CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY B
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY B
MỤC LỤC
10. Vào hoang địa - Manna
25. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
26. Sám hối và
tin vào tin mừng catholic.org.tw
27. Chỉ vì
thương nên Thiên Chúa... Lm Carolo Hồ Bạc Xá
28. Mùa thanh
tẩy tâm hồn Lm Giuse Đinh lập Liễm
29. Hành trình
hoán cải... Lm. Phêrô Lê văn Chính
30. Chiến thắng
cám dỗ nhờ... Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
32. Sự cám dỗ
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
33. Khởi đầu sứ
mạng truyền giáo Fiches Dominicales
34. Cám dỗ hoang
địa Jacques Hervieux
35. Hãy cải
thiện và hãy tin Lm. Mark Link
36. Cát bụi
tuyệt vời Lm. Nguyễn Hữu An
37. Tấm quan
trọng của một ... Achille
Degeest
38. Hãy trở
thành dân của ta Camille Gagnon
39. Nơi hoang dã
Sưu tầm
1. Cải
thiện
Có một chàng thanh niên, vừa nghiện ma tuý, lại can tội giết
người, nên bị kết án chung thân. Đêm kia anh đang nằm trên giường tại phòng
giam, thì đột nhiên anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời
anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Đợi cho người bạn
nằm cùng giường ngủ yên, anh mới quỳ xuống cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tỏ bày
cùng Chúa những gì chất chứa trong trái tim con. Anh nói với Ngài bằng những
lời lẽ đơn sơ mộc mạc tất cả những gì anh muốn, từ những hy vọng đến những thất
bại, từ những vui mừng đến những khổ đau. Sau khi anh cầu nguyện xong, người bạn
tưởng chừng như đã ngủ buột miệng kêu lên: Amen. Và người bạn nói tiêp: Tôi
cũng tin Chúa. Tôi nghĩ rằng Ngài luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không
ở với Ngài mà thôi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào lời Chúa truyền dạy: Hãy sám
hối, nghĩa là hãy cải thiện đời sống, thành tâm thú nhận những gì xấu, không
tốt, không đẹp trong đời sống chúng ta, rồi sau đó là từ bỏ chúng, quay lưng
lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với những tội lỗi trong đời
sống, rồi cương quyết uốn nắn sửa đổi.
Hẳn rằng có những lúc chúng ta cũng đã ý thức về những hỗn loạn
xảy ra trong tâm hồn và trong cuộc sống chúng ta. Chẳng hạn về tính ích kỷ,
luôn đặt nhu cầu của chúng ta trên quyền lợi của người khác. Chẳng hạn về tính
kiêu căng, không muốn nhìn nhận những sai lỗi của mình. Chẳng hạn về sự lười
biếng, không muốn giúp đỡ một ai.
Kinh nghiệm cho thấy: Những nhà truyền giáo thành công nhất
trong việc làm cho người khác hối cải, đều là những người thực hiện theo đoạn
Tin Mừng hôm nay. Họ làm cho người khác nhìn nhận rằng mình chỉ là những kẻ tội
lỗi, rồi từ đó giúp họ quay trở về cùng Đức Kitô mà làm lại cuộc đời. Bởi vì
nếu không phải là người tội lỗi, thì cần chi đến Đức Kitô.
Từ khởi điểm này, hôm nay chúng ta cùng nhau bước vào mùa Chay,
là thời gian đặc biệt Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn sủng và giúp chúng ta cải thiện
đời sống. Nếu như mùa Chay trở về, chúng ta biết cố gắng cải thiện đời sống,
uốn nắn lấy một thói hư tật xấu mà thôi, thì có lẽ lúc này chúng ta đã trở nên
một con người khác, đạo đức hơn, thánh thiện hơn, yêu thương hơn.
2. Nơi
hoang dã
Có một vở kịch mang tựa đề là nơi hoang dã, kể lại câu chuyện
như sau: Chàng thanh niên yêu say đắm cô gái hàng xóm. Thế nhưng cha nàng không
ưng vì cuộc sống có phần bê bối của chàng. Ông ra sức dập tắt mối tình của
chàng. Thất vọng, chàng đâm ra rượu chè bê bối. Ngày kia, sau khi đã uống rượu,
chàng gây lộn và đánh nhau với một người trong quán, nên bị chủ quán tống cổ ra
ngoài đường. Cha chàng rất hiểu và cảm thông với con mình. Ông từ từ giúp chàng
lấy lại thế quân bình. Sau khi biết được cô gái hàng xóm cũng yêu chàng, thế là
chàng quyết định hối cải và làm lại cuộc đời.
Vở kịch được trình diễn một cách rộng rãi và đã thu hút được
nhiều người đến xem vì nó đưa ra một hoàn cảnh chung, vừa nhân bản, lại vừa gần
gũi với cuộc sống hằng ngày. Nó vẽ lên phần nào cảnh hoang dã mà chúng ta đang
sống.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Thực
vậy, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã vào sa mạc, nơi hoang
dã để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ suốt 40 đêm ngày. Theo Kinh Thánh, sa
mạc hay nơi hoang dã đã là nơi trú ẩn của thần dữ, của thử thách.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta đang sống trong một nơi hoang
dã, một thế giới tràn ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì
hung dữ hoặc xấu xa cho bằng sự tàn bạo của con người thời đại. Giết người
không gớm tay. Ngược đãi trẻ em cộng với những hành động gian tham, trộm cướp
bất công. Có con thú dữ nào giết hại hằng triệu người mỗi năm? Thế nhưng, việc
phá thai của con người thời nay còn vượt hơn con số đó rất nhiều.
Thú dữ mang hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huy
không những sự sống thể xác, mà hơn nữa, còn đặc biệt phá huỷ sự sống tinh thần
của chính chúng ta và của những người thân yêu. Chẳng hạn như những phim ảnh và
sách báo đồi truỵ. Vậy liệu có phương cách nào để kềm chế những kẻ tàn phá thể
xác và tâm hồn hay không?
Tôi xin thưa rằng có, đó là phương cách của Chúa Giêsu. Bởi vì
chính Ngài đã đến để cứu chữa những gì đã hư đi. Cũng vì thế mà Ngài đã vào
hoang địa để chiến thắng sự dữ bằng việc hãm mình và cầu nguyện. Chỉ trong
đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng được sự dữ trong thế giới ngày hôm
nay.
Đúng thế, chỉ bằng việc cầu nguyện và hy sinh, chúng ta mới có
thể thuần hoá được những con thú tiềm ẩn trong cõi lòng chúng ta. Cùng với Chúa
Giêsu, chúng ta hãy cầu nguyện và chấp nhận những hy sinh hãm mình, để nhờ đó
chúng ta cũng sẽ chiến thắng được những cám dỗ suốt dọc cuộc đời chúng ta.
3. Chiến
thắng lòng tham – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Thông thường con người chúng ta thường hay ghen ghét, bất hoà,
tranh chấp và có khi giết hại lẫn nhau vì những điều gì?
Thưa, về danh vọng và tiền tài. Ngay trong gia
đình cũng có thể bị đảo lộn tất cả những nề nếp gia phong vì danh vọng và đồng
tiền. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng
bỏ vợ, anh em bạn hữu chém giết nhau cũng chỉ vì đồng tiền, bát gạo, và người
ta cũng có thể chà đạp nhau, bất kể là thân hay quen, là bạn hữu xa gần chỉ vì
một ngai vàng là địa vị, là quyền lực trong xã hội.
Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình
mà hoá dại. Có những người vì quyền lực mà đánh mất tính người. Nhưng có lẽ,
cái cám dỗ lớn nhất của con người qua mọi thời đại chính là đồng tiền, vì có
tiền là có tất cả.
Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự,
phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa thầy trò cũng
không bằng ma lực của đồng tiền, như cha ông ta đã từng nói: "Còn tiền còn
bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi". Thật vậy, có biết bao kẻ đã
bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người
với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ vì thế dân gian mới có
câu: "Ông tiền , ông Phật, ông Tiên - Ba ông đứng lại, ông tiền cao
hơn".
Ngày xưa, có người ở nước Tề thích vàng đến mê vàng. Sáng sớm
thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi
chạy đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:
- Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như
thế?
Anh ta trả lời:
- Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa.
Trước mặt tôi, chỉ có vàng mà thôi.
Đồng tiền liền khúc ruột nên họ lao mình vào lửa, bất chấp mọi
khó khăn gian khổ, bất chấp mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người
khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, miễn sao vơ vét, vun quén về
cho đầy túi tham của mình.
Bài phúc âm hôm nay, thánh Marco nói về việc Chúa Giêsu chiến
thắng cám dỗ. Vậy ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì? Thưa, ma qủy đã tìm cách
lôi kéo Chuá Giêsu quay lưng lại với Chuá Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý
Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy
hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của
ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ,
kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong
vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy
ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại
bởi người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu, Ngài không những đã khước
từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì
cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy
phục Thiên Chúa, vì người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời
do miệng Thiên Chúa phán ra.
Những cám dỗ mà ma qủy tuy đã thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó
vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước tiên nó gieo
vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên
Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là
đưa ra một con mồi để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú
vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho
ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi
vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ,
là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù
ghen ghét, tự cao tự đại .. . Đó là những mối tội đầu đã gây nên biết bao đau
khổ cho chính mình và những người chung quanh.
Ở khởi đầu mùa chay khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma
qủy cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và
sức mạnh của sự dữ, của ma qủy luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên
Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối
và tin vào tình yêu của Chuá. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà
cầu xin ơn Chuá bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân đời
sống sao cho phù hợp với tin mừng của Chuá. Sám hối để chúng ta nhận ra sự giới
hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện con người của
mình nên thánh thiện tinh tuyền như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
Lạy Chuá, Chuá đã dựng nên con giống hình ảnh Chuá. Xin cho con
biết gìn giữ phẩm giá con người của mình bằng việc tránh xa những thói hư tật
xấu, luôn nói không với tội lỗi và luôn giữ lòng trong sạch để xứng đáng nhìn
xem Thiên Chuá. Amen.
4. Đức Giêsu chia sẻ thân
phận con người
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúng ta đang ở trong Chúa Nhật thứ nhất mùa chay. Giáo Hội giúp
chúng ta cảm nhận tình yêu Thiên Chúa với chúng ta qua việc nhìn ngắm Đức Giêsu
sống thân phận con người.
I. Cám dỗ nơi con người và nơi Đức Giêsu
Đức Giêsu mà cũng bị cám dỗ sao?
Ngài chấp nhận sống với dã thú sao?
Là người, nghĩa là, với thể xác và tinh thần, con người luôn có
thể bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều này.
Cám dỗ là khuynh chiều đòi thỏa mãn những đòi hỏi của thân xác
và của tinh thần, không muốn đáp trả tiếng gọi từ trên. Chẳng hạn người ta nhận
thấy nơi mình những đòi hỏi của thân xác về tính dục hay khuynh hướng muốn mình
giầu hơn người khác, hoặc những đòi hỏi của tinh thần muốn mình trổi trang hơn
người khác...
Khuynh chiều đi tìm và dừng lại nơi danh lợi tiền bạc địa vị,
không muốn vươn lên điều tốt hơn nhưng dừng lại ở cái tầm thường, đó là những
cám dỗ thường xảy ra trong đời mỗi người.
Muốn trổi trang, không là tội, nhưng còn là điều tốt. Chỉ xấu,
chỉ là tội, khi mình coi mình là nhất, đòi mình trên người khác hoặc trên Thiên
Chúa, và xúc phạm người khác.
Không ai thoát cám dỗ, nhưng con người tự do trước cám dỗ, con
người có thể không thuận theo cám dỗ. "Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh
hùng hào kiệt có hơn ai?". "Ơn Ta đủ cho con" (2Cor.12, 8-9).
Chúa không hứa cho chúng ta khỏi bị cám dỗ, nhưng Chúa hứa sẽ
giải phóng chúng ta, nếu chúng ta bám vào Ngài: "cứ xin thì được, tìm sẽ
gặp, gõ cửa thì sẽ được mở cho" (Mt.7,7).
Thiên Chúa là tinh thần, Ngài mời gọi con người vươn lên Ngài
qua những giá trị tinh thần con người thấy được qua lý trí.
II. Phép rửa khởi đầu đời sống mới
Dù chúng ta có thuộc về thế gian và ma qủy trong những chọn lựa
ở qúa khứ, thì bây giờ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở lại, để chúng ta khởi
đầu một đời sống mới, hầu chúng ta sống hạnh phúc.
Đức Giêsu đã chịu phép rửa ở sông Yordan (Mc.1, 9), và Ngài cũng
đã chịu một phép rửa rất đặc biệt (Lc.12, 50). Mỗi người chúng ta cũng đã chịu
phép rửa nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa (Mt.28, 19), chính
phép rửa này đã làm chúng ta thành một thụ tạo mới.
Phép rửa đã làm chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa, chúng ta là
tạo vật mới, được được Thiên Chúa cứu chuộc qua Đức Giêsu Kitô. Nhận phép rửa
nhân danh Đức Giêsu, là dìm mình trong cái chết của Ngài và sống lại trong sự
sống của Ngài.
Với phép rửa, Thiên Chúa ghi ấn tín trong tâm hồn chúng ta, dấu
chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
III. Giao ước biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa
Con người là gì mà Thiên Chúa phải ký kết giao ước với! Chẳng lẽ
người nặn bình gốm lại phải ký kết với bình gốm?
Thiên Chúa ký kết giao ước với con người, để không bao giờ tiêu
diệt con người nữa! Ôi tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật tuyệt vời
biết bao. Những gì Thiên Chúa đã nói, thì Ngài trung thành thực hiện, không bao
giờ thất tín. Ngài vẫn trung thành dù con người có bất trung phản bội.
Tình thương của Thiên Chúa đối với con người, được thể hiện
trong suốt dòng lịch sử. Lịch sử ghi dấu con người phản bội, nhưng lịch sử lại
ghi dấu tình thương nhân từ tha thứ cho con người. Lịch sử, là lịch sử Thiên
Chúa cứu độ con người.
Lịch sử đánh dấu những giao ước Thiên Chúa thực hiện đối với con
người. Lịch sử cũng cho thấy Thiên Chúa điều khiển dòng lịch sử, can thiệp vào
lịch sử dân Do thái để cứu dân, và qua đó cứu độ tất cả loài người.
Biến cố Đức Giêsu Kitô, là biến cố đỉnh cao cho thấy tình yêu
của Thiên Chúa đối với con người. Cũng với chính Đức Giêsu, con người tìm được
con đường để nên thánh, con người được bảo đảm mình được yêu thương và sẽ là
thánh, được thuộc trọn về Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài bị cám dỗ, Ngài
vượt qua, "Ngài là đường, là sự thật và là sự sống". Ngài là thầy, và
không có Ngài, không có ai là thầy đích thực. Nếu có ai trên trần gian này là
thầy, là người đó được tham gia "chức thầy" của Đức Giêsu.
Chúa Giêsu là mẫu mực, là thầy dạy của chúng ta. Chúng ta hãy xin
Chúa cho chúng ta được theo gương Ngài, được hoàn toàn tin tưởng và phó thác
tất cả cho Ngài.
5. Hạnh
phúc trong tầm tay – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Cuộc sống muôn mặt. Có buồn. Có vui. Niềm vui không thiếu trong
cuộc đời. Nhưng niềm vui thường chỉ đến với những người giàu có, thông thái,
quyền thế. Hôm nay, Đức Giêsu công bố Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Nước
Trời đã tìm thấy trụ sở nơi những tâm hồn đơn sơ, tầm thường.Vì chính Đức Giêsu
cũng phát xuất từ hoàn cảnh khó nghèo đó.
Hơn nữa qua cơn thử thách trong hoang địa, Đức Giêsu mới
cảm thấy thấm thía cơn đói khát của nhân loại trên đường tìm về hạnh phúc đích
thực. Hôm nay hạnh phúc đã xuất hiện trong tầm tay, vì “Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần” (Mc 1:15). Chúng ta có nhận ra những dấu chỉ và thời điểm Thiên Chúa
đến viếng thăm hay không?
CUỘC ĐỌ SỨC
Đức Giêsu được Thánh Linh dẫn vào hoang địa để đương đầu
với đối thủ lợi hại nhất của Thiên Chúa là Xatan. Tại đây sẽ xác định cuộc
thắng bại, quyết định tất cả sứ mệnh cao cả của Người. Thánh Marcô thuật lại
rất vắn tắt, nhưng cũng cho thấy sau khi “chịu Xatan cám dỗ”, Đức Giêsu “sống
giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1:13). Sau cơn cám dỗ
rất lớn lao đó, Thiên Chúa đã trả lại cho Đức Giêsu cảnh hòa hợp giữa đất trời.
Cảnh hòa bình đó chỉ kiếm thấy trong thời Mêsia (x. Is 11:6-9). Cuộc chiến
thắng Xatan vô cùng cần thiết để chấm dứt cảnh lộng hành của đầu mục thế gian
và mở ra một thời đại mới chan chứa tình người và hồng ân cứu độ. Đức Giêsu sẽ
là thủ lãnh qui tụ muôn dân trong cảnh hòa bình và hạnh phúc.
Để rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã phải chuẩn bị
bằng một cuộc chiến thắng những ồn ào của bao cơn cám dỗ. Người đã lên tiếng
giữa một cảnh thanh bình, giữa cảnh hòa hợp và tương liên giữa mọi thụ tạo,
giữa thiên thần và các muông thú (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent
Cycle B 1999:5]). Con người cảm thấy liên đới với muôn thụ tạo trong ơn cứu độ
do Thiên Chúa đã giao ước. “Con người không còn là một kẻ ngoại cuộc hay kẻ
thống trị thiên nhiên. Nhưng chúng ta cần hiểu rằng mình là một thành phần của
chính thiên nhiên. Vũ trụ hôm nay không phải là một miền đất lưu đầy cũng không
phải chỉ là nguồn khai thác của con người. Nhưng vũ trụ cũng được Thiên Chúa
yêu thương như chúng ta. Tất cả đều lệ thuộc vào luật của Thiên Chúa chứ không
phải của chúng ta, luật liên kết tất cả “các thụ tạo có xác” vào một giao ước”
(Disciples in Mission [Homily Guide, Lent Cycle B 1999:7]). Quả thế, “muôn loài
thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày cũng sẽ được giải thoát, cùng với con cái
Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8:19-21).
Sau khi chiến thắng Xatan, Đức Giêsu cảm thấy có một sức
mạnh phi thường. Sứ mệnh Người hiện rõ từng nét. Khi nghe tin “ông Gioan bị
nộp” vì đã làm chứng cho công lý, “Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng
của Thiên Chúa” (Mc 1:14), một Tin Mừng “cống hiến cho nhân loại sự tự do, công
chính và niềm hi vọng” (Life Application Study Bible 1991:1727). Nghĩa là Người
vẫn không sợ xiềng xích gông cùm, nhưng can đảm rao giảng “Triều Đại Thiên Chúa”
(Mc 1:15), một Triều Đại được xây dựng trên lẽ công chính, trái tai bạo chúa
Hêrôđê và đẩy ông Gioan vào chỗ chết. Cũng chính vì lẽ công chính đó, Đức Giêsu
đã bị bách hại. Nhưng cũng chính nhờ đó, uy quyền Thiên Chúa bao trùm toàn thể
vũ tru,# và nhân loại mới biết thời đại cánh chung đã đến.
Đã đến phút chót, mọi lời Thiên Chúa hứa phải được thực
hiện. Chính nơi con người Đức Giêsu những lời hứa đó sẽ hiện thực từng nét.
Cũng chính nơi Người, người ta nhận biết và cảm nghiệm “Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần” (Mc 1:15). Muốn thừa hưởng lời hứa và sống trong “Triều Đại Thiên
Chúa”, “anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Đó là điều kiện duy
nhất cho những ai muốn sống với niềm vui Nước Trời. Không thay đổi não trạng,
không chuyển hướng sống, không thể cảm thấy niềm vui của những người “quay về
với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới” (Kinh Thánh Tân
Ước 1995:184), một cuộc sống được biến đổi toàn diện nhờ cái chết và sự phục
sinh của Đức Giêsu Kitô.
Khi sám hối, chúng ta trải qua một cuộc lột xác, giống như
“thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần khí Người đã được phục sinh” (1
Pr 3:18). Chính Thần Khí sẽ tạo nên cả hai cuộc biến đổi kỳ diệu đó. Thần Khí
sẽ gìm toàn thân chúng ta vào máu của Đức Giêsu và sẽ nâng chúng ta lên “cùng
Thiên Chúa” (1 Pr 3:18), dưới sự lãnh đạo của Đức Giêsu Kitô. Nhờ cuộc toàn
thắng đó, Đức Giêsu đã giựt thoát nhân loại khỏi nanh vuốt ma quỉ, tội lỗi và
sự chết. Nhờ đó, Đức Giêsu trở thành hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, một
tình yêu vô điều kiện đối với các thụ tạo của Người.
“Sám hối là quay hướng về, đáp trả lại tiếng mời gọi”
(Fuellenbach 1995:590) của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tạo mọi điều kiện mang lại
cho chúng ta niềm vui, nhất là niềm vui của người con hoang đàng trong ngày vui
họp mặt với cha già khả kính. Bởi đó “sám hối là một dịp vui, chứ không phải
một việc phán xét hay lên án” (Fuellenbach 1995:590). Vui vì “Triều Đại Thiên
Chúa đã đến gần”. Vui vì mọi người sẽ đón nhận hồng ân cứu độ và được qui tụ về
nhà Cha để cùng nhận ra nhau là anh em.
GẶP GỠ
Niềm vui đó chỉ tìm nơi Đức Giêsu Kitô. Lý do vì nơi
Người, chúng ta tìm được tất cả “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh
Thần” (Rm 14:17). Cuộc gặp gỡ Người không dừng lại nơi lý thuyết hay các nghi
lễ, nhưng tận thâm tâm, bản ngã con người. Chỉ có thể cảm nghiệm, hiểu biết và
tưởng tượng được Nước Trời là gì khi bản thân tôi gặp gỡ “Đấng đã yêu mến tôi
và hiến mạng vì tôi” (Gl 2:20). Trong cảm nghiệm sâu xa đó, Đức Giêsu sẽ trở
thành “trung tâm của cả cuộc đời chúng ta” (Fuellenbach 1995:590). Tất cả đều
tùy thuộc và quy hướng về Người. Đức Giêsu chính là cầu vồng nối đất với Trời.
Sức sống vươn cao, vì ơn cứu thoát đến đúng lúc. Thiên Chúa đã có sáng kiến
trước, đã làm tất cả cho con người. Người vẫn kiên nhẫn chờ đợi xem con người
phản ứng thế nào trước những sáng kiến diệu kỳ của Người. Chính vì yêu thương,
Người đã không ngần ngại đi bước trước. Đáp lại sáng kiến đầy tình yêu thương
đó, tức là sám hối (Fuellenbach 1995:590). Nói khác, con đường trở về với Thiên
Chúa trải bằng những cánh hoa hồng tình yêu. Nhưng chỉ những tâm hồn khiêm cung
mới thực sự hiểu được chỗ đứng của mình trong một trần gian đã được kết giao
trong máu Đức Kitô và mới có thể tìm được con đường dẫn đến hoà bình nối kết
bằng những tràng chuỗi Mân Côi ngọc ngà.
Chính vì thế, trong giai đoạn cực kỳ nghiêm trọng này, Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mới lên tiếng : “trên hết, chúng ta hãy khẩn xin
Thiên Chúa cho mọi người cải hoá nội tâm và mở rộng tầm nhìn khi đưa ra những
quyết định công bình giải quyết những tranh chấp cản trở cuộc hành trình trần
gian hôm nay bằng những phương tiện tương xứng và hoà bình. Trong mỗi đền thánh
dâng kính Mẹ Maria, chúng ta hãy sốt sắng dâng lên trời cao những chuỗi Mân Côi
cầu xin cho hoà bình. Tôi xác tín rằng các giáo xứ và gia đình cũng đọc kinh
Mân Côi cho công cuộc quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn lao đó.” (Zenit
23/02/03) Chỉ kinh Mân Côi mới mạc khải cho chúng ta biết “không bao giờ chúng
ta có thể sống hạnh phúc nếu chúng ta kình chống nhau ; tương lai nhân loại
không thể bị nhận chìm cùng với chủ thuyết khủng bố và logic chiến tranh. Đặc
biệt các Kitô hữu chúng ta được kêu gọi trở thành những người bảo vệ hoà bình ở
những nơi chúng ta đang sinh sống và làm việc. Nghĩa là chúng ta cần tỉnh thức,
để tiếng lương tâm không khuất phục trước cám dỗ đầy ích kỷ, sai lầm và bạo
động.” (Zenit 23/02/03)
6. Cám dỗ
trong hoang địa – Cố Lm. Hồng Phúc
Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Tất cả lời Chúa hôm nay
gồm tóm trong câu Chúa tuyên bố trong bài Phúc âm: “Thời giờ đã mãn và Nước
Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
Trước hết, thời giờ đã mãn, Nước Trời sắp đến. Mùa Chay là mùa
hy vọng, mùa tình thương. Thánh Phaolô, trong Thư gửi Giáo đoàn Roma, đã nói
lên một câu khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng: “Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì
ơn Chúa đã dồn mọi người hết thảy vào đàng bất tuân (tội lỗi), ngõ hầu Người dủ
lòng thương hết mọi người” (Rom 11, 32).
Thánh Phêrô, trong bài đọc hôm nay có tính cách như một bài giáo
huấn cho tân tòng sắp chịu phép rửa tội, cũng nói lên ơn cứu chuộc tràn đầy
rằng: “Chúa Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta… thay cho chúng ta là kẻ
bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa.” Ám chỉ phép rửa tội, Thánh
Tông đồ nhắc lại sự tích ông Noe xưa, vâng lời Chúa đóng một chiếc tàu giữa
tiếng bàn tán, dị nghị, chế riễu, nhưng nhờ đó mà gia đình ông được cứu sống.
Thì ngày nay, nhờ phép rửa tội chúng ta cũng được cứu thoát, nhờ công nghiệp
Chúa Kitô phục sinh. Ngài đã thắng sự chết và tội lỗi để ban cho chúng ta sự
sống của chính Thiên Chúa. Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa cũng tràn đầy.
Trong ba tường thuật của Phúc Âm nhất lãm về việc Chúa bị ma quỉ
cám dỗ, Phúc Âm của Marcô ngắn gọn và chỉ có ý đưa dẫn đến sứ vụ Tông đồ của
Chúa. Ngài chỉ viết: “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó
suốt bốn mươi đêm ngày, chịu sata cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên
Thần hầu hạ Ngài”.
Hoang địa hay sa mạc là chốn thinh không, là nơi không có tiếng
nói ngoài tiếng gió vi vu hay tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không
phải là không có tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không
có tiếng nói và có nhiều thứ tiếng nói sẽ vọng lên. Tiếng nói của chính lương
tâm mình, tiếng nói của dĩ vãng, của một đoạn đời đã qua, một khoảng đời sắp
tới. Nhất là tiếng nói của Chúa, vì “Người thích nói trong im lặng”. Vì thế,
ngày xưa bao nhiêu vị Thánh đã vào trong hoang địa Thebes bên Ai cập để sống
đời khổ tu, hoặc như Thánh Hiêrônimô xa lánh sự ồn ào thành phố Lamã để vào
trong sa mạc gần Nagiarét suy niệm Thánh Kinh.
Nhưng hoang địa cũng là nơi thần bí, như lời Chúa phán: “Khi tà
thần ra khỏi người nào, thì nó đi dong dài những nơi khô cháy tìm chỗ nghỉ
ngơi…”. Trong chốn thinh không im lặng, ma quỉ thường hay hoạt động, quấy phá.
Ma quỉ đã hiện ra nhiều lần dưới nhiều hình quái ghê sợ để buộc Thánh Antôn bỏ
cuộc nhưng ngài đã xua đuổi và trở nên tổ phụ đời sống tu trì. Về đêm, trong im
lặng, ma quỉ quấy phá Thánh Vianney trong 35 năm.
Sở dĩ như vậy vì trước đây, Marcô nói, “Thánh Thần thúc đẩy Chúa
Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó bốn mươi đêm ngày, chịu satan cám dỗ”. Vị
Thánh Sử không nói đến diễn tiến của cuộc cám dỗ nhưng chúng ta cũng hiểu được
qua các cuộc đương đầu với ma quỉ trong khi Ngài ra giảng đạo. Marcô còn thêm
một chi tiết: Ngài sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài. Phải
chăng Marcô muốn ám chỉ quang cảnh an bình mà Chúa Giêsu, vị Adam mới, đã sống.
Ngài đã toàn thắng con rắn hoả ngục dữ tợn muốn cám dỗ Ngài bỏ cuộc, và mở cửa
trời cho chúng ta vào hưởng hạnh phúc với các Thiên Thần.
Sau cùng, lời rao giảng của Chúa Giêsu gồm tóm trong hai điểm:
Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Ta phải ăn năn sám hối tội lỗi. Đó là
phần tiêu cực của mọi cuộc trở lại. Nhưng không phải chỉ có thế, có biết bao
nhiêu đạo giáo còn đòi hỏi sự hảm mình phạt xác hơn chúng ta. Nhưng điều tích
cực là TIN vào Chúa Kitô, chỉ có Chúa mới có thể cứu vãn chúng ta. Đức tin và
sám hối là hai yếu tố của mọi cuộc trở lại.
Charles de Foucaul đến gặp một vị linh mục quen là cha Huvelin
và tâm sự: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi như mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người
về từ sa mạc đó và nói: Anh hãy quì xuống xưng tội đi đã. Foucauld đã vâng lời,
khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, đời của vị sĩ quan ấy đã hoàn toàn đổi
mới. “Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa thì tôi cũng hiểu rằng tôi không
thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Người”.
“Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng.”
7. Đức Giêsu trong hoang địa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,12-15) gồm hai phần: Đức Giêsu ở
trong hoang địa (cc.12-13) và Đức Giêsu khai mạc công việc rao giảng
(cc.14-15). Vì chúng ta mới suy niệm cc.14-15 trong Chúa Nhật III Thường Niên,
nên hôm nay, bài suy niệm này sẽ chỉ tập trung vào phần nói về sự kiện Đức
Giêsu ở trong hoang địa. Và những gì sắp được trình bày trong bài suy niệm này
sẽ chỉ là một trong những cách hiểu có thể có về sự kiện ấy theo cách diễn tả
của tác giả Mc.
Câu chuyện xảy ra ngay sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông
Giorđan: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn
mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ
Người” (cc.12-13).
Thần Khí, sức mạnh của Thiên Chúa, “đẩy” Đức Giêsu vào hoang
địa. “Đẩy” ở đây là một ẩn dụ chỉ sự thúc đẩy thần linh mà Đức Giêsu trải
nghiệm; đó là sự thúc đẩy bên trong, mạnh mẽ, không thể cưỡng lại được. Sức
mạnh của Thần Khí tràn ngập nơi Đức Giêsu và đặt Người, một cách chắc chắn, vào
trong “hoang địa”. Và vì là tác động thần linh của chính Thiên Chúa, sự thúc
đẩy và đặt để đó hẳn nhiên sẽ phù hợp với chương trình của Thiên Chúa về Đức
Giêsu. Chương trình đó đã từng được tác giả Mc trình bày ngay từ những dòng đầu
tiên của cuốn sách như một con đường (1,2). “Hoang địa” mà Thần Khí đẩy Đức
Giêsu vào, vì thế, là nơi chốn mà ở đó Người phải thực hiện cuộc hành trình của
Người.
Về bản chất, hoang địa này khác hẳn hoang địa của ông Gioan Tẩy
Giả. Trong trường hợp của ông Gioan, đó là một nơi chốn địa dư, gần sông
Giorđan, không dân cư và tách biệt hẳn xã hội con người; nhưng khi ông Gioan ở
đó thì xảy đến hàng loạt những hoạt động do sự xuất hiện của các thành phần xã
hội từ bên ngoài kéo đến: ông giảng dạy, ông làm phép rửa và người ta lãnh ơn
tha thứ… Còn hoang địa mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào thì không được xác định rõ
ràng. Đức Giêsu đi vào trong hoang địa này bởi tác động của Thần Khí, ở lại đó
trong một giai đoạn dài và thuần nhất (40 ngày), chịu cám dỗ, sống giữa các
loài dã thú và được các thiên sứ phục vụ. Tác giả không kể bất cứ hoạt động nào
của Người, kể cả việc cầu nguyện và ăn chay. Trong hoang địa này, bên cạnh Đức
Giêsu, có sự hiện diện của ba loại “cư dân”: Satan, các loài dã thú và các
thiên sứ. Tính chất và sự hiện diện đồng thời của ba loại “cư dân” này quanh
Đức Giêsu khiến cho hoang địa này không còn mang tính chất địa dư – lịch sử
nữa, mà là một hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng – thần học.
Đức Giêsu, theo chương trình của Thiên Chúa, đang thực hiện cuộc
hành trình của Người, đang đi trên con đường của Người (x.1,2). Đỉnh điểm của
cuộc xuất hành của Người sẽ là biến cố tử nạn – phục sinh. Xưa, hoang địa là
nơi chốn của cuộc xuất hành của dân Israel đi về đất hứa. Nay, “hoang địa” cũng
là nơi chốn diễn ra cuộc hành trình hướng đến biến cố tử nạn – phục sinh của
Đức Giêsu. Sự kiện Người sẽ ở trong hoang địa bốn mươi ngày (c.13) củng cố cho
cách hiểu này. Mà nếu thế thì “hoang địa” nói đây chính là cái xã hội – tôn
giáo Do Thái, trong đó Đức Giêsu sống và hoạt động cho đến khi Người bước vào
cuộc tử nạn – phục sinh của Người. Chính Thần Khí đẩy Người đi vào trong cái xã
hội – tôn giáo đó.
Nhưng hoang địa, tự bản chất, là hình ảnh của một nơi chốn tách
biệt khỏi xã hội. Trong trường hợp của Đức Giêsu, sự tách biệt này, vì thế,
phải được hiểu theo nghĩa của sự tách biệt về các nguyên tắc và giá trị. Đức
Giêsu ở trong “hoang địa”, tức là Người tuyệt đối không chia sẻ các giá trị giả
dối và sai lầm của cái xã hội – tôn giáo Do Thái và không chấp nhận những
nguyên tắc và giá trị đó. Có một sự cắt đứt, một sự đoạn tục, một sự tách lìa
giữa Đức Giêsu với các nguyên tắc và giá trị đó. Tính chất của ẩn dụ “hoang
địa” cho phép chúng ta hiểu như thế.
Bắt đầu Mùa Chay thánh, chúng ta cũng đang được Thần Khí đẩy vào
“hoang địa” để thực hiện cuộc xuất hành của chính mình và của cộng đoàn mình.
Đối với tuyệt đại đa số chúng ta, đây sẽ không phải là một hoang địa theo nghĩa
nơi chốn địa dư, mà là theo nghĩa biểu tượng – thần học. Đó là nơi chúng ta
thực hiện cuộc hành trình đời mình như dân Israel xưa thực hiện cuộc hành trình
đi từ cõi nô lệ Ai Cập về miền đất hứa “chảy tràn sữa và mật”. Đó là nơi xảy
đến cuộc xuất hành của chúng ta, cuộc xuất hành đưa chúng ta vào trong đất hứa
là Nước Thiên Chúa. Hoang địa, theo nghĩa đó, là chính môi trường sống và làm
việc cụ thể của chúng ta trong hiện tại.
Nhưng “hoang địa” mà Thần Khí đang đẩy chúng ta vào cũng có
nghĩa là một chốn tách biệt, như xưa đã xảy ra với Đức Giêsu. Trong ý nghĩa sự
“đi vào hoang địa” là biểu tượng cho một sự tách biệt, một sự giữ khoảng cách
đối với những nguyên lý và giá trị sai lầm đang chi phối xã hội, thì việc Đức
Giêsu vào hoang địa, như chúng ta đã nói, là việc Người không chấp nhận hành xử
theo các nguyên lý và giá trị sai lầm của xã hội và tôn giáo Do Thái đương
thời. Đối với chúng ta cũng vậy. Thần Khí đang đẩy chúng ta vào hoang địa, cách
riêng là trong Mùa Chay thánh này, tức là Thần Khí thúc đẩy chúng ta không thỏa
hiệp và không sống theo những nguyên lý và giá trị tầm thường thế gian, ngay
trong những môi trường xã hội và môi trường làm việc hiện tại của chúng ta:
những ý thức hệ sai lạc, những giá trị ảo của chủ nghĩa hưởng thụ, hay những
não trạng duy vật và duy khoái lạc…
Đức Giêsu đã làm theo sự thúc đẩy của Thần Khí. “Người ở trong
hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các
thiên sứ hầu hạ Người” (c.13).
Trong Cựu Ước, con số “bốn mươi” thường được dùng để chỉ một
giai đoạn trong đó diễn ra một tình trạng thuần nhất nào đó như thời hòa bình
hay thời của một triều đại… Thí dụ trong Tl 3,11; 5,31; 8,28; 13,1; 2V 8,17;
12,2 chẳng hạn. Một điều chắc chắn là con số bốn mươi luôn ám chỉ đến bốn mươi
năm con cái Israel đi trong hoang địa, tức là giai đoạn họ đi từ chốn nô lệ Ai
Cập về đất hứa (x. Ds 14,33.34; 33,38; Đnl 1,3; 2,7; 29,4; Gs 14,17; Tv 95,10;
Am 2,10; 5,25…). Vì thế, chi tiết “Đức Giêsu ở trong hoang địa bốn mươi ngày”
rõ ràng mang giá trị biểu tượng, chỉ về cuộc xuất hành của Người, tức là cuộc
hành trình đưa Người đi đến đỉnh điểm là cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
Trong “hoang địa”, Đức Giêsu chịu Satan cám dỗ
suốt bốn mươi ngày. “Satan” là một hạn từ Hípri. Thoạt kỳ thủy, hạn từ này về
căn bản có nghĩa là một kẻ chống đối hay một đối thủ chuyên cáo tội trong các
vụ án (x. Tv 109,6; 1Mcb 1,36). Từ đó nó có nghĩa chỉ về một thành viên của
triều đình thiên thai, chuyên cáo tội con người trước mặt Thiên Chúa (x. G
1,6-12; 2,1-7). Vào thời Đức Giêsu, người ta không còn nghĩ Satan là một thành
viên của triều đình thiên thai nữa, nhưng có thể hiểu như là một tinh thần thù
nghịch của con người, luôn tìm cách đẩy con người đến chỗ sai lạc và luôn muốn
tàn phá công trình của Thiên Chúa. Trong cái xã hội Do Thái được ẩn dụ trong
bài Tin Mừng bằng hình ảnh “hoang địa”, thì Satan, trong vai kẻ cám dỗ Đức
Giêsu, chính là những thế lực/nhân vật liên tục tìm cách làm cho Đức Giêsu phản
bội lại chương trình của Thiên Chúa về Người. Trong Mc 8,33 Đức Giêsu sẽ gọi
Phêrô là Satan vì ông ta ngăn cản Đức Giêsu thực hiện chương trình của Thiên
Chúa và muốn Người đi theo “tư tưởng của loài người”. Trong cuộc đời hoạt động
công khai của Người trước khi đi vào cuộc tử nạn – phục sinh, giữa “hoang địa”
là xã hội và tôn giáo Do Thái, Đức Giêsu sẽ phải liên tục đối diện với những
thế lực/nhân vật như thế. Bài Tin Mừng hôm nay gọi là “Người chịu Satan cám
dỗ”.
Loại “cư dân” thứ hai trong “hoang địa” mà bài Tin Mừng hôm nay
nhắc đến, là các loài dã thú: Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú”.
Thông thường, các loài dã thú được hình dung trong đặc điểm hung dữ của chúng:
chúng tấn công và thậm chí ăn thịt con người. Vì thế, trong các sách ngôn sứ,
ẩn dụ dã thú thường được dùng để nói về tai ương, ví dụ trong Is 18,6; 56,9; Gr
7,33; 12,9; 16,4; Ed 32,4; 34,5. Nhưng rõ ràng đó không phải là trường hợp của
Mc 1,13. Có một bản văn ngôn sứ nói về tình trạng tốt lành của việc sống chung
với dã thú, là bản văn Is 11,6-9. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận cách hiểu ẩn dụ
“hoang địa” ở đây ám chỉ xã hội Do Thái đương thời và “các loài dã thú” là một
thành phần trong đó, thì cũng rõ ràng là không thể hiểu Mc 1,13 dựa theo Is
11,6-9 được.
Trong số các bản văn Cựu Ước sử dụng ẩn dụ dã thú, đáng chú ý là
Đn 7. Trong đó, các dã thú là ẩn dụ chỉ những quyền lực chính trị kinh khủng
của các đế quốc ngoại giáo. Hiểu như là một thành phần trong khung cảnh xã hội
Do Thái (“hoang địa”), theo nghĩa tương tự như trong Đn 7, các loài dã thú ở
đây là ẩn dụ của những thế lực và ảnh hưởng chính trị khác nhau của các phong
trào và các ý thức hệ khác nhau. Đó là những thứ quyền lực chính trị – xã hội –
tôn giáo áp bức, hay ít là gây sức ép, trên những con người đang sống trong xã
hội đó. Chúng tác động trên con người, từ bên ngoài; và chúng sẽ thi thố sức
mạnh của mình, ít là về mặt thể lý, để đẩy Đức Giêsu đến cái chết thảm thương
trên thập giá sau này. Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” tức là chấp nhận làm
đối tượng mà các thứ quyền lực ấy nhắm đến và không ngừng tìm cách tác động, gây
ảnh hưởng.
Loại “cư dân” thứ ba trong “hoang địa” mà Mc 1,13 nói đến là các
“thiên sứ” (aggelos). Trong Tin Mừng Mc, lần đầu tiên “thiên sứ” được
nói đến, chính là ở 1,2. Và hình ảnh của aggelos đó được thể hiện một cách cụ
thể – lịch sử nơi Gioan Tẩy Giả (1,4). Như thế, trong Mc, “aggelos” vẫn có thể
là con người chứ không nhất thiết phải là hữu thể thiêng liêng. Nếu chúng ta
chấp nhận cách giải thích phía trên về ba hình ảnh “hoang địa”, “Satan” và “dã
thú”, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận cách giải thích, theo đó, ẩn dụ
“các thiên sứ” ở đây ám chỉ một nhóm người nào đó trong cuộc đời hoạt động công
khai của Đức Giêsu. Nhóm này có chức năng cộng tác với Đức Giêsu, kể cả việc
phục vụ Người. Vậy, có thể hiểu “các thiên sứ” ở c.13 là hình ảnh ẩn dụ của
những con người gắn bó với Đức Giêsu, giúp đỡ Người khi Người thi hành sứ vụ và
cộng tác với Người trong công cuộc của Người. Đức Giêsu chấp nhận sự phục vụ
của các thiên sứ trong hoang địa có nghĩa là người chấp nhận sự phục vụ, giúp
đỡ và cộng tác của những con người đó trong khi Người thực hiện chương trình
cứu độ của Thiên Chúa.
Tóm lại, trong phần đầu bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Mc đã sử
dụng những hình ảnh ẩn dụ rất phong phú và sâu sắc. Tất nhiên, cách giải thích
vừa được trình bày vẫn chỉ là một trong những cách hiểu về những hình ảnh được
tác giả Mc sử dụng. Nhưng dù sao, trong khung cảnh của phụng vụ Chúa Nhật I Mùa
Chay hôm nay, cách hiểu này gợi ý cho chúng ta nhiều suy tư thiết nghĩ là rất
đáng chú ý, liên quan đến cuộc sống và việc thi hành sứ mạng của các Kitô hữu
chúng ta. Chúng ta được mời gọi hãy để cho chính Chúa Giêsu (như được khắc họa
trong bài Tin Mừng hôm nay) nói với chúng ta về những gì chúng ta phải sống
cách đặc biệt trong Mùa Chay thánh này.
“Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn
mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ
Người” (Mc 1,12-13).
8. Sống là chiến đấu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một buổi chiều, cha bề trên một tu viện kia hỏi một tu sĩ: - Hôm
nay con đã làm gì?
- Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời, con rất bận bịu mà
nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Thưa cha, ngày
nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, dạy hai con diều hâu,
thắng một con cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.
- Con nói gì thế? Cha bề trên cười hỏi lại, những việc như thế
làm gì có trong tu viện này?
- Thưa cha bề trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai
con mắt của con, con phải gìn giữ cho nó luôn trong sáng, không để nó thu giữ
những hình ảnh xấu xa. Hai con nai là hai chân của con, con phải luôn trông coi
từng bước đi, để chúng bước đi trên nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là
hai bàn tay của con, con phải luôn bắt nó làm những việc tốt. Con cá sấu là cái
lưỡi của con, con phải kìm hãm hằng ngày để nó khỏi thốt ra những lời nói thâm
độc và thô bỉ. Con gấu là trái tim của con, con phải trừng trị để khỏi ích kỷ
và phô trương. Còn bệnh nhân là chính thân xác con, con phải canh phòng ráo
riết để nhục dục không xâm nhập và luôn lành mạnh.
Tu sĩ này có lý, thưa anh chị em, vì sống là chiến đấu. Đời là
một cuộc trường kỳ chiến đấu, và cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến cam
go nhất chính là cuộc chiến với bản thân. Địch thù ẩn núp ngay trong bản thân
mình chứ không ở đâu xa. Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế cũng không thoát
khỏi cuộc chiến đấu này. Ngài đã quyết liệt chiến đấu và chiến thắng vẻ vang.
Tin Mừng hôm nay đã kể lại, lúc khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã
được Chúa Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách –tương tự như Ađam khi
xưa ở vườn Eden- Địa đàng, hay dân Do Thái 40 năm trong sa mạc để chịu thử
thách. Nhưng Ađam khi xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo lời xúi giục của
Satan đội lốt con rắn, đã bất tuân lệnh Thiên Chúa, đã ăn trái cấm, vì không
muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo
hậu quả khốc hại muôn đời cho con cháu loài người. Bốn mươi năm trong sa mạc
cũng là thời gian thử thách lâu dài đối với dân Do Thái. họ cũng đã sa ngã trước
thử thách: bao lần phản loạn, chống đối ông Môsê, kêu trách Thiên Chúa, muốn
quay trở lại Ai Cập với kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa.
Còn Chúa Giêsu trong sa mạc 40 đêm ngày đã cương quyết trung
thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Thánh
Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép, danh vọng để cám dỗ
Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và
nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ
nạn thập giá. Cuối cùng Satan phải chịu rút lui, nhường chỗ cho các thiên thần
đến phục vụ Ngài. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến
thắng chính là Lời Chúa trong Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía
Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Anh chị em thân mến,
Là tín hữu, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu, nếu
chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Chúa hướng
dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu đã chứng tỏ: con người có
thể thắng được những chước mê hoặc dụ dỗ của Satan, nếu biết dựa vào sức mạnh
của Chúa. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa,
chúng ta không theo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh. Chúng ta không theo
Chúa để bắt Chúa phục vụ đời sống thể xác hay vật chất của chúng ta. Chúng ta
không coi Thiên Chúa như một sức mạnh phù phép để làm những việc phi thường, để
biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không lòn cúi, quy lụy Satan để
được làm chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ tể vũ trụ, là Chúa của
chúng ta.
Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi vào sa mạc của chúng
ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa mạc của tâm hồn chúng
ta. Theo Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con người gặp gỡ và sống thân
mật với Thiên Chúa tình yêu. Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả ý nghĩa của sa mạc rất
đúng khi ông viết: “Thiên Chúa phán: Ta sẽ dẫn người yêu của Ta vào sa mạc, để
ở đó Ta thủ thỉ với nàng” (Hs 2,16). Sa mạc là nơi sống gần gũi với Thiên Chúa,
sống trong tình thân mật của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy bịt tai trước những
tiếng ồn ào bên ngoài, những lời xúi giục, dụ dỗ của Satan. Ngày nay và hằng
ngày vẫn luôn có những tiếng xúi giục như vậy. Đừng tưởng chỉ có tiếng nói bên
ngoài, tiếng của Satan có thể nói lên ngay trong tâm hồn chúng ta. Nó xúi giục
chúng ta đừng sống theo Lời Chúa. Sống theo Tin Mừng sẽ thiệt thòi lắm! Sống
như người ta, làm như người đời, dễ biết bao, lợi biết mấy! Nhưng nghe theo
những tiếng xúi giục ấy là phản bội Chúa, là từ bỏ Chúa, là lựa chọn không đi
theo Chúa nữa. Như thế là lại rơi vào số phận khốn khổ của Ađam khi xưa, của
dân Do Thái ngày trước. Tất cả đã sa ngã trước thử thách. Chúng ta hãy theo
gương Chúa Giêsu, chọn tình Chúa làm hạnh phúc, lấy Lời Chúa làm lẽ sống, làm
sức mạnh, để chiến thắng tội lỗi và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Thử thách và sa mạc là để thanh luyện tâm hồn, để chuẩn bị cho
một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, trong tương quan với Chúa và với anh chị em.
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Mùa
Chay nhằm giúp các tín hữu sống lại lộ trình 40 năm dân Israel đã trải qua
trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, với một nỗ lực thanh luyện bản thân, ý thức
tình trạng nghèo khó và bấp bênh của cuộc sống và khám phá ra sự can thiệp quan
phòng của Chúa. Ngài mời gọi người tín hữu hãy mở đôi mắt để nhìn thấy nhu cầu
cấp bách nhất của anh em chúng ta. Bằng cách ấy, Mùa Chay cũng trở thành mùa
liên đới với những con người và với những dân tộc ở nhiều nơi trên thế giới đang
sống trong hoàn cảnh bấp bênh, tạm bợ, không cửa không nhà”. Đức Thánh Cha còn
nói: “Hãy đón nhận lời mời gọi hoán cải của Đức Kitô để gắn bó bền chặt hơn với
Thiên Chúa, Đấng Thánh và giàu lòng thương xót, cách riêng trong Mùa Chay, mùa
ân sủng này. Ước gì Mùa Chay sẽ giúp cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa mà
mở tâm hồn ra tiếp rước tất cả những người đang sống túng thiếu”… “Chính lúc tỏ
ra cởi mở và quảng đại mà Kitô hữu, với tính cách riêng rẽ hoặc tập thể, có thể
phục vụ Đức Kitô hiện diện trong người nghèo và làm chứng cho tình yêu của
Thiên Chúa. Đức Kitô đã đi trước chúng ta trên con đường này. Sự hiện diện của
Ngài là một sức mạnh và là một khích lệ: Ngài cho ta được tự do và trở thành
những chứng nhân của tình yêu thương”
9. Vào hoang địa
– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa
các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1. Ta say mê vì các cầu
thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển
chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các
pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ. Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi
bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế. Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện.
Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện. Tập luyện để có thể lực dẻo
dai. Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu
nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý. Những buổi tập rất nghiêm
ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc.
Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc. Ai vượt qua được những buổi tập
nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.
Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ba thù:
ma quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn
luyện, phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được
Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.
Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân,
không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn
trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách
đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.
Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến
đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa phải chống chọi
với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương,
ngày thì nóng như thiêu. Hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa
phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu
tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa
vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa,
người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại
Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no
ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới
Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của
Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là
đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những
nhu cầu của thân xác.
Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến
đấu chống lại ma quỷ. Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con
người. Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã
thua cuộc. Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết
con cái, mất hết danh dự. Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã
thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ
Người vững lòng tin ở Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ
về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông thánh Gióp vững
lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào
Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.
Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu
từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Hai ông bà nguyên tổ
đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý
Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con
đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con
đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.
Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách. Hoang địa còn là nơi
gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được
Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau
40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Mặt ông trở
nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau
khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp
gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến
độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim
chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực
nuôi dưỡng Người. Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa
Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa
Cha.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức
Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên
cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào
hoang địa của cuộc đời.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những
khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do,
không chịu nô lệ vật chất.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi
cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn
thử thách.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để
luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn,
thiệt thòi.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh
thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở
nên “Con yêu dấu” của Chúa.
Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ
trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn
thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để
tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có quen chấp nhận những điều khó chịu không?
2- Bạn đã bị cám dỗ bao giờ chưa? Bạn đã chống trả thế nào?
3- Mùa Chay này, bạn sẽ sống thế nào để thêm lòng mến Chúa yêu
người?
4- Bạn có thường từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa không?
10. Vào
hoang địa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Mỗi khi bắt đầu mùa Chay, Hội Thánh lại mời chúng ta vào hoang
địa với Đức Giêsu. Chính Thánh Thần đã dẫn đưa Ngài đến nơi đó, ngay sau khi
Ngài chịu phép rửa của Gioan và nhận được Thánh Thần để lên đường đi sứ vụ.
Bốn mươi ngày sống trong cô tịch và cầu nguyện. Một cuộc tĩnh
tâm để định hướng tương lai, qua đó Đức Giêsu thấy rõ con đường Ngài phải đi,
và qua đó Ngài cũng thấy mình bị Xatan cám dỗ.
Mùa Chay là thời gian trở lại với Chúa và nhận ra những cám dỗ
đang bủa vây tôi, những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới lớp áo mới. Nếu đời tôi
là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Tôi có tự do để chọn giữa cái tốt và cái xấu. Giữa những cái
tốt, tôi có tự do để chọn cái tốt hơn. Biết mình đã lạc hướng hay lệch hướng là
điều cần thiết.
Con người hôm nay không yếu đuối hơn ngày xưa. Nhưng có lẽ nó bị
cám dỗ nhiều hơn xưa, vì cuộc sống tiến bộ cho người ta nhiều chọn lựa. Tôi
phải chọn kênh truyền hình, chọn băng video, chọn một loại vải, một kiểu áo,
chọn chỗ giải trí tối nay.
Có những áp lực đè nặng trên chọn lựa của tôi: áp lực của quảng
cáo, khuyến mãi, áp lực của mode, của bạn bè, của dư luận... Có những mời mọc
nhắm vào các giác quan của tôi. Các giác quan như những cánh của mở của căn nhà
trống trải. Bao kích thích khêu gợi như luồng gió lùa vào nhà. Thắng được những
đòi hỏi vô độ của thân xác đòi hỏi một sự tự chủ lớn lao. Thắng được những đam
mê mù quáng của con tim cần có một thái độ anh hùng từ bỏ. Thắng được sự cứng
cỏi, cố chấp của trí tuệ cần có một lòng khiêm tốn mở ra trước chân lý.
Cuộc đời là một cuộc chiến đấu không ngừng, vì con người vẫn
nghiêng như tháp Pizza. Cần phải tập nghiêng về điều ngược lại để tạo lập được
sự quân bình trong cuộc sống.
Nói cho cùng, cám dỗ nào cũng khiến con người khép kín, chỉ nghĩ
đến mình và sống cho mình. Cám dỗ im lặng vì sợ liên lụy. Cám dỗ giả mù trước
sự thật rành rành. Cám dỗ thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân. Cám dỗ sống một
đời sống tầm thường và buông thả. Cái cao cả của con người là chiến đấu và
chiến thắng. Chỉ khi nhận Thiên Chúa và tha nhân làm trung tâm, con người mới
thành người trọn vẹn.
Ước gì mỗi Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng
sự nặng nề, nhỏ mọn của mình. Nhưng trước hết, chúng ta cần ăn chay và cầu
nguyện.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh
để làm chủ. Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật
chất?
Không những phải chống lại cơn cám dỗ, mà còn phải xa tránh
những nơi, những con người có thể đưa đến cám dỗ. Theo ý bạn, người trẻ hay bị
cám dỗ ở đâu? Với ai?
Cầu Nguyện
Như đoá sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc, xin dạy con biết trân trọng
thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục, xin thanh lọc trí
tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt, để
biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực vào những chuyện tình cảm
chóng qua, nhưng giúp con tự rèn luyện mình để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy, xin giữ thân xác con thanh khiết.
11. Hãy sửa
đổi đời sống và tin vào Tin Mừng.
Một đôi vợ chồng đã sống với nhau 25 năm và xem ra họ là một cặp
xứng đôi vừa lứa hoan hỷ long phụng. Hai vợ chồng có việc làm tốt. Họ cùng nhau
đi nhà thờ mỗi Chúa Nhật và cầu nguyện mỗi tối trước ngày họ về hưu. Song giữa
họ có một vấn đề xem ra khó mà vượt qua, đó là cứ mỗi lần nói chuyện là một lần
họ cãi nhau. Cuối cùng, bà vợ như đã ứ tới cổ, đương nhiên vì đạo giáo họ không
thể ly dị, nên bà mới nghĩ ra một cách. Vào buổi tối kia khi hai người bắt đầu
buổi cầu nguyện chung thì bà nói với ông chồng, "Tôi và ông không thể tiếp
tục sống mà cứ cãi cọ với nhau như thế này mãi được, chúng mình phải chấm dứt
tình trạng này ngay. Nhân đây là ngày đầu tiên của mùa Chay, tại sao tôi và ông
không cầu xin Chúa làm ơn thay đổi cách sống này. Vợ chồng mình hãy cầu xin
Chúa gọi một người trong chúng ta về với Ngài".
Với lối ý kiến như thế ai cũng thấy điều bà vợ nói là sai với
tinh thần của mùa Chay, bởi vì điều thiết yếu của mùa Chay là hồi tâm để canh
tân thay đổi chiều hướng ý tưởng cũ của cuộc sống để đời sống tương lai tốt
lành hơn. Chúng ta nghe Chúa gọi ta đi một hướng, còn ma quỉ thì quyến rũ ta về
lối khác; câu hỏi là "ta theo ai", sự quyết định lệ thuộc vào ta hoàn
toàn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nghe Chúa Cha gọi
Ngài theo một hướng sau khi chịu phép rửa và rồi ma quỉ quyến rũ Ngài theo hướng
khác. Chúa Giêsu ở một mình nơi hoang địa, sau bốn mươi ngày dài ăn chay thì
sức Ngài yếu đi và là dịp may cho Satan cám dỗ bởi khi ấy Ngài rất đói. Ngay
lập tức những hình ảnh cám dỗ thoả mãn tính xác thịt theo đuổi Ngài. "Tại
sao không biến những hòn đá kia thành bánh? Ta có thể làm điều đó và hơn nữa
khỏi phải đói!" Sau những ngày một mình trong hoang địa làm Ngài cảm thấy
cô đơn. "Tại sao Ta không làm cái gì đó kỳ lạ để mọi người chú ý? Chẳng
hạn nhảy từ ghềnh đá cao này xuống dưới vực sâu mà không bị thương tổn? Chà
chà, người ta sẽ nhìn thấy và kéo đến đông biết chừng nào, khi ấy Ta hết cô
đơn!" Bốn mươi ngày Ngài tự xét đã nhìn thấy những ý tưởng về công cuộc
truyền bá của Ngài. "Tại sao Ta không là một anh hùng dũng sĩ như người ta
mong chờ nơi Đấng Thiên Sai? Ta sẽ đầy quyền hành và giàu có. Ta có thể làm
điều ấy và sẽ không còn nỗi sợ bất an nữa!" Những quyền lực hung mãnh trên
sa mạc thế giới cho chúng ta biết rằng đơn hành trên sa mạc mà thiếu các dự bị
thiết yếu thì chỉ có hai cách chọn: một là cố tự bảo vệ cho đến khi trợ giúp
tới, hai là để cho sự sợ hãi chiếm lĩnh. Một chuyên gia thám hiểm sa mạc đã
viết: "Chỉ có người đã tự chuẩn bị cho mình đầy đủ mới có thể sống sót qua
sa mạc". Chúa Giêsu đã không hoảng sợ khi mình Ngài đi qua hoang mạc và
Ngài cũng chẳng lo âu khi đối mặt với sức mạnh cám dỗ ghê gớm của ma quỉ. Ngài
đã tự chuẩn bị cho mình cách hoàn hảo nhất, như Thánh Kinh đã cho ta biết
"Ngài đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày". Theo truyền thống của
Cựu Ước, ăn chay là một cử chỉ tôn giáo cao cả với ý muốn tăng thêm sức mạnh ý
chí qua cầu nguyện và chiêm ngắm. Như thế, bằng cách tự thanh luyện tâm hồn
mình qua ăn chay cầu nguyện, Chúa Giêsu đã chọn lựa cách hành động luân lý rõ
ràng với chủ ý theo tiếng gọi và chiều hướng trong công cuộc truyền bá Tin Mừng
của Ngài. Ngài đã nói, "Hãy xéo đi Satan! Vì có lời Thánh Kinh đã viết:
Ngươi chỉ tùng phục một Thiên Chúa mà thôi, và chỉ tôn thờ một mình Ngài"
(Mt 4,10).
Đời sống là những chuỗi dài của núi cao và thung lũng. Chẳng ai
trong chúng ta có thể trốn tránh hết những kinh nghiệm hoang mạc, đó là những
giờ phút ta cảm thấy tâm hồn bơ vơ trống vắng, lạnh lẽo cô đơn. Chắc chắn rằng,
vào những giờ phút đó, cầu nguyện là điều cần thiết nhất cho chúng ta.
Mặc dầu chúng ta có sợ hãi trong cô đơn lẻ loi và thất bại trong
cuộc tìm kiếm để thoát cảnh lạnh giá của cuộc sống, nhưng chúng ta đừng thất
đảm. Chúng ta cần cầu nguyện, cần phải thôi nói với chính mình để có thể nghe
được tiếng của Chúa là Cha nói trong tâm hồn chúng ta. Trong hoang mạc của đời
sống vô nghĩa xem ra mọi cái đều trở nên tiêu tan, vô mục đích, vô ý nghĩa, nó
tựa như một trò đùa ghê tởm bao bọc chúng ta bởi quyền lực bên ngoài mà chúng
ta không hiểu nổi. Chỉ có một lối thoát, một lối tìm ra ý nghĩa xác thực và
cùng đích của cuộc sống của chúng ta; chỉ có một con đường để tìm ra ta là ai
và ta phải làm gì, đó là lắng nghe và lắng nghe tiếng Chúa Kitô trong tâm hồn
ta. Có thể sẽ phải trải qua bốn mươi ngày đêm hoặc sẽ lâu hơn thế nữa để Tin
Mừng của Chúa thấu nhập tâm hồn, nhưng điều quan trọng cần thiết là ta phải
tiếp tục lắng nghe không nản lòng. Khi ta ngừng nghe tiếng Chúa thì là lúc ta
thiếu chuẩn bị để xua đuổi sự nguy hiểm của thất đảm, nỗi trống rỗng sẽ bao bọc
và là dịp thuận tiện để ma quỉ tiến vào đánh giết chúng ta.
Cơn cám dỗ có thể là ước muốn một mình ra đi, ta có thể đi qua
ánh sáng không cần Chúa. Nó là sự cám dỗ khi nói rằng chúng ta có thể tự tìm ra
câu trả lời "tại sao" cho cuộc sống; và nó là sự cám dỗ làm chúng ta
tự hình thành những "thần tượng" nhỏ bé trong tâm hồn chúng ta. Ta
phải tự nói với chính mình rằng, "Tôi cần Thiên Chúa nói cho tôi biết tôi
là ai, tại sao tôi như vầy và tôi sẽ đi về đâu? Tôi cần Thiên Chúa dẫn đưa tôi
ra khỏi sự trống rỗng đến ánh sáng tạo dựng của Ngài và Ngài nói cho tôi biết sự
toàn hảo của tôi nằm ở đâu? Hãy tránh xa ta đồ quỉ dữ Satan, vì ngay từ đầu
Thiên Chúa là Đấng tạo dựng trời đất, tất cả... Ta chỉ tôn thờ một mình
Ngài".
Gặp gỡ và theo Chúa Kitô trong việc tìm kiếm Nước Chúa trước
tiên là một sự thay đổi tính chất cuộc sống của chúng ta, nó không đơn giản chỉ
là tăng thêm cái gì đó vào đời sống; song đúng hơn là một tính chất mới mẻ nảy
sinh trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết là chúng ta đón nhận nguyên
cuộc sống mới, một quà tặng từ Quyền Năng của tương lai đó chính là Thiên Chúa
Cha của chúng ta. Mỗi giây phút ta sống không chỉ là cái gì nối tiếp từ quá khứ
song là một sự tạo dựng mới. Mỗi hơi ta thở không chỉ là hoạt động sinh lý tự
nhiên nhưng là hành động đón nhận từng món quà từ chính sự sống. Món quà của sự
sống mới này, chúng ta có được từ cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Kitô,
vĩnh viễn bất tận ngay cả sự chết cũng không làm gì được.
Đó chính là sự thành quả hy vọng, công chính được thoả mãn, tình
yêu được tràn đầy, chân lý sẽ toàn thắng.
12. Từ
bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan)
Không còn gì nghi ngờ nữa. Hôm nay Mùa Chay đã 'nói trúng tim
đen của chúng ta' rồi đấy, và làm rung động tận chốn thâm cung tâm hồn chúng
ta. Mùa Chay kêu gọi chúng ta từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên
Chúa. Chay tịnh, cầu nguyện, bố thí xưa nay là những việc làm chính yếu của Mùa
Chay. Đó là những khí cụ chúng ta được khuyên dùng để dễ dàng tiến lại gần bên
Thiên Chúa hơn, trong khi vẫn phải hành trình tiếp tục suốt đời. Đối với một số
người, thì Mùa Chay đồng nghĩa với bỏ rượu, bỏ thuốc lá, trong khi những người
khác lại thấy Mùa Chay là thời gian đi nhà thờ hằng ngày... Cho dù chúng ta
thực hiện kiểu chay tịnh cách nào, thì động cơ thúc đẩy chúng ta mới là quan
trọng. Nếu chúng ta ăn chay hay ăn kiêng chỉ vì muốn có thân hình thon thả, hay
chúng ta làm phúc bố thí chỉ vì muốn được nể vì trong cộng đồng, thì những nỗ
lực của chúng ta cũng hơi uổng công vì chúng ta đã nhận được phần thưởng rồi và
vẫn chưa đến gần Chúa hơn là bao.
Khi khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Chúa Giêsu đã đi vào hoang địa
suốt 40 ngày đêm - cũng vì thế mà ngày nay chúng ta tổ chức hẳn một Mùa Chay
Thánh. Giáo Hội muốn mọi người hãy sống lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu là thiết
lập mối tương quan sâu đậm và tình nghĩa thân thiết hơn giữa Thiên Chúa với
chúng ta. Hành trình của chúng ta là một hành trình vào sa mạc nội tâm nơi đó
mình ta đối diện với Thiên Chúa trong tinh thần chân thực. Hoang mạc tâm hồn sẽ
giúp chúng ta nhìn lại bản thân xem chúng ta thực sự là ai, chúng ta làm gì với
những nén bạc Chúa trao, đồng thời sẽ giúp chúng ta ý thức hơn về tình trạng
tội lỗi của chính mình. Nhờ đó dần dần chúng ta sẽ đau lòng mà nhận ra mình cần
thay đổi và canh tân cách tranh đấu với sự dữ bằng cách cầu nguyện chay tỉnh và
đền tội. Việc chúng ta đền bù tội lỗi sẽ giúp chúng ta nhận thức được rằng
những mặt thiêng liêng của cuộc sống còn quan trọng hơn những khía cạnh vật
chất của nó. Một khi chúng ta ý thức được những lỗi lầm của bản thân, chúng ta
mới nhận ra nhu cầu cần thay đổi điều này điều khác.
Nếu chẳng may chúng ta nằm trong số những người chuyên chụp mũ
cái xấu lên đầu mọi người. Thì nay đi vào hoang mạc chính là cơ hội để chúng ta
nhìn kỹ lại cố tật ngồi lê đôi mách, nói hành nói tỏi, đổ vạ cáo gian của chúng
ta. Chỉ cần hứa từ nay sẽ giữ mồm kín miệng là đã có một phương thuốc hữu ích
rồi.
Chúng ta có thể dốc lòng làm vui lòng những người mà chúng ta
thường hay xung khắc hay ít ra là chúng ta không có cảm tình. Bỏ rượu chè cờ
bạc có làm cho chúng ta mất mát gì đâu nếu như những thứ đó chỉ tổ là những
nguyên nhân gây xào xáo làm cho gia đình mất hạnh phúc...? Cầu nguyện hằng ngày
rất quan trọng cho tất cả chúng ta vì đó là mối giây liên lạc sinh tử giữa
chúng ta với Thiên Chúa. Ngay như mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Kitô cũng
không thể thành tựu nếu không thực hành cầu nguyện. Chúng ta phải dành ưu tiên
số một cho việc cầu nguyện, một phương thế cũng cố đức tin đức cậy và đức mến,
nghĩa là cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tăng cường niềm tin tưởng cậy trông và đem
chúng ta đến gần gũi Thiên Chúa hơn.
Mùa Chay là thời gian dành cho chúng ta tìm đến tâm linh, kêu
mời chúng ta nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong mọi phương diện của cuộc
sống và từng bước thực hành đương đầu với những xấu xa của tội lỗi và ích kỷ
bên trong chúng ta.
Mùa Chay là mùa kêu gọi chúng ta thay đổi hành vi thái cử vì
những thói hư tật xấu cố hữu trong chúng ta lâu nay làm thui chột sức tăng
trưởng của chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là thời gian chúng ta cần
trân trọng đón nhận ân sủng, nếu chúng ta có ý muốn Mùa Chay trở nên một kinh
nghiệm thanh luyện đời sống thiêng liêng. Cần nói "không " với bản
thân và nói "có " với Thiên Chúa là tất cả những gì phải làm trong
cuộc phấn đấu nơi hoang mạc Mùa Chay này.
13. Tin là chấp
nhận đường thập giá – Noel Quesson
“Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng”
Vào đầu thế kỷ 20, một văn sĩ người Anh đã kể lại trong cuốn
tiểu thuyết “Bầu trời và Thập giá” của ông, truyện một người thù ghét thập giá.
Thấy thập giá ở đâu là anh ta tìm cách phá huỷ. Gặp một bức vẽ có hình thập giá
là anh xé bỏ. Vợ anh mang một thập giá nhỏ bằng vàng, anh cũng lừa giật được và
ném đi. Anh bảo: “Thập giá là biểu tượng sự độc ác dã man đối nghịch với niềm
vui và cuộc sống".
Lòng căm ghét thập giá ăn sâu và tâm tư anh, đến mức thấy bóng
thập giá là anh như điên dại. Không chịu nổi, có lần anh leo lên tận tháp
chuông nhà thờ để phá huỷ cây thập giá trên đó. Lần khác, anh đập tan cái ban
công nhà vì ở đó anh thấy nhiều chỗ có hình thập giá… Anh nhìn đâu cũng thấy
thập giá. cuối cùng anh nổi giận đốt luôn căn nhà của mình và bị chết cháy.
Câu chuyện cốt đi tới một kết luận: Kể từ cái chết của Chúa
Giêsu, thập giá đã nên biểu tượng của chiến thắng, đó là chiến thắng của tình
yêu. Dẹp bỏ thập giá là chối bỏ tình yêu, nâng cao hận thù và đưa thế giới tới
chết chóc, diệt vong.
Thập giá là biểu tượng niềm tin Kitô hữu và cũng là một thử
thách lớn lao cho niềm tin mỗi người. ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá, con
người không nhìn ra tình yêu cao cả của Thiên Chúa mà chỉ thấy vô lý khó chịu:
“Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá đi” (Mt 27, 40). Thử
thách này còn theo dõi mỗi người chúng ta, còn tác động trên cả Giáo hội. Người
ta vẫn tiềm tàng ý định đưa Chúa xuống khỏi thập giá, muốn Thiên Chúa biểu lộ
quyền năng thống trị, chứ không dấu ẩn, vì “Nhập thể” là hình thức “Yếu đuối”
(1 Cr, 1, 25). Một Thiên Chúa quyền uy là thông thường, là hợp lý, thích hợp
với mọi tôn giáo…. Nhưng không phải Thiên Chúa chịu đóng đinh. Thật khác xa với
chủ trương của Thánh Phaolô Tông đồ: “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp
tìm sự khôn ngoan, còn chúng ta rao giảng Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh, đó là
gương xấu cho người Do Thái và là điên rồ trước mặt dân ngoại “ (1 Cr. 1,
22-23)
Chúa cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, nói thế cũng có nghĩa là
Chúa cứu chuộc bằng tình yêu. Và Chúa đòi hỏi chúng ta đi vào con đường Thập
giá như Chúa, nghĩa là sẵn sàng hy sinh, chịu đau khổ để biểu lộ tình yêu đối
với Chúa và đối với anh em (Mt 16, 24-25).
Đó là con đường tốt nhất và duy nhất. đôi lúc ta ngại đón nhận
thập giá, thì đó là thử thách lớn cho niềm tin Kitô hũư của ta “Lạy Chúa, xin
đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
14. Nơi
hoang địa - ĐGM. Arthur Tonne
Richar Miller là một học sinh cấp ba vào thập niên đầu của thế
kỷ 20. Chàng là một thanh niên hay chống đối, coi thường quyền bính. Chàng yêu
say đắm một cô gái lối xóm tên là Muriel Mc. Comber. Cha nàng sợ lối sống lập
dị của Richar nên cố gắng dập tắt mối tình lãng mạn ấy.
Thất vọng, Richar lui tới một quán rượu, chàng gặp một phụ nữ
tên Belle. Theo ngôn ngữ thời ấy người ta gọi là “Flirt” (gái giang hồ). Một
người đàn bà đùa dỡn với tình yêu không đứng đắn. Richar uống rượu và đánh lộn
với một thương gia và bị tống cổ ra khỏi quán rượu. Cha của Richar hiểu và thông
cảm với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại quân bình. Nhờ một tin mật,
Richar được biết Muriel thực sự yêu chàng. Chàng quyết định hối cải và đợi
nàng.
Đó là cốt truyện một vở hài kịch Eugne - O’neil viết vào năm
1933 tựa đề “Ah Wilderness “ (Nơi hoang tàn) vở kịch được trình diễn rộng rãi
vì nó phát hoạ một hoàn cảnh chung, rất nhân bản trong đời sống hàng ngày, nó
vẽ nên phần nào cảnh hoang dại mà chúng ta đang sống.
Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng Đức Giêsu đã ở trong
sa mạc, nơi hoang dã 40 ngày đêm. Đó là lý do cho 40 ngày mùa chay. Sa mạc là
nơi trú ẩn của thần dữ. Thú dữ, tượng trưng cho sự dữ mà Đức Kitô đã đến chế
ngự. Tại sao chúng ta đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay. Có
gì liên hệ giữa nơi hoang dã Chúa Giêsu đã sống trong Mùa chay đầu, với bạn và
tôi trong Mùa chay này. Đơn giản thôi, chúng ta đang sống trong một nơi “hoang
dã” một thế giới ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì hung
dữ hoặc xấu xa hơn sự tàn bạo của con người thời đại - sát nhân không gớm tay
cướp giật, đốt nhà, ngược đãi trẻ em. Có con thú dữ nào giết hại hàng triệu
người mỗi năm? việc phá thai làm đúng như thế đó. Thú dữ hình người trong hoang
địa của chúng ta đang phá huỷ không những sự sống thể xác, mà còn đặc biệt sự
sống tinh thần của những người gần chúng ta và thân yêu của chúng ta nữa; Xin
kể một vài con thú xấu xa đó: người quảng cáo ma tuý, người xuất bản sách báo
đồi truỵ, những tác giả chuyện phim và chương trình truyền hình.
Không có cách nào để kiềm chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm
hồn này sao? Dạ có, phương cách của Đức Giêsu có nhiều sự dữ Chúa Kitô đến cứu
chữa. Lý do chính Chúa vào nơi hoang địa là để chiến thắng những sự dữ này bằng
đền tội và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng
sự dữ trong thế giới ngày nay. Chỉ bằng lời cầu nguyện xin Chúa giúp, bằng sự
hy sinh để tỏ lòng mến Chúa. Chúng ta có thế kiềm chế, thuần hoá những thú dữ ở
giữa chúng ta. Chúng ta cũng có thể kiềm chế những thú tính trong tâm hồn mỗi
người chúng ta. Thời gian bắt đầu việc này là mùa chay. Trong tinh thần chúng
ta hãy cùng sống với Đức Giêsu trong “hoang địa” ngày nay. Với Người, chúng ta
thống hối và cầu nguyện. Như thế, cũng như người đã chiến thắng sự dữ trong
thời của Người, chúng ta cũng sẽ chiến thắng sự dữ trong hoang địa hiện đại của
chúng ta. Xin Chúa chúc lành bạn.
15. Chiến
thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ - Lm Trần Ngà)
Người Eskimo nghĩ ra một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy da
chúng làm y phục.
Người ta dùng một con dao cực bén và nhúng lưỡi dao ấy vào máu
súc vật, rồi đem dang ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại chung quanh. Họ
lặp lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao được bọc quanh bằng khối máu
lớn như quả xoài.
Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con dao bọc máu đó ra cắm giữa
đồng hoang. Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói sẽ phát hiện rất nhanh mùi máu
tươi và sẽ chạy đến liếm tới tấp vào cục máu đông đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra
cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi bị cứa đứt nhiều đường, máu từ lưỡi ứa ra và
chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng máu của mình mà không hay
biết. Càng liếm hăng, lưỡi càng bị cứa sâu hơn và nhiều hơn khiến máu chảy
thành dòng kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.
Cám dỗ trong đời người
Có thể nói: con người là con vật phải đương đầu với nhiều cơn
cám dỗ nhất. Cám dỗ của miếng ăn, cám dỗ của thức uống (rượu, bia), của thuốc
lá, ma tuý, cần sa, cám dỗ của thú vui nhục dục, của tiền bạc, của địa vị, công
danh và vô vàn hình thức cám dỗ khác.
Người ta bị thu hút, bị lôi cuốn vào các cơn cám dỗ như con sói
tham lam lao vào liếm cục máu bọc lưỡi dao, như những con thiêu thân lao vào
lửa và hậu quả là con người trở nên mềm yếu, bạc nhược, bị lôi cuốn vào dòng
thác dục vọng như cánh bèo nhỏ bé bị cuốn phăng phăng giữa dòng nước lũ hung
tàn.
Không rõ con sói một khi biết có lưỡi dao bén ẩn dấu trong cục
máu đông có còn dám tiếp tục liếm cục máu đó nữa không, nhưng đối với nhiều
người thì dù biết chắc chắn rằng đằng sau những lạc thú có ẩn dấu lưỡi dao thần
chết thì họ vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ những thứ đó đến cùng rồi mượn lời thơ
Xuân Diệu để tự biện minh rằng: "thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn
hơn buồn le lói suốt trăm năm" (Xuân Diệu)
Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như chúng ta.
"Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa... nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. (Philip 2,
6-7)
Vì trở nên người phàm như chúng ta, "Chúa Giêsu đã từng
chịu thử thách về mọi phương diện như chúng ta' (Do-thái 4,15).
Qua đoạn Tin Mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thánh
sử Mác-cô cho biết Chúa Giêsu đã vào hoang địa bốn mươi ngày và Người đã thực
sự bị Xa-tan cám dỗ. (Mác-cô 1, 12-13)
Điều đặc biệt là dù phải bị cám dỗ trăm bề về mọi phương diện
như chúng ta, Chúa Giêsu không bao giờ thua cuộc, không bao giờ sa chước cám
dỗ. Người đã chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ và luôn trung thành đi
theo đường lối của Thiên Chúa Cha cho đến cùng.
Cùng chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa Giêsu.
Trâu bò tuy to khoẻ nhưng dễ dàng bị chế ngự bởi một đứa bé cỏn
con khi người ta xỏ mũi được chúng. Con người dù có hùng mạnh đến đâu, nhưng
một khi bị "xỏ mũi" bởi các đam mê tội lỗi, thì cũng phải ngoan ngoãn
lội xuống bùn, sa xuống vực vì sức kéo của những đam mê và dục vọng xấu xa đen
tối.
Mỗi người có một tử huyệt, một chỗ hiểm riêng. Nơi người nầy là
lỗ miệng tham ăn tham uống, nơi người khác là bệnh háo sắc hay thói tham danh
hám lợi, nơi người khác nữa có thể là lòng ích kỷ, hận thù, ghen ghét, kiêu
căng...
Người đi câu luôn biết lựa mồi hợp sở thích của cá; cũng vậy ma
quỷ có thừa khôn ngoan để chọn những mồi bả phù hợp "khẩu vị" của
từng người và nhắm tấn công vào đúng tử huyệt của chúng ta.
Trong mùa chay, Chúa Giêsu và Giáo Hội kêu mời chúng ta đi vào
cõi thinh lặng của tâm hồn để nhìn lại lòng mình, rà soát tâm tư mình, xét xem
những đam mê nào, những xu hướng tội lỗi nào đang chi phối đời ta mạnh nhất (đó
là những tử huyệt cần canh phòng che chắn). Chính những đam mê và xu hướng đó
là động cơ xô đẩy con sói tham ăn lao vào chỗ chết; và cũng chính những động cơ
đó đã huỷ hoại cuộc đời ta, làm mất thanh danh phẩm giá cũng như giá trị cao
đẹp của đời ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu cùng chiến đấu với chúng con trong mặt
trận nguy khó nầy và ban ơn giúp sức để chúng con không bao giờ lùi bước trước
bất kỳ cơn cám dỗ nào, nhưng kiên cường chiến đấu để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi
và những đam mê xấu xa đồng thời lập được nhiều chiến công vẻ vang như Chúa.
16. Cám dỗ
Để bắt đầu phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại trường hợp vượt
ngục rất đặc biệt của một tù nhân. Đúng thế, ông ta bị nhốt trong một ngọn tháp
thật cao và trong phòng thì lại không có một phương tiện nào để có thể leo
xuống. Vậy ông ta đã làm gì?
Để vượt ngục, mỗi ngày ông ta chỉ nhổ có hai sợi tóc và xe lại
với nhau. Sau một thời gian, ông ta đã làm được một sợi dây bằng tóc khá dài.
Ông ta thả sợi dây tóc ấy xuống qua cửa sổ nhà tù. Ở dưới, một người bạn thân
đã chờ sẵn. Người bạn này đã buộc một sợi chỉ dài vào đầu sợi dây tóc. Rồi cuối
sợi chỉ, người ấy lại buộc thêm một sợi dây vải dài. Cuối sợi dây vải, người ấy
buộc một dây thừng nhỏ và cuối sợi dây thừng nhỏ, người bạn ấy buộc một dây
thừng to. Sau đó, tù nhân ở trên ngọn tháp cao bắt đầu kéo lên. Hết sợi dây
tóc, thì nắm lấy sợi dây chỉ. Hết sợi dây chỉ thì nắm lấy sợi dây vải. Hết sợi
dây vải, thì nắm lấy dây thừng nhỏ. Hết dây thừng nhỏ thì nắm lấy dây thừng lớn
và ông ta đã dùng dây thừng lớn này để mà vượt ngục cách an toàn trong một đêm
trời tối.
Kể lại câu chuyện này, tôi thấy đó cũng chính là đường lối ma
quỉ vốn thường dùng để cám dỗ chúng ta. Thực vậy, rất ít khi ma quỉ cám đỗ
chúng ta phạm tội trọng ngay từ lúc đầu. Nếu làm thế, ma quỉ sẽ khiến cho chúng
ta sợ hãi. Nó cứ từ từ mà tiến. Lúc đầu nó chỉ cám dỗ chúng ta phạm một lỗi
nhỏ, rồi sau đó một lỗi lớn hơn và cuối cùng nó mới dẫn chúng ta đến tội trọng.
Chẳng hạn một anh chàng ghiền sì ke. Đâu có phải chỉ trong một
sớm một chều mà đã ghiền như dân chuyên nghiệp. Lúc đầu nó cám dỗ anh ta lân la
với những người bạn xấu, rủ rê anh làm thử một điếu cho biết mùi đời. Sau một
điếu, rồi hai điếu, rồi ba điếu, để cuối cùng trở thành dân ghiền lúc nào cũng
không hay biết. Chợt tỉnh và hối tiếc thì cũng đã quá muộn: Trót vì tay đã
nhúng chàm, dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
Ma quỉ cũng cứ từ từ mà tiến. Nó không bao giờ cám dỗ chúng ta
làm hai điều xấu cùng một lúc. Trai lại, sau khi cám dỗ chúng ta làm điều này,
nó vẫn còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta lài điều kia. Từ cám dỗ này, nó đưa
chúng ta đến cám dỗ khác và những cám dỗ khác nữa. Cứ thế tiếp tục cho đến khi
chúng ta phạm tội trọng.
Chẳng hạn nó cám dỗ một người rơi vào vòng cờ bạc. Sau khi đã mê
cờ bạc, thì về nhà sẽ đánh vợ chửi con, làm cho gia đình bị tan nát. Và nếu gia
đình nghèo, không có tiền để tiếp tục cuộc chơi, thì sẽ sinh ra gian tham và
trộm cắp.
Suy nghĩ về trường hợp của Chúa Giêsu, chúng ta thấy ma quỉ cũng
áp dụng một chiến thuật như thế. Nó không cám dỗ Ngài quì xuống thờ lạy Satan
ngay lúc đầu. Trái lại, cám dỗ thứ nhất nó bảo Ngài làm phép lạ khiến những hòn
đá trở nên bánh, để khơi dậy những ước muốn về của cải vật chất. Cám đỗ thứ hai
nó bảo Ngài gieo mình xuống khỏi nóc đền thờ, để khơi dậy những ước muốn về
quyền hành. Và sau cùng nó mới bảo Ngài quì xuống thờ lạy nó, để khơi dậy sự
chối bỏ Thiên Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, nó không cám dỗ chúng ta ăn cắp một
món tiền lờn, khi chưa đưa chúng ta vào thói quen ăn cắp lặt vặt, như tục ngữ
đã bảo: Bé không vin, cả gẫy ngành. Bé ăn cắp một trái trứng, thì lớn lên sẽ ăn
cắp một con bò.
Bởi đó, đừng khinh thường những sai lỗi nhỏ mọn. Rất có thể vì những
sai lỗi nhỏ mọn hôm nay mà ngay mai chúng ta sẽ quay phản bội cùng Chúa.
17. Hoang địa
Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa, Ngài ở đó suốt 40
đêm ngày và chịu Satan cám dỗ. Hoang địa hay sa mạc là một chủ đề quen thuộc
trong Kinh Thánh. Vậy thì nó có ý nghĩa gì?
Trước hết, hoang địa hay sa mạc là nơi thử thách.
Thực vậy, đọc lại Cựu ước, chúng ta thấy dân Do Thái, trên đường trở về miền
đất hứa, đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm. Trong thời gian
này, trước những gian nan thử thách, họ đã bị cám dỗ rời bỏ Chúa để chạy theo
những thần tượng ngoại lai. Và rất nhiều lần họ đã bị khuất phục, đã chịu thua
để rồi quỳ gối thờ lạy con bò vàng, như chúng ta đã thấy.
Còn Chúa Giêsu thì khác, chính tại hoang địa, ngài đã bị Satan
cám dỗ, nhưng cả ba lần Ngài đều chiến thắng. Sự chiến thắng của Ngài là một
bài học, là một mẫu gương cho chúng ta suy nghĩ và bắt chước. Hãy khiêm nhường,
hãy tin tưởng vào quyền năng Chúa và hãy sám hối ăn năn để chúng ta cũng sẽ
vượt qua được những cám dỗ mà chúng ta gặp phải.
Charles de Foucauld đã tâm sự với cha Huvelin như sau: Từ ngày
lên 15 tuổi, tôi đã mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người từ sa mạc trở về và
nói: Anh hãy quỳ gối xuống và xưng thú tội lỗi đã. Charles de Foucauld đã vâng
lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, cuộc đời của vị sĩ quan bê tha tội
lỗi này đã hoàn toàn đổi mới. Khi tôi vừa hiểu rằng
có một Thiên Chúa, thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ
sống vì Ngài. Không phải chỉ là nơi thử thách, hoang địa hay sa mạc còn
là nơi để chúng ta sống thân tình với Chúa.
Thực vậy, suốt bốn mươi năm trong sa mạc, dân Do Thái đã được
Thiên Chúa thương, thực hiện biết bao nhiêu việc kỳ diệu, chẳng hạn hướng dẫn
họ bằng áng mây cột lửa, đưa họ qua biển đỏ, trao ban cho họ mười điều răn làm
giao ước, nuôi sống họ bằng manna bởi trời, chữa họ khỏi hiểm họa rắn độc… Thế
nhưng, dân Do Thái rất nhiều lần đã không hiểu được tình thương tuyệt vời ấy,
để rồi đã quay lưng chống lại Chúa.
Còn Chúa Giêsu hôm nay, Ngài vào hoang địa để sống gắn bó mật
thiết với Chúa Cha trong tâm tình cầu nguyện và chay tịnh. Còn chúng ta thì
sao, Thiên Chúa thường nói với chúng ta trong thinh lặng và chỉ trong thinh
lặng, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Đồng thời chỉ trong thinh
lặng, chúng ta mới tâm sự kết hiệp với Ngài. Bởi đó, giữa dòng đời huyên náo,
chúng ta hãy biết dành lấy những khoảnh khắc thinh lặng để vào sa mạc, để vào
hoang địa, bằng cách sống tâm tình cầu nguyện để kín múc được nguồn sinh lực,
nhờ đó chúng ta sẽ vượt qua được những cám dỗ và thử thách của cuộc đời.
18. Cuộc
chiến
Sau khi Chúa Giêsu được Chúa Cha công bố là “Con yêu quý” thì
“Thần Khí dẫn Người vào trong hoang địa. Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan
cám dỗ, sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người”.
Thật là một đoạn văn lạ lùng! Tại sao đoạn này được đọc cho
chúng ta nghe trong Chúa Nhật đầu Mùa Chay? Phải chăng vì nó nói đến thời gian
bốn mươi ngày của Chúa Giêsu? Có lẽ đó là một lý do nhưng còn có những ý nghĩa
khác nữa.
Trong chương hai của sách Sáng Thế, trình thuật sáng tạo bắt đầu
trong nơi hoang vắng và Ađam kiểm soát các loài thú vật. Hoang địa là nơi dân
Israel đã bị thử thách và bị cám dỗ sau khi thoát khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập và
được tự do. Hoang địa cũng là nơi các loài thú dữ đe dọa những người lữ khách.
Nó cũng được xem là nơi các quyền lực của thần dữ thống trị được biểu tượng qua
các loài thú dữ. Hoang địa là nơi Satan, kẻ thù của Thiên Chúa, ngự trị.
Với cái nhìn như thế đoạn Tin Mừng lạ lùng hôm nay trở nên đầy ý
nghĩa. Thần khí đưa Chúa Giêsu vào hoang địa: Chúa Giêsu đến không phải để sống
một cuộc đời dễ dãi nhưng là một cuộc sống chiến đấu với tất cả những gì là sự
dữ. Chính nơi mà dân Israel đã chịu thất bại thảm thương trong cuộc thử thách
thì Chúa Giêsu sẽ chiến thắng. Cũng giống như Ađam trong vườn địa đàng xưa,
Chúa Giêsu là Ađam mới cũng kiểm soát các thú dữ, tức là kiểm soát được sự dữ.
Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa chiến đấu với sự dữ, chiến thắng sự dữ và sáng tạo
một cái mới.
Chúng ta cần rút ra bài học áp dụng khi đọc bài Tin Mừng này
trong Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Cũng giống như Chúa Giêsu, sau khi chịu bí
tích Rửa tội chúng ta vào trong “hoang địa’ của thế gian này, nơi chúng ta phải
đương đầu với cám dỗ và sự dữ. Vấn đề là chúng ta đương đầu với hoang địa của
chúng ta như thế nào? Chúng ta có vượt qua thử thách như Chúa Giêsu hay chịu
thất bại như dân Israel ngày xưa? Chúng ta có đủ sức mạnh để loại bỏ mọi cám dỗ
của Satan, kẻ muốn chúng ta chống lại Thiên Chúa, và trung thành với bổn phận
mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta hay không? Chúng ta chế ngự và kiểm soát
các thú dữ, tức là các đam mê, các dục vọng và thói quen xấu của chúng ta như
thế nào?
Trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi này tôi có thể xác định được căn
tính của tôi chưa? Tôi có hành động giống như ma quỷ, kẻ chống lại kế hoạch của
Thiên Chúa, bởi vì tôi nghĩ là tôi biết rõ hơn không? Hay tôi giống như một con
thú dữ, không nhận biết Thiên Chúa và cứ đi theo con đường bạo lực của mình?
Hoặc tôi giống như các thiên thần, những vị trợ giúp Chúa Giêsu, để trung thành
phụng sự Thiên Chúa và nhận ra vai trò của Chúa Giêsu trong kế hoạch của Thiên
Chúa? Mặt khác, đoạn Tin Mừng này còn nhắc nhở cho chúng ta nhiều điều khác nữa
đó là Satan luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta, nó chống lại Thiên Chúa
và lôi kéo chúng ta theo nó. Các thú dữ, tức là những đam mê của chúng ta cũng
làm cho chúng ta không lưu tâm gì đến Thiên Chúa nữa. Mặt khác, chúng ta cũng
có các thiên thần luôn trợ giúp chúng ta trong việc phụng sự Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ đến nhiều vấn đề,
đặc biệt là trong Mùa Chay này. Chúng ta hãy sống như Chúa Giêsu, can đảm, mạnh
mẽ để sẵn sàng dâng hiến bản thân cho việc phụng sự Thiên Chúa và tha nhân.
19. Dã thú
Một ngày nọ, lạc đà con nói chuyện với lạc đà mẹ như sau, “Mom!
Tại sao bàn chân của mẹ con mình lại có 3 ngón chân to tổ chảng vậy?” Lạc đà mẹ
trả lời, “Để chúng mình băng qua sa mạc cát mềm mà không bị lún chứ làm sao!”
“Và tại sao chúng mình có bộ lông mi dài lượt thượt và nặng nề quá vậy?” “Để
cát khỏi rơi vào mắt trên những hành trình dài trong sa mạc đó con!” “Và Mom,
tại saochúng mình lại phải mang những cái bướu quá bự trên lưng vậy?” Bây giờ
thì lạc đà mẹ không còn kiên nhẫn nổi để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của thằng
con nữa, nhưng cũng cố trả lời, “Chúng nó giúp chúng mình dự trữ những chất béo
cho những cuộc du hành dài, nhờ đó mà mẹ con mình không cần nước trong một thời
gian rất lâu ở sa mạc!” “Đúng vậy, con biết rồi!” lạc đà con nói, “Chúng mình
có ngón chân bự để không bị lún dưới cát, lông mi dài để tránh cát bụi khỏi rơi
vào mắt, và những cái bướu trên lưng để chứa nước. Vậy thì, Mom! Tại sao chúng
ta lại ở đây, trong cái sở thú của Toronto này?
Đời sống văn minh hiện đại làm cho chúng ta có cảm giác giống
như con lạc đà trong sở thú. Chúa ban cho ta khối óc để suy nghĩ, nhưng bây giờ
đã có máy computer nghĩ hộ chúng ta rồi! Chúa ban cho ta con tim để yêu thương
tha nhân, nhưng đã có những cơ quan từ thiện làm việc bác ái rồi! Đôi khi chúng
ta cần đi vào trong “sa mạc” để khám phá lại chúng ta thực sự là ai? Mùa chay
mời gọi chúng ta đi vào trong cái cảm nghiệm của loại “sa mạc” này.
Sa mạc hay hoang địa là nơi sinh trưởng của dân Thiên Chúa. Dân
Do Thái, là những bộ lạc tản mác tha phương đã trốn thoát khỏi đất Ai cập trở
về miền Đất Hứa như một quốc gia dưới quyền lực của Thiên Chúa. Chính ở trong
sa mạc mà họ đã trở thành dân Thiên Chúa với lời giao ước. Trong dòng lịch sử,
khi nào tình yêu và lòng trung thành của họ đối với Thiên Chúa trở nên lạnh
nhạt, thì các tiên tri đề nghị họ trở về sa mạc để khám phá lại cái căn tính
của mình là ai, giúp họ ý thức về ơn gọi và sứ mệnh của mình, làm thức tỉnh đức
tin và củng cố sự liên hệ đã giao ước giữa họ với Thiên Chúa. Những đại tiên
tri như Elijah và Gioan Tẩy giả là những vị tiên tri của sa mạc: họ sống trong
sa mạc, ăn thức ăn sa mạc, và chấp nhận một lối sống đơn sơ và khắc nghiệt
trong sa mạc. Sa mạc là trường đại học nơi Thiên Chúa dạy dỗ dân Ngài.
Lời Chúa hôm nay trích từ Phúc âm của thánh Máccô. Sau khi Chúa
Giêsu chịu phép rửa, “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa, và Ngài ở đó suốt
40 đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú; và các thiên thần hầu hạ
Ngài”. Phúc âm của Matthêu và Luca diễn tả quỷ dữ cám dỗ và thách thức Chúa
Giêsu dùng quyền lực phục vụ cho nhu cầu riêng tư của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã
khước từ và nói, “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa của ngươi, và phải thờ
phượng một mình Ngài mà thôi”. Còn Phúc âm của Máccô, thay vì diễn tả những chi
tiết của sự cám dỗ, chỉ nói vắn tắt trong câu: “Sống chung với dã thú”. Dã thú
là những con thú nào?
Theo các nhà tu đức thì những con dã thú đó không phải là những
con dã thú ở bên ngoài chúng ta, nhưng ở trong lòng ta. Chúng là những con dã
thú của bẩy mối tội đầu như kiêu ngạo, hà tiện, ghen tuông, giận dữ, dâm ô, mê
ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh.
Những quyền lực này đè nặng trên chúng ta khi chúng ta quyết
định làm bất cứ việc gì. Đời người giống như cuộc sống giữa sa mạc với đầy
những “dã thú”. Chúng ta bị vây hãm xung quanh bởi một bên là những hoàn cảnh
khó khăn, còn một bên là những cám dỗ mời gọi. Chúng ta cần sức mạnh để chống
lại những thù nghịch, những gì đang tạo ra cho chúng ta một cảm giác an bình
giả tạo. Hôm nay chúng ta thử đối diện với “những con dã thú” mà chúng ta
thường xuyên phải chiến đấu trong đời sống tâm linh.
1. Sự ngã lòng.
Nếu ví cuộc đời giống như sa mạc, nơi hoang địa với nhiều dã
thú, khó khăn và chông gai, thì chúng ta cảm thấy phải chiến đấu thường xuyên
và liên tục. Cuộc đời chất đầy những gánh nặng và đòi hỏi. Không bao giờ giải
quyết hết các chuyện rắc rối. Lúc nào cũng có vấn đề. Nhưng chúng ta phải lưu ý
rằng trong khi Chúa Giêsu sống với các dã thú thì Thánh Kinh nói rằng “các
thiên thần hầu hạ Ngài”. Nói cách khác, Chúa Giêsu không cô đơn, một mình. Ngài
đã chiến đấu với dã thú bằng sự hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài có
sức mạnh, tràn đầy sức mạnh. Sức mạnh của Thiên Chúa hướng dẫn: “Thánh Thần
thúc đẩy Ngài vào hoang địa”. Chính Chúa Thánh Thần và các lực lượng thiên thần
cũng sẽ hướng dẫn và gia tăng sức mạnh cho chúng ta chiến đấu kiên trì với
những khó khăn và cám dỗ trong cuộc đời.
Selma Lagerloeff trong huyền thoại “The Flanme”, đã kể câu
chuyện về chàng hiệp sĩ, sau cuộc chiến thành công vào Thánh Địa, anh đã làm
một lời thề hứa. Anh thắp lên một cây nến lấy từ ngọn lửa thánh tại ngôi mộ của
Chúa Giêsu, và mang nó trở về quê quán của anh ở tỉnh Florence, nước Ý Đại Lợi
mà vẫn còn cháy sáng. Quyết định này đã biến đổi anh trở thành một con người
mới. Nó biến đổi anh từ một người lính hiếu chiến thích đánh nhau trở thành một
con người yêu chuộng hòa bình.
Trên đường trở về nhà chàng hiệp sĩ đã bị bọn cướp bóc lột, anh
đã không rút gươm ra chống cự. Anh đã hứa cho chúng bất cứ những gì anh có miễn
là chúng không dập tắt ngọn nến cháy của anh. Bọn cướp đã tước đoạt áo giáp, thanh
gươm, con ngựa yêu quý và tiền bạc của anh. Chúng chỉ để lại cho anh một con
ngựa già. Sau khi đã trải qua tất cả các kinh nghiệm của sự nguy khốn, anh đã
cưỡi con ngựa già về đến Florence. Để bảo vệ ngọn lửa không bị tắt bởi những
cơn gió trong sa mạc, anh đã phải ngồi quay lưng lại với con ngựa, và dùng thân
mình để che chở cho ngọn lửa.
Khi những tên đểu cáng trong thị xã trông thấy anh cưỡi ngựa
ngược như vậy, chúng nghĩ anh là một tên điên khùng, và ra sức đùa nghịch để
dập tắt ngọn lửa. Nhưng anh đã làm tất cả sức mình để có thể giữ ngọn lửa cháy
sáng. Và sau cùng, anh đã mang nó về đến nhà thờ chính tòa, và dùng nó để thắp
lên tất cả những cây nến trên bàn thờ của nhà thờ chính tòa Florence. Khi người
đốt đèn ở nhà thờ hỏi anh đã phải làm gì để giữ ngọn lửa khỏi tắt, anh trả lời,
“Ngọn lửa nhỏ bé này sẽ đòi hỏi tất cả sự chú tâm của anh; nó sẽ không cho phép
anh nghĩ về bất cứ điều gì khác. Và anh sẽ không có thể cảm thấy an toàn một
giây phút nào cả. Anh phải luôn luôn chiến đấu. Bất kể là ngọn lửa có thể đã
bảo vệ anh tránh khỏi biết bao nhiêu nguy hiểm, anh phải luôn tỉnh thức để ngăn
ngừa ngọn lửa không bị đánh cắp mất khỏi anh”.
2. Sợ hãi
Nỗi sợ hãi lớn nhất cho người bộ hành trong sa mạc là mất phương
hướng, không biết đường đi. Cái nhìn của họ trở nên mờ ảo. Họ nhìn ánh nắng
chói chan trước mắt như là những ao hồ mông mênh ngập nước. Ao giác làm cho con
người trở nên nghi ngờ, mất niềm tin, và sau cùng dẫn đến hoang mang sợ hãi.
Chỉ có đức tin và lòng trông cậy phó thác mới chiến thắng được sợ hãi. Tin rằng
Thiên Chúa luôn yêu thương ta và muốn điều tốt đẹp nhất cho ta. Tin vào một
Thiên Chúa luôn ở bên ta, đi với ta cho dù gian nguy. Tin rằng quỷ dữ không có
quyền lực gì trên ta, nó chỉ có quyền vì ta ban cho nó mà thôi. Nó không thể
bắt chúng ta làm điều gì được, ngoài sự cám dỗ cho chính chúng ta phạm tội.
Chúng ta có tự do để từ chối, có sức mạnh để chống trả.
“Đừng sợ!” là sứ điệp nhắc đến trên 300 lần trong Phúc âm. Khi
Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước đến với các môn đệ, các ông hoảng sợ, Ngài
nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” Thiên thần Gabriel đã nói với Đức Maria: “Hỡi
Maria, xin đừng sợ!” Thiên thần cũng đã nói với Giuse: “Đừng sợ đón Maria vợ
ông về”. Vào ngày sống lại, Chúa Giêsu cũng đã hiện ra với các tông đồ và nói:
“Sao anh em lại hoảng sợ… Chính Thầy đây mà!”
3. Sự tiêu cực
Đây chính là thái độ khiến chúng ta không thể thành công khi làm
bất cứ việc gì, hay bất cứ việc gì chúng ta đang làm cũng sẽ đi sai lệch. Gần
đây tôi lắng nghe một cuốn băng cát-sét do một nhà giảng thuyết nổi tiếng tên
là Zig Ziglar. Ziglar nói rằng điều ngăn ngừa chúng ta khỏi niềm hy vọng và sự
tích cực về cuộc đời chính là thái độ của chúng ta. Thái độ tiêu cực có tính
cách truyền nhiễm giống như cơn bệnh nhiễm trùng. Chúng ta càng tiêu cực bao
nhiêu thì tình huống càng trở nên thống khổ và hỗn loạn bấy nhiêu. Thái độ tích
cực lúc khởi sự của một ngày, hay của bất cứ công việc gì sẽ định hình cho tất
cả phần còn lại của trọn cả một ngày hay sự thành công của công việc sẽ kéo dài
về sau.
Frederick Ebright đã chia sẻ kinh nghiệm đối với thái độ tâm lý
của mình như sau: “Khi tôi cảm thấy thật buồn, tôi viết một lá thư cho người
bạn nói với người ấy tất cả những chuyện rắc rối của tôi. Tôi không gửi lá thư
đó đi. Nhưng tôi bắt đầu viết lá thư thứ hai gửi cho cùng một người, trong đó
tôi cẩn thận bỏ đi bất cứ điều nào đã đề cập đến những điều không may, và thay
vào mỗi rủi ro đó một chút tin vui. Vào lúc lá thư này được viết ra, một phép
lạ đã xảy ra: tôi thực sự cảm thấy tốt hơn. Và vì một lá thư vui tươi luôn luôn
phát sinh ra một sự đáp trả phấn khởi, tôi đã hoàn tất một mục đích lưỡng
tiện”.
Mùa chay là thời gian để cảm nghiệm về sa mạc hay hoang địa.
Chúng ta không cần phải có lạc đà đi vào sa mạc, nhưng chúng ta có thể tạo ra
một khoảng không gian hoang địa cho chúng ta ngay giữa những xô bồ ồn ào của
cuộc sống. Hằng ngày chúng ta có thể tìm ra một chỗ, dành ra một chút thời gian
một mình với Thiên Chúa. Nơi yên tĩnh chúng ta sẽ biết mình là ai, biết những
điểm mạnh và điểm yếu, biết “thiên thần” xung quanh cùng “những con dã thú”,
lắng nghe tiếng Chúa gọi và lời cám dỗ của Satan, khám phá lại chúng ta là ai
trước mặt Thiên Chúa.
20. Cám dỗ
Buổi chiều ngày cuối tháng 10 thường được người Mỹ và các nước
có ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, có nghĩa là ngày mừng lễ các thánh. Có lẽ
đã là điều còn rơi rớt lại của những ngày lễ ngoại giáo bắt nguồn từ thời của
những người Santies trước Công Nguyên mà ngày lễ vọng các thánh mang một màu
sắc ảm đạm ma quái. Trong các cửa tiệm, trưng bày những mặt nạ quái dị, những hình
nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần chết, những màng nhện trắng xóa giăng ra
khắp nơi, các đồ chơi của trẻ em cũng được khoác lên những nét ma quái, kinh
dị, trên màn ảnh truyền hình cũng như tại các rạp chiếu bóng, đa số các phim
trình chiếu đều mang nội dung quái đản, kinh dị.
Buổi tối ngày Halloween, thanh niên thiếu nữ thường cải trang
thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau nghe những chuyện ma quái.
Phải chăng mỗi năm, người ta muốn dành một ngày để nhắc nhớ đến sự hiện hữu và
tác quái của thần dữ? Nhưng ngày nay người ta còn ý thức được tội lỗi và sự tác
động của thần dữ, tức là ma quỷ hay không? Thi sĩ Bô-đơ-le của Pháp đã có lần
nói: “Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục được con người rằng chúng không
hề hiện hữu”. Với những khám phá mới trong ngành tâm lý học cũng như bệnh lý
học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám mà Thánh Kinh nói đến đều chỉ là
những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay con người có thể tìm ra nguyên
nhân.
Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự hào là đã loại trừ được
ma quỷ ra khỏi cuộc sống. Rất tiếc con người ngày nay ít được chứng kiến những
vụ quỷ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Tuy nhiên, dù muốn dù không, tất
cả đều không thể từ chối có một sức mạnh luôn tác động trong tâm trí con người,
lôi kéo con người đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi, mãi mãi câu nói của thánh
Phaolô vẫn đúng trong kinh nghiệm của mỗi người: “Điều thiện tôi muốn làm thì
tôi không làm, điều ác tôi không muốn làm thì tôi lại làm”. Có một sức mạnh vô
hình nào đó luôn lôi kéo, xúi giục con người vào tội ác, sức mạnh vô hình đó
chính là Satan, là ma quỷ, và chiến thuật hay phương thế ma quỷ sử dụng để lôi
kéo, xúi giục chúng ta phạm tội là cám dỗ.
Ma quỷ thường cám dỗ chúng ta thế nào? Ma
quỷ rất khôn khéo, quỷ quyệt và kiên nhẫn, vì chúng là các thiên thần sa ngã.
Chúng áp dụng nhiều chiến thuật và nhiều cách thế khác nhau, tùy tuổi tác, tính
tình, tùy hoàn cảnh để xúi giục chúng ta nghe theo chúng mà phạm tội. Rất ít
khi ma quỷ cám dỗ chúng ta phạm tội ngay từ đầu, vì làm thế chúng ta sẽ sợ hãi
không dám phạm, nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ trước, rồi mới dẫn
chúng ta đến chỗ phạm tội trọng. Đàng khác, không bao giờ ma quỷ cám dỗ chúng
ta làm hai điều một trật, để chúng còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta phạm tội
kia, nghĩa là chúng cám dỗ thế nào để từ cơn cám dỗ này đưa đến một cơn cám dỗ
khác, rồi một cơn cám dỗ khác nữa, và cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta sa
ngã và phạm tội.
Về chiến thuật cám dỗ của ma quỷ, người
ta thường kể câu chuyện sau: ma quỷ khôn khéo như một phạm nhân bị giam trên
một cái tháp rất cao, không thể nào trèo xuống được, vậy mà anh ta đã thoát
thân được bằng một cách rất tài tình: mỗi ngày anh nhổ hai sợi tóc và xe lại
với nhau, sau một thời gian anh đã có một sợi dây tóc dài, anh thả xuống qua
cửa sổ, bên dưới, người bạn của anh buộc một sợi dây lụa rất nhẹ vào đầu sợi
dây tóc, cuối sợi dây lụa lại buộc một sợi dây gai, cuối sợi dây gai lại buộc
một sợi dây thừng nhỏ, cuối sợi dây thừng nhỏ là một sợi dây thừng lớn, bằng
sợi dây thừng này, phạm nhân đã tụt xuống đất trốn thoát được. Đó chính là
đường lối cám dỗ mà ma quỷ áp dụng, chúng ta giam các dục vọng của chúng ta,
nhưng ma quỷ giúp các dục vọng đó vượt ngục dần dần. Trong thực tế chúng ta
không thấy rõ thứ tự hay tiến trình tuần tự như thế, nhưng nói chung, tất cả
các cám dỗ phạm tội đều như vậy.
Chúng ta phải xử trí ra sao khi bị cám dỗ? Đành
rằng ma quỷ cám dỗ chúng ta, nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau
xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỷ và xác thịt, đó là ba kẻ thù ghê gớm.
Ma quỷ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng
chúng có gặp được sự đồng tình, đồng ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta
có chấp nhận hay ngả theo những chước cám dỗ hay không, đó là chính ý chí của chúng
ta. Vậy, trước hết, chúng ta phải đề phòng và xa tránh các dịp nguy hiểm, các
cơ hội, các lý do, các hoàn cảnh, những người, những vật… có thể đưa đẩy chúng
ta đến chỗ phạm tội. Rồi, nếu bị cám dỗ, chúng ta phải mau lẹ chống trả ngay từ
đầu, chống trả cách cương quyết, đừng chần chừ, trì hoãn, và nhất là phải cầu
nguyện nhiều để xin Chúa ban ơn trợ giúp. Nếu chẳng may thất bại, nghĩa là sa
chước cám dỗ, phạm tội, chúng ta phải lập tức đứng dậy ngay, nghĩa là hối hận,
ăn năn, xưng tội, xin Chúa tha thứ và cố gắng hơn nữa để khỏi tái phạm.
Chúng ta chẳng ai thoát khỏi cám dỗ, chỉ khác nhau ở chỗ có sa
chước cám dỗ hay không, vì vậy, trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta
phải luôn cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi ác
thần, xin giúp chúng con khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta phải luôn cầu xin Chúa
như thế, nhất là khi gặp chước cám dỗ.
21. Suy niệm
của JKN
Đức Giêsu chịu cám dỗ trước khi công khai rao giảng Tin Mừng
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao trước khi Đức Giêsu bước ra đời để loan báo Tin Mừng,
Thánh Thần lại đẩy Ngài vào hoang địa để Ngài chịu cám dỗ? Việc đó có cần thiết
hay ích lợi cho Ngài hoặc cho ai không? Mục đích của Thánh Thần là gì?
2. Bị cám dỗ là điều tốt hay xấu? Cám dỗ hay thử thách có cần
thiết cho việc nên thánh của ta không? Tại sao? Trước mặt Thiên Chúa, một người
giả như chưa hề phạm tội vì chưa bị cám dỗ bao giờ có thánh thiện hơn người đã
từng phạm tội vì tuy đã chống trả mãnh liệt nhưng lại thất bại không?
3. Không nhờ cám dỗ, không nhờ thử thách, ta có thể xác định sự
thánh thiện hay đạo đức của mình hay của một ai không? Tại sao?
4. Cám dỗ hay thử thách là cần thiết, vậy có nên tự tìm cho mình
những dịp để «được» cám dỗ không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu chịu thử thách trước khi ra đi loan báo Tin Mừng
Cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc sống để chúng ta có thể
chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa. Thật vậy, làm sao ta có thể biết
tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân, tinh thần siêu thoát, lòng đạo
đức của ta cao hay thấp và ở mức độ nào, nếu ta không được thử thách? Tương tự
như nếu không dùng lửa hay a-xít để thử, làm sao ta có thể biết được những đồ
trang sức của ta là vàng thật hay vàng giả, là nguyên chất hay bị pha tạp? và
nếu bị pha tạp thì pha tạp ở mức độ nào? Để biết rõ một người trước khi dùng
người đó, nhất là vào những chức vụ quan trọng, giám đốc nhân sự của các công
ty thường thử tay nghề, thử lương tâm, thử bản lãnh, thử mức độ đáng tín nhiệm
của người đó bằng nhiều phương cách khác nhau. Ông có thể dàn dựng khéo léo
những cơn cám dỗ. Nhờ những thử thách đó, chẳng những viên giám đốc công ty
biết rõ người mình muốn tuyển chọn, mà chính bản thân người được thử thách ấy
cũng biết rõ tài đức của mình hơn. Những người đã qua được thử thách một cách
thành công chắc chắn sẽ cảm thấy tự tin hơn và dễ đạt được thành quả tối ưu
trong công việc của mình. Như vậy, thiết tưởng việc thử thách để biết bản lãnh
về tài và đức của mình hay của người là một việc cần thiết và hết sức dễ hiểu.
Quan niệm như thế, ta thấy việc «Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào
hoang địa» để «chịu Xa-tan cám dỗ» trong «bốn mươi ngày» trước khi Ngài khai
mạc công việc rao giảng Tin Mừng, là một việc dường như tất yếu phải có. Qua
thử thách đó, Đức Giêsu có dịp tỏ ra cho Thiên Chúa và mọi người thấy bản lãnh
của Ngài để có thể đảm trách công việc loan báo Tin Mừng và cứu chuộc nhân
loại.
2. Thử thách và cám dỗ rất cần thiết trong đời sống chúng ta
Trong mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức về tình trạng
yếu kém, tội lỗi, đầy khiếm khuyết trong con người hiện tại hay «con người cũ»
– vốn «bị tội lỗi thống trị» (Rm 6,6) – của chúng ta. Từ đó, ta mới quyết tâm
«cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa» (Ep 4,22; x. Cl 3,9) để «mặc lấy con
người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa hầu thật sự
sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,24).
Nhiều khi chúng ta ý thức và tự xưng rằng mình tội lỗi, dù rất
thật lòng, nhưng ý thức về tình trạng tội lỗi ấy nhiều khi hết sức mơ hồ. Chúng
ta không biết mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào, tội lỗi ở chỗ nào… Chính vì
thế, chúng ta không biết đường nào mà sửa mình, để rồi cuối cùng, chúng ta
chẳng sửa đổi gì cả, nghĩa là «mèo vẫn hoàn mèo». May thay, nhờ có những cám dỗ
xảy đến trong đời sống mà ta biết được mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào.
Cũng có nhiều khi ta tưởng mình đạo đức, thánh thiện, vì ta cảm
thấy mình rất ít khi lỗi luật của Chúa hay của Giáo Hội. Ta có cảm tưởng ta rất
tốt với bạn bè, với những người chung quanh ta, vì ta thấy mình cư xử rất lịch
thiệp với họ, không hề đụng chạm tới quyền lợi họ, hay không hề cư xử bất công
với họ… Ta cũng giống như Phê-rô và các tông đồ xưa, nghĩ mình là người luôn
luôn trung thành với Đức Giêsu bất kỳ trong hoàn cảnh nào: «Dầu có phải chết
với Thầy, con cũng không chối Thầy» (Mt 26,35). Khi nói như thế, các ông rất
thành thật, không một chút dối trá. Nhưng các ông không thể ngờ được phản ứng
của các ông sau này khi Đức Giêsu bị bắt: «Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn
hết» (Mt 26,56), còn Phê-rô, người tỏ ra sẵn sàng sống chết với Thầy mình nhất
thì «gà chưa kịp gáy ông đã chối Thầy tới ba lần» (Mt 26,75).
Nhiều khi thứ đạo đức hay trong sạch của ta tương tự như độ
trong của một ly nước múc từ dưới bùn lên, nhưng đã được để lắng trong nhiều
ngày. Phần trên của ly nước cũng trong vắt không kém gì một ly nước suối. Nhưng
khi quậy lên thì nước trong ly đục ngầu đang khi ly nước suối có quậy đến đâu
cũng vẫn tiếp tục trong vắt. Nếu không quậy lên, người ta có cảm tưởng nước ở
trong cả hai ly tốt như nhau. Nếu không quậy lên, làm sao biết được ly nào là
trong thật sự? Cũng vậy, nếu không có cám dỗ, làm sao biết được ai đạo đức sâu
xa, ai đạo đức chỉ ở bề mặt?
3. Chỉ biết mình đạo đức hay không qua những cám dỗ thử thách
Nguyễn Công Trứ viết: «Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh
hùng hào kiệt có hơn ai». Thật vậy, nếu cuộc đời của mọi người đều an bình,
thuận buồm xuôi gió cả, thì người có bản lãnh sẽ hành xử chẳng khác gì người
không bản lãnh. Nếu các đồ vàng bạc không được thử bằng lửa hay a-xít thì chẳng
sao phân biệt được vàng thật hay vàng giả. Cũng vậy, chính trong cơn hoạn nạn
ta mới biết được ai là bạn tốt, bạn thật của ta: «Friend in need, friend
indeed» (Bạn bè trong cơn hoạn nạn mới là bạn thật). Tương tự, chỉ khi gặp
những biến cố, những hoàn cảnh khó khăn, ta mới biết được ta có đạo đức hay
không. Muốn biết đạo đức của ta ở mức độ nào, ta cần phải tự xét xem phản ứng
của ta thế nào…
– khi quyền lợi của ta bị va chạm một cách bất công: lúc đó ta
nổi sùng lên và chửi rủa loạn xạ? hay ta bình tĩnh xét xem nguyên nhân tại đâu,
suy nghĩ xem có thể giải quyết cách nào cho đẹp nhất, khôn ngoan nhất, bác ái
nhất?
– khi có một quyền lợi nào đó không thể phân chia xảy đến giữa
ta và người bạn của ta: lúc đó ta quyết dành quyền lợi ấy về cho mình? hay biết
nhường cho bạn? Epictète đưa ra hình ảnh hai con chó có vẻ quấn quít và yêu
thương nhau lắm. Nhưng khi có ai quăng cho chúng một cái xương, thì chúng quay
ra cắn nhau sứt đầu chảy máu. Như vậy có thật là chúng yêu thương nhau không?
Làm sao biết được chúng có yêu thương nhau thật sự không nếu không có miếng
xương để thử?
– khi đứng trước một người gặp nguy khốn đang cần cứu giúp,
nhưng nếu cứu giúp thì ta sẽ phải hy sinh rất nhiều: lúc đó ta sẽ cứu giúp
người ấy bất chấp phải hy sinh? hay sẽ nhường việc cứu giúp ấy cho người khác?
– khi đứng trước những bất công trước mắt mà việc lên tiếng của
ta có thể chặn đứng hay giảm bớt phần nào, nhưng nếu lên tiếng thì ta sẽ bị
sách nhiễu, công việc của ta sẽ bị cản trở: lúc đó ta sẽ coi sự đau khổ của
đồng loại quan trọng hơn sự thoải mái cá nhân ta? hay ngược lại?
– khi mà nồi cơm của ta và gia đình ta bị đe dọa nếu ta làm theo
lương tâm, và làm theo lương tâm sẽ cứu được biết bao nồi cơm của những gia
đình khác: lúc đó ta sẽ coi những nồi cơm của vô số gia đình kia quan trọng hơn
nồi cơm của gia đình mình? hay ngược lại?
– khi có hai người giàu và nghèo đến với ta một lúc, người giàu
đem lại nhiều lợi lộc cho ta, còn người nghèo đến để nhờ ta một việc khá khó
khăn: lúc đó ta sẽ đối xử với hai người một cách niềm nở như nhau? hay ta sẽ
đối xử một cách phân biệt hết sức rõ rệt?
– v.v…
Rất nhiều người tưởng mình tốt lành thánh thiện chỉ vì thấy mình
chưa hề phạm một lỗi nào quá đáng, rồi dựa trên sự vô tội của mình họ chê bai
người khác đã phạm lỗi này tội kia. Thật ra họ chỉ là người chưa phạm tội vì
chưa phải ở trong những hoàn cảnh khó khăn, nhiều cám dỗ, chứ không phải họ là
những người khó có thể phạm tội. Rất có thể khi gặp những hoàn cảnh khó khăn,
những cơn thử thách, họ còn phạm tội nặng nề hơn những người đã từng bị họ chê
trách, mặc dù hoàn cảnh khó khăn hay sự thử thách của họ chẳng nặng nề bằng
những người kia. Sự thánh thiện đạo đức phải dựa trên khả năng không phạm tội
khi bị cám dỗ, chứ không chỉ đơn thuần dựa trên tình trạng vô tội trong hiện
tại chỉ vì chưa gặp cám dỗ.
Nhiều người tự hào khoe mình bản lãnh lắm, hoặc được mọi người
coi là đã tiến rất xa trên con đường nhân đức chỉ vì tu hành đã lâu năm, hay vì
được nắm giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo Hội, v.v… Nhưng khi gặp những
thách đố, khi phải đối đầu với những cám dỗ chưa từng gặp, họ mới nhận ra bản lãnh
của mình còn non kém, hay đường nhân đức của mình mới chỉ ở giai đoạn đầu.
Như đã nói trên, cám dỗ và thử thách rất cần thiết cho việc nên
thánh của ta. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta nên tự tìm cho mình những cám
dỗ. Trái lại, sự khôn ngoan đòi buộc ta phải tránh xa các dịp tội, những điều
kiện hay cơ hội khiến ta có thể phạm tội. Câu «dĩ đào vi thượng sách» là một
phương cách rất hay trong việc tu đức hay nên thánh. Và cũng nên nhớ lời khuyên
của Phao-lô: «Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã» (1Cr 10,12).
Nhưng khi những cám dỗ tình cờ xảy đến ngoài ý muốn của ta, ta nên sẵn sàng đón
nhận, và hãy chiến đấu một cách dũng cảm, quảng đại. Rồi dù thắng hay bại, ta
cũng hãy coi chúng như những hồng ân Chúa ban để giúp ta hiểu rõ mình hơn, khiêm
nhường hơn, giúp ta xác định đúng hơn mình đang ở vị trí nào trên con đường nên
thánh.
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi con thầm tự hào về mình, tưởng mình đã đạo
đức hay thánh thiện lắm rồi. Nhưng lắm khi chỉ cần gặp những cơn cám dỗ hơi bất
thường một chút, con đã ngã gục. Con cám ơn Cha đã gửi những cám dỗ ấy đến để
con ý thức về bản lãnh của con một cách chính xác hơn, nhờ đó con khiêm nhường
hơn, và biết cảm thông với những yếu đuối của đồng loại hơn.
22. Yếu
tố con người
Khi mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập dòng nữ thừa sai bác
ái, khởi sự công cuộc phục vụ những người hấp hối tại thành phố Calcutta bên An
độ, thì vấn đề lớn nhất gặp phải đó là tìm cho ra nơi chốn để chăm sóc họ.
Chính quyền địa phương chỉ có thể dành cho công việc xã hội này khu nhà trọ của
khách hành hương tại đền thờ kính thần Kali, mà lúc bấy giờ đang là nơi chứa
chấp bọn trộm cắp và xì ke.
Thế rồi một nguồn tin bất lợi được tung ra:
- Người đàn bà ngoại quốc này có ý đồ lôi kéo những người nghèo
An độ theo Công giáo.
Trước nguồn tin này, một nhóm người đã kéo đến tòa thị chính để
phản đối, còn một nhóm khác thì đến trụ sở cảnh sát để yêu cầu trục xuất người
đàn bà đó.
Viên cảnh sát trưởng hứa sẽ giải quyết vụ này. Đích thân ông tới
xem xét ngôi nhà. Ông thấy mẹ Têrêxa đang chăm sóc một bệnh nhân có những vết
thương, vì lâu ngày không được chạy chữa, nên xông ra mùi hôi thối chịu không
nổi. Thế mà vị nữ tu này vẫn nghiêng mình cặm cụi rửa ráy, lau chùi và băng bó
như cho chính mình vậy.
Trở về trụ sở, ông gặp lại những người biểu tình và nói:
- Tôi hứa sẽ trục xuất người đàn bà ngoại quốc này ra khỏi khu
vực đền thờ kính thần Kali, nhưng trước khi hành động, tôi chỉ xin mỗi người
hãy đem theo mẹ hoặc chị em tới chăm sóc cho những người hấp hối đáng thương
kia, thay thế cho người mà tôi được yêu cầu để trục xuất.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào phần kết của đoạn Tin mừng
hôm nay, qua đó Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta:
- Hãy sám hối và tin vào Phúc Am.
Thế nhưng chúng ta phải sám hối như thế nào?
Nói tới sám hối là chúng ta nghĩ ngay tới việc ăn năn những lầm
lỗi mình đã phạm để rồi quay trở về cùng Chúa.
Tuy nhiên quay trở về cùng Chúa mà thôi chưa đủ, tâm tình sám
hối còn đòi hỏi chúng ta phải quay trở về cùng anh em. Hòa giải với Chúa mà
thôi chưa đủ, chúng ta còn phải hòa giải với người khác, vì tất cả chúng ta đều
là anh em, con cùng một cha, sống trong cùng một gia đình, đó là cộng đồng nhân
loại.
Thực vậy, trong toàn thể các tạo vật thì con người được Thiên
Chúa đặc biệt chú ý đến…Bởi vì con người luôn mang trong tâm hồn mình một khát
vọng sâu thẳm.
Với tư cách là thụ tạo, vì được dựng nên cho Thiên Chúa, nên con
người sẽ luôn thao thức cho tới khi được an nghỉ nơi Ngài. Đằng khác, vì được
dựng nên do cùng một nguồn gốc, con người không thể khước từ đồng loại của mình.
Chính vì thế mà việc sám hối đòi chúng ta vừa hòa giải với Chúa,
lại vừa hòa giải với anh em. Vừa trở về cùng Chúa lại vừa trở về với anh em
đồng loại.
Mẹ Têrêxa thành Calcutta chăm sóc cho những người hấp hối cũng
chỉ làm một công việc bình thường, đó là sống trung thực ơn sám hối toàn diện
nói trên.
Hãy hòa giải cùng Chúa và hòa giải cùng người khác. Hãy trở về
với Chúa và hãy trở về với anh em mình. Đó chính là sứ điệp chúng ta cần phải
làm ngay trong mùa chay này.
23. Chiến
thắng cám dỗ
Năm nào cũng vậy, cứ vào Chúa nhật thứ nhất Mùa chay, Giáo hội
cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến
thắng Satan. Năm A và C, đọc Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, kể lại
sự kiện này khá dài, kể rõ ba chước cám dỗ và ba lần Chúa Giêsu chiến thắng cám
dỗ. Năm nay năm B, đọc Tin Mừng của thánh Marcô, kể lại rất vắn tắt, chỉ cho
biết: “Thần khí thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu
Satan cám dỗ”. Tuy thánh Marcô không trực tiếp cho biết Chúa Giêsu đã chiến
thắng Satan, đã xua đuổi nó, nhưng suốt sách Tin Mừng, thánh Marcô sẽ cho thấy
Chúa Giêsu đi tới đâu thì Satan bị đánh bại đến đấy. Giáo hội cho chúng ta nghe
đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như
kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ
của nó.
Đời người được ví như một đấu trường, ở đó con người phải luôn
chiến đấu: chiến đấu với ngoại cảnh, chiến đấu với nhiều thứ, nhất là chiến đấu
với chính mình. Tại sao vậy? Bởi vì mang thân phận con người, ai ai cũng bị
giằng co, xâu xé bởi hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: một cái kéo con người lên
và một cái lôi con người xuống. Hai khuynh hướng đó đều nội tại trong con
người, khiến cho nội tâm con người trở thành chiến trường, đôi khi rất cam go
làm con người đau khổ.
Khuynh hướng đi lên là khuynh hướng căn bản của ý chí con người.
Ai cũng muốn mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm điều thiện, chứ không ai
muốn mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một chuyện, còn có làm điều tốt
hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không hiểu nổi việc tôi
làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”.
Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình,
phải hao tổn năng lực của mình.
Còn khuynh hướng đi xuống cũng ở trong nội tâm, nhưng kể từ khi
nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỉ tăng cường làm cho mạnh
lên, khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất vả. Còn muốn đi xuống
thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả, không cố gắng nữa là tự
động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác rất nhiều. Và cái lực hấp
dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của ma quỉ.
Đúng vậy, đàng sau bối cảnh chiến trường mà con người phải chiến
đấu, ẩn hiện chập chờn một nhân vật rất nguy hiểm mà Kinh thánh gọi là kẻ thù,
ấy là satan. Satan là quỉ, nó là “xếp xòng” của loài quỉ. Satan hay quỉ trước
kia là các thiên thần, nhưng vì làm loạn cùng Thiên Chúanên bị tống cổ ra khỏi
thiên đàng và bị đày xuống hỏa ngục. Từ ngày thất thế, Satan và bè lũ trở nên
những kẻ thù nguy hại của loài người. Chúng chuyên môn áp đảo, quấy phá để làm
cho người ta hư hỏng theo chúng. Chúng đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người.
Chúng đã du nhập vào trần gian đủ thứ gian tham, lừa lọc, tội ác, bất công và
những lối sống lố bịch, nham nhở, nhăng nhít… Tất nhiên có người sẽ nói: có
thấy Satan hay quỉ nào công khai làm những chuyện đó đâu? Đúng thế, ngày nay
chúng ta ít được chứng kiến những vụ quỉ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại.
Ngày nay rất ít trường hợp Satan hiện nguyên hình trực tiếp tác oai tác quái
nữa, nhưng gián tiếp điều khiển trong bóng tối. Đó là một sức mạnh vô hình luôn
tác động trong tâm trí chúng ta: lôi kéo, xúi bẩy chúng ta đến chỗ hành động xấu
xa, tội lỗi. Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng là cám dỗ. Chúng không
kiêng nể ai hay buông tha ai. Vì thế, không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng.
Theo nghĩa thông thường chúng ta quen hiểu, cám dỗ là dịp phạm
tội. Bị cám dỗ là khi chúng ta thấy mình hướng chiều về một điều ưa thích thuộc
phạm vi cấm đoán. Chẳng hạn: một vẻ quyến rũ từ bên ngoài lôi cuốn, một sự xôn
xao, rạo rực, thèm khát từ bên trong thúc đẩy; một âm mưu hay thủ đoạn bày vẽ
ra trong trí khôn thúc đẩy chúng ta hành động; một sự nhắm mắt làm liều, một
hành động nổi loạn của toàn thân từ chối ép mình trong trật tự… Đó là những
phát hiện của cơn cám dỗ. Như vậy, bị cám dỗ, bất cứ là cám dỗ về phương diện
gì, không phải là tội. Khi chúng ta bị cám dỗ thì chỉ có nghĩa là chúng ta bị
thử thách thôi. Và chỉ khi nào chúng ta bị thua chước cám dỗ thì mới có tội.
Đành rằng ma quỉ cám dỗ chúng ta. Nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy
hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỉ và xác thịt. Đó là ba
kẻ thù ghê gớm. Ma quỉ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta
phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng ý của chúng ta hay không?
Tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám dỗ hay không? Nói khác đi,
ma quỉ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta có nhu cầu, ham thích, đam
mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm chủ được những nhu cầu thể
chất ấy chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được những cám dỗ, và không để cho
khuynh hướng xấu làm chủ mình. Từ ngày có trí khôn cho đến giờ, ai trong chúng
ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có
lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần đã bị vấp ngã. Đó chính là thân
phận của con người yếu hèn và bất toàn. Không bao giờ vấp ngã, đó là chuyện
khác thường, đặc biệt, vô cùng tạ ơn Chúa. Còn hay bị vấp ngã, đó là chuyện
bình thường. Và điều quan trọng là chúng ta phải ăn năn sám hối ngay.
24. Đức
Giêsu chiến thắng satan
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đây là phân đoạn cuối của Lời tựa (1,1-15), kể lại những hoạt
động đầu tiên của Đức Giêsu sau khi chịu phép rửa.
2.- Bố cục
Bản văn này gồm hai đơn vị:
1) Cám dỗ trong sa mạc (1,12-13);
2) “Bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê
(1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c.14a),
b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15).
3.- Vài điểm chú giải
- Thần Khí đẩy Người (12): Động từ Hy Lạp ekballô,
“quăng ra; đuổi; kéo ra”, thuộc thì “hiện tại lịch sử” (historic present), một
thì tiêu biểu của TM Máccô. Trong tác phẩm, động từ này luôn luôn hàm ý sức
mạnh, có khi là một sức mạnh áp đảo (đuổi ma quỷ: 1,34; 3,15.22.23; 6,13; 7,26;
9,18.28.38; 16,9.17. Về người: 1,43; 5,40; 11,15; 12,8). Các Tin Mừng Nhất Lãm
khác dùng những động từ nhẹ nhàng hơn (Mt: anagesthai, “được dẫn”; Lc:
agesthai, “được dẫn”). Ý nghĩa: chính Thánh Thần đã là sức mạnh làm cho Đức
Giêsu đi vào hoang địa.
- bốn mươi ngày (13): Trong Mt và Lc,
giữa những câu trao đổi giữa Đức Giêsu và Satan, trích từ sách Xh và Ds, chúng
ta hiểu đây là một quy chiếu về biến cố Xuất Hành. Còn trong Mc, có thể con số
“40” này là một âm vang của cuộc thử thách 40 ngày mà Môsê (Xh 34,28) và ngôn
sứ Êlia (1 V 19,1-8) đã trải qua.
- hoang địa (sa mạc): Sa mạc có ảnh hưởng
dọc theo lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này đã ghi lại hai kỷ niệm có vẻ mâu
thuẫn nhau, nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn cảnh: (1) Thời gian ở
trong hoang địa trước tiên được trình bày như thời kỳ sống lý tưởng của Dân
được Thiên Chúa tuyển chọn; khi ấy, lý tưởng tôn giáo của họ phát triển phong
phú và họ sống lý tưởng này ở mức hoàn hảo. (2) Nhưng đây cũng là thời thử
thách, thậm chí thời trừng phạt, dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng.
Hoang địa vừa là nơi con người tách mình khỏi trần thế để được thanh luyện (các
nhân vật lớn của dân Chúa đến đây để làm cho các chương trình của mình được
chín muồi, hoặc để tái phục hồi lòng nhiệt thành), vừa là nơi thử thách. Ở đây,
hoang địa là nơi đáng sợ bởi vì có các dã thú cư ngụ. Tác giả không quan tâm
xác định một địa điểm theo địa lý.
- Satan (Hp. Sâtân, “kẻ tố cáo, kẻ chống đối” (HL. satanas;
x. Mc 3,23.26; 4,15; 8,33): Tên này tương tự với diabolos, “ác thần”, “quỷ”, kẻ
điều hành những sức mạnh xấu xa, đối thủ của Thiên Chúa, kẻ thù của loài người.
- cám dỗ (HL. peirazomai, “bị thử thách”, “bị cám
dỗ”): Ở đây động từ này hàm ẩn một ý đồ gian ác. Hành động cám dỗ được mô tả
như là xảy ra suốt thời gian 40 ngày. Mặc dù tác giả Mc không mô tả chi tiết
hơn việc quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là cuộc cám dỗ có một lý do
Kitô học, tức được nhắm vào việc thi hành nhiệm vụ Mêsia. Người đã thắng Satan
như một báo trước; Người sẽ thắng nó vĩnh viễn (x. 2 Tx 2,3-12; Kh 19,19t;
20,2.10).
- sống giữa loài dã thú và có các thiên thần hầu hạ: Hoang
địa Giuđê là nơi cư trú của nhiều loại dã thú; sự kết nối giữa các thiên thần
hầu hạ (diêkonoun: thì vị-hoàn [imperfect] để mô tả một việc phục dịch kéo dài
suốt thời gian ở trong hoang địa) và sự che chở khỏi các thú dữ khiến có thể
coi Tv 91,11-13 là một bối cảnh. Với hoạt cảnh này, tác giả cho hiểu là với Đức
Giêsu, thời cánh chung đã bắt đầu: Đức Giêsu là Ađam mới, có thể đưa ta trở lại
Địa đàng.
- Sau khi ông Gioan bị nộp (14): Gioan Tẩy Giả
lại được giới thiệu là Tiền Hô của Đức Giêsu. Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công
khai sau hoạt động của Gioan. Chi tiết này thuộc về lược đồ lịch sử cứu độ hơn
là lịch sử trần thế: Đức Giêsu không thể bắt đầu được trước khi vị Tiền Hô ra
khỏi sân khấu. Kết thúc tàn bạo Gioan phải chịu cũng gợi ý xa xa về số phận của
Đức Giêsu. Động từ HL paradothênai (thái bị động) khiến ta phải thấy ở đây có
bàn tay của Thiên Chúa làm việc (áp dụng cho Đức Giêsu: 9,31; 10,33; 14,41) .
- Tin Mừng của Thiên Chúa: Công thức với
thuộc-cách này vừa có nghĩa là Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về
Thiên Chúa. Đây là một “Tin Mừng”, nghĩa là tin về một sự kiện có thật, chứ không
phải là một suy diễn, một giả thiết, một lý thuyết, thậm chí một lệnh truyền.
Do có mạo từ xác định, đây chính là Tin Mừng tuyệt hảo, mà người ta không thể
thêm vào một tin nào hay hơn, tốt hơn, mừng hơn.
- Thời kỳ đã mãn: “Thời kỳ” (kairos
[thời gian đã định, lúc] ≠ chronos [khoảng thời gian]) là thời điểm
quyết liệt Thiên Chúa đã định, mọi sự tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7,22; Ed
7,12; 9,1; Ac 4,18; Kh 1,3; 1 Pr 1,1). Trong TM Lc, có những quy chiếu về thời
kỳ này (Lc 12,56; 19,44).
- Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần:
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhận biết như là Chúa Tể và Vua của Israel (x.
Is 43,15; 52,7); và người ta chờ đợi Người tỏ mình ra công khai như là Đức Vua
và Chúa Tể duy nhất và thống trị tất cả mọi sự thật rõ ràng (x. Mk 4,7; Xp 3,15;
Dcr 14,9). Đức Giêsu không nói: “Triều Đại Thiên Chúa mà anh em vẫn chờ đợi
đang hiện diện trong mức viên mãn”; nhưng: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”.
Đó là đặc điểm của thời kỳ hoàn tất này, thời kỳ đầy ân sủng và thời kỳ quyết
liệt, thời kỳ này bây giờ đã bắt đầu. Như thế, trung tâm của sứ điệp của Đức
Giêsu là: “Thiên Chúa là Chúa Tể; vị Chúa Tể này đã gần kề”. Người là vị Chúa
Tể có quyền quyết định và lo lắng cho chúng ta. Đó là Tin Mừng tuyệt hảo. “Đến
gần” có nghĩa là: khi đến lúc đã định, Triều Đại Thiên Chúa đã đến và kể từ nay
bắt đầu tỏ rõ ra: một sự giằng co giữa hiện tại và tương lai. Đây là một sự
kiện hiện tại và một sự kiện của thời cuối cùng.
- Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Lời
này cũng có nghĩa là “Hãy sám hối là tin vào Tin Mừng”, tức bằng cách (diễn tả
qua việc) tin vào Tin Mừng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cám dỗ trong sa mạc (12-13)
Kể từ Giáo Hội sơ khai, các nhà chú giải đã coi bức tranh mô tả
Đức Kitô ở trong hoang địa với dã thú như là một đối trưng của Ađam trong vườn.
Tình trạng thù nghịch giữa loài người và dã thú, một hậu quả của sự sa ngã của
Ađam, không được áp dụng cho Đức Giêsu. Tình trạng Đức Giêsu ở trong hoang địa
sống hài hoà với muôn loài và quan hệ thân tình với Thiên Chúa cho thấy đó là
hoàn cảnh của nhân loại nếu Ađam đã không phạm tội. Một hoang địa biến thành
địa đàng là một hình ảnh ngôn sứ Isaia dùng để mô tả ơn cứu độ (x. Is 11,6-9;
32, 14-20; 65,25).
Không như dân Israel ngày xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở
trong hoang địa. Thông thường, sự cô độc này hẳn là dấu chứng tỏ một người điên
hoặc bị quỷ ám. Tuy nhiên, các thiên thần là dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan hệ với
Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con Thiên Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ
trợ của Thiên Chúa. Tác giả Mc đã nói vắn tắt về Satan khiến các học giả đi đến
nhiều kết luận. Một số vị cho rằng Đức Giêsu bị khép vào tình trạng xung đột
với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, Satan không mấy khi xuất hiện trong
phần Tin Mừng còn lại như tác nhân cám dỗ. Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ Người
có khả năng xua đuổi bất cứ thứ quỷ nào. Do đó, rất có thể Mc nhắm cho độc giả
nghĩ rằng Đức Giêsu đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi sứ vụ của Người bắt
đầu.
* Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của
Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả
bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban
phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình
của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng
của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây
là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương
quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa
đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo
và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt
động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và
tin tưởng.
+ Kết luận
Không giống như TM Mt (4,1-11) và Lc (4,1-13), TM Mc không giải
thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Các câu chuyện Israel
đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về thế nào
là bị cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thế
nào là bị thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào Lời Chúa thì đứng vững; nếu
không tin tưởng vào Lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với
Thiên Chúa, do đó, dã thú sống hoà bình với Người, còn các thiên thần thì hầu
hạ Người.
Muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta phải triệt để quay
về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào Lời Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu chọn Đức Kitô và xin chịu phép rửa tội, thì
chia sẻ số phận của Đức Kitô; người ấy sẽ bị Satan cám dỗ. Tuy nhiên, người ấy
cũng sẽ được hỗ trợ bởi chính Đức Kitô và các thiên thần của Người.
2. Vì Tin Mừng Đức Giêsu mang đến là Tin Mừng tuyệt hảo, Tin
Mừng này là nền tảng cho niềm vui và sự tin tưởng của chúng ta. Ai đón tiếp Tin
Mừng này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết rằng Thiên Chúa ở gần bên để ban ơn
cứu độ.
3. Thời kỳ Đức Giêsu loan báo liên hệ với các lời Thiên Chúa hứa
trong Cựu Ước: Thiên Chúa trung thành với lời hứa. Do đó, chúng ta vui mừng,
tin tưởng và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng thời kỳ này chỉ là thời kỳ
chan hòa niềm vui cho ai biết nhận định như thế, và có một thái độ thích hợp:
“sám hối và tin vào Tin Mừng”, tức là biết chọn lựa.
4. Thiên Chúa là Chúa Tể chứ không phải là nô lệ của chúng ta;
chúng ta không thể coi Người như ngang vai; chúng ta không thể áp đặt cho Người
bất cứ chuyện gì. Người có tất cả mọi quyền bính và sức mạnh; Người quyết định
và quy định. Bởi vì Thiên Chúa là Chúa Tể chân thật duy nhất, chúng ta được tự
do đối với mọi chúa tể và quyền lực khác. Sứ điệp nói rằng Thiên Chúa là Chúa
Tể là sứ điệp về sự giải phóng cơ bản của chúng ta. Mọi chúa tể và quyền lực
khác được trả về đúng chiều kích của họ.
5. Thiên Chúa là Chúa Tể mọi nơi mọi lúc, nhưng quyền chủ tể của
Người có thể ở trong tình trạng giấu ẩn, rất khó nhận ra, đến nỗi người ta có
thể nghĩ rằng Thiên Chúa và Triều Đại Người không hiện hữu. Để có thể nhận ra
quyền chủ tể của Thiên Chúa, cần phải có đức tin, rồi khám phá ra dần nơi lối
cư xử của Đức Giêsu: nơi Người, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa đến
gần chúng ta như thế nào với Triều Đại của Người và các hoa trái của Triều Đại
Người.