Tìm hiểu Lời Chúa _ lễ Thánh Gia năm B

LỄ THÁNH GIA THẤT
 NĂM B
Hc 3, 2-6. 12-14; Cl 3, 12-21; Mt 2, 13-15. 19-23
BÀI ĐỌC 1: Hc 3, 2-6. 12-14
2 Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. 3 Ai tôn kính cha thì bù đắp lỗi lầm, 4 ai trọng kính mẹ thì tích trữ kho báu. 5 Ai tôn kính cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. 6 Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.
12 Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. 13 Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. 14 Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con.
ĐÁP CA: Tv 127
Đ. 1 Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa,
 ăn ở theo đường lối của Người.
1 Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. 2 Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may.
3 Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn.
4 Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người. 5 Xin Chúa từ Xi-on xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giê-ru-sa-lem phồn thịnh,
BÀI ĐỌC 2: Cl 3, 12-21
Thưa anh em, 12 Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. 13 Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. 14 Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. 15 Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.
16 Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. 17 Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.
18 Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. 19 Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. 20 Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. 21 Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Cl 3, 15a. 16a
Hall-Hall: Ước chi lòng anh em phấn khởi vì được Đức Ki-tô ban tặng bình an, và ước chi lời Người hằng sinh hoa kết quả dồi dào trong anh em. Hall.
TIN MỪNG: Lc 2, 22-40
22 Khi đã đủ thời gian, đến ngày các ngài phải được thanh tẩy theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa", 24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
29 "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. 30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ 31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: 32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên về các điều nói về Người. 34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng;35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”
36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
39 Khi hai ông bà đã hoàn tất mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về thành của mình là Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

GIA ĐÌNH, MẢNH ĐẤT TỐT CHO HẠT GIỐNG LỜI CHÚA
Trong đợt Tĩnh Tâm cho các Linh mục thuộc Giáo phận Sài-gòn tháng 9, năm 1990. Đức Giám mục Gioan Bt Bùi Tuần nhắc lại lời một Giám mục người Đức nói với ngài: “Tôi không truyền chức Linh mục cho một người, nếu người ấy chỉ biết làm Lễ và giải tội. Nói tắt, chỉ biết ban Bí tích, mà không có óc tổ chức cộng đoàn.”
Nhận định trên đây cho thấy việc phân phát ơn cứu độ lệ thuộc phần lớn vào việc người lãnh đạo biết tổ chức cộng đoàn, đặc biệt trong việc dạy giáo lý.
Thực vậy, ngay từ lúc Đức Giêsu khởi sự hoạt động công khai để thiết lập Hội Thánh, Ngài đã tổ chức một cộng đoàn nhóm Mười Hai, để gieo hạt giống Lời Chúa vào mảnh đất tâm hồn các ông. Thế thì gia đình Công Giáo cũng là một tổ chức do Thiên Chúa thiết định qua Bí tích. Công Đồng Vat. II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy: “Gia đình là môi trường hoạt động và trường học tuyệt diệu cho việc Tông Đồ giáo dân; vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và cho con cái và tình yêu Chúa Kitô. Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nước Thiên Chúa trong niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế bằng gương lành và chứng tá, gia đình Công Giáo làm cho thế gian nhận biết tội mình, đồng thời soi sáng những kẻ đang kiếm tìm chân lý. Vì thế, giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả lúc họ đang bận tâm lo lắng việc trần thế”.
I.       BỔN PHẬN GIÁO DỤC CON CÁI CỦA CHA MẸ .
Giáo Luật số 774 dạy: “Cha mẹ có bổn phận lấy lời nói và gương lành mà huấn luyện Đức Tin cho con cái, và dạy chúng sống đời sống Kitô giáo. Những người thay thế cha mẹ và những người đỡ đầu cũng phải có bổn phận như vậy”.
Bởi vậy bất cứ một tổ chức lớn nhỏ nào cũng đều phải có người lãnh đạo, hướng vươn lên của cộng đoàn lệ thuộc hoàn toàn vào đời sống Đức Tin và lòng Mến như lửa của thủ lãnh. Cho nên giáo huấn về đời sống gia đình qua lễ Thánh Gia trọng tâm nhắm vào cha mẹ hơn là con cái (x. Tin Mừng).
1- Cha mẹ phải nghiêm túc giữ Luật mới thực là yêu Chúa.
Mà đã yêu Thiên Chúa thì phải làm hơn điều Luật dạy. Cụ thể ông Giakêu, lúc đón Chúa vào nhà, ông tự nguyện bán tất cả gia tài chia cho kẻ nghèo một nửa, phần còn lại ông đền gấp bốn cho bất cứ ai ông đã làm thiệt hại, chẳng có Luật nào dạy ông Gia-kêu phải làm như thế, ông đã làm hơn điều Luật dạy. Chính vì vậy mà Đức Giê-su lên tiếng khen và xác nhận: “Hôm nay, cả nhà ông được ơn cứu độ. Vì người này mới thực là dòng giống của Abraham” (Lc 19, 1-10). Cả đến gia đình thánh Gia Thất tại Nadareth: Đức Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, cả ba Đấng cũng làm hơn điều Luật dạy, trong Tin Mừng hôm nay tác giả Luca nhắc đi nhắc lại năm lần: “Ông bà làm như thế là để làm trọn Luật Chúa dạy” (x. Lc 2, 22. 23. 24. 27. 39).
-          Đức Giê-su: Khi lên 12 tuổi, Ngài đã đi dự Lễ ở đền thờ Giêrusalem, trong khi đó Luật dạy người ở xa Đền Thờ quá một ngày đường, và chưa đến tuổi 13, thì không buộc phải lên Đền Thờ dự Lễ (x. Xh 23, 14-17), nhất là khi cuộc lễ đã kết thúc, mọi người đã ra về mà Ngài còn trốn cha mẹ ở lại Đền Thờ dạy giáo lý (x. Lc 2, 41t).
-          Thánh Giuse và Đức Maria: Các đấng cũng giữ Lề Luật hơn điều đã quy định. Cụ thể, theo sách Lê-vi 12, 2-6 chỉ buộc người mẹ sau khi sinh con trai bị ô uế 7 ngày, rồi 33 ngày sau mới được thanh tẩy máu; hoặc nếu sinh con gái thì bị dơ 14 ngày, rồi 66 ngày sau mới được thanh tẩy máu. Như thế sinh con gái thì dơ gấp đôi sinh con trai. Có nghĩa là nếu sinh con trai thì sau 40 ngày, nếu sinh con gái thì sau 80 ngày người mẹ phải lên Đền Thờ để được thanh tẩy. Chứ không có Luật nào buộc người cha phải lên Đền Thờ thanh tẩy sau khi có con được sinh ra, và “Luật không lập ra cho người công chính, nhưng cho hạng phi pháp và loạn tặc, vô đạo và tội lỗi, bất lương” (1Tm 1, 9). Trong khi đó ông Giuse là người công chính (x. Mt 1, 19), và Đức Maria sinh Con bởi phép Chúa Thánh Thần, chứ không sinh Con theo thói đời để phải mắc uế, bởi đó Mẹ được gọi tên là “Đầy Ơn Phúc”, vì có Chúa ở cùng (x. Lc 1, 28). Thế mà tác giả Luca lại ghi: “Khi đã đủ thời gian (40 ngày hoặc 80 ngày sau khi sinh con) đến ngày các ngài (Giuse và Maria) phải được thanh tẩy theo luật Môsê, bà Maria ông Giuse đã đem Con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa theo Luật đã dạy” (Lc 2, 22-23: Tin Mừng).
Vậy các đấng được thanh tẩy phải hiểu đó là dấu chỉ cái ngài là thánh, là bởi Thiên Chúa ban, chứ không phải do bản chất, và cả loài người muốn được thanh tẩy phải lên Đền Thờ gặp Chúa Giêsu mà cha mẹ Ngài đã tiến dâng.
Nếu người Công Giáo, từ giáo sĩ đến giáo dân chỉ giữ đúng Luật Hội Thánh buộc, làm sao diễn tả lòng mến Chúa và yêu người? Ví dụ: Luật chỉ buộc Linh mục phải giảng trong các Lễ Chúa nhật và Lễ Trọng, nên ngày thường Linh mục dâng Lễ không giảng; còn ngày trong tuần Luật không buộc giáo dân phải đi dự Lễ, nên ai cũng chỉ đi Lễ Chúa nhật và Lễ Trọng mà thôi! Luật cũng chỉ buộc tín hữu rước Lễ vào mùa Phục Sinh, nên người tín hữu chỉ rước Lễ một lần trong mùa Phục Sinh. Thế thì giáo sĩ và giáo dân cử hành Phụng Vụ hay tham dự Phụng Vụ như thế có phải vì yêu Chúa không? Trong khi đó Chúa nói: “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, Ta ưa việc nhận biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu” (Hs 6, 6).
2- Con cái là lễ vật cha mẹ dâng Chúa.
 Bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22b: Tin Mừng), là dấu tiên báo cha mẹ dâng Con mình trên thập giá. Đó mới là lễ vật Thiên Chúa ưa chuộng, không phải chỉ riêng mình Đức Giêsu làm của lễ dâng Chúa Cha, mà cả người tội lỗi biết sám hối xin theo Chúa Giêsu về Nước của Ngài. Đan cử như anh trộm lành (x. Lc 23, 43). Chính vì thế mà thánh Phaolô kêu gọi: “Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 12, 1).
Vì ông bà muốn tiến dâng Con mình làm của lễ cho Chúa nên tác giả Luca không ghi ông bà chuộc lại Con theo Luật dạy (x. Xh 13, 13b) Việc họ dâng một cặp chim gáy hay cặp bồ câu tơ, đó không phải là để chuộc lại Con, mà đó là lễ vật của Đạo cũ, sau được thay thế bằng chính Con đầu lòng của Đức Maria hiến tế trên thập giá để làm hoàn hảo ý nghĩa xưa Chúa giết con đầu lòng của người Ai Cập để dân Do Thái được thoát kiếp nô lệ (x. Xh 13, 11); thì nay Chúa để cho loài người tội lỗi giết Con đầu lòng của Đức Maria cũng là Con Một Thiên Chúa! Nhờ vậy mà bất cứ ai tin vào Ngài là Đấng cứu độ duy nhất thì thoát tay tử thần và được sống dồi dào! (x. Ga 10, 10)
3- Cha mẹ phải khổ vì Con thi hành sứ mệnh cứu loài người tội lỗi theo Lệnh Cha trên trời.
Lời ông Simêon tiên báo cho Đức Maria: “Hồn bà, mũi gươm sẽ đâm thâu!” (Lc 2, 35: Tin Mừng), đã thực sự xảy ra khi Mẹ đứng nhìn Con đã chết trên thập giá mà kẻ ác không buông tha, chúng lấy giáo đâm vào tim Con của Mẹ, Ngài biết đau vì đã tắt thở, nhưng Mẹ đau đớn lắm, nhất là Mẹ Maria như nghe vọng lại những Lời Chúa hứa trong ngày Truyền Tin: “Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ, Con bà là Con Đấng Tối Cao, Ngài làm Vua và triều đại Ngài vô cùng tận”, còn sắc bén hơn gươm đâm vào lòng bà! Như thế, Đức Maria phải hứng chịu Lời chúc dữ trên bà Eva: “Bà sinh con đau” (St 3, 16).
Vậy dưới cái nhìn của thánh Gioan, cả Chúa Giêsu, cả Đức Maria đều gánh lấy tội lỗi loài người (x. Ga 1, 29; 19, 25-37).
4- Cha mẹ không tái giá.
Ngoài ba nhân đức đối thần đặc biệt của các bậc thủ lãnh Thánh Gia như trên, Tin Mừng còn gợi ý cho chúng ta, bậc làm cha mẹ không nên kết hôn lần thứ hai, như mẫu gương của bà Anna, sau khi sống với chồng được 7 năm, bà ở vậy để phụng thờ Chúa. Theo tác giả Luca, bà đã trở thành vị ngôn sứ đầu tiên giới thiệu Đấng Cứu Thế cho nhân loại. (x. Lc 2, 30: Tin Mừng ) Cũng vì lý do đó mà thánh Phaolô ra chỉ thị: “Các trợ tá phải là người chỉ có một đời vợ; biết điều khiển tốt con cái và gia đình.” (1Tm 5, 9-10)
Thực tế trong xã hội, biết bao gia đình con cái bất hoà với cha mẹ, khi các bậc sinh thành đi tái giá. Từ đó lời giáo huấn của cha mẹ trên con cái bị giảm uy tín và hiệu lực!
II.   BỔN PHẬN CON CÁI.
Bài đọc I, sách Đức Huấn ca chương 3 chỉ nhấn mạnh đến chữ hiếu của bổn phận làm con: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con.”
Nếu con cái chỉ làm những điều tốt như kể trên đối với cha mẹ thì sách Gia Huấn ca của Nguyễn Trãi cũng đã đề cập đến, chỉ là thứ đạo đức nhân bản. Bởi thế giáo huấn của Công Đồng Vat. II trong Hiến Chế Hội Thánh số 11 dạy: “Gia đình Công Giáo như một Giáo Hội nhỏ, ước gì cha mẹ là những người đầu tiên dùng gương lành và lời nói mà truyền dạy Đức Tin cho con cái, cũng như phải lo chăm sóc đến ơn gọi riêng của từng đứa con, và phải đặc biệt chăm sóc đến ƠN KÊU GỌI LÀM LINH MỤC”. Bởi vì đời tu trì rất thuận lợi cho việc làm đẹp lòng Thiên Chúa (x. 1Cr 7, 25t), và đó cũng là cách chu toàn chữ hiếu đối với Cha trên trời, dù việc ấy có trở nên như lưỡi gươm đâm vào lòng cha mẹ trần thế, (x. Lc 2, 35: Tin Mừng). Vì ai tin theo Chúa Giêsu thì được lãnh “lưỡi gươm Lời Chúa để chiến đấu với cả cha mẹ, hoặc cha mẹ đối nghịch với con cái.” (x. Dt 4, 12; Mt 10, 34-36). Nghĩa là Lời Chúa đòi hỏi mỗi người phải có sự chọn lựa dứt khoát, nên dễ “làm cớ cho nhiều người bổ nhào hay chỗi dậy” (Lc 2, 34: Tin Mừng).
Vậy sau khi chúng ta suy nghĩ về bổn phận của người cha, người mẹ và con cái trong gia đình Công giáo như trên, thánh Phaolô đưa ta đi đến kết luận: Muốn tổ chức một gia đình Kitô giáo gương mẫu như Thánh Gia, một gia đình nền tảng của Hội Thánh, mỗi người phải:
-          Thánh Tông Đồ dạy: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3, 12-13: Bài đọc II).
Muốn được như vậy thì:
-          Lời Chúa phải cư ngụ dồi dào phong phú trong mỗi người, và hãy dùng Lời Chúa mà sửa bảo nhau cho đúng, cho khéo! Và ước chi Lời Chúa hằng sinh hoa kết quả dồi dào trong chúng ta! (x. Cl 3, 15-16: Tung Hô Tin Mừng).
Sau cùng:
-          Trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi việc, chúng ta hãy làm vì danh Chúa Ki-tô. (x. Cl 3, 17)
Được như thế thật là “hạnh phúc cho những người biết kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người!” (Tv 127, 1: Đáp ca)
Lời tâm sự của Đức Giáo hoàng Gioan thứ 23 đã viết thư cho cha mẹ của ngài, lúc ngài tròn 50 tuổi:
Gia đình là “trung tâm ánh sáng” đem ngọn lửa hồng chiếu soi kẻ khác. Ngày nào mọi gia đình là “trung tâm ánh sáng”, thì thế giới này sẽ là một đại gia đình đầy ánh sáng, đầy hy vọng.
Chủng viện thứ nhất, đệ tử thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình Công giáo biết say mê Lời Chúa và tham dự Thánh lễ mỗi ngày, không có vị giám đốc tài ba chuyên môn nào có thể thay thế cha mẹ được. Nếu gia đình không giáo dục con cái bằng những ngôn ngữ Lời Chúa và yêu Thánh lễ mỗi ngày, thì tương lai của Hội Thánh và xã hội nhân loại cũng bị rung rinh sụp đổ!
Đức Giáo hoàng Gioan 23 khi còn làm Hồng y, có lần ngài về thăm mẹ và khoe với mẹ chiếc nhẫn Giám mục của mình, bà mẹ không chịu thua, giơ tay ra cho con xem cái nhẫn mỏng tanh trên ngón tay của bà và hãnh diện nói với con: “Nếu không có chiếc nhẫn cưới này, thì con cũng không thể có chiếc nhẫn Tổng Giám mục ấy”, Đức Giáo hoàng thưa với mẹ: “Thưa mẹ, hôm nay con được 50 tuổi, Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội Thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn hồi còn được ngồi bên cha mẹ.”
THUỘC LÒNG.
Quạ sẽ mổ, diều hâu sẽ móc mắt kẻ nào lườm nguýt và khinh dể cha mẹ mình! (Cn 30, 17)
 (Lưu ý: Lễ Hiển Linh – Lễ Mẹ Thiên Chúa xem trong tập Bài Giảng Năm A)