SUY NIỆM
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
28. Quà tặng
29. Lễ Mẹ Mân Côi
1. Niềm vui cứu rỗi
Cái
tin mà Chúa Giêsu đem xuống trần gian là một tin mừng, cho nên đạo của chúng ta
là đạo của niềm vui.
Thực
vậy, đọc lại Kinh Thánh chúng ta nhận thấy trong suốt dòng lịch sử, dân Do Thái
luôn sống trong vui mừng và hy vọng, chờ đón ngày Đấng Cứu Thế xuất hiện ngay
giữa lòng dân tộc và giải thoát họ. Trong cuộc hành trình tiến về miền đất hứa,
mỗi khi họ gặp phải khó khăn hoạn nạn, thì Thiên Chúa hằng ở bên và nâng đỡ họ,
để họ được sống trong niềm vui mừng và hy vọng. Nội dung những lời rao giảng
của các tiên tri mà Thiên Chúa gởi đến với họ đều kêu gọi họ hãy hân hoan vui
mừng vì Chúa sẽ đến cứu độ họ: Vui lên Sion này ánh sáng huy hoàng. Vinh danh
Giavê đang tràn lan khắp nơi. Vui ca lên nào thiếu nữ Sion, vì Đấng cứu độ rất
oai hùng, Ngài ngự trong nhà ngươi.
Theo
quan niệm Do Thái thì cá nhân không phải chỉ là một con người riêng biệt, mà
còn là hiện thân của tổ tiên. Những người quá cố vẫn đang sống và hiện diện qua
hình hài của con cháu họ. Do đó mỗi người đều liên kết khắng khít với cha ông,
với tổ tiên, với gia đình, với họ hàng và với cả dân tộc mình. Vì thế, lời mời
gọi người thiếu nữ Sion hãy vui mừng cũng chính là lời mời gọi được gởi đến cho
cả một tập thể dân tộc Người Nữ sẽ sinh ra một Adong mới. Ngài sẽ đến phá tan
mọi xiềng xích tội lỗi.
Lời
mời gọi ấy Thiên Chúa cũng muốn gởi đến cho cả một dân tộc mới của Ngài, đến
cho những người tin vào tình yêu của Ngài. Kinh Kính mừng là lời chào hân hoan
mà thiên sứ Gabriel đã dành cho Mẹ Maria, cũng chính là lời mời gọi cho toàn
thể Giáo Hội cũng như cho mỗi người chúng ta là hãy vui lên vì đã được Chúa cứu
độ.
Kinh
Kính mừng chính là lời chào mang lại Tin Mừng bởi vì Tin Mừng đã được khởi đầu
từ đó. Với hai tiếng xin vâng đầy tin tưởng và phó thác, Mẹ đã cưu mang Chúa,
Đấng đem lại niềm vui cho nhân loại. Lời chào mừng của sứ thầy Gabriel cũng
được Thiên Chúa gởi đến với mỗi người chúng ta.
Tuy
nhiên điều quan trọng đó là thái độ đáp lại của chúng ta. Liệu chúng ta có sẵn
sàng xin vâng, có sẵn sàng mang Đức Kitô trong tâm hồn và trong cuộc sống của
mình hay không? Liệu chúng ta có chấp nhận tình yêu của Thiên Chúa hay không?
Chấp nhận tình yêu của Chúa là chấp nhận đi vào niềm vui ơn cứu độ. Chúng ta có
biết rằng mỗi lần đọc kinh Mân Côi là một lần chúng ta đi vào niềm vui của Mẹ,
niềm vui có Chúa ở cùng hay không?
2. Cùng Mẹ xin vâng – Lm.
Anmai
Trong
số các lễ nhớ Đức Maria, ngoài lễ Đức Mẹ Lộ Đức và lễ Đức Bà Camêlô, còn có lễ
Đức Mẹ Mân Côi, do Đức Giáo Hoàng Gregorio XIII thành lập năm 1573. Nhưng để
biết nguồn gốc của lễ này trước hết phải tìm hiểu lịch sử Kinh Mân Côi
“Rosario”. Từ Rosario phát xuất từ chữ Latinh “Rosarium” có nghĩa là vườn hồng,
khóm hồng, tràng hoa hồng, hoặc chuỗi hoa hồng, và cũng còn gọi là Kinh Mân
Côi.
Sở
dĩ gọi là “chuỗi hoa hồng” hay “tràng hoa hồng” là vì nó bao gồm nhiều hạt. Mỗi
một hạt là một kinh Kính Mừng. Khi đọc nó giống như một đóa hồng tín hữu dâng
kính Mẹ Thiên Chúa. Rồi nó cũng được gọi là Kinh Mân Côi, vì Mân là tên của một
loại ngọc, Côi là một thứ ngọc tốt, ngọc quí lạ. Kinh Mân Côi là “Kinh Ngọc”,
là “chuỗi ngọc Mân và ngọc quí lạ”. Mỗi một kinh Kính Mừng dâng lên Đức Trinh
Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đầy ơn phước, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là ngọc
Mân, ngọc đẹp quí lạ tín hữu dâng lên Đức Trinh Nữ Maria.
Lễ
Đức Mẹ Mân Côi trước kia người ta ít lưu tâm đến, nhưng từ khi Đức Mẹ ban ơn lạ
lùng cho Đạo Binh Thánh Giá chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Lépante vào năm 1571,
Đức Thánh Cha Piô V đã cho phổ biến lễ này một cách rộng rãi trong Hội Thánh
toàn cầu. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã giải thích tầm quan trọng của lễ Mân Côi
trong rất nhiều thông điệp Ngài ban bố. Đến nay, người Kitô hữu trên toàn thế
giới đã mừng lễ này cách rất sốt sắng và tôn kính đặc biệt đối với lễ Mân Côi.
Mẹ
Maria với hai tiếng xin vâng đã góp tay vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu
và hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa.Thánh lễ Mân Côi cũng nối kết những biến
cố lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu: “Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh”.
Thư
gửi giáo đoàn Galát, Thánh Phaolô gợi lại niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian
như chúng ta nghe: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con
mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những
ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh
em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh
em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! “ Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng
là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”. Thánh Phaolô
khẳng định lại ơn cứu độ đến tự nơi Chúa Giêsu để rồi những ai tin vào Ngài thì
không còn sống nô lệ cho tội lỗi nữa mà là được cứu thoát.
Đấng
Cứu Độ trần gian mà Thánh Phaolô nhắc đó cũng đã được các ngôn sứ, người này
người kia trong Cựu Ước nói đến. Đặc biệt, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả cũng đã loan
báo nhưng rồi mấy ai đón nhận. Không ai đón nhận bởi vì họ không tin Đấng Cứu
Độ trần gian đến trần gian qua người phụ nữ nhỏ bé. Họ nghĩ rằng Đấng Cứu Độ
trần gian đó đến trong uy quyền, đến trong vinh quang và sẽ làm cho dân tộc của
họ được vinh quang nhưng Chúa đến khác với suy nghĩ của họ.
Trong
niềm tin sâu thẳm của lòng mình, Mẹ Maria đã đón nhận Đấng Cứu độ trần gian.
Trang Tin Mừng quá quen thuộc chúng ta nghe thánh Luca thuật lại lời xin vâng
đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian vào trong đời mình. Mẹ tin và hoàn toàn bỏ ngõ
đời mình cho Thánh ý của Chúa.
Ngày
hôm nay, lời xin vâng được mở ra, được bỏ ngõ với biết bao nhiêu biến cố bi
thương trong đời của Mẹ. Phải nói rằng quá sức chịu đựng của một cô gái như Mẹ.
Không còn gì nhục nhã cho bằng khi phải đón nhận, khi phải đồng hành, khi cùng
với con chịu đau khổ trên hành trình thương khó và bi thương nhất là cái chết
trên thập giá.
Nhưng,
niềm tin ấy của không dừng trên đỉnh đồi Canvê mà còn tiếp tục sau khi chôn con
yêu của mình. Sách Công Vụ Tông Đồ cũng vừa kệ lại niềm tin của Mẹ khi các tông
đồ bấn loạn, người đi về nhà, kẻ chán nản vì Thầy của mình đã chết. Không chỉ
đơn thuần là Thầy mà là người mà cả cuộc đời mình tín thác, mình trao phó, thậm
chí bỏ cả vợ cả con, cả gia đình để theo mà nay đã chết nên chẳng còn gì để mất
cả. Các môn đệ tán loạn nhưng may mắn Mẹ đã giữ vững niềm tin ấy để quy tụ các
môn đệ cùng quay trợ lại nơi các ông trú ngụ để cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau
giữ vững niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian.
Niềm
tin đó chính Mẹ đã giữ, giữ từ ngày xin vâng lời sứ thần cho đến khi Chúa Giêsu
ra đi.
Tràng
chuỗi Mân Côi mà ngày nay đoàn con cùng suy niệm chính là cùng nhau suy niệm
niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.
Mừng
Mẹ Mân Côi là mừng niềm tin của Mẹ vào cuộc đời của Đấng Cứu Thế.
Không
phải mừng lễ Mẹ như là mừng một biến cố, ghi dấu một kỷ niêm nhưng lại một lần
nữa ta cùng nhau chiêm ngưỡng niềm tin của Mẹ. Và, cũng không phải chỉ để chiêm
ngưỡng nhưng là để cùng nhau sống niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian như Mẹ đã
sống.
Cách
riêng, trong năm Đức Tin này, một lần nữa, cơ hội, dịp để chúng ta soi chiếu
niềm tin của chúng ta vào Đấng Cứu Độ trần gian như thế nào? Dĩ nhiên, niềm tin
ấy cũng như cơn sóng xô của cuộc đời. Niềm tin ấy cũng có lúc mãnh liệt, cũng
có lúc cảm thấy mệt nhoài với những đau khổ trong đời. Thế nhưng, nhìn đi nhìn
lại, nhìn tới nhìn lui thì những đau khổ mà ta phải chịu đó cũng chẳng thấm vào
đâu so với tất cả những nỗi đau của Mẹ Maria. Và, Mẹ Maria cũng đau chưa bằng
chính Chúa Giêsu con của Mẹ phải chấp nhận đau khổ đến hiến mạng sống của mình
để đem lại ơn cứu độ cho con người. Chúa Giêsu, trong tất cả nỗi đau của mình,
Ngài đã vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập
giá.
Ngày
mỗi ngày, khi lần chuỗi Mân Côi, chúng ta cùng đi với Mẹ Maria hành trình cuộc
đời của Chúa Giêsu từ nhập thể, nhập thế và chết trên cây thánh giá. Nhìn như
vậy, chiêm ngắm như vậy, suy niệm như vậy để cùng Mẹ dâng lên Chúa mọi đau
thương thử thách của cuộc đời.
Dĩ
nhiên với bản tính mỏng dòn non yếu và phận người tội lỗi, chúng ta khó có thể
đi theo Chúa trên con đường thập giá. Nhưng, khi cùng đồng hành với Mẹ, có Mẹ
trong cuộc đời, chúng ta sẽ cảm thấy thập giá đời của ta nó nhẹ nhàng và thanh
thản hơn.
Hãy
cùng với Mẹ Maria và thưa với Chúa hai tiếng xin vâng như Mẹ để tất cả mọi khổ
đau của đời ta nên nhẹ nhàng. Hãy cùng xin vâng như Mẹ để niềm tin của chúng ta
ngày mỗi ngày trao phó cuộc đời của chúng ta càng thêm mạnh đủ để chúng ta bắt
chước như Mẹ mở toang cuộc đời của ta cho Chúa vào để Chúa hành động trong ta.
3. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
(Trích
trong ‘Tin Vui Xuân Lộc”)
Trong
muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên. Chúng ta thấy, không có một tạo vật nào
được Giáo hội dành nhiều ưu ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn
dành cho Mẹ muôn vàn tước hiệu, tước hiệu nào cũng cao quí, cũng đặc biệt. Hôm
nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm
nay vì có liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua
Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô
thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu
phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời “xưa nay
chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm
lời” đã ứng nghiệm, với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã
thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Để
ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày
nay Giáo hội không kêu gọi chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi
chúng ta khám phá ra vị trí của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và nhắc nhở
về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống của người tín hữu kitô chúng ta.
Thật
vậy, khi chương trình sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa bị tội lỗi con người làm
cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa thay thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ
một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa thần sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria. Như bao
cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng ấp ủ những mộng ước, những dự phóng thật
bình thường cho đời mình. Nhưng Thiên Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và
đã làm thay đổi tất cả. Với lời thưa “Xin vâng” thật đơn sơ cô đã trở thành Mẹ
của Đấng Cứu Thế, và trở nên người đầy ân phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa
đã chọn Mẹ, nhưng còn vì Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý Chúa
làm ý của mình, luôn cố gắng để cho chương trình của Ngài thành hiện thực. Mẹ
đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với
tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Nhờ đó, Mẹ trở
nên như mẫu gương, như người hướng dẫn và như sự nối kết những tâm hồn thành
tâm kiếm tìm, lắng nghe và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.
Do
đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria,
để noi theo Mẹ, chúng ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ,
chúng ta vượt qua được những gian nan, thách đố, những lo âu, khắc khoải của
dòng đời, để sống tốt lành thánh thiện, sống tươi vui và tử tế với nhau hơn.
Muốn được như vậy, giáo hội mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng lần
chuỗi Mân Côi như là phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước
trời. Vì lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà
chính là mừng về một chiến thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của ơn thánh
trên tội lỗi, mà muốn có chiến thắng thì không thể xao lãng việc lần hạt Mân
Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên,
ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn
thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai
khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong
những đám tro tưởng như nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy thử một lần
để nhận ra được giá trị của kinh Mân côi, để khi gặp những khúc quanh, gánh
nặng, khổ đau, những lúc mây mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu
xin Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong
giờ lâm tử”. Amen.
4. Xin Vâng
Bài
Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ. Hai
tiếng "Xin Vâng" thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng "Xin Vâng" có ảnh hưởng tới chương
trình của Thiên Chúa.
Thiên
Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người. Nhưng để chương trình ấy thành
công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con
người được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban
hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà
nguyên tổ không vâng lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa.
Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã
tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực
hiện. Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng "Xin
Vâng" của Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng
"Xin Vâng" của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì
vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi
Đức Mẹ nói tiếng "Xin Vâng" với thiên thần, Đức Giêsu cũng nói
"Xin Vâng" với Đức Chúa Cha. Với hai tiếng "Xin Vâng", Đức
Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng "Xin
Vâng", Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng "Xin Vâng" có ảnh hưởng tới cả cuộc đời
Hai
tiếng "Xin Vâng" nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, nhưng ảnh hưởng tới cả
cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống
thế, như lời thánh vịnh: "Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu,
Chúa không nhận. Thì này Con đến để làm theo ý Cha". Vì vâng lệnh Đức Chúa
Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức
Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây thánh giá:
"Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng
theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi".
Cũng
vậy, khi nói tiếng "Xin Vâng" với thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả
đời mình vào chương trình của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong
hang đá nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai Cập. Vì xin vâng mà
chấp nhận lời tiên tri Simêon: "Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà". Vì
xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà
phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như
cùng chết với con vậy.
Như
thế, để nói tiếng "Xin Vâng" với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã
phải nói "không" với chính mình. Để một lần nói "Xin Vâng với
Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói "không" với chính
mình. Tiếng "Vâng" lớn thành hình nhờ những tiếng "không"
nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công
nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi
tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là
chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy
không thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương
Đức Mẹ, nói tiếng "Xin Vâng" với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng
theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa.
Hãy xin vâng khi vui. Hãy xin vâng khi buồn. Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy
xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui
tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin vâng từng giây
phút trong cuộc đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh
phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.
Lạy
Mẹ, xin dạy con hai tiếng “Xin Vâng” như Mẹ. Amen.
5. Lá sầu riêng – Lm Giuse
Tạ Duy Tuyền
Ở
đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ
chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh
khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị
lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như:
“Nuôi
con chẳng quản chi thân,
Chỗ
ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”.
Và
rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con:
“Con
ho lòng mẹ tan tành,
Con
sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.
Có
lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện “Lá sầu riêng” của sân khấu cải lương đã
từng trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết
mình vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê,
nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói,
khiến bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia
đình giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với
tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do
tay bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con
biết sự thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một
người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những
giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc
thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua
đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh
sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước
mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: “Con ơi! Ngày
con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con
cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?”.
Tình
thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của
con. Tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa
vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã
không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm
bởi chính thái độ khước từ của con.
Tháng
Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giê-su cũng
là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ.
Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng
người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi
Giê-su. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa
Giê-su con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề
bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình
mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả
chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng
nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ - Năm canh dài thức trọn năm canh”.
Thế
nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại
hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc,
đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế
tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay
trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh
vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản “lá
sầu riêng” đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang
bảo chúng ta: “Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà
con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà
con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp
tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con”.
Xin
cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về
những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa
tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy
dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác
của Chúa. Amen.
6. Kinh Mân Côi
Nguồn
gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc
Âu thời Trung cổ đội lên đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc
thay, ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy
móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân
xá, còn giới trẻ và đặc biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì
khi lần hạt.
Mặc
dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời
khuyên bổn đạo “Hãy ăn năn sám hối và lần hạt Mân Côi”. Nhưng thực tế cho thấy
ít có ai sám hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và
người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.
Trong
khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng
là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vì đáng lẽ cái thứ “phụng vụ dân gian” này phải
được kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.
Thật
vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào koảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu
gì về phụng vụ bằng tiếng Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian,
là sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình,
đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa
múa.
Theo
truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể
tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách
đọc đi đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel
cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.
Thánh
Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống
suy niệm những mầu nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết
về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi
một hình thức sùng kính chỉ có tính cách tình cảm trở thành một phương tiện
loan báo Tin Mừng. Đối với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát
hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những bông hoa của ơn
cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh
Nữ.
Chính
nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải
được liên kết với việc tin vào Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc
kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm
tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.
Bởi
thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho
trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực
hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của
Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người
Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó
chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo
Mẹ hiền.
7. Kinh Mân Côi
Ngày
10.3.1615 tại Glascow, một vị thừa sai nổi tiếng, đó là cha Ogilive bị hành
quyết vì tội rao giảng Phúc Âm. Trong giây phút cuối cùng đứng trên đoạn đầu
đài, nhìn thấy hàng ngàn người đến xem, ngài muốn để lại cho họ một kỷ niệm,
nên đã lấy cỗ tràng hạt của mình mà ném vào đám đông. Xâu chuỗi rơi trúng một
ông hoàng nước Hung Gia Lợi đang trên đường du học và đã có một đời sống không
mấy tốt đẹp. Ông hoàng này đã thực sự xúc động khi nhận lấy xâu chuỗi, và cũng
nhờ xâu chuỗi, ông đã từ bỏ được nếp sống tội lỗi, trở nên một người đạo đức và
yêu mến kinh Mân Côi.
Từ
câu chuyện trên, chúng ta hãy nhớ lại những mệnh lệnh của Mẹ tại Fatima. Đúng
thế, vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima với 3 em nhỏ. Và qua 3 em nhỏ
Mẹ đã truyền dạy chúng ta: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và
hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy mệnh
lệnh thứ ba bao gồm cả hai mệnh lệnh trên. Bởi vì nhờ việc siêng năng lần hạt,
chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến đối với Mẹ, đồng thời nhờ việc
siêng năng lần hạt, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc
cải thiện đời sống để mỗi ngày một trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chính vì
thế, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn,
là bông hồng thiêng liêng dâng kính Mẹ, là việc đạo đức thích hợp cho mọi người
ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Và
riêng chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta siêng năng lần hạt, thì phần rỗi
của chúng ta sẽ được bảo đảm chắc chắn như lời Mẹ đã nói về cậu bé Phanxicô tại
Fatima như sau: Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt thật nhiều
trước đã.
Để
kết thúc phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại một mẩu chuyện: Có một người nhà
quê không biết chữ xin vào tu bậc trợ sĩ trong một nhà dòng. Được ít lâu, ông
buồn phiền chán nản vì thấy mình không biết đọc sách để được hát kinh nhật tụng
với mọi người. Ông cũng cố học nhưng vì đã có tuổi, nên học trước quên sau,
chẳng chữ nào ra chữ nào. Sau một thời gian miệt mài, ông thấy rõ là mình bất
lực nên bỏ học và chuyên tâm lần hạt. Ông thường xuyên phàn nàn với Đức Mẹ: “Vi
không biết chữ, nên con chẳng ngợi khen Mẹ được nhiều hơn. Con không biết đọc
sách nguyện như các thầy khác, thì Mẹ ráng chịu vậy”. Không chịu thua lòng đơn
sơ thành thật của ông, Đức Mẹ đã hiện ra sáng láng đẹp đẽ với một chiếc áo
choàng lộng lẫy, nhưng mới thêu được một nửa bằng những chữ vàng óng ánh: Kính
mừng Maria... Ông đơn sơ hỏi: “Sao Mẹ mặc áo đẹp mà lại thêu dở dang như vậy?”
Mẹ trả lời: “Đây là những kinh Kính Mừng con đọc hằng ngày để dâng kính Mẹ. Vì
con mới đọc được có bằng ấy kinh, nên áo Mẹ còn dang dở như thế. Vậy con hãy cố
đọc nhiều hơn nữa để chóng thêu xong tấm áo cho Mẹ. Khi nào xong, Mẹ sẽ đến để
choàng cho con và dẫn con vào Nước Trời”. Nói xong Mẹ biến đi, để thầy dòng
không biết chữ ở lại ngây ngất với những kinh Kính Mừng đã đọc.
Từ
đó, chúng ta hãy thực hiện lệnh truyền của Mẹ bằng cách siêng năng lần chuỗi
Mân Côi mỗi ngày, để dâng lên cho Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, xin Mẹ sẽ
nâng đở và phù trợ chúng ta luôn mãi.
8. Hiệu quả của Kinh Mân
Côi
Trong
một vài phút ngắn ngủi này tôi xin trình bày về những ơn lành mà chuỗi Mân côi
đã đem đến cho nhân loại.
Trường
hợp thứ nhất đó
là vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng với
chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh
đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Trường
hợp thứ hai đó
là vào thế kỷ 16 ảnh hưởng của Tin lành trở nên mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu
Châu. Nhưng dân thành Luxembourg vẫn nhất quyết trung thành với Giáo Hội. Hôm
ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư
bước lên tòa giảng, thì một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần
hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà
thờ. Và như thế nhờ kinh Mân côi dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và sự
trung thành với Giáo Hội.
Trường
hợp thứ ba đó
là vào thế kỷ 16, quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa và xâm chiếm Âu Châu, nhưng nhờ kinh
Mân côi, đoàn chiến binh Công giáo, tuy ô hợp, nhưng cũng đã dành được chiến
thắng tại Lépante. Chính vì thế, để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng
lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô 5 đã thiết lập lễ Mân côi hôm nay.
Trường
hợp thứ tư, đó
là vào thế kỷ 20. Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một
cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên
những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo
nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi
người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917,
năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch
sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi, để xin Mẹ chấm
dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Và Bồ Đào Nha đã xứng
đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.
Cũng
từ đó những sự đổi mới đã xảy ra. Tinh thần đạo đức thấm nhiễm vào các tổ chức
xã hội. Ơn kêu gọi gia tăng, các tạp chí Công giáo phát triển và Giáo Hội bừng
sống sau một thế kỷ tàn lụi. Chính các Đức giám mục Bồ Đào Nha, trong một bức
thư chung đã xác quyết: Sở dĩ Bồ Đào Nha đã thay đổi tốt đẹp là do những lần Mẹ
hiện ra tại Fatima và kinh Mân côi.
Nhìn
vào hiện tại chúng ta thấy thế giới cũng đang trải qua những biến động và xáo
trộn về kinh tế, chính trị và nhất là về tôn giáo. Mặc dù không có những cuộc
bách hại gay gắt, mặc dù không có ảnh hưởng của các bè rối, nhưng có một đe dọa
khác tệ hại hơn, đó là những học thuyết, những trào lưu tư tưởng, những thể chế
chính trị chối bỏ Thiên Chúa, đả phá tôn giáo mỗi ngày một bành trướng, khiến
cho một số người không nhỏ xa lìa đức tin. Để nhân loại được hòa bình, để thế
giới được an vui, để Giáo Hội được phát triển, chúng ta không có một phương
pháp nào hơn là phương pháp mà Mẹ đã truyền dạy, đó là hãy siêng năng chăm chỉ
lần hạt Mân côi.
9. Suy niệm của ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt.
MARIA,
NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ
Bài
Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức
Mẹ. Với hai tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ
không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt
chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng
tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể.
Thật
vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể.
Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của
bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ
khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận
Thịt Máu của Chúa Giêsu.
Với
hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp,
cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung
lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi
nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu
trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên
dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.
Sau
khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây chính
là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn
trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích
phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ,
làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt
sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.
Nhưng
cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong
bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi
hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem
nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống
nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu
mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.
Với
hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy
mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân:
“Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã
được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ
cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến
Thày” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu MTC,
chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã
thành rượu ngon.
Với
hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên
đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong
việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền
tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình
cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ
ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu
mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc
kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc
cho bản thân và cho tha nhân.
Và
với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan
làm con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu
nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào
gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và
trong bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu
thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh,
cùng uống một chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân
thể của Chúa. Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và
nhất là việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân
Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ
chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ
nhị đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”. Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi,
chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả
các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự
Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước
Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào,
hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.
Lạy
Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu
cho con bên tòa Chúa. Amen.
GỢI
Ý CHIA SẺ
1)
Lời “Xin Vâng” của Đức Mẹ biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong
những lúc gặp thử thách để thưa “Xin Vâng” với Chúa trong đau khổ không?.
2)
Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” nên đã múc
nước lã mà không hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn
không hiểu?
3)
Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng
“Xin Vâng” để thực hiện không?
10. Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
HÀNH
TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA
Khi
nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời
bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp
đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức
Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ
đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và
mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng
nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn
luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ,
uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận
và bước theo Chúa.
Cuộc
thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo
chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong
một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng
Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở
ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria
đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ
phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp
bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp
sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn,
hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc
thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời
làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau
khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao
tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính
mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng
vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi
chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau
khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà
cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số
phận với súc vật.
Đau
khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh
yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy
nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại
sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối
diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi
hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao
đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc
thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc
của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn
chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ.
Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa
Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần
thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ,
Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày.
Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực
nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ
không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn
phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần
thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm
Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ
liên hệ huyết thống:
“Kẻ
nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.
Những
lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn
phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi
những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu
rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc
thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa
Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ
thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ
phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa
con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của
mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn
tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân
cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi
Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt
tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người
nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu,
Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như
vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính
mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên
Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày
nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình
đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa
kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi
mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua
hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy
Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý
Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin
tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)
Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2)
Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người
không?
3)
Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng
hơn?
11. Mân Côi, bản tóm
lược Tin Mừng
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trên
một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít
phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng
hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ
già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa,
anh ta mới lên tiếng:
-
Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ
già điềm nhiên trả lời?
-
Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người
sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
-
Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa
học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy
đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ
trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ
gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:
-
Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu
được điều nầy không?
Người
sinh viên hăng hái đề nghị:
-
Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi
vào thế giới của khoa học.
Cụ
già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua
tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa
khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa
học Paris”.
Anh
chị em thân mến,
Louis
Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc
đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với
tràng chuỗi Mân Côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật
ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể,
tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc
cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ
thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu
việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng
chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực
hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người
ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ
và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ
rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!
Chính
vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ
khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn
“Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không
ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là
bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi
nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh “Ave
Maria” mà chúng ta đọc là “Kính Mừng Maria” thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có
nghĩa là “Hãy vui lên, Maria!” khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng
cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người
thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở
thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì
thế, Maria được ban một tên mới: “Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc” là tên mới
của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh “Kính mừng Maria” là reo lên niềm vui ơn cứu độ.
Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót
và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.
Nội
dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh
đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi
Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu
nhất: “Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao
điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và
cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức
Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn
về quê hương thiên quốc” (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là
bản tóm lược Tin Mừng.
Anh
chị em thân mến,
Khi
lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một
điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo
những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu,
nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác… Đây là những giá trị của Tin Mừng.
Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương
Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết
xót thương, biết xây dựng hòa bình… được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên
Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời
của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế
gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín
lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng
mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời
mình.
Nói
rằng chuỗi Mân Côi là kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận:
không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một
lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa
Giêsu đã nói: “Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ
tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi
Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria:
“Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19; 2,51).
Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa
anh chị em,
Lần
chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng
với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và
qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã
hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức
Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp
trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động
cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời
vì Nước Trời.
Không
có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời
mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi
đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.
12. Tràng hạt Mân
Côi đưa tôi về trời
(Suy
niệm của Lm. Vinh Sơn Trần Minh Hòa)
1. Vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Các
cụ ngày xưa hay dạy con cháu trong việc giữ đạo rằng: tràng hạt Mân Côi đưa tôi
về trời. Ở đây, các cụ không ngụ nói việc đeo hay trưng bày tràng chuỗi Mân Côi
nhưng là việc cầu nguyện bình dân bằng Mân Côi trong đời sống người kitô hữu.
Tại sao việc lần chuỗi Mân Côi mang đến một hiệu quả cao siêu như vậy? Trước
hết, chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Thật
vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay cho thấy, Đức Mẹ có vai trò đặc biệt trong
chương trình cứu độ. Bài sách công vụ cho biết Mẹ Maria có chỗ đứng quan trọng
trong Hội Thánh sơ khai. Mẹ là thành phần của Hội thánh nhưng là thành phần
trổi vượt. Sau biến cố Chúa tử nạn, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu, Mẹ
Maria đã giúp Hội thánh khỏi những khó khăn ban đầu qua hành vi chuyên cần cầu
nguyện chung với các tông đồ (x. Cv 1,14). Mẹ Maria đã trở nên mẫu gương cầu
nguyện cho mọi người noi theo.
Tiếp
đến, thư Galát đã gián tiếp nhắc đến vai trò của Đức Maria trong chương trình
cứu độ. Thiên Chúa muốn cứu độ con người nhưng lại chấp nhận một phương thế rất
khiêm hạ. Đó là chấp nhận cho Con mình là Chúa Giêsu sinh làm con một người
trinh nữ, là Đức trinh nữ Maria. Chúa Giêsu đã đến để chuộc những ai sống dưới
lề luật, để mỗi người được làm con Chúa. Nhờ Mẹ Maria chấp nhận làm mẹ Chúa Giêsu
mà mọi người có cơ hội được làm con Thiên Chúa và có thể kêu lên với Chúa là
Apba có nghĩa là Cha ơi.
Cuối
cùng, bài Tin Mừng theo thánh Luca đã trình thuật biến cố truyền Tin. Đức Maria
được Thiên thần Gariel chào chúc là Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Mẹ
Maria được chào chúc như vậy bởi vì Mẹ đã và đang sống đẹp lòng Chúa, đang sống
theo ý Chúa và nhất là Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Chúa Giêsu,
ngôi lời Thiên Chúa nhập thể. Mẹ càng đẹp lòng Thiên Chúa hơn nữa khi Mẹ thưa
lời xin vâng với sứ thần: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi
như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Chính giây phút thưa lời xin vâng, Mẹ Maria đã
trở thành Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thưa lời xin vâng, Mẹ
đã chấp nhận liên đới mật thiết với Chúa Giêsu khi thành công cũng như chuỗi
ngày thất bại, khi chia vui với thực khách ở tiệc cưới Cana cũng như lúc sẻ
buồn với Chúa Giêsu và Hội thánh ở trên núi sọ. Mẹ cũng liên đới mật thiết với
Hội thánh vì khi nhận lời trăng trối của Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ đã nhận
thánh Gioan, đại diện cho toàn thể Hội thánh là con của mẹ. Nhờ thế, Mẹ đã hiệp
công cứu chuộc với Chúa Giêsu con Mẹ trong chương trình cứu độ. Mẹ có sức
chuyển cầu hiệu quả cho những ai cậy trông vào Mẹ, cách riêng cho những ai chuyên
chăm lần chuỗi Mân Côi.
2. Tràng chuỗi Mân Côi đưa tôi về trời.
Lần
chuỗi Mân Côi là việc đạo đức bình dân không xếp trên thánh lễ, các bí tích và
giờ kinh phụng vụ vì các việc trên là phụng vụ và là việc tôn thờ chính thức
của Hội thánh. Tuy nhiên, việc lần chuỗi Mân Côi lại có một hiệu quả đặc biệt
cho ơn cứu độ của mỗi người. Tại sao như vậy? Trước hết, Đức Maria có thế giá
đặc biệt khi chuyển cầu cho con cái mình và kinh Mân Côi là lời Kinh được chính
Đức Mẹ tỏ bày cho con cái mình. Vào thế kỷ 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện
ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn
đứng được làn sóng lạc giáo Anbidoa Miền Nam nước Pháp. Nhờ phép lần hạt Mân
Côi mà Hội Thánh Dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V đã tránh được làn sóng xâm
lược của đạo quân Hồi giáo tại vịnh Lêpăng vào đầu thế kỷ 16. Vào đầu thế kỷ
20, trong biến cố ở Fatima, Mẹ Maria đã khuyên dạy con cái mình siêng năng lần
hạt Mân Côi để thế giới được hòa bình, mọi người được bình an.
Kế
đến, lời kinh Mân Côi là bảng tóm Phúc Âm. Đây là kinh nguyện đầy nét Thánh
Kinh được tập trung vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu chuộc, chuỗi Mân Côi hướng rõ
ràng về Đức Kitô. Thật vậy, kinh kính mừng là lời ca tụng Đức Kitô không ngừng:
Kính chào bà đầy ơn phúc và con lòng bà gồm phúc lạ. Kinh lạy cha là kinh chính
Chúa Giêsu dạy để các tông đồ và người tín hữu biết cầu nguyện. Các ngắm vui,
thương mừng, sáng diễn tả cô đọng mầu nhiệm của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho
tới khi hoàn tất chương trình cứu độ và các ý nguyện giúp người đọc sống theo
gương Chúa Giêsu. Kinh sáng danh là lời vinh tụng ca tuyên xưng một Chúa Ba
Ngôi cả sáng: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Cuối
cùng, kinh Mân Côi là kinh dễ thực hành cho mọi tín hữu trong mọi hoàn cảnh phù
hợp cho một em bé cũng như cho cả Đức Giáo Hoàng. Đức chân phước Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã chia sẻ kinh nghiệm của Ngài trong việc thực hành kinh Mân
Côi được trích trong tông huấn Rosarium Virginis Mariae như sau: “Chuỗi Mân Côi
là lời kinh tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt diệu trong đơn sơ và trong
sâu thẳm của nó …Đã bao nhiêu năm qua, tôi đã lãnh nhận không biết bao nhiêu ân
sủng từ Đức Trinh Nữ nhờ kinh Mân Côi”.
Ước
mong mỗi khi chúng ta tin nhận thế giá bầu cử của Mẹ trong chương trình cứu độ.
Chúng ta năng chạy đến Mẹ qua lần chuỗi hằng ngày, để chính Mẹ giúp mỗi người
ngày càng gắn bó và yêu mến Chúa Giêsu hơn.
13. Kinh Mân Côi – Lời kinh
kỳ diệu
(Trích
trong ‘Từng Bước Một Thôi’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Ngày
16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc
cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria
và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.
Sau
hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư
“Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở
thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn
sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như
có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế
đỉnh cao và trung tâm.
Vâng,
Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và
phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1)
Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành
rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như
được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca
nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ.
Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc
một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không
mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một
cung bậc diệu kỳ.
Phần
đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp
với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa
Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin
ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả
hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh
kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế
là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu
“nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào
trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu
ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa
Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay
không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm
tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2)
Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật
vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm
lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống
Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề
nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân
Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để
có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy
tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến
hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình
sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất
nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc
Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách
của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn
đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ;
và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo
phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng”
đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad
Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa
suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể
của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính
Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa
Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa
Giêsu.
3)
Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi
nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn
mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức
và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày
xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám
sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại
Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại
ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên
thánh, mến Chúa, yêu người”.
Nếu
nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ
tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người
tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua
Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một
nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng
người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên
thánh.
Những
nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành,
những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là
những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay
đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo
sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi”
(hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo
định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào
mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm
lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính
là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước
đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm
khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn,
để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng
đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
14. Kinh Mân Côi – Lời kinh
kết nối (Lc 1,26-38)
(Trích
trong ‘Nút Vòng Xoay’ - ĐGM. Giuse Vũ duy Thống)
Chiều
qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia
đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng,
đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc
và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì
thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt
nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng
giữ kín được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia
đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu
vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người
Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế giới.
Thấy
tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng
Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi
người mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm
châu là sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo
minh họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người
cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời
kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi
Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi
Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được
lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với
Đức Maria.
Sự
kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa
chỉ dám nhận mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ
Thiên Chúa. Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên
Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta
hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm
ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng tác bằng lời “xin vâng” thì ơn phúc kia mới
lộ hiện.
Nhưng
“xin vâng” không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực
thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên
hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự
kết nối ấy là một sự “nối mạng”, nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria
trong vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại
hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng,
một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều
đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức
Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách
nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu
đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng
đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được
dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.
Có
một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không,
ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở
Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ
lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu
nữa.
Chính
kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ
có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc
bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc
lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Mẹ
để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa
Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nhưng
kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa
Vui, Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức
Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức
Giêsu chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh
Đức Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây
là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có
vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần
thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của
Mẹ Maria.
Thực
ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với
Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp
thông với nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin
tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.
Với
Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu
sung túc cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh
cảm nhận hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ,
gia đình, trên đường……? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân,
từ trí thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình
đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với
mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh
phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu
Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có
sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho
nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến
thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là
ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình
bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà
chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong
mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì.
Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng,
nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn
sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Một
lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và
nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả
đều cười vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ,
mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.
15. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến
thắng
(Trích
trong ‘Với Cả Tâm Tình’ của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Lễ
Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của
Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình
chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá
lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10,
kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo.
Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày
nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá
cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không
phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là
bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa
qua Kinh Mân Côi.
1)
Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính
mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu
của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương
chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan
trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi
lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý
Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.
“Xin
Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng
nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất
thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để
đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một
lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu
chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm
của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin
Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ,
nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm
Mẹ Thiên Chúa.
Rõ
ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó
là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở
nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì
thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng
thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria,
nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ
chiến thắng trên chính phận mình.
2)
Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh
Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh
Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là
một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên
chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng
Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh
đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng
trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng
chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng
chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc
đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ.
Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng
nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối
tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên
kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là
Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo
Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận
mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ
thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín
nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ
đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu
bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3)
Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác
vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một
phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí
Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh
Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng
lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là
mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức
Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn
thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo
tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho
Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội
chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở
thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao
khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và
mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai
danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng
không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày
bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn
đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội
lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm
ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa
vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong
Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có
một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp
ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ
ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất
giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một
tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần
lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất
tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội
lỗi.
Lạy
Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.
16. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Sau
khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuđa cảm thấy chán nản thất vọng đến độ
không còn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng
bạc là giá bán Chúa đi vào đền thờ và nám trả lại cho các Thượng tế và Kỳ lão.
Sau đó ông đi thắt cổ tự tử. Câu chuyện này đã đi vào lịch sử của dân làng
Oberammergau ở Đức. Cứ 10 năm một lần theo lời thề của cha ông để lại từ mấy
trăm năm qua, người dân làng diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong cảnh
Giuđa ra ngoài ngồi than thở: “Tôi đã phản bội Thầy tôi. Tôi không biết chạy
đến với ai nữa!”
Khán
giả ở dưới im lặng theo dõi, một em bé ngồi bên cạnh mẹ, thông cảm cho số phận
của kẻ chìm đắm trong thất vọng, em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ
ấy. Em quay sang mẹ và nói lớn đến nỗi tất cả khán giả trong hội trường đều
nghe thấy:
“Mẹ
ơi, sao ông ta không chịu chạy đến với Mẹ Maria?”.
Thưa
anh chị em,
Phải
chi Giuđa mà biết chạy đến với Mẹ Maria, hẳn là ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy
nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi
người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của
những giây phút ngồi trên gối mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm
nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên
bài học mà Ngài muốn nhắn gởi chúng ta: “Hãy chạy đến với Mẹ Maria”.
Tràng
chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp chúng ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh
Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình không được an vui
hòa thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu
thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng
chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần
chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông…”.
Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói
với tất cả các tín hữu hiện diện tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh
Truyền Tin rằng: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là
lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này
chúng ta lặp lại nhiều lần những lời Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và
người chị họ Êlizabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những
lời kinh ấy. Người ta có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương
cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican
II, chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô
diễn ra trước mắt chúng ta. Những biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui,
Thương, Mừng và chúng ta hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng
thời, chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống
hằng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân
loại, những biến cố của chính bản thân của anh chị em chung quanh, nhất là với
người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ
rập theo nhịp sống của con người” (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).
Trong
Tông Huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI
đã nói: “Kinh Mân Côi là kinh Tin Mừng”. Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời
kinh Lạy Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng
nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu
nhiệm Chúa Giêsu.
Vì
thế, đối tượng cốt yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria,
nhưng là mầu Chúa Giêsu, trải dài từ tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và
niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá
trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường,
từ bỏ… những giá trị “nên xác thịt” nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời
gọi được gởi tới cho tất cả mọi người.
Trên
nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình
mẫu tử và cũng là người môn đệ ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng
cứu độ trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên
thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về
những đoạn đường Chúa đã đi qua với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn
đường ấy.
Như
thế, thưa anh chị em,
*
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, chúng ta thêm một lần
xác tín và xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng.
*
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong
chiều dài lịch sử cứu độ và qua những biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến
cố hôm nay của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.
*
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề
của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám
chấp nhận dấn thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ
Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Chính
như thế đó, Thánh Đaminh đã biến chuỗi Mân Côi thành phương thế loan báo Tin
Mừng. Nhờ đó nhiều người đã thoát khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và
đã trở về với Giáo Hội.
Cũng
chính như thế đó, Đức Gioan XXIII đã lần chuỗi Mân Côi như phương thế nuôi
dưỡng đời sống mục tử của ngài.
Đối
với chúng ta cũng thế, không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập
toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng
không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình -cùng với Mẹ
Maria- vào nẻo đường của Thiên Chúa. Hãy chạy đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn
chúng ta đến với Chúa Giêsu.
17. Mẹ Đầy Ơn Phước – R.
Veritas
(Trích
trong ‘Sống Tin Mừng’)
Thời
gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước
kia giờ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là
Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến
tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính mừng
Maria, hãy vui lên, Maria”. Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi
Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria
không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để
làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ
Maria qua kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng ta tham dự vào
niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ
là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về
người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42
câu 1: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn
phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được
đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui
vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của
Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài
cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên
Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
“Linh
hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài
là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham
và con cháu ông”.
“Thiên
Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến
cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một
ý nghĩa sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất của lịch sử
đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng
chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa
là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên
Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
“Hỡi
Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không
khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện
diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự
thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc
khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui
mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô,
chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria
nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin
Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ
để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc
biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên
Chúa Cha:
“Lạy
Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng
con chúc tụng Cha
Vì
Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng
cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha
đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con,
Nhờ
lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc
biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và
nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng
Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”.
Xin
cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở
với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ
đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng
Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này
như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu
cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và
đặc biệt trong chính chúng con.
18. Phương thuốc thần diệu
– Lm Trần Ngà.
(Trích
trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Mọi
tội lỗi của con người đều do một cội rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời
Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người là A-đam và E-và bị trục xuất khỏi vườn
địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu
đời sau... là vì hai ông bà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường
lối Người. Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên
tổ là đầu tàu đi trật đường rầy, cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao
vào vực thẳm. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà
muôn người thành tội nhân...” (Rôma 5, 19)
Vậy
muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là
phải diệt trừ tận gốc căn nguyên gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng
Thiên Chúa.
Tràng
chuỗi Mân Côi được xem là phương thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh
trầm kha nầy vì chuỗi Mân Côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ
Maria và Chúa Giê-su.
*
Gương Vâng Phục Của Mẹ Maria
Lắm
khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành
ý Chúa.
Khi
đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng
ta muốn Thiên Chúa lo liệu cho chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng
ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên
Chúa giúp chúng ta thành công; khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng
ta đầy túi...
Nếu
Thiên Chúa không mau mắn nghe lời chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa,
chúng ta hăm bỏ đạo, có khi chúng ta hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ...
Thế
nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai
Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi
Thiên Chúa điều gì mà chỉ biết vâng theo lệnh Chúa truyền. “Tôi đây là nữ tỳ
của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục
mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự
vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp
lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn
lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc
(gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
*
Gương Vâng Phục Của Chúa Giêsu
Song
song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của
Chúa Giê-su trong mầu nhiệm thương.
Trong
Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt
máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giê-su cũng xin thưa với Cha: “Xin
đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế
đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm
sự thương), Chúa Giê-su vẫn cắn răng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin cho ý
Cha thể hiện”.
Sau
đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Ngài, lại
còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa
Giê-su vẫn bằng lòng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin đừng theo ý Con, mà
làm theo ý Cha”.
Dù
đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước
lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm
thứ tư), Chúa Giê-su vẫn xin vâng: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Dù
phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai
tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giê-su
vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Luca
23, 34)
Như
thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm
gương vâng phục của Chúa Giê-su. Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh
Phao-lô khắc hoạ lại trong bài ca gửi tín hữu Philíp:
“Đức
Giê-su Ki-tô
vốn
dĩ là Thiên Chúa
mà
không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa
vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc
lấy thân nô lệ,
trở
nên giống phàm nhân
sống
như người trần thế.
Người
lại còn hạ mình,
vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết
trên cây thập tự...” (Philíp 2, 6-8)
Sự
vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa Giê-su rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên
Ngài đã cho Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ
nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giê-su vượt bậc: “Chính vì thế,
Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi
danh hiệu...” (Philíp 2, 9)
Thế
là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su, mọi kẻ tin sẽ được cứu
độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy,
cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn
người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giê-su) đã vâng lời
Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.(Rôma 5, 19)
Như
thế, chuỗi Mân Côi chứa đựng bài học vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên
Chúa là phương thuốc diệt trừ tận gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng
Thiên Chúa; vâng lời là phương thế giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường
dẫn đưa nhân loại về cõi trời.
Phương
thuốc thần diệu đó đã được Mẹ Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng
ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ
ban để diệt trừ tận căn mầm mống tội lỗi ngay trong lòng mình.
19. Bài học quan trọng của
kinh Mân Côi
(Trích
trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ của Lm. Trần Ngà)
Mọi
tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời
Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và E-và đã không vâng
lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn
địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu
về sau.
Sự
bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu
đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực
sâu tội lỗi. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà
muôn người thành tội nhân... “ (Rôma 5, 19)
Vì
thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì
phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa
Giê-su chính là “đầu tàu” nầy: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã
không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy
nhất (là Chúa Giê-su) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người
công chính”. (Rm 5, 19)
Tràng
chuỗi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót
Chúa Giê-su và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giê-su và Mẹ
Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà
E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền
dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức
Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống
vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời
vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù
được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự
coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa
truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: “Tôi đây là
nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học
vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự
vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa,
nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội
dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là
nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giê-su
Song
song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của
Chúa Giê-su trong mầu nhiệm thương.
Trong
Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt
máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giê-su cũng xin thưa với Cha: “Xin
đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế
đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm
sự thương), Chúa Giê-su vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh
ý Chúa Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.
Sau
đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại
còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa
Giê-su vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: “Xin đừng theo ý Con, mà làm
theo ý Cha”.
Dù
đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước
lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống
nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giê-su vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã
định: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Dù
phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai
tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giê-su
vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23,
34)
Sự
vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã
cho Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ
hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giê-su vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa
Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu...”
(Philíp 2, 9)
Thế
là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su, mọi kẻ tin sẽ được cứu
độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy,
cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn
người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giê-su) đã vâng lời
Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như
thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa
Giê-su và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giê-su và
Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào
chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giê-su dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với
Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! “ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi
hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt
7,21).
20. Kinh Mân Côi và Phúc Âm
(Lc
11,15-26)
Kinh
Mân Côi là một việc đạo đức xuất phát từ Phúc Âm. Đúng thế, trước hết là những
lời kinh chúng ta đọc. Kinh lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh chính Chúa
đã truyền dạy cho các môn đệ.
Còn
kinh kính mừng là gì nếu không phải là lời chào của sứ thần Gabriel và của bà
Elisabeth, đã được Phúc Âm ghi lại. Nhưng điều quan trọng hơn là những mầu
nhiệm chúng ta suy gẫm, tóm lược toàn bộ Tin Mừng và cuộc đời của Chúa.
Có
một thời người ta đã không lần hạt như ngày nay, thay vì 15 mầu nhiệm, người ta
đã suy gẫm tới 150 mầu nhiệm, nghĩa là mỗi kinh kính mừng tượng trưng cho một
mầu nhiệm, từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho đến ngày vinh quang của Mẹ
Maria, cũng như cho đến ngày tận thế. Chắc hẳn như vậy cũng khí thái quá, làm
cho kinh Mân Côi trở nên phức tạp và dài dòng.
Ngày
nay chúng ta qui tụ lại thành 15 ngắm, tượng trưng cho 15 mầu nhiệm, 15 biến cố
chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu và chúng ta có thể xác quyết: Kinh Mân Côi
chính là một bản tóm lược Tin Mừng và cuộc đời của Chúa. Hay nói cách khác, đó
chính là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa ươm mơ và thực hiện trong dòng thời
gian. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi sẽ dẫn chúng ta đến với Tin Mừng,
vì vậy kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trợt trạt ngoài
miệng, nhưng còn là một lời kinh để cho chúng ta suy gẫm, nhiều người hẳn đã
rùng mình khiếp sợ. Nhưng thực sự đây là một việc làm hết sức đơn giản và dễ
dàng. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những mầu nhiệm, mường tượng ra những biến cố,
những hình ảnh như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Dĩ nhiên không đòi
buộc chúng ta phải suy nghĩ từng chữ hay từng lời chúng ta đọc, mà chỉ cần
tưởng nhớ đến những sự kiện mà mỗi ngắm đã gợi lên. Cũng không cần phải dừng
lại lâu giờ nơi mỗi ngắm, vì đây không phải là một giờ nguyện ngắm, một giờ suy
niệm theo đúng nghĩa của nó.
Tôi
xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn chúng ta chỉ cần mường tượng ra Chúa Giêsu
vai vác thập giá, lần từng bước tiến lên đỉnh đồi Canvê, đồng thời chúng ta hãy
nghĩ tới thập giá cuộc đời chúng ta là những hy sinh, những gian khổ chúng ta
gặp phải trong cuộc sống. Và như vậy cũng đã đủ lắm rồi.
Chúa
Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, xét đoán dựa vào những kết quả đã thu
lượm được. Trái lại, Ngài là một người Cha nhân từ, Ngài chỉ cần nhìn thấy
thiện chí và sự cố gắng của mỗi người chúng ta. Như vậy không có nghĩa là bảo
chúng ta không cần tiến tới sự trọn lành và thánh thiện.
Sau
cùng, kinh Mân Côi còn là một lời kinh thích hợp với thời đại chúng ta. Trong
đời sống không ai trong chúng ta lại chán cơm. Nếu chúng ta chán cơm thì đó là
dấu chỉ chúng ta đau yếu hay sắp chết. Cũng vậy, trong đời sống siêu nhiên,
chúng ta không ngừng lập lại lời kinh Lạy Cha và kinh kính mừng để lấy lại sức
sống cho tâm hồn.
Bởi
đó, hãy siêng năng lần chuỗi để nhờ đó chúng ta có đủ sức chịu đựng những khổ
đau và thắng vượt được những cám dỗ trong cuộc sống.
21. Tôi là nữ tỳ của
Chúa
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Nhân
vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính
Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng
Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên
Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ
tuyệt hảo.
Maria
là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương.
Thiên
thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người
đẹp lòng Thiên Chúa (c.30).
Maria
đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu.
Nhưng
Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ
tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
“Thánh
Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô”
(c.35).
Maria
hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến
thế.
Lời
mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng
tư.
Nếu
Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh
con.
Nếu
Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay
Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan
giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria
không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối.
Nhưng
cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác
tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được.
Maria
đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác.
Tiếng
xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của
Chúa.
Lắm
khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề
có.
Chúng
ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc
đời.
Nói
tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin.
“Phúc
cho em là kẻ đã tin...” (Lc 1,45).
Tiếng
xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những
lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không?
Chỉ
khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ, tất cả những tiếng xin vâng trong đời
mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng
ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi
Ý Chia Sẻ
Thiên
Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn
và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua
một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để
xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ
dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Mẹ Maria,
khi
đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ
đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ
đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ
tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ
đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và
cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ
lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng
con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng
phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có
những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin
Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi
mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin
giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm
hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
22. Chuỗi Mân Côi
1. Suy niệm về tràng chuỗi Mân Côi
Mân
Côi là một bộ kinh để cầu nguyện với Mẹ Maria gồm 200 kinh Kính Mừng, vừa đọc
vừa suy gẫm 20 biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời Đức Giê-su và Mẹ Maria.
Cứ đọc 10 kinh Kính Mừng thì đồng thời suy gẫm một biến cố. 20 biến cố ấy được
chia làm 4 nhóm:
a)
Năm sự vui: gồm 5 biến cố trong cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su.
b)
Năm sự sáng: gồm 5 biến cố trong cuộc đời công khai của Đức Giê-su.
c)
Năm sự thương: gồm 5 biến cố trong cuộc khổ nạn của Đức Giê-su.
d)
Năm sự mừng: gồm 5 biến cố vinh quang (Đức Giê-su phục sinh và lên trời, Thánh
Thần hiện xuống, Thiên Chúa ân thưởng và tôn vinh Mẹ Maria).
20
biến cố ấy là những biến cố cốt yếu trong Tin Mừng, nên có người nói chuỗi Mân
Côi là một Tin Mừng được tóm gọn. Vì thế, đọc kinh Mân Côi hay lần chuỗi là một
hình thức đặc biệt để suy gẫm Tin Mừng, theo kiểu miệng đọc tâm suy. Miệng thì
đọc các kinh Kính Mừng kính Mẹ Maria, tâm thì suy niệm những biến cố của Tin
Mừng, chủ yếu là những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giê-su. Như thế, đọc
kinh Mân Côi không chỉ là cầu nguyện với Mẹ Maria, mà còn là suy gẫm về Đức
Giê-su và cầu nguyện với Ngài.
Trong
kinh Mân Côi, ta thấy có sự liên kết hết sức chặt chẽ giữa Đức Giê-su và Mẹ
Maria. 20 biến cố của kinh Mân Côi đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới
Mẹ Maria. Chẳng hạn các biến cố của năm sự thương có vẻ như chỉ là biến cố của
Đức Giê-su, nhưng trong thực tế Mẹ Maria luôn luôn theo dõi hoặc có mặt một
cách âm thầm trong đó. Những biến cố ấy ảnh hưởng rất sâu đậm đối với cuộc đời
Mẹ, và một cách nào đó cũng là những biến cố quan trọng trong cuộc đời Mẹ.
Những đau khổ của Đức Giê-su đều trở thành đau khổ của Mẹ, vì thấy người mình
yêu bị đau khổ, và vì không ai yêu Đức Giê-su bằng Mẹ. Trong những đau khổ ấy,
Mẹ cũng đau khổ không kém gì Đức Giê-su, chỉ khác ở chỗ người đau khổ trong
thực tế, còn người đau khổ trong tâm hồn.
2. Tại sao Mẹ Maria chỉ cho chúng ta cách cầu nguyện bằng kinh
Mân Côi?
Truyền
thuyết trong Giáo Hội cho rằng kinh Mân Côi đã được chính Mẹ Maria truyền dạy
cho thánh Đa-minh, và khi hiện ra tại Fa-ti-ma (Bồ Đào Nha), Đức Mẹ cũng khuyên
các Ki-tô hữu năng lần chuỗi Mân Côi. Chắc chắn Mẹ Maria không vì muốn người ta
ca tụng tung hô mình mà khuyên họ tôn sùng trái tim mình và năng đọc kinh Mân
Côi. Và cũng chắc chắn rằng không phải hễ ai ca tụng Mẹ, năng đọc kinh Mân Côi
thì Mẹ sẽ đặc biệt ưu ái đối với người ấy vì người ấy ca tụng Mẹ. Nếu Mẹ Maria
khi còn sống đã khiêm nhường hết mực, thì khi lên trời và làm Nữ Vương thiên
đàng, chắc chắn Mẹ cũng vẫn khiêm nhường như vậy, thậm chí còn khiêm nhường
cách hoàn hảo hơn nữa. Vì thế, ta không thể xét đoán theo tâm lý ham được khen
ngợi của con người để nghĩ tương tự cho Mẹ Maria.
Chủ
yếu trong việc truyền kinh Mân Côi cho loài người là Mẹ muốn con người nên
thánh thiện, hoàn hảo và nhờ đó cá nhân được hạnh phúc, xã hội được bình an
trật tự, có công bằng bác ái, chứ không phải để Mẹ được tung hô khen ngợi.
Nhưng trong thực tế, không có một mẫu gương nào trên đời đáng cho mọi người suy
gẫm và bắt chước để nên thánh thiện cho bằng Đức Giê-su và Mẹ. Nên vì ích lợi
của con người, Mẹ đã không ngần ngại đưa mình ra làm gương để con cái bắt
chước.
Thật
vậy, trong gia đình, người mẹ lấy mình ra làm gương cụ thể cho con cái bắt
chước, thiết tưởng chẳng có gì là quá đáng hay mang tính kiêu căng, mà trái lại
là một phương pháp sư phạm rất khôn ngoan. Vì đối với đứa con, chẳng có gì gần
gũi, thân thiện và cụ thể cho bằng người mẹ. Chẳng có gương mẫu nào cụ thể dễ
bắt chước cho bằng gương của mẹ. Nếu vì ngại đưa mình ra làm gương nên đã đưa
ra một gương khác xa vời và kém xa mình cho con cái, thì thiết tưởng làm như
thế không phải là khôn ngoan, cũng chẳng phải là khiêm nhường. Cốt tủy của
khiêm nhường là tinh thần tự hủy, không đặt nặng cái tôi, chứ không phải là
hành vi tự hạ bên ngoài. Tự hạ bên ngoài mà vẫn còn quan trọng hóa cái tôi thì
không phải là khiêm nhường. Chính khi tự lấy mình ra làm gương mẫu vì nhắm ích
lợi của con cái mình, Mẹ Maria càng chứng tỏ Mẹ không đặt nặng cái tôi của
mình.
3. Cách đọc kinh Mân Côi cho có ích lợi
Điều
cốt tủy của kinh Mân Côi không phải là đọc cho đủ các kinh Kính Mừng cho bằng
việc chiêm ngắm các biến cố quan trọng trong cuộc đời Đức Giê-su và Mẹ Maria để
noi gương và bắt chước. Nếu miệng đọc các kinh Kính mừng còn tâm trí chiêm ngắm
và suy nghĩ 20 biến cố cuộc đời Đức Giê-su và Mẹ Maria, thì các kinh Kính mừng
giúp ta hạn định được số thời gian bằng nhau cho việc chiêm ngắm mỗi biến cố.
Nếu mỗi ngày ta đều đọc một chuỗi Mân Côi, thì nhờ năng chiêm ngắm Đức Giê-su
và Mẹ Maria trong các biến cố cuộc đời các Ngài, mà ngày qua ngày, ta dần dần
trở nên giống các Ngài trong quan niệm, tư tưởng, lời nói và hành động.
Theo
các nhà tâm lý học, tự kỷ ám thị là một phương pháp tự giáo dục vừa đơn giản,
dễ dàng lại vừa hữu hiệu. Không nói tới những ơn ích siêu nhiên, chỉ bàn tới
khía cạnh tâm lý tự nhiên thì kinh Mân Côi vốn là một phương pháp tự kỷ ám thị
rất khôn ngoan, có khả năng biến đổi bên trong con người một cách từ từ nhưng
hữu hiệu. Điều quan trọng là có một khuôn mẫu tốt đẹp nào đó để tưởng tượng và
nghĩ tới thường xuyên. Ngày này qua ngày khác, con người làm như thế sẽ được
biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy. Điều quan trọng của tự kỷ ám thị không phải
là nghĩ tới khuôn mẫu ấy lâu giờ, mà là năng nghĩ tới khuôn mẫu ấy. Người chăm
chỉ đọc kinh Mân Côi thì ngày nào cũng chiêm ngưỡng cách hành xử khuôn mẫu của
Đức Giê-su và Mẹ Maria, nên sẽ được biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy một cách
vô thức, không cần phải cố gắng nhiều.
4. Còn khía cạnh siêu nhiên của kinh Mân Côi nữa
Nhưng
kinh Mân Côi không chỉ là một phương pháp tự kỷ ám thị để tự giáo dục và thánh
hóa mình cách hữu hiệu theo phương pháp tâm lý tự nhiên. Nó còn là một phương
tiện bảo đảm để kéo ơn Chúa xuống nữa, vì chính Đức Mẹ đã hứa ban dồi dào ơn
thánh cho những ai năng đọc kinh ấy. Như thế, kinh Mân Côi vừa là một phương pháp
tâm lý tự nhiên, vừa là một phương thế siêu nhiên do chính Đức Mẹ giới thiệu để
nên thánh. Vì thế, kinh Mân Côi thật là một cách cầu nguyện tuyệt vời đầy kết
quả mà người Ki-tô hữu khôn ngoan cần phải biết sử dụng để nên thánh và kéo ơn
lành xuống cho mình.
23. Việc ấy sẽ xảy ra cách
nào?
(Suy
niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài
Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền
tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu
nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ
muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà
Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng
trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác
định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ
ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu
sắc?
Người
Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy
niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giê-su và đức Maria, hầu
giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết
này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý
thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần
ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới
đức Maria nói chung, theo như tác giả Luca trình bày, cho thấy một khía cạnh
khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn
nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa
lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết
bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Ki-tô hữu đứng trước nhiều biến cố
liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra
cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự
kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra
sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Maria, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng
ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa,
cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ…, những chuyện vụn vặt vu vơ, những
thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…
Đối
với một Ki-tô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị
nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót
thương. Đối với Ki-tô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các
biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình
dân thông thường. Điều một Ki-tô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống
mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa,
đã được đức Maria sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi
nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Maria đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi
vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ
của Thiên Chúa.
Dành
được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là
điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là
công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả
hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ
nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì
luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày.
Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất
đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế
tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi
như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Ki-tô ngày càng Tin Mừng
hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ,
và mau mắn biến đổi đời tôi – không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh
thiện hơn – nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên
tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu
đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ
điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang
vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần
Mân Côi!”
Lạy
Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn
tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu
nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa – nhân
lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần
hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
24. Suy niệm của
Lm. FX. Đào Trung Hiệu
KINH
MÂN CÔI GÓP PHẦN XÂY DỰNG NHÂN LOẠI MỚI
Nói
đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân
Việt Nam: Bà quen dùng Kinh Mân Côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi
nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: "Đi được ba chuỗi năm chục". Nghĩa
là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số.
Nếu
nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu
thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội
Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ
đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng
chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân
Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh
Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội
phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ
dàng đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu
nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng Kinh Mân Côi lại rất
phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu
nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn.
Kinh
Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc
sống.
Gương một nhà trí thức...
Mỗi
người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi
Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách
dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc
kinh.
Chàng
trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: "Bác ơi ! thời buổi này mà bác còn đọc
thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!".
Cụ
già ngước mắt nhìn anh và trả lời: "Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm,
cậu giải thích cho tôi nghe đi".
Thế
là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh
khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng
một thế giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng
trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng.
Cụ
già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến
nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp.
Chàng
trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà
khoa học mà anh suốt đời thán phục: "Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp"
Êm đềm mà thấm lâu...
Trong
xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường Kinh Mân Côi. Họ nói:
điều quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng
bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức
mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.
Ta
biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá
banh, chạy đua... đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở.
Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các
tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh
ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp
cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc
của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời
sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua
20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến
cố chính trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học
theo gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng
Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình
trên Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc
như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.
Hơn
thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc
cho chúng ta một truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như
các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại
nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì
nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên
bước đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại mới
Lời
kinh "Kính Mừng" quen thuộc, chính là lời chào mừng "Ave: Mừng
vui lên" của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại
trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).
Lời
chào "Ave" ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền
thống Giáo hội, lời chào "Đấng đầy ơn sủng", chính là một chứng
nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại
sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I).
Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của
tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người
nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là
Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời
Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:
"Chữ
E-va Mẹ đảo vần, Thành A-ve gửi bình an cho đời".
Lịch
sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân
loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel "Thiên
Chúa ở cùng". Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong
cung lòng Đức Trinh Nữ: "Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và
đặt tên là Giêsu". Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến
trong lời kinh: "Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ".
Đọc
kinh "Kính Mừng", ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán
giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ
lục mới "cao hơn, nhanh hơn, xa hơn". Khi chúc mừng một vận động viên
lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân
loại...
Cũng
vậy, qua những lời "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", chúng ta chiêm
ngưỡng một "kỷ lục tuyệt hảo" của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria,
một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn
thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là
thành viên. Nên lời kinh "Kính Mừng" không chỉ được gửi đến cho đức
Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.
Và
như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ
của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt
trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình
trong lịch sử. Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi
góp phần biến đổi trần gian.
25. Cầu nguyện và cải
thiện đời sống
(Suy
niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Lễ
Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử
Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa
sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo đã ra
nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức
Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão
của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức
Mẹ Mân Côi.
Thế
giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi
hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái
nhất:
*
Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi ngày trung bình 31 người chết. Đa số là
coi thường tính mạng của mình và của tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường
nhịn nhau...
*
Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
*
Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong năm, khoảng 24 lít trên/đầu người/năm,
bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu
thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung Quốc.
*
Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ
em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ
em tử vong vì chết đuối, độ tuổi từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức
tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất phát từ… người lớn.
Xem
ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ
bất chấp tính mạng của mình và của người khác. Con người ngày nay đáng báo động
như thời ông Noe đóng tàu, còn nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn
truỵ lạc... Phải chăng đây cũng là thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái
mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong
cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân
Côi như sau:
Vào
cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa
sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố
Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để
xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê
trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức
Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
-
Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để
canh tân thế giới không?
Thánh
Đaminh đáp:
-
Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ
chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức
Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
-
Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca
Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết
giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca
Vịnh này của Mẹ.
Thánh
nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy.
Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô
hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi
thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung,
trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh
Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo
oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh
Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt
đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen
năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình
cứu độ nhân loại.
Dân
chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với
đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với
sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu
sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng: một là người ấy
đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.
Trong
tháng Mân côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân
Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy
nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin
cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ
sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Vì
thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi
Mân Côi hằng ngày của gia đình mình cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa,
đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy
một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa.
Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh
Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.
26. Suy niệm của
ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
TẠI
SAO CHÚNG TA ĐỌC KINH MÂN CÔI
Kính
thưa cộng đoàn, Trên các trang mạng công giáo ngày hôm nay, cách riêng trang
mạng của HĐGMVN, người ta thấy xuất hiện một lá thư của Hội đồng gửi đến toàn
thể cộng đoàn dân Chúa Việt Nam. Bức thư ấy cho biết nỗ lực làm việc của Đại
hội XI mới kết thúc hôm qua, tập trung vào tài liệu làm việc dành cho đại hội
dân Chúa sẽ được qui tụ vào cuối tháng 11. Ở cuối bức thư, có xin toàn thể mọi
người bằng kinh Mân Côi, hãy cầu nguyện cho Đại hội đem lại những thành quả
tích cực.
Tại
sao xin cầu nguyện mà lại cầu nguyện bằng kinh Mân Côi? Có lẽ vì lý do thực tế
bức thư được viết vào lễ Đức Mẹ Mân Côi, bức thư được viết vào tháng Mân Côi.
Nhưng bên trong, HĐGMVN muốn kêu gọi toàn thể dân Chúa vốn là dân vẫn yêu mến
Đức Trinh Nữ Maria, vẫn yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy bằng chính tràng hạt Mân
Côi ký thác Đại hội dân Chúa tháng 11 này cho Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một
tình cảm rất đậm đà, mà cũng là nhiều gợi ý cho chúng tôi muốn chia sẻ với cộng
đoàn trong thánh lễ sáng nay về kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm hiệp
thông và sứ vụ.
I. Trước hết, thưa cộng đoàn, kinh Mân Côi trong
nhãn giới mầu nhiệm ai trong chúng ta cũng biết từ thưở còn tấm bé, vẫn nghe
nói đến và sướng lên những mầu nhiệm Mân Côi. Ngày xưa là 15 mầu nhiệm, nhưng
hôm nay là 20: Vui, Sáng, Thương, Mừng đầy đủ. Mỗi một sự kiện được xướng lên,
mệnh danh là một mầu nhiệm trong tâm tình kinh đọc.
Nhưng
cùng với Đức Maria và trong Đức Maria, người ta thấy những mầu nhiệm ấy cũng
thoát lên cả một sức sống mầu nhiệm mà Đức Trinh Nữ Maria cá nhân đã được dẫn
dắt vào, và mở ra cho cộng đoàn Giáo Hội cả một sức sống rộng dài lịch sử cứu
rỗi hôm qua cho đến hôm nay, và còn mãi ngàn sau.
Chỉ
xin đan cử mầu nhiệm Truyền Tin trong Tin Mừng hôm nay vừa gợi lên, cũng là
ngắm thứ nhất Mùa Vui. Cộng đoàn chúng ta cũng thấy là cả một mầu nhiệm tuyển
chọn Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Nếu như trong Tin mừng hôm nay có tô đậm
lời chào của Thiên sứ Gabrien dành cho Đức Mẹ trong buổi Truyền Tin với một
danh xưng tuyệt vời, nằm mơ cũng không thấy, đó là danh xưng Đấng Đầy Ơn Phúc. Một
danh xưng họa hiếm trong Thánh Kinh, và cũng là một danh xưng nói lên cả một
mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria, để thông qua Mẹ
tuôn đổ xuống tất cả mọi người. Ông bà anh chị em cứ nghĩ mà xem, trước đó Đức
Maria chưa là gì. Thế nhưng, kể từ buổi Truyền Tin, cách riêng với lời chào
Đấng Đầy Ơn Phước, Mẹ đã trở nên một nhân vật không thể thiếu được, và cũng là
nhân vật mẫu gương, nhân vật điển hình, hay nói theo kiểu ngày hôm nay, Mẹ là
người mẫu để khởi đi từ đó mở ra một nhãn giới sự sống mầu nhiệm cho toàn thể
Hội Thánh.
Mẹ
được tuyển chọn trong mầu nhiệm mà ngày hôm nay chúng ta gọi là mầu nhiệm Vô
Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ cũng được tuyển chọn trong mầu nhiệm đồng trinh khi thụ
thai, và cũng là mầu nhiệm tuyển chọn khi Mẹ cung cấp chất liệu xác thân của
mình cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành làm người trong cuộc sống
nhân lọai. Ở đây, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa. Và mầu nhiệm của tháng 8 vừa qua
chúng ta cử hành, mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tất cả đều quyện lại trong một
sự sống, sự sống Thiên Chúa đã ban cho Mẹ trong mầu nhiệm tuyển chọn, để rồi
với hình mẫu ấy, tất cả mọi tín hữu đều gắn bó với Mẹ, đi theo bước đường Mẹ đã
đi, cũng được tháp nhập vào trong sự sống của Đức Kitô, để đến với sự sống của
Thiên Chúa, vốn là sự sống hồng ân Chúa dành cho tất cả mọi người.
Vâng,
mầu nhiệm không phải là cái gì đơn thuần mình nghĩ là vượt quá tầm hiểu biết,
có tin cũng không đạt được. Mà mầu nhiệm ở đây trước hết xin hiểu là một sự
sống mênh mông trong đó mỗi người chúng ta được dìu dắt đến và cứ như vậy, như
biển cả, như đại dương, càng ngụp lặn đến thỏa thích, mà vẫn không bao giờ no
thỏa cơn khát của tấm lòng. Bằng kinh Mân Côi, Đức Maria đã dẫn chúng ta vào
tất cả những mầu nhiệm từ ân tuyển chọn cho đến thông qua Đức Giêsu Kitô trong
mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu độ, và còn mở ra cho tương lai của hậu thế
của mọi người chúng ta trong Đức Kitô. Đó là mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa trao
gửi cho con người, ban tặng cho con người, và làm sao mỗi người khi đọc kinh
Mân Côi, cũng để cho chính mầu nhiệm sự sống ấy được triển nở lên trong cuộc
đời riêng của mình cũng như trong cộng đoàn mà mình là thành phần.
Kết
thúc mấy ngày đại hội vừa qua, các Giám mục chúng tôi được mời tra lại sức
khỏe, ở đó có việc thử máu, cũng như các Linh mục của các giáo phận nước Việt
Nam trong năm vừa qua cũng được mời để làm như thế. Kết quả là Giám mục nào
cũng khám phá ra được điều gì đó trong vận hành máu huyết của mình không phù
hợp lắm với chính bước đi của mình hôm nay. Có những lắng lo, và bên cạnh đó
cũng có những vui mừng khi ai đó khám phá ra mình hôm nay vẫn còn khỏe mạnh cho
dẫu đã ở tuổi 65 hoặc 70. Quan sát như thế và cũng chia sẻ với nhau ưu tư một
chút về vấn đề ấy, chúng tôi trộm nghĩ mỗi một tín hữu, từ Giám mục cho đến mọi
người giáo dân, ắt hẳn ai cũng khám phá trong máu huyết của mình có một sức
sống. Sức sống ấy không được ý tự, sức sống có thử máu cũng không tìm ra. Nhưng
sức sống ai cũng cảm nghiệm được, cũng nhận thấy, đó là sức sống Kitô nơi chính
máu huyết của mình, bất kể đó là những loại máu A, B, C, D,… Nhưng ở đây, là
Kitô hữu, chúng ta mang dòng máu Kitô. Dòng máu ấy chỉ được thử nghiệm trong
tình yêu thật với Đức Kitô và cách riêng bằng tràng hạt Mân Côi. Vào dịp này,
ta sẽ nghiệm được đó là mầu nhiệm dàn trải và mời gọi mỗi người chúng ta đón
nhận cũng như sống lấy. Vâng, đó là khía cạnh trước hết trong nhãn giới mầu
nhiệm.
II. Khía cạnh thứ hai chia sẻ với cộng đoàn, bằng
kinh Mân Côi, người ta cũng nhận ra khía cạnh hiệp thông trong đời sống tín
hữu. Nếu như phần đầu của từng mầu nhiệm Mân Côi, theo như thói quen chúng ta
vẫn đọc. Ví dụ ngắm thứ nhất Mùa Vui Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ,…, và
phần sau là Ta hãy xin cho được khiêm nhường. Phần sau này chính là tâm tình
hiệp thông của tất cả mọi tín hữu, của từng cá nhân, khởi đi từ mầu nhiệm mình
gẫm suy, cũng như của từng cộng đoàn gắn bó nhịp sống của mình với mầu nhiệm mà
mình đang suy tưởng. Ở đây là một sự nối kết giữa mầu nhiệm sự sống với hành
trình sự sống của mỗi người trong tinh thần hiệp thông. Chính nhãn giới hiệp
thông này, ta gặp thấy trọn vẹn đời sống của mình được dàn trải ra từ những
ngóc ngách của suy tư, cho đến những lối ngõ của hành động. Ở đó, đâu đâu cũng
có sự đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria. Cộng đoàn cứ thử nghĩ mà xem, trong
ngày thăm viếng, Đức Maria đã làm gì. Ngài không đến để chia sẻ, để niềm vui
của Mẹ được hiệp thông với Bà Isave, mà cuối cùng là bừng vỡ lên niềm vui của
hai thai nhi, hai bà bầu trẻ và trọng tuổi hơn gặp nhau, làm cho hai thai nhi
cũng gặp gỡ. Rốt cuộc, phát tỏa trong điệu nhảy niềm vui của Gioan Baotixita,
nhảy hôm qua cho đến hôm nay và ngàn đời vẫn cứ tiếp tục nhảy.
Trong
lịch sử của âm nhạc, có nhiều điệu nhảy kết thúc bằng chữ A, điệu nhảy
Chachacha hay Lămbada… Vì thế, đây cũng có thể gọi là điệu nhảy Gioan
Baotixita, để tất cả mọi người trong mầu nhiệm ấy được hiệp thông niềm vui của
mình, làm sao cho kinh đọc, cho suy tưởng, và cho đời sống của mình cũng vươn
lên trong những điệu nhảy của tấm lòng, điệu nhảy niềm vui, sẻ chia. Và rồi còn
nhiều mầu nhiệm khác trong 15 hoặc là 20 ngắm Mân Côi, người ta cũng thấy Đức
Trinh Nữ Maria ở đó khuôn mẫu cho tình hiệp thông gắn bó. Gắn bó với đối tượng
mà Mẹ tìm đến gặp gỡ, cũng như gắn bó trong nhãn giới của Hội Thánh hôm nay.
Đây là một niềm vui không bao giờ chấm dứt.
Ngày
hôm nay, cộng đoàn của mỗi người chúng ta cử hành lễ Mân Côi, được nhìn trong
nhãn giới hiệp thông. Hiệp thông của từng người với nhau làm thành niềm vui lớn
đã đành, nhưng còn là niềm vui hiệp thông cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã
ban cho Hội Thánh hiệp thông với Đức Trinh Nữ Maria. Đó là nhãn giới thứ hai,
nhãn giới hiệp thông. Và gắn với liền đó là mênh mông bao là những biến cố cũng
như tâm tình mà cộng đoàn có thể gắn bó tiếp nối vào đó mà tôn vinh Đức Trinh
Nữ Maria.
III. Nhãn giới thứ ba chính là nhãn giới sứ vụ.
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải vì có Giáo Hội, rồi mới có sứ
vụ truyền giáo. Nhưng bởi vì đã có lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu trao cho các
tông đồ, thế nên phải thành lập một tổ chức để thi hành, đó chính là Giáo Hội.
Giáo Hội được khai sinh từ lệnh truyền truyền giáo của Đấng Phục Sinh, và khởi
đi từ đó, tất cả những ai biết mình là thành viên của Giáo Hội luôn luôn canh
cánh bên lòng, từ ước vọng cho đến thao thức, và thể hiện ra qua những công
việc truyền giáo cụ thể mình thực hiện được tại địa bàn dân cư mà mình là thành
phần. Nói một cách vắn gọn, sứ vụ ở đây có nghĩa là mình đã hiệp thông với mầu
nhiệm sự sống, mình đã đáp ứng bằng nhịp sống cá nhân làm thành niểm vui, thì
tới phiên mình, trong tư cách là thành viên của Hội Thánh, mình cũng trao gửi,
mình cũng sẻ chia niềm vui ấy cho tất cả những ai mình gặp gỡ. Có thể là những
người chưa biết đến đạo giáo, có thể là những người năm nào đó đã biết rồi, đã
lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đã là Kitô hữu rồi, nhưng đã bị lớp bùn thời gian và
nếp sống của họ phủ lên chính lòng tin. Vì vậy, khi mình trao gửi niềm vui, khi
mình chia sẻ lại ơn mình lãnh nhận được, mình mời gọi họ bước vào nẻo đường tạ
ơn. Đó cũng chính là lúc mình đang sống tinh thần sứ vụ của Hội Thánh.
Kinh
Mân Côi là một kinh mở ra cho mỗi tín hữu nhãn giới sứ vụ ấy. Nếu như trong
biến cố thăm viếng, Đức Maria đã bước chân trong sứ vụ vượt qua nẻo đường cả
một trăm kilômét, không biết bằng đi bộ hay ngồi trên lưng lừa, nhưng Mẹ đã
vượt nẻo đường xa để chia sẻ niềm vui với một người chị em trọng tuổi hơn mình.
Hay là trong năm sự sáng, Đức Maria hiện diện tại đám cưới Cana, Mẹ đã đôn đáo,
mới đầu chỉ như một thông tin cỏn con dành cho người con thân yêu của mình họ
hết rượu rồi, để rồi sau đó ngược xuôi, chạy đi chạy lại đôn đáo, làm sao cho
hòa cùng vào một nhịp. Nhất là giải quyết được vấn đề - rượu được tràn đầy và
niềm vui của đám cưới được diễn tả ra. Không mất danh dự của đám cưới, mà còn
khơi thêm niềm vui, cách riêng khơi thêm niềm tin cho các môn đệ đầu tiên tìm
theo Chúa Giêsu. Rõ ràng, trong biến cố ấy, Đức Maria là hình mẫu của con người
sứ vụ, để rồi hôm nay, mỗi người chúng ta qua Kinh Mân Côi cũng khám phá lại
được tiếng gọi sứ vụ đang thúc đẩy chúng ta đến với tất cả những anh chị em
xung quanh mình. Bất luận bằng một lời kinh, bằng một tâm tình chia sẻ, bằng
một lời nói ủi an. Rõ hơn nữa, bằng một cử chỉ gì đó giúp đỡ, Vâng, chỉ xin
thâu tóm lại trong nhãn giới ấy, nhãn giới mầu nhiệm, nhãn giới hiệp thông,
nhãn giới sứ vụ của kinh Mân Côi.
Trong
dịp cử hành thánh lễ Mân Côi cùng với cộng đoàn đây. Trong niềm vui cảm tạ khơi
lên cùng với HĐGMVN lời chia sẻ dành cho cộng đoàn dân Chúa – hãy yêu mến tràng
hạt Mân Côi, hãy cầu nguyện bằng tràng hạt Mân Côi, và hãy thả vào đó tất cả
tâm tình của mình. Một mặt để nhận được sức sống mầu nhiệm Thiên Chúa gửi trao,
và một mặt khác, chính mình cũng nhận ra sức sống ấy trong từng nhịp sống,
trong từng lời kinh của mình. Một khi đã nhận được như vậy, chính mình trở
thành tông đồ sẻ chia cho những người xung quanh.
Xin
nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi, mà chúng ta đang cử hành
trong thánh lễ đây, cho mỗi người tín hữu chúng ta, cách riêng trong tháng này,
cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Trước đây đã yêu rồi, đã lần hạt nhiều lần
rồi, nhưng ta thử đọc lại bằng một tâm tình, một tâm tình mới mà HĐGM mời gọi
ấy, để thấy được rằng cả một sức sống nhiệm mầu, hiệp thông, và sứ vụ đang ùa
vào tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin kết thúc bằng một vần thơ nhỏ:
Gửi
em một chục Mân Côi
Để
em sớm tối học lời cầu kinh
Mẹ
trên cao sẽ thương tình
Cho
em hạnh phúc, gia đình an vui.
Gia
đình đây là cộng đoàn. Gia đình đây là gia đình riêng của mỗi người. Gia đình
đây cũng là tập thể giáo xứ, là giáo phận, là đất nước, là tất cả mọi người
chúng ta.
Xin
Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi ban muôn ơn lành xuống trên tất cả mọi người. Amen.
27. Đức Chúa Ở Cùng Bà (Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Con
người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta
lắng xuống, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây
là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã
đến. Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa
chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên
tội. Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được
Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo
mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong
Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ
Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị. Khi được đầy
tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh, nơi
vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị
linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em. Kitô hữu là người có Đức Kitô ở
cùng và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó
là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ
Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27). Nhưng sau đó
bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói
với Mẹ (Lc 1, 45). Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa và để Ngài dẫn đi
trong đêm tối của lòng tin. Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin
như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc: “Phúc cho ai không thấy mà tin”
(Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ
Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện. Mẹ được chia sẻ sự
thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa,
và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ. Chúng ta chẳng được diễm phúc
sinh ra Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài: “Mẹ tôi và
anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21). Khi
thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay.
Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế. Chẳng có gì Đức Maria được
hưởng cách viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Bạn
có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi
là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn
nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là
Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu
Nguyện
Lạy
Mẹ Maria, khi
đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ
đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền
thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức
Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi
Sọ. Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ
ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng
con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con
đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt. Xin
Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại
những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin
giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con
người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
28. Quà tặng
Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy: Quà
tặng thường làm dịu lại cõi lòng con người, là một thứ nam châm hút tình cảm của
kẻ khác, là một loại keo dính, là một thứ dây cột chặt người khác lại với chúng
ta. Và Kinh Thánh đã đưa ra những mẩu chuyện điển hình: Giacop đã bảo con đem
dâng hoa trái lên quan đại thần, để người con của Simeon bị quan phạt được tha
thứ. Abigail cũng đã đem nhiều lễ vật dâng cho Đavit, để xin nhà vua xá tội cho
Nabal.
Còn chúng ta thì sao? Bước vào giữa
tháng 10, nhưng chúng ta đã dâng lên cho Mẹ được những gì? Chúng ta nên nhớ rằng:
Dâng kính Mẹ thì không bao giờ chúng ta bị thua lỗ, bị thiệt thòi. Cũng như cha
mẹ ở đời phải hy sinh nhiều vì con cái, chứ mấy khi ngược lại. Cha mẹ bao giờ
cũng yêu thương con cái nhiều hơn là con cái yêu thương cha mẹ.
Với niềm tin đó, chúng ta hãy đến với Mẹ
hôm nay vì không ai đến với Mẹ mà lại phải ra về tay không. Hãy mang theo một
thứ quà tặng đẹp lòng Mẹ nhất, đó là kinh Mân côi.
Như chúng ta đã biết kinh Mân Côi xuất
phát từ lời Chúa. Chẳng hạn kinh Lạy Cha là khuôn mẫu cho mọi tâm tình cầu nguyện
mà chính Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta. Còn kinh Kính Mừng là lời chào
kính của sứ thần Gabriel, của bà Isave hợp với lời kêu xin của cộng đồng dân
Chúa. Rồi những sự việc đều là những biến cố trong cuộc đời của Chúa. Và chúng
ta có thể nói: Kinh Mân côi chính là cuốn Tin Mừng được rút gọn.
Ngoài ra kinh Mân côi là một lời kinh
bình dân, dễ nhớ, dễ đọc và dễ suy gẫm, nhờ đó mà cuộc đời chúng ta được thấm
nhuần tinh thần Phúc Âm, cũng như nhờ đó chúng ta tìm thấy nguồn nghị lực và niềm
hy vọng cho bản thân.
Hơn thế nữa, trải qua dòng thời gian
kinh Mân Côi đã đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho cá nhân, cho xã hội, cho dân
tộc cũng như cho toàn thể nhân loại. Đặc biệt là trong phạm vi gia đình, bởi vì
gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là vườn ươm trồng cây đức tin cho con
cái. Đức Thánh Cha Piô XII đã diễn tả: Không cảnh nào êm đẹp cho bằng cảnh tượng
gia đình, mỗi khi màn đêm buông xuống, cùng nhau dâng lên những lời kinh ca tụng
Nữ Vương trời đất, nhờ đó mà mọi người trong gia đình sẽ xích lại gần nhau hơn,
cũng như sẽ được gặp nhau trong tình thương của Mẹ.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta có
thể đi tới một kết luận: Yêu Mẹ là yêu kinh Mân côi. Bởi vì chỉ trong tình yêu
chúng ta mới thích lặp đi lặp lại một lời bất tận mà không nhàm chán. Vậy chúng
ta có lần hạt mân côi vì tình yêu mến Mẹ hay không? Chúng ta đã thực hiện lời Mẹ
truyền dạy hay chưa. Kinh mân côi phải trở nên như lễ vật Abel chúng ta dâng tiến
Mẹ mỗi khi chiều xuống. Mỗi lời kinh mân côi sẽ là như một hạt ngọc chúng ta
thu tích vào kho tàng thiêng liêng của chúng ta, mỗi lời kinh mân côi sẽ là như
một tấm ván đóng cho chúng ta con thuyền của Noe, để với con thuyền này chúng
ta sẽ vượt qua biển trần gian để tiến tới bờ bến vĩnh cửu là quê trời.
Ước gì lời kinh mân côi sẽ là lễ vật thường
xuyên chúng ta dâng kính Mẹ, hôm nay cũng như mai ngày, nhờ đó mà chúng ta biểu
lộ được lòng tôn sùng kính mến của chúng ta đối với Mẹ.
29. Lễ Mẹ Mân Côi
(Trích dẫn từ ‘Sống Tin Mừng’)
“Hỡi Maria, xin đừng
sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con
trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu” (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ
mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là
Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên
thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên”.
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa:
“Hỡi Maria, hãy vui lên”, vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm
sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời
Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua
Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm
vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
“Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước”, vì chính Mẹ
được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan
báo nơi sách tiên tri Isaia: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp
lòng Ta mọi đàng” (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là
Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã
được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong
lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu
chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân
Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên
nơi nhà ông Zacaria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa
cho Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”. Đó là lời Mẹ đã
từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì
vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà”. Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã
đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng
ta”. Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng
ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm
tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.
“Hỡi Maria đừng sợ”. Kinh nghiệm sự hiện
diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không
những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành
sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên
Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng,
nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta
cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: “Vui và Sợ”. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để
thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp
chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi
của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc
tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan
kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn
Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức
Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng
chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở
với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng
“Đầy Ơn Phước”, Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con
chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con,
chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành
với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống
trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng
ngày của chúng con. Amen.
30. Kinh Mân Côi: Góp phần xây dựng nhân loại mới
(Suy niệm của Lm Px Đào Trung Hiệu)
Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ
tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng kinh mân
côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời:
“Đi được ba chuỗi năm chục”. Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng
ba cây số. Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt
nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến
công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh
giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để
đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta
cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện
đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản,
vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình huống,
ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực
tham gia. Nhưng kinh mân côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về
kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như
không bao giờ cạn. Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người
và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà trí thức...
Mỗi người có thể rút ra một bài học qua
mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi
sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già,
đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh. Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng
nói: “Bác ơi! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa
à!”. Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: “Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm,
cậu giải thích cho tôi nghe đi”.
Thế là chàng trai có dịp khoe về mình:
anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm
cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải những
tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa
tiếng. Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào
rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp. Chàng
trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà
khoa học mà anh suốt đời thán phục: “Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp”
Êm đềm mà thấm lâu...
Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều
người đạo đức coi thường kinh mân côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là
hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng
chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những
lời kinh đơn giản này.
Ta biết các vận động viên và các cầu thủ,
dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua... đều không thể bỏ những
bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc
rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật
giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng
thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập
trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa
cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi
hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày
càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ.
Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể
trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra
giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh
quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai
của giáo hội và nhân loại.
Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn
sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống trong lịch
sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần,
đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra
đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu
nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại
mới
Lời kinh “Kính Mừng” quen thuộc, chính
là lời chào mừng “Ave: Mừng vui lên” của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria,
mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).
Lời chào “Ave” ấy không chỉ gửi đến cho
mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào “Đấng đầy ơn sủng”,
chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi
tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa
đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi
vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng
ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người
nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:
“Chữ E-va Mẹ đảo vần,
Thành A-ve gửi bình an cho đời”.
Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại
vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài
hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng”. Lời hứa ấy nay được cụ thể
hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: “Này đây bà sẽ thụ
thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ
được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: “Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ”.
Đọc kinh “Kính Mừng”, ta có thể cảm thấy
tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc
Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới “cao hơn, nhanh hơn, xa hơn”. Khi chúc mừng
một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân
tộc và của cả nhân loại...
Cũng vậy, qua những lời “Kính mừng Maria
đầy ơn phúc”, chúng ta chiêm ngưỡng một “kỷ lục tuyệt hảo” của nhân loại. Chiêm
ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó,
chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh “Kính Mừng”
không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới
đang được hình thành.
Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ
chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu
mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh
mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử.
Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến
kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.
31. Kinh Mân Côi và Đời Sống Đức Tin
(Suy niệm của Lm Đaminh Đinh Viết Tiên)
1. Kinh Mân Côi, bài ca đi cùng năm
tháng
Trong Giáo Hội cũng có những bài ca, có
thể gọi là “đi cùng năm tháng”, những bài ca luôn đồng hành với Giáo Hội qua thời
gian, qua những thăng trầm, những sóng gió của lịch sử. Bài ca đó có tên là
“Chuỗi Mân Côi”, là những Kinh Kính Mừng. Bài ca này được vang lên mỗi ngày
trong các nhà thờ hay chỗ riêng tư, được lâm râm khẩn cầu nơi môi miệng của mọi
người, kẻ trí thức hay người bình dân, người thanh niên hay những người tuổi đời
đã xế bóng.
Kinh Mân Côi quả là “bài ca đi cùng năm
tháng” đối với Giáo Hội, cũng như đối với mỗi người chúng ta. Ở đây xin đan cử
Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng luôn cổ vũ mọi người đến với Mẹ qua Kinh Mân
Côi.
Trong tông thư “Kinh Mân Côi” Ngài chia
sẻ như sau: “Từ thuở niên thiếu, lời kinh này đã có một chỗ đứng quan trọng
trong đời sống thiêng liêng của tôi (…) Kinh Mân Côi đã đồng hành với tôi trong
những lúc vui sướng cũng như trong những giai đoạn khó khăn. Tôi đã giao phó
cho lời kinh ấy biết bao lo âu; nơi lời kinh ấy, tôi đã luôn tìm được sự nâng đỡ
(…) Kinh Mân Côi là lời kinh tôi ưa thích. Một lời kinh kỳ diệu. Kỳ diệu qua vẻ
đơn sơ và chiều sâu của nó (…). Con tim của chúng ta có thể gán vào chục kinh
Kính Mừng mọi biến cố của đời sống cá nhân, gia đình, quốc gia, Giáo Hội và
toàn thể nhân loại.
Mối quan tâm của riêng ta và của những
người thân cận, đặc biệt những người thân thiết nhất của ta. Vì thế, lời kinh
Mân Côi đơn sơ ghi dấu ấn lên nhịp sống của con người. Anh chị em thân mến, với
những lời này, tôi đã đặt những năm đầu tiên của triều đại Giáo Hoàng trong nhịp
sống hằng ngày của Kinh Mân Côi. Hôm nay, khi bắt đầu năm thứ 25 phục vụ trong
tư cách người kế vị thánh Phêrô, tôi muốn làm lại cũng một điều đó. Biết bao ơn
lành tôi đã lãnh nhận được trong những năm tháng này từ Đức Thánh Trinh Nữ qua
Kinh Mân Côi”.
2. Kinh Mân Côi, lời kinh kết nối
a. Với Đức Maria
Kinh Kính Mừng là sự nối kết giữa lời
chào của Tổng Lãnh Thiên Thân Gabriel trong buổi truyền tin, với lời mừng của
bà Elisabet trong ngày thăm viếng, nên mỗi lần lặp lại đã trở thành lời chào mừng
chính thức cho sự nối kết giữa nhân loại với Đức Maria.
Trong cuộc hội kiến lịch sử giữa Tổng
Thiên Sứ và Đức Maria được khởi đầu bằng lời chào và kết thúc bằng lời thưa xin
vâng. Nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc, nhưng còn ở
trong tiềm ẩn cho đến khi có sự đáp trả bằng lời thưa: Xin vâng.
Xin vâng không chỉ bằng lời nói mà bằng
cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những
thử thách cam go vốn không thiếu trong hành trình đức tin, nhất là dưới chân
Thánh Giá.
“Còn Đức Maria thì ghi nhớ những sự việc
đó và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19.51). Khi đọc và suy niệm Kinh Mân Côi là
ta cùng Mẹ suy niệm các mầu nhiệm trong cuộc đời của Chúa và của Mẹ. Qua việc
cùng Mẹ suy niệm, sẽ giúp ta cảm nhận thật sâu sự đồng hành của Mẹ trong cuộc đời
mỗi người.
b. Với Đức Giêsu
Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh
xưng: Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người
phụ nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”. Lời kinh đã kết nối với Đức Mẹ, để rồi
được nối kết với Con của Mẹ. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nơi trường học của Đức Maria, chúng ta
được học bài học cơ bản: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm như vậy” (Ga 2,5). Như vậy,
nếu ta mời Mẹ cùng đồng hành thì từng bước chúng ta sẽ được dẫn đến đích điểm
là kết nối với Đức Giêsu. Lộ trình đức tin cũng là giáo án mà Mẹ sẽ dạy chúng
ta trong hành trình làm môn đệ: Sống đức tin và can đảm bước theo Chúa. “Phúc
cho em vì em đã tin rằng lời Chúa sẽ được thực hiện trong cuộc đời em” (Lc
1,45) và cũng như Mẹ, chúng ta dám thưa với Chúa trong mọi tình huống của cuộc
đời.
c. Với mọi người
trong Chúa Kitô, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria
Thực ra đây là hệ lụỵ của hai mối kết nối
trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi
người là anh chị em hiệp thông với nhau. Nhưng chính từ đây mở ra một nhãn giới
mới đầy lạc quan, tin tưởng, hy vọng cho tất cả những ai đọc và suy niệm Kinh
Mân Côi.
Thói quen của các gia đình Việt Nam là
việc đọc kinh tối gia đình, kết hiệp giữa việc đọc Kinh Mân Côi và suy niệm Tin
Mừng. Việc này đã có một âm hưởng rất tốt và có sức biến cải tình trạng gia
đình.
Mỗi tối khi màn đêm xuống dần, sắp sửa kết
thúc một ngày, không hình ảnh nào đẹp hơn khi mọi người quây quần trước bàn thờ,
cử hành kinh tối gia đình. Bao niềm vui, nỗi buồn đều dâng lên Chúa, những thất
bại đắng cay, cũng như những thành tựu phấn khởi trong ngày đều được trình bày
cho Chúa nghe… tự nhiên tâm hồn cảm thấy ấm hơn và tình thân trong gia đình được
nối kết thắm thiết, vì tất cả được dâng lên Chúa và được sẻ chia cho nhau, cùng
hiệp thông trong lời cầu nguyện.
Nếu Chúng ta đọc Kinh Mân Côi với tất cả
tâm tình, chúng ta cảm thấy mình được biến đổi: lòng tin mạnh mẽ, niềm cậy
trông kiên vững, sống dễ thương hơn với mọi người.
3. Qua Kinh Mân Côi, chúng ta cảm nghiệm:
Mẹ vẫn ở bên ta
Tổng thống George Washington, một trong
những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con
hiếu thảo đối với mẹ mình. Ông năng về thăm mẹ. Một hôm, thấy con đã vất vả
công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới
hỏi ông: - Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?
Vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả
lời:- Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất thời
giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống.
Mẹ của Tổng thống George Washington đã
không nói nhiều, nhưng sự hiện diện đầy thanh thản và lòng nhân hậu của một người
mẹ đã giúp ông tăng thêm sức mạnh để dấn thân phụng sự tổ quốc, vui sống trong
trách nhiệm nặng nề của một nguyên thủ quốc gia.
Đối với người Kitô hữu, Mẹ luôn hiện diện
âm thầm nhưng rất gần gũi bên cạnh mỗi người chúng ta.
- Sự hiện diện của Mẹ trong gia đình
Giacaria đã củng cố niềm tin của bà Elizabeth, đem lại niềm hân hoan vô bờ cho
trẻ Gioan Baotixita.
- Sự hiện diện của Mẹ tại tiệc cưới Cana
đã làm cho người chủ tiệc mát mặt và mọi thực khách được uống rượu ngon làm
hoan hỉ lòng người.
- Sự hiện diện của Mẹ trên đường Thánh
Giá đã tiếp bước cho Đấng Cứu Thế lên tới đỉnh đồi Canvê.
- Sự hiện diện của Mẹ dưới chân Thập Giá
đã cho Chúa Giêsu an tâm về với Chúa Cha sau khi trối Gioan, đại diện loài người
lại cho Mẹ.
- Sự hiện diện của Mẹ trong nhà tiệc ly
đã giúp các tông đồ sốt sắng cầu nguyện để lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
Và chắc chắn sự hiện diện của Mẹ trong
cuộc đời người Kitô đã làm nảy sinh muôn ngàn phúc lộc. Sự hiện diện hiền mẫu của
Mẹ trong cuộc đời chúng ta đã mang lại biết bao niềm vui, sự ủi an, lòng can đảm
giúp chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin.
Những lúc mệt mỏi rã rời trong cuộc sống
hiện tại, những lúc tối tăm bao phủ, những lúc nặng trĩu u buồn của quá khứ, những
lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với
Mẹ, qua việc đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, ta sẽ thấy tâm hồn thanh thản và
bình an
Đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, là những
giây phút êm ái, ngọt ngào, hạnh phúc bên cạnh Mẹ. Với tấm lòng từ bi nhân hậu
của Mẹ sẽ là nguồn ủi an, nâng đỡ và giúp sức chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc
đời đầy thử thách chông gai này.
32. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Lịch sử Cứu Độ đã khởi đầu với việc
Thiên Chúa tuyển chọn và kêu gọi Abraham, được tiếp nối và thực hiện trong lịch
sử Israel cho đến khi như lời thánh Phaolô viết “Khi đến thời đến buổi, Thiên
Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và lệ thuộc vào lề luật
Do thái”. Về Người Con ấy, Sứ Thần Gabriel đã nói “Người sẽ nên cao cả, và
Thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai
vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và
vương quyền của Người sẽ vô tận”. Như thế lịch sử Cứu Độ phải được đón nhận như
là lịch sử vương quyền của Đức Kitô trong dân Người: trước hết nơi Israel và
bây giờ là nơi Giáo Hội của Người.
Qua cơ cấu diễn biến của lịch sử cứu độ
chúng ta thấy cốt lõi là một cuộc đối thoại không ngừng giữa Thiên Chúa với con
người. Cuộc đối thoại không nhằm cách ly con người khỏi cuộc sống thường ngày với
những lo âu và hy vọng của họ, nhưng ngược lại cuộc đối thoại nhằm mở cánh cửa
đời sống, cánh cửa gia đình, cánh cửa dân tộc và xã hội để Thiên Chúa, và đích
xác hơn là để Con của Người bước vào và đổ tràn Thánh Thần Người, để mỗi cuộc sống,
mỗi gia đình, mỗi dân tộc và toàn thể xã hội tự thẳm sâu đáy lòng mình có thể
thốt lên “Abba, Cha ơi” đối với Thiên Chúa, và như thế, mỗi cuộc sống, mỗi gia
đình, mỗi dân tộc và xã hội trở nên “người thừa tự” gia sản của “Cha” trên trời.
Abraham đã dần dần khám phá ra được chân
lý ấy khi ông ra khỏi xứ Ur. Từ biến cố này qua biến cố khác, cuối cùng ông được
mời gọi tiến lên ngọn núi Thiên Chúa chỉ định, ở đấy ông đã khẳng định được với
tất cả tự do và yêu mến: chính Thiên Chúa sẽ lo liệu mọi sự cho ông và con cái
ông.
Ở bình minh của Tân Ước, không phải nơi
Đền Thánh Giêrusalem, mà ở trong chính mái nhà nhỏ bé nghèo nàn của Mẹ, Đức
Maria được mời gọi trở về với chính mình, với vấn đề thiết thân nhất của Mẹ:
“Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến người nam!” Để rồi Mẹ được mời
gọi để xác tín với tất cả sự tin yêu tự do Thiên Chúa sẽ đến, sẽ đảm nhận lấy
cuộc sống Mẹ cho nó trở nên cảnh vực Thần Linh. Đó là điều thánh Phaolô cũng
nói như thế trong mấy câu thư vắn tắt chúng ta vừa nghe.
Vì thế, khi đón nhận công việc thiết lập
vương quyền của Đức Kitô như là sứ mạng riêng biệt của mình, Giáo Hội Đức Kitô
qua các tông đồ đã ý thức về trọng tâm thiết yếu của sứ vụ là trở về “nơi các
ông thường trú ngụ để “đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Cầu nguyện từ
đó đã là hơi thở và sức sống của Giáo Hội, của công cuộc loan báo tin mừng Cứu
Độ.
Thật khác với biết bao suy nghĩ và hành
động của chúng ta ngày nay: chúng ta bị lôi kéo vào sức hấp dẫn và tính hiệu quả
của những tổ chức, cơ cấu và phương tiện, đã gạt qua một bên nỗ lực “Đối Thoại
với Thiên Chúa” “nỗ lực cầu nguyện liên lỷ”. Gia đình Kitô Giáo nơi chúng ta
thường trú không còn là “nhà cầu nguyện”, thậm chí ngay cả “Nhà Cầu Nguyện”
cũng trở thành những trung tâm trình diễn, tiếp thị, kỹ thuật. hơn là nơi con
người đối thoại với Thiên Chúa!
Bài sách Công Vụ Tông Đồ tuy thật vắn gọn,
nhưng đã gợi nhớ một yếu tố nền tảng của cuộc đối thoại cứu độ: Các Tông Đồ đã
cầu nguyện với Đức Maria và cùng với anh em của Đức Giêsu. Sở dĩ các ông đã cầu
nguyện cùng với Đức Maria, là vì duy mình Đức Maria mới có kinh nghiệm trọn vẹn
về “đối thoại cứu độ” này. Với Đức Maria đây là đối thoại do sáng kiến của
Thiên Chúa, được “Thánh Thần bao bọc chở che” và chính Thiên Chúa hoàn thành.
Giáo Hội phải nhờ Mẹ để thực hiện sự cầu nguyện.
Trong viễn ảnh đó mà chúng ta hiểu được
tại sao Giáo Hội khắp nơi, và cách riêng Giáo Hội Việt Nam vô cùng yêu mến và
trân trọng Kinh Mân Côi. Chính đây là lúc mỗi người như được sống lại khung cảnh
Nhà Tiệc Ly với các Tông Đồ, để bên gối Mẹ, Giáo Hội và mỗi người được Mẹ dẫn dắt
qua mọi biến cố đời sống, Mẹ khám phá ra sự mời gọi của Thiên Chúa và bằng cách
nào để Thiên Chúa đảm nhận lấy cuộc sống nhỏ bé của mình, mà thực hiện nên những
điều kỳ diệu. Trong cũng cái nhìn đức tin ấy, chúng ta mới thấu hiểu được tại
sao chỉ là những lời kinh thật đơn giản, không đòi hỏi sự thông thái khôn
ngoan, lời kinh chất phác của những tâm hồn thật quê mùa, lời kinh phản ánh rất
trung thực lời “Xin Vâng” của người con gái Xion làng Nazaret xưa, lại có thể
có quyền lực giải thoát con người trong mọi tình huống khó khăn nhất, và đem lại
có khi cho cả một dân tộc niềm hoan lạc hạnh phúc. Chỉ vì lời kinh ấy là ân
tình trao ban kinh nghiệm về Thánh Thần của Mẹ.
Trong tháng Mân Côi và trong đời sống,
khi trở về với Kinh Mân Côi, người Kitô hữu phải cảm nhận được niềm vui được trở
về mái nhà Tiệc Ly xưa, để một lần nữa họ được Đức Mẹ cho thấy Chúa Thánh Thần
đã đến với Mẹ bằng ngõ ngách nào, và làm sao Ngài đã hoàn thành sứ mạng của
Ngài trong mỗi biến cố đời Mẹ: Sứ Mạng làm cho Chúa Giêsu hình thành và lớn lên
trong lòng dạ và cuộc sống Mẹ. Đây qủa thực là một viễn cảnh bao la và kỳ diệu
chờ đợi chúng ta trong Kinh Mân Côi. Ước gì những suy nghĩ này giúp chúng ta có
thêm nhiệt tình và sốt sắng lần chuỗi Mân Côi.