CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG B
CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG B
MỤC LỤC
27. Chúa Cứu Thế ở giữa anh em catholic.org.tw
28. Vui mừng vì Chúa sắp đến Lm Carolo Hồ Bạc Xái
30. Đấng đến sau tôi nhưng.... Lm. Phêrô Lê văn Chính
31. Học sống trung thực với Gioan Tẩy Giả Lm Inhaxiô Trần Ngà
32. Nhân chứng ánh sáng trung thực Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
33. Video Thánh Vịnh Lc 1, 46-48 Nhóm thánh vịnh Nauy
1. Làm chứng
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã đưa ra những câu hỏi để truy tìm
tông tích, lý lịch, dung mạo và vai trò của Gioan tiền hô, nhưng thực ra là
truy tìm chính Đức Kitô, Đấng Cứu Thế.
Bấy giờ, mọi người ở Giêrusalem đã bị khuấy động bởi những
chuyện khác thường. Thế nhưng, những câu hỏi nêu lên lại không đi ra ngoài
những khuôn mẫu sẵn có: là Elia, là tiên tri? Và Gioan đã chỉ có thể trả lời
không. Bao lâu người ta còn loanh quanh trong những cái có sẵn, người ta không
thể nhận ra Ngài. Sự hiện diện của Ngài đã là một sự độc đáo. Gioan đã phải vất
vả để dứt cái nhìn của đám đông ra khỏi con người của ông để hướng về chính
Đấng họ đang tìm kiếm. Và Đấng ấy đang ở giữa họ, nhưng họ chưa nhận ra. Gioan
quả đã là người chứng đích thực vì ông đã không ngăn cản ánh sáng chiếu tới họ.
Muôn ngàn những bận rộn trong ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh của
chúng ta cũng có thể được coi là những câu hỏi về dung mạo của Đấng chúng ta
đang chờ đợi và tìm kiếm. Những cuộc vui chơi với bè bạn. Những chiếc hang đá
xinh xinh và gợi cảm. Những món quà đắt giá, những chiếc bánh truyền thống,
những bài hát thơ mộng, những ánh đèn muôn màu và rồi những buổi lễ long trọng.
Lễ Giáng sinh có thể được làm nên bởi những thứ đó, nhưng tất cả những thứ đó
được lặp lại hàng năm, có phải là giáng sinh? Có phải đó là lễ giáng sinh của
ngày hôm nay? Chúng ta chỉ có thể trả lời: Không phải và không thể.
Bởi lẽ giáng sinh là một con người, con người ở giữa chúng ta
trước khi là một ngày lễ. Con người ấy được nhận diện không phải bằng những lời
giới thiệu, những bài giảng hay bằng các nghi lễ, mà trước tiên bằng chính việc
làm. Không phải những việc làm thuộc loại gây chấn động trong thiên hạ, gây kin
ngạc và thán phục, những việc làm ngoạn mục xuất chúng.
Bài đọc hai đã kê khai những việc làm của Đấng được xức dầu, tức
là Đức Kitô: Loan báo Tin Mừng cho kẻ khó nghèo, băng bó những tấm lòng tan
nát, tuyên bố việc ân xá cho những bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù
nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Và Đức Kitô đã khẳng định: Chính Ngài
là người đã thực hiện những việc làm này, và chính Ngài cũng đã từng trả lời
với những ai đang thắc mắc về Ngài: Hãy nhìn những việc làm để nhận ra Ngài là
ai. Ngài quả là Đức Kitô, vì Ngài đã làm những việc của người đã được Thiên
Chúa xức dầu. Đức Kitô đã chết và đã được tôn vinh, nhưng Ngài vẫn hiện diện
giữa con người. Theo ánh sáng của lòng tin, chúng ta biết được Ngài hiện diện ở
đâu có những nỗ lực và hành động giải phóng, đưa con người bị vùi dập bạc đãi,
bị kỳ thị, bị tước mất quyền làm người. Mỗi người chúng ta có bổn phận phải làm
chứng. Làm chứng không phải chỉ bằng lời nói mà chủ yếu bằng việc làm. Những
việc làm của chính Đức Kitô, Đấng được xức dầu.
Thế nhưng nhiều khi chúng ta chuẩn bị mừng lễ giáng sinh bằng sự
phô trương chính mình thay vì là một chứng tá sống động về sự hiện diện của Đức
Kitô, Đấng mà mọi người đang mong đợi và tìm kiếm.
2. Gioan Tiền
Hô
Sống dưới ách thống trị của đế quốc La-mã dân Do Thái luôn trông
chờ một Đấng cứu thế do Thiên Chúa sai đến. Họ đã mượn nỗi khắc khoải của cha
ông thuở trước để cầu xin: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng
cứu đời. Chính vì thế, khi Gioan xuất hiện bên bờ sông Giođan, họ đã phấn khởi
vui mừng. Và rồi họ đã cử một phái đoàn đến để tìm hiểu cho cặn kẽ và thấu đáo.
Những người này đã hỏi Gioan: Ông là ai, ông có phải là Đức Kitô hay không.
Gioan đã xác quyết với họ: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi chỉ là
người tiền hô, đi trước để dọn đường cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến.
Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần. Ông không để cho người ta chú ý tới ông
mà trái lại, ông hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Kitô: Ngài cần phải lớn lên,
còn tôi phải nhỏ đi.
Qua sứ điệp của Gioan Tiền Hô, chúng ta rút ra hai điểm thực
hành. Điểm thứ nhất đó là hãy sám hối, cải thiện đời sống. Thực
vậy, Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, mà hơn thế nữa
Ngài còn đến với chúng ta vào ngày tận cùng của vũ trụ, cũng như vào ngày sau
hết của cuộc đời chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn đến với chúng ta mỗi ngày
qua bí tích Thánh Thể. Như thế cuộc đời chúng ta phải là một mùa vọng nối dài.
Và trong mùa vọng cuộc đời này chúng ta phải thực hiện ngay sứ điệp của Gioan
Tiền Hô, đó là hãy sám hối, dọn đường Chúa đến. Sám hối ở đây không phải chỉ là
hối tiếc về những tội đã phạm mà hơn thế nữa còn phải cố gắng uốn nắn sửa đổi
để nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Điểm thứ hai, đó là hãy trở nên những tiền hô cho Chúa. Thực
vậy, là người Kitô hữu, chúng ta không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà hơn
thế nữa, còn phải đem Chúa đến cho người khác. Dọn đường cho Chúa đến trong tâm
hồn của mình mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải dọn đường để Chúa cũng đến được
trong tâm hồn người khác. Muốn được như thế, chúng ta cần phải có một đời sống
đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó mà dần dần chúng ta có thể
cảm hoá được những người chung quanh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa.
Dọn đường Chúa đến trong tâm hồn mình và giúp người khác dọn
đường Chúa đến trong tâm hồn họ đó là việc chúng ta cần phải làm ngay trong mùa
vọng này.
3. Vui mừng
và hy vọng.
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc”)
Hôm nay bước vào tuần thứ ba mùa vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta
hãy vui mừng và hy vọng, lời mời gọi này có thừa không khi, nhìn từ bên ngoài
xã hội chúng ta đang sống đã có qua nhiều các hình thức và tụ điểm vui chơi,
phương tiện giải trí? Mọi người mọi tầng lớp đều có những điểm gọi là “điểm vui
chơi”. Người có nhiều tiền thì vui chơi theo kiểu cao cấp quý tộc, người bình
dân vui chơi theo kiểu bình dân, người lớn vui chơi theo kiểu của người lớn,
trẻ em và thanh niên vui chơi theo kiểu thanh thiếu niên, ví dụ quán bar, quán
bia, caraoke, caphe… là nơi người ta đến để giải sầu, tìm vui, nghèo hơn nữa
thì vài lít rượu với mấy quả ổi, con mực cũng được gọi là lai rai cho vui. Vui
cũng uống, buồn cũng uống và không buồn không vui cũng uống. Bên cạnh đó, người
ta còn tạo ra đủ mọi thứ lể hội để đem niềm vui cho mọi người
Thưa quý OBACE, như vậy, cuộc sống và xã hội này có thực sự đem
đến cho chúng ta niềm vui hay không, nếu thực sự có, thì tại sao khi trở về
nhà, họ lại cảm thấy buồn bã và trống rỗng, và họ vẫn cứ phải tìm kiếm một nơi
nào đó để vui, để giải sầu mà càng “uống chén tiêu sầu càng sầu thêm”!
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới vô thần, là một thế
giới người ta đang muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi xã hội và khỏi tâm hồn con
người, mà một thế giới, một tâm hồn không có Thiên Chúa là một thế giới bất an,
một thế giới lo âu khắc khoải không niềm vui. Nơi nào, tâm hồn nào không có
Thiên Chúa thì nơi ây, tâm hồn ấy chỉ còn là hỏa ngục, buồn bã và thất vọng, và
không có gì ở thế gian này có thể đem lại niềm vui cho những tâm hồn ấy được.
Lời Chúa hôm nay đem đến và mời gọi chúng ta hãy tận hưởng một
niềm vui và hy vọng hoàn toàn khác với các niềm vui trống rỗng của thế gian,
đây là niềm vui thực sự phát xuất từ trong tâm hồn được thể hiện ra bên ngoài
qua nét mặt qua cuộc sống, đó là niềm vui có Chúa và niềm vui của Chúa.
Niềm vui ấy trước hết là niềm vui được giải thoát, được đổi mới. Tiên
tri Isaia đã mở ra cho chúng ta một tương lai hy vọng, như ánh sáng bừng lên
trong bóng tối, vì thời của Đấng Cứu thế đến, Ngài không chỉ chữa lành những
đau đớn bệnh tật thể xác, mà Ngài còn chữa lành những bênh tật trong tâm hồn và
lấp đầy những khát vọng buồn chán trong tâm hồn con người, Ngài giải thoát con
người khỏi nô lệ của tội lỗi, sự tù đày của dục vọng: Thánh Thần Chúa ngự trên
tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó
những tâm hồn đau thương dập nát, giải phóng cho kẻ bị giam cầm, tuyên bố năm
hồng ân của Thiên Chúa. Niềm vui Đấng cứu thế còn là niềm vui của hy vọng và
hân hoan, như niềm vui của cô dâu và chú rể, và như niềm vui của đất đai đâm
chồi nảy lộc, niềm vui vì được đổi mới. Niềm vui này con người thế gian không
thể mang lại, chỉ có Thiên chúa mới có thể đem đến cho chúng ta.
Kế đến đó là niềm vui trong cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa. Sự
trống rỗng hời hợt của nhiều người và kể cả của nhiều Kitô hữu hôm nay đó là vì
họ không có Chúa trong tâm hồn, bởi vì họ để mình bị cuốn trôi theo dòng chảy
của xã hội của cơm áo gạo tiền, bởi những thú vui bên ngòai, họ sống một cách
hời hợt không chiều sâu, không mục đích. Trong khi đó Thánh Phaolô khuyên tín
hữu Thesalônica: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ
ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh… đừng dập tắt Thần khí, chớ khinh thường ơn nói
tiên tri, hãy cân nhắc mọi sự điều gì tốt thì giữ và điều xấu dưới bất cứ hình
thức nào thì tránh cho xa. Khi sống như thế, Thánh Phaolô khẳng định thiên Chúa
là nguồn mạch niềm vui và bình an sẽ gìn giữ anh em.
Bài Tin mừng giới thệu cho chúng ta một niềm vui khác, đó là
niềm vui vì nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Gioan Tiên Hô là người đã có kinh nghiệm này. Lúc bắt đầu sứ mạng rao giảng,
Gioan đã rất thành công vì ông đã thu hút được rất nhiều người, mọi người kính
trọng và đến với ông, thậm chí ông còn trở thành một dấu hỏi lớn đối với họ. Vì
thế Những người Do Thái đã cử một số thày Tư tế và Lêvi đến hỏi Gioan: Ông là
ai? Ông có phải là đấng Cứu thế không? Gioan mặc dù đang rất thành công, nhưng
ông không nhận điều không có về cho mình, mà ông đã rõ ràng dứt khoát từ chối:
Tôi không phải là Đấng Kitô, Tôi không là Elia mà ông chỉ nhận mình: Tôi là
tiếng kêu trong hoang địa, hảy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Tức là Gioan
vui với sứ mạng của mình là người dọn đương cho Đấng cứu thế, Đấng ây ông biết
rất rõ Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, còn Gioan đã biết và
đã nhận ra Ngài và còn nhận ra uy quyền tối cao của Ngài, mà ông khiêm tốn cho
rằng mình không đáng cúi xuống cởi dây dép cho Ngài.
Gioan không buồn vì mình phải lui bước, cũng không sợ mất ảnh
hưởng, không níu kéo vinh quang uy tín về cho mình, trái lại ông vui vì ông đã
chu tòan sứ mạng, ông ý thức rằng ông phải nhỏ đi để Người được lớn lên; ông
đến để làm chứng về ánh sánh để mọi người nhờ ông mà tin, chứ ông không phải là
ánh sáng, và mọi người, để đón nhận được niềm vui từ Đấng Cứu Thế cần có một
thái độ tiên quyết đó là có lòng sám hối, thay đổi đời sống, được biểu lộ ra
bên ngoài bằng việc lãnh phép rửa mà ông đang thực hiện, phép rửa của ông chì
là một dấu hiệu bày tỏ lòng sám hối, vì ông biết việc ông làm không có sức tha
tội, chỉ có Đấng đến sau ông sẽ tẩy rửa tôi lỗi nhân loại bằng Thánh Thần, và
ai chấp nhận để cho Thiên Chúa tẩy rửa và uốn nắn, người ấy sẽ có được niềm
vui, hoặc đúng hơn chính Đấng ấy sẽ ban tặng cho họ niềm vui vì được làm con
cái Chúa.
Thưa quý OBACE, chúng ta đang vui hay chúng ta đang buồn? Chúng
ta có thực sự cảm nhận được niềm vui Chúa đem đến cho chúng ta hay không? Ngoài
đường phố đã rộn ràng những bài thánh ca, những trang trí giáng sinh, ở trong
siêu thị và các nhà hàng cũng tưng bừng với các chương trình cho mùa Giáng sinh
mà họ gọi là mùa Noel. Vâng! Có thể người kitô hữu chúng ta cũng sẽ chỉ vui một
cách hời hợt ở bên ngoài, nếu chúng ta chỉ chú ý đến những trang trí bên ngoài
mà không chuẩn bị để có được niềm vui đón Chúa đến trong tâm hồn. Nhiều người
nhiều gia đình lo chuẩn bị những chương trình, đi chơi hay ăn uống trong đêm
Giáng sinh sắp tới mà không chuẩn bị cho Chúa có một chổ nhỏ ấm áp trong tâm
hồn trong gia đình mình.
Khi chúng ta đã để cho bao thứ lo toan ràng buộc trong cuộc sống
chiếm hết thời gian và tâm hồn khiến cà ngày sống chúng ta cứ cảm thấy mình
trống rỗng và lao vào tìm kiếm mà không biết mình tìm kiếm điều gì. Chúng ta sẽ
không thể nào vui khi chúng ta không dám để cho Chúa gỡ bỏ những gánh năng của
cuộc đời, không dám để cho Chúa chia sẻ với nhữ lo toan nhọc nhằn của chúng ta
như Chúa hằng mong muốn: Hãy đến với ta hỡi những ai vất vả nặng nề- ta sẽ nâng
đỡ bổ sứ cho.
Chúng ta sẽ không vui và sẽ cảm thấy trống rỗng khi chúng ta
không dám dừng lại, khi không dám sống trong sự thinh lặng, vì chúng ta sợ phải
đối diện với chính mình và đối diện với Thiên Chúa; Chúng ta sẽ không thể vui
khi trong lòng còn những bận vướng với anh em. Chúng ta sẽ không thể cảm nhận
được niềm vui và hy vọng khi chúng chúng ta không có giờ cho việc cầu nguyện
gặp gỡ Thiên chúa, cầu nguyên riêng tư một mình với Chúa, hoặc cầu nguyện chung
trong gia đình, hay khi chúng ta cùng họp nhau nơi đây để cử hành thánh lễ,
chính là lúc chúng ta được gặp Chúa, được lấp đầy những khoảng trống trong tâm
hồn và tìm được niềm vui sâu xa.
Sau cùng, chúng ta chỉ thực sư vui khi chúng ta sống và làm việc
trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện
diện trong cuộc đời chúng ta, ở bên chúng ta, trong Bí tich Thánh Thể, nơi
những người anh em, có điều là chúng ta có nhận ra sự hiện diện yêu thương nâng
đỡ của Ngài hay không? Chỉ khi nhận ra và làm việc trong sự hiện diện của Ngài
chúng ta sẽ tìm được niềm vui và bình an. Điều cũng cần lưu ý, là Thiên Chúa
chỉ hiện diện trong một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn khiêm nhường hối cải, một
tâm hồn không chất chứa sư thù oán ghen tị giận hờn… khi thực lòng thanh tẩy và
sửa chữa những sai lầm nhờ Bí tích giải tội, ơn tha thứ sẽ được ban cho chúng
ta và chắc chắn mỗi người sẽ cảm nhận được niềm vui và sự bình an vì biết mình
được yêu thương tha thứ.
Xin cho mỗi người không chỉ chuẩn bị bên ngoài cho ngày lễ Giáng
sinh, mà còn biết chuẩn bị tâm hồn để niềm vui và ân phúc của mủa Giáng sinh
được trọn vẹn nơi mỗi người. Amen.
4. Hãy vui lên – Lm. Giuse
Phạm Thanh Liêm
Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là
năm đại phúc cho người nghèo, cho người bị tù đầy. Năm đó, có nợ ai bao nhiêu,
cũng được xóa; có đang bị ở tù, cũng được trả tự do. Đức Yêsu là Đấng đến để
công bố năm toàn xá cho toàn thể nhân loại. Vì thế, hãy vui lên, hỡi nhân trần.
1. Tin Mừng Cho Người Nghèo
Con người sống trên trần gian này cảm nghiệm bao nhiêu nỗi khổ:
nỗi khổ vật chất và tinh thần. Ai càng coi trọng tiền bạc và vật chất, càng cảm
thấy khổ nhiều. Tuy nhiên, đôi khi người nghèo không cảm thấy khổ, mà những
người đặt nặng giá trị vật chất lại cho rằng họ khổ.
Người nghèo cũng có niềm vui riêng của họ, trời xanh, khí mát
trong lành, đất trời đẹp tuyệt vời và vô tận. Tuy vậy, nếu người nghèo không
thanh thoát vượt lên được cái bình thường, thì cái nghèo, và đặc biệt là tình
trạng bần cùng, ảnh hưởng thê thảm trên con người. Nàng Kiều bán mình chuộc cha
cung là một thí dụ. Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ khác; đến độ người ta
thấy “đời là bể khổ.” Nghèo, tù, tội, là những điều gây cho bao người đau khổ
dằn vặt.
Hôm nay, tin mừng đã được công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi
vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó,
băng bó những tâm hồn tan vỡ, loan báo ơn giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do
cho kẻ tù đày, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.” Chính Thiên Chúa giải
phóng con người, cho con người tìm được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh
phúc.
2. Đấng Đến Sau Tôi
Cái nghèo vẫn còn tiếp tục. Cái nghèo như gắn chặt với cuộc đời
của một số người như hình với bóng. Con người vẫn khổ, vẫn miệt mài đi tìm
miếng cơm manh áo. Những người đã có miếng cơm áo thì lại muốn có nhiều hơn
nữa. Con người vẫn không thoát khỏi cảnh khổ. Nỗi khổ do nghèo vật chất dường
như giúp con người thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần. Dường như khổ vật chất
không làm con người khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.
Yoan Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh nghèo. Ngài như một lời
chứng cho nỗi khổ vì nghèo tinh thần, vì không thấy được ánh sáng sự thật, chứ
không phải vì nghèo vật chất. Hơn nữa, Yoan Tẩy Giả còn làm chứng cho một Đấng
khác nữa: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy
cho Ngài. Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa
cho anh em với Thánh Thần và lửa.” Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ,
cho dù lúc đó người ta và cả Yoan Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.
Đức Yêsu như tất cả mọi người đã sống cái nghèo đến tận cùng:
sinh trong hang chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo, làm nghề của những
người nghèo, ngay cả khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi tìm trái vả ăn cho
đỡ đói cũng không có (Mt.21, 18-19). Tuy vậy, Đức Yêsu là người làm trọn lời
tiên tri trong sách Isaya, Ngài công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Ngài tới để
làm cho người mù được thấy, người tù được trả tự do, băng bó những tâm hồn tan
vỡ. Đức Yêsu mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật, và sự thật sẽ giải phóng
con người khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh thần. Ngài giúp con người
vươn lên, vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an hạnh phúc. Hãy vui lên vì với
Đức Yêsu, chúng ta biết con đường giải thoát và hạnh phúc đích thực.
3. Hãy Vui Mọi Lúc
Như một người đã được giải phóng, thánh Phaolô viết cho dân
thành Thessalônica: “hãy vui hạnh phúc mọi lúc.” Một người rao giảng tin mừng
Đức Yêsu phục sinh, luôn bị phản đối, rượt đuổi và bắt bớ, mà khuyên người ta
hãy sống vui và hạnh phúc được sao? Nếu đúng, người đó phải sống vui và hạnh
phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
Tại sao Phaolô lại được như vậy? Vì Ngài đã đạt đạo, đã chọn
Thiên Chúa trên hết, đã chấp nhận Đức Yêsu như lý tưởng và Chúa của mình. Ngài
đã thấy được trần gian chóng qua, chỉ có thực tại bền vững là chính Thiên Chúa,
và cũng là bình an và hạnh phúc của Ngài. Với quan niệm sống và chọn lựa như
vậy, Ngài sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
Chỉ khi nào con người chọn Thiên Chúa trên hết, phó thác tất cả
cho Thiên Chúa, thì con người mới sống chấp nhận thực tại và thanh thản trước
mọi biến cố và nghịch cảnh. Thiên Chúa đang thực hiện việc giải phóng con người
qua Đức Yêsu, qua việc cho con người thấy cách sống giúp con người bình an hạnh
phúc. Cách sống đó chính là cách sống của Đức Yêsu. Đức Yêsu cũng không được
miễn trừ khỏi bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và vẫn trông cậy vào Thiên
Chúa ngay cả khi không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy. Biến cố Đức Yêsu kêu trời
“lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” là một bằng chứng. Ngay cả như vậy, chúng
ta tin rằng, Ngài vẫn bình an và phó thác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. “Hãy bình an hạnh phúc mọi lúc.” Liệu điều này có thể xảy ra
không?
2. Làm sao để có thể bình an hạnh phúc trong mọi nơi mọi lúc?
3. Bạn có thể gặp được Đức Yêsu không? Xin đưa lý lẽ cho câu trả
lời của bạn?
5. Làm chứng
về ánh sáng
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Tin mừng chúa nhật nầy gồm hai đoạn 1:6-8 và 1:19-28 thuộc 2 văn
mạch khác nhau, tuy nhiên đều nói về Gioan, là chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô.
Đoạn 1:6-8 nằm trong văn mạch của 1:1-13, nói về Ngôi Lời là ánh sáng (1:1-5)
và Ngôi Lời đã đi vào lịch sử (1:6-13). Đoạn 1:19-28 nói về Gioan và công việc
của ông.
Trong tin mừng Gioan, làm chứng là sứ mạng chính của Gioan,
không phải là làm phép rửa (1:7[2].8.15.19.32). Để làm chứng, Gioan phải là một
con người và được Thiên Chúa sai đến (c.6). Là con người, để Gioan có thể nói
cho con người điều ông đã thấy và đã tin. “Được Thiên Chúa sai đến”, vì sứ mạng
của ông là làm chứng cho Con Thiên Chúa (3:27). Bởi đó, Gioan không làm chứng
cho một điều, mà cho một người. Mục đích của Gioan là làm cho mọi người tin vào
Chúa Giêsu (c.7), để họ được làm con Thiên Chúa (1:12) và không còn thuộc về
bóng tối nữa (1:5; 11:10; 12:35).
Chúa Giêsu là ánh sáng của trần gian (1:4; 9:5; 11:9;
12:35.36.46). Ánh sáng ấy là sự sống (1:4;8:12[2x]) và cũng là sự thật (1:9;
3:21). Gioan làm chứng cho ánh sáng, có nghĩa là làm chứng cho một sự sống Chúa
Giêsu đang mang đến (1:15-16; 6:41.48.51) và một sự thật: Chúa Giêsu là Con
Thiên Chúa (1:32.35; 5:33). Đón nhận chứng từ của Gioan, nghĩa là tin Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa, là sự thật và sự sống (14:6) để được trở nên con cái
Thiên Chúa (1:12). Khước từ chứng từ của Gioan là khước từ Chúa Giêsu và tiếp
tục sống trong bóng tối (1:5; 8:12).
Gioan là chứng nhân, không phải là ánh sáng (1:8). Bởi đó, Gioan
từ chối nhận mình là Đấng Kitô hay là Êlia. Ông nhận mình không xứng đáng cởi
quai dép cho Đấng đang đến. Thành ngữ egò ouk eimi “Tôi không là” mà
Gioan dùng cho mình (c.20.21.27; 3:28) đối nghịch với egò eimi “Tôi là”,
được dùng độc nhất cho Chúa Giêsu: “Tôi là tôi” (4:26; 6:20; 13:19; 18:5.6.8),
“Tôi là bánh ban sự sống” (6:41.48.51), “Tôi là ánh sáng trần gian” (8:12;
9:5), “Tôi là…” (10:9.11.14; 11:25; 14:6; 15:1.5; 18:37). Chính cách nói nầy
cho thấy Chúa Giêsu, là ánh sáng, ngày mỗi tỏa sáng lên, còn Gioan, như là
chứng nhân của ánh sáng, ngày mỗi tan biến dần (3:30). Gioan giới thiệu Chúa
Giêsu cho hai môn đệ của mình, và họ đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu
(1:35-42), dân chúng đến với Chúa Giêsu thay vì đến với Gioan (3:26) và cuối
cùng chết âm thầm trong ngục tối (3:24). Gioan, một chứng nhân chân thật và
khiêm tốn vô hạn (10:41).
Gioan không là chứng nhân duy nhất của Chúa Giêsu. Chúa Cha
(5:32.37; 8:18), Kinh Thánh (5:39), công việc của Chúa Giêsu (5:36; 10:25),
chính Chúa Giêsu (8:14.18), Thánh Linh (15:26) và các môn đệ (15:27) tất cả đều
làm chứng một điều: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Đến trần gian, Chúa Giêsu cần
chứng nhân, vì không dễ tin Người là Con Thiên Chúa. Nếu tin, sẽ được làm con
cái của Thiên Chúa. Nếu được làm con cái của Thiên Chúa, tất phải sống như con
cái của Người.
6. Làm chứng
về ánh sáng.
Gioan: Không phải là ánh sáng
Trong đoạn mở đầu Phúc Âm, Thánh Gioan Thánh sử đã nói về Đức
Kitô, Người là Thiên Chúa, là Nguồn Sáng, là Ánh Sáng đến trần gian.
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi
mọi người.”(Ga.1,9).
Khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy Thầy
Lê-vi đến hỏi Gioan Tẩy giả: "Ông là ai?" Ông tuyên bố thẳng thắn:
"Tôi không phải là Đấng Kitô." Đúng như lời thánh Gioan Thánh sử đã
viết về Gioan Tẩy Giả: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông
đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông
không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga.1,6-7).
Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong bối cảnh người Do Thái đang trông
chờ một Vị Cứu Tinh cho dân tộc, người sẽ khôi phục Israel và đem về cho Israel
một thuở huy hoàng nay đã mất dưới gót giầy đè bẹp của đế quốc La Mã.
Giấc mơ ấy hạn hẹp trong ý tưởng con người, vì Vị Cứu Tinh sẽ
đến không phải để phục hồi lại những gì đã tổn thương trong Israel, mà tái tạo
lại một “trời mới đất mới” cho cả vũ hoàn.
Vị Cứu Tinh ấy là Chúa Kitô, ánh sáng cho trần gian.
“Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối sẽ không diệt
được ánh sáng”. (Ga.1,5).
Gioan Tẩy Giả xuất hiện để “làm chứng” cho Chúa Kitô, làm chứng
về ánh sáng.
Gioan: Làm chứng về ánh sáng
Ánh sáng ở đây là chính Thiên Chúa – “Thiên Chúa làm người và ở
cùng chúng ta”.
“Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng
lại không nhận biết Người”. ( Ga 1,10).
Và Gioan Tẩy Giả mang sứ mạng làm cho mọi người nhận biết Người
- nhận biết Đức Kitô - nhận biết Ánh Sáng.
“Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ
đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga.1,17).
Gioan Tẩy giả dành trọn cuộc đời mình chỉ với một mục đích trung
thành với lời tuyên bố: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần
gian.” (Ga.1,29-34).
Ý nghĩa cuộc đời: Ánh Sáng Chúa Kitô
Đức Giêsu lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian.
Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem
lại sự sống” (Ga.8,12).
Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, hoàn thành sứ
mạng của mình trong ánh sáng chân lý.
Không ai thuộc về bóng tối lại có thể làm chứng về ánh sáng!
Chỉ trong ánh sáng Chúa Kitô, con người mới nhận ra giá trị đích
thực của chính mình, vị trí của chính mình. Trong ánh sáng Chúa Kitô, Gioan
nhận ra mình bé nhỏ.
Trong bóng tối, con người ngủ mê trong ảo ảnh. Con người hiểu
biết được bao nhiêu và làm được điều gì lớn lao đến thế nào để có thể kiêu căng
đến mức muốn thay thế Thiên Chúa?
Một cách nào đó, nhiều người tự xem mình như Đấng Cứu Thế. Nhiều
kẻ muốn thay thế Lời Chúa bằng những “giáo điều” triết học và ý thức hệ chính
trị nghe rất hấp dẫn và thu hút được nhiều người. Thực tế, những dòng tư tưởng đó
đã đem thế giới đến chỗ tan nát vì chia rẻ và thù hận.
“Sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính ta đây’,
và: ‘Thời kỳ đã đến gần’” (Lc 21: 8).
Với Niềm tin Kitô hữu, đời ta chỉ có một mục đích duy nhất là
“làm chứng về ánh sáng”.
Gioan Tẩy Giả là tấm gương để tiến bước. Hoặc là sống trong ánh
sáng, hoặc là sống trong tăm tối, phải chọn một, và chỉ chọn một, không có sự
chọn lựa nào khác.
Quê tôi là một xóm làng dân cư đông đúc, khi cúp điện, cả ngàn
hộ dân chìm trong tăm tối, thôn xóm đông người mà vắng lặng đến đáng sợ. Khi có
điện trở lại, nghe vang lên những tiếng reo hò vui sướng: “Có điện rồi! Có điện
rồi!”. Tiếng em bé reo vui, tiếng người cười cười nói nói, tiếng nhạc, tiếng
TV… vang lên đó đây, xóm làng vui tươi, nhộn nhịp hẳn lên…
Không ai có tìm thấy hạnh phúc trong vùng tăm tối. Người từ chối
ánh sáng là người đã hoàn toàn mất đi niềm hy vọng và sống một cuộc sống buông
xuôi vô nghĩa.
Hạnh phúc là được tìm về ánh sáng. Mang hạnh phúc đến cho người
khác là thắp lên cho họ ánh sáng hy vọng.
Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi
thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi
tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một
bóng đèn.
Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: "Cứ để
yên mọi thứ cho tôi". Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp,
Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ
lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:
- Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?
- Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai.
- Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm
ông không?
- Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và
giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy:
- Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn
về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.
Hãy thắp lên Ánh sáng Tình Yêu Thiên Chúa – Ánh sáng Chúa Kitô –
Ánh sáng Lời Chúa – Ánh sáng Giới luật yêu thương.
Thế giới chỉ có thể tồn tại trong ánh sáng tình yêu – “Ánh sáng
đem lại sự sống”. Có thể nào Thế giới tìm thấy bình an và hạnh phúc trong thế
giới tối tăm sao?
Lạy Chúa,
Xin thắp lên trong con,
ánh sáng Tình Yêu Chúa,
để từ tận thẳm sâu lòng con,
biết nói lên và thực hiện,
Những điều Chân Thiện.
Đó là lúc con biết
làm chứng về ánh sáng,
Ý nghĩa của đời con. Amen.
7. Con tim rung nhịp
với chân lý
(Suy niệm của Thomas Nguyễn Văn Hiệp)
Tiếp nối hai bài suy niệm “Đừng Vô Cảm” và “Tỉnh Thức Con Tim”
của hai chúa nhật I & II mùa vọng, hôm nay chúa nhật III mùa vọng, xin được
chia sẻ đề tài: con tim rung nhịp với chân lý.
Mấy ngày gần đây, video clip về sự thờ ơ của người qua đường đối
với cô gái bị đâm 28 nhát dao đang tạo sự quan tâm của dân cư mạng và gây xôn
xao dư luận Trung Quốc. Đoạn video có tên “Ngang nhiên giết người trên phố” đã
được phát tán với tốc độ chóng mặt trên các mạng xã hội Trung Quốc. Video này
cho thấy, vào lúc 9h sáng ngày 30/11, một người đàn ông chừng 25 tuổi đã xông
vào tấn công một cô gái qua đường. Hắn ta giật, lôi và giằng lấy giỏ xách của
cô gái. Cô gái đã gắng sức giữ chặt giỏ của mình. Sau gần 10 giây giằng co,
người đàn ông hung hãn đã rút dao trong người đâm tới tấp cô gái 4 nhát liền,
khiến cô ngã lăn ra đất. Ngay khi đó có hai người qua đường (có lẽ là 2 người
đàn ông) đứng yên gần bên quan sát sự việc; ở len đường bên cạnh có ít nhất 1
chiếc taxi và 2 chiếc môtô tấp vào lề (chắc là vì tò mò); cách đó không xa là
một nhóm người rất đông (có lẽ đi ra từ khách sạn). Chẳng ai có một phản ứng
gì! Người đàn ông say máu cuồng lên, hắn tiếp tục dùng dao đâm cô gái thêm mấy
nhát nữa. Nạn nhân dồn chút sức tàn gượng dậy kêu cứu, nhưng hai người đàn ông
qua đường vẫn thản nhiên không hề can thiệp hay báo cảnh sát mà lẳng lặng rời
khỏi hiện trường. Kẻ côn đồ tiếp tục đâm cô gái mười mấy nhát nữa cho đến khi
cô nằm im trên vũng máu. Sau cùng, hắn dùng chân đạp hơn 10 cái trên thi thể nạn
nhân bê bết máu rồi lạnh lùng bỏ đi.
Vụ án mạng được xác định xảy ra ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Sơn Tây
(Trung Quốc). Vụ giết người dã man đã khiến cư dân mạng đã vô cùng kinh ngạc về
hành động gian ác mất tính người của hung thủ và thương xót cho cô gái xấu số.
Được biết nạn nhân đã tử vong sau khi đưa tới bệnh viện do mất quá nhiều máu.
Họ cũng bày tỏ sự phẫn nộ với thái độ dửng dưng và bàng quan của những người
qua đường không ai chịu ra tay can ngăn hay báo cảnh sát. Cho dù địa điểm xảy
ra án mạng cách đồn cảnh sát không xa, nhưng hơn 10 phút sau vẫn không thấy
cảnh sát đâu cả. Nhiều người cho rằng hành động của người đàn ông khiến người
ta ghê tởm. Nhưng sự thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm của những người qua đường thấy
chết mà không cứu giúp còn tàn nhẫn hơn!
Xem đoạn video clip xong, người viết bỗng nhớ đến bộ phim tài
liệu “Chuyện Tử Tế” vang tiếng một thời của đạo diễn – NSND Trần Văn Thủy. Bộ
phim được bấm máy năm 1985, bị cấm chiếu trong nước, nhưng lại gây tiếng vang ở
nước ngoài. Bộ phim đoạt giải Bồ câu bạc Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được
báo chí nước ngoài ví như “Quả bom đến từ Việt Nam nổ tung ở thành phố Leipzig”
(Đức), được nhiều đài truyền hình nổi tiếng mua bản quyền phát sóng, được lọt
trong top 10 bộ phim tài liệu hay nhất được thế giới bình chọn năm 1992.
Có lẽ vì biết trước số phận “long đong” của “Chuyện Tử Tế” trong
hoàn cảnh xã hội Việt Nam 1985 mà Trần Văn Thủy đã dán tấm bùa hộ mệnh ở đầu và
kết cho bộ phim là câu nói của Karl Marx: “… Tất nhiên, chỉ có loài súc vật mới
có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của con người, và chăm lo riêng cho bộ da của
mình …”.
“Chuyện Tử Tế” được liền mạch bởi những câu hỏi mang tính nhân
sinh: thế nào là Nhân dân? Là Vĩ đại? là Hạnh phúc? Là Tử tế? … Nhưng tất cả
được gói gém trong lời mời gọi: “Hãy sống tử tế với nhau”. Nhưng đâu là nền
tảng, là cội nguồn để con người sống tử tế? Dường như chính đời sống tận hiến
phục vụ vô vị lợi của các Soeurs tại trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn) là đáp án
cho vấn nạn. Xin được lược ghi lại lời thoại và lời bình trong phim:
Khởi đi từ lời của cô gái: “Ăn ở với nhau tử tế là lẽ thường, là
niềm an ủi của người đời. Chỉ có đồ hủi mới ăn ở với nhau chẳng ra gì!”.
Lời cô gái như là cái cớ để đoàn làm phim đi đến Trại phong ở
Quy Hòa. Tại đây, họ gặp mặt đông đảo các thầy thuốc và đặt câu hỏi:
- Thưa các thầy thuốc, ở đây ai là người tận tâm chạy chữa, chia
sẻ với người hủi?
- Các bà soeurs! Chuyện đó phải kể đến các bà soeurs.
Các thầy thuốc, trong đó có các thầy thuốc từ khi rời ghế trường
Y, cho đến bây giờ đã hai thứ tóc, làm việc ở các trại hủi, đều trả lời như vậy
…
Những người làm phim hỏi: -Thưa, đâu là nơi bắt đầu để các
soeurs yên tâm, tận tụy phục vụ người mắc bệnh hủi?
- Dạ, chỗ bắt đầu của chúng tôi và đồng nghiệp là lòng Tin.
Vâng! Nếu không có lòng tin thì con người không thể sống
với con người được. Con người đã từ lòng tin thần thánh, lòng tin tôn giáo mà
đến với lòng tin có chứng cứ, tin vào những cái đích thật.
Người biên tập bộ phim này cho biết: "Từ rất xa xưa, cha
bác có dạy rằng tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân
tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của
quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có nổ lực tột bậc và chí hướng cao xa
đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn
đầu tiên vào việc học làm người - người tử tế - trước khi mong muốn và chăn dắt
họ trở thành người có quyền hành, giỏi giang hoặc siêu phàm".
Đọc đến đây có lẽ mọi người sẽ cho rằng người viết quá sa đà nơi
phần dẫn nhập. Nhưng có xem đi xem lại hai đoạn phim kể trên nhiều lần và
nghiền ngẫm nó thì ta mới thấy bừng sáng lời mời gọi của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin mừng hôm nay (Ga 1,6-8.19-28) giới thiệu sứ mạng của
Gioan Tẩy Giả. Ông là người làm chứng. Người làm chứng về Đức Giêsu là Ánh
sáng, là Ân sủng, là Sự thật. Người làm chứng có “Con tim rung nhịp với chân
lý” là Đức Giêsu, cho dẫu người đương thời khướt từ Ngài. Vì có “con tim rung
nhịp với chân lý” nên mạnh mẽ tuyên bố trong khiêm hạ: “Tôi là tiếng người hô trong
hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi … Người sẽ đến sau tôi và tôi
không đáng cởi quai dép cho Người.”
Người làm chứng trong đoạn video clip có tên “Ngang nhiên giết
người trên phố” là hai người đi đường, là những người trên 2 chiếc môtô và
taxi, là đám đông trước khách sạn … đã vô cảm với chân lý, với lòng trắc ẩn yêu
thương mà Thiên đã đặt để trong trái tim mỗi người. Họ vô cảm, dửng dưng, bàng
quang, lạnh lùng, vô trách nhiệm trước cái ác, trước chân lý bị chà đạm miễn
sao không phiền lụy đến bản thân. Đó là hệ quả của một xã hội đánh mất niềm tin
vào Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng là nguồn cội muôn loài; một xã hội chỉ chạy theo
vật chất tạm bợ trần gian.
Người làm chứng trong phim tài liệu “Chuyện Tử Tế” cũng rất
nhiều và cũng rất đáng sợ. Đáng sợ đến nỗi mà khi công chiếu những người lãnh
đạo đương thời phải thẹn với sự thật đau lòng mà cấm chiếu bộ phim. Tuy nhiên
trong muôn vàn người thích làm chứng giả hay tránh né sự thật ấy vẫn còn có
những con người có “con tim rung nhịp với chân lý”. Họ sống, hành xử theo niềm
tin vào Thiên Chúa là nguồn cội của Tình yêu và Sự thật để đến với tha nhân
bằng sự đồng cảm, yêu thương, chia sẻ … Những con người ấy được điển hình hóa
qua các nhân vật trong phim là các nữ tu tại trại phong Quy Hòa.
Người làm chứng trong bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay cũng có
nhiều: là phần đông dân chúng, là một số Tư tế và thầy Lêvi, là Gioan Tẩy Giả.
Dân chúng thời Chúa Giêsu thì im lặng không đón nhận: “Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11). Một số Tư tế và thầy Lêvi thì
nghi ngờ và dửng dưng đi kiểm chứng. Chỉ có Gioan Tẩy Giả thì xác tín, con tim
luôn rung nhịp với Chân lý là Con Thiên Chúa làm người nên khiêm tốn, sẵn sằng
làm tất cả mọi sự vì Chúa Giêsu, vì chương trình cứu độ của Ngài. “Con tim rung
nhịp với chân lý” của Gioan Tẩy Giả vẫn bền bĩ kiên trung rung nhịp theo Tin
Mừng của Chúa Giêsu đến hơi thở cuối cùng dưới lưỡi gươm gian trá và thâm độc
của Hêrôđê.
Bộ phim “Chuyện Tử Tế” được kết bằng ba biểu tượng: Thiên thần
Gabriel thắng quỷ dữ, hai ngọn đèn cầy leo lét trước gió và cuối cùng là ngọn
sóng bạc đầu dâng cao gào thét như thét gọi mọi người đừng vô cảm, hãy tỉnh
thức con tim, để rung nhịp với chân lý, với sự thật, với nỗi đau của tha nhân.
Lời dạy của Tin Mừng hôm nay được thể hiện qua đời sống chứng tá
cho Chân lý của Gioan Tẩy giả là lời mời gọi tất cả chúng ta phải có “con tim
rung nhịp với chân lý” để làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu, để sống “tử tế”
với nhau, khướt từ mọi đam mê quyến rũ, mọi tham lam ích kỷ vụ lợi cá nhân.
Hình tượng Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng càng thôi thúc mỗi người
kitô hữu chúng ta hơn nữa: Hãy khiêm tốn sửa đổi chính mình để đón mừng Hài Nhi
Giêsu ngự đến.
8. Có một
người ở giữa anh em – An Phong
Trong mùa Vọng, ba nhân vật vẫn được nói đến luôn, đó là: Đức
Maria, ngôn sứ Isaia và Gioan - người làm phép Rửa. Bài Tin mừng hôm nay đề cập
đến nhân vật thứ ba vừa nói ở trên, với một chứng từ rõ ràng về con người sa
mạc ấy. Gioan loan báo Đấng đang đến, Gioan chỉ cho thấy Đấng ấy chính là Đức Giêsu;
và một hệ luận tất nhiên: Gioan nhận ra mình không xứng đáng cởi xăng-đan cho
Người.
Cùng với Gioan, mùa Vọng hẳn là mùa loan báo và là mùa chỉ cho
thấy; đồng thời mùa Vọng là mùa nhận ra mình không xứng đáng.
Thiên Chúa vốn là một vị Thiên Chúa ẩn giấu. Người ta đã hao tổn
biết bao giấy mực để cố khám phá vị Thiên Chúa ẩn giấu này. Gần 2000 năm lịch
sử trước Chúa Giáng sinh, người ta mặc sức hình dung Ngài với những dung mạo
khác nhau. Với Abraham, Ngài không có tên; Ngài là "sự sợ hãi của
Isaác" (St 31,42), là "Đấng Tối Cao của Giacóp" (St 49,24)...
Với Isaia, Ngài là "Người Tôi Tớ đau khổ"...
Như thế, Ngài luôn luôn và vẫn là một vị Thiên Chúa cần được
loan báo và cần được chỉ cho thấy. Đôi lúc người ta phác họa chân dung một
Thiên Chúa sai lạc, hoặc chỉ dò ý tưởng riêng của mình. Hẳn lúc đó, nguời ta sẽ
nhận được một câu trả lời "tôi không phải như là các bạn nghĩ đâu";
hoặc "có một người ở giữa anh em mà anh em không nhận ra".
Như thế, cùng với Gioan, chúng ta hẳn phải loan báo và chỉ cho
người khác thấy một vị Thiên Chúa tình yêu; Loan báo và chỉ cho thấy Thiên Chúa
đang đến. Ngài đang ẩn giấu nơi người nghèo, người đau khổ, những phụ nữ
"đứng đường"... bởi Ngài là tình yêu, là niềm cảm thông sâu xa thân
phận con người.
Như Gioan, nhận ra mình không xứng đáng, đó là một sự không xứng
đáng trước vị Thiên Chúa tình yêu bao la; ta đấm ngực "lỗi tại tôi, lỗi
tại tôi mọi đàng", nghĩa là dám nhận ra mình còn "những điều thiếu
sót", chưa làm những điều phải làm để gia tăng tình yêu. Victor Hugo đã có
lần lên tiếng cảnh tỉnh: Ngày nào chúng ta không thắp lên ngọn lửa sưởi ấm,
ngọn lửa tình yêu, chắc chắn sẽ có người chết rét".
Như thế, cùng với Gioan, chúng ta cất tiếng cao rao tình yêu
Thiên Chúa bao la và cố gắng sống bác ái với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu,
Hẳn cũng có lần con đấm ngực, dằn vặt tâm hồn
và tha thiết mong Chúa giải thoát nỗi khốn cùng của con.
Hẳn cũng bao lần con đứng trước hang đá, cầu xin Chúa mau đến;
Nhưng hình như con chưa dám "đóng vai Chúa"
để đến với những người nghèo khó,
khổ đau chung quanh con.
Và hình như con chưa nhận ra Chúa là tình yêu,
Chúa đang mời gọi tình yêu nơi chính tâm hồn của con.
Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài trở nên tình yêu trong con
và đốt nóng tâm hồn của con bằng tình yêu của Chúa.
9. Niềm
vui đang đến – Lm Lu-y Nguyễn Quang Vinh
Phụng vụ Chúa nhật thứ ba mùa Vọng ghi đậm nét vui tươi. Tiên
tri Isaia sống trước Chúa Cứu Thế sáu trăm năm, loan báo tin mừng hồi hương cho
dân đang bị lưu đày ở Babylon: “Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo
tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá
cho kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa … Tôi mừng rỡ muôn phần
nhờ Đức Chúa. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ cứu độ” (x. Bài Đọc 1. Is 61,
1-2a.10-11). Đây là niềm vui giải phóng, niềm vui hồi hương.
Tin vui cứu độ được Đức Maria cảm nghiệm cụ thể khi lời sấm của
ngôn sứ Isaia trở thành hiện thực nơi cung lòng Mẹ, khi Mẹ thưa với sứ thần
truyền tin “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ
thần nói”(Lc 1,38) và Mẹ diễn tả niềm vui sung mãn đó trong Kinh Linh Hồn Tôi
Ngợi Khen Chúa (Kinh Magnificat). Mẹ lên tiếng ca tụng Thiên Chúa đã đoái
thương thân phận mọn hèn của Mẹ, niềm vui cá nhân của riêng Mẹ được tuyển chọn
làm mẹ Thiên Chúa; và niềm vui của cộng đồng Do thái được cứu độ theo như Lời
Chúa đã hứa từ ngàn xưa. Niềm vui hoàn vũ nầy này vọng lại trong thư thánh
Phaolô gửi cho tín hữu Thêxalônica đang chờ mong Chúa Cứu Thế trở lại: “Anh em
hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (x. Bài Đọc 2. 1Tx 5, 16-24).
“Vì đã có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng
về ánh sáng” (x. Bài Tin Mừng. Ga 1, 6-8.19-28), làm chứng cho niềm vui cứu độ
đã xuất hiện trên trần gian, đó là Chúa Giêsu. Đây là khởi đầu niềm vui Chúa
Cứu Thế thực hiện bằng con đường nhập thể và nhập thế đi vào giữa nhân loại.
Niềm vui Thiên Chúa làm người, định cư giữa nhân loại, để nhân loại biết đường
về trời.
Niềm vui cảm nghiệm mình được Thiên Chúa cứu chuộc được tiên báo
qua nụ cười của bà Sara, vợ ông Ápraham, khi được báo tin con đầu lòng Ixáac sẽ
ra đời, cho đến sự nhảy mừng của thánh Gioan khi còn trong lòng bà Isave. Tất
cả cho thấy niềm vui của buổi phụng vụ hôm nay như tô đậm nét sự hân hoan mà bà
Isave cảm nghiệm khi đứa con thân yêu nhảy lên trong dạ mẹ, niềm sung sướng
tràn trề của vị tiên tri cuối cùng Cựu Ước gặp được Chúa Cứu Thế thời Tân Ước.
Niềm vui vỡ bờ hoành tráng hoàn vũ.
Niềm vui vĩ đại đòi cung cách diễn tả hòanh tráng. Tiền hô hậu
ủng là phong cách nhân lọai của bất cứ đại vương nào khi hạ cố thăm thần dân
của mình. Sự long trọng của người tiền hô càng làm sáng tỏ uy quyền cao cả của
nhân vật chính yếu đến sau. Đây là cung cách của vị tiền hô: Lối sống tu rừng
khắc khổ và đơn sơ, cách ăn mặc kỳ dị và mộc mạc, lời rao giảng nghiêm khắc và
cứng rắn của vị tiền hô Gioan gây thắc mắc cho những người thời bấy giờ đến
phỏng vấn ông. Tuy nhiên đứng trước niềm vui to lớn này vị tiền hô xóa mình đi.
Ông khiêm hạ thẳng thắn khẳng định mình không phải là Đấng Kitô, không phải là
Êlia, không phải là ngôn sứ mà truyền thống Do thái mong đợi. Ông khẳng định
mình là tiếng kêu trong sa mạc, có sứ mạng dọn đường tâm linh, chỉnh đốn tâm
đạo cho ngay thẳng để đón tiếp một nhân vật cao trọng âm thầm đang đến một cách
bí bí ẩn: “ Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau
tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho người” (x. Bài Tin Mừng).
Con người bí ẩn đó là Chúa Giêsu, mà cho đến hôm nay, đối với
các Kitô hữu, Người vẫn còn y nguyên là một mầu nhiệm cực lớn, đòi liên tục
khám phá trong đời sống. Tất cả những gì diễn tả về Người đều là mầu nhiệm đòi
khám phá, sự hiện hữu của Người, quyền năng vô biên của Người, tình yêu cứu
chuộc của Người đối với nhân loại, sự đồng hóa của Người nơi anh em hèn mọn, cả
đến sự chết và sự phục sinh vinh hiển của Người đều là bí ẩn đòi khám phá không
ngừng trong cuộc sống.
Thật vậy mỗi ngày người Kitô phải liên tục khám phá niềm vui
trong gặp gỡ tha nhân để phát hiện con người bí ẩn đó, vì “Ngài ở giữa các ông
mà các ông không biết”. Không những khám phá niềm vui mà thôi, người Kitô hữu
còn phải là tiền hô cho Chúa Cứu Thế nữa, sống vui tươi xây dựng xã hội trần
thế, bởi vì Kitô hữu là người mang tin vui đến cho mọi người. Tuy nhiên Người
mang tin vui mà chính mình không vui là phi lý, là phản tác dụng, là phản bội
sứ điệp loan báo Tin mừng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết khám phá con người bí ẩn mà
thánh Gioan nói đến: “Ngài ở giữa anh em mà anh em không biết”, con người đó có
thể là láng giềng khó tánh, là người đồng nghiệp gặp họan nạn, là bệnh nhân cần
giúp đỡ, là người xa Chúa lâu ngày cần trở lại. Amen.
10. Tin mừng
giải phóng – Như Hạ, OP
TIN MỪNG đem lại niềm vui cho toàn thể vũ trụ. Nghe lời Chúa hôm
nay, chúng ta sẽ hiểu tại sao Kitô giáo là một đạo Tin Mừng, đem niềm vui đến
cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu đã xuống trần gian để mạc khải tình Cha yêu
thương hết mọi người, không trừ ai. Đúng hơn, "Ngôi Lời hằng hữu đời đời
đã nhập thể làm người Á châu," (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic-
8/12/1999) để đem TIN MỪNG giải phóng đến cho miền đầy cơ chế bất công nhất thế
giới.
Dọn Đường Cho Chúa Đi
Cho đến hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn là một bóng mờ trên miền đất
bao la đó. Hơn khi nào, cần phải nhìn Đức Phật, Khổng Tử, Lão tử v.v. như những
sứ giả dọn đường cho Chúa đến với dân Người. Nhưng hơn ai hết, Gioan Tẩy giả là
vị tiền hô lớn nhất. Hôm nay "ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh
sáng, để mọi người nhờ ông mà tin" (Ga 1:7). Lời chứng Gioan Tẩy giả thật
là hùng hồn và ảnh hưởng. Ông ý thức rất rõ sứ mệnh và vai trò của mình. Ông
chỉ là trung gian giới thiệu Đức Giêsu cho muôn dân, chứ không phải là người
muôn dân trông đợi. Bởi vậy khi bị những người thuộc phái Pharisêu bắt bí, ông
đã khẳng định: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn đường cho
thẳng để Đức Chúa đi" (Ga 1:23; Is 40:3). Những người Pharisêu "cứ
gặng hỏi xem Gioan Tẩy giả là ai, nhưng Gioan lại muốn cho họ biết Đức Giêsu là
ai" (Life Application Study Bible:1991).
Dọn đường cho Chúa đi vào lòng người. Chúa là nguồn bình an và
hoan lạc sẽ đem đến cho nhân loại một mùa xuân rực rỡ. Mấy ai phát hiện được
mùa hồng ân đang đến ? Bởi vậy Gioan mới nhắc nhở mọi người: "Có một vị
đang ở giữa các ông mà các ông không biết" (Ga 1:26). Chính vì thế, vai
trò Gioan cực kỳ quan trọng. Ngoài Gioan, không ai có thể thấy được Đức Giêsu
là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian." (Ga 1:29) Ông đã
đến như một chứng nhân TIN MỪNG. Chính ông đã chỉ cho các môn đệ thấy TIN MỪNG
đích thực là Đức Giêsu.
"Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về
ánh sáng" (Ga 1:8). Chính khi làm chứng như thế, ông mới giữ trọn được
niềm vui cho mình và các môn đệ. Đức Giêsu đã không hề "dập tắt thần
khí" (1Tx 5:19) nơi chứng từ Gioan Tẩy giả, ngay cả khi ông hoài nghi về
sứ vụ của Người (Mt 11:2-6; Lc 7:18-23). Trái lại, nhiều lần Người còn ca ngợi
ông cao trọng "hơn cả ngôn sứ" (Mt 11:9) và bất cứ "phàm
nhân" nào (x. c.11). Dầu vậy, ông chỉ tự nhận như một tên nô lệ bất xứng: "Tôi
không đáng cởi quai dép cho Người" (Ga 1:27).
Đúng thế. Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa."Nhờ Ngôi Lời,
vạn vật được tạo thành" (Ga 1:3), trong đó có Gioan Tẩy giả. Một tạo vật
làm sao có thể so sánh với Đấng Tạo hóa ?! Nhưng "Ngôi Lời đã trở nên
người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (c.14). Nghĩa là "Người đã đến
nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (c. 11). Chính vì thế mới
cần đến lời chứng Gioan Tẩy giả. Ông đã tìm được niềm vui trong sứ vụ làm
chứng. Ông đã thành công rực rỡ tới mức đổ máu vì sự công chính, một nhân tố
làm nên Nước Trời.
Nhận Diện
TIN MỪNG đã bắt đầu vang lên với chứng từ Gioan Tẩy giả. Nhưng
TIN MỪNG chỉ thực sự có hiệu lực từ lúc Đức Giêsu xuất hiện trong quyền năng
Thánh Linh, một sức mạnh giải thoát. Thực vậy chính Chúa đã công khai xác nhận
"hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh" (Lc 4:21): "Thần Khí Chúa
ngự trên tôi, Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ
nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố Cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, Cho
người mù biết họ được sáng mắt, Trả lại tự do cho người bị áp bức, Công bố một
năm hồng ân của Chúa." (c.18-19; Is 61:1-2).
Từ nay TIN MỪNG đã trả lại cho tất cả những người cùng khổ nhất
tất cả niềm vui ơn cứu độ. Như thế xã hội đã được Phúc Âm hóa. Không hiểu tại
sao có người không đồng ý với việc "Phúc Âm hóa Á châu" trong thông
điệp "Giáo hội tại Á châu" của Đức Giáo Hoàng ? Nếu Phúc Âm hóa chỉ
là đổ mấy giọt nước rửa tội trên đầu, quả thực Giáo hội đang đi ngược dòng.
Nhưng nếu chỉ nhằm đem lại cho xã hội đời sống "công chính, bình an và hoan
lạc trong Thánh Thần" (Rm 14:17), Giáo hội đáp ứng những gì các dân tộc Á
châu đang mong đợi nhất. "Giáo hội xác tín rằng trong lòng dân chúng, văn
hóa và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát "Nước Hằng sống" (x.Ga
4:10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo ra và chỉ có mình Chúa Giêsu Cứu
thế mới có thể thỏa mãn đầy đủ" (Giáo hội tại Á châu:1999). Cơn khát vọng
này lớn hơn nỗi mong chờ Đấng Messia của dân Do thái. Cơn khát vọng đó kéo dài
cả mấy ngàn năm rồi. Giáo hội đã nêu lên được lý tưởng cao cả nhất của công
cuộc Phúc Âm hóa. Giáo hội chỉ muốn phục vụ, chứ không muốn khống chế con
người.
Thế nhưng, cho tới nay vẫn có những "chuyên viên" Phúc
Âm hóa "lẫn lộn sứ vụ rao giảng Tin Mừng với khát vọng truyền bá các giá
trị văn hóa và lối ứng xử kiểu Âu châu" (Cuộc tọa đàm về truyền giáo đại
kết tại Hồng Kông, VietCatholic 8/12/1999). Lối khống chế đó đã làm cho công
cuộc Phúc Âm hóa Á châu trì trệ và thất bại.
Tuy thế, vẫn chưa đến nỗi thất vọng. Thực tế "Chúa Thánh
Thần, Đấng hoạt động trên Á châu trong thời các Tổ Phụ và ngôn sứ, và hoạt động
còn mãnh liệt hơn nữa trong thời Chúa Giêsu và Giáo hội lúc đầu, bây giờ vẫn
hoạt động ở giữa các người Kitô hữu Á Châu, tăng cường bằng chứng đức tin của
họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo của lục địa" (Giáo hội
tại Á châu:1999). Chỉ có Thánh Linh mới thấu hiểu và đáp ứng nổi tất cả những
khát vọng lớn lao của các dân tộc.
Vậy các dân tộc Á châu đang mơ ước những gì ? Chắc chắn sống
dưới nhiều cơ chế bất công khác nhau, họ muốn thấy công lý ngự trị. Đây là một
cơ hội lớn xây dựng Nước Chúa tại Á châu. Hơn lúc nào hết, chúng ta cố gắng
"thiết lập lại công bằng và làm cho công bằng được triển nở ở mọi cấp bực
xã hội" (ĐGH Gioan Phaolo II: VietCatholic- 8/12/1999). Nhưng muốn thực
hiện được công cuộc đó, xin khắc tâm khắc cốt lý tưởng Kitô hữu sau đây:
TÌNH YÊU phục vụ tha nhân,
Sống là TIẾN BỘ, dấn thân suốt đời.
TÍN THÀNH sống đạo làm người,
Hồng ân thắp sáng bầu trời TỰ DO.
Hai vai TRÁCH NHIỆM 'tiền hô':
TIN MỪNG cứu độ, điểm tô Nước Trời.
Lý tưởng đó đã được Thần Khí khơi dậy nơi Kitô hữu. Nhưng bao
lần lý tưởng tuổi trẻ đã bị vùi dập. Bởi vậy, thánh Phaolô cảnh cáo: "Anh
em đừng dặp tắt Thần Khí." (1 Tx 5:19) Đặc biệt, nơi giáo xứ Thần Khí đang
hoạt động như "trung tâm đời sống phụng vụ" (ĐGH Gioan Phaolô II:
CWNews 25/11/2002) và trung tâm đào luyện giáo lý và luân lý cho giới trẻ Kitô
hữu. ĐGH cho thấy giáo xứ là tụ điểm quan trọng để giáo dân "uống tận
nguồn suối Lời Chúa và truyền thống. Người cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của bí tích Thánh Thể trong việc nuôi dưỡng đức tin, "bảo vệ chúng ta khỏi
tội lỗi, kiện cường chúng ta trong tình thân ái, và duy trì nỗ lực chúng ta
trên cuộc hành trình dương thế." (CWNews 25/11/2002) Không có sức mạnh đó,
tuổi trẻ không thể chống lại những ảnh hưởng văn hoá trần tục. Muốn tìm được
hứng thú cho cuộc sống, giới trẻ "cần phải tiếp tục cuộc hành trình, khởi
sự từ Đức Kitô, nghĩa là từ bí tích Thánh Thể." (ĐGH Gioan Phaolô II:
Zenit 25/11/2002) Hôm nay, Giáo hội cần giáo dân "ý thức về ơn gọi rao
giảng Tin Mừng" và sẵn sàng đem sứ điệp Tin Mừng vào trần gian. Muốn
"làm chứng về ánh sáng"(Ga 1:7.8) là Đức Kitô giữa thế giới chìm đắm
trong bóng tối hôm nay, họ cần giáo xứ hỗ trợ mạnh mẽ (ĐGH Gioan Phaolô II:
Zenit 25/11/2002) và trang bị đầy đủ sức mạnh Tin Mừng.
11. Đơn
giản là như thế – G. Nguyễn Cao Luật
Tôi chẳng phải là ai cả
Câu chuyện xảy ra tại một địa điểm ở phía Bắc Biển Chết, có lẽ
cũng là nơi xưa kia dân Do-thái đã vượt qua sông Gio-đan để tiến vào Đất Hứa.
Ông Gioan Tẩy Giả đang có mặt tại đó và làm phép rửa bằng nước. Chỉ một nghi
thức sám hối này cũng đủ để phân biệt phép rửa của ông với những cách thức
thanh tẩy khác nhau vốn đang thịnh hành trong các nhóm thời bấy giờ. Con người
này là ai vậy mà biết bao người đang ùn ùn kéo đến với ông để lãnh nhận phép
rửa ? Con người này có sứ mạng gì mà lời rao giảng của ông có âm giọng như
tiếng kêu của các vị ngôn sứ, tính cho đến lúc này, đã im vắng được ba thế kỷ ?
Người Do-thái, hay chính xác hơn, một số tư tế và mấy thầy Lê-vi
đã muốn xác định xem ông là ai. Họ đặt câu hỏi và muốn xếp ông vào một trong số
những hiểu biết của mình. Họ muốn kiểm chứng, họ muốn tin chắc vào hiểu biết
của mình.
Trước hết, họ muốn biết có phải là Đấng Mê-si-a không. Trong
giai đoạn căng thẳng lúc bấy giờ, có rất nhiều người mong chờ vị sứ giả của
Thiên Chúa đến. Họ đã mường tượng ra dung mạo của vị sứ giả, nhưng là một thứ
hình ảnh cứng ngắc. Trong thực tế, họ đã có nhiều hình ảnh mẫu, tuỳ theo thái
độ chờ đợi, tuỳ theo khát vọng của mỗi người. Trong khi đó, các vị lãnh đạo dân
đang cố gắng kiểm chứng danh tính của những người đang có ảnh hưởng trên dân
chúng. Chính họ cũng có quan niệm về dung mạo của con người phải đến. Do đó, họ
đã nêu vấn đề với ông Gioan khi thấy đám đông kéo đến với ông để nghe giảng và
đón nhận phép rửa.
Ông có phải là ngôn sứ Ê-li-a không ? Một nhân vật khác được nêu
lên sau khi ông Gioan đã tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a. Từ trước đến
nay, người Do-thái vẫn công nhận ngôn sứ Ê-li-a là một chứng nhân vĩ đại về
lòng tin. Ông đã được cất lên trời cách lạ lùng (2 V 2), và ông sẽ trở lại để
dọn đường cho Đấng Mê-si-a đích thực. Lúc sinh thời, ngôn sứ Ê-li-a đã bị mọi
người loại bỏ. Nhưng giờ đây, người ta đã biết ông là ai. Con người xưa kia bị
bách hại, nhưng giờ đây lại được tôn phong.
Người ta vẫn dựa trên những hình ảnh quá khứ để nhận định về
hiện tại. Nhưng mỗi người có vai trò riêng của mình, và ông Gioan Tẩy Giả là
một trường hợp rất đặc biệt.
Đơn giản là một chứng nhân
Câu trả lời của ông Gioan cho thấy một thái độ khiêm tốn cần ngạc
nhiên.
Ông tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a, không phải là Ánh
Sáng. Ông không phải là ngôn sứ Ê-li-a trở lại, cũng không phải là vị Ngôn Sứ
vĩ đại như người ta vẫn chờ đợi.
Ông chỉ là vị tiền hô, đơn giản là một chứng nhân, có vai trò
hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng ông loan báo. Ông là ngọn đèn do Thiên Chúa thắp
lên để soi đường cho Đức Ki-tô đến, là tiếng nói của Thiên Chúa. Đơn giản chỉ
có thế. Tất cả chỉ có thế. Ngọn đèn để soi sáng, tiếng nói để cung cấp lời.
Cách trả lời của ông Gioan Tẩy Giả cho thấy ông không để cho
người ta xác định về mình. Ông không lặp lại quá khứ, nhưng mở ra tương lai. Vì
vậy, ông là người của bất ngờ. Người ta không thể đóng khung vào một loại nào.
Ông khước từ quan niệm coi ông là điểm dừng, ông chỉ muốn mình là điểm cần đi
qua. Ông làm chứng về ánh sáng, một loại ánh sáng luôn vuột khỏi tầm với con
người, nhưng lại soi chiếu cho họ trên con đường của mình. Ông Gioan chỉ muốn
mình là người chỉ đường và không muốn người ta chăm chú vào mình. Một thái độ
tuyệt vời và chính điều này làm ông trở nên cao cả. Đây cũng là đặc tính của
mọi ngôn sứ Ít-ra-en.
Đàng khác, câu trả lời của Gioan là một thứ tuyên bố về lý lịch
cá nhân, nhưng hoàn toàn tiêu cực, làm cho những người chất vấn chưng hửng,
thêm thắc mắc. Người ta không thể xác định về ông, nhưng ông vẫn rất cần thiết
và quý giá để chỉ cho mọi người thấy rằng: có một vị đang ở giữa các ông mà các
ông không biết".
Tuy vậy, phải nói rằng chính ông Gioan Tẩy Giả cũng không biết
rõ về Đức Giêsu. Đang khi ông dìm người khác trong nước để thức tỉnh và thanh
tẩy họ, thì chính ông lại sống trong nghi nan. Ông biết rằng ông có sứ mạng dọn
đường cho Đấng Mê-si-a đến. Ông cũng biết rằng Đấng Mê-si-a cao cả hơn ông
nhiều: "Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người" ;
"có người đến sau tôi nhưng trỗi hơn tôi, vì có trước tôi" ; ông cũng
cảm thấy một sự đứt đoạn, nhưng ông chưa thấy Người đến. Ông cũng không biết
rằng Vị Sứ giả của Thiên Chúa, mà ông là người dọn đường, lại chẳng là ai khác
hơn là người bà con của ông tại làng Na-da-rét, là ông Giêsu người thợ mộc.
Ông chỉ biết rằng chính ông không phải là Đấng Mê-si-a, và chỉ
là kẻ dọn đường. Ông biết điều này rất rõ và ông sống đến tận cùng. Ông dấn
thân trọn vẹn để thi hành sứ mạng ngôn sứ, giới thiệu Đức Ki-tô khi tới thời
gian đã được ấn định. Ông biết rằng ông không phải là ánh sáng, nhưng ông có
mặt để làm chứng về Ánh Sáng. Rồi đây, ông sẽ đưa tay ra để chỉ vào Đấng phải
đến. Người là Đức Giêsu, Người đến và đem lại cho Thiên Chúa vô hình, Thiên
Chúa không thể đụng chạm tới được một dung mạo, một thân thể.
Về một Thiên Chúa đã biết và chưa biết
Không ai thấy Thiên Chúa, không ai nghe được Thiên Chúa, và cũng
không ai đụng chạm được Thiên Chúa.
Làm thế nào bây giờ trước một Thiên Chúa được gọi là Ánh Sáng
nhưng không ai nhìn thấy được ? Đấng tự nhận mình là Chân Lý tinh tuyền nhưng
lại xuất hiện dưới khuôn mặt không thực, Người là ai ? Đấng hiện diện ở khắp
nơi nhưng dường như lại vắng mặt, Người là ai ?
Các nhà thần học luôn tìm ra những lý luận rất hay, nào là Thiên
Chúa ẩn mình để tôn trọng sự tự do của chúng ta, hay để tạo cho chúng ta nỗi
ngạc nhiên khi chúng ta chết, v.v... Tuy vậy, chúng ta cảm thấy không thoả mãn
với những giải thích như thế, và chúng ta có cảm tưởng rằng những giải thích
này cũng chẳng làm cho những người đã đề ra chúng được thoả mãn.
Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu thấu: chúng ta phải chấp nhận
sự kiện đó, một sự kiện không thể khác được. Chấp nhận không phải để buông
xuôi, nhưng là để nhìn rõ chỗ đứng của chúng ta và nhất là để đặt Thiên Chúa
vào đúng chỗ của Người, tức là Người có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ nơi nào chúng
ta đang chờ đợi Người.
Như vậy, nếu Thiên Chúa không để cho cảm giác và lý luận của
chúng ta đụng chạm tới Người, nếu Thiên Chúa không để cho chính lòng tin của
chúng ta nắm bắt được Người, thế thì phải chăng chúng ta bị kết án phải tìm đến
Người trong bóng đêm mịt mù ? Phải chăng chúng ta đang có nguy cơ đi lạc đường
hay là chỉ chạy theo một ảo ảnh ?
Những câu hỏi như thế vẫn được đặt ra cho chúng ta và có lẽ
không bao giờ chúng ta có được câu trả lời đầy đủ. Thiên Chúa vẫn luôn ở phía
trước và mở ra những chân trời rộng lớn hơn. Người mời gọi chúng ta bước vào và
trở thành nhân chứng cho Người.
Như ông Gioan Tẩy Giả, mỗi chúng ta cũng được mời gọi trở thành
người loan báo về một Thiên Chúa đang ẩn mình nhưng vẫn đang đến. Mỗi chúng ta
đang được mời gọi đóng vai trò rất khiêm tốn nhưng không thể thiếu: giới thiệu
về Thiên Chúa đang đến. Nói một cách khác, chúng ta được trao phó trách nhiệm
lôi kéo thêm nhiều người cùng gia nhập vào cộng đoàn những người tìm kiếm Thiên
Chúa, tìm kiếm Chân Lý và Ánh Sáng, đang khi chính chúng ta phải trở thành ngọn
đèn, thành tiếng nói. Đơn giản là như thế. Tất cả chỉ có thế.
* * *
Thiên Chúa của tôi vượt hẳn mọi thứ suy luận và mọi thứ đo
lường.
Thiên Chúa của tôi là thế này: kỳ diệu, độc đáo và gây sững sờ.
Người là hữu thể, nhưng lại là chuyển biến,
Người là những gì đã có, hiện có và sẽ có,
Người là tất cả, nhưng không có gì là Người,
Chúa tôi gây sững sờ
là Đấng người ta tin nhưng không thấy,
người ta yêu mến nhưng không sờ được,
người ta trông chờ nhưng không nghe theo,
người ta chiếm hữu, nhưng không đáng được như thế.
(Juan Arias - Thiên Chúa mà tôi không tin, trang 32)
12. Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn
hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả
năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để
nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy
ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh,
cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức
Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của
ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn
ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi
vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là
Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là
một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một "tiếng kêu trong sa
mạc". Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu
Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài
một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết
phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt
đối khiêm nhường.
Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn
ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn
dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc
nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita
còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da
thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ
hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân
mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất
là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng
ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc
sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan
Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Kitô mà ngài loan báo.
Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của
sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính
mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có.
Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực
với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không
giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn
khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã
phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng
lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực
của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Kitô.
Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của
sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân
luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là
người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận
biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự
Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại
cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: "Người
đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người" (Ga 1,27). Nhiều
môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi
thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ
đã hoàn tất, nên ngài nói: "Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ
đi" (Ga 3, 30).
Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã
biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng
tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa
được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng
nhân của ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy
đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới
thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ
lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm
chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản
thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh
Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.
Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở
nên chứng nhân của ánh sáng.
13. Chứng
nhân ánh sáng trung thực
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều
nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị
tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử
nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens...đều
tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác
cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy giả…
Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội
họa sớm nhất.
Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon
về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có
nguồn gốc Palestine. Dưới đây là ảnh tác phẩm. Bức tranh đã bị hư hại nhiều,
không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên
cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh
Đức Mẹ Maria.
Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan tẩy giả, chiếm số lượng nhiều
nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: "Thánh Gioan
Tẩy giả bị trảm quyết".
Dưới đây là icon thể hiện chủ đề "Thánh Gioan Tẩy giả bị
trảm quyết" được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ
VII, thuộc truyền thống Byzantium.
Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: "Tôi
không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng". Phía sau
là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu. Bên trái, là đầu của
ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta. Bên phải:
ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì
Thánh Gioan Tẩy giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho
sự sống.
Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn
cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là
người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).
1. Chứng nhân ánh sáng trung thực
Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã viết: “Có một người được Thiên
Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để
mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô
ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình.
Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.
Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “Đây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11,
9). Và Chúa còn nói thêm về Gioan: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa
từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả” (Mt 11,11). Nhưng so sánh với Chúa
Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi
xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình
kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là
Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa
Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây
nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.
Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân
chúng tự hỏi xem có phải ông là Đấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ
gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ
mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ
nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong
những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời
tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của
mình mà thôi.
Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh,
không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì
kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có
nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo
cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài
“rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua
muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết
ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ
mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung
thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời
chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.
Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên đã sống một cuộc
đời thật đẹp và đã chết hào hùng.
2. Thánh Gioan sống rất đẹp
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia
đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa,
lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài
cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36)
để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông dân chúng, được
dân chúng ngưỡng mộ, xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho
họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho
Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ
Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật
lên, còn tôi phải lu mờ đi”.(Ga 3,30)
3. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế
quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than.
Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.
Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn
sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà
vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu.
Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo,
Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô
cùng.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài
không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết
chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều
quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là
thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật
bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Người theo Đạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở
giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi
giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô.
Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức
Chân Phước Gioan Phaolo II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi
mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh
sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay,
người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân
sự thật.
4. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan
đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ
có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân,
để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể
nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều
đúng là sai trái.
Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những
tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay.
Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người
miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận,
văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng
ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen.
Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo
đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo
đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?
Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ
trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân
tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có
hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất
mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội ở các tầng nấc... Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải
sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công
chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả.
(x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).
Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen
với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là
một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới
là "Nói thẳng, nói thật". Có chủ trương như thế là vì có tình trạng
quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18.
5. 1990 có nhan đề đáng để ý.
Thôi xài chữ giả
Chữ nghĩa du di chả mấy hồi
Đói không nói đói, "thiếu ăn" thôi!
Học hành "hạn chế": y chang dốt
Báo cáo "tuy nhiên": ắt hẳn... tồi.
"Vượt mức chỉ tiêu"? Nên bớt nửa,
"Có phần sơ sót"? Hãy nhân đôi...
Mực đen gấy trắng đòi trung thực
Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)
Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của
tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể
nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn.
Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan
chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã
ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám
khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một "giả thuyết làm việc", như
người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi
thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một
sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân
sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24).
Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi
chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm
lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự
thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.
Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời
cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư
cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân
chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối
cho Chúa đến.
14. Người
làm chứng
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ ‘làm chứng’ được dùng đến bốn
lần.
Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để làm chứng
(x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng là một
lời chứng hùng hồn của ông (c.19).
Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không
phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng
thật là Đức Kitô.
Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa, tiếng tăm của Gioan
trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến tìm hiểu con
người ông.
Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai? Gioan đã đưa ra ba câu trả
lời phủ định: "Tôi không phải là Đức Kitô" - "Không phải" -
"Không". Những tiếng ‘không’ dứt khoát và trung thực.
Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng
phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ
người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất.
Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai?
Gioan đã định nghĩa mình là một tiếng hô trong hoang địa, là lời
mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô.
Ông biết rõ mình là người đến trước nhưng vị đến sau lại có
trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga 1,30). "Tôi không đáng cởi
quai dép cho Người." Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông nhận mình không xứng.
Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước
bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một
phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.
Gioan không ngại giới thiệu môn đệ mình theo Đức Giêsu, và ông
bình an khi người ta đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).
Có ai siêu thoát như Gioan?
Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên. Ông hạnh phúc vì mình đã
hoàn thành sứ mạng. "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga
3,30).
Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan đáng tin hơn.
"Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết."
Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với nhiều người.
Con người vẫn khắc khoải đi tìm những nẻo đường cứu độ, trong
khi Đấng Cứu Độ đã đến từ hơn 2000 năm.
Xin được làm người chứng như Gioan, giới thiệu cho bạn bè Đấng
mà họ đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể thao...
Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho giới trẻ say mê? Đức Giêsu có
phải là mẫu người lý tưởng của các bạn trẻ không?
Gioan là con người siêu thoát. Ông không tìm mình, ông vượt lên
trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm chứng tuyệt như Gioan không?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy
Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi
lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh
gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó
với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
(R. Tagore)
15. Kitô
hữu, bạn là ai?
(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)
Trên đường đi, cảnh sát giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy
tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh nhân dân, trong đó có ghi sẵn họ và tên, địa
chỉ, ngày và nơi sinh của tôi. Thế là cảnh sát hài lòng, vì đã biết được tôi là
ai trong giấy tờ. Nhưng cảnh sát lại không biết tôi làm những việc gì, những
mối quan hệ của tôi, những suy nghĩ của tôi, lý tưởng của tôi, niềm vui, nỗi
buồn của tôi. Tất cả những điều đó ông không cần lưu tâm. Ông đã cầm được giấy
chứng minh nhân dân chính thức của tôi và thế là đủ. Nếu có cần thì hỏi thêm
giấy chủ quyền xe gắn máy và thuế lưu hành.
Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai xuất hiện bên bờ sông
Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến với ông, khiến nhà cầm
quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ cử phái đoàn đến điều
tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan Tẩy Giả đã không xuất
trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, địa chỉ, lý lịch
của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự dấn thân, ơn gọi và lẽ
sống của ông: “Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc… Tôi đây làm phép rửa
bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ
đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan Tẩy Giả hướng toàn
bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ
mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mặc khải cho con
người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người Tin
Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, là bình an và niềm vui cho nhân
loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng hô dọn đường cho Chúa đến.
Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi cho chính mình: Kitô hữu,
chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy Giả: “Ông là ai? Ông nói gì
về chính mình?”
Chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng
minh có ghi “Thiên Chúa giáo” hoặc giấy rửa tội của chúng ta ra. Vấn đề là, như
Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta, về động cơ
bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc đời chúng ta. Chắc chắn chúng ta còn nhớ
câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở trong tù, ông đã sai các môn đệ đến hỏi
Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan
những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi
được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng
và phúc thay người nào không mất niềm tin vào tôi” (Lc 7,12-23). Chúng ta cũng
hãy tự trả lời về chính mình bằng chính những việc làm của chúng ta, bằng chính
cách sống của chúng ta. Cả cuộc đời chúng ta phải nói về Đức Giêsu, phải loan
báo Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài.
Kitô hữu là ai?
Là những người đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi,
những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như người yêu thích một đồ vật
hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như người ta yêu thích một bài hát
hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết. Người Kitô hữu yêu mến Đức
Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì, đối với chúng ta, Đức Giêsu
chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng Ngài hiện đang sống với
chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ
thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công việc của Ngài: đó là yêu
thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ bị áp bức, bóc lột, chữa
lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ bị giam cầm, loan báo Tin
Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại chúng ta, vẫn còn có Mẹ
Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger Schutz của cộng đoàn
Taizé, cha Pierre của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm gương âm thầm khác
nối tiếp bước chân Gioan Tẩy Giả.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên những con người của niềm
vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng phải chỉ nói rằng: tôi
là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này, giáo xứ nọ. Nhưng chính
yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự chọn lựa của tôi như Đức
Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay chúng ta cần có nhiều
người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Đức Kitô không những
bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem niềm vui và hạnh phúc đến
cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ nhận ra chúng ta là bạn của
Đức Kitô, là Kitô hữu.
Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống
thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta, những người khác có thể gặp
được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làm việc, chỗ giải trí,
chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta là phần nào đã gặp được Chúa
Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn, một ngôi sao Giáng Sinh, một
nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô, hãy sống hết lòng với Chúa và
do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp Chúa Giêsu và đón nhận ơn cứu
độ của Ngài.
16. Trút bỏ
hư danh để được rót đầy ân sủng
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Vào thời Minh Trị thiên hoàng tại Nhật Bản (1860-1912), Nan-in,
một thiền sư Nhật, tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về thiền.
Nan-in mời trà. Ông châm trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp
tục rót thêm như một người đãng trí.
Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cả mặt bàn nên
không kìm mình được nữa, liền thưa: "Thưa Thầy, đầy tràn cả rồi. Xin đừng
rót nữa".
Thiền sư Nan-in thản nhiên đáp: "Giống như tách trà nầy,
đầu óc ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng. Làm sao tôi có thể giải
bày thiền cho ông được, trừ khi ông cạn cái tách của ông trước." (Trích:
Góp nhặt cát đá của thiền sư Muju, Đỗ Đình Đồng dịch, Lá Bối xuất bản).
Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể rót gì thêm được. Một cái
thùng đầy cát thì không thể đổ thêm gạo, bắp hay bất cứ thứ gì. Cũng thế, một
tâm hồn đầy kiêu căng, tự mãn, tham lam... thì đâu còn chỗ trống cho Thiên Chúa
rót thêm ân sủng vào.
Trang Tin Mừng hôm nay mời chúng ta hãy hướng về một nhân vật
quan trọng của mùa vọng là Gioan Tẩy Giả, một con người sẵn sàng trút bỏ mọi
tham vọng và hư danh, trở thành tách trà rỗng không; nhờ đó, ông đã được Thiên
Chúa rót đầy.
* * *
Người đời bị cuốn hút bởi lợi danh và cố làm gia tăng giá trị
mình bằng những lớp vỏ bên ngoài.
Tiêu biểu cho hạng người nầy là những biệt phái thời Chúa Giêsu.
"Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp kinh thật lớn,
mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế
đầu trong các hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và
được thiên hạ gọi là "ráp-bi". (Mt 23, 5-6).
Còn người thời nay thì tìm cách làm gia tăng giá trị của mình
bằng những đồ trang sức đắt giá, bằng xe hơi sang trọng, bằng dinh thự nguy
nga.
Trong khi đó, Gioan chê bỏ những "lớp vỏ" hào nhoáng
của người đời. Người chỉ cần cào cào châu chấu trong hoang mạc làm thức ăn; chỉ
cần tấm da thú thô sơ làm áo mặc. (Mt 3,4).
Người đời khát khao danh vọng, muốn khoác cho mình nhiều danh
hiệu cao sang; còn Gioan thì trái lại, ông tước bỏ hết mọi danh hiệu cao quý mà
người đời khoác cho ngài.
Thời bấy giờ Gioan là người tiếng tăm lỗi lạc. Có luồng dư luận
cho rằng ông là Đức Kitô, một tước hiệu cao cả đầy vinh dự. Gioan trả lời với
các tư tế và các thầy Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem rằng ông chẳng phải là Đấng Kitô.
Ông đã không nhận vơ cho mình một danh hiệu rất cao quý.
Thế rồi có dư luận cho rằng ông là ngôn sứ Ê-li-a vĩ đại giáng
lâm, vì theo kinh thánh thì vị ngôn sứ nầy phải đến trước để dọn đường cho Đấng
Cứu Thế; Gioan cũng từ chối tước hiệu nầy. Thế là ông lại trút bỏ thêm một vinh
dự thứ hai.
Có một số khác nghĩ rằng nếu ông không là Đấng Kitô, không là
ngôn sứ Ê-li-a, ít nữa thì ông cũng là một vị ngôn sứ cao cả nào đó. (Ga 1,
21b). Gioan cũng từ khước luôn cả danh hiệu nầy.
Và đang khi nhiều người coi trọng phép rửa của Gioan, đã tuôn
đến với ông đông đảo, xin ông làm phép rửa cho mình, thì Gioan khiêm tốn nói
rằng phép rửa của ông chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng
hơn, do một Đấng rất cao cả cử hành mà ông chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng ấy:
"Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà
các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho
Người." (Ga 1, 26-27).
Và đang khi danh tiếng của Gioan vang dội, còn Chúa Giêsu chưa
được nhiều người biết đến, thì Gioan đã tự xoá mình đi, để cho Chúa Giêsu được
tỏa sáng. Gioan nói: "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi."
(Ga 3,30).
Thế là Gioan đã trút bỏ hết mọi vinh dự người ta gán cho mình,
chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu. (Ga 1, 23).
Gioan đã hạ mình xuống, nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Gioan
đã trút bỏ mọi thứ vinh quang và của cải, trở thành trần trụi rỗng không, nên
Thiên Chúa đã đổ đầy ân sủng cho người. Nhờ đó, Gioan trở nên vị ngôn sứ rất
cao cả. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận sự cao cả của ông. "Tôi nói thật với
anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông
Gioan Tẩy Giả" (Mt 11, 11)
* * *
Gioan đã tự xoá mình đi nhưng người đã sáng bừng lên như một
ngôi sao trên bầu trời Hội Thánh. Gioan luôn hạ mình xuống nhưng Giáo Hội vẫn
hằng ngưỡng mộ người suốt dòng thời gian. Cuộc đời khiêm hạ của thánh nhân mãi
mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ nối tiếp.
Lạy Chúa Giêsu,
Chiếc ly đời con chất chứa đầy tự mãn, kiêu căng, tham lam, ích
kỷ và chúng con vẫn quyến luyến gắn bó với chúng cho đến mãn đời.
Xin thương giúp chúng con có đủ nghị lực và quyết tâm trút bỏ
những thứ cặn bã đáng ghét đó đi cho tâm hồn được rỗng không.
Có làm được như thế, chúng con mới trở thành ống sáo rỗng để
Chúa tấu lên những khúc hoan ca.
Chỉ khi đó, chúng con mới trở nên một chiếc ly, chiếc bình trống
không để cho Chúa rót đầy tình yêu và ân sủng.
17. Nghề
của tôi
Cách đây ít năm, một người làm nghề hốt rác tại thành phố
Dallas, thuộc bang Texas, đã được dân chúng tuyên dương. Mười bảy cư dân đã
viết thư cho ông giám đốc sở vệ sinh công cộng để ca ngợi nụ cười đầm ấm, thân
hữu và lịch thiệp của bác Cummings, người hốt rác của họ:
- Chúng tôi sống trên con đường này công nhận bác là một Kitô
hữu trung kiên, một công dân yêu nước và một người bạn chân tình. Bác đã giúp
họ mua hàng, trả lại cho họ những vật họ đánh rơi ngoài đường hay vì lầm lẫn mà
vứt đi.
Và ông giám đốc đã gửi cho bác một bức thư với những lời lẽ như
sau:
- Chúng tôi tin rằng người ta có thể hoàn thành những công việc
phi thường trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, không kể gì đến địa vị hay
trách nhiệm. Việc làm của bác đã cho thấy ý nghĩa thực sự của niềm tin ấy.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, người ta đã hỏi Gioan Tiền hô:
- Ông có phải là Đức Kitô hay không?
Họ không cần biết tên tuổi hay lý lịch của ông, họ chỉ muốn biết
việc ông làm, chức vụ ông giữ và nghề nghiệp ông sống. Và rồi Gioan đã xác
quyết với họ:
- Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa đến.
Nghề nghiệp của ông đó chính là loan báo, giới thiệu Đức Kitô.
Chính ông đã nói cho thế giới biết rằng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban
cho nhân loại. Và Gioan đã dành tất cả cho nghề nghiệp của ông. Ông đã thực
hiện mọi cố gắng, chấp nhận mọi hy sinh để loan báo Đức Kitô. Còn chúng ta,
chúng ta phải làm gì?
Thật đơn giản, đó là mỗi người trong chúng ta đều có một nghề
trong nước trời. Nói cách khác, mỗi người chúng ta đều có một cái gì quan trọng
cần phải làm cho gia đình nhân loại. Nghề nghiệp của chúng ta đều quan trọng,
mặc dù công việc của chúng ta có nhỏ bé và khiêm tốn. Bác hốt rác đã ý thức
điều đó. Bác đã thực hiện hết mình cái nghề hốt rác của bác.
Tất cả chúng ta cũng cần phải ý thức rằng: Mỗi nghề nghiệp trên
trần gian đều đáng quý trọng. Cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán, nếu xã hội chỉ
gồm toàn những người đứng đầu mà không có cấp dưới, toàn là giám đốc mà chẳng
có nhân viên, toàn là cấp tướng mà chẳng có binh lính, toàn là những nhân vật
nổi tiếng mà chẳng có kẻ âm thầm làm việc.
Tuy nhiên, đôi lúc húng ta đã than phiền:
- Tôi chỉ là một người nội trợ, suốt ngày làm những việc vặt
vãnh như thổi cơm, quét nhà, giặt quần áo… Hay tôi chỉ là bác nông phu, suốt
ngày đổ mồ hôi trên miếng ruộng thần nông…
Chúng ta thử phác họa xem một cuộc sống, mà không có những người
làm những công việc tầm thường đó sẽ như thế nào. Mọi nghề đều đáng quí đáng
trọng. Không có nghề nghiệp nào xấu mà chỉ có con người xấu mà thôi. Nghề
nghiệp không phải chỉ quan trọng đối với nhân loại mà còn quan trọng cả trước
mặt Thiên Chúa.
Khi chuẩn bị đón mừng Chúa đến, chúng ta hãy nhớ lại rằng: Hài
nhi Giêsu đã lớn lên và trở thành một bác phó mộc. Ngài không bao giờ nhàm chán
cái cưa, cái búa, cái đục. Ngài hân hoan làm công việc Chúa Cha đã trao phó:
cưa một khúc cây hay chết trên một khúc cây khác để cứu chuộc mọi người…
Chúng ta cũng vậy, bằng cách chu toàn bổn phận nghề nghiệp của
đấng bậc mình, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vinh quang cho cuộc sống hiện tại
cũng như cho cuộc sống mai hậu sau này.
18. Gioan
Như chúng ta đã biết Gioan mở mắt chào đời đã được Chúa trao cho
một sứ mạng, đó là giới thiệu Chúa cho đồng bào của mình, và làm chứng Ngài
chính là Con Chiên vô tội, đã gánh lấy những lầm lỗi của loài người.
Sứ mạng này, Gioan đã làm đầy đủ và hễ có dịp Gioan liền chỉ cho
công chúng biết Đức Kitô. Khi thấy mọi người vây quanh mình và tưởng rằng mình
là Đấng Cứu Thế, Gioan liền mạnh dạn cải chính, mặc dù đến sau nhưng Chúa Giêsu
vẫn cao trọng hơn nhiều, mình chẳng xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Chúa.
Khi Chúa đến xin ông làm phép rửa, ông đã nhìn thấy trời mở ra
và chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần đỗ xuống trên đầu và từ trời cao
có tiếng phán:
- Này là Con Ta rất yêu dấu.
Đồng thời Gioan còn có nhiệm vụ bảo dân phải sửa đường cho Chúa
đến, nơi cao phải bạt xuống, chỗ trũng phải lấp cho đầy, đường gập ghềnh quanh
co phải uốn cho thẳng.
Với người quyền thế, Gioan vẫn mạnh dạn nói lên sự thực, chẳng
hạn với Hêrôđê, Gioan đã can ngăn:
- Vua không được cướp vợ của em mình.
Bổn phận làm chứng cho Chúa cũng là bổn phận của mọi người, ở
mọi nơi và trong mọi lúc. Nhìn vào giòng lịch sử chúng ta cũng thấy được như
vậy.
Trước hết là các Tông đồ.
Tuân theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã đi khắp thế gian
giảng dạy và làm chứng về Ngài. Mặc dầu biết trước sẽ gặp phải nhiều khó khăn
và chống đối, nhưng các ông vẫn cứ ra đi, để rồi đã bị bắt bớ, cầm tù và sau
cùng đã lấy mạng sống của mình để làm chứng tá cho Tin Mừng Phúc âm.
Thánh Giacôbê thì bị đưa lên nóc đền thờ và bị xô xuống cho
chết. Thánh Bartôlômêô thì bị lột da sống, thánh Andrê và Phêrô thì bị đóng
đinh ngược, duy chỉ có thánh Gioan là đã chết già tại Công đồng Ephêsô mà thôi.
Tiếp đến là Giáo hội.
Giáo hội nối tiếp các Tông đồ. Trong số 33 vị Giáo Hoàng đầu
tiên, thì đã có tới 30 vị bị giết. Rồi trong 4 thế kỷ đầu, các tín hữu đã gặp
phải những cơn bách hại khủng khiếp. Nhưng các ngài đã anh dũng tuyên xưng đức
tin của mình để làm chứng cho Chúa.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy.
Chúng ta không phải chỉ làm chứng cho Chúa bằng lời nói mà còn
phải làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Bởi vì chính gương sáng
của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn và hấp dẫn những
người khác trở về cùng Chúa, như người xưa đã nói:
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Ngày kia vua Tấn văn Công đi săn và bị lạc ở trong rừng, may
thay gặp một người câu cá tên là Ích Ngư, vua nói:
- Ta đây là vua, chú đưa ta ra, ta sẽ ban thưởng.
Người câu cá hèn hạ nói:
- Nếu được phép thì tôi xin hỏi một đôi lời.
Nhà vua bằng lòng. Người câu cá bèn nói tiếp:
- Chim hồng sống ở bờ biển, chán biển đến sống ở chỗ ao tù sẽ sa
vào bẫy. Ba ba sống ở đáy vực sâu, chán vực sâu lên sống ở bãi sẽ bị chài lưới.
Nhà vua ở đền sao lại đi săn và lạc vào rừng sâu thế này.
Nhà vua khen:
- Chú nói hay quá.
Sau đó, nhà vua bảo người tùy tùng ghi địa chỉ để khi về sẽ gửi
quà tặng. Người câu cá bèn trả lời:
- Đức vua ghi địa chỉ làm chi. Xin đức vua hãy tôn kính trời
đất, bảo vệ bờ cõi, thương yêu dân chúng là tức khắc bầy tôi này đã được trọng
thưởng. Bằng không thì dù nhà vua có ban phần thưởng thế nào, bày tôi cũng sẽ
không thể an tâm mà hưởng dùng.
Cũng vậy, mỗi người chúng ta hãy lo sống đạo và chu toàn bổn
phận của mình, thì dù không giảng giải, không nói năng, chúng ta cũng đã làm
chứng cho Chúa.
Bởi vì, đời sống đạo đức của chúng ta chính là một thứ ánh sáng
chiếu tỏa, để những người chung quanh sẽ nhận biết Chúa.
19. Những
lời chứng
Thánh Gioan Tẩy giả đóng một vai trò trung tâm trong việc Đấng
Cứu Độ sẽ đến. Theo bài Tin mừng hôm nay, vai trò của ngài là “chứng nhân để
nói về ánh sáng”. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu.
Thánh Gioan đã chứng tỏ mình là một chứng nhân can đảm và có
hiệu quả. Ngài có nhân cách mạnh mẽ và là người sống theo nguyên tắc. Ngài
không sống theo một lối sống thoải mái, không sống trong cung điện, nhưng sống
nơi sa mạc. Lối sống của ngài, cũng như sự chính trực của cá nhân ngài, đã bổ
sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài, đã bổ sung thêm niềm tin
tưởng cho những lời nói của ngài. Ngài là một gương mẫu sống động cho điều mà
ngài rao giảng. Và khi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, ngài bước sang một bên để
nhường lối cho Đức Giêsu.
Đức Giêsu vẫn cần đến những lời chứng. May thay, vẫn còn những
người trung thành làm chứng cho Người, và coi bản thân mình như không có giá trị
gì.
Một vị linh mục nói với tôi về cuộc thăm viếng của ông tại Trung
quốc cách đây vài năm. Trong thời gian ở đó, ông đã gặp hai vợ chồng già, cả
hai đều là bác sĩ. Họ học chung tại trường y, yêu nhau và kết hôn với nhau, bà
là người Công giáo, còn ông thì ngoại đạo. Bà mong muốn thuyết phục ông nên gia
nhập Giáo Hội, nhưng ông không muốn chịu phép rửa tội. Một thời gian ngắn sau,
họ có một đứa con.
Suốt thời gian diễn ra một trong những phong trào chính trị ở
Trung quốc, cùng với một số nhà trí thức khác, người chồng bị bắt đi làm việc
trong quân đội. Sự xa cách gây ra rất nhiều khó khăn cho người vợ, do bà vừa
phải cả ngày làm việc nhiều giờ tại bệnh viện, vừa phải làm ban đêm chăm sóc
đứa con trai. Ngoài nỗi cô đơn ra, người vợ còn phải chịu sức ép từ phía chính
phủ, hối thúc bà li dị với chồng và bỏ đạo, để đạt được những lợi thế về mặt
chính trị. Nhưng bà đã từ chối. Mỗi đêm, sau khi trở về nhà, bà và con trai đều
quì gối cầu nguyện, xin Thiên Chúa ban sức mạnh để chịu đựng những khó khăn.
Vào cuối thập niên 1970, bà nghe nói rằng chồng bà và một số nhà
trí thức khác được phép trở về nhà. Khi đến ngày đó, bà và con trai ra sân ga,
họ là những thành viên trong gia đình duy nhất có mặt ở sân ga để đón tiếp
những người đàn ông, bởi vì tất cả những người phụ nữ khác đều đã li dị và tái
kết hôn, do không chịu đựng được cảnh chia ly lâu dài. Do cảm động sâu sắc,
chồng bà đã chịu đi học đạo và lãnh nhận phép rửa tội.
Người phụ nữ đó đã thực sự mang lời chứng cho ánh sáng, giống
như thánh Gioan Tẩy giả đã thực hiện. Bây giờ, đến lượt chúng ta. Đối với nhiều
người trong thế giới ngày nay, Đức Kitô đã trở nên một khuôn mặt rất mờ nhạt và
xa cách. Những lời trong bài Tin mừng hôm nay đúng từng chữ một “Có một vị đang
ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đức Kitô vẫn còn cần đến những chứng
nhân, đó là những người có thể làm cho Người hiện diện đối với người khác một
cách có hiệu quả.
Chúng ta không thể làm chứng cho ánh sáng, nếu chúng ta sống
trong tối tăm. Chúng ta phải sống trong ánh sáng. Một đời sống tốt đẹp là một
lời chứng mạnh mẽ và có hiệu quả, và tự thân, đó là một lời loan báo Tin mừng.
Khi người ta không còn thực hành đạo trong cuộc sống nữa, thì họ đã đánh mất đi
một yếu tố quan trọng. Nhưng khi việc thực hành đạo đưa dẫn đến những hành động
cụ thể, thì người ta đã thực hành được một lời chứng rất có hiệu quả. Không có
một lời chứng nào đến được với những người cùng thời của chúng ta một cách đầy
sức thuyết phục, cho bằng lời chứng của những người thực hiện những lời giảng
dạy của Đức Giêsu.
Nếu không có lời chứng của các Kitô hữu, thì gương mặt của Đức
Kitô, vốn đã bị mờ nhạt, sẽ tiếp tục lu mờ trong thế giới của chúng ta. Người
sẽ tiếp tục ở giữa chúng ta, dù chúng ta không biết và không nhận ra, và tâm
hồn con người vẫn sẽ bị tan nát, người ta sẽ còn bị cầm tù trong cảnh tối tăm,
và Tin mừng sẽ không được rao giảng cho người nghèo.
Đây không phải là một trách nhiệm chỉ dành cho cá nhân người
Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu nữa. Khi là thành viên
của một cộng đồng nâng đỡ nhau, thì việc làm chứng cho Đức Kitô sẽ dễ dàng hơn.
20. Ẩn
mặt
Thánh Gioan Tẩy giả nói với dân chúng “Có một vị đang ở giữa các
ông mà các ông không biết”. Vị mà ngài đang nói đến chính là Đức Giêsu Thiên
Chúa thường được ám chỉ như là một Thiên Chúa “ẩn mặt”. Về phương diện này, có
thể so sánh Thiên Chúa như một người viết tiểu sử. Công việc của người viết
tiểu sử là tránh mặt trong khi kể chuyện. Một người viết tiểu sử giỏi luôn sẵn
sàng có mặt ở bất cứ chỗ nào, nhưng không ai nhìn thấy họ cả. Thiên Chúa hiện
diện ở tất cả mọi nơi trong các tạo vật của Người, nhưng không ai nhìn thấy
Người.
Có câu chuyện về một người đàn ông kia khi trở về nhà, anh phát
hiện ra đứa con gái bé bỏng của anh đang khóc rống lên. Anh hỏi cháu bé về
chuyện gì xảy ra. Cháu bé nói rằng cháu đang chơi trò chơi trốn tìm với các bạn
của cháu. Nhưng khi đến phiên cháu đi trốn, cháu bé đã trốn quá kỹ, đến nỗi các
bạn của cháu đã bỏ đi chơi trò khác, không chịu tìm kiếm cháu nữa. Cháu bé cứ
chờ đợi các bạn tìm thấy mình, nhưng chúng không thể nào làm được như vậy. Cuối
cùng, khi đi ra khỏi chỗ ẩn núp, thì cháu bé phát hiện ra rằng chỉ còn có một
mình cháu thôi.
Đôi khi, có lẽ Thiên Chúa cảm thấy cô độc. Người đã tự trú ẩn
trong các tạo vật của Người một cách quá tài tình, đến nỗi một số người không
thể tìm thấy Người. Và cuối cùng, họ đã bỏ không tìm kiếm Người nữa, rồi rẽ
sang các hướng khác.
Cuối cùng, khi Con của Người đến thế gian này, hầu hết cuộc đời
của Người đều không được người ta nhận ra. Ngay cả khi Người xuất hiện ở nơi
công cộng, không phải tất cả mọi người đều tin tưởng nơi Người. Và thánh Gioan
tẩy giả đã nói “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết – một Đấng
đến sau tôi”. Và trong phần mở đầu cuốn sách Tin mừng của mình, thánh sử Gioan
đã nói một cách buồn rầu “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà
có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Ở đây, khi ngày Giáng sinh đến hỗ trợ chúng ta, trong ngày đó,
chúng ta cảm thấy lòng đầy thắc mắc về sự gần gũi của Thiên Chúa. Trong biến cố
Nhập Thể, Thiên Chúa ẩn náu một cách tài tình, và được mặc khải một cách hoàn
hảo. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đến với chúng ta, mặc lấy thân phận nhân loại
của chúng ta. Khi thấy Người là thấy Chúa Cha.
Trước khi Đức Giêsu đến, người ta coi như Thiên Chúa là Đấng xa
cách và tách biệt của con người, không thể quan tâm gì đến chúng ta và những
nỗi đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, người ta còn nhìn vào Người như một quan
tòa hoặc một điệp viên, sẵn sàng vồ chụp và trừng phạt con người. Nhưng từ khi
Đức Giêsu đến, chúng ta không còn nhìn vào Thiên Chúa như một người nào đó xa
cách nữa, mà rất gần gũi với chúng ta, quan tâm đến mỗi người chúng ta, bởi vì
chúng ta là con cái của Người.
Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha như một người Cha đầy tình yêu,
lòng thương xót và luôn sẵn sàng tha thứ. Đó là một Thiên Chúa không ở xa chúng
ta, nhưng sống giữa chúng ta, và rất say mê quan tâm đến chúng ta. Mối quan tâm
của Thiên Chúa không phải là phê phán và kết án, nhưng là chữa lành và cứu thoát.
Đó là một Thiên Chúa đặc biệt gần gũi với những người yếu đuối, nghèo khổ và
quá nặng gánh,
Thiên Chúa giống như một giòng suối ở bên chúng ta, mà chúng ta
có thể say sưa uống lấy và làm cho bản thân mình được tươi mát. Nhận biết về
Thiên Chúa theo cách thức này, là nguyên nhân đưa đến niềm vui lớn lao. Đây
chính là niềm vui đã được loan báo cho các mục đồng trong ngày Chúa Giáng sinh,
và bây giờ, cũng đang được loan báo cả cho chúng ta nữa.
21. Sứ
giả tin mừng
Thuở nước Mỹ chưa có bưu điện và những phương tiện liên lạc tối
tân, người ta tổ chức thành những trạm. Mỗi trạm cách nhau chừng 25 Km. Tại mỗi
trạm lúc nào cũng có sẵn những con ngựa khỏe.
Những kỵ sĩ sẽ chở thư từ trên lưng ngựa. Họ phóng nước đại,
chạy hết tốc lực từ trạm này tới trạm kia và ở đó họ sẽ thay ngựa, rồi lại tiếp
tục lên đường. Mỗi ngày một người phải chạy chừng 100 cây số.
Bình thường họ phải đem theo hai cây súng để đề phòng mọi da đỏ.
Họ chạy ngày và đêm, bất kể mọi thời tiết, để hoàn thành cuộc hành trình dài
tới ba ngàn cây số trong vòng một tuần lễ hay mười ngày là cùng.
Việc hoàn thành mạng lưới điện thoại nối liền hai bờ biển đông
và tây đã chấm dứt vai trò của những con ngựa tốc hành. Tuy nhiên, câu chuyện
về những chàng kỵ sĩ gan dạ này vẫn còn làm cho chúng ta khâm phục.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Thiên Chúa cũng đã sai
phái vị sứ giả của Ngài đến với chúng ta và chuyển giao cho chúng ta một sứ
điệp quan trọng, đó là hãy dọn đường Chúa đến.
Vị sứ giả đưa tin nàychính là Gioan Tiền hô. Ông đến để đem lại
cho chúng ta tin vui về Đấng Cứu thế. Kể từ đó, hàng triệu người không phân
biệt màu da và tiếng nói, thuộc đủ mọi dân tộc đã đi theo dấu chân của ông và
đã trở nên những người đem tin mùng của Chúa. Họ loan báo và dọn đường cho Chúa
đến trong tâm hồn mọi người.
Và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là có những nhà truyền giáo
đã đem chân lý của Chúa xuyên qua các núi đồi, các ghềnh thác, đến với những bộ
lạc, những sắc dân còn man di mọi rợ.
Kể từ các tông đồ, biết bao nhiêu người đã rảo bước trên khắp
mọi nẻo đường và đã có mặt khắp mọi nơi, từ thành thị đến những hang cùng ngõ
hẻm. Và hơn thế nữa, còn dám hy sinh cả mạng sống để loan truyền cái tin quan
trọng, đó là
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng
ta.
Tin mừng sự sống này cần phải được loan báo, cần phải được đem
đến cho từng người sống trên mặt đất.
Các nhà truyền giáo không thể hành động đơn độc. Trái lại, chúng
ta phải cộng tác với họ trong khả năng và phạm vi của mình.
Có nhiều cách để thi hành điều đó. Chúng ta cộng tác bằng lời
cầu nguyện, xin Chúa luôn nâng đỡ để công cuộc rao giảng Tin mừng của những nhà
truyền giáo gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Chúng ta cộng tác bằng cách giúp tiền bạc vật chất để tài trợ,
nhờ đó những nhà truyền giáo sẽ có được những phương tiện để họat động.
Chúng ta cộng tác bằng chính cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Thực vậy, cuộc sống thường ngày của chúng ta phải là một tin mừng. Mỗi lời nói,
mỗi việc làm của bản thân, của gia đình, của giáo xứ chúng ta cũng phải là một
tin mừng, bởi vì qua đó chúng ta nói cho mọi người biết được rằng:
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng
ta.
Hãy sống thế nào để mỗi người chúng ta cũng trở nên một Gioan
Tiền hô, một tông đồ nhiệt thành, đem Chúa đến cho những người chung quanh.
22. Chứng
nhân
Gioan Tẩy giả là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới
trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm
hồn đón Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin Mừng
cho chúng ta tấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là làm
chứng cho Chúa Kitô, Ngài đã sống và chết cho vai trò chứng nhân của mình. Ngay
những trang đầu tiên sách Tin Mừng của thánh Gioan Tông đồ đã cho chúng ta biết
mục đích cuộc đời trần thế của Gioan Tẩy giả là làm chứng cho Đấng Cứu Thế: “Có
một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng,
để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là
sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng”. Sự sáng đây là Đấng Cứu Thế và
Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất, bất vụ lợi nhất,
kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng bằng lời nói, bằng hành động
và bằng máu.
Gioan Tiền Hô đã làm chứng bằng lời nói: chúng
ta biết vai trò hay sứ mạng của một ngôn sứ là phát loa, là thuyết giảng, là
loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan Tiền Hô đã đóng vai trò đó, ngài đã nói những
gì? Ngài bảo cho mọi người biết: “Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn
bị đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đã có trước tôi,
cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài”. Rồi khi Chúa
Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên
Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian”, nghĩa là đây là Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ
là nạn nhân hiến tế để cứu chuộc mọi người. Bài Tin Mừng Gioan còn cho mọi
người biết Chúa Giêsu là Đấng thánh hóa các linh hồn, Ngài sẽ rửa mọi người
trong Thánh Thần và lửa, đồng thời cũng là Đấng xét xử mọi người: thưởng phạt
mỗi người tùy theo công nghiệp của họ. Tóm lại, như một người phát ngôn trung
thành, Gioan loan báo cho mọi người biết: Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai,
là Đấng Cứu Thế.
Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan còn làm chứng bằng
hành động và gương sáng. Chúng ta biết Gioan
là một người rao giảng đầy uy quyền, kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở
về với Chúa. Lời giảng của ngài được mọi người đương thời chú ý, tại sao vậy?
Bởi vì ngài chỉ nói sau khi đã làm hay đã sống, đã kinh nghiệm rồi mới nói, bí quyết
thành công của ngài là làm rồi mới nói, hoặc nói và làm đi đôi với nhau. Thực
vậy, ngài đã lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê,
ngài đã sống khó nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Thi
hành chức vụ tiền hô ngài cũng có một số môn đệ, nhưng ngài rất vui mừng nhường
số môn đệ ấy cho Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút luyến
tiếc, bởi vì ngài biết Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là
bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới mà thôi. Nói rõ hơn, Gioan không thể kêu gọi
người ta sám hối nếu ngài không sám hối trước, Gioan không thể kêu gọi người ta
khiêm nhường nếu ngài không quên cái tôi của mình, Gioan không thể kêu gọi
người ta thực hành bác ái nếu ngài không thực sự mến Chúa yêu người, Gioan
không thể kêu gọi người ta hy sinh nếu ngài chưa sống khắc khổ và hy sinh vì
người khác. Tóm lại, ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là
vì ngài chỉ nói những gì ngài đã sống, đã làm, đã kinh nghiệm: “Lời nói lung
lay, gương bày lôi kéo”, lời nói của Gioan đã làm chuyển biến lòng người, nhưng
đời sống và gương sáng của ngài đã thuyết phục được mọi người.
Sau hết, bởi vì Gioan luôn sống với tư cách là chứng nhân của
Đấng Cứu Thế, nên sau khi đã làm chứng cho Chúa bằng lời nói và hành động, ngài
còn muốn làm chứng bằng chính máu của mình nữa. Ngài
tố cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua,
nên ngài đã bị tống giam vào ngục. Bà Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn
là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà, bà tìm cách giết cho được
Gioan, chính vì thế mà trong bữa tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê, lợi dụng lúc ông
đã ngà ngà say, bà xúi con gái là Salômê xin chiếc đầu của Gioan, vì Hêrôđê vui
thú trước những điệu múa của Salômê và hứa cho cô bé bất cứ thứ gì dù là nửa
nước. Thế là Gioan đã phải chết, ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để
cho đạo lý bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của ngài. Cuộc đời chứng
nhân của Gioan Tiền Hô là một bài học sáng giá cho chúng ta. Đời sống của một Kitô
hữu phải bắt chước đời sống của ngài, là làm chứng nhân cho Chúa trong mọi hoàn
cảnh: thuận cảnh cũng như nghịch cảnh. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống
khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân,
sống như Gioan trong đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh
sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy, như
bông huệ giữa bụi gai, đặc biệt là sống anh hùng như ngài, ngài là một anh hùng
của sự thật: suốt đời ngài chỉ sống theo sự thật và nói sự thật, điều gì có
ngài chân nhận, điều gì không có ngài nói không. Chúng ta hãy kiểm điểm và suy
nghĩ: chúng ta có bao giờ nói dối không? Chúng ta phải nhìn nhận rằng không
những chúng ta có nói dối mà còn nói dối nhiều hơn nữa, rồi nhiều khi chúng ta
còn ém nhẹm, giấu diếm, chua ngoa, thề thốt, phân bua cho là mình thật thà,
thẳng thắn, vô vị lợi… để lấp đầy đi cái thiếu thành thật của mình. Nếu chúng
ta đã sống như thế, chúng ta phải sửa lại, phải sống thành thật, có nói có,
không nói không, đừng thêm thắt, bịa đặt. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận, vì
sự thật dễ mất lòng. Chúng ta phải sống thành thật, đó là điều tất nhiên, nhưng
sống thật thà không có nghĩa là buộc chúng ta phải nói tất cả những gì mình
nghĩ, mình biết, đức tính này buộc chúng ta suy nghĩ cẩn thận, chín chắn rồi
hãy nói, mà đã nói thì không bao giờ nói sai, nói thừa nói thiếu, nói dối để
khỏi gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin Chúa cho chúng ta quyết tâm sống được như
thế luôn mãi.
23. Vui mừng
Chuyện kể về một ông vua đang băn khoăn bằng cách nào để có hạnh
phúc. Nhà vua bèn mời một nhà khôn ngoan lại để bàn hỏi xem làm thế nào vứt bỏ
được những lo âu buồn rầu đang đè nặng tâm trí ông đến nỗi phát bệnh. Làm thế
nào để có hạnh phúc thực sự? Nhà thông thái trả lời: “Chỉ có một cách duy nhất
để chữa nhà vua. Đó là nhà vua phải nằm ngủ một đêm trong cái áo của một người
có hạnh phúc thực sự”.
Các sứ giả được sai đi khắp quốc gia để tìm kiếm một người thực
sự đang hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào khi hỏi đến cũng có lý do để đau khổ
buồn rầu. Một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng họ tìm thấy một
người, đúng hơn là một gã ăn xin. Hắn ngồi mỉm cười ở giữa chợ đời. Hắn tự xưng
là người hạnh phúc thực sự, không có một mảy may gì buồn rầu lo âu. Người ta nói
với hắn về điều nhà vua đang tìm kiếm. Nhà vua cần phải ngủ một đêm trong cái
áo của người có hạnh phúc thực sự, và cho anh ta một số tiền rất lớn đền bù vào
chiếc áo hạnh phúc đó.
Bạn nghĩ sao? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo của
anh đang mặc cho nhà vua không? Các bạn có biết phản ứng của hắn ra sao không?
Không nín được cười! Gã ăn xin bật cười lên hô hố mà rằng: “Thật đáng tiếc! Tôi
không thể nào làm hài lòng nhà vua được. Tôi chẳng có chiếc áo nào cả!” Người
hạnh phúc nhất trên đời không có ngay cả một chiếc áo!
Trước Công Đồng Vaticanô II, Chúa nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay
được gọi là “Gaudete Sundae”. “Gaudete” tiếng La tinh có nghĩa là “vui mừng”.
Trong nhà thờ, đốt lên cây nến hồng ở Vòng Lá Mùa Vọng – Advent Wreath. Mầu
hồng biểu tượng cho sự vui tươi, yêu đời và hy vọng, vì Thiên Chúa đã gần đến
rồi!
Quả vậy, con người đã được Thiên Chúa tạo dựng nên là để chia sẻ
niềm vui và hạnh phúc đời đời với Người. Vì thế, Pascal đã nói rằng: “Tất cả
mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc hết, ngay cả những người treo cổ tự tử”.
Niềm vui và hạnh phúc là mục đích của con người sống trên trần đời. Nó cần
thiết cho chúng ta như dưỡng khí cần cho tim phổi, lương thực cần cho thân xác.
Tuy nhiên, càng tìm kiếm nó, nó lại càng vuột khỏi tay ta, như nước trôi qua
các kẽ ngón tay. Ta nghĩ về hạnh phúc theo quan niệm của ta. Ta long đong vất
vả đi tìm nó ở nơi ta muốn tìm, ở nơi nó không có.
Đi tìm hạnh phúc không đúng chỗ:
Trong “Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello có truyện “Tìm
Sai Chỗ” được kể như sau. Một người thấy ông bạn láng giềng cứ lom khom cúi tìm
mãi một cái gì dưới ánh đèn đường nên hỏi: “Ông bạn đang tìm gì vậy?” Người
láng giềng trả lời: “Tôi tìm chìa khoá đánh rơi”. Thế rồi cả hai cùng chăm chú,
lom khom tìm mãi. Một hồi lâu người này chợt nhận ra một điều gì nên hỏi người
láng giềng: “Mà ông bạn đánh rơi nó ở đâu vậy?” “Ở trong nhà thì phải!” người
láng giềng trả lời. “Nhưng tại sao ông bạn lại tìm ở đây?” “Vì ở đây có đèn
đường sáng hơn!!!”
Chỗ ngã ba đèn đường chiếu sáng nhất mà người đời vẫn thường đến
tìm kiếm hạnh phúc là “ngã ba chữ T”: tình, tiền, tài.
Có những bạn trẻ bước vào đời với lăng kính màu hồng, hăm hở tìm
hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng của tình dục mà họ nghĩ là tình yêu,
họ đồng ý với Xuân Diệu rằng: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt. Còn hơn le
lói suốt trăm năm”.
Có người lao mình vào việc tìm kiếm tiền bạc bằng mọi cách. Họ
bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh giành với người, để rồi cuối cùng như nhà
thơ Quốc Nghệ đã diễn tả sự thật chua cay bằng những lời thơ châm biếm:
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền,
Mi làm nhân loại hoá ra điên.
Mi tô mặt nạ đen ra trắng,
Mi xé ân tình thẳng hoá xiên.
Mi gác luân thường vào một xó,
Mi đưa nhân nghĩa xếp hai bên.
Mi làm nhân loại đua tranh mãi,
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền?
Có người dùng tài ba để tìm kiếm công danh sự nghiệp hầu mang
lại hạnh phúc. Thế nhưng danh vọng cũng kèm theo cuồng phong bão tố, nước mắt
và đoạ đày, như Nguyễn Công Trứ đã cảm nghiệm: “Ra trường danh lợi vinh tiền
nhục, vào cuộc trần ai khóc lẫn cười”.
Điều lầm lẫn lớn nhất của chúng ta là đã đồng hóa niềm vui hạnh
phúc với khoái lạc thế trần, rồi đi tìm thỏa mãn nơi thể xác, vật chất và cuộc
sống ở bên ngoài. Chúng ta có thể đạt được khoái lạc bằng dục vọng, danh tiếng
và tiền bạc, nhưng tất cả những thứ này không thể nào mang lại cho con người
niềm vui và hạnh phúc thật sự.
24. Vui mừng
Hạnh phúc ở đâu? Bài Phúc âm hôm nay, nói đến một nhân vật rất
quan trọng nhưng khiêm tốn, dạy chúng ta cách đi tìm hạnh phúc đích thật. Đó là
Gioan tẩy Giả: “Ông đến để làm chứng”, “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy
sửa cho ngay đường Chúa đi”. Gioan chối từ tất cả những tước hiệu được dân
chúng gán cho mình. Đối với Gioan tẩy giả, hạnh phúc của ông là trở nên đầy tớ
của Thiên Chúa, là con người giúp cho mọi người quy hướng về Thiên Chúa.
Trong bài đáp ca, Đức Maria cũng đóng vai trò này: “Linh hồn tôi
ngợi khen Chúa… vì Chúa đã đoái nhìn phận hèn tớ nữ của Chúa”. Hạnh phúc của
Đức Maria là được làm nữ tì của Thiên Chúa.
Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Sự ao ước Thiên Chúa đã được
ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con người đã được sáng tạo bởi Thiên
Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người lại với Ngài,
và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm thấy chân lý và hạnh phúc mà con người
không ngừng tìm kiếm”.
Công Đồng Vatican II cũng dạy: “Khía cạnh cao siêu nhất của phẩm
chức con người là ở chỗ con người được ơn gọi hãy hiệp thông với Thiên Chúa.
Lời mời gọi con người đối thoại đã được Thiên Chúa gửi tới con người từ khi có
loài người. Bởi vì nếu có con người, thì cũng tại Thiên Chúa đã tác tạo nên con
người vì tình yêu, và vì tình yêu, Ngài không ngừng ban cho con người hiện hữu.
Và con người chỉ sống đầy đủ theo chân lý nếu con người tự do công nhận tình
yêu này và phú mình cho Đấng tác tạo nên mình.
Linh mục Dominicô Đỗ Minh Trí trong cuốn “Việt Nam Quê Hương
Tôi”, trang 41-44 đã kể câu chuyện “Con Mèo Già và Con Mèo Trẻ” với hai đề nghị
về hạnh phúc như sau:
Một con mèo già, đầy kinh nghiệm và khôn ngoan thấy một con mèo
trẻ, đang đuổi theo cái đuôi của chính nó. Tò mò, nó hỏi con mèo trẻ: “Này con,
con làm gì vậy? Tại sao con lại đuổi theo cái đuôi của con như vậy?”Mèo trẻ trả
lời: “Con nghe nói rằng cái tốt nhất đối với một con mèo là hạnh phúc và hạnh
phúc của con mèo ở trong cái đuôi của nó. Vì vậy mà con đuổi theo cái đuôi của
con. Khi nào con bắt được, con sẽ có hạnh phúc!”
Mèo già trả lời: “Này con, ta đã suy gẫm rất nhiều về vấn đề
hạnh phúc. Và ta cũng đã đi đến kết luận rằng hạnh phúc của ta là ở trong cái
đuôi của ta. Nhưng ta cũng nhận rằng mỗi khi ta đuổi theo cái đuôi, thì không
thể nào ta bắt được. Trong khi đó, nếu ta làm một việc khác nhất là khi ta lo
lắng cho con mèo khác, thì cái đuôi của ta đi theo ta bất cứ nơi đâu!”
1. “Hạnh phúc ở trong cái đuôi của ta”, con
mèo già nói: Cái đuôi ở đằng sau, con mèo không nhìn thấy được. Điều này diễn
tả điều kiện đầu tiên của hạnh phúc: Không bao giờ nắm được. Hạnh phúc không
phải là mục đích, mà là một kết quả! Đó là một thực tại đi theo một thực tại
khác. Hạnh phúc là kết quả của tình thương yêu đối với loài người. Cái cần phải
nhắm tới là tình thương yêu đối với đồng loại, hạnh phúc sẽ đi theo một cách
tất yếu.
2. Người ta tìm thấy hạnh phúc của chính mình khi làm việc vì
hạnh phúc của người khác. Bằng cách tranh đấu
cho sự an vui của đất nước mình hay giúp đỡ người đồng loại, giải quyết các vấn
đề của họ. Lấy tình thương yêu đồng loại, tình thương yêu xã hội làm căn bản
của cuộc sống của mình. Đặt cơ sở đời sống của mình trên tình thương yêu để
nhìn các thiếu thốn của người khác như các thiếu thốn của chính mình, quyền lợi
của người khác như quyền lợi của chính mình. Hãy thoát ra khỏi bản thân mình,
thoát ra khỏi sự tìm kiếm hạnh phúc riêng tư của mình để làm việc vì hạnh phúc
của người khác.
Hạnh phúc hay nguồn vui Kitô giáo đem lại khác xa với khoái lạc.
Nó phong phú và sâu xa hơn cả nụ cười tươi nở trên một khuôn mặt vui vẻ. Nó đến
từ bên trong, từ hành động phục vụ tha nhân và ý thức rằng Thiên Chúa hiện diện
với chúng ta sẽ làm chúng ta hạnh phúc. Một sự bình an nội tại không có gì có
thể lấy mất khỏi chúng ta. Phục vụ Thiên Chúa là cội nguồn của niềm vui Kitô
giáo. Đó là tình trạng của ân sủng không vướng mắc tội lỗi. Chúa ở cùng ta, ta
sống trong Chúa, như Đức Maria diễn đạt trong kinh Ngợi Khen ở bài đáp ca hôm
nay: “Linh hồn tôi nhảy mừng trong Chúa”
“Lúc nào cũng lo tìm hạnh phúc, ta sẽ chẳng bao giờ thấy hạnh
phúc.
Hạnh phúc phải được tạo thành thay vì tìm thấy”.
“Hạnh phúc không phải là cái bạn cầm trong tay, nhưng là cái bạn
mang trong tim”.
“Muốn được hạnh phúc, đừng cộng thêm của cải, nhưng hãy trừ bớt
ham muốn”.
(Định nghĩa Cuộc Đời của Trần văn Điền).
25. Dấu
chỉ Đấng Messia - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nhân loại qua mọi thời đại luôn ngưỡng mộ những con người sống
phục vụ, sống dấn thân vì lợi ích đồng loại, nhưng đáng tiếc lại rất ít người
dám cúi mình phục vụ tha nhân. Bản tính con người thường ham sướng sợ khổ. Con
người luôn thích lánh nặng tìm nhẹ. Người ta sợ hy sinh. Người ta tìm hưởng thụ
và sự an nhàn cho bản thân nên có mấy ai dám hiến dâng cuộc đời cho hạnh phúc
tha nhân.
Dầu vậy, thế giới ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay vẫn còn đó
những con chim én đang tìm đàn để tạo nên muà xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu
đó vẫn còn đó những người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác
trên đường do bọn đinh tặc mất tính người rải ra. Đâu đó vẫn còn đó những người
đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân đang nằm thoi thóp trên giường bệnh
mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó vẫn còn đó những con người tình nguyện đem
ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó vẫn
còn đó những con người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các
bệnh nhân tại các trại phong...
Tất cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về
tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Người ta kể rằng: có một cha già cố cả
đời sống thanh bần để lo cho giáo dân. Ngài chẳng giữ lại cho mình cái gì. Ngài
luôn cho đi tất cả. Ngài luôn chia sẻ cho người nghèo trong xứ cái ăn, cái mặc
mà quên đi cả bản thân. Cho tới ngày ngài nhắm mắt xuôi tay, người ta muốn tìm
một bộ đồ đẹp để thay cho ngài nhưng không tìm thấy. Lúc đó, người giúp việc
bên ngài mới kể lại: Cha già đã cho đi tất cả, chỉ còn một bộ mặc trên mình và
một số đồ cũ kỹ mà thôi. Đây chính là một mẫu gương sống đơn sơ và nghèo khó.
Đây là một dấu chỉ của cuộc sống người môn đệ của Chúa. Một cuộc sống yêu
thương, hiến dâng. Một cuộc sống không cần lo cho bản thân. Vì "cáo có
hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu".
Đức Giêsu khi tỏ dấu hiệu cho muôn dân nhận thấy Ngài là Đấng
Messia, Ngài đã tỏ mình ra trong thân phận một người tôi tớ phục vụ. Ngài đến
trần gian trong thân phận một hài nhi yếu đuối. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo
nàn trong thân phận bác thợ mộc làng quê Nagiaret. Dấu chỉ duy nhất mà Ngài đã
tỏ bày về thân phận Đấng Messia chính là: "Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi
được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được
nghe Tin Mừng".
Cuộc đời chúng ta là một mùa vọng. Ngày nào Chúa cũng có thể đến
với chúng ta. Lúc nào Chúa cũng có thể ngỏ lời cùng chúng ta. Vì vậy, hãy tỉnh
thức. Vì Chúa sẽ không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có
những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ.
Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ
nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ
đến trong một ánh mắt cảm thông. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa
sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Hãy tạ ơn Chúa qua những con người đang
sống với chúng ta, đang hy sinh vì chúng ta. Hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta luôn
được sống trong tình nghĩa thằm thiết của những người thân bên cạnh chúng ta.
Họ chính là hiện thân của Chúa để yêu thương và phục vụ chúng ta.
Bên cạnh đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta cũng trở nên dấu chỉ cho
sự hiện diện của Chúa. Đó chính là lòng bác ái, là tình yêu thương. Đây là hiệu
kỳ của người ky-tô hữu, là căn tính của người môn đệ Chúa Kitô, vì "người
ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy. Đó là các con hãy thương
yêu nhau". Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao
ban. Vâng, lễ giáng sinh chính là lễ của tình yêu. Thiên Chúa mang lấy thân
phận một hài nhi yếu đuối đang cần chúng ta chăm sóc. Ngài đang cần chúng ta
tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài
đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài
đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất
vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm
thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng
là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của
chúng ta ngõ hầu người ta sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giêsu.
Amen.
26. Chú giải
của Noel Quesson
Có một người được Thiên Chúa sai đến, đó là Gioan. Ông đến để
làm chứng...
Cùng với Đức Maria, Gioan Tẩy Giả là khuôn mặt lớn xuất hiện
trong Mùa Vọng. Mỗi năm, Phụng vụ đều dành trọn Chúa nhật II và III Mùa Vọng
nói về Gioan.
Một bài ca diễn Tin Mừng (bài hát được sáng tác từ nội dung Tin
Mừng) đã ca tụng tuyệt vời vai trò duy nhất của Gioan: “Là vị Ngôn sứ cuối
cùng, là chứng nhân đầu tiên cua Đức Giêsu Kitô, là tiếng kêu trong hoang địa,
thế mà ông đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: Lạy
Ngài, đó là sự cao cả, niềm vui của Ngài giờ đây đã nên trọn vẹn. Hỡi vị chứng
nhân của ánh sáng, xin hãy nói cho chúng tôi hay, Đấng Mê-si-a sẽ đến với chúng
tôi bằng con đường nào!". Và những câu chuyện tiếp của bài ca đã lập lại
một số lời của Gioan.
Thực sự, không ai tiêu biểu hơn Gioan trong Mùa Vọng. Ông là vị
ngôn sứ cuối cùng và cao cả của Cựu ước (Lc 1,76; Mt 11,9): Do đó ông là con
người nối kết giữa quá vãng và tương lai, giữa điều có trước và cái đến sau.
Lạy Chúa, xin giúp con biết trung thành với nguồn góc của chúng
con trong quá khứ, nhưng cũng luôn mơ tới mọi cái mới mẻ mà Chúa muốn chúng con
thiết lập Hôm Nay.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng.
Chứng nhân của ánh sáng! Tước hiệu đẹp biết bao! Gioan là người
chứng tá!
Ba Tin Mừng kia đều giới thiệu cho ta, Gioan Tẩy Giả như
"người rao giảng lòng sám hối" chỉ có Tin Mừng thứ tư cho ta hay, ông
được coi như “chứng nhân của ánh sáng”… “người chứng thứ nhất của Đức Giêsu
Kitô”. Ta đừng quên rằng, từ chứng nhân, được sử dụng trong tiếng Hy Lạp, ở
thuộc ánh “Martyros”, và trên thực tế, Gioan đã là vị “chứng nhân đầu
tiên" của Đức Giêsu. Tin Mừng Thánh Gioan luôn lặp lại tư tưởng này: Thế
gian “lên án” Đức Giêsu. Người ta phủ nhận và tố cáo Người. Cuộc kết án này chỉ
nhằm đến một vấn nạn: “Nhưng ông ta là ai?” Khi đó các chứng nhân mới xuất hiện
và làm chứng cho kẻ bị tố cáo. Từ “chứng tá" được sử dụng 14 lần, và động
từ "làm chứng" được dùng tới 33 lần. Người chứng đầu tiên đã xuất
hiện, đó là Gioan Tẩy giả: "ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Liệu tôi có
dám quyết định theo Đức Giêsu, khi người ta tố cáo Người không?
Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do Thái đến hỏi
ông: "Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa?"
Những câu hỏi trên cũng mời gọi ta tự vấn về vai trò chứng nhân
của mình. Mọi Kitô hữu đều phải trở nên nhân chứng cho Đức Kitô. Do đó ta hãy
nhìn coi, chính cách sống của Gioan đã đặt vấn đề cho những người đồng thời với
ông. Người ta thắc mắc về lai lịch của ông. Chúng ta có trở thành vấn đề cho
những người nhìn ngắm chúng ta sống không? Trong cung cách đối xử của ta có
điều gì kích thích người khác phải suy nghĩ không? Lạy Chúa, xin giúp chúng con
sống cách nào để những người sống chung quanh chúng con, các bạn đồng sự, những
người quen biết đều tự hối về "bí quyết” chúng con đang sống. Vậy ông là
ai?
Tôi không phải là Đấng Kitô... cũng không phải là vị Ngôn sứ...
tôi là một “Tiếng kêu”.
Vậy là sau lời hạch hỏi về lai lịch của Gioan, người chứng, lại
đến lý lịch của Đức Giêsu mà người ta muốn tìm biết. Vấn nạn thực sự đang gây
nóng bỏng trên môi miệng những kẻ thăm dò, đó là: "ông có nhận mình là Đức
Kitô không?". Rồi một câu hỏi khác lại được gợi lên: “Thôi được, vậy ông
ấy là ai? ông có biết ông ta không?”
Câu trả lời của Gioan đáp ứng cả hai: ông khiêm tốn chậm rãi
nói, ông không phải là Đấng Kitô... Rồi ông nói thêm, ông chỉ muốn là một
"tiếng kêu, tiếng kêu về một người khác! Hôm Nay, Giáo Hội và mỗi Kitô
hữu, cần phải lập lại chứng tá can trường của Gioan: “Hỡi Giáo Hội, Giáo Hội có
thể nói gì về chính mình? Giáo Hội coi mình là ai? Hỡi Kitô hữu, bạn có thể nói
gì về chính mình? Bạn coi mình là ai?". Không, tôi không phải là Đức Kitô.
Tôi chỉ là tiếng vang vọng của Đức Kitô. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con
khỏi những tự phụ coi mình như chiếm hữu chân lý, như những “kẻ độc quyền thừa
hưởng" Đức Giêsu Kitô.
Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.
Đấng Kitô không hiện diện ở một nơi duy nhất? Tôi tin rằng Đấng
Kitô mà các ông đang kiếm tìm đó, đã ở giữa các ông, ở giữa những hy vọng,
những cuộc giao chiến, những tình yêu nhân loại của các ông! Tính ưu việt duy
nhất của Giáo Hội, của người Kitô hữu, là “nhận biết" và gọi tên "
Đấng mà con người đang mong đợi và dò dẫm tìm kiếm, Đấng đang hiện diện trong
cuộc đời họ, chẳng hạn, vào ngày 10-12-1948, khi Liên Hiệp Quốc công bố bản
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thì chúng ta nhận ngay ra rằng, đó là một sự
hiện diện "của Đấng đang" ở giữa cho dù Người chưa được người ta nhận
biết. "Ta đói các ngươi đã nhận ra quyền sống của ta... Ta ở tù, bị ngược
đãi bị tra tấn, các ngươi đã nhận ra quyền được bảo vệ nhân phẩm cuả ta....Nỗi
khát vọng lớn lao của nhân loại là được sống công bình hơn, thì đó là sự hiện
diện của Đấng hoàn toàn công chính. Biết bao người thuộc mọi tôn giáo các vị
lãnh đạo các quốc gia thuộc mọi ý thức hệ, đã có thể công bố một văn kiện như
thế, thì đó không phải là một dấu chỉ thời đại sao? ở giữa các ông vẫn có một
vị nào đó... cho dù các ông chưa gọi được tên Người. Dù là Kitô hữu nhưng có
thể chúng ta đã miễn cương phải chấp nhận phong trào đề cao nhân quyền trên
đây, bởi vì ta cũng thuộc vào số người thường nhạo báng những quyền đó, mỗi lần
ta khinh miệt một người anh em. Nhưng làm sao ta lại không vui mừng trước yêu
cầu phải tôn trọng mọi người đang lớn dần trong nhân loại. Hôm Nay, khi ta biết
rằng, Thiên Chúa đã làm người, và trong Đức Kitô mà ban tính con người đã được
nâng lên tới một phẩm giá siêu việt và điều đó không phải chỉ có giá trị cho
các kẻ tin Đức Kitô, nhưng đúng ra cho mọi người thiện chí, được ơn Thánh hoạt
động cách vô hình trong tâm hồn...", như Công đồng Vatican II đã quả quyết
rõ ràng (G.S 22).
Vị mà các ông không biết... Người sẽ đến...
Suốt cuộc đời Đức Giêsu đã không được người đời nhận biết. Thiên
Chúa không đến trong tiếng kèn thổi, trong sấm sét bão giông. Thiên Chúa không
phải là “kẻ chà đạp” hay "thống trị". Người như "tiếng gió thì thầm
mà ta không biết đâu đến và sẽ thổi tới đâu". (Ga 3,8). Thiên Chúa là
“Đấng tự để cho người ta chà đạp, đóng đinh, buộc tội”. Như thế có ngược đời
không? Không đâu! Đó là sự thật về Thiên Chúa, Đấng chỉ có thể là "Thiên
Chúa dấu ẩn”, ta không thể nắm bắt được “Bản thể " của Người. Và về căn
tính của Đức Giêsu "(Vậy ông là ai'), tất cả mọi dò tìm của lý trí cũng
đều bất lực. Người thực sư là "Thiên Chúa không thể biết được”, là
"Thiên Chúa dấu ẩn"!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra Chúa, ngay tại nơi Chúa ẩn
dấu, con đang kiếm tìm Chúa trong sức khỏe, trong thành công, trong tình thân
hữu, trong hạnh phúc được sống (và Chúa vẫn ở đó!). Thế mà con chỉ thấy bệnh
tật, thất bại trong cuộc sống vợ chồng, bà con hay nghề nghiệp, và nghèo đói.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng bỏ qua mà không nhận ra sự hiện diện đáng bị che
dấu của Chúa.
Này bạn, nếu bạn khám phá ra Tôi đang dấu ẩn, nhưng luôn hiện
diện, thì bạn đã tìm được một nguồn vui sướng mà không ai, không gì có thể làm
say mê bạn hơn được, niềm vui Magnificat của những người nghèo, niềm vui của
Gioan Tẩy Giả khi ông thấy mình nhỏ bé đi, còn niềm vui của Người "bây giờ
đã trọn vẹn" (Ga 3,29-30).
Tôi không đáng cởi quai dép cho Người...
Gioan Tẩy Giả là con người “khiêm tốn xóa bỏ đời mình trước Đấng
ông loan báo" Gioan Tẩy Giả, đó là chứng nhân đúng nghĩa nhất. Ông chỉ
hiện diện nhằm quy chiếu về một Đấng khác. ông từ chối tước hiệu Kitô (Ga
1,20). ông mong ước được 'biến đi" để Người “lớn lên" (Ga 3,30). Ông
không phải là ánh Sáng, nhưng chỉ là một cây đèn nhỏ đốt sáng trong đêm tối (Ga
5,35). Ông là người “tôi tớ" không xứng đáng cởi quai dép cho chủ (Ga
1,27). Ông chỉ là bạn hữu của chàng rể, đứng xa xa, bị xóa mờ (Ga 3,29). Ông đã
hết sức hoàn tất "tác vụ " của mình, bằng cách tự đình chỉ công việc
của mình để làm 'lợi ích cho Đức Giêsu, bằng cách hy sinh mọi môn đệ của mình
để gđi họ đến theo một Đấng khác” (Ga 1,35-39). Cuối cùng ông đã chết trước khi
thấy vinh quang của Đấng Phục sinh, trong cảnh hoàn toàn mù tối của nghi ngờ:
“Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi
ai khác " (Mt. 11,2). Như thế Gioan Tẩy Giả không những là một chứng
nhân" tuyệt hảo, mà cũng là "mẫu tín hữu" tiêu biểu: “Kẻ không
thấy nhưng vẫn tin “ (Ga 20,29).
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu cho chúng con.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con có khả năng tự
xóa mờ và sống khiêm tốn như Ngài.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con "tình yêu
điên cuồng" đó, biết hy sinh cho kẻ khác để niềm vui chúng con được trọn
vẹn…
Tôi đây làm phép rửa bằng nước.
Đó là những chuyên viên “thanh tẩy", các tư tế và trợ tế
chính thức, được giấy tờ công nhặn hẳn hoi (Ga 1,19), đến kiểm chứng tư cách
chính. thức của kẻ ngoại cuộc này, mà hoạt động “tha tội" (Mc l,4) của ông
ta đáng bị tôn giáo tinh tuyền, tôn giáo của Giêrusalem ngần ngại và cấm đoán
(Ga 1, 1 9 ). Bởi vì những kẻ đến hạch hỏi Gioan, chính là nhóm người pharisêu,
những kẻ “sạch”, những “Peruoushim", biết trọn vẹn lề luật, các quy định,
những điều được phép hay cấm đoán... (Ga 1,24). Nhưng than ôi, những người
Pharisêu trung hậu này, khi chăm chú đến những nghi thức đúng thực, lạy bỏ qua
Đấng duy nhất có quyền tha tội. Phần lớn số người trong nhóm họ sẽ từ chối
Ngài. Bởi vì chính Gioan Tẩy giả biết rõ Đấng đó: Không phải ông, người thừa
tác và tôi tớ hèn mọn tha tội... vì ông chỉ làm phép rửa bằng nước... nhưng sau
ông, sau cử chỉ làm phép rửa có tính nghi thức của ông, thì "chiên xóa bỏ
tội trần gian" sẽ đến (Ga l,29).
Lạy Chúa, càng tới gần lễ Noen, xin giúp chúng con mau mau tới
gần Chúa, vì chỉ mình Chúa mới xóa bỏ được tội lỗi.
Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan.
Họ đã từ Giêrusalem đến... từ thành thánh, trung tâm thế giới để
phổ biến và giám sát lời Chúa. Thế mà, Thiên Chúa lại tỏ mình ra trên một miền
đất lạ,, bên kia sông Giođan. Vị thánh sử rất tin vào tầm quan trọng của khung
cảnh địa lý này, khiến ông nhấn mạch tới hai lần (Ga 1,28 và 10 40). Lạy Chúa,
xin gúp chúng con trở nên nhưng "thừa sai", không đóng khung mình
trong ranh giới hạn hẹp của chúng con. Xin mở rộng lòng chúng con nhận ra sự
hiện diện kỳ diệu của Chúa... trên bờ sông bên kia.