Chỉ vì kiên trung giữ vững đức tin, quyết tâm không bỏ
Chúa, không bỏ Giáo Hội, nên đã phải trải qua nhiều đau khổ, cơ cực, v.v
Lễ các thánh tử đạo
Việt Nam (được gọi là Lễ thánh Anrê Trần An Dũng Lạc và các bạn tử đạo) ấn định
trong niên lịch phụng vụ vào ngày 24 tháng 11 mỗi năm, và hội đồng giám mục
quyết định rời lễ kính này vào ngày Chúa Nhật liền trước hoặc liền sau ngầy 24
ngày 11, để giáo dân có dịp tham dự dễ dàng.
Thực ra việc kính
Thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo bao gồm việc kính tất cả 117 vị tử đạo đã
được Giáo Hội phong lên bậc hiển thánh. 117 vị thánh này có 96 thánh Việt Nam
(37 linh mục, 14 thầy giảng, một chủng sinh và 44 giáo dân), 11 thánh người Tây
Ban Nha (6 giám mục và 5 linh mục), 10 thánh người Pháp (2 giám mục và 8 lính).
Thánh Anrê Dũng Lạc tử
đạo ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai vị thánh tử đạo đầu tiên là linh mục Tế và
linh mục Đậu tử đạo ngày 22 tháng 1 năm 1745, và vị thánh tử đạo sau cùng là
giáo dân Phêrô Đa tử đạo ngày 17 tháng 6 năm 1862. Như vậy khi nói các bạn tử
đạo với thánh Anrê Dũng Lạc là phải hiểu là các vị thánh tử đạo kể từ năm 1745
tới năm 1862 (trong khoảng thời gian 117 năm)
Tất cả các vị thánh
này, chỉ vì kiên trung giữ vững đức tin, quyết tâm không bỏ Chúa, không bỏ Giáo
Hội, nên đã phải trải qua nhiều đau khổ, cơ cực, như bị tra tấn, bị đòi vọt
đánh nát thịt da, bị kìm nung đỏ cặp vào chân tay, bị đói khát, bị mình trần
phơi nắng nhiều ngày, bị gông cùm xiềng xích trong tù ngục nhiều tháng trời
v.v. và sau cùng hoặc bị chém đầu (án trảm), hoặc bị thiêu sống (án thiêu
sinh), hoặc bị xiết cổ đến chết (án giảo), hoặc bị cắt xác chi thế rồi mới chém
đầu (án lăng trì), hoặc bị cắt xẻ da thịt ra làm trăm miếng (án bá đao). Cũng
có vị, vì bị tra tấn quá dã man, bị đói khát, ngày đêm nhốt trong cũi chật hẹp,
lại phải đeo xiềng xích, cùm chân tay, nên đã trút hơi thở sau cùng, trước khi
bị đem ra pháp trường (chết rũ tù).
Sau đây chúng ta trưng
ra vài cái chết đau khổ của các ngài qua những bản án trên: bá đao, lăng trì,
xử giảo, thiêu sinh hoặc chết rũ tù…
Thánh linh mục Du bị
trói vào một cây cọc. Có 3 lý hình, một cầm kìm, một cầm đao, còn một người lo
đếm cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét đá vào miệng ngài và cột chặt,
để không có thể kêu la hay bỏ chạy được. Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da
trên trán cha Du lật xuống che mắt, rồi cắt từng mảng hai bên ngực, sau lưng,
tay chân. Quá đau đớn cha Du giẫy dụa quằn quại, ngước mắt lên trời cao, rồi gục
đầu xuống nhắm mắt lìa trần. Tiếp theo quân lính cắt đầu của vị tử đạo, bổ thân
mình làm 4 và ném xuống biển. Còn thủ cấp cha được đem đi bêu tại nhiều nơi,
rồi đưa trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
Thánh giám mục Xuyên,
chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh
quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai
tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
Hai cha Điểm và Khoa
bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm
hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai cha bị nghẹt thở và lịm dần.
Sáng 5.6.1862, trước
sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: thánh Toại và thánh Huyên bước
vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ
các ông cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc
cao, thiêu đốt hai ông.
Sau ba tháng tù tại
Bình Định ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận đượn án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường
từ Bình Định vào Nam
xa xôi, Ông Thông cùng đi với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại
phải mang gông xiềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ
được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tôi đến, đoàn tù nhân được tạm giam
trong các đồn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy Ông
Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng
cho Ông.
Đến Chợ Quán, thấy
tình trạng sức khỏe của Ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho
Ông. Sau đó Ông lại phải mang gông xiềng tiếp, khi Ông đặt chân lên đất lưu
đầy, Ông chỉ kịp đọc kinh ăn năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó
là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
Bà thánh Inê Đê (Lê
Thị Thành), sau khi đã bị tra trấn và chịu đòn, coi như trong người không có
chỗ nào không bị thương tích, áo quần đầy máu me, bà đã trút hơi thở cuối cùng
trong ngục. Lời sau cùng của Bà là: “Giêsu
Maria Guise, con xin phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban
cho con trọn niềm tin ở Chúa.”
Hôm đó là ngày
12.7.1841, sau 3 tháng bị giam cầm vì đức Tin.
Riêng những vị bị xử
trảm, cũng có những gương xán lạn về viêc các ngài coi thường sự đau đớn lúc bị
chém đầu. Coi như các Ngài ước ao được chém nhiều lần để biểu lộ lòng yêu mến
Chúa.
Trước khi bị chém,
thánh giám mục An nói với viên quan chỉ huy: “Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát
nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn
tôi đến Việt Nam
giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời
di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức tin, theo gương vị
chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các thánh trên trời.”
Năm ông Đaminh Nhi,
ông Đaminh Mạo, ông Đaminh Nguyên, ông Anrê Tường, ông Vinh sơn Tưởng, bị xử
chém đầu, thì, trừ ông Đaminh Nhi, bốn vị ông Đaminh Mạo cùng các ông Đaminh
Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát,
thì xin được chém ba nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
Riêng Thánh Hồ Đình Hy
bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15, 18
và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính
đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu
chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã
ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa
rêu rao: “Thằng theo tà đạo, đứa ngỗ
nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án
tử hình. Bọn Giatô tin rằng chết vì đạo sẽ lên thiên đàng. Điều đó có đúng hay
sai, không cần biết. Giatô của nó ở đâu? Tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”
Sau cùng để kết thúc
mấy chi tiết về các vị tử đạo, ta cũng nên nhắc lại ý chí anh dũng của hai mẹ
con vị tử đạo: thánh Anrê Trọng.
Sau một năm giam tù, Anrê
Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức tin, các quan quyết định ngày xử là thứ
bảy ngày 28.11.1835. Sáng hôm đó, anh gặp lại người anh họ, người anh họ hỏi
thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo.” rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là an hem,
mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em cả, cầu
chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành
với Chúa cho đến chết.”
Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ Anrê
Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ phải xử.
Gặp con, bà chỉ hỏi một câu: “Bấy lâu nay
xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ
trả thay con.”
Khi được con cho biết
không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con
những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, thánh Trọng
đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: “Xin nhờ anh đưa dùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm”
Mẹ anh đứng gần bên
nghe rõ, nhưng bà chưa thấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ
cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước qua xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp
con bà, cho bà.
Bọc trong vạt áo rồi
ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại: “Ôi con yêu quý của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ”
Rồi bà đem về an táng
trong nhà
Đề tựa của Lm. HK