SUY NIỆM CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN - A
MỤC
LỤC
19. Hãy nộp hoa lợi Lm
Trần Thanh Sơn
20. Thế giới là của ai? Lm
Gioan Trần Khả , Houston, TX
25. Thợ làm vườn nho Sưu tầm
26. Những tá điền và thợ làm vườn nho Sưu tầm
27. Tôi tớ hay kẻ tiếm quyền Sưu tầm
28. Chủ vườn nho kia Sưu tầm
29. Loại bỏ
Sưu tầm
30. Chăm sóc vườn nho của Chúa catholic.org.tw
1. Vườn nho
Qua
dụ ngôn những người tá điền nổi loạn chúng ta thấy ông chủ tượng trưng cho
Thiên Chúa đã rào giậu và chăm sóc cho vườn nho của mình. Còn những tá điền nổi
loạn chính là dân Do Thái, dân tộc đã được Thiên Chúa chọn lựa và trao ban cho
muôn vàn hồng ân. Còn các đầy tớ được sai đến là các tiên tri. Nhờ các tiên tri
mà Thiên Chúa biểu lộ thánh ý của Ngài cho họ, thế nhưng họ đã đối xử dã man và
tàn bạo đối với những người được Thiên Chúa sai đến. Nào là đánh đập, nào là
giết đi.
Sau
cùng ông chủ đã phải sai phái chính người con trai duy nhất của mình đến với
họ, để tỏ cho họ thấy lòng nhân từ thương xót vô biên của Ngài, nhất là sau
những biến cố đáng buồn đã xảy ra. Người con duy nhất này là hình ảnh tượng
trưng cho Đức Kitô, Đấng đã bị họ giết chết trên thập giá. Cái chết khổ đau này
làm cho Ngài liên tưởng tới lời thánh vịnh 118: Phiến đá mà những người thợ xây
loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường, đó là việc Thiên Chúa đã làm và thực lạ
lùng dưới mắt chúng ta. Tảng đá góc tường là nơi câu móc những bức tường của
toà nhà, nó nắm giữ một vai trò, một vị trí rất quan trọng.
Cuối
cùng Thiên Chúa đã phải bỏ rơi dân Do Thái, để chọn cho mình một dân riêng mới,
đó là Giáo Hội, để đem lại cho Ngài nhiều hoa trái.
Câu
chuyện trên cũng làm cho chúng ta nhớ tới hinh ảnh vườn nho của tiên tri Isaia.
Vườn nho này được chủ hết sức chăm sóc với hy vọng sẽ có được những trái nho
đặc biệt, thế nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược, khiến cho chủ phải nổi
giận: Còn việc gì nữa mà Ta đã không làm cho vườn nho của Ta. Ta mong ước có
được những trái ngon trái ngọt, vậy tại sao nó chỉ cho toàn những trái chua
trái dại?
Còn
chúng ta thì sao? Phải chăng tâm hồn chúng ta chỉ là một cây nho cằn cỗi? Thiên
Chúa cũng đã đổ xuống cho chúng ta biết bao nhiêu ơn lành hồn xác, thế mà con
người chúng ta vẫn không thể đâm bông kết trái. Có lẽ chúng ta cần phải dừng
lại, để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống, trước khi nó đã quá muộn.
Nếu
như chúng ta trung thành phụng sự Chúa, thì chúng ta không có chi phải lo buồn
sầu khổ. Trái lại, nếu chúng ta đã có những thái độ và một nếp sống như dân Do
Thái ngày xưa, thì chắc hẳn, trong giờ phút sau hết, Thiên Chúa cũng sẽ loại bỏ
chúng ta và trao ban Nước Trời cho những người khác là những người biết đâm
bông và kết trái.
2. Thợ vườn nho
Dụ
ngôn những thợ vườn nho phản loạn thuộc vào loại các dụ ngôn Chúa dùng để tỏ lộ
thân thế của Ngài là Đấng Thiên Sai. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi
thảm của Chúa Giêsu, khi bị dân Ngài loại bỏ.
Như
thường lệ Chúa Giêsu cấu tạo dụ ngôn từ các thực tại mà Ngài nghe thấy trước
mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy, những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ
giao cho thợ làm vườn nho trông coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi vắng xa, chẳng
hạn như ra nước ngoài, và để quan lý mùa màng, họ sai những đầy tớ đến với
những người thợ làm vườn. Theo luật Do Thái, nếu chủ một thửa đất chết đi mà
không có người thừa kế, thì thửa đất ấy sẽ thuộc về người nào chiếm ngụ đầu
tiên. Điều này làm cho chúng ta hiểu được lý luận của các thợ làm vườn nho: Đứa
con thừa tự đây rồi, nào hãy giết nó đi và chúng ta sẽ chiếm được gia tài của
nó. Quả thực, người con thừa tự mà chết, đất sẽ thành vô chủ và thuộc quyền
những kẻ cư ngụ.
Qua
dụ ngôn này và qua đoạn kế tiếp với hình ảnh viên đá góc bị thợ xây loại bỏ,
Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng: Chính Ngài là người con bị bọn thợ làm
vườn nho giết đi, chính Ngài là viên đá góc bị thợ xây loại bỏ.
Một
cách quyết liệt, dụ ngôn đã đưa ra câu hỏi sau đây: Làm sao giới hữu trách của
dân Do Thái lại đi tới chỗ loại bỏ Đấng thiên sai? Tôi xin thưa vì họ đã buông
thả theo bản năng chiếm hữu của họ. Chủ vườn nho là Thiên Chúa, thủ lãnh duy
nhất của họ. Thế nhưng tinh thần chiếm hữu của họ hệ tại việc áp đặt quan niệm
riêng của họ về lề luật. Họ dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng
dùng dân tộc của họ để lên ngôi thống trị thế giới. Các vị tiên tri đã đến để
nhắn nhủ họ, nhưng tất cả đều bị họ giết chết, và sau cùng họ đã đi tới chỗ
loại bỏ Đấng Thiên Sai, Con Một của Thiên Chúa. Thay vì phục vụ cho lề luật và
dân chúng thì họ đã chiếm hữu, coi mình là chủ của lề luật và của dân chúng.
Còn
chúng ta thì sao, liệu chúng ta có thoát khỏi thái độ tự coi là người làm chủ
của Tin Mừng, của chân lý hay không? Làm thế nào để phục vụ Phúc Âm mà không
chiếm hữu? Tôi xin thưa bằng cách để cho tinh thần Phúc Âm thấm nhập vài cải
tạo chúng ta, chứ chúng ta không đọc Phúc Âm, rồi sau đó ngồi sắp xếp Phúc Âm
theo ý riêng của chúng ta. Ngày xưa các thầy thông luật đã lèo lái niềm trông
đợi của dân chúng tới những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay cũng không
thiếu gì những người muốn lợi dụng Phúc Âm để quảng cáo cho một hệ thống chính
trị hay một quan niệm xã hội. Chúng ta không có quyền sử dụng và dùng Phúc Âm
vào một mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Đức Kitô. Nhiều người muốn
chiếm hữu Phúc Âm để mưu cầu lợi ích riêng tư, để rồi cuối cùng đã đi đến chỗ
phủ nhận con người Đức Kitô. Tin Mừng mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên
viên đá góc là Đức Kitô, Đấng chúng ta tìm kiếm và yêu mến, chứ không nên lèo
lái Ngài và Tin Mừng của Ngài vào những ý đồ riêng tư của mình.
3. Tá điền và vườn nho
Nếu
ruộng lúa, nương khoai, khóm trúc và con trâu là những hình ảnh quen thuộc của
người Việt Nam, thì người Do Thái cũng có những hình ảnh thân thương đối với
họ, đó là đàn chiên và vườn nho.
Thực
vậy, Chúa Giêsu sinh ra là người Do Thái, cũng đã thừa hưởng nền văn hóa con
chiên và cây nho ấy. Ngài đã dùng những hình ảnh quen thuộc đó để nói lên quan
điểm của Ngài đối với mối tương giao giữa Thiên Chúa và Israel, cũng như mối
tương giao giữa bản thân Ngài đối với các tín hữu của mình…
Chẳng
hạn trong Tin Mừng theo thánh Gioan thì Chúa Cha là người trồng nho, bản thân
Ngài là cây nho còn các môn đệ là ngành nho. Điều Ngài muốn truyền dạy là chúng
ta phải sống gắn bó mật thiết với Ngài.
Thế
nhưng trong Tin Mừng theo thánh Matthêu thì hình ảnh cây nho hay nói đúng hơn
hình ảnh vườn nho được khai thác cho một đề tài khác.
Chúa
Giêsu đã nói tới lòng tốt của ông chủ vườn nho không những sẵn sàng thuê mướn
mọi người, nhất là những kẻ thất nghiệp, kém may mắn, mà còn trả công đồng đều
cho cả những kẻ làm việc ít giờ nhất.
Ngài
cũng đã nói tới những tá điền, là những người quản lý có trách nhiệm canh tác
vườn nho để giao nộp hoa lợi cho chủ. Nhưng họ đã phản bội, đã đánh đập các sứ
giả và đã giết chết chính người con của chủ. Để rồi, chủ đã phải lấy lại vườn
nho mà trao cho người khác quản lý, tức là Giáo Hội.
Hôm
nay, khi đọc lại dụ ngôn này, chúng ta sẽ ung dung tự nhủ: Do Thái là Do Thái
và Giáo Hội là Giáo Hội Chúa đã trao đoàn chiên cũng như vườn nho của Ngài cho
Giáo Hội, người quản lý cuối cùng mà Chúa đã chọn, vì thế không còn gì phải lo
sợ: Làm thế nào mà Giáo Hội lại có thể giết hại các tôi tớ Chúa và cướp đoạt
vườn nho Chúa được.
Thế
nhưng chúng ta không nên lạc quan với những nhận định trừu tượng và lý thuyết
trên đây mà phải nhìn vào thực tại trước mắt: Và thực tại trước mắt cho thấy
Giáo Hội chính là chúng ta. Cộng đoàn dân Chúa, gồm những con người bằng xương
bằng thịt, mới chỉ được mời gọi và được ban ơn sủng để nên thánh, hay nên hoàn
thiện, nhưng thực tế thường chưa thánh, chưa hoàn thiện, do đó vẫn còn có thể
có những kẻ lười biếng không chịu làm việc trong vườn nho, tệ hơn nữa vẫn còn
có thể có những kẻ hung ác đánh đập, hành hạ và thậm chí giết hại những người
tôi trung của Chúa, những người làm vườn tốt, để chiếm lấy vườn nho cho mình.
Chính những ngôn ngữ chúng ta thường dùng cũng tố cáo sự chiếm đoạt có khi là
vô ý thức đó.
Thực
vậy, chúng ta chẳng thường nói: Con chiên của tôi, nhà thờ của tôi, giáo xứ của
tôi, Giáo Hội của tôi. Trong khi đúng ra phải nói là con chiên của Chúa, nhà
thờ của Chúa, giáo xứ của Chúa, Giáo Hội của Chúa.
Nhìn
vào vườn nho Chúa, chúng ta thấy không thiếu những cây nho cành lá xum xuê mà
chẳng sinh được một trái. Cũng chẳng thiếu những cành nho khô héo èo uột vì chỉ
còn dính hờ vào thân cây.
Điều
đáng buồn hơn nữa là cũng chẳng thiếu gì những tá điền, những người quản lý đã
chiếm đoạt vườn nho Chúa làm gia nghiệp riêng của mình. Họ mặc sức khai thác
tùy theo ý muốn, miễn sao có lợi cho mình. Không thiếu những kẻ chỉ lo rào dậu,
xây tường và kiến tạo những bồn đạp nho, nhưng lại chẳng chăm sóc gì đến cây
nho, khiến vườn nho Chúa mọc lên những cỏ dại và gai góc.
4. Suy niệm của ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
CÂU
CHUYỆN VƯỜN NHO
CÂU
CHUYỆN ĐỜI TA
Vườn
nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh
quen thuộc này để thính giả dễ hiểu điều Chúa nói về Nước Trời. Ý nghĩa dụ ngôn
này như sau. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ
dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là
lịch sử tình yêu thương của Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách
nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương
Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã
sai khiến các tiên tri đến dạy dỗ họ. Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được
Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh
giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được
đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa.
Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con
Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng họ. Nhưng họ có biết đâu
rằng nếu để Chúa là chủ thì vườn nho còn được bảo vệ, được chăm sóc và họ còn
được hưởng hoa lợi. Nhưng từ chối quyền làm chủ của Chúa, vườn nho rơi vào cảnh
hoang tàn, đổ nát, không còn hoa trái. Và vì thế cuộc đời họ cũng bị diệt vong.
Câu
chuyện vườn nho không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta,
đặc biệt các sinh viên học sinh nhân dịp đầu năm học mới. Sinh viên học sinh là
những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là
Nước Chúa, là Giáo Hội, là gia đình, là trường học. Các cháu thiếu nhi, các bạn
thanh niên, học sinh, sinh viên trẻ trung là những cây nho non mơn mởn được
Chúa chăm sóc tưới bón trong tình thương bao la của cha mẹ, trong sự tận tâm
của thày cô giáo, trong sự nhiệt thành quên mình của các linh mục, tu sĩ nam
nữ. Chúa đặt lương tâm như tháp canh để cảnh báo những nguy cơ đe dọa tàn phá
vườn nho. Để ngăn chặn thú dữ tàn phá, trẻ con nghịch ngơm, kẻ thù quấy phá,
Chúa cẩn thận rào dậu vườn nho. Rào dậu là đặt ra những quy tắc luật lệ. Kỷ
luật là phên dậu vững chắc bảo vệ những cây nho còn non yếu, bảo vệ hoa lợi
khỏi kẻ thù đến phá hoại. Kỷ luật giúp bảo vệ cuộc đời của các con. Không chỉ
bảo vệ sự sống mà còn tất cả những hoa trái tốt đẹp của sự sống. Bảo vệ tương
lai của các con. Chúa xây bồn ép nho. Bồn ép nho là nơi làm việc. Quả nho phải
trải qua quá trình ép, lọc, ủ mới lên men thành thứ rượu nho thơm lừng làm đẹp
cho xã hội. Cũng vậy các con phải lao động vất vả qua nhiều công đoạn mới trở
nên hữu ích cho Giáo Hội và cho xã hội. Có thể nói cuộc đời của mỗi người các
con là một kỳ quan về tình yêu thương của Chúa. Chúa tạo dựng nên các con để
các con được hạnh phúc. Chúa đã định sẵn cho các con một định mệnh tốt đẹp cao
quý trong thánh ý Chúa.
Tiếc
là có nhiều người không hiểu được điều đó, nên đã chối bỏ quyền Chúa làm chủ
đời mình. Vì xua đuổi Chúa nên ma quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Có nhiều người
đã bỏ tháp canh lương tâm nên không còn tỉnh thức trước những nguy cơ đe dọa
tàn phá sự sống. Có nhiều người đã phá đổ những phên dậu kỷ luật, biến vườn nho
tâm hồn thành bãi đất hoang mặc cho mọi người chà đạp, tàn phá. Có nhiều người
đã bỏ quên bồn ép nho, không chịu làm việc, chỉ rong chơi ngày tháng nên cả
cuộc đời tiêu tốn biết bao sự thương yêu, tiền bạc, công sức của cha mẹ, thày
cô giáo, các bề trên trong Giáo Hội mà không sinh được hoa trái gì cho cuộc
đời.
Các
con, sinh viên học sinh thân mến,
Đầu
năm học mới là dịp các con chỉnh đốn lại vườn nho tâm hồn các con. Hãy để Chúa
làm chủ cuộc đời các con. Hãy tin tưởng định mệnh Chúa dành cho các con là định
mệnh tốt đẹp nhất. Tương lai Chúa dọn sẵn cho các con là tương lai tươi sáng
không gì có thể so sánh được. Hãy đón nhận tình yêu thương của cha mẹ, thày cô
giáo, và các bề trên trong Giáo Hội. Tình yêu thương chăm sóc của các ngài là
nước mát tưới cho cây đời các con xanh tươi. Hãy tuân theo sự hướng dẫn của
tháp canh lương tâm để các con biết phân biệt thật giả, trắng đen, thiện ác
giữa lúc vàng thau lẫn lộn, biết chọn lựa con đường tốt đẹp cho tương lai. Hãy
sống theo sự hướng dẫn của luật lệ, luật xã hội, luật học đường, luật sự sống,
luật Giáo Hội. Đó chính là cách tự bảo vệ trước những lực lượng xấu, trước
những cơn cám dỗ ngọt ngào đang rình chờ trói chặt những cuộc đời ẻo lả, mềm
yếu, buông tuồng. Hãy làm việc trong bồn ép nho. Sự siêng năng chăm chỉ, lòng
say mê học tập chính là chìa khóa của sự thành công.
Năm
học mới là một ân huệ nhưng cũng là một trách nhiệm. Các con được ban nhiều,
các con sẽ bị đòi hỏi nhiều. Năm học mới được ban tặng để các con sinh lợi.
Sinh lợi để xứng đáng với tình thương của Chúa. Sinh lợi để xứng đáng với xã
hội, quê hương đất nước. Sinh lợi chính là thăng tiến bản thân, làm lợi cho
chính các con trước hết.
Xin
Chúa ban phúc lành cho năm học mới để các thày cô giáo, các học sinh sinh viên
thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần thăng tiến bản thân, gia đình,
Giáo Hội và xã hội. Amen.
GỢI
Ý CHIA SẺ
1)
Chúa đã ban cho bạn sự sống và còn đặt biết bao người, biết bao phương tiện,
hoàn cảnh để nuôi dưỡng và phát triển sự sống đó. Bạn có nhận biết điều này
không?
2)
Bạn có nhìn nhận Chúa làm chủ đời mình và có thái độ xứng hợp không?
3)
Phát triển là một trách nhiệm. Bạn có chu toàn trách nhiệm đó không?
5. Suy niệm của An Phong
CHÚNG
TA ĐƯỢC TRAO PHÓ CANH TÁC VƯỜN NHO THIÊN CHÚA
Câu
chuyện giữa Thiên Chúa với con người là một câu chuyện tình. Tình yêu thương
được trao ban, nhưng không được đón nhận; tình yêu thật quảng đại, nhưng lại bị
phản bội cách trắng trợn. Giu-đa lấy cái hôn để nộp Thầy, đó là một sự phản bội
lại tình yêu thương làm cho Chúa Giêsu đau lòng biết bao. Tình yêu của Thiên
Chúa thật bao la; và sự phản bội tình yêu đó lại là cái gì hết sức phũ phàng.
Không có gì đẹp bằng tình yêu, nhưng cũng không có gì ghê gớm hơn tình yêu bị
phản bội.
Trong
một xã hội "đấu đá nhau", những trò đời đã nhiều lúc trở nên khủng
khiếp lắm rồi; nhưng khi "trò đời" lại diễn ra nơi chính bầu khí của
tình yêu, trong gia đình chẳng hạn, thì nó lại trở nên khủng khiếp thế nào: cha
mẹ lợi dụng con cái; con cái bất hiếu, bạc đãi cha mẹ, con cái giết cha mẹ cũng
có… Quả thật, chính sự phản bội trong tình yêu là một đòn chí mạng khiến con
người bị gục ngã. Bao nhiêu bà mẹ đã từng hy sinh mọi sự cho con cái, nhưng rồi
cuối đời, những năm tháng về già, đã gục ngã vì sự phản bội, vì sự bất hiếu của
đứa con cưng.
Chúng
ta được trao phó cho mảnh vườn của Thiên Chúa, cha mẹ được Thiên Chúa trao phó
cho một gia đình để chăm sóc; linh mục cũng được Thiên Chúa trao pho cho đoàn
chiên; các người có trách nhiệm với dân tộc, với cộng đoàn giáo xứ, với các hội
đoàn... đều là những người được Thiên Chúa trao phó vườn nho của Ngài. Cuộc
sống này là vườn nho của Thiên Chúa và mỗi người chúng ta là những người làm
vườn nho của Thiên Chúa.
Câu
chuyện về sự phản bội của tình yêu cho chúng ta thấy rằng Tình yêu cũng chính
là cái giá con người phải trả lại cho Thiên Chúa. Ông chủ ban "người
con" như một lời mời gọi cuối cùng của tình yêu cho những người tá điền
của mình. Không có gì thật sự là tốt đẹp mà không cần trả giá đâu. Sự trả giá ở
đây chỉ là lòng trung thành, là mở lòng ra để đón nhận chủ quyền của Thiên Chúa
chứ không phải muốn giành lấy gia sản của Người để hưởng thụ cho chính mình.
Lạy
Chúa Giêsu,
Chúa
đã trả giá cho đời sống chúng con,
không
phải là trả một món nợ nào khác,
nhưng
là món nợ của tình thương,
món
nợ nặng nề nhất và cay đắng nhất.
Xin
cho chúng con biết nhận ra
chúng
con cũng mắc nợ nhau trong tình yêu thương
và
cũng biết chấp nhận hy sinh vì tình yêu thương.
6. Người thợ làm vườn nho
(Trích
trong ‘Suy Niệm Hằng Ngày’)
Tin
Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại dụ ngôn “Người thợ làm vườn nho”. Vườn nho là
một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc
này để giúp người nghe dễ hiểu điều Ngài muốn nói về Nước Trời.
Thiên
Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do
Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu
thương của Thiên Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai
Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo
vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai phái
các tiên tri đến dạy dỗ họ.
Quả
thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm nom săn sóc từng li từng
tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới
bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người
Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai
đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy
vườn nho làm của riêng.
Mỗi
người chúng ta hôm nay cũng là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn
nho, đó là những tài năng tinh thần, là của cải vật chất, để ta sinh thêm hoa
lợi và mang về cho Người..
Thiên
Chúa ban muôn hồng ân, là để ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để ta
tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên
Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của ta, là để ta có cơ hội hoán
cải, chứ không phải để ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên
Chúa trao phó cho ta các tài năng là để ta sinh lợi cho phần rỗi của mình. Nếu
ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ
khác.
Sẽ
đến ngày ta phải tường trình về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó cho ta.
Sẽ đến ngày ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi.
Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc ta đang làm hôm nay.
***
Lạy
Chúa! Xin cho con biết cộng tác vào vườn nho của Chúa, để làm trổ sinh nhiều
hoa trái thánh thiện và làm cho Nước Chúa được nhiều người biết đến. Amen.
7. Từ vườn nho đến các tá
điền: Hãy là chính mình
(Suy
niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Sau
khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “những tá điền sát nhân”, các
Thượng Tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người.
Dân Chúa xưa, đặc biệt những người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức
hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn sứ Isaia (Is 5). Mẹ Hội Thánh
lại trích cho chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn
Sứ Isaia nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn
mạnh đến những tá điền là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn
nho. Dù là vườn nho hay là người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy
trở nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra quản lý.
Nho
ra nho: Ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng vườn nho chính là đoàn dân Chúa
xưa và chúng ta có thể hiểu thêm mỗi người chúng ta là những cây nho, là những
cành nho (x. Ga 15). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân, tỉa cành sâu bệnh…
thì chủ vườn nho là Thiên Chúa đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho
phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ
đầy các điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện sinh hoa kết trái của cây
trồng, hệ tại ở khả năng cây “hấp thụ dinh dưỡng” từ đất, từ trời và hệ tại ở
việc cây “giảm phát sinh để tăng phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới
để tăng ra hoa, kết trái.
Đề
hấp thụ dinh dưởng từ trời đất thì chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải
gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt
hảo để kết hiệp với Thiên Chúa. Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình
hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái
ngọt ngào thi Kitô hữu chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình.
Hằng năm cứ đến mùa Chay thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và
chúng ta nghiệm thấy ngay các hoa trái trổ sinh.
Quản
lý ra quản lý: Người quản lý là người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì
đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu
cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là những
người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho phải
sai hoa, mộng trái. Theo chiều kích xã hội thì những người quản lý là những
người được giao phó các chức vụ của công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của
một tập thể, của một đất nước... Theo chiều kích tôn giáo, thì những người quản
lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo
mình. Dù là các mục tử trong Hội thánh này Hội thánh kia hay là những người nắm
giữ công quyền trong xã hội thì chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất.
Thánh Phaolô minh định điều này khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do
Chúa đặt định (x.Rm 13,1)
Trong
khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình
đến nhắc nhở những người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó
chắc chắn có sự đánh giá về những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt
thì khen và khích lệ. Xấu thì chê và phê bình sửa sai. Trong lịch sử dân Chúa
xưa, các ngôn sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến. Thay
vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các sứ ngôn thì những người tá điền là
nhưng người quản lý đã bách hại các ngài.
Thiên
Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con
Một đến với hy vọng là những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế
nhưng sự tham lam đã làm cho tâm hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã
nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý
trở thành chủ nhân của vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao
vườn nho cho những người khác.
Câu
chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những vị lãnh đạo DoThái giáo thời
bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước
trên thế giới. Chuyện dụ ngôn này cũng ứng với những chính phủ nắm giữ công
quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ ngôn này cũng đáng làm cho các vị mục tử
giật mình tự kiểm.
Nho
ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại
trừ. Cành nho nào sinh hoa trái sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm
nhiều. Cành nào không sinh trái thì phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta
sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi (x.Ga 15,6). Người quản lý nào chuyên chăm cứ
đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ
về. Trái lại viên quản lý nào chểnh mảng, mãi mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê bổn
phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số
phận với quân bất lương, ở nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x.Lc 12,41-48).
8. Có một chủ vườn kia
“Chủ
vườn” là từ quan trọng trong dụ ngôn này, cùng với một từ khác tương ứng với từ
đó: “hoa trái”. Người chủ vườn này muốn có những hoa trái đặc biệt. Với lòng
quan tâm chăm sóc, ông trồng một vườn nho và mong đợi một mùa thu hoạch tốt
đẹp, nhưng các tá điền không có vẻ gì là hoạt động cả. Chủ vườn sai đầy tớ tới:
tá điền giết chết họ. Thế là chủ vườn thực hiện một hành vi điên rồ: ông sai
chính con trai của mình đến và con trai ông cũng bị giết.
Chúng
ta biết rằng người con trai này chính là Chúa Giêsu, nhưng vườn nho này là vườn
nho nào? Những thợ làm vườn nho là ai? Chúng ta phải làm gì trong câu chuyện
này?
Từ
một vườn nho ở trên một sườn đồi, dụ ngôn kể chuyện những tương quan giữa Thiên
Chúa và con người, điều mà Tin Mừng gọi là Nước Trời: “Ta sẽ là Chúa của các
ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta”, Chúa đã nói như thế. Đây là món quà đẹp
nhất của Thiên Chúa, ông chủ của mọi sự, người thầy của mọi sự.
Thiên
Chúa mong ước ban Nước Trời cho chúng ta. Là tình yêu Thiên Chúa muốn làm cho
tất cả mọi người thành một dân tộc của tình yêu. Điều này muốn nói lên hai điều
luôn luôn liên kết với nhau một cách chặt chẽ: một dân tộc gồm những con cái
được Thiên Chuá yêu thương và yêu thương Thiên Chúa; một dân tộc gồm những
người anh em yêu thương nhau. Đó là vườn nho và đó là những mùa hái nho.
Để
thực hiện dự định vĩ đại này, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc nhỏ làm hạt giống,
làm men, đó là Israel. Ngài đã giao phó vườn nho của Ngài, tức là dự án về Nước
trời cho dân tộc này.
Thất vọng. Được các vị lãnh đạo tôn giáo dẫn dắt tồi, Israel không sử dụng
cho đúng những đặc ân của mình. Chúa sai đến cho Israel những sứ ngôn, những
tiên tri, nhưng nước này không nghe họ. Coi thường chủ vườn, các tá điền xấu
tin rằng họ có thể một mình làm chủ vườn nho của Chúa. Họ chăm sóc vườn nho
không tốt bởi vì các ân sủng của Thiên Chúa chỉ sinh hoa kết quả với Thiên Chúa
mà thôi.
Trong
một nhiệt tình yêu thương tối hậu, Thiên Chúa sai Con Trai của Ngài để dạy cho
các thợ làm vườn nho biết cách làm cho vườn nho của Chúa sinh lợi, biết cách
sống vì Nước Trời như thế nào. Nhưng hết rồi, vào cuối Tin Mừng, Chúa Giêsu
nhận thấy rằng chính Ngài cũng không được lắng nghe, các nhà lãmh đạo dân chúng
muốn bóp nghẹt tiếng nói của Ngài.
Thế
rồi Ngài đưa ra một lời đe doạ hoàn toàn không khoan nhượng cho những ai tự xem
mình là những người được ưu tiên vĩnh viễn, những người chủ của các ân sủng của
Thiên Chúa. Cho tới lúc đó, Chúa thường đe doạ họ và thậm chí sửa phạt họ một
cách nghiêm khắc, nhưng không hề có ai dám nói với họ rằng Thiên Chúa sẽ giao
phó vườn nho của Ngài cho những người khác. Dầu sao thì đây cũng chính là ý
nghĩa của dụ ngôn ghê gớm này mà những từ cuối cùng rơi xuống như một cái máy
chém: “Nước Trời sẽ được cất khỏi các ngươi và sẽ được trao cho dân khác làm
cho trổ sinh hoa trái”,
Lời
đe doạ đã được thực hiện, người Kitô hữu tiếp tục sự nghiệp của người Do thái.
Điều này không xoá bỏ sự vĩ đại của dân tộc đã được chọn đầu tiên và vẫn là một
dân tộc được chọn này (Rm 11, 28-29). Dân Do thái vẫn tiếp tục loan báo Đấng
Tối Cao bằng đức tin sâu xa và thường rất anh hùng của họ. Tiếp theo sau và
cùng với dân Do thái chúng ta nên giòng mạc khải Do thái –Kitô giáo. Và dụ ngôn
này phải làm cho chúng ta suy nghĩ về sự vĩ đại và trách nhiệm của chúng ta.
Thật là một sứ mạng nặng nề! Sống tình yêu, loan truyền tình yêu khắp nơi, tạo
ra những kết quả thực sự của Nước Trời. Chúng ta có xứng đáng không? Người Kitô
hữu và những nhà lãnh đạo tín hữu có tỏ ra trên khắp thế giới như là những tá
điền tốt, những thợ làm vườn nho tốt của ông chủ duy nhất của vườn nho hay không?
9. Hành động và phản ứng.
Những
người Biệt phái không sẵn sàng trở lại. Đó là một thái độ thụ động. Nhưng đi xa
hơn, họ bước sang hành động quyết định chống lại Đức Kitô. Trong ngụ ngôn thợ
làm vườn nho, Thày chí thánh đã mô tả cho chúng ta như sau: Israel là một dân
gồm những mục tử và nông dân. Các dụ ngôn Phúc âm là những hình ảnh thu nhặt
trong đời sống đồng áng. Trước kia nơi các tiên tri và các thánh vịnh, quốc gia
này đã được so sánh với một vườn nho được Thiên Chúa vun trồng săn sóc đặc
biệt. Chúa chờ hái lượm những chùm nho chĩu nặng tức là mong thấy bay tỏa hương
thơm đạo đức và lòng tùng phục Thiên Chúa. Nhưng ít khi Chúa mãn nguyện. Bây
giờ, khi Chúa đến, giờ quyết định của dân tộc đã điểm.
Đó
là giờ quyết định thực sự! Bổn phận mà Israel chu toàn lại bị coi như là một cố
gắng vô ích sao? Quả thực các vị thủ lãnh dân tộc có một đời sống tôn giáo nông
cạn khô khan. Ngoài ra họ bắt đầu công kích Chúa, mặc dầu Ngài đã góp công phục
hưng quốc gia. Cha ông họ đã giết các tiên tri, những thừa sai của Thiên Chúa,
còn chính họ là con cái lại quyết định giết Chúa.
Theo
phương diện lịch sử, giờ quyết định đã điểm vì tất cả quá khứ của Israel hướng
về ngay vị cứu tinh xuất hiện. Tất cả những hy vọng quy về vị cứu tinh là tột
đỉnh mong đợi. Đây Chúa Cứu Thế đã đến và số phận dân tộc đã biểu lộ. Các thủ
lãnh đều có trách nhiệm về điều đó. họ tự quyết chống lại Ngài, vì họ muốn một
vị khác đáp lại những đòi hỏi sai lầm của họ. Họ không những đã từ chối, nhưng
nhất là công kích đầy căm phẫn nữa. Đấng phải đến cho họ sự phục sinh, lại bị
chính họ xử tử.
Lời
Chúa đòi p hải có lập trường vững chắc, nhất là khi hành động. Ngược lại với
lời nhân loại, lời Chúa bắt phải dấn thân. Người ta có thể gạt bỏ những ý tưởng
triết học, gạt bỏ hệ thống suy luận của một tư tưởng gia hay những tác phẩm của
văn sĩ. Người ta ít chú ý đến những thứ đó, nên một năm khó lòng mua được một
số sách, do đó nhiều khi sách vở phải bán theo giá giấy. Trái lại lời Chúa,
tiếng gọi và đòi hỏi, đòi phải chọn lựa khi nghe biết. Không chú ý đến lời Chúa
là phủ nhận lời Chúa và như vậy là gạt Chúa sang một bên. Làm như thế tức là
tiến thêm một bước nữa về sự dữ. Trong khi chối từ những gì đem lại ơn cứu độ,
người ta tự ý hướng về tình trạng khai trừ. Kitô giáo, không phải chỉ loan báo
những chân lý để bàn luận hay xác định lập trường tùy tiện. Thiên Chúa mời gọi
chúng ta, muốn chúng ta dấn thân phục vụ Ngài. Vì thế từ chối có nghĩa là nổi
loạn. Lời Chúa là nền tảng cho đời sống. Ai chối bỏ là chối bỏ chính Chúa: Hòn
đá không ở một nơi, nhưng theo Đức Kitô, hòn đá đó sẽ nghiến nát ai chối bỏ nó
để ở lại giữa loài người.
Tình
trạng cuộc sống không bất động: mỗi hành động nhân loại đều được Thiên Chúa đáp
ứng cách khác nhau. Thực ra, Ngài không chỉ sửa phạt, Ngài sẽ không tiêu diệt
những ai từ chối, nhưng đôi khi Ngài chịu đựng để biến đổi sự dữ thành sự lành.
Trước hành động của kẻ thù, Ngài phản ứng lại theo đức công bình và nhất là
phản ứng theo lòng yêu thương.
Adam
từ chối Thiên Chúa đã gọi mình, nên đánh mất Thiên Đàng, nhưng đồng thời ông
lại được hứa Đấng Cứu Thế. Lỗi phạm, nhờ ơn sủng biến thành lỗi có phúc. Đại
hồng thủy đưa đến giao ước với Noe. Tháp Babel biểu thị sự chia rẽ nhân loại,
cũng biểu thị ơn gọi của Abraham là người biến Israel thành dân duy nhất của
Chúa. Việc bán Giuse sang Ai Cập trở nên sự cứu độ cho anh em. Pharaon cứng
lòng đưa dân Chúa đến việc ký kết giao ước với Thiên Chúa. Lịch sử tiếp tục thể
hiện cho tới lúc Israel từ chối Đức Kitô, đóng đanh Chúa họ trên núi Calvariô.
Sự thất bại tuyệt đối đã được ân sủng tác động để hình thành giao ước mới với
toàn thể nhân loại, và hy tế cứu độ của Chúa. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, máu
các vị tử đạo không ngừng trở nên hạt giống làm trổ sinh những kitô hữu mới.
Cho tới ngày chung cuộc, việc xuất hiện người chống lại Đức Kitô sẽ kêu mời Đức
Kitô tái giáng. Trái đất bị chúc dữ sẽ báo hiệu một thế giới mới, để tất cả tăm
tối sẽ bị ánh sáng toàn thắng. Tất cả sự chết sẽ bị sự sống thống trị, tội lỗi
sẽ bị ơn sủng chế ngự. Hòn đá bị thợ ném đi, được Chúa can thiệp để trở nên hòn
đá góc. Và nước Chúa được ban cho một dân tộc ưu tú mới, vườn nho được phó thác
cho những người thợ mới; những người ấy nhờ tác động của ơn sủng, sẽ gặt hái
hoa trái chín mọng do ơn Chúa. Vậy, những hầm rượu và kho lẫm Thiên Chúa được
tràn đầy phong phú, rồi những kẻ ưu tú được lệnh trao hoàn cho Ngài. Tất cả
biến thành ơn sủng.
10. Chủ vườn nho
Số
phận của những kẻ chống lại chủ vườn nho sẽ như thế nào?
Mặc
dù đoạn Tin Mừng không nói rõ, nhưng chúng ta cũng thấy được qua câu trả lời
của những người nghe Chúa Giêsu:
-
Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ đến
mùa, họ sẽ nộp phần hoa lợi.
Từ
câu trả lời này, chúng ta bước vào lãnh vực siêu nhiên. Vậy số phận của những
kẻ chống lại Thiên Chúa sẽ như thế nào? Chúa Giêsu cũng đã từng lên tiếng về
vấn đề này:
-
Viên đá bị thợ xây loại bỏ, sẽ trở thành viên đá góc tường. Hễ ai vấp ngã trên
viên đá này, thì kẻ ấy sẽ bị dập nát và hễ viên đá này đè lên ai, thì kẻ ấy sẽ
bị tan xương.
Câu
nói này làm cho chúng ta liên tưởng tới lời cảnh cáo của Chúa Giêsu được gửi
tới cho Phaolô trên con đường đi Đamas:
-
Khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Kinh
nghiệm đau thương này đã được thực hiện qua giòng thời gian nơi các dân tộc
cũng như nơi những cá nhân.
Trước
hết là nơi các dân tộc.
Tôi
xin đưa ra hai trường hợp điển hình. Trường hợp thứ nhất, đó là trường hợp của
dân Do Thái.
Trong
Cựu ước, họ là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn và yêu thương cách đặc
biệt. Thế nhưng mỗi khi họ quay lưng chống lại Ngài, bằng cách sống bê tha tội
lỗi và nhất là quì gối thờ lạy những thần tượng nhảm nhí, thì lập tức đất nước
họ bị quân thù dày xéo còn bản thân họ thì bị đi lưu đày, vì khốn cho ngươi,
nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trong
Tân ước, họ là một dân tộc được nghe những lời Ngài truyền dạy và được thấy
những việc kỳ diệu Ngài đã làm, thế nhưng cõi lòng họ vẫn chai đá, để rồi những
lời Chúa cảnh cáo chỉ là như một thứ nước đổ đầu vịt mà thôi. Họ chống đối
Chúa, họ vu oan cho Chúa và sau cùng họ đã giết chết Chúa một cách ô nhục trên
thập giá. Nhưng rồi sau đó vào năm 70, thủ đô Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa
dưới sức mạnh của quân đội La Mã do tướng Titus chỉ huy. Còn bản thân họ thì
phải rời bỏ quê hương, tản mát khắp bốn phương trời, mãi cho đến năm 1950, nhờ
áp lục quốc tế, họ mới được trở về khôi phục lại đất nước, vì khốn cho ngươi,
nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trường
hợp thứ hai là nước Pháp trong cuộc cách mạng vào năm 1789. Những kẻ khởi xướng
cho cuộc cách mạng này đã bài xích Giáo hội, chối bỏ Thiên Chúa, coi lý trí là
thần tượng tuyệt đối có thể giải quyết được mọi vấn đề. Thế nhưng hậu quả mà
cuộc cách mạng này đã đem lại như thế nào thì lịch sử đã cho chúng ta thấy: máy
chém mọc lên ở khắp nơi, rồi cướp của giết người xảy ra ở khắp chốn, đến nỗi
chịu không nổi cảnh tượng hỗn độn vô trật tự ấy, Robespierre đã phải truyền dán
trên khắp các ngả dường những tấm bích chương với hàng chữ: Nhân dân Pháp tin
vào Thiên Chúa. Quả thực, khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Bây
giờ xuống tới lãnh vực cá nhân, số phận của những kẻ chối bỏ Thiên Chúa cũng
không hơn gì. Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình.
Trường
hợp thứ nhất là trường hợp của Mirabeau. Ông là người đi tiên phong cho cuộc
cách mạng Pháp, hăng hái đả phá Giáo hội và chối bỏ Thiên Chúa. Nhưng rồi sau
đó, ông đã phải đau khổ và tuyệt vọng, nhất là khi phải đối đầu với cái chết.
Ông đã chết bằng một cái chết đớn đau và điên khùng.
Trường
hợp thú hai là trường hợp của Voltaire. Suốt đời, ông đã tìm cách hạ bệ Thiên
Chúa và Giáo hội. Chính ông vàp năm 1753 đã viết: Thiên Chúa phải về hưu vì đã
hết thời. Đúng hai mươi năm sau, nghĩa là vào năm 1773 ông đã chết một cách thê
thảm, tru tréo như một con chó dại, đến nỗi bà giúp việc phải thốt lên: Nếu quỉ
có thể chết, thì cũng không chết một cách dữ tợn hơn Voltaire. Thiên Chúa vẫn
còn mãi, nhưng khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Từ
những sự việc cụ thể xảy ra cho cá nhân cũng như cho dân tộc, tôi muốn đi tới
một kết luận:
-
Xe trước đã đổ, thì xe sau phải coi chừng.
Xem
người phải nghĩ đến thân, bẳng không, nếu cứ bình chân như vại, đắm chìm trong
tội lỗi, chắc chắn số phận chúng ta cũng sẽ không hơn gì bởi vì chủ vườn nho sẽ
triệt hạ hết những kẻ xằng bậy và sẽ trao vườn nho cho người khác. Như thế có
nghĩa là Nước Trời sẽ bị cất khỏi bàn tay chúng ta, đề rồi chúng ta sẽ bị trầm
luân muôn kiếp.
Bài
Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự
thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ nước
Chúa, được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người
thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy
tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết
chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Chúa được chuyển sang một quốc
gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công giáo, sẽ lan tràn đến tất cả
mọi quốc gia.
Chúng
ta thấy dụ ngôn vừa có tính cách lịch sữ vừa có tính cách tiên tri, nghĩa là
một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong
lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai
đến với họ. Đàng khác, nói tiên tri về đạo Chúa sẽ lan tràn khắp các dân không
phải dân Do Thái. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy rõ thân thế và sứ
mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng đến đâu
như Elia, Isaia, Giêrêmia, Gioan Tiền Hô… cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là
con trai duy nhất của Chúa Cha. Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều
đáng lưu ý và ghi nhớ. Sau đây chúng ta tìm hiểu một điều thôi, đó là các tá
điền làm vườn nho. Bài Tin Mừng cho biết: ông chủ vừa trồng xong vườn nho, lẽ
ra ông phải chăm bón để kiếm hoa lợi, nhưng ông lại cho các tá điền canh tác để
đến mùa thu hoa lợi. Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có
những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông
chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông chủ. Chúng
ta có thể áp dụng như sau: mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao
phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận phải đem hoa lợi
về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng
kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
Thực
vậy, những ơn phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật
chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải
làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng
khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, dịp tiện. Mỗi người, không ai giống
ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban. Chúng ta không
giống nhau về khả năng, nhưng có thể giống nhau về cố gắng. Thà cố gắng mà
không có tài còn hơn có tài mà không cố gắng làm lợi cho Chúa.
Vậy
mọi người chúng ta đều có một điều giống nhau, đó là đời sống để làm việc: việc
lớn, việc nhỏ. Đa số chúng ta ai cũng muốn làm việc lớn, được nhiều lợi, được
người khác biết đết. Nhưng Chúa bảo chúng ta hãy làm việc nhỏ. Chúng ta cần
trung tín trong việc nhỏ bé trước đã. Chỉ khi nào chúng ta làm được những việc
nhỏ bé, chúng ta mới có khả năng làm những việc lớn lao hơn. Những việc nhỏ
chính là nấc thang đưa tới thành công lớn. Không ai có thể làm việc lớn cho
Chúa nếu trước hết họ không làm được những việc nhỏ cho Ngài. Nếu chúng ta
không trung thành trong việc nhỏ thì không ai tin tưởng trao cho chúng ta việc
lớn hơn. Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng
không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu
làm hay không.
Có
một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề là “vị thiên thần dễ tính” kể lại như sau:
Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng
của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm
được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều
kiện: “Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại
không có sức làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ
khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở
thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng
với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn
bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó
cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối
tình xưa. Rồi sau cùng sức khoẻ cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc
nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì
được để phục hồi sức khoẻ ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược
lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tới những việc bình thường. Vị
thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm: “Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực
nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục
sống cuộc đời của mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công
dân lương thiện, một người chồng chung thuỷ, một người cha hiền tận tuỵ với con
cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm
thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước
muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân
trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết
nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới
có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời
họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá
trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Tóm
lại, chúng ta hãy siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta
hãy tận dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự
nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên nước trời.
12. Tá điền và vườn nho
Có
một bản tin gây nhiều xúc động, đó là: một thanh thiếu niên phạm pháp được trả
tự do lạm thời, nhờ hạnh kiểm tốt trong thời gian bị giam tù. Vì không còn cha
mẹ, nên em này được một người trong vùng nhận làm con nuôi và em được đối xử
tốt đẹp như năm người con khác trong gia đình, không chút kỳ thị phân biệt. Cha
mẹ nuôi cũng như anh chị em mới trong gia đình cố gắng làm hết mọi sự để giúp
em cảm nhận được tình yêu thương chân thành trong gia đình mới.
Một
hôm, em được phép cha mẹ cho đi tham dự buổi tiệc sinh nhật của người bạn với
lời nhắn nhủ là “hãy trở về nhà trước 11 giờ khuya”. Nhưng 11 giờ, rồi 12 giờ
và 1 giờ sáng mà em vẫn chưa về. Mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ trừ cha mẹ
nuôi của em canh thức đợi em về với nhiều lo tắng, cuối cùng 2 giờ sáng em mới
về tới nhà. Không một lời giải thích hay xin lỗi cha mẹ nuôi gì cả, nhưng phần
cha mẹ nuôi chỉ trách nhẹ em một câu: “Này con, lần sau con ráng về đúng giờ để
cha mẹ không phải lo lắng đợi chờ con nữa”.
Sáng
hôm sau, khi mọi người trong gia đình kẻ đi làm người đi học, chỉ còn lại mẹ
nuôi ở nhà, và bất ngờ, người thiếu niên này dùng một khúc sắt từ sau lưng tiến
lại đập đầu người mẹ nuôi của em. Trước toà án, em không chút hối hận và người
cha nuôi của em trong cơn đau khổ tột cùng chỉ thốt lên một lời: “Nó đã giết
chết người vợ thân yêu của tôi. Đây là một hành động vô ơn tột cùng”.
Sự
việc trên có thể giúp chúng ta phần nào hiểu thấu được dụ ngôn: “Người tá điền
và vườn nho” được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là thái độ vô ơn tột
cùng của những người giữ vườn nho đáng trách, họ đã khước từ và giết hại những
người làm mà ông chủ sai đến, rồi cuối cùng họ cũng giết chết luôn cả người con
của ông chủ.
Thái
độ vô ơn tột cùng này cũng là một lời cảnh tỉnh cho mỗi người Kitô hữu chúng ta
hôm nay, qua đó nhắc nhở chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với
Thiên Chúa. Như ông chủ vườn nho, Thiên Chúa nhân lành luôn thông cảm và tha
thứ những lỗi tầm của chúng ta, một khi chúng ta biết trở về với Ngài.
Mặt
khác, Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm sóc vườn nho của Ngài, để
chúng ta làm trổ sinh hoa trái tốt đẹp. Hơn nữa, Ngài đã không ngừng sai những
sứ giả của Ngài đến để nhắc nhở chúng ta tích cực chăm sóc vườn nho cho Ngài.
Vì thế chúng ta phải có bổn phận biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt
đẹp, những chùm nho ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong
cuộc sống hằng ngày. Nhưng, có thể thay vì dâng cho Ngài những chùm nho ngon
ngọt, thì chúng ta lại có những thái độ thù nghịch chống lại Ngài, chống lại
Thiên Chúa, chống lại những sứ giả mà Ngài đã sai đến với chúng ta.
Vậy,
thử hỏi còn điều gì có thể làm được cho con người mà Thiên Chúa đã không làm để
cứu rỗi, để hướng dẫn và ban hơn nữa cho chúng ta hay không?
Chính
Ngài đã sai Con Một Ngài đến cứu rỗi chúng ta, và hy vọng con người sẽ không
giết hại Con Ngài, nhưng sẽ tắng nghe lởi Người: “Đây là Con Ta yêu dấu, các
người hãy vâng nghe lời Ngài”.
Thật
thế những kẻ vô tâm, bất nhân bất nghĩa đã làm việc bất nhân, thay vì dâng lời
cảm lạ Thiên Chúa thì lại giết chết Con Thiên Chúa, giết chết người ân nhân vĩ
đại của cuộc đời mình. Xin Chúa ban ơn biến đổi cho mỗi người chúng ta, giúp
chúng ta luôn biết tắng nghe liếng Chúa trong mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời.
Lạy
Mẹ Maria, xin Mẹ khẩn cầu Chúa ban cho mỗi người chúng con được bắt chước gương
sống của Mẹ: Khiêm tốn, vâng phục, chấp nhận thưa “xin vâng” với Chúa trong mọi
nghịch cảnh của cuộc đời: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Ngài
truyền”. Nhất là chúng con xin Mẹ giúp cho mỗi người chúng con luôn luôn sống
trong thái độ biết ơn Thiên Chúa, cố gắng hết mình để làm vườn nho mà Ngài đã
trao phó cho mỗi người chúng con, để cây nho được trổ sinh nhiều hoa trái tốt
đẹp. Xin Thiên Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng
con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
13. Được và mất
Chuyện
ngụ ngôn “Lừa và Sói” kể rằng: Một hôm, lừa đang gặm cỏ, bỗng thấy Sói phi nước
đại phóng tới. Lừa giả bộ đi khập khiễng. Khi Sói đến gần, hỏi nó vì sao bị
thọt chân, thì Lừa trả lời:
-
Vừa nãy tôi nhảy qua hàng rào bị xóc gai.
Rồi
Lừa đề nghị Sói trước khi ăn thịt mình hãy nhổ gai ra đã, để khỏi bị gai đâm.
Sói
tin lời, Lừa giơ cao chân để Sói soi mói kỹ lưỡng các móng chân Lừa. Lừa thừa
cơ đạp mạnh vào mõm Sói rồi bỏ chạy.
Sói
bị gẫy hết răng ôm đầu kêu la.
-
Đáng đời ta! Cha mẹ nuôi ta thành kẻ chuyên ăn thịt, chứ đâu dạy ta làm thày
lang!
Nếu
chuyện ngụ ngôn nào cũng cho chúng ta một bài học, thì chuyện ngụ ngôn “Lừa và
Sói” muốn nói với chúng ta: Kẻ nào không làm đúng công việc của mình sẽ lãnh
hậu quả bi thảm.
Tin
Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn “Những người thợ làm vườn nho”. Mỗi người chúng
ta là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, là những tài năng
tinh thần, của cải vật chất, để chúng ta đem hoa lợi về cho Người. Thiên Chúa
còn tôn trọng chúng ta, Người để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công
việc, theo sáng kiến riêng của mỗi người. Thánh Matthêu viết: “Ông cho tá điền
canh tác, rồi trẩy đi xa”. Người không ở đó để kiểm soát, canh chừng.
Khốn
thay, có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự
do chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông. Những tá
điền ấy đã ngược đãi và sát hại các đầy tớ mà chủ sai đến. Thậm chí, đến lần
thứ ba chúng giết luôn cả con trai ông. Họ làm như thế là để chiếm lấy gia tài
của chủ. Hậu quả là: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá
điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”.
Thiên
Chúa ban muôn hồng ân, là để chúng ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để
chúng ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên
Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của chúng ta, là để chúng ta có cơ
hội hoán cải, chứ không phải để chúng ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên
Chúa trao phó cho chúng ta các tài năng là để chúng ta sinh lợi cho phần rỗi
mình. Nếu chúng ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và
trao cho kẻ khác. Nỗi bất hạnh ấy chỉ mình ta gánh chịu mà thôi!
Sẽ
đến ngày chúng ta phải tường trình về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó.
Sẽ đến ngày chúng ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông
đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc chúng ta đang làm hôm nay.
Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta chịu trách nhiệm về những điều chúng ta đã
làm, đã không làm, hay đã cản trở không cho người khác làm”.
14. Tá điền vườn nho
Nhân
cơ hội các thượng tế và các kỳ lão chất vấn Chúa Giêsu về việc Người lấy quyền
nào mà đánh đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ
ngôn để nói với các ông như những lời cảnh giác về sự cứng lòng của họ. Dụ ngôn
tá điền gian ác là một trong ba dụ ngôn ấy.
Như
đã nói ở trên, câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu kể trực tiếp nhắm vào các thượng tế
và kỳ lão. Họ là những người được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn
nho là dân riêng của Chúa. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho chủ là Thiên Chúa,
họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi ấy cho mình. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa
sai đến là các ngôn sứ đều bị họ giết chết. Cuối cùng ngay cả Người con duy
nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây
thập giá. Họ nghĩ rằng chỉ khi làm như thế họ mới chiếm đoạt được trọn quyền
thừa kế và hưởng lợi lộc từ vườn nho.
Ý
nghĩa cụ thể của dụ ngôn là như thế. Nhưng chúng ta cần nội tâm hóa câu chuyện
để có thể lắng nghe được tiếng gọi của Thiên Chúa dành cho chính mình chứ không
phải chỉ cho những người xa lạ ở vào những thời đại xa xưa.
Như
ông chủ trao phó vườn nho cho các tá điền, Thiên Chúa cũng tín nhiệm trao phó
cho ta chăm sóc những vườn nho của Người. Vườn nho ấy là chính cuộc đời của
riêng ta, là những cộng đoàn mà ta phải phục vụ, là những trách nhiệm mà ta
phải hoàn thành.
Như
ông chủ vườn nho đã dựng hàng rào, đã xây tháp canh để bảo vệ vườn nho, đã lắp
đặt máy ép nho để giúp cho công việc của tá điền được dễ dàng, nhờ đó họ có thể
hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Khi trao cho ta những nhiệm vụ, Thiên
Chúa cũng ban cho ta phương tiện là những ân huệ cần thiết để chúng ta thực
hiện tốt công việc được trao.
Trao
vườn nho rồi, ông chủ đi xa một thời gian. Ông tin tưởng các tá điền sẽ làm cho
vườn nho sinh hoa kết trái. Thiên Chúa cũng tin tưởng ở chúng ta khi trao cho
chúng ta những trách nhiệm. Người không trực tiếp giám sát chúng ta như những
anh công an. Người cũng không phải là một ông chủ chuyên chế áp đặt tự do và
giết chết sáng kiến của chúng ta. Người tôn trọng chúng ta như những người
trưởng thành và để chúng ta tự do làm việc. Người tin tưởng ở tinh thần trách
nhiệm của chúng ta.
Sau
một thời gian vắng nhà, khi trở về, ông chủ sai các đầy tớ đến thu hoa lợi của
vườn nho. Sẽ tới ngày chúng ta cũng phải tính sổ với Thiên Chúa về những công
việc được trao phó. Người hỏi chúng ta về hoa trái của những công việc đã được
trao. Người hỏi chúng ta về tinh thần trách nhiệm.
Những
người tá điền đã giết chết các tôi tớ của ông chủ. Hành vi này tượng trưng cho
sự khước từ Thiên Chúa của chúng ta. Có thể chúng ta đã từng loại trừ Thiên
Chúa vì nghĩ rằng Người là một ông chủ hà khắc, hay đòi hỏi, hay quấy nhiễu con
người.
Thay
vì tiêu diệt các tá điền, ông chủ lại sai thêm các đầy tớ khác. Điều này nói
lên lòng nhân từ và sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người không trừng phạt chúng
ta khi chúng ta phản nghịch và chống lại Người, nhưng Người ban cho ta nhiều cơ
hội để sửa chữa những lỗi lầm và để trả lời cho tiếng gọi của Người.
Không
nhận ra được lòng nhân từ của ông chủ, những người tá điền lại giết chết cả
những anh đầy tớ này. Đó chính là thái độ cố chấp sống trong tội lỗi của chúng
ta. Tội lỗi là sự bất tuân lệnh của Thiên Chúa, là cố ý chống lại Thiên Chúa,
cố ý đi ra khỏi con đường của Người.
Không
ngã lòng, ông chủ còn sai con trai mình đến với những người tá điền. Và họ cũng
giết chết luôn cả anh con trai này. Họ bàn bạc với nhau rằng: Phải giết anh con
trai thừa tự này đi để chúng ta chiếm lấy vườn nho. Thì ra tội lỗi của những
người tá điền không phải là không làm cho vườn nho sinh hoa kết trái mà là muốn
chiếm đoạt vườn nho của ông chủ. Thiên Chúa đã dùng mọi phương cách để cứu vớt
con người. Người đã chơi ván bài chót là liều hy sinh chính Con Một của Người
để thức tỉnh con người. Nhưng con người luôn muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi
đời mình để có thể sử dụng cuộc đời, để định đoạt mọi sự theo ý mình muốn.
Chúng ta làm việc này việc khác không phải vì quyền lợi của Thiên Chúa mà chỉ
vì ích lợi của bản thân mình. Chúng ta muốn chiếm đoạt những gì thuộc về Thiên
Chúa để làm của riêng mình.
Chính
trong ý nghĩa nói trên mà câu chuyện dụ ngôn cũng là câu chuyện của đời thường
và câu chuyện của ngày xưa cũng là câu chuyện của ngày hôm nay. Hàng ngũ lãnh
đạo Do thái giáo ngày xưa đã loại trừ và đã giết chết Con Thiên Chúa, Đấng đã
đến trần gian để chỉ cho họ con đường về Trời. Vụ án giết Con Thiên Chúa vẫn
còn kéo dài qua mọi thời cho tới ngày hôm nay. Và lý hình giết con Thiên Chúa
có thể là mỗi người chúng ta. Điều đó thật là đáng sợ.
15. Dụ ngôn những tá điền
sát nhân - JKN
Câu
hỏi gợi ý:
1.
Dụ ngôn trên ám chỉ những ai? Nó chỉ áp dụng cho dân Do Thái và các nhà lãnh
đạo Do Thái giáo thời đó, hay nó có tính hiện sinh, nghĩa là có thể đúng với
chính Ki-tô giáo của chúng ta hiện nay?
2.
Liệu Thiên Chúa có thể nói về Ki-tô giáo như đã nói về Do Thái giáo: «Tôi những
mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?». Và Ngài có thể nói về chính bản thân tôi
như vậy không?
3.
Thiên Chúa có cần phải thay thế Ki-tô giáo bằng một tôn giáo mới như Ngài đã
phải thay thế Do Thái giáo bằng Ki-tô giáo không?
Suy
tư gợi ý:
1. Ý nghĩa dụ ngôn những tá điền sát nhân
Bài
Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn có ý nói bóng gió về tình trạng đã, đang và xảy
ra trong dân Do Thái, mà trước mắt có sự góp phần của giới lãnh đạo tôn giáo Do
Thái là âm mưu giết Đức Giê-su. Kết cục được diễn tả trong câu cuối của bài Tin
Mừng là: Dân Do Thái được Thiên Chúa dành ưu tiên trong việc vào Nước Thiên
Chúa, nhưng vì họ tỏ ra không xứng đáng, nên chỗ ưu tiên của họ được nhường cho
những dân tộc khác.
Thiên
Chúa đã yêu quí dân Do Thái, điều này được diễn tả trong bài đọc I: Thiên Chúa
cưng chiều dân Do Thái như một người có một vườn nho mà anh ta rất quí: “Anh ra
tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác,
rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Anh quí nó đến nỗi làm cho nó tất cả những gì
mà anh nghĩ nó cần nó thích: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi
đã chẳng làm?” (5,4). Anh ta kỳ vọng rất nhiều vào vườn nho đó, nhưng vườn nho
đã làm anh thất vọng: “Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại”
(5,2b). Một vườn nho như thế thì người chủ nên làm gì cho nó? Thất vọng vì vườn
nho ấy, anh ta đã “hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì
đập đổ cho vườn bị giày xéo (…) biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu, không
tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm; truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa tưới
xuống” (5,5-6). Vườn nho đó được I-sai-a xác định: “Vườn nho đó chính là nhà
Ít-ra-en; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, chính là người xứ Giu-đa. Người
những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều
chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (5,7).
Trong
dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su tiếp tục khai triển chủ đề “vườn nho”
của bài đọc I (Is 5,1-7), với những ám chỉ sau đây: 1. Vườn nho ám chỉ dân Do
Thái; 2. Ông chủ đất: Thiên Chúa; 3. Bọn tá điền: Các lãnh tụ tôn giáo Do Thái;
4. Các tôi tớ của chủ đất: Các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến; 5. Người con
trai của ông chủ: Đức Giê-su; 6. Các tá điền khác: Dân ngoại.
Toàn
bài dụ ngôn nói lên diễn tiến trong lịch sử dân Do Thái: Thiên Chúa chọn Do
Thái là dân riêng của Ngài giữa mọi dân tộc. Ngài muốn họ là cầu nối giữa Ngài
với mọi dân tộc khác và với toàn nhân loại. Để thực hiện mục đích ấy, Ngài đã
sai các ngôn sứ đến để dạy dỗ, sửa đổi và cho họ biết ý định của Ngài. Nhưng
lời nói của những ngôn sứ này thường không lọt lỗ tai các lãnh tụ tôn giáo Do
Thái, vì “trung ngôn nghịch nhĩ”, “lời thật mích lòng”. Và kết quả là các ngôn
sứ này đều bị ném đá chết dưới tay các lãnh tụ tôn giáo Do Thái. Chính ngôn sứ
Ê-li-a đã phải than phiền: “Khi cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân
Ít-ra-en rằng: Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của
Ngài, chúng đã phá huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang
tìm hại mạng sống con” (Rm 11,3; x. V 19,10.14).
Cuối
cùng, Thiên Chúa sai chính Con Một của mình đến cũng để làm công việc ngôn sứ
ấy, thì cũng bị họ giết chết một cách dã man và thảm hại. Dân Do Thái vì hèn
nhát trước quyền lực nên cũng hùa theo các lãnh tụ của họ. Vì thế, dân Do Thái
đã bị Thiên Chúa loại bỏ, mất quyền ưu tiên đối với Nước Trời. Và Nước Trời do
Đức Giê-su thiết lập - gồm những người tin theo Đức Giê-su - bao gồm những
người mà người Do Thái gọi là dân ngoại, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới.
Còn
dân Do Thái đã bị đào thải khỏi lịch sử: tháng 9 năm 70, Titus, lúc ấy làm
thống soái quân đội Rôma (sau làm hoàng đế năm 79-81), đã bao vây và chiếm
Giê-ru-sa-lem, giết rất nhiều người Do Thái. Kể từ đó, Do Thái bị mất nước, và
dân Do Thái phải tản mác khắp nơi trên thế giới. Đến thế chiến thứ hai, dân Do
Thái tại Đức đã bị Hitler giết tới 6 triệu người. Mãi đến năm 1947, sau gần 19
thế kỷ bị mất nước, Do Thái đã lập quốc trở lại tại vùng đất cũ, nhưng kể từ
đó, họ phải chiến tranh liên tục với dân Palestin và Ai Cập cho đến nay.
2. Dụ ngôn đó có áp dụng cho Giáo Hội chúng ta không?
Khi
tôi học Cựu Ước, giáo sư dạy Kinh Thánh cho tôi thường nói: “Israel là Giáo
Hội, Israel là chính tôi”. Vì thế, nếu bài dụ ngôn kia có thể áp dụng cho dân
Do Thái, thì cũng có thể áp dụng cho Giáo Hội và cho chính bản thân tôi.
Do
Thái giáo là một tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập qua các tổ phụ, Mô-sê
và các ngôn sứ, với hàng giáo phẩm là các tư tế, lê-vi và các ráp-bi. Thiên
Chúa đã trực tiếp can thiệp vào lịch sử của dân tộc, đã ra tay giải phóng dân
tộc Do Thái khỏi ách thống trị Ai Cập, đã đích thân ban hành luật pháp cho họ,
đã trực tiếp chỉ định những vì vua cai trị họ… Ngay cả Ki-tô giáo hiện nay cũng
chưa được Thiên Chúa trực tiếp can thiệp như thế. Có ngôn sứ nào trong Ki-tô
giáo oai hùng như I-sa-i-a, khi ra lệnh cho dân Do Thái điều gì thì đều nói:
“Thiên Chúa là Chúa các đạo binh phán như thế” (x. Is 1,24; 3,15; 5,9; 10,24;
14,22-24; 17,3; 19,4; v. v…) Vì thế, dân Do Thái đã rất có lý khi nghĩ rằng tôn
giáo của mình do Thiên Chúa thiết lập ắt sẽ vĩnh cửu, và sẽ lan tràn khắp thế
giới. Nhưng lịch sử cho chúng ta thấy họ đã lầm. Do Thái giáo đã tàn lụi, và
được thay thế bằng Ki-tô giáo. Có thể nói, Do Thái giáo chính là tiền thân của
Ki-tô giáo.
Ki-tô
giáo hiện nay cũng đang tự hào là tôn giáo duy nhất do chính Thiên Chúa thiết
lập, là tôn giáo có giá trị hơn hết mọi tôn giáo trên thế giới, nên mọi Ki-tô
hữu đều tin tưởng nó sẽ tồn tại muôn đời, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng
nhiều khi các Giáo Hội Ki-tô giáo chỉ biết tự hào như thế mà quên đi niềm mong
ước của chính Thiên Chúa đối với mình. Liệu Thiên Chúa có phải than phiền về
Ki-tô giáo như đã than về Do Thái giáo: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của
tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?” Ki-tô
giáo đã hơn Do Thái giáo những gì?
Đức
Giê-su đến để thiết lập một tôn giáo mới dựa trên nền tảng tình yêu thương, và
luật của Ki-tô giáo là luật yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới
là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em” (Ga 13,34); “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm
13,8.10); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật
Đức Ki-tô” (Gl 6,2); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu
người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Luật
của Tân Ước mới hẳn so với Cựu Ước của Do Thái giáo, nhưng các Ki-tô hữu đã coi
trọng luật ấy đủ chưa? đã tập trung mọi cố gắng để thực hành luật ấy đúng mức
chưa? Hay Ki-tô giáo lại đi vào vết xe đã đổ của Do Thái giáo, là thượng tôn
nghi thức, quá chú trọng tới những lễ nghi và hình thức bên ngoài? Còn lề luật
chính yếu là sống yêu thương thì lại lãng quên? Có phải hiện nay hình thức của
Ki-tô giáo thì mới mẻ và khác hơn Do Thái giáo, nhưng tinh thần nệ luật, nệ
hình thức thì chẳng khác gì những người Do Thái ngày xưa? Đã tới lúc chúng ta
cần nghiêm túc tự hỏi: ngày nay, người ngoài nhìn vào cách sống của người Ki-tô
hữu, có thể nhận ra đạo của chúng ta là “đạo yêu thương” như thời Ki-tô giáo sơ
khai không? Ngày nay, lễ “bẻ bánh” có còn là một dấu chỉ của một sự chia sẻ có
thực trong đời sống giữa những người đến tham dự không, hay nó đã trở thành một
nghi thức thuần túy, cho dù đầy ý nghĩa nhưng không có gì là thực tế cho lắm?
Mỗi
Ki-tô hữu - nhất là những người có trách nhiệm hướng dẫn, lãnh đạo tôn giáo -
cần tự vấn: Thiên Chúa hay Đức Giê-su có hài lòng với tình trạng Ki-tô giáo
hiện nay không? Còn những người lãnh đạo tôn giáo cần tự vấn thêm: Tôi có giống
như những vị lãnh đạo Do Thái giáo xưa, chẳng những không thèm nghe mà còn sẵn
sàng bạc đãi hoặc bách hại những tiếng nói ngôn sứ vào thời đại của mình không?
Hay ít ra khi họ bị bách hại vì đã chu toàn chức năng ngôn sứ của họ, tôi đã im
lặng, làm ngơ, để mặc họ bị bách hại như thể tôi cũng đồng ý với sự bách hại
ấy?
Không
khéo Ki-tô giáo của chúng ta chẳng hơn gì Do Thái giáo, khiến Thiên Chúa cũng
sẽ phải đối xử với chúng ta như đã đối xử với dân Do Thái: “Nước Thiên Chúa,
Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho
Nước ấy sinh hoa lợi”!
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, Ki-tô giáo hiện nay thế nào, chính con - cũng như bất kỳ Ki-tô hữu nào -
đều có phần nào trách nhiệm. Xin cho con biết sống đạo Chúa Ki-tô đúng với với
tinh thần yêu thương của Ngài. Xin cho con rút ra được bài học lịch sử của dân
Do Thái để tránh được vết xe đã đổ.