chúng
ta đi vào Lời Chúa phán với chúng ta qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Hạt lúa rơi
xuống đất, có mục nát, thì mới sinh nhiều hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn
vùi những tiện nghi của mình, bằng cách nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ
chồng người khách lạ. Và sự hy sinh ấy đã đem lại phần thưởng cho anh. Anh được
quản lý một khách sạn sang trọng và nổi tiếng trên thế giới.
Hạt giống phải chết đi,
phải mục nát trước khi nẩy mầm, đâm bông và kết trái. Điều đó cũng đúng cho
bình diện thiêng liêng. Bởi vì, chúng ta, những người tin theo Chúa đều biết
rằng mọi cố gắng, mọi hy sinh, mọi gian khổ của chúng ta rồi sẽ sinh hoa kết
trái, nhất là khi những cố gắng, những hy sinh và gian khổ ấy được thi hành vì
lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em đồng loại. Chính Chúa
Giêsu cũng đã chấp nhận những hy sinh gian khổ vì chúng ta, bằng cách chịu chết
trên thập giá, để rồi từ đó Ngài đã có được hoa trái của sự phục sinh vinh
quang.
Mùa chay sắp kết thúc,
những cũng chưa quá muộn để chúng ta chôn vùi bản thân, từ bỏ chính mình vì Đức
Kitô và vì anh em, bởi vì có cùng chết với Đức Kitô, thì rồi chúng ta mới sẽ
được sống lại trong vinh quang với Ngài.
13. Hạt lúa mục nát – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Mùa
Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống
thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất,
và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non
mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của
mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh
hoa.” Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt
giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ
gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên
trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có
thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non?
Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên
đợi cho đến lúc an toàn hơn.” Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân,
cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì
mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt
giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây
cỏ.Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống
ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống
xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có
thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó
phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi
thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt
giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống
tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả
khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm,
dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải
từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có
nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một
con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên
người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh
muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh,
lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ,
từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống
hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn
đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người.
Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những
từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt
giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời
sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống
thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt
lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa
những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con
người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một
phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn
ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn.
Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được”
trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những
“cái được” vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ
tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý
riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu
khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni.
Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ
mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của
Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi
đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như
thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống
trong tôi.” Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm
thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn
thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm
chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con
được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà
nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những
người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người,
chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để
cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng
cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn
tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con
dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp
hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Con người chỉ lớn lên
khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một
tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự
từ bỏ nào khó hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát
mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát
mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt
giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?
14. Hạt lúa trơ trọi – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
(Trích trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
"Nếu
hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn
nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt"
Chẳng ai trong chúng ta
ngạc nhiên khi nghe câu trên.
Đó là luật tự nhiên chi
phối cây cỏ, nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để
người khác được sống? Chết để sinh nhiều bông hạt ư? Nhưng nhiều bông hạt có
ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ? Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi
một mình. Tôi cô đơn với tôi, để được yên ổn. Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem
lại đớn đau, nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi là.
Tiếc thay, lúc giữ được
tất cả tôi lại thấy mình mất tất cả, vì mất ý nghĩa của cuộc sống. Tôi như con
thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của mình.
Dần dần qua những kinh
nghiệm đau thương, tôi mới nhận ra rằng: chỉ có một cách giữ chặt, đó là buông
ra và trao hiến. Tôi bắt đầu được khi chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt
đầu, hạnh phúc đã hé nụ ngay lúc này, ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò
được khi chui ra khỏi vỏ, tôi chỉ giàu có và triển nở mọi mặt khi quảng đại ra
khỏi lớp vỏ của mình, ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình, để
sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại
vang vọng trong tôi: "Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính
lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân..."
Nhưng hiến thân, quên
mình, hy sinh, từ bỏ, đón lấy cái chết như hạt lúa vùi sâu, những điều đó đã
làm chính Đức Giêsu dao động.
"Bây giờ tâm hồn
Thầy xao xuyến Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng?
Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến." (c. 27)
Đã có những giây phút
giằng co, ngần ngại, đã có những cuộc chiến Vườn Dầu ở trong tôi. Nếu tôi kiên
trì tỉnh thức và cầu nguyện, tôi sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát.
Sau nhiều lần dám liều mất tất cả để rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá
nhiều, tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước mắt như con đường dẫn đến cái được
vĩnh hằng.
Xin Đức Giêsu bị đóng
đinh kéo tôi lên với Ngài, kéo tôi lên khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Con người chỉ lớn lên khi
từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một
tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ
bỏ nào là khó hơn cả?
Tưởng mình được, hóa ra
lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào về điều
đó không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu,
khi
nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng con ít khi nghĩ đến những hại giống đã âm
thầm chịu nát tan để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao
điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay là do sự hy sinh quên mình của người
đi trước, của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy
cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc.
Đã có
những con người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha
nhân.
Nhờ
công ơn bao người, chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho
chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của
mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con
phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn
tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì
chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái
tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.
15. Quy luật sự sống.
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Cái
chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn
động. Những người Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp nhận công trình
hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung Đông. Cái chết
của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước
đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc
Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi
Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin Luther King năm
1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn
hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương
mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết của Chúa Giêsu
vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải
chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống và sự điệp của
Ngài?
Chúa Giêsu đã chịu treo
trên thập giá giữa hai tên trộm cướp. Thời Đế quốc Rôma cai trị Palestine có
biết bao người đã chết như thế, nhưng cái chết của Chúa Giêsu có lý do sâu xa
hơn bất cứ một cái chết nào. Chúa Giêsu đã có thể lẩn tránh được một cái chết
như thế: Ngài đã làm cho kẻ chết sống lại được, thì việc thoát tay kẻ thù đối
với Ngài không phải là chuyện khó. Ngài cũng có thể tránh được một cái chết như
thế bằng cách thay đổi thái độ đối với những kẻ đang tìm cách hãm hại Ngài.
Nhưng Chúa Giêsu đã không hành động như thế. Các sách Tin Mừng thuật lại rằng
Ngài đã tự nộp mình cho kẻ thù. Ngài chết để giải phóng con người khỏi tội lỗi
và sự chết. Một cuộc giải phóng vượt lên trên và bao trùm mọi thứ giải phóng
khác. Từ nay, với cái chết của Chúa Giêsu, sự chết không còn là một thực tại
đáng sợ nữa, nhưng nó là cửa ngõ dẫn vào cuộc sống vĩnh cửu.
Thánh Gioan hôm nay đã
dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực của cái chết của Chúa
Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục thối đi trong lòng đất để dẫn đến một
mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn
trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác.” Cũng
vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết
cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả
năng tập họp mọi dân nước trong Nước Trời.
Tuy nhiên, là Thiên Chúa
nhưng cũng là con người và như mọi con người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua
những giờ phút xao xuyến trong tâm hồn khi phải đương đầu với kẻ thù và cái
chết nhuốc hổ trên thập giá: “Bây giờ tâm hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì
đây? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này…” Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha
Ngài giải thoát Ngài khỏi “Giờ” đen tối hay khỏi “uống chén đắng” này.
Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô cho thấy tâm trạng của Chúa
Giêsu khi đứng trước “Giờ” của thập giá: “Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ
dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết…” Cuối cùng,
Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi chết mà xin cho Danh của Cha được tôn
vình. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin Thiên Chúa hãy tỏ ra Ngài là
một người Cha, bằng cách hoàn tất công trình yêu thương của Ngài đối với con
người, ngang qua cái chết và sống lại của Con của Ngài. Qua lời cầu xin này,
Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận “Giờ” của sự phục vụ cho
tới hơi thở cuối cùng trên thập giá, nhưng đồng thời cũng là “Giờ” Con
Người bước vào vinh quang. Có điều “vinh quang” ở đây không theo ý nghĩa thường
tình của chúng ta. Vinh quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục. Vinh quang của
hạt lúa đã trổ bông, nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị chôn vùi dưới
bùn rồi nứt nẻ, bứt phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để giờ này mới trở
thành nguồn sống, và lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp mãi.
Thánh Gioan đã diễn tả
chân lý này như một quy luật tất yếu cho sự sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa
cuối cùng: Hạt lúa và bất cứ thứ hạt giống thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ
mạng truyền sinh, tăng gấp nguồn sống ẩn chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể
hiện ý nghĩa và sứ mạng này, nó phải qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải
chết đi. Chúa Giêsu đã chấp nhận quy luật này, và vẫn đang “lôi kéo mọi người
theo Ngài.”
Thưa anh chị em,
Là quy luật, là chân lý
Chúa Kitô mạc khải, làm sao con người chúng ta có thể tránh né? Mặc dầu biết rõ
mình phải nứt nẻ, bứt phá, lột xác, phải chết đi, mới góp phần làm phát sinh sự
sống. Thế nhưng chúng ta vẫn thường coi trọng và bảo vệ cái cũ, những gì là
quen thuộc, dễ dãi, dễ chịu hơn là đổi mới. Sống giữa một xã hội đang chủ
trương đổi mới, thế mà chỉ mới đặt lại vấn đề đổi mới một số tư tưởng, cách làm
ăn, tổ chức đời sống xã hội… cũng đủ làm chúng ta e ngại, lo âu. Nói chi đến
thay đổi cả nếp sống trước đây vẫn được tôn trọng. Định luật của sự sống là đổi
mới. “Hat lúa phải mục nát đi trong lòng đất mới nảy sinh nhiều bông hạt.” Chúa
Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự
sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn
dân trở thành tín hữu và tất cả đều được cứu chuộc.
Còn chúng ta, được mời
gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng đừng quên định luật căn bản của sự sống, đó
là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời
này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga 12,25). Đi theo Chúa Giêsu
đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cuộc sống và cả cái chết của Ngài.
Bài học của thập giá đó là đã có những cái chết không uổng công mà trái lại còn
nảy sinh nhiều hoa trái, đó là cái chết vì tình thương, vì hạnh phúc, vì sự cứu
độ của kẻ khác, vì sự giải phóng con người đồng loại, vì những cái gì còn đáng
quý hơn cả chính mạng sống của mình, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình,
vì đức tin…
Ở đây, Chúa Giêsu đặt
chúng ta trước một thang giá trị. Chính khi con người biết vượt ra khỏi cái vỏ
ích kỷ để sống một cuộc sống quảng đại, vì người khác, dù có phải vì thế mà hy
sinh cả mạng sống của mình, con người đã thực sự bước vào cuộc sống mới. Điều
Chúa đòi hỏi nơi những kẻ muốn đi theo Ngài thì Ngài thực hiện nơi chính bản thân
Ngài.
Anh chị em thân mến,
Tin Mừng hôm nay cho
chúng ta thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để
đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. “Nếu
ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ
thống trị với Ngài” (x. Tin Mừng 2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất
cả. Người dám theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống
muôn đời.
16. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu.
(Suy niệm của Noel
Quesson)
“Phần
tôi, một khi được nâng lên khỏi mặt đất. Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi.”
Năm
1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù Ốt-suýt (Auschwits) của Đức quốc xã. Đó
là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu một người trốn
trại thì sẽ có mười người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại
và đếm ra 10 người. Một trong đám mười người bị tử thần điểm danh này bỗng òa
khóc: “Trời ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!” Cha
Maximilianô Kônbê (Maximiliano Kolbe) cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng
than của người tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng
vào chỗ anh cho đủ mười người. Cha Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và
kết thúc cuộc sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng
như phân bón.
Người
tù thoát chết tên là Phanxit (Francis Gap Wniczek) kể lại chuyện này. Anh nói
sau cái chết của Cha Kônbê, tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử
với nhau rất thân ái, chia sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục
và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một
người anh em.
Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Thánh cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983,
và đặt Ngài làm bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu
noi gương Cha Kônbê, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh
em đồng loại.
Chúa Giêsu đã chọn cái
chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta là những tội nhân đáng phải chết, mà
Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chúa chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh của
Người đối với ta như Người đã nói: Không có tình yêu nào lớn lao bằng hy sinh
mạng sống vì người mình yêu.
Chúa Giêsu cũng có nhân
tính, cũng là người như chúng ta, cũng biết đau khổ và cái chết là tận cùng của
đau thương. Chúa cũng thấy ngại ngùng lo sợ, cơn hấp hối đã bắt đầu: “Tâm hồn
Ta xao xuyến”, “Xin Cha cứu con khỏi giờ này.” Nhưng Chúa can đảm trở lại ngay.
Nhưng không, “Con tới chính vì giờ này. Lạy Cha xin làm vinh quang Cha.”
Đường khổ giá không phải
chỉ dành cho Chúa. Các Môn đệ Chúa phải hy sinh vì anh em, để chứng tỏ mình yêu
thương mọi người, có vậy mới chứng tỏ được rằng mình yêu Chúa.
Can đảm bước theo Chúa
trên đường Thánh giá là xây dựng vinh quang cho mình mai sau. Lời Chúa và cuộc
sống của Chúa đã bảo đảm điều đó.
Lạy
Chúa, xin hướng dẫn chúng con trên đường theo Chúa hôm nay, biết sẵn sàng chia
sẽ cuộc sống với những người anh chị em đau khổ.
17. Hạt lúa.
Chuyện
cổ Ấn Độ kể lại như sau:
Một
chàng thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh
qua vóc dáng của một con người đẹp đẻ, uy quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với
anh:
- Con
hãy đi theo Ta một đoạn đường.
Chàng
thanh niên cảm thấy hạnh phúc khi cùng bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa
bảo:
- Ta
khát, con hãy đi tìm cho Ta một chút nước.
Chàng
thanh niên hăm hở đi tìm. Đi mãi đi hoài mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến
được bên dòng sông. Anh đang chuẩn bị múc nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái
đẹp đến độ làm cho chàng thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem
nước về cho Chúa. Anh làm quen, trò chuyện với cô gái và hai người lấy nhau,
sinh con đẻ cái.
Thế rồi
một năm kia, lũ lụt xảy ra. Mưa đổ xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may
mắn bám vào cành cây là được cứu thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản
nghiệp anh đã chắt chiu vun trồng và tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa
lúc anh đang tiếc nhớ khóc thương cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì
Chúa hiện ra và nói với anh:
- Con
có mang nước về cho Ta không đó. Con làm gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.
Từ câu chuyện trên, chúng
ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó Chúa nhắn nhủ chúng ta:
- Nếu hạt lúa mì gieo vào
lòng đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình. Còn nếu nó chết đi,
thì mới sinh nhiều bông hạt.
Lời nói này trước hết
được thực hiện nơi chính bản thân Ngài. Thực vậy, như một hạt lúa được gieo vào
lòng đất, thì khi đi vào trần gian mang lấy thân phận con người, Ngài đã chấp
nhận mọi hy sinh gian khổ, và nhất là đã chấp nhận chết đi một cách nhục nhã
trên thập giá, để rồi từ đó trổ sinh hoa trái của sự phục sinh vinh hiển. Đúng
như lời thánh Phao lô đã diễn tả:
- Đức Kitô đã vâng lời
cho đến chết và chết trên thập giá, vì thế Thiên Chúa đã nâng Ngài lên, ban cho
Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Còn chúng ta thì sao?
Nhiều lúc chúng ta cũng đã hành động giống như chàng thanh niên, đó là chúng ta
mặc dầu muốn theo Chúa, nhưng lại muốn có một cuộc sống dễ dãi và tiện nghi.
Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại bắt Chúa phải chiều theo ý riêng mình. Chúng
ta muốn theo Chúa, nhưng lại dễ dàng quên Chúa để thỏa mãn những tham vọng cá
nhân, để rồi sẽ bán Chúa như Giuđa, và chối Chúa như Phêrô. Chúng ta không còn
nhớ tới lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ
bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Hay như lời Chúa qua đoạn
Tin Mừng hôm nay:
- Hạt lúa phải chết đi
thì mới sinh nhiều bông hạt.
Thế nhưng, cho tới lúc
này, liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những tham vọng bất chính hay chưa.
Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những ước muốn vẩn đục hay chưa? Liệu
chúng ta đã thực sự chết đi cho những toan tính gian tham và độc ác, oán ghét
và hận thù hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho con người cũ với
những khuyết điểm và tội lỗi hay chưa? Trong thinh lặng, mỗi người chúng ta hãy
kiểm điểm lại đời sống và tự tìm lấy câu trả lời cho riêng mình.
18. Chết đi
Trong cuộc sống của người
Kitô hữu, người ta nhận thấy có nhiều nghịch lý. Một trong các nghịch lý đó là
chúng ta phải học biết chết đi để sống cho người khác. Điều này nghe có vẻ chói
tai nhưng lại là một sự thật. Ví dụ hùng hồn nhất là cái chết của hàng triệu
chứng nhân đã hiến dâng mạng sống mình như những vị tử đạo vì đức tin Công
giáo, trong nhiều thế kỷ vừa qua. Điều này được nổi bật lên qua câu nói: “Máu
các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu.”
Tôi muốn phản tỉnh về
cách dâng hiến của cuộc sống của chúng ta. Tôi tin việc mỗi người chúng ta sống
xứng đáng là một chứng nhân Kitô giáo là điều ngày càng trở nên cần thiết hơn.
Điều này làm chứng cho khả năng của Tin Mừng có thể trả lời cho những vấn đề
của thế giới ngày hôm nay. Tôi đang nói về giá trị làm chứng của cuộc sống hàng
ngày của các thánh. Ở đây tôi không có ý nói đến các vị được Giáo Hội phong
thánh, nhưng đúng hơn là giá trị làm chứng của cuộc sống của những ai dấn thân
sống thực sự căn tính Kitô hữu của mình một cách trọn vẹn.
Chúa Giêsu nói về một hạt
giống phải chết đi để cây có thể mọc lên và cho một vụ mùa bội thu. Điều tương
tự cũng xảy ra cho mỗi người trong chúng ta. Nếu chúng ta muốn cuộc sống của
mình đem lại một vụ mùa bội thu cho Nước Thiên Chúa, thì trước hết chúng ta phải
quyết định chết đi cho chính mình, nghĩa là làm chết đi mọi khát vọng và ước mơ
không phù hợp với kế hoạch mà Thiên Chúa đã vạch ra cho cuộc sống của chúng ta.
Điều này không phải là một việc dễ làm. Tôi nghĩ ít ai chịu hy sinh chỉ vì
thích hy sinh. Tuy nhiên, việc chúng ta đang làm thì khác. Chúng ta hy sinh
chính mình là để cho Nước Thiên Chúa ngự đến, không chỉ trong cuộc sống của
chúng ta mà thôi nhưng còn trong cuộc sống của những người khác nữa. Điều này
thì đáng giá hơn cả việc chúng ta tự hy sinh chính mình.
Chúng ta được mời gọi để
trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới. Chúng ta sẽ không đáp trả được
lời mời gọi này, nếu chúng ta không chấp nhận hy sinh. Chúng ta hãy chọn lựa hy
sinh với niềm vui để có thể đáp trả được lời mời gọi này và dâng hiến tất cả
cho Chúa Giêsu và Nước Trời.
Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp con quảng đại trong việc dâng hiến cuộc sống để phục vụ
cho Nước Thiên Chúa. Xin giúp con đừng tính toán thiệt hơn nhưng xin cho con
cảm nghiệm được niềm vui sống trọn vẹn cho một mình Chúa mà thôi.
19. Chết để sống
Trong khi đưa chúng ta
tới gần Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta đọc bài Tin Mừng hôm nay cùng với
những lời ngôn sứ Giêrêmia loan báo giao ước mới và lời thư gửi tín hữu Do Thái
nói về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, là để bảo cho chúng ta
biết: chúng ta phải nhìn vào cái chết của Chúa, không phải chỉ như một biến cố
đã qua trong lịch sử, cũng không phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa tới
tuyệt vọng. Chúa Giêsu chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành
Đấng ban sự sống, Chúa chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ,
để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu sống.
Trước hết, bằng một lời
mạc khải long trọng, Chúa Giêsu lấy thí dụ hạt lúa gieo xuống đất, phải qua con
đường nào để sinh ra những hạt lúa khác: hạt lúa phải chết đi, nghĩa là nó phải
đánh đổi cái dạng hiện thời của nó để trở thành cây lúa, Chúa nhấn mạnh vào sự
đánh đổi cái hiện tại của hạt lúa. Ý nghĩa của thí dụ này có lẽ chúng ta đều đã
hiểu, Chúa muốn nói rằng: Ngài phải đi vào cõi chết để đem muôn người vào sự
sống mới. Tuy nhiên, Chúa không áp dụng ngay vào bản thân Ngài mà lại nêu lên
qui luật chung để áp dụng cho tất cả những ai muốn bước theo Ngài, phục vụ
Ngài: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét mạng sống mình ở đời này
thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” Sự đối chọi giữa yêu và ghét ở đây,
chúng ta cần hiểu cho đúng, theo kiểu nói của văn chương Kinh Thánh, cặp “yêu –
ghét” có nghĩa là khư khư giữ lấy và từ bỏ, coi nhẹ: kẻ khư khư bám lấy mạng
sống của mình, bám lấy như một cái tuyệt đối, thì giống như hạt lúa trơ trọi
một mình, không đánh đổi hiện tại để hướng tới tương lai. Mạng sống hiện tại,
chẳng ai giữ được mãi nếu không chấp nhận đánh đổi thì mất là mất luôn, trái
lại, ai không bám lấy mạng sống hiện tại, nhưng coi nhẹ để dám đánh đổi thì sẽ
giữ được, vì nó được biến đổi thành cuộc sống vĩnh cửu. Như vậy, đánh đổi ở đây
có nghĩa là qui hướng cuộc sống hiện tại về cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đem
đến.
Gương mẫu tuyệt vời về sự
đánh đổi này là Chúa Giêsu. Nhìn vào cuộc đời Chúa, chúng ta thấy Ngài đã đánh
đổi trọn vẹn, trước hết, Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, sang giàu, ngay từ
giai đoạn đầu tiên của một con người: sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn nhất,
thiếu thốn nhất và bị đe dọa nhất, Ngài đã từ bỏ để chọn một cuộc sống tầm
thường, âm thầm, khiêm hạ trong một gia đình lao động ở xứ Nagiarét cũng vô
danh. Vào giai đoạn công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh, với
hai bàn tay trắng, và suốt ba năm, Ngài thực sự trải qua mọi hoàn cảnh, mọi
tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị từ khước, bị chụp mũ.
Cuối cùng, cách thế để đi đến chiến thắng vinh quang cũng lại là một cách thế
đau thương, khốn cực nhất của trần gian.
Hơn nữa, Ngài còn phải
trải qua những giây phút giằng co, đau khổ vì quyền tự do tuyệt đối của Ngài.
Tự do của con người thường bị hạn chế bởi nhiều yếu tố: hoàn cảnh, xã hội,
thiên nhiên… nhưng tự do của Chúa thì trọn vẹn, không bị hạn chế gì hết, chính
sự tự do tuyệt đối này mà cái bi thiết nhất của Ngài là Ngài có thể từ chối với
Chúa Cha con đường thập giá, nghĩa là Ngài có thể nhảy xuống khỏi thập giá, có
thể sai thiên thần đến diệt bọn lý hình, có thể thâu hồi về tay Ngài tất cả
những bất công, bạo tàn của tòa án… nhưng Ngài đã không làm, Ngài đã không thay
đổi ý kiến vào những giờ phút cuối cùng. Thực vậy, sau những giờ phút giằng co
quyết liệt, Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi
con, nhưng đừng theo ý con mà chỉ theo ý Cha mà thôi.” Tóm lại, Chúa Giêsu đã
hoàn toàn hy sinh, từ bỏ, hoàn toàn đánh đổi cuộc đời mình, đánh đổi đến cấp độ
thực sự bị dìm vào cái kinh hoàng của một con người không còn một chút gì, đến
nỗi như hoàn toàn rơi vào cái trần trụi đau thương khủng khiếp. Nhưng tất cả
chỉ vì một lý do này, là Ngài muốn mình phải chết đi, như một hạt lúa, để trổ
sinh vô số bông lúa vàng.
Nhìn về chúng ta, chúng
ta hãy nhớ: Thiên Chúa muốn chúng ta trong khi sống ở đời này, một đàng chúng
ta phải ân cần làm việc để tận hưởng hoan lạc, thì đồng thời chúng ta cũng phải
lo thu tích công nghiệp cho đời sau. Và hơn thế nữa, phải nghĩ đến tương lai
vĩnh cửu hơn là hiện tại chóng qua, phải biết biến đổi những kết quả đời này
thành hạt giống để gieo vào đất ở trên trời. Như vậy là tạm thời chịu thiệt
thòi, nhưng sẽ được lợi lãi vô kể và nếu điều đó không luôn luôn bảo đảm hoàn
toàn việc rỗi linh hồn dưới mọi khía cạnh, thì ít là cũng bảo đảm số phận đời
đời, bởi vì nếu hy sinh là định luật của hạt lúa, thì nó càng là định luật của
con người: hạ mình để lên cao, chết để sống lại, hy sinh để làm ích, làm mất
đời sống thấp kém, mau qua, nghèo nàn để chinh phục đời sống cao quý, đầy đủ,
vinh quang và bất diệt. Đó là bổn phận thiết yếu của tất cả mọi người.
Mỗi người hãy tự nhủ: tôi
là một giấc mơ yêu thương của Thiên Chúa, vì thế, tôi phải trở thành một người
lý tưởng, tốt đẹp như ý Chúa muốn. Đời tôi là một tấm vải, tôi dệt đời tôi, sợi
này đến sợi khác, ngày này qua ngày khác, tôi phải dệt làm sao để trở thành tấm
vải tuyệt đẹp, nghĩa là chúng ta phải sống, làm việc, sinh hoạt, giao tiếp và
chu toàn những bổn phận tầm thường hằng ngày với một tâm hồn phi thường, một
tinh thần trách nhiệm và một lương tâm ngay lành, đồng thời trung thành cải
thiện chính mình mỗi ngày một chút, bằng cách mỗi ngày tự kiểm điểm lại những
khuyết điểm, và đề ra những quyết định cho ngày hôm sau, với châm ngôn: “Ngày
hôm nay phải hơn ngày hôm qua”, hoặc như một giám mục đã nói: “Chấm này nối
tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài, phút này nối tiếp phút kia,
muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp, sống
mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.”
20. Từ bỏ
Chỉ còn một tuần nữa là
đến Tuần thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay hướng chúng ta dần dần tới cái chết
đau thương và sự phục sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin
Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh: hạt lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái
chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống đất để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu
có ý nghĩa thế nào?
Một hạt lúa gieo xuống
đất là nó chấp nhận chết đi để mưu ích cho con người, nghĩa là nó trở thành một
cây lúa xanh tươi, để rồi sau này sẽ nhân thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức
triệu hạt lúa khác, một cách vô định hay bất tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói
ngoa khi tuyên bố: “Nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý
mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ
giữ lại được cho sự sống đời đời.” Như vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì
hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó
chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách
chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các bông hạt sau này, nghĩa là sự sống
từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng nó sẽ tồn tại mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa
đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết đi nơi mình những gì “là Chúa” và “của Chúa”
để cứu chuộc chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi
cách thức ưu đãi, giàu sang, danh vọng và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm
thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba mươi năm trời, không ai để ý tới, không có một
ưu đãi nào dành cho con nhà giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài
cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một người
không có thế lực, không có bất cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với
hai bàn tay trắng, không một lời giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và
suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng
đó: bị công kích, bị khước từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: “Bụt nhà không
thiêng.”
Cuối cùng, cách thế để đi
tới chiến thắng vinh quang cũng lại là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất
của trần gian. Con người, ai ai cũng vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất
sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để
chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất
cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông
lúa và hạt lúa khác. Nếu ông Te-tu-li-a-nô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt
giống sinh các tín hữu”, thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu
chấp nhận chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát
sinh nhiều Kitô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu
độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn
toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh
thế gian ra ngoài và trở thành Đấng phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành
ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của
Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp
nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu
cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh
thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực
nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết, nhưng không chết luôn mà đã phục
sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Là Kitô hữu, chúng ta chỉ
có thể lập công phúc, được cứu rỗi, được sống muôn đời và hữu ích cho người
khác… Khi biết từ bỏ sự sống tạm bợ, tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời
gọi là “sống.” Có người từ bỏ được tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ được
ý riêng mình; có người bỏ được ý riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý riêng
mình; có người từ bỏ nhiều mà không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những cái to
lớn nhưng lại không bỏ được những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ; có
người bỏ được lúc này nhưng lại không bỏ được lúc khác…
Từ bỏ là một nhân đức của
anh hùng. Là một nhân đức được thử luyện mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả
hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế, chúng ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ
bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ
chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì không: một thói quen không tốt, một tật xấu,
một tội lỗi hay bất cứ thứ gì không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần
Kitô, không đúng với cung cách một người con của Chúa.
21. Mất và được
Ít có phong cảnh nào đẹp
cho bằng cảnh một cánh đồng tràn ngập những thân cây lúa mì non. Khi nhìn ngắm
những thân cây đó đong đưa trước gió, và nhảy múa dưới ánh nắng, đem lại cho
tâm hồn chúng ta một niềm vui. Nhưng quá trình những thân cây này tồn tại được
thật là lạ lùng.
Ngoài ra phải chôn hạt
lúa mì vào lòng đất lạnh ẩm ướt, giống như trong một ngôi mộ vậy. Thế rồi nó
phải chết đi. Nếu nó không chết đi thì nó sẽ không mang lại sự sống mới nào.
Nhưng khi nó chết đi, thì từ ngôi mộ của hạt giống cũ, nụ chồi của một cây lúa
mì mới đâm ra một cách lạ lùng. Đó là một nghịch lý đáng ngạc nhiên – sự xuất
phát từ cái chết.
Giống như hạt lúa mì phải
chết đi để mang lại hoa quả, cũng vậy, nếu chúng ta muốn sống một cách trọn
vẹn, mang lại kết quả, và nhận ra được tiềm năng đầy đủ của mình, trong tư cách
là con người, và là con cái Thiên Chúa, thì chúng ta phải chết đi cho bản thân
mình.
Sự chết là một phần của
sự sống. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi, chính khi chết đi, chúng ta mới
có thể được sống trọn vẹn hơn. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi mỗi ngày
một chút cho tính ích kỷ, giả vờ, và tội lỗi. Mỗi lần chúng ta trải qua một
giai đoạn cuộc đời, để rồi chuyển sang một giai đoạn khác, thì có điều gì đó
nơi chúng ta chết đi, và một điều gì đó mới mẻ được sinh ra. Chúng ta cảm nếm
được cái chết trong những giây phút cô đơn, bị khước từ, đau khổ, thất vọng và
thất bại. Chúng ta đang chết dần, trước thời hạn phải chết của mình, khi chúng
ta sống trong sự cay đắng, hận thù, và cô lập. Mỗi ngày, chúng ta đều đang tạo
ra cái chết cho riêng mình, bằng lối sống của chúng ta.
Khi Đức Giêsu nói “Ai yêu
mạng sống mình thì sẽ mất, ai ghét mạng sống mình ở thế gian này, thì sẽ giữ
được nó”, thì Người không bảo chúng ta phải ghét năm tháng mình, hoặc cuộc sống
của mình. Chúng ta phải học biết yêu biết chính mình. Thiên Chúa muốn chúng ta
biết thương xót bản thân. Không ai có thể yêu mến chúng ta được, nếu chúng ta
không biết yêu mến chính mình. Chúng ta sẽ không có khả năng yêu mến bất cứ ai
khác, trừ phi chúng ta biết yêu mến con người của mình. Tất nhiên, chúng ta
phải phân biệt giữa tình yêu chính đáng đối với bản thân, và thói ích kỷ.
Quên mình, vượt lên trên
bản thân mình – điều đó có nghĩa là đánh mất, là khước từ, là chết đi cho chính
mình. Chính khi biết quên mình, thì chúng ta mới được tự do nhất và hạnh phúc
nhất. Chính khi ra khỏi con người của mình, tự cống hiến bản thân vì những lý
do bên ngoài mình, thì chúng ta mới phát triển và mang lại hiệu quả. Chúng ta
có thể được sống lâu hơn, nếu chúng ta coi mọi sự là thoải mái, nếu chúng ta
biết tiết kiệm cuộc sống. Chúng ta sẽ tồn tại lâu hơn. Nhưng liệu chúng ta sẽ
được sống lâu hơn chăng?
Thật là một thế giới
nghèo nàn, nếu mọi người đều coi sự an toàn bản thân, được che chở, tiến thân
một cách ích kỷ là yếu tố đầu tiên và sau cùng, nghĩa là không có ai được chuẩn
bị để vượt ra ngoài bản thân mình. Luôn luôn do con người đã được chuẩn bị để
chết đi cho sở thích cá nhân, nên những điều quí giá nhất mà nhân loại được sở
hữu đã được sinh ra.
Đức Giêsu đã đem đến cho
chúng ta một gương mẫu. Người trao tặng cuộc sống của Người, để phục vụ Cha của
Người trên trời và cả chúng ta nữa. Nhưng Người không hề cảm thấy đó là điều dễ
dàng. Khi giờ chết thực sự đến, tâm hồn Người tràn đầy nỗi sợ hãi.
Cuộc sống của Đức Giêsu
không tách biệt khỏi Người. Người trao tặng nó đi – trao tặng nó vì tình yêu
đối với Thiên Chúa và đối với chúng ta. Tình yêu chính là chấp nhận rằng con
người mình có thể chết đi bằng một cái chết khác, trước khi người ta thực sự
chết đi. Con đường yêu mến là con đường thánh giá, nhưng chính con đường thánh
giá lại đưa đến sự sống lại.
Nhưng ai chết đi cho bản
thân mình, thì sẽ nhận thấy giây phút thực sự được chết thật là dễ dàng. Giờ
chết sẽ trở thành một giờ phút vinh quang. Chính khi chết đi, chúng ta được
sinh ra trong cuộc sống đời đời.
22. Giờ phút cao quí
Stephen
Roche là một trong những tay đua xe đạp vĩ đại nhất của Ailen. Giây phút tuyệt
vời nhất của anh là trong ngày anh chiến thắng giải đua vòng quanh nước Pháp
vào năm 1980. Tuy nhiên, khi suy nghĩ về giây phút tuyệt vời nhất của một
người, chúng ta nghĩ gì về giây phút đó trong những điều kiện rất phổ biến.
Chúng ta nhận thấy đó là giây phút chiến thắng và vinh quang. Và chúng ta có
khuynh hướng nói về điều đó một cách khá thoải mái. Chúng ta chỉ tập trung vào
giây phút vinh quang, mà quên đi nhiều giây phút khác đưa đến giây phút vinh
quang này, đó là những giây phút của mồ hôi, máu và nước mắt. Vinh quang không
thể tách rời khỏi lao nhọc. Vậy thì lao nhọc là một phần của vinh quang.
Đức Giêsu cũng nói về
“Giờ của Người.” Người nói về giờ này đến mấy lần, trong suốt sứ vụ công khai
của Người. Nhưng Người luôn luôn nói như thể giờ đó chưa xảy đến. Tuy nhiên,
trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Người lại nói rằng cuối cùng, giờ đó sắp diễn ra.
Ý Người muốn đề cập đến loại giờ gì vậy? Đó là giờ chết của Người. Đó là giờ mà
Người tự trao ban chính bản thân Người, như một sự hy sinh trọn vẹn thân mình
Người vì chúng ta. Theo quan điểm trần thế, thì đó là một giờ phút của thất
bại. Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là giây phút của ô nhục và đáng khinh
miệt. Nhưng bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa đã biến chuyển
thành giây phút của chiến thắng đối với Đức Giêsu, và một giây phút của ân sủng
đối với chúng ta. Đây là giây phút cao quí nhất của Đức Giêsu. Đây là giây phút
mà tất cả những gì Người đã thực hiện trên trần thế đều được hoàn tất. Tất cả
cuộc đời của Người đều đưa dẫn và chuẩn bị cho Người đến với giây phút này.
Thời điểm xuống thấp nhất
lại chứng tỏ rằng đó là một thời điểm biến chuyển. Đây là một nghịch lý lớn
lao. Giây phút chết đi là giây phút xuống đến tận cùng, tối tăm nhất và đau đớn
nhất trong cuộc sống của một hạt giống. Tuy nhiên, đây chính là giây phút sự
sống mới được nảy sinh.
Đối với chúng ta, cũng
tương tự như vậy. Những khi tinh thần của chúng ta xuống đến mức thấp nhất, vẫn
có thể chứng tỏ rằng đó là những thời điểm biến chuyển. Những giây phút thành
công vĩ đại sẽ sớm phai tàn, và thường để lại nỗi trống trải trong tâm hồn con
người. Trái lại, những giây phút tối tăm, yếu đuối và thất bại lại có thể chứng
tỏ rằng đó là những giây phút của sự thay đổi và phát triển lớn lao – chẳng hạn
như một người nghiện rượu bị sa đọa đến tận cùng rồi, nhờ ơn Chúa đã được biến
đổi cuộc đời.
Khi suy niệm về giây phút
tuyệt vời nhất đối với Đức Giêsu, sẽ giúp chúng ta biết đánh giá cuộc sống của
mình một cách khác hẳn. Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng
những sự kiện dường như thất bại lớn, lại đều là những lúc hình thành nên cuộc
sống mà chúng ta có hiện nay. Chúng ta không thể tách rời những điều đụng chạm
đến chúng ta với những điều giúp ích cho chúng ta.
Để có thể tồn tại được
trong lúc tinh thần bị sa sút, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều lòng tin. Lòng
tin bao hàm việc gieo trong nước mắt. Chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi, trừ
phi có một niềm hy vọng âm thầm pha lẫn trong nỗi buồn của chúng ta: đó là niềm
hy vọng rằng sau những năm tháng phấn đấu, mùa gặt sẽ đến. Vào một lúc nào đó,
chúng ta không thể nhận thấy được điều này. Chúng ta chỉ có thể thấy được khi
hồi tưởng lại mà thôi.
Van Gogh nói “Việc hội
họa đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì ngay từ lúc đầu, người ta không thể
biết được rằng công việc đó sẽ thành công. Trong những năm đầu phấn đấu đầy
gian khổ, công việc này thậm chí còn có thể là một việc gieo trong nước mắt.
Nhưng chúng tôi sẽ kềm chế những giọt nước mắt đó, bởi vì chúng tôi có một niềm
hy vọng âm thầm về một mùa gặt trong một tương lai xa xôi.”
Không chỉ công việc hội
họa mới đòi hỏi người ta phải có nhiều lòng tin; cuộc sống cũng đòi hỏi phải có
nhiều lòng tin, bởi vì cuộc sống thường bao hàm việc gieo trong u sầu, trong
cảnh tối tăm, và đôi khi, hầu như trong thất vọng nữa. Nhưng nếu biết gieo vãi
điều thiện hảo, thì chúng ta sẽ được hưởng một mùa gặt, và được gặt hái trong
niềm vui, một niềm vui khiến cho tất cả nỗi đau biến thành ngọt ngào, giúp
chúng ta chịu đựng được trong suốt thời gian gieo vãi. Tác giả Thánh Vịnh nói
“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi
mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh
lúa vàng” (Tv 126, 5-6).
Cuối cùng, điều tốt sẽ
chiến thắng. Sự sống sẽ chiến thắng. Thiên Chúa có tiếng nói sau cùng.
23. Con đường hạt lúa – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Con đường Chúa Giêsu đã
đi qua là con đường hạt lúa: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Thật,
Thầy bảo anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó vẫn trơ
trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái" (Ga 12,23-24).
Hạt lúa được gieo trên
ruộng đồng. Hạt lúa mục nát rồi mới nẩy mầm, đâm bông và kết hạt. Không mục
nát, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Sự mục nát làm trổ sinh sự sống mới, hứa
hẹn mùa gặt tương lai.
Nhìn một cánh đồng lúa
xanh tươi, uốn lượn theo gió, trải dài trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ
đến muôn vàn hạt lúa đã mục nát để lên xanh đồng lúa bát ngát.
1. Con
đường hạt lúa Giêsu.
Từ khi nhập thể, Chúa
Giêsu đã trở nên như hạt lúa gieo vào lòng đất nhân loại. Thánh Phaolô trình
bày mầu nhiệm tự huỷ: "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ
phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người
trần thế.” Như hạt lúa bị mục nát: "Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi
bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” Như hạt lúa nẩy mầm, lớn lên, đơm
bông sinh hạt: "Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi
vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời
dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa
Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Pl
2,6-11).
Phúc Âm Marcô viết:
"Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ
rất nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau
ba ngày sẽ sống lại" (Mc 8,31). Chúa Giêsu nói, Người phải chịu nhiều đau
khổ. Phải có nghĩa là bắt buộc. Những kẻ gây đau khổ cho Chúa là những người có
địa vị trong tôn giáo và xã hội, những người được coi là thuộc loại trí thức,
chức cao, quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong dân.
Con đường Chúa đi, quá
nhục nhã ê chề nên các môn đệ không thể chấp nhận. "Phêrô liền kéo riêng
Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn
thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy!
Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của loài người"
(Mc 8,32-33). Chính bản thân Chúa sẽ như hạt lúa chịu nhiều đau thương tơi tả.
Mục nát là chặng đường phải đi qua để có mùa gặt trù phú.
Con đường Chúa đi thật
quá hãi hùng: "Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi
Giêrusalem...Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu nói với các ông về
những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó con Người
sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp
Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn
và giết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại" (Mc 10,32-34). Con đường mở
mang Nước Trời sao quá khổ đau, bị nhạo báng, bị khạc nhổ, bị đánh đập. Hạt lúa
Giêsu đã đi hết chặng đường đau khổ, mục nát trong cõi chết để đạt tới sự sống
vinh quang.
2. Con
đường hạt lúa các môn đệ.
Các môn đệ theo Chúa nên
cùng đi trên con đường Chúa đã đi "Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác
thánh giá mình mà theo Ta" (Mc 8,34). Thánh Phaolô kể về con đường đi của
người môn đệ: "Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không
biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào,
thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi
tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết
chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm
chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa" (CV 20,22-24). Người môn đệ
của Chúa coi vinh dự là "đựơc thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng
hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống
lại từ trong cõi chết" (Pl 3,10-11). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin
mừng. Trải qua tiến trình đau khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng
ngọn gió trên cánh đồng truyền giáo mênh mông.
Xuyên suốt dòng lịch sử
Giáo hội, biết bao hạt lúa môn đệ đã chịu mục nát để Giáo hội lớn mạnh không
ngừng "Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu.” Từng thế hệ
chứng nhân như những hạt giống tốt, chết đi trong lòng đất các nền văn hoá, và
đã trổ sinh rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả làm nên cánh đồng lúa thiêng liêng,
mùa màng tươi tốt trong cuộc sống đạo và truyền giáo.
3. Con
đường hạt lúa chúng ta hôm nay.
Con đường hạt lúa như
Chúa Giêsu hay như thánh Phaolô và các tông đồ là những con đường kiễu mẫu cho
chúng ta đi theo.
Hạt giống phải mục nát đi
mới sinh nhiều bông hạt. Muốn sống một cách trọn vẹn, trổ sinh hoa trái tốt
lành, ta phải chết đi cho bản thân mình. Chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích
kỷ, giả dối hận thù ghen ghét. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa
là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là
dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm
lánh xa những gì đưa đến sa ngã.
Định luật căn bản của sự
sống là: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống
mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời" (Ga 12,25).
Chết vì tình thương, vì hạnh phúc đồng loại, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa
bình, vì đức tin là những cái chết làm trổ sinh muôn ngàn nét đẹp cho đời.
4. Hạt
lúa âm thầm và hạt lúa mục nát
Tình yêu cao quý hơn cuộc
sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương
con người mọi nơi và mọi thời. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu
thương của Chúa trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích
kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho
tha nhân và cho Thiên Chúa. Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa
mục nát, đã từng làm cho Chúa Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây
phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy
thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin
cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên
lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con
đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Nếu "Hạt lúa âm thầm
mọc lên" (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền
văn hoá, thì "Hạt lúa phải mục nát đi" (x. Ga 12,24) là con đường
gian truân vất vả để làm nên một mùa gặt phong nhiêu.
24. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Để mô tả một sứ mệnh,
người đời thường nêu lên những chương trình, kế hoạch to lớn mà họ sẽ thực hiện
trong cuộc sống. Tuy nhiên chẳng có ai nói về cái chết của họ như phần cốt yếu
trong sứ mệnh cả! Đối với Chúa Giêsu, cuộc Thương khó và cái chết của Người mới
là tột đỉnh của sứ mệnh. Cái chết của Người cần thiết để chu toàn sứ mệnh, sứ
mệnh của “Con Một” được Chúa Cha ban cho nhân loại để minh chứng sự thật “Thiên
Chúa đã yêu thương thế gian” như thế nào. Bài Tin Mừng tuần trước cho ta hình
ảnh cái chết cứu độ của Chúa Giêsu: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong
sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được
sống muôn đời” (Ga 3,14). Chúa Nhật hôm nay, bài Tin Mừng lại đề cập đến cái
chết cứu độ của Chúa Giêsu qua một hình ảnh sống động và quen thuộc: “Nếu hạt
lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết
đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
a) Cái
chết đem lại sự sống
Qua hai hình ảnh, con rắn
đồng treo cao trong sa mạc và hạt lúa gieo vào lòng đất, Chúa Giêsu đều muốn
nói lên ý nghĩa và hiệu quả cái chết của Người, là cứu sống và ban sự sống. So
sánh giữa con rắn đồng trong sa mạc với Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đồi
Gôn-gô-tha thật vô cùng ý nghĩa. Rắn lửa sa mạc đã làm cho nhiều người Ít-ra-en
phải chết. Cũng thế, trong vườn địa đàng con rắn Xa-tan quỷ quyệt đã cắn nguyên
tổ loài người và gieo nọc độc là tội lỗi và sự chết cho nhân loại. Thiên Chúa
thực hành nguyên tắc dĩ độc trị độc, đã dùng hình ảnh con rắn đồng để cứu sống
dân Ít-ra-en. Giờ đây, Người lấy chính cái chết của Con Một Người trên thập giá
để đánh bại cái chết và tội lỗi, đem lại sự sống cho nhân loại.
Hình ảnh hạt lúa gieo
xuống lòng đất cũng hết sức linh hoạt. Hạt lúa muốn trở thành một cây lúa và
sinh bông hạt cần phải trải qua một tiến trình kỳ lạ. Trước hết nó phải nằm
trong bàn tay người gieo hạt. Ông ta vung nó xuống đất. Nằm trong lòng đất, nó
phải chờ đợi những yếu tố cần thiết để bắt đầu một cuộc biến đổi: một khoảng
đất màu mỡ, hơi ẩm của đất, ánh nắng mặt trời... Tất cả sẽ ảnh hưởng tới lớp vỏ
bên ngoài, làm cho nó vỡ ra và mục nát. Lúc vỏ trấu vỡ ra là lúc hạt lúa thấy
mình sắp sửa không còn là hạt lúa nữa! Rồi mầm sống dấu ẩn bên trong được đánh
thức dậy, nảy nở, biến thành một mầm xanh, thoát ra khỏi lớp vỏ đã vỡ và từ từ
chui lên khỏi lòng đất để đón lấy ánh mặt trời. Biến thành cây lúa, nó không
còn là hạt lúa nữa. Nhưng chính nó sẽ đem lại nhiều hạt lúa khác.
Nếu đem so sánh hình ảnh
trên với cuộc đời Chúa Giêsu, ta sẽ thấy một tiến trình y hệt. Chúa Cha đã gieo
hạt lúa Giêsu xuống trần gian, đặt trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Người đã
sinh ra, lớn lên và sống ẩn dật tại Na-da-rét. Người đã lên đường thi hành sứ
vụ rao giảng Tin Mừng. Sau hết, qua cái chết cứu chuộc, Người đã cứu mọi người
khỏi tội lỗi, phục hồi cho nhân loại sự sống đời đời mà ma quỷ đã cướp đi khi
nguyên tổ không tuân phục Thiên Chúa. Đặc biệt, cuộc Thương khó, cái chết trên
thập giá, an táng trong mồ và sự Phục sinh của Chúa Giêsu quả thực là những
diễn tiến y hệt như tiến trình biến đổi của hạt lúa. Như hạt lúa phải chết đi
để đem lại sự sống cho những hạt lúa khác thì Chúa Giêsu cũng phải chết đi để
chia sẻ sự sống đời đời cho toàn thể nhân loại.
b)
Những bài học về hạt lúa
Không phải Chúa Giêsu chỉ
nói về sứ vụ của Người là chết để loài người được sống, nhưng Người còn đưa ra
những bài học vô cùng ý nghĩa về cái chết của hạt lúa.
Bài học đầu tiên là
về sự ưu tiên của sự sống đời đời, được trình bày qua nghịch
lý sống và chết, tạm bợ và vĩnh cửu. Sống ở đời này, nếu ta chỉ lo lắng hưởng
thụ mà không lấy cuộc sống để phục vụ, ta sẽ mất cuộc sống vĩnh cửu mai sau,
tức là chết muôn đời. Nếu ta lấy cuộc sống đời này như một cơ hội để phục vụ,
làm điều lành mặc dù phải chịu thiệt thòi, thì ta sẽ được sự sống muôn đời.
Bài học thứ hai về gương
phục vụ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã phục vụ mọi người vì Người nhìn
thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi người khác. Phục vụ người khác là phục vụ
chính Thiên Chúa ở trong họ. Giờ đây, Chúa Giêsu đã đồng hóa Người với anh chị
em. Người khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho
một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta
vậy” (Mt 25,40). Ta là môn đệ Chúa Giêsu nên là người phục vụ Chúa trong anh
chị em. Sống đời phục vụ, ta sẽ được Thiên Chúa Cha “quý trọng” như Người đã
quý trọng Con Một Người.
Bài học thứ ba là biết
xử sự sao cho đúng khi ta cảm thấy xao xuyến vì phải chấp nhận hy sinh.
Chúa Giêsu biểu lộ hoàn toàn những tâm tình hãi sợ, xao xuyến khi thấy cái chết
tủi nhục đến gần. Cảm giác “biết nói gì đây?” đã cho ta thấy Người như bị tê
liệt, hoảng hốt. Nhưng đó cũng chính là lúc Chúa Giêsu biểu lộ trọn vẹn sự tín
thác của Người nơi bàn tay quan phòng của Chúa Cha. Người chỉ còn nhìn thấy một
điều ưu tiên phải làm, tức là làm cho Danh Cha được tỏ rạng. Tất cả ý nghĩa
cuộc đời của Chúa Giêsu ở trần gian này là để tôn vinh Danh Cha. Cái chết của
Người sẽ là hành vi cuối cùng làm cho Danh Cha được chiếu sáng tột đỉnh. Lời cầu
nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha đã biểu lộ sự tuân phục tuyệt đối. Lập tức
Chúa Cha nhìn nhận việc tôn vinh Chúa Giêsu đã làm cho Người và đáp lại với lời
hứa chính Người sẽ tôn vinh Chúa Giêsu qua cuộc Phục Sinh vinh hiển.
c) Cuộc
phán xét thế gian này đang diễn ra
Nói đến cái chết của
Người, Chúa Giêsu nhắc nhở ta hướng đến một trời mới đất mới: quyền lực ma quỷ
và thế gian sắp bị đánh bại. Cái chết của Người sẽ dứt khoát làm cho “thủ lãnh
thế gian này bị tống ra ngoài.” Sau chiến thắng ở vườn Địa đàng, thế gian này
đã biến thành lãnh thổ của Xa-tan rồi. Nó tha hồ tung hoành và khống chế con
người. Nhưng sau chiến thắng của Chúa Giêsu nhờ cái chết, Xa-tan không còn đất
đứng nữa. Con đường đi đến với Thiên Chúa đã được nối lại để ta có thể gặp gỡ
Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Tuy nhiên ta nên hiểu
cuộc phán xét thế gian, hoặc chiến thắng của Chúa Giêsu là điều đang tiếp tục
xảy ra và sẽ kết thúc vào ngày thế mạt khi Người trở lại để phán xét muôn loài.
Do đó, ngay bây giờ và tại thế gian này, Chúa Giêsu mời gọi ta tham dự vào cuộc
chiến thắng ấy bằng cách để cho Người “kéo ta lên với Người.” Đừng chống cự,
nhưng ta cứ theo Người, để cho Người kéo ta vào trong mối thâm giao với Người
và ngày sau được chung hưởng vinh phúc với Người. Nhưng ngay bây giờ, ta hãy để
cho Người kéo ta lên với Người trên thập giá, bắt chước Người cam chịu mọi gian
nan thử thách, nhưng vẫn luôn trung thành và hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
d) Suy
nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi suy nghĩ
về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu không? Tôi đã cầu nguyện về cái chết của
Người như thế nào? Cái chết ấy ảnh hưởng gì đến đời sống đức tin của tôi?
Bài học nào về hạt lúa
Chúa dạy làm cho tôi phải suy nghĩ nhất? Tại sao? Tôi sẽ thực hành như thế nào?
Điều gì ngăn cản tôi,
không để cho Chúa Giêsu kéo tôi lên với Người? Tôi sẽ nghe Chúa nói gì về tình
trạng này?
Cầu
nguyện
“Lạy
Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là
ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong
mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn
bước theo Con Cha trên đường Thánh giá
bao lâu
tùy ý Cha định liệu.
Xin
đừng để con trở nên chua chát
nhưng
được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự
kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng
khát khao nóng bỏng
có ngày
sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày
đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của
những người đã yêu mến Cha,
đã tin
vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào
ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ
Cha, ước gì đau khổ của con
nói lên
lòng tin của con
vào
những lời hứa của Cha,
lòng
cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha
và lòng
mến mà con dành cho Cha.
Lạy
Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân
và yêu
Cha chỉ vì Cha,
chứ
không mong phần thưởng.
Ước gì
Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh
sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó
con không còn coi khổ đau
như một
tai họa hay một điều vô lý,
nhưng
như một dấu chỉ cho thấy
con
đang thuộc về Cha mãi mãi.”
- Cha Karl Rahner
(Trích RABBOUNI, lời
nguyện 63)
25. Học Yêu – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Ta sẽ ghi vào lòng dạ
chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng, Lề luật của Ta” (Gr 31,33). Chắc hẳn Lề luật
mà Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm khảm dân của Người chính là Luật của tình
yêu. Sau này chính Con Một Người nhập thể đã khẳng định rằng mọi lề luật và lời
ngôn sứ gồm tóm trong điều này là anh em hãy làm cho tha nhân những gì anh em
muốn tha nhân làm cho mình (x.Mt 7,12).
Một trong những khao khát
đượm tình hiện sinh của con người đó là được sống và sống mãi. Cái khát vọng
này như đã trở thành vô vọng với cả những người quyền cao chức trọng, với các
vua chúa xưa nay. Sở dĩ nó đã trở thành vô vọng, vì người ta quá băn khoăn về
cuộc sống đời này trong sự vị kỷ. “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn
ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời
đời”(Ga 12,25 ). Sự coi thường ở đây không phải là thái độ lơ là, vô trách
nhiệm, mà là một sự hiến mình vì tha nhân trong tình yêu.
Quy luật của tình yêu đã
được thánh Phanxicô Axidi phác họa trong lời kinh hoà bình: “Chính khi thứ tha
là khi được tha thứ. Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính khi quên
mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời.” Chắc
hẳn thánh nhân thuộc nằm lòng lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Thật, Thầy bảo
thật với anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ
trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
Đã là quy luật thì có
tính khách quan cần phải tuân thủ. Để tuân thủ quy luật nào đó thì trước hết
phải nhận biết nó. Thế nhưng không phải mọi quy luật đều hiện hữu cách minh
nhiên dễ thấy, dễ nhận ra. Định luật vạn vật hấp dẫn đã có từ khi vũ trụ hình
thành thế mà đến cuối thế kỷ XVII Isaac Newton mới phát hiện. Việc khám phá
định luật này là kết quả của một quá trình nghiên cứu mà việc thấy quả táo rơi
chỉ là điểm khởi đầu. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã khẳng định: “Dầu là
Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào
là vâng phục…” (Dt 5,9), nói đúng hơn, đó là Chúa Giêsu đã trải qua nhiều đau
khổ mới học biết thế nào là yêu thương.
Yêu thương không hẳn chỉ
là cho đi những gì mình có. Với quyền năng của Đấng tạo thành, có từ đời đời
với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Chúa Kitô có thể biểu lộ tình yêu bằng việc
cung cấp lương thực cho con người. Người cũng đã biểu lộ tình yêu bằng việc
giáng phúc thi ân chữa lành bệnh tật, cho người què được đi, người mù được thấy
người điếc được nghe… Người cũng đã biểu lộ tình yêu khi làm chủ thiên nhiên
hay làm chủ cả quỷ thần. Người lại đã từng biểu lộ tình yêu khi làm cho một số
người sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên, nếu chỉ cho đi những gì mình có bằng khả
năng và quyền hạn của mình thì cũng chưa hẳn đã là yêu đến cùng.
Yêu thương cách đích thực
là cho đi những gì mình là. Phút giây nhập thể trong cung lòng Mẹ Maria, Ngôi
Hai Thiên Chúa đã tự nguyện cho đi thân phận của một vị Thiên Chúa. Lời đáp ca
trong Thánh Lễ Truyền Tin, nói đúng hơn là Thánh Lễ mừng mầu nhiệm Ngôi Hai
Nhập Thể: “Hy sinh và lễ vật, thì Chúa chẳng ưng, này Con xin đến để thực thi ý
Người” (x.Tv 40). Suốt ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nỗ
lực không ngừng cho đi cái thân phận của Đấng Thiên Sai, Đấng từ trời mà xuống,
để sống kiếp “không chỗ tựa đầu”(x.Lc 9,58). Vì yêu thương Chúa Giêsu đã đau
xót đến tột độ đến nỗi mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu trong vườn cây dầu, để rồi
cho đi thân phận một con người, thân phận của vị vua trên các vua và cả thân
phận Con Thiên Chúa của mình bằng cái án bất công và cái chết ô nhục trên thập
giá. “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mt
27,40). “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”(Lc 23,37). Người vẫn
ở đó, trên thập giá cho đến hơi thở cuối cùng.
Mất những tất cả gì mình
có, thật đau xót, nhưng dẫu sao vẫn còn chính mình. Mất tất cả những gì mình
là, đúng là một điều tồi tệ, vì chẳng còn gì, ngay cả bản thân. Thế nhưng khi
cái điều tồi tệ ấy khi được thực hiện bằng sự ý thức và tự do vì hạnh phúc của
tha nhân, thì nó trở thành tiền đề cho tiến trình yêu thương và phát triển. Khi
bị mục nát đi, chẳng còn là hạt lúa thì cây lúa mọc lên và các gié lúa trĩu hạt
hình thành.
Đã yêu là phải tuân thủ
quy luật của tình yêu. Để biết được quy luật thì phải học hỏi, tìm tòi. Học mà
thôi, vẫn chưa đủ, cần phải tập luyện liên lỉ. Có đau đớn và cũng có xót xa. Có
xao xuyến và cũng có hy sinh. Nhưng không thể không tập luyện. Để được sống và
sống dồi dào, để sinh được hoa trái và hoa trái tồn tại, khởi đầu xin hãy tập
cho đi những gì mình có và tiến dần đến chỗ trao ban những gì mình là, vì người
mình yêu, vì người yêu mình, vì cả người ghét mình lẫn kẻ bách hại mình.
26. Chú giải của Lm. Vũ Phan Long.
ÁNH SÁNG
CỦA THẬP GIÁ
Đã đến “giờ.” “Giờ” này
đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực
hiện.
1.- Ngữ
cảnh
Câu truyện này nằm trong
bối cảnh thời gian và thần học là tuần lễ cuối cùng trong sứ vụ của Đức Giêsu,
tuần lễ Vượt Qua (x. Ga 12,1.12; 13,1; 18,28; 19,31) mà cuộc hy sinh của Đức
Kitô, là Con Chiên Vượt Qua, sẽ biến thành lễ Vượt Qua mới và vĩnh viễn có sức
giải phóng tất cả mọi người. Việc xức dầu ở Bêtania (12,1-11) chính là mở đầu
mang tính tiên tri. Hành vi của Maria, chị của Ladarô, xức chân Đức Giêsu bằng
dầu thơm cam tùng quý giá, đã loan báo việc mai táng Người (12,7). Quả thật,
người ta không xức dầu lên chân một người sống như thế, mà thường xức cho một
thi hài vào lúc làm nghi thức tắm rửa. Ta ghi nhận rằng theo TM Mc (14,3-9),
người phụ nữ chỉ đã xức dầu lên đầu Đức Giêsu, và đấy là cử chỉ tiêu biểu trong
việc xức dầu tấn phong ai làm vua và tấn phong đấng Mêsia.
Hôm sau, khi Đức Giêsu
vào Giêrusalem (12,12-19), dân chúng đã tung hô Người như là “vua Israel.” Tác
giả TM IV coi việc dân chúng cầm nhành lá thiên tuế hoan hô reo hò như là mức
độ cuối cùng của sự sai lầm của dân chúng và Đức Giêsu im lặng để sửa chữa
những niềm hy vọng thiên sai lầm lạc. Người cỡi lên một con lừa nhỏ vào lúc ấy
– chứ không ngay từ đầu như trong các TMNL –, Đức Giêsu muốn cho họ thấy là
giống như ông hoàng khiêm tốn mà ngôn sứ Dacaria đã loan báo (Dcr 9,9-10),
Người hoàn toàn không có một mưu đồ chính trị nào. Cuộc Vượt Qua sắp tới của
Người, tức cuộc Thương Khó, cái Chết, cuộc Phục Sinh, sẽ cho thấy rõ ràng kiểu
“vinh quang” Người đang theo đuổi. Chỉ sau kinh nghiệm này các môn đệ mới nắm
được bản chất đích thực của cuộc khải hoàn của Đức Giêsu (c. 16).
Đám đông thì vẫn không
hiểu (cc. 17-18). Nhưng những lời hoan hô của họ khiến người Pharisêu phải phản
đối và tranh luận với nhau: “Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống
gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!” (c. 19b). Ở đây, tác giả TM IV vẫn vận
dụng khả năng khôi hài quen thuộc của ngài. Nỗi lo sợ của người Pharisêu là
thật hơn họ tưởng: cả người ngoại cũng đã xuất hiện (cc. 20-23).
Nhận định của người
Pharisêu (c. 19b) khiến ta nghĩ ngay đến nhận định của thượng tế Caipha: “Các
ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho
dân…” (11,50). Chính ông này cũng đã nói tiên tri mà không biết: trong tư cách
là thượng tế, ông đã nói tiên tri là Đức Giêsu phải chết thay cho dân, và không
chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác
(11,52).
Sự kiện mấy người ngoại
đến xin gặp Đức Giêsu là một đỉnh cao trong cấu trúc văn chương và thần học của
các ch. 11–12 của TM IV: kế hoạch cứu độ phổ quát, thậm chí ra ngoài biên giới
dân tộc Do Thái, đang bắt đầu được thực hiện, ít nhất ở dạng mầm mống. Tất cả
những điều đó chứng tỏ rõ ràng là giờ của cuộc Thương Khó đã được loan báo, giờ
đưa tới vinh quang.
2.- Bố
cục
Bản văn có thể chia thành
bốn phần:
1) Người Hy Lạp đến gặp
(12,20-22);
2) Đức Giêsu công bố về
Giờ và dạy về thân phận của Người và của các môn đệ ([“Đã đến giờ”], 12,23-26);
3) Đức Giêsu trước cái
chết (“bây giờ”, 12,27-30);
4) Giá trị của cái chết
của Đức Giêsu (“bây giờ”, 12,31-33).
3.- Vài
điểm chú giải
- mấy
người Hy Lạp (20): Những lời mỉa mai ở c. 19 được ứng nghiệm tức khắc.
Đây không phải là những người Do Thái Hải ngoại (diaspora; x. Ga 7,35), đã di
cư ra khỏi Paléttina và bị phân tán trong các vùng dân ngoại, nhưng là những
người ngoại giáo không cắt bì, thuộc về hạng người “kính sợ Thiên Chúa” (x. Cv
10,2.22.35; 13,16.26), tin vào vị Thiên Chúa duy nhất và tuân giữ đức công
bình. Họ đã đến Giêrusalem không phải để du lịch mà là để hành hương, vì bị
thúc đẩy bởi thao thức tìm ra chân lý.
- Họ
đến gặp ông Philípphê (21): Họ ngỏ ý muốn với Philípphê bởi vì
ông này nói tiếng Hy Lạp (tên Philípphê và tên Anrê là hai tên Hy Lạp), và cũng
như họ, ông là người Bếtxaiđa, là vùng có đa số dân cư là người ngoại.
- Chúng
tôi muốn được gặp ông Giêsu (21): dịch sát là
“muốn được thấy”, có nghĩa là “nói với Đức Giêsu”, trò chuyện với Người, để
biết Người, khám phá ra chân tính của Người.
- Giờ (23):
Đây là giờ Thương Khó, Chết và Phục Sinh, để Con Người được tôn vinh. “Giờ”đây
là đỉnh cao của sứ mạng của Người và cũng là lúc kết án “thế gian” này với thủ
lãnh của nó.
- tôn
vinh (23): “Vinh quang” (doxa) là sự tỏa rạng sự hiện diện của
Thiên Chúa, là ánh huy hoàng, vừa đáng sợ vừa thu hút, của Hữu thể thần linh.
Vinh quang này ở trong Ngôi Lời nhập thể, nhưng tính khiêm hạ của mầu nhiệm
Nhập Thể đã chế giảm đi ánh huy hoàng của vinh quang này, cho dù các lời nói và
các công việc của Đức Giêsu lại là “dấu chỉ” đầu tiên của vinh quang này
(x. 2,11). Cuộc Thương Khó, thay vì che phủ vinh quang này, lại vén mở cho thấy
vinh quang này ở mức viên mãn: kể từ khi cái vỏ bọc nhân loại bị phá vỡ, sự
hiện diện thần linh, như được giải phóng, mới xâm nhập tất cả nhân tính của
Ngôi Lời để làm cho nhân tính này sống lại và lên trời.
- nếu
hạt lúa gieo vào lòng đất (24): Câu này được
vọng lại trong 1 Cr 15,36. Rất có thể đây là một câu tục ngữ quen thuộc tác giả
đã dùng để áp dụng cho trường hợp Đức Giêsu: chỉ cái chết của Đức Giêsu mới có
thể đưa lại ơn cứu độ cho người khác.
- Ai
yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất (25): Câu này trở
đi trở lại ở nhiều dạng (x. Lc 9,24 so sánh với Mc 8,35 và Mt 16,25; Mt 10,39
so sánh với Lc 17,33). Các TMNL áp dụng câu này cho những đau khổ và mất mát
của đời môn đệ. Hẳn là tác giả TM IV cũng đang nghĩ tới những đau khổ của cộng
đoàn của ngài (x. 15,18-21).
- Thầy
ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó (26): Sự đồng nhất
giữa Đức Giêsu và các môn đệ sẽ được nêu bật hơn trong các diễn từ cáo biệt (x.
13,13.16; 15,20). Phần kết “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người
ấy” lại xuất hiện trong ngôn ngữ tình yêu trong các diễn từ cáo biệt (14,23;
16,27). Xem Mc 8,38; Mt 10,32 so sánh với Lc 12,8.
- Bây
giờ tâm hồn Thầy xao xuyến (27): Tác giả TM IV
đang cảm hứng hoạt cảnh Đức Giêsu hấp hối tại Vườn Ôliu, nhưng đăt hoạt cảnh ấy
trong một bối cảnh khác. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ chết đến gần,
Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (tetaraktai, c. 27a). “Tâm hồn”
(psychê) đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống; mạng sống ấy đang chao
đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô
pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất
cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
- Lạy
Cha, xin tôn vinh Danh Cha (28): x. Lc 11,2.
Câu này diễn tả sự duy nhất trong kế hoạch của Đức Giêsu với ý muốn của Thiên
Chúa. Đức Giêsu sẽ tôn vinh Thiên Chúa trên thập giá và cũng sẽ được Chúa Cha
tôn vinh (x. 13,31-32; 17,4).
- có
tiếng từ trời (28): Dân chúng không thể “nghe” được lời Thiên Chúa đáp
lại Đức Giêsu, nên họ nghĩ đó là tiếng một thiên thần. Giống như trong truyện
Ladarô, việc Đức Giêsu cầu nguyện cũng là một tấm gương cho họ.
- Ta đã
tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa (28): Hành vi “tôn
vinh” đầu quy về những “dấu lạ” Đức Giêsu đã làm và nhờ đó đã làm chứng về
Chúa Cha, khi tôn vinh Ngài nơi Đức Giêsu. Hành vi “tôn vinh” thứ hai quy về
cái chết và cuộc tôn vinh Đức Giêsu.
- mà vì
các người (30): Như thế, tác giả đã biến truyền thống về “cơn hấp
hối riêng tư” của Đức Giêsu thành một cuộc bày tỏ công khai công việc phục
vụ vì vâng lời của Đức Giêsu.
- Giờ
đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này (31):
Cuộc phán xét (x. 3,18-19) lên cao điểm với cuộc đóng đinh. Tiếng sấm trong lời
Thiên Chúa nói trong câu trước báo trước việc Thiên Chúa sẽ đến uy hùng mà tống
“thủ lãnh của thế gian này” ra ngoài. Ở đây, tác giả dùng từ ngữ “thế gian”
không phải để chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương, như trong 3,16, nhưng
như một biểu tượng cho tất cả những gì là không tin và thù nghịch với Thiên
Chúa (x. 8,24; 15,18-19; 16,8-11). Satan như là thủ lãnh của “thế gian” ở trong
thế đối lập với Thiên Chúa, là một hình ảnh quen thuộc của nền văn chương khải
huyền Do Thái. Nhưng tác giả chỉ dùng hình ảnh Satan để giải thích việc Giuđa
phản bội thôi (6,70; 13,2.27) và trong những câu nói loan báo chiến thắng của
Đức Giêsu (14,30; 16,11).
- một
khi được giương cao lên khỏi mặt đất (32): Các truyền
thống Kitô giáo tiên khởi coi việc Đức Giêsu bị đóng đinh như là việc Người
được tôn lên bên hữu Thiên Chúa và coi đây là nền tảng cho quyền chủ tể của
Người trên vũ trụ (x. Pl 2,9-11). Rất có thể cặp từ ngữ “được tôn vinh – được
giương cao” của tác giả được lấy từ Is 52,13, nơi mà Người Tôi Tớ của Đức Chúa
được “vươn cao”, và “được suy tôn.”
4.- Ý nghĩa
của bản văn
Câu chuyện chúng ta đọc
hôm nay xảy ra chỉ vài ngày trước các biến cố thuộc lễ Vượt Qua cuối cùng của
Đức Giêsu.
* Người
Hy Lạp đến gặp (20-22)
Một vài người Hy Lạp đã
muốn gặp Đức Giêsu, không phải chỉ để nhìn thấy Người, nhưng là để biết Người,
khám phá ra “căn cước” của Người. Câu 20 dường như cho hiểu rằng những người
ngoại quốc kia đang thực hiện một hành trình thiêng liêng dài, và bây giờ cần
“gặp” Đức Giêsu. Hành trình vào dịp lễ Vượt Qua đã đưa họ đến Giêrusalem không
phải như du khách, mà là để cầu nguyện, để gặp Thiên Chúa, để khám phá ra điều
Thiên Chúa muốn họ làm. Họ cảm thấy là Thiên Chúa muốn họ đến nói chuyện với
Đức Giêsu. Họ không đến gặp Đức Giêsu trực tiếp, trước hết họ đến gặp các môn
đệ, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để có thể gặp Đức Giêsu. Họ ngỏ lời với
Philípphê, ông này lại nói với Anrê, và cả hai đã đến thưa với Đức Giêsu. Những
người kia đã ngỏ lời với Philípphê vì ông (cũng như Anrê) có tên gọi Hy Lạp và
phát xuất từ vùng giáp ranh của Galilê với thế giới Hy Lạp. Philípphê và Anrê
đã ở trong số những môn đệ đầu tiên, vì muốn biết Đức Giêsu, đã đến với Người
và đã là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những người khác đến
với Người (1,35-46). Trong truyện này, ta thấy được bổn phận họ phải chu toàn trong
đời sống: làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp Đức Giêsu.
Chúng ta không biết là
sau đó chuyện gì đã xảy ra, những người Hy Lạp đã gặp Đức Giêsu, hay đã về nhà
mà vẫn chưa được gặp Người. Bản văn chỉ cho thấy Đức Giêsu không ngỏ lời trực
tiếp với họ. Nhưng bây giờ, chỉ còn ít ngày nữa trước khi Người chịu chết và
bởi vì những người này đã đến với Người, Người xác định tầm quan trọng và hiệu
năng của cái chết của Người trên thập giá và gửi đến dân Do Thái lời kêu gọi
cuối cùng.
Như vậy, ta hiểu việc
người ngoại đi tìm một trung gian dường như có một ý nghĩa biểu tượng. Thế giới
ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Đức Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các
tông đồ: người ngoại đã “thấy” Đức Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ.
Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Đức Giêsu và việc “gặp” Đức Giêsu, tức đi vào
Vương quốc nhờ lời rao giảng của các tông đồ, còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục
Sinh của Đức Giêsu, tức “giờ” của Người (c. 23). Chỉ khi đó mọi hàng rào
được dựng lên bởi các chủ trương đặc thù bè phái mới đổ hết. Cũng chỉ khi đó
mới bắt đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân chính vào Đức Kitô hằng
sống, vào Đức Kitô “Đức Chúa” (x. Ga 20,18.20.28.29; 21,7.12.17), là những kinh
nghiệm không thể có được trước Phục Sinh (Vượt Qua).
Lời thỉnh cầu của những
người ngoại vô tình lại là một cử chỉ đón tiếp khải hoàn. Đức Giêsu sẵn sàng
chấp nhận, như trong cuộc đón tiếp của người Do Thái khi Người vào Giêrusalem.
Nhưng trước hết, Người phải điều chỉnh ý tưởng lệch lạc đám đông Giêrusalem có
về vinh quang và cuộc khải hoàn của Người (x. 12,12-16). Việc người Hy Lạp đến
như thế giống như một bài học biểu tượng, bổ túc cho truyện đi vào Giêrusalem.
Lời Đức Giêsu nói (cc. 23-26) là một trả lời gián tiếp cho nguyện vọng được
những người ngoại ấy diễn tả ra: chính là nhờ cuộc Thương Khó của Người mà Đức
Kitô, một khi đã bị sát tế, sẽ dễ dàng cho họ gặp được.
* Đức
Giêsu công bố về Giờ và về thân phận của Người và của các môn đệ (“đã đến giờ”,
23-26)
Kể từ câu 23, tác giả TM
IV chẳng còn nói gì đến những người ngoại kia nữa, hay đến thỉnh nguyện của họ
có được thoả mãn hay không nữa. Ta gặp kiểu viết tương tự trong cuộc gặp gỡ
Nicôđêmô: đến một lúc nào đó, bài tường thuật thôi nói về ông, để nhường chỗ
cho những lời nói của Đức Giêsu và những suy tư của tác giả.
Sự xuất hiện của những
người ngoại giáo và thỉnh nguyện của họ khiến Đức Giêsu hiểu rằng giờ mà Người
hằng mong đợi, mà TM IV cho thấy đang đến gần (2,4; 7,6.8.30; 8,20), thực sự đã
đến. Đây là giờ của “Con Người”, giờ Đức Giêsu chiến thắng bằng cách đi qua
thập giá, giờ Người được “tôn vinh” (x. 3,14; 8,28; 12,32). Cái chết của Đức
Giêsu không phải chỉ là kết quả của sự tàn bạo của loài người và cũng không
phải là kết thúc ô nhục của Đức Giêsu. “Giờ” của Người đã được Chúa Cha
quyết định.
Đức Giêsu, Con Người, sẽ
được tôn vinh bằng chính cái chết của Người. Cái chết này minh chứng một cách
sáng ngời và thuyết phục rằng Con Thiên Chúa được liên kết với Chúa Cha bằng
một dây vâng phục dù phải trải qua thử thách nào và rằng Người hiến mình cho
chúng ta không dè giữ. Cái chết của Người cho thấy tình yêu vô biên của Người,
bởi vì Người sống hoàn toàn cho Chúa Cha và hoàn toàn cho loài người chúng ta.
Sự phong phú của công
trình của Người tùy thuộc cái chết của Người; và Người buộc các môn đệ Người
hành động như chính Người đã hành động. Đức Giêsu nhắc lại kinh nghiệm sống mỗi
ngày: thiên nhiên không sản sinh ra gì cả nếu trước đó không có một cái chết
nào đó. Chỉ khi một hạt lúa mì bị hủy đi, nó mới trở thành một khối lượng lúa
lớn. Chính là vì Người đã chịu cái chết và đã tỏ chính mình ra trong cái chết,
mà Đức Giêsu sẽ quy tụ lại quanh Người một đoàn người đông đảo (x. 12,32). Đã
chết rồi, Người không biến mất khỏi loài người, nhưng lại trở thành trung tâm
của một cộng đoàn mênh mông. Người không ra sức bám lấy cuộc sống của Người.
Cuộc sống trần thế đối với Người không phải là một sự thiện tối cao phải cứu
lấy bằng mọi giá. Chỉ những ai liên kết với Người khi phục vụ, mới sẽ được liên
kết với Người sau này. Chỉ kẻ nào đã theo Đức Giêsu trong cuộc sống, mới sẽ đạt
tới mục tiêu và mới có phần phúc khi được Chúa Cha nhìn nhận.
* Đức
Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 27-30)
Phân đoạn này nhắc tới
hoạt cảnh Vườn Ghếtsêmani trong các TMNL (chẳng hạn Mc 14,34-36). Rõ ràng tác
giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Vườn Ôliu. Tuy nhiên, ngài đăt hoạt cảnh ấy
trong một bối cảnh khác, ngài giải thích hoạt cảnh ấy và sửa chữa đôi chút. Cũng
như trong các TMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy
xao xuyến” (27a). “Tâm hồn” đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống, mạng
sống mà người ta phải “ghét” và chịu mất để cứu được; mạng sống ấy đang chao
đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô
pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất
cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
Nhưng rồi từ đó tác giả
triển khai các điểm theo cách riêng. Câu hỏi: “Thầy biết nói gì đây?” cho thấy
là Đức Giêsu bị đăt vào thế lưỡng nan là xin Cha Người: “Xin cứu con khỏi giờ
này” hay là: “xin tôn vinh Danh Cha.” Và Người chọn tức khắc cách cầu nguyện
thứ hai. Ngoài ra, trong TM IV, Đức Giêsu luôn “năng động [tích cực]” trong cuộc
Thương Khó của Người. Người làm chủ tình hình (x. Ga 18,6), Người ý thức trọn
vẹn về vai trò Người đảm nhận, Người hoàn tất tuyệt vời sứ mạng Cha Người đã
giao: hy sinh mạng sống để cứu độ toàn thể thế giới. Ở tại ngưỡng cửa cuộc Khổ
Nạn, ta không thể tưởng tượng ra một lời cầu nguyện nào khác trên môi Đấng được
Thiên Chúa sai đến, ngoài lời này: “Xin tôn vinh Danh Cha” (x. Ga 17,4). Nếu
Người trốn “giờ”này (hiểu là “những gì sẽ xảy ra vào lúc ấy”)[1], giờ mà Người
hết sức mong mỏi và cuối cùng nay đã tới, hẳn sẽ là phá hủy tất cả tầm mức gồm
tóm trong mầu nhiệm Nhập Thể: khi đó Chúa Con đã nhận lấy nơi mình cuộc sống
trần thế với tất cả chiều sâu của nó và đặc tính bi thảm của nó, để sống trọn
cuộc sống này cho tới chết, không phải cho bản thân Người mà là cho những người
khác. Khi Đức Giêsu chấp nhận “giờ” này, Người đã tôn vinh Chúa Cha, bởi
vì như thế, dự phóng cứu độ toàn thế giới cuối cùng được bày tỏ trọn vẹn, và dự
định đó, cuộc Thương Khó, cái Chết và cuộc Phục Sinh của Con Cha sẽ thực hiện.
Cũng như trong tất cả các
Tin Mừng, ở đây cũng vậy, khi đứng trước cái chết, Đức Giêsu quay ra cầu nguyện
với Chúa Cha (x. Mc 14,32-42). Người ý thức về ý nghĩa của cái chết của Người,
nhưng không vì thế mà Người đi đến đó hoàn toàn vô cảm. Cũng như mọi con người,
chính Người cũng sợ hãi tránh né cái chết, cũng bị rúng động bởi định mệnh phải
chết của mình. Vì Người có sự nhạy cảm của loài người, hẳn là Người cầu xin
Chúa Cha cất cho Người bước đường này. Nhưng Người không chịu thua ước muốn của
riêng mình, Người muốn tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Cha, nên đã cầu nguyện:
“Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (c. 28). Như thế Người đồng ý về ý nghĩa của
định mệnh của Người, như Thiên Chúa đã thiết định, nên Người lấy điều này làm
mục tiêu của lời cầu nguyện.
Như thế, cái chết của Đức
Giêsu cho thấy rõ những gì nằm ở trong tên “Cha” và cho thấy Chúa Cha đã
nghiêng quá mức thế nào về phía con người, nên mới ban cho chúng ta chính Con
Một của Ngài (x. 3,16). Đức Giêsu không thua Chúa Cha trong tình yêu, Người cầu
xin để tình yêu của Chúa Cha có thể trở nên hiển nhiên, cho dù Người biết rằng
điều này đòi hỏi cái giá là mạng sống Người.
* Giá
trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 31-33).
Cái chết của Đức Giêsu
trên thập giá cũng là chiến thắng vĩnh viễn của Người trên ma quỷ. Nó sẽ bị
tống ra ngoài, và không còn có một vị trí quyền lực nào nữa. Công việc ma quỷ
làm là nhắm chia lìa con người khỏi Thiên Chúa, làm mờ tối cái nhìn của họ
khiến họ không thấy được Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu lại là mạc khải cao
độ nhất về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người và về dây vâng phục nối
kết bất khả phân ly Đức Giêsu với Thiên Chúa. Như thế, ý đồ của ma quỷ hoàn
toàn thất bại. Với cái chết của Người, Đức Giêsu cũng khởi sự hoạt động phổ
quát của Người, liên hệ tới toàn thể nhân loại. Được giương cao trên thập giá
như là biểu tượng của tình yêu của Thiên Chúa (x. 3,14-17) và được nâng lên đến
Chúa Cha trong quyền lực thiên đình của Người, Đức Giêsu tới với cả nhân loại,
đón nhận họ vào trong tình yêu huy hoàng của Người. Như thế, Người cũng được
giương cao cho người Hy Lạp nữa, là những người muốn gặp Người.
+ Kết
luận
Trong bản văn này, tác
giả nêu bật điểm chú ý là “giờ” của Đức Giêsu, cả trên bình diện lịch sử
lẫn thần học. Theo quan điểm Kitô học, “giờ” này đánh dấu lúc hoàn tất sứ
mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực hiện. Sứ mạng này tiêu
biểu cho trọn cuộc sống của Đức Kitô, vì cuộc sống của Người hướng về đó. Khi
đó sẽ xảy ra cuộc “phán xét” (krisis) nhân loại. Khi đó sẽ xảy ra giữa loài
người một cuộc “tách biệt” (krima) do người ta tin hay không tin vào mầu nhiệm
Đức Kitô chịu chết và được tôn vinh. Sự chọn lựa này đảm bảo cho một số người
được cứu độ và được sống muôn đời, và lôi kéo án phạt và cái chết đến cho những
người khác.
5.- Gợi
ý suy niệm
1. Như Philípphê và Anrê,
chúng ta cũng có nhiệm vụ làm trung gian giúp kẻ khác gặp được Đức Giêsu. Nhưng
muốn thế, chính chúng ta đã phải gặp Đức Giêsu và có kinh nghiệm về Người rồi.
Chúng ta cũng ghi nhận những tương quan giữa các môn đệ để giúp người ta gặp
Đức Giêsu: người Hy Lạp đến gặp Philípphê, có lẽ vì quen biết ông hơn. Nhưng
Philípphê lại cần có Anrê để có thể mạnh dạn đi gặp Đức Giêsu...
2. Những người Hy Lạp đây
đại diện cho tất cả những người ngoại ước muốn biết Đức Giêsu. Không ai có thể
trở thành Kitô hữu mà lại không có một môn đệ của Đức Kitô nói cho biết về
Người, và giới thiệu với Người về họ.
3. Vinh quang trong cuộc
sống vĩnh cửu, tuy vẫn là một ân ban nhưng-không của Thiên Chúa, vẫn cần có sự
cộng tác của chúng ta. Chỉ những ai đã liên kết với Đức Giêsu khi phục vụ, mới
sẽ được liên kết với Người sau này trong vinh quang thiên quốc. Có trung thành
bước theo Người hôm nay, sau này chúng ta mới mong được thông phần gia nghiệp
với Người.
4. Đức Giêsu đã đến thế
gian như là ánh sáng cho mọi người (1,9). Khi Người đã được giương cao trên
thập giá, từ nơi Người sẽ phát ra ánh sáng chói chang huy hoàng nhất, cho thấy
mọi sự trong tính chân thật nhất: Thiên Chúa trong tình yêu vô biên của Ngài;
Con Người trong việc hiến mình không dè giữ và trong hoạt động bao trùm toàn
nhân loại; ma quỷ bị thua trong quyền lực của nó. Trong ánh sáng này, chúng ta
phải chọn lựa cuộc sống chúng ta như là con đường bước theo Đức Kitô.
5. Tất cả những ai muốn
đưa lại ơn ích cho người khác, cũng phải chấp nhận thân phận “hạt lúa gieo vào
lòng đất phải chết đi.” Mọi Kitô hữu đều được kêu gọi sống Giờ của Đức Giêsu:
trước tiên, người Kitô hữu không thể tránh giết chết trong mình những gì chống
lại sự sống đích thực (= sự từ bỏ chính mình); đồng thời phải sống một mầu
nhiệm phục sinh, tôn vinh và hân hoan (= niềm vui thiêng liêng).
----------------------------------------------
[1] Phép métonymie: gọi
một điều bằng một từ khác.
27. Chú giải của Noel Quesson
Cũng như Chúa nhật trước,
thánh Gioan đề nghị chúng ta suy niệm về thập giá.
Trong
số những người lên Giêrusalem thờ phụng Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp
ông Philipphê, người Bétsaiđa, miền Galilê, và thưa rằng: “Thưa ông chúng tôi
muốn được gặp ông Giêsu.”
Đây là Lễ Vượt Qua cuối
cùng Đức Giêsu tham dự. Xét theo bản văn thánh Gioan, trang Tin Mừng mà ta đọc
hôm nay, đi liền sau trình thuật tiến vào thành Giêrusalem vinh hiển của Đức
Giêsu, ngày Lễ Lá. Sau sự thành công trước quần chúng trên đây, các người
Pharisêu đã nói với nhau. "Các ông thấy không, các ông sẽ chẳng làm được
gì hết. Hãy coi đó, thiên hạ bắt đầu theo hắn cả rồi!” Nhận xét của nhóm
Pharisêu được minh chứng ngay, qua sự kiện những người "Hy Lạp”, xa lạ
nhưng lại có thiện cảm với dân tộc Do Thái, đến xin "gặp" Đức Giêsu.
Như thế, đang khi những người quyết định giết hại Người, cố gắng xiết gọng kìm
và bầu khí chống đối của nhóm Pharisêu đang trở nên nặng nề, thì đột nhiên, vào
đầu tuần lễ cuối cùng của Người tại dương thế, Đức Giêsu có thể nhìn thấy sứ vụ
cứu độ của Người đang bành trướng rộng khắp.
Những người "Hy
Lạp" này đang báo trước, các dân ngoại sẽ gia nhập Giáo Hội, và thực ra
công cuộc cứu độ đang lan rộng, vượt qua ranh giới của Israel: Đức Giêsu sắp
nói, Người nhìn thấy cái chết của Người sẽ mang lại sự phong phú phi thường như
thế nào! "nó mang lại nhiều hoa trái"; "Nó lôi cuốn mọi người.”
Chúng ta lưu ý thêm, những người nước ngoài đang trao đổi với Philipphê. Ong
này mang một tên gọi Hy Lạp ông xuất thân từ Bétsaiđa (miền vãng lai, có nhiều
người nước ngoài cư trú!). Ong Philipphê này hẳn là biết được một ít tiếng Hy
Lạp đủ để ông tiếp xúc trao đổi. Chúng ta có chú ý đến những người xa lạ, để
hướng dẫn họ đến với Đức Giêsu không?
Đức
Giêsu trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh.”
Chúng ta có thể chấp nhận
lời mạc khải đó không?
“Giờ của Đức Giêsu”, đó
là giờ thập giá của Người: Và cũng chính là giờ vinh quang của Người? Thật là
đáng tiếc, chúng ta vẫn tiếp tục chờ đợi một giờ khác, một biểu lộ khác của
Thiên Chúa. Ta cần phải thú nhận rằng, chúng ta thường mơ tưởng một thứ vinh quang
khác cho Thiên Chúa cũng như cho chúng ta. Thế mà, Đức Giêsu cứ lập lại cho ta:
"Này đây, giờ đã đến" (Ga 12,23.27-31). Cho tới lúc này, giờ đó chưa
đến, nhưng Đức Giêsu thường nói về giờ đó (Ga 2,4; 4,21-23; 5,25; 7,30; 8,20).
Giờ "ưu việt" đó chính là giờ thập giá: Giờ "tôn vinh" Chúa
Cha và Chúa Con (Ga 23-28); giờ "xét xử và cứu độ" thế gian (Ga 13,
1-2). Một vài ngày nữa, Đức Giêsu sẽ bước vào Cuộc Thụ Khổ của Người.
Bề ngoài, hình như Đức
Giêsu không lạ việc các người “Hy Lạp" đến xin "gặp" Người.
Nhưng thật sự, Người đã thỏa mãn ước muốn của họ: "Đã đến giờ Con Người
sắp được tôn vinh"; ‘giờ cho tôi gặp Người’ tới gần; giờ giúp ta nhận ra
Thiên Chúa. Ta không thể gặp được Thiên Chúa, Đức Giêsu, dưới ánh sáng nào
khác, ngoài ánh sáng của thập giá: Đó là giờ của tình yêu tuyệt đối. Lạy Chúa,
xin giúp con biết nhìn lên thập giá, luôn chiêm ngắm thập giá: Đó là giờ mạc
khải quan trọng nhất về Thiên Chúa. Tất cả những gì triết gia bàn đến, tất cả
những gì các tôn giáo dò dẫm kiếm tìm, thì không đáng kể gì và chưa đủ:
"Và đây xuất hiện thập giá.” Vượt qua những lời nói, những suy luận, tôi
hãy chiêm ngắm những hình ảnh đó, "hình tướng" về Thiên Chúa.
Thật,
Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn
trơ trọi một mình còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
Vâng, giờ của Đức Giêsu,
chính là giờ "chết” của Người, nhưng cũng đồng thời là giờ sự sống của
Người, được nhân thừa lên. Đức Giêsu sắp ở một mình trên thập giá. Nhưng trên
đó, một cách vô hình Người đang được bao quanh bởi hàng tỷ người nam nữ được
cứu độ, nhờ sự hy sinh của Người. Con người thuộc mọi thời đại, thuộc mọi nền
văn hoá minh tinh màn bạc về cái chết và cố khám phá ra mầu nhiệm của nó. Còn
Đức Giêsu, qua một câu nói hoàn toàn đơn giản trên đây, Người đã nói cho ta
niềm xác tín riêng của Người. Người không lý luận. Một cách đầy hiện thực.
Người nói, Người đương đầu trước cái chết như thế nào: Đó là cách gieo hạt
giống. Suốt mùa đông dài hạt giống bị vùi sâu trong lòng đất tưởng như chết
mục, bỗng đâu mùa xuân đến nó đã mọc cao và trở thành bông lúa trĩu hạt trong
một vài tuần sau, hứa hẹn một mùa gặt phong phú. Đức Giêsu đã nhìn thấy mùa
gặt.
Ai quý
trọng mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này
thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời.
Như thế theo Đức Giêsu,
cần phải chết đi để có sự sống đích thực! Và Người không nói điều gì, chỉ vì
thích diễn tả nghịch lý. Nhưng trong một kiểu nói bí ẩn, Người cố gắng gợi lên
cho ta một chân lý không tất nhiên rõ ràng, nhưng hiển nhiên cho mọi tâm hồn
yêu mến: Cái chết thật không phải là cái chết thể lý, nhưng là sự từ chối hiến
thân, là tự đóng kín nơi mình không mở rộng đến kẻ khác! Để bước vào sự sống
đích thực, cần phải chết đi. Đó là điều Thiên Chúa thể hiện vì chúng ta; bởi vì
Người là “Tình yêu tuyệt đối.” Người mất mạng sống vì chúng ta! Luật của đời
sống, là tình yêu; một hạt lúa nhỏ nhất cũng nhắc cho ta điều đó.
Lạy Chúa, xin giải thoát
chúng con khỏi tính vị kỷ khô cằn mà có khi chúng con đã gọi là “sống” cuộc đời
mình. Xin dạy chúng con biết hiến mạng sống như Chúa.
Ai phục
vụ Thầy thì hãy theo Thầy và Thầy ở đâu, kẻ phục Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ
Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy.
Cuộc phiêu lưu của hạt
lúa mì, lúc đầu không đáng kể gì nhưng tới mùa gặt mang kết quả dồi dào phong
phú: Đó là cuộc phiêu lưu của nước Thiên Chúa (Mc 4,1-20).
Nhưng đối với thánh
Gioan, tất cả mầu nhiệm của nước Thiên Chúa đều tâp trung nơi con người Đức
Giêsu: Cuộc phiêu lưu của hạt lúa chìm ẩn dưới lòng đất, để lại mọc lên thành
cây, cũng là cuộc phiêu lưu của Đức Giêsu, chịu chết để sinh sản ra nhiều hoa
trái.
Nhưng cuộc phiêu lưu đó
không chỉ có Đức Giêsu thực hiện, nó còn được trao ủy cho chúng ta. Chính trong
cuộc sống mạo hiểm này, Đức Giêsu đã được vinh quang của Người, vinh quang của
tình yêu “phục vụ” đến cùng, thì chúng ta cũng có thể sống cuộc mạo hiểm
đó. Số phận của “hạt lúa” cũng trở nên số phận của chúng ta: Chết đi để mang
lại hoa trái: “Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ ban cho họ vinh quang.”
Rồi Đức
Giêsu thưa cùng với Chúa Cha: “Bây giờ tâm hồn con xao xuyến. Con biết nói gì
đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này.”
Niềm xác tín vào hiệu quả
phong phú nhờ sự hy sinh của mình, không tránh cho Đức Giêsu khỏi phải cảm
nghiệm sự lo âu trước cái chết. Tư tưởng về số phận hạt lúa chết đi để sống
lại, đã làm Đức Giêsu thổn thức không nguôi. Vào những thời điểm khác, ba thánh
sử kia đều nói cho ta biết rằng Đức Giêsu bị “thử thách” muốn sử dụng thần tính
của mình để khỏi phải chấp nhận thân phận con người: Đó là cơn cám dỗ lúc đầu
đời công khai của Chúa. Tại hoang địa (Mt 4,11), đó là cơn cám dỗ lúc Chúa hấp
hối ở vườn cây Dầu (Mc 14,32). Nhưng trước mỗi cơn thử thách, Đức Giêsu đều
kiên quyết thoát khỏi để luôn trung thành với Chúa Cha trọn tình con thảo. Cũng
như Đức Giêsu, chúng ta có thể phải giao động trước nỗi khổ đau.
Nhưng
không, chính vì giờ này mà Con đã đến đây, lạy Cha, xin tôn vinh Cha.
Đối với chúng ta cũng
vậy, việc tuân phục đức tin hệ tại thái hộ chấp nhận thân phận con người phải
chết của chúng ta, và gán cho nó một ý nghĩa dưới ánh sáng Cuộc Thụ Khổ và vinh
quang của Đức Giêsu: Chết đi để trao ban hoa trái. Thư gửi tín hữu Do Thái, mà
ta đọc Chúa nhật hôm nay, cũng cho rằng thái độ vâng phục của Đức Giêsu đã tạo
cho cái chết của Người có một ý nghĩa sâu sắc: ”Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van
khóc lóc mà vâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi
chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người, vì Người đã tôn kính Thiên Chúa. Dầu là con
Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng
phục, và khi chính bản thân tới lúc thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ
vĩnh cửu cho những ai tùng phục Người (Dt 5, 7-9).
Cái chết vẫn là một sự
dữ. Đau khổ vẫn còn là một sự dữ. Và Đức Giêsu không phải mất công trả lời
những vấn nạn thuộc phạm vi triết học mà là vấn đề về sự ác đặt ra. Một cách
đơn giản, Người đón nhận cái chết như một sự vâng phục thân phận làm người, vì
tình yêu. Và như thế, Người đã thay đổi ý nghĩa của cái chết.
Bấy giờ
có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa.”
Thánh Gioan không thuận
lại cuộc Biến Hình, cũng như bất cứ một cuộc Thần hiện vinh quang nào. Đối với
ông, như ta đã thấy Chúa Nhật vừa qua, thì “Giờ của thập giá” là giờ Vinh
Quang. Trên Thập Giá Người được “giương cao”, nghĩa là vừa “bị đóng đinh”, vừa
“được tôn dương”: Loài người làm việc thứ nhất, còn Thiên Chúa thực hiện thứ
hai.
Giờ đây
đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị
tống ra ngoài.
Đó là hai mặt của cùng
một thực tại: “Phán xét” và “Cứu độ.”
Phần
tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với
tôi. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người phải chết cách nào.
Đó là lúc sự dữ bị đánh
bại, “thủ lãnh của thế gian này” bị tống ra ngoài, và con người được cứu độ!
Phải, chính thập giá đã tạo nên một sự hấp dẫn mới, lôi cuốn mọi người! Đó là
lời nói mầu nhiệm, cần phải đón nhận trong đức tin và chúng ta phải tạ ơn vì
lời nói đó. Cuối cùng đó cũng là cách trả lời đích thực cho những người “Hy
Lạp” đã xin “gặp gỡ “ Đức Giêsu. Lời nói này là một trong những lời nói cuồi cùng
mà Đức Giêsu đã thốt ra trong thời gian thử thách sứ vụ cách công khai của
Người. Và không ai đã hiểu lời đó (Ga 12,34). Thánh Gioan tường thuật tiếp: Lúc
đó “Đức Giêsu lánh đi, không cho họ thấy” (Ga 12,36). Người không còn gì để nói
nữa.