SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN - A
1. Mến Chúa yêu người
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh
Matthêu cho thấy một bầu khí tranh chấp và đố kỵ của người Do Thái. Kẻ thì theo
nhóm biệt phái, người thì theo nhóm Sađốc. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng
khi đối thủ lâm nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội cuộc tranh chấp lan sang phạm
vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản, gồm 248 lệnh truyền và 365 lệnh cấm.
Những khoản nào là quan trọng nhất. Đó là một vấn đề nóng bỏng.
Tuỳ theo lập trường nghiêng về phụng vụ
hay xã hội, đền thờ hay đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ của
mình, biệt phái hay Sađốc, chống đối hay cộng tác với ngoại bang. Ai cũng muốn
tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Chúa Giêsu, bởi
vì lập trường của Ngài rất quan trọng, dân chúng sẽ tuỳ đó mà biểu lộ cảm tình
của mình với phe nào, thế nhưng tuyên bố lập trường của mình cũng là điều nguy
hiểm cho Ngài, bởi vì phe đối nghịch có thể dựa ào đó mà kết án Ngài.
Tuy nhiên, đó chỉ là những suy
tính của người ta. Đã nhiều lần họ gài bẫy Ngài. Nhưng chẳng có lần nào họ đã
thành công. Hôm nay cũng vậy. Được hỏi ý kiến về giới răn quan trọng nhất, Ngài
đã trả lời như hết mọi người Do Thái đạo đức: Ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết
lòng. Thế nhưng không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói tiếp: Giới răn thứ hai cũng
quan trọng như giới răn thứ nhất đó là ngươi phải thương yêu anh em như chính
mình ngươi. Ngài không đồng hoá hai việc mến Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn
khác nhau và vì thế không được xao lãng nhiệm vụ nào. Đó là nét độc đáo của
Chúa Giêsu.
Người ta vẫn nói phải mến Chúa và yêu
người, phải có thiên đạo và nhân đạo, nhưng bình thường người ta vẫn coi đó là
những nhiệm vụ xa rời nhau, không liên hệ gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa
trong nhà thờ và không thương người ở ngoài xã hội. Hoặc thương người ở ngoài
xã hội nhưng lại không mến Chúa ở trong nhà thờ. Hơn nữa, người ta coi việc
thương người chỉ là thứ yếu sánh với việc mến Chúa. Đối với Chúa Giêsu thì
khác. Phải mến Chúa cũng như yêu người. Ưu tiên là mến Chúa, nhưng đồng thời
cũng phải yêu người. Hay như thánh Gioan đã viết: Không thể có lòng mến Chúa, Đấng
vô hình, nếu không thương người. Và khi dạy phải yêu người như chính bản thân,
thì Chúa Giêsu không có ý bảo phải thương mình trước. Câu nói của Chúa Giêsu có
nghĩa là phải yêu người hết lòng cũng như phải kính mến Chúa hết lòng.
Cuối cùng một nét độc đáo khác nữa trong
câu trả lời của Chúa Giêsu là tất cả luật pháp và các tiên tri đều quy về sự mến
Chúa và yêu người. Như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể lời
giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa yêu người. Như thế vấn đề tranh chấp
đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng. Phe nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn
lề luật. Phe nào cũng đã lầm lạc vì đã không cọi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa
yêu người như nhau, cho nên đã làm mất quân bình, gây ra những lệch lạc trong đời
sống. Đức Kitô đã đến để mang lại ơn cứu độ. Ai đón nhận Ngài thì phải mến
Chúa. Ai đã mến Chúa thì cũng phải yêu người.
2. Mến Chúa
Có một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên
trầm trọng trong xã hội ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời
buổi kinh tế thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành
phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng. Người ta sống cách
nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau. Trong một chung
cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người
trở thành như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ chen
chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày một
thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng
giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là
phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn này?
Theo tôi nghĩ chúng ta không có một
phương thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến Chúa và yêu người. Hay như Chúa
Giêsu đã phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất là hãy kính mến
Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất,
đó là hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây không phải là hai
giới răn riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu
lộ và hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa. Có yêu người thì mới có thể mến
Chúa. Và ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể yêu người.
Từ đó chúng ta suy ra: nguyên nhân sâu
xa nhất tạo nên chứng bệnh cô đơn, chínhy là vì con người đã xa lìa Thiên Chúa.
Thực vậy, cùng với những thành quả của khoa học, con người đã muốn truất phế
Thiên Chúa, họ muốn nói lên như dân Do Thái ngày xưa: Chúng tôi không muốn nó
cai trị trên chúng tôi. Hẳn chúng ta còn nhớ khi phi thuyền Spoutnick được
phóng lên không gian và trở về địa cầu, phi hành gia Gargarine đã tuyên bố với
báo chí: Từ nay sẽ không còn ai dám nói rằng có một Thiên Chúa điều khiển trăng
sao nữa. Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ
xíu di chuyện trong một khoảng thời gian nào đó trên không trung, làm sao có thể
sánh ví với hàng triệu triệu vì sao quay cuồng trên bầu trời, không bằng một hạt
cát trong sa mạc, không bằng một giọt nữa giữa biển khơi. Chính vì thế,
Carnégie đã nói: Về phương diện khoa học kỹ thuật, loài người đã tiến được những
bước khá cao, nhưng về phương diện tinh thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm chân
trong một tình trạng ấu trĩ. Chúng ta có tiền nhiều, có áo tốt, có nhà cao, có
xe xịn…nhưng lại thiếu bồi dưỡng về tình thần vì con người thời nay đã mất niềm
tin vào Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như khí trời, thiếu nó chúng ta sẽ bị ngột
ngạt và căng thẳng. Không tin vào Thiên Chúa là nguồn mạch mọi tình thương,
chúng ta cũng không thể nào tin vào tình người một cách chân thành và bền bỉ.
Vì lòng yêu người chỉ là hoa trái của tình mến Chúa mà thôi.
Bởi đó, ngày nay hơn bao giờ hết, con
người phải quay trở về cùng Thiên Chúa, như lời bác học Von Braun đã tuyên bố:
Nhờ những hiểu biết về không gian, nhiều người ngày nay cho rằng chúng ta cần
phải tin có Thiên Chúa hơn cả những người sống trong thời trung cổ. Bởi đó, những
kẻ coi khoa học là chủ tể của con người, thì chỉ biểu lộ sự nông cạn, hẹp hòi của
mình mà thôi. Chính vì thế, Pascal đã nói: Khoa học nông cạn làm cho con người
xa lìa Thiên Chúa, nhưng khoa học khôn ngoan sẽ dẫn đưa con người tới gần Ngài.
Một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một
khi đã tới gần Ngài, chúng ta sẽ không còn cô đơn và tuyệt vọng, nhưng sẽ tràn
đầy niềm hy vọng như lời Thánh Vịnh 17 đã diễn tả: Dù có đi giữa bóng tối hãi
hùng của sự chết, tôi không còn lo sợ, vì Chúa ở cùng tôi. Hơn thế nữa, một khi
đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta mới tìm thấy được
cái nền tảng vững chắc, cũng như những giá trị siêu nhiên cho vệc yêu người. Thực
vậy, tại sao chúng ta lại phải yêu thương người khác? Vì có chung một Thiên
Chúa là Cha, nên chúng ta là anh em. Bởi đó phải yêu thương nhau. Ngoài ra những
hành động bác ái và yêu thương còn có một giá trị vĩnh cửu, bởi vì khi giúp đỡ
người khác là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy. Trong ngày phán xét, Ngài
sẽ tra hỏi chúng ta về vấn đề này, và rồi dựa vào đó mà ấn định số phận đời đời
của mỗi người chúng ta.
3. Giới răn tối thượng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi
613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật
là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng luật lệ như thế, việc tìm
cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện
là vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn nạn mà một người thông luật đặt ra với
Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng
nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.
Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng
giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình."
1. Giới răn yêu
thương, tuy hai mà một
Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến
Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn khác biệt, nhắm về hai đối tượng
khác nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa và điều răn yêu người quy về con
người.
Thực ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về
một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi những con người đang sống
chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là phụng
sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận
hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi Người nói: "điều răn thứ nhất là
ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và
hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải
yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22, 39).
Qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối
cùng", Chúa Giêsu đồng hoá giới răn yêu người với giới răn mến Chúa: những
ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu
nói là họ cho Người ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm
áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những người
phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho
Người trú ngụ... (Mt 25, 35-36) và những người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là
"những kẻ được Cha Ta chúc phúc" và được Người mời "đến thừa hưởng
Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25, 34).
Chúa Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng
khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính
Người. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới răn nầy không khác biệt
nhau, vì thực thi giới răn yêu người (giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới
răn mến Chúa (giới răn thứ nhất). Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới
răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai mà một.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh
Phao-lô tái khẳng định điều đó: "Ai yêu thương người (điều răn thứ hai)
thì đã chu toàn Lề Luật" (tức là đã giữ trọn tất cả các điều răn, kể cả điều
răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).
2. Giới răn yêu
thương là trung tâm của các giới răn khác
Hai giới răn nầy là trung tâm của mọi giới
răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng nầy;
đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế,
ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.
Thánh Phao-lô khẳng định như thế trong
thư gửi tín hữu Rô-ma: "Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại
tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như
các điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu
toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 9-10)
Và Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm
nay, cũng xác nhận như thế: "Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ
thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22, 40)
* * *
Xưa kia, đang khi quân binh Israel và
quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một
chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với
toàn chiến binh Israel: "Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây
giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm
gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng
bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao"
(I Samuen 17, 9-10)
Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân
Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng
một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y.
Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng
toàn thể quân binh Phi-li-tinh.
Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là:
nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã
giữ tròn các giới răn khác.
Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được
cái đầu.
Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm
được bộ chỉ huy.
Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân
giữ giới răn yêu người, vì "yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm
13, 10).
4. Tình yêu là lẽ sống – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn
Thuận từng nói với Bill Gate rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở
lại phía sau". Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: "Sự văn
minh đích thực là phục vụ sự sống". Thế nhưng, "những điều trông thấy
mà đau đớn lòng". Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá
đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu
nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền
thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp
trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng.
Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự
sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng
trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn
câu thơ:
Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi
Chỉ còn lương thực tăng giá thôi
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực
Chân lý chân giò một giá thôi!
Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch
đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử
yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng
ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một
xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng
ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng
ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu,
đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi
triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là "yêu mến tha nhân như chính
mình". Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có
tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại
thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể
nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt
lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu
nhân ái, bao dung và vị tha.
Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay
muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời
Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy
Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự
giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi "dám chết
cho người mình yêu". Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu
tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha.
Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người
ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta
sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.
Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt
thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi
riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa
vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm,
không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng
vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng
loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại
với nhau trong yêu thương và tha thứ.
Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa,
chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu
Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử
yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống
nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.
Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại
về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những
ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của
anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết
sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải
vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà
đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà
chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ,
hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh
quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt
là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho
người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người
như Thầy Giêsu.
Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn
lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.
5. Giới Răn Yêu Thương
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993
đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy
này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại,
môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm
chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi
mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại
Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày
càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả
bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không
thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người.
Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người
được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi
yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta
ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã
thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người.
Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại
ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người
mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật.
Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời
Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến
Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả
hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với
tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng
loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một
người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một
tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu
thương là cốt lõi, là linh hồn của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng
chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người
máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu,
vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là
Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại
ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy
trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta
ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Đạo là Yêu Thương.
6. Hai điều răn
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chúng ta thường ngại xét mình trước khi
xưng tội. Nếu xét mình sơ sài dựa trên Mười Điều Răn, có khi ta thấy mình chẳng
có tội gì nghiêm trọng: không trộm cắp, không tham lam, không giết người... Thật
ra xét mình không phải là làm bản tự kiểm trước một danh sách những luật cấm và
luật buộc, cho bằng là đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.
Tôi phải thành thật tự hỏi: Tôi có thực
sự yêu mến Thiên Chúa không? Tôi có thực sự yêu mến anh chị em tôi không? Tất cả
điều răn được tóm trong một động từ: yêu.
Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu,
vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Yêu là bước vào một đại dương mênh mông,
là dấn thân trên một con đường dài hun hút. Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình
yêu đủ. Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước, và mở ra những cánh cửa không ngờ. Giới
hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.
Chẳng có động từ nào bị hiểu sai cho bằng
động từ yêu. Báo chí phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa
hai cô cậu. Hành vi chiếm đoạt theo bản năng lại được gọi là yêu. Chúng ta cần
trả lại ý nghĩa cao đẹp cho động từ này. Yêu mến Thiên Chúa là điều răn số một.
Không phải chỉ dành cho Ngài phần lớn trái tim, Ngài đòi tất cả trái tim của
tôi, tất cả con người của tôi. Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Ai trong
chúng ta dám tự hào mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất?
Càng lúc tôi càng thấy Chúa bị mất chỗ
trong tim tôi. Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh tâm. Chúa Nhật là ngày tranh
thủ làm thêm. Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật chất làm đời sống thiêng
liêng bị sa sút. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém: yêu người thân cận
như chính mình. Chúng ta yêu bản thân mình biết chừng nào! Chúng ta chỉ muốn điều
tốt cho mình đến nỗi lắm khi làm điều xấu cho người khác. Cần coi tha nhân như
một cái tôi khác của mình. Họ cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến. Có
biết bao thiệt hại tôi đã gây cho anh em tôi. Thái độ sống của tôi đã làm khổ
bao người khác.
Hai điều răn trên không thể tách rời
nhau. Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân. Tình yêu tha nhân cần đặt
nền trên Thiên Chúa. Người Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ.
Ngoài chợ, họ gặp Chúa nơi anh em. Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
* Hai từ "Tình Yêu" đã bị lạm
dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải có những nét gì?
* Trong kinh nghiệm sống đức tin của bạn,
có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối
với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông
tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và
trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối
vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng
tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con
lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết nắm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
7. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật
gồm 613 điều răn. 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Giữa một rừng điều răn
như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu: “Điều răn nào trọng nhất trong Luật
Môsê?” (c. 36). Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema, kinh mà người
Do thái phải đọc mỗi ngày. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6,
5). Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39). “Ngươi phải yêu mến người
thân cận như chính mình” (Lv 19, 18). Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn
đó. Hai điều răn được gói trong một động từ yêu. Mọi điều cấm làm và mọi điều
buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ. Đối với người Do
thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần. Yêu mến Thiên Chúa
bằng tất cả trái tim của mình là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn,
mọi tình cảm. Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn
vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng
là điều rất khó. Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm. Yêu thương
và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ. Nhưng chúng ta cũng dễ coi
mình là trung tâm và qui tất cả về mình. Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu
sẻ chia và độc đoán, đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến
thân. Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ
yêu mến. Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng. Kitô hữu
chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình, mà còn được mời yêu mến
Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác, trên mọi của cải, trên những người ruột thịt,
và trên cả mạng sống. Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu, “Đấng
đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20), đến nỗi họ có thể tuyên xưng
như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.” Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân
như chính mình. Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35). Một
tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù, một tình yêu phục
vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng. Kitô hữu tự bản chất là người
biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu. Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa
tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên
Chúa. Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình
yêu.
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy
Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng! Bấy
giờ Chúa ở trong con mà con thì ở ngoài, con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài. Con
thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp. Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với
con mà con lại không ở với Chúa. Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa. Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá
tan sự điếc lác của con. Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con. Chúa đã
tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức, và giờ đây hối hả quay về với
Chúa. Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người. Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Thánh
Âu-Tinh)
8. Lý do của tình yêu
"Ngươi phải yêu
mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, và yêu người thân cận như chính mình".
Tác giả Lovasik trong quyển "Dụ
ngôn đời thường" của Rev. Frank Mihalie - SVD có kể câu chuyện về đại văn
hào người Nga Tolstoy như sau:
Nạn đói lan tràn lãnh thổ. Một người ăn
xin nơi góc phố tiến tới gần Tolstoy. Tolstoy dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng
không tìm được đồng nào. Thật lòng thương cảm, ông nói: "xin đừng giận
tôi, người anh em ạ, tôi không có đồng nào ở đây". Người ăn xin ngước mặt
đáp: "ông gọi tôi là người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi".
Vâng, yêu thương không nhất thiết phải
được đánh giá bằng những tài sản vật chất lớn lao mà hơn thế đó là lòng thương
cảm của chúng ta dành cho nhau. Nhưng đôi lúc bạn sẽ hỏi - sao phải yêu thương
người khác trong khi họ không có quan hệ thân thuộc nào với mình? Hay tại sao
phải yêu? Chẳng phải đó là một trong những thất tình sao? Giữa một xã hội kim
tiền này mà còn yêu hết lòng thì dễ bị thua thiệt lắm. Nghĩ như vậy quả là thiển
cận. Tôi sẽ cho bạn thấy có hai lý do để chúng ta phải yêu thương nhau như bài
học của đoạn Kinh Thánh hôm nay.
Thứ nhất, vì chúng ta
là con người. Tình yêu chỉ có duy nhất nơi con người.
Ở các loài động vật tất cả hoạt động của chúng là do bản năng. Hơn nữa, hành động
gọi là yêu thương của chúng chỉ xảy ra ở những thời điểm nào đó. Khi nhìn thấy
cảnh tượng gà mẹ ủ con mình dưới cánh rất mẫu tử ấy, nhưng chỉ một thời gian ngắn.
khi gà con đã đủ lông đủ cánh thì đường mẹ, mẹ đi, đường con, con đi. Các loài
khác thì cũng không có gì lạ hơn. Còn ở con người, tình yêu bao hàm nhiều góc độ
và ngữ cảnh. Tình yêu gia đình, dân tộc, quê hương, vợ chồng, anh em, bạn hữu...,
bao trùm lên tất cả các quan hệ tình cảm trên là tình yêu của con người dành
cho nhau. Yêu tới cùng, yêu mãnh liệt, yêu đến hy sinh bản thân cho đối tượng
yêu thương của mình. Đó là một tình yêu thật phát xuất từ khối óc có lý trí, biết
suy tư, chọn lựa, từ trái tim biết rung cảm. Khi con người không còn biết yêu
thương thì không còn là con người nữa. Chẳng vậy mà khi có ai đó làm chuyện bất
nhân người ta kết luận "nó mất hết tính người". Chỉ nơi con người
tình yêu mới được thực hiện phong phú nhất, đẹp nhất và trọn vẹn nhất. Cho nên,
không sống yêu thương tức là phủ nhận nhân tính của mình.
Thứ hai, chúng ta phải
yêu thương nhau vì "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1
Ga 4,7). Thiên Chúa đã yêu thương ta trước và tự trở nên gương mẫu của tình yêu
cho chúng ta. Ngài đã để máu và nước từ cạnh sườn mình đổ ra để nuôi dưỡng tình
yêu nơi trái tim con người, cũng như gội rửa hận thù nơi lương tâm nhân thế.
"Thật vậy, chính Đức Giêsu là bình an của chúng ta. Người đã hy sinh thân
mình để phá vỡ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Eph 2,14). Mong ước và hy vọng
duy nhất của Đức Giêsu không gì khác hơn là "các con hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương"(Ga15,12). Khi sống yêu thương tức là chúng ta thực
hiện chúc thư và nguyện ước ấy, là đáp trả lời mời gọi yêu thương của Ngài, là
hoạ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi trần gian, "với dấu này mà người ta sẽ
nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau"( Ga
13,35), là bày tỏ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa - là đường, là sự thật, và là sự
sống.
Tóm lại, yêu thương là một hoạt động tự
nhiên mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, và nơi tình yêu ấy ta còn thấy
đó là một huyền nhiệm. Bởi không ai có thể sống mà không yêu. Do vậy, khi sống
yêu thương chính là lúc ta bày tỏ rực rỡ nhất nhân tính và phẩm giá của một người
con Chúa - Đấng yêu thương.
9. Giới răn mến Chúa và yêu người
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm)
Được một luật sĩ hỏi đâu là giới răn trọng
nhất trong lề luật, Đức Giêsu trả lời: "Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên
Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình". Những lời nầy chúng ta đã biết đến từ nhỏ và được
trích ra ở đầu bản luật Thiên Chúa đã ban cho toàn thể dân Do Thái (xem Đnl
6,5).
Đức Giêsu nói đến "lòng" theo
nghĩa của Sách Thánh, như từ ngữ diễn tả thực tại sâu xa nhất của con người.
"Yêu mến Chúa hết lòng" nghĩa là hướng toàn thể con người mình và
hành động của mình về Thiên Chúa trong thái độ mến yêu.. Để giải thích rõ ràng
hơn, Tin Mừng nhắc đến "hết linh hồn", nghĩa là với tất cả sự sống;
"hết trí khôn" bao gồm tư tưởng và trí tuệ. Với những lời nầy, Tin Mừng
không để ý đến những khả năng khác nhau của con người, cho bằng nhấn mạnh điều
quan trọng duy nhất là yêu mến Chúa với toàn thể con người mình. Trong Sách
Thánh, yêu mến Thiên Chúa không bao giờ được coi chỉ là một tình cảm hay một thực
tại trừu tượng, mà có nghĩa là lắng nghe Chúa và đem thực hành lời Người dạy.
Khi trả lời cho vị kinh sư, Đức Giêsu tiếp
tục nói là điều răn thứ hai là: "yêu mến người thân cận như chính
mình". Điều răn ấy tóm tắt tất cả mọi điều răn khác. Như vậy, lòng yêu mến
Chúa không kéo ta ra khỏi thế gian nầy, không cô lập ta trong sự sùng bái riêng
tư. Hơn thế, lòng mến yêu ấy là nguồn liên tục và sức thúc đẩy ta yêu mến tất cả
mọi người không trừ ai.
Chúng ta có khả năng yêu thương người
khác như thế, chính vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên
Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban
cho chúng ta" (Rm 5,5). Do đó, lòng mến Chúa và yêu người ấy là bảo đảm
duy nhất để tạo nên một xã hội trong đó con người được tôn trọng thực sự. Thực
thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta, và chúng ta là anh em với nhau. Người
là nền tảng cho sự bình đẳng và phẩm giá của mỗi con người. Lấy đi nền tảng đó,
nhân loại sẽ trở thành kỳ thị chủng tộc, con người sẽ bị chà đạp, cách nầy hay
cách khác, nơi bản tính của mình; sẽ nẩy sinh sự oán ghét và chia rẽ thành người
trên kẻ dưới, kẻ giàu kẻ nghèo, da trắng da đen, đàn ông đàn bà, người tự do
người nô lệ, v.v... Trái lại, khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến
cha mẹ mình, vì Chúa muốn như vậy. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến bè bạn
hay những người cộng sự, bởi vì họ là những anh chị em Chúa đã đặt bên cạnh
chúng ta.
Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến
nghề nghiệp, công ăn việc làm của mình, bởi vì chúng là con đường mà Thiên Chúa
vì yêu thương đã chuẩn bị cho chúng ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu
mến việc học hành của mình, bởi vì chúng ta muốn chuẩn bị chu toàn dự định Chúa
dành cho đời ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến thể thao hoặc những lúc
nghỉ ngơi giải trí, bởi vì biết rằng Chúa muốn chúng ta chăm lo cho sức khỏe của
mình... Chỉ khi nào yêu mến như vậy, tâm hồn chúng ta mới không bị chia sẻ và
lòng yêu mến của chúng ta sẽ không nửa vời.
Qua bí tích Rửa Tội chúng ta được đón nhận
vào tình yêu Thiên Chúa. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta lại được tham dự vào
Mình Máu Thánh Đức Giêsu, tham dự vào tình yêu dâng hiến của Người. Được Thánh
Thể nuôi dưỡng, chúng ta có khả năng sống yêu thương như Chúa Giêsu dạy.
10. Mến Chúa và yêu người
Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại
đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại,
cho nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật,
giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248
điều phải làm và 365 điều phải tránh. Đồng thời có những điều nặng và những điều
nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu phạt đền tội, còn phạm những điều nặng, có thể
bị án tử hình. Các nhà thông luật thường tranh luận với nhau xem điều luật nào
quan trọng nhất.
Trước vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã
trả lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là
giới răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn
thứ nhất, đó là yãy yêu thương anh em như chính mình. Chúa đem điều luật yêu
người đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc trong những lời giảng
của Người.
Lời xác quyết của Chúa thật minh bạch.
Đi theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết:
Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh
Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn
lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình, đó là đỉnh cao của
sự thánh thiện và đó cũng là việc chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống trần
gian.
Nên thánh không phải là làm phép lạ, vì
có vị thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ nào cả. Nên thánh cũng không phải là
không phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng nề như thánh
Phaolô, thánh Augustinô. Nên thánh cũng không phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức
khuya dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực hiện được những hy sinh to lớn ấy là
điều đáng khen, đáng ca ngợi, nhưng không phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện.
Nên thánh cũng không hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu
nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức này thật tốt, song chỉ là những phương tiện
giúp chúng ta nên thánh chứ không phải là bản chất của sự thánh thiện.
Vì thế, sự thánh thiện cốt tại lòng mến
Chúa và yêu người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ bé, kín đáo, tầm thường đến đâu,
song được làm vì lòng mến Chúa và yêu người, thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho
chúng ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói: Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi
làm gì cũng được.
Rất tiếc có những người đã uổng công xây
căn nhà đạo đức thánh thiện của mình không đúng cách vì không có được lòng mến
Chúa yêu người làm nền tảng, cho nên không bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt
xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian dối mà thôi. Chúa không kể thời
gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi việc làm vất vả
hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình yêu, Người dùng
mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công trạng đời sống chúng ta. Bởi đó,
yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước mặt Thiên Chúa.
11. Trò chơi hòa bình
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người
Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi
lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:
- Này các cháu, các cháu đang chơi trò
gì thế?
Đám trẻ nhốn nháo trả lời:
- Chúng cháu chơi trò đánh nhau.
Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi
các em đến, ông ôn tồn giải thích:
- Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh
nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các
cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:
- Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa
bình một lần xem sao.
Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu
vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười
tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa
kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:
- Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao?
Chúng cháu không biết.
Thưa anh chị em, làm sao trẻ em biết
chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết
chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới,
đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên
Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?
Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải
quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết
người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng
chỉ một ít người biết sử dụng:
- Mục sư Luther King, người da đen, đã sử
dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được
đưng lên làm người như những người da trắng.
- Đức Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam
Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và Luther King.
- Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu
để những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được
sống và chết như những con người.
Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ
là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết
cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình.
Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã
đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách
ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và
yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới
mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng
nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều
luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi
một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải
làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu
người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước
đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả
cũng không thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).
Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ
chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật
hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt:
làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám
hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của
người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết
gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được,
chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh
em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng
yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu
tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về
Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả
năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong
Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm
giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay
già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một
thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra
chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở
tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).
Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa
thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với
Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến.
Đó là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu.
Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống
như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống
bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng
nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải
quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và
tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được
trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia
đình, xã hội và thế giới.
12. Luật yêu mến
Người Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại
có thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều
nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho
ta biết chỉ có một điều luật quan trọng: LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.
1) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh
hồn, hết trí khôn. Nghĩa là yêu mến hết khả năng, hết sức
lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp lý.
Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa
là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi
Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những
gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu
biết cũng đều yêu mến Chúa.
Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra
ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất
cả nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất
của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.
2) Yêu người thân cận như chính mình.
Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực
ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do sau:
Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của
một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại
trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại
trừ thì sẽ trở thành giả tạo.
Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng
tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến
Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu
thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ
không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến
Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu
chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh
em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật
cho các người: mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ
nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25-40).
Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai
điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật
mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan
hòa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí
khôn. Bạn thấy điều này có hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải yêu tha nhân?
3) Bạn có cảm nghiệm được niềm vui khi
ta yêu thương không?
4) Bạn nghĩ thế nào về một thế giới
trong đó chỉ có những người yêu thương nhau.
13. Yêu thương là truyền giáo
(Suy niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng)
"Ngươi hãy yêu mến
Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Và yêu
thương kẻ khác như chính mình ngươi".
Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy
ví dụ: bạn có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: "Con học
bài đi, con phãi siêng học". Sở dĩ bạn bảo con mình chịu khó học là vì nó
chưa chăm học. Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa
yêu Chúa và cũng chưa yêu người. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn.
Yêu như Chúa muốn đó là: "Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh
hồn, hết trí khốn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình".
Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả
linh hồn, cả trí khôn. Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất
của con người. Nếu thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một
cái xác. Nếu không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù
mang hình dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đần. Yêu Chúa bằng tất cả tấm
lòng, cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con
người là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ. Nhưng chỉ
có lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác
bổ túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa.
Chính Chúa Giêsu nói: "Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ
nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Yêu Chúa và
yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không
yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối.
Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp
đỡ người khác là bằng chứng chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa.
Tuần trước chúng ta cử hành ngày thế giới
truyền giáo. Nhưng tôi nghĩ, sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết
yêu thương. Lòng yêu thương anh em là phương thế truyền giáo hữu hiệu, vì nhân
loại luôn luôn cần đến tình yêu. Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của
một hành vi đạo đức nào đó, nên đạo Công giáo cũng là đạo của tình yêu. Không
thể nói với ai, rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu
thương. Đó là sự mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi. Nếu ta không biết yêu
thương thì cũng không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương
thật sự, tử tế, vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc
làm tốt đó, tự bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là truyền giáo
rồi.
Nhưng không thể lúc nào cũng có thể nói
về Chúa được. Lấy ví dụ: một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học nào
đó, chắc chắn thầy cô đó không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa được.
Nhưng điều mà người thầy hay cô đó có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của
mình như: vui vẻ với đồng nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò... Trong đời
sống hằng ngày, mọi người có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm
một cục đá trên đường bỏ vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các
cụ già không bị té. Hoặc là ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi
ra đường, ở nơi công cộng... tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ
thể, ai cũng làm được.
Với tất cả những phương thế thực hành vừa
đề nghị bên trên, không phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao?
Đó cũng không là phương thế truyền giáo hay sao? tin rằng bạn và tôi đều luôn
là những người cố gắng sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh
hay chị ấy sống tốt vì họ là người Công giáo.
14. Điều răn nào trọng nhất?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Điên rồ hay là đơn giản
Sau nhóm Xađốc, đến nhóm Pharisêu đặt
câu hỏi với Đức Giêsu cũng với ý định bắt bẻ Người. Trước câu hỏi được nêu lên
như một cái bẫy, Đức Giêsu đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ. Chỉ trong một
câu ngắn, Đức Giêsu đã rút gọn toàn bộ lề luật, đổng thời cho thấy tinh thần
cũng như nét phong phú của luật pháp.
Xưa kia, bộ luật Do-thái gồm những quy định
phức tạp, chặt chẽ với 613 điều -368 điều cấm và 245 điều phải làm, nay được Đức
Giêsu đơn giản hoá thành 2 điều, hay đúng hơn chỉ là một: "yêu mến Thiên
Chúa và người thân cận." Qua việc nối kết lòng yêu mến Thiên Chúa với tình
yêu thương đồng loại, Đức Giêsu đã tóm tắt toàn bộ Kinh Thánh, coi đó như giá
trị luân lý nền tảng hay quy tắc của đời sống. Khi tuyên bố điều răn thứ hai
cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng tình yêu
thương đồng loại có giá trị ngang hàng với lòng yêu mến Thiên Chúa.
Thế là từ nay, những khoản luật phức tạp,
những chi tiết khắt khe đã được đơn giản hoá và trở nên thật dễ dàng. Tất cả bộ
luật được thu tóm lại trong hai điều răn có liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Nói
cách khác, toàn bộ các điều răn khác được đặt nền trên hai điều răn này như là
những điều cơ bản không thể thiếu, đồng thời cũng hướng tới hai điều răn này
như là mục đích sau cùng, như tiêu chuẩn phán đoán. Tất cả những khoản luật đi
ngược với tinh thần của hai điều răn này đều trở thành vô giá trị.
Như vậy, Đức Giêsu mở rộng cánh cửa hướng
đến sự công chính. Luật pháp chỉ là phương tiện và chỉ có được ý nghĩa khi nó
diễn tả được điều cốt yếu là sự thánh thiện nội tâm, là đức tin sống động, là
tình yêu nổng nàn thúc đẩy mọi hoạt động.
Thế nhưng, chính tóm tắt có vẻ đơn giản
và dễ dàng này lại buộc những người theo Đức Kitô phải sống tích cực hơn và mỗi
ngày một hơn. Người ta sẽ không chỉ tuân thủ những chi tiết luật pháp, nhưng là
tình yêu mến. Mà lòng yêu mến không thể bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Đức
Giêsu không nói: "Hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bao nhiêu có thể",
nhưng Người đã trích dẫn luật Mô-sê: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi."Tại sao
Thiên Chúa lại đòi buộc con người phải yêu mến "hết lòng, hết linh hồn và
hết trí khôn"? Bản tính con người vốn yếu đuối, giới hạn và hay thay đỗi:
điều này Người quá biết. Tại sao Người lại yêu cầu con người phải vượt quá khả
năng của mình?
Thật ra, nếu đứng trên quan điểm sự khôn
ngoan loài người, thì Tin Mừng toàn là những đòi hỏi vô lý, điên rổ. Những ai
mong muốn tìm thấy trong Tin Mừng những câu châm ngôn hợp lý và dễ dàng, người ấy
sẽ thất vọng. Quan niệm loài người sao có thể chấp nhận nỗi "Bài giảng
trên núi", trong đó người nghèo được đề cao, người hèn kém được vào Nước
Thiên Chúa, còn những người được coi là đạo đức lại bị loại trừ? Lý luận của
con người làm sao có thể hiểu nỗi câu nói: "Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất,
còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ lấy được". (Mt 10,39)? Và
sau cùng, còn gì gây chướng kỳ hơn khi chứng kiến con người tự nhận là Đấng Cứu
độ, Đấng ban sự sống, lại chịu treo trên thập giá? Toàn là những chuyện điên rồ!
Nên nhớ rằng, Kitô giáo không phải là một
tôn giáo có thể lý luận được cách có hệ thống. Tinh thần Kitô giáo luôn hàm chứa
một khả năng gây bất ngờ, và cả khó khăn nữa. Kitô giáo không phải là một thứ
tôn giáo trong đó mọi sự được sắp xếp cách trật tự và hoàn hảo như một tài sản
được quản lý tốt. Trái lại, Kitô giáo luôn là một sự hướng tới: hướng tới vô
biên, tới Đấng mà "tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,
và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta."(Is 55,8). Đó
là một sự điên rồ, điên rồ của tình yêu và đó cũng là tình yêu, tình yêu đối với
Thiên Chúa và với đồng loại.
Từ "và" đến
"trong"
Vào thời Đức Kitô và cả ngày nay nữa, vẫn
có những trường phái tự cho rằng mình có quyền ưu tiên đưa ra giải thích đúng đắn
về chân lý. Họ cho rằng quan niệm của mình là có lý còn của người khác thì sai
lầm. Có lẽ con người ngày nay không cần quan tâm đến việc tìm hiểu những chi tiết
trong các cuộc tranh luận của người Do-thái. Thế nhưng, khi suy niệm lời giải
thích của Đức Giêsu, người ta sẽ thấy đòi hỏi luân lý được sáng tỏ và tìm ra được
nét thống nhất cho mọi hoạt động và suy nghĩ của mình. Phải yêu mến Thiên Chúa
"hay là" yêu mến người thân cận? Nên theo chủ trương chiều dọc
"hay là" chiều ngang? Đó là những câu hỏi con người thời nay thường
nêu lên. Với một số người, sự quan tâm đến những vấn đề cụ thể của con người có
thể gây nguy hại cho lòng tin vào Thiên Chúa. Với những người khác, thời giờ
dành cho Thiên Chúa có nguy cơ làm quên lãng người thân cận. Thật ra, ngày nay
cũng như ngày xưa, Đức Giêsu luôn mời gọi và bó buộc phải vượt ra khỏi những
song quan luận theo kiểu này. Chúng chỉ là những thứ mặt nạ che dấu thái độ từ
khước cũng như những nỗi sợ hãi của con người. Trả lời cho nhà thông luật về điều
răn trọng nhất, Đức Giêsu đã khẳng định đó là lòng yêu mến Thiên Chúa. Tuy vậy,
Người còn đưa ra, hay đúng hơn, còn nối kết tình yêu thương đồng loại với lòng
yêu mến Thiên Chúa, "cũng giống điều răn ấy".
Điều răn thứ hai này "cũng giống"
điều răn thứ nhất, tức là cả hai đều quan trọng. Nói cách khác, điều răn thứ
hai có bản chất và tầm quan trọng cũng "lớn" như điều răn thứ nhất. Dầu
vậy, giống nhau chứ không phải là đồng nhất: hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ
tự trước sau, không thể đổi qua đổi lại với nhau như thể yêu đồng loại cũng là
yêu mến Thiên Chúa, và yêu mến Thiên Chúa tức là yêu mến đồng loại: Thiên Chúa
luôn ở phía chân trời và luôn mời gọi con người tiến xa hơn; đồng loại là thực
tại gần gũi với những giới hạn cụ thể. Giáo huấn của Đức Giêsu có ý nhấn mạnh rằng
yêu mến đồng loại cũng có tính cách khẩn thiết như là yêu mến Thiên Chúa, và
không được xao lãng nhiệm vụ nào.
Do đó, không có vấn đề bên này hay bên
kia. Không được quyền nói "hay là", nhưng phải nói "và". Một
cách chính xác hơn: chỉ có thái độ mở ra với Thiên Chúa mới dẫn đến tình yêu
thương đồng loại cách đích thực; và chỉ có thái độ sẵn sàng với người khác mới
cho phép con người nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà không dối trá. Sau đó,
"và" sẽ biến thành "trong": con người yêu mến Thiên Chúa
"trong" người thân cận, và yêu mến người thân cận "trong"
Thiên Chúa. Huyền nhiệm và con người hành động không phải là kẻ thù của nhau,
nhưng là anh em của nhau.
Bài học phải thuộc
lòng
Bài Tin Mừng này con đã thuộc lòng con
biết rất rõ điều răn phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bắt nguồn từ một
tâm tình duy nhất. Thế nhưng, hình như bản Tin Mừng chỉ là một thứ kỷ niệm, tựa
những câu chuyện cổ tích thời thơ ấu, như một điều không có thực. Làm sao con
có thể yêu nỗi mình và cả người khác đang vắng mặt?
Không, con chỉ mới thuộc mặt chữ, con
quên rằng chính Thầy đang thì thầm trong hồn con, và đang thúc đẩy con ra khỏi
mình. Con đã quên rằng lề luật không phải là nhà tù, cũng không phải là một sự
sắp xếp. Trái lại, đó là một lời mời gọi hướng tới tình yêu, đó là lời kêu mời
hãy nhận ra rằng: bàn tay con được dựng nên để nắm lấy, và trái tim con được dựng
nên để thứ tha. Lắng nghe lời Thầy, con sẽ không cảm thấy gì khác hơn là con
đang mang trong mình một khát vọng vô biên. Con nghĩ rằng mình thuộc lòng bài
Tin Mừng, nhưng con đã không hiểu thấu Thầy là ai, cũng chẳng hiểu rõ các điều
răn. Thầy là tình yêu, và con đã quên mất - Thầy đã đến gặp con để con được
sinh ra, và cũng trở thành tình yêu. Thầy biết rõ con không hiểu về chính con,
cũng không hiểu về người khác, về Thiên Chúa. Chính vì vậy, Thầy đã đến trần
gian. Hãy đến và sống theo Thầy bấy giờ con sẽ thuộc và hiểu rõ về Tin Mừng.
15. Hàng ngàn giới răn?
Một lần nữa những người Pharisêu muốn
giăng bẫy Chúa Giêsu, kiểm tra giáo lý của Ngài, dồn Ngài vào chân tường, dẫn
Ngài vào trong sự rắc rối của hàng ngàn luật lệ. Người ta sắp thấy điều Ngài biết,
sắp thấy Ngài có dạy dỗ tốt điều cần phải dạy dỗ hay không.
Chúa Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy với một
sự tự do, một sự trong sáng và một sức mạnh sáng tạo làm cho những người
Pharisêu không nói được một lời nào. Ngài trích dẫn hai câu cổ điển: “Ngươi phải
yêu mến Thiên Chúa... Ngươi phải yêu thương anh em ngươi...”. Đây là câu trả lời
đơn giản của học trò giỏi, nhưng Ngài rút ra từ đó hai điều mới lạ.
Điều thứ nhất, Ngài đưa hai điều luật tới
gần nhau bằng cách cho hai điều luật đó có tầm quan trọng như nhau. Kể từ giây
phút này tình yêu thương anh em được nâng lên gần với tình yêu thương Thiên
Chúa và sẽ không rời ra nữa.
Điều thứ hai, Ngài làm cho viên ngọc duy
nhất nay sáng lên bằng cách để cho nó ngự trị trên toàn bộ những điều chúng ta
nghĩ và làm: tất cả đều tuỳ thuộc vào tình yêu. Việc kể ra nhiều những điều phải
làm hoặc không được làm, làm phát sinh hàng ngàn câu trả lời cho một câu hỏi:
tôi có thể yêu thương như thế nào?
Chúa Giêsu nói tất cả những gì chứa đựng
trong Kinh Thánh, lề luật và các tiên tri, và do đó tất cả những gì Thiên Chúa
chờ đợi nơi chúng ta, phát xuất từ hai điều răn gắn với nhau này. Những người
chẻ sợi tóc làm tư đã hỏi Ngài nay bị buộc quay về điều cốt lõi: “Hãy yêu
thương”.
Chúng ta cũng thế, chúng ta cảm thấy rằng
tuân giữ hoàn toàn hai giới răn lớn này là một cách thức triệt để, nhưng có
tính cách bó buộc đến nỗi chúng ta thích đi quanh co ở giữa hàng ngàn điều qui
định. Đàng khác, những qui định này là cần thiết, “yêu thương” thì quá mơ hồ,
phải hun đúc yêu thương bằng những bó buộc khác nhau. Tôi phải biết rằng tôi thật
sự yêu mến Thiên Chúa và anh em của tôi nếu tôi làm điều này điều kia.
Nhưng thế rồi nổi lên một nguy cơ muôn đời:
làm mất tác dụng sự bó buộc yêu thương bằng việc cứ nhắm mắt tuân thủ bó buộc
đó. Với ít nhiều ý thức chúng ta lý luận theo cách này: nếu tôi làm tất cả những
gì được yêu cầu thì đã yêu thương rồi đó. Không đâu. Điều đó chưa đúng, bởi vì
điểm xuất phát thì xấu. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng tất cả trước tiên tùy
thuộc vào dự kiến triệt để đó là yêu thương. Chúng ta đừng bao giờ bắt đầu bằng
hàng ngàn điều phải làm nhưng là bằng xác tín mà tất cả đều tuỳ thuộc vào đó:
tôi phải yêu thương.
Theo Tin Mừng, bí mật của cuộc sống là:
trước hết phải thực hành yêu thương điều gì đó một cách hoàn toàn vô điều kiện.
Thế rồi ý thức muốn yêu thương này sẽ dần dần hóa thân vào trong tất cả các biến
cố, các cuộc gặp gỡ và các sự tuân phục –nhưng không đắm chìm vào trong đó. Sẽ
là bất hạnh nếu lại rơi vào trong sự âu lo và sự nô lệ hàng ngàn giới răn, sau
khi đã nhận được từ Chúa điều răn ngắn nhất và tự do nhất trong số các điều răn
của cuộc sống: Tôi có yêu thương hay không?
16. Giới luật thứ nhất và trên hết – Lm. An Phong
Nếu tình cờ có ai hỏi: "Đối với bạn,
điều gì quan trọng nhất?"; chắc hẳn sẽ có rất nhiều câu trả lời. Có người
sẽ cho rằng đó là chu toàn trách nhiệm; vì ai sinh ra đời cũng đều lãnh nhận
trách nhiệm, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
Có người sẽ không ngần ngại trả lời: đó
là sống trong sạch; vì quả thật, theo nhà phân tâm học Freud, chúng ta chào đời
với đầy những ám ảnh về những cấm kỵ, những cám dỗ về điều răn thứ 6, tội dâm dục…
Người khác lại sẽ cho rằng đó là sự công
bằng. Bởi lẽ phải có công bằng trước đã, rồi mới có thể nói đến bác ái, tình
yêu. Một xã hội công bằng, đó đã là một điều tuyệt vời lắm rồi.
Và còn có thể có nhiều câu trả lời khác
nữa cho câu hỏi này; cũng như người Do Thái khi xưa đã tranh luận mãi về một giới
răn trọng nhất.
Đức Giêsu, Ngài tóm tắt điều quan trọng
nhất trong một giới luật: "Mến Chúa, yêu người". Tất cả những câu trả
lời khác đều tốt, nếu chúng thể hiện được lòng "mến Chúa yêu người";
và sẽ chẳng là gì nếu chúng không xuất phát từ lòng "mến Chúa yêu người".
Có thể chúng ta đã coi trọng chuyện "nhà thờ nhà thánh" hơn là quan
tâm đến một người hàng xóm đang gặp túng quẫn; có thể chúng ta giữ kỹ mọi lề luật,
nhưng lại so đo tính toán với Chúa từng ly từng tí… như thế thì còn đâu là
"mến Chúa yêu người" được.
Thái độ căn bản của tình yêu là cởi mở,
đón nhận. Mở lòng ra với Thiên Chúa và quảng đại đón nhận anh chị em. Mở lòng
ra với Chúa để chu toàn những luật lệ đòi buộc ta không làm như người nô lệ; quảng
đại đón nhận anh chị em để mối tuơng quan con người với nhau không bị đổ vỡ,
méo mó vì những chấp nhất, tỵ hiềm, ganh ghét.
Thánh Phaolô đã diễn tả tình yêu đó như
sau: "Đức Mến thì nhẫn nhục, hiền hậu; không ghen tương, không vênh vang,
không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận,
không nuôi hận thù, không mừng vui khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân
thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả"
(1Cr 13,4-7).
Chỉ có một điều quan trọng nhất là lòng
Mến; nhưng lòng Mến lại được thể hiện trong muôn vàn cách thức khác nhau.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu thương;
và vì tình yêu đó,
Chúa đã dám làm tất cả cho người Chúa
yêu.
Xin cho chúng con
cũng được tràn đầy tình yêu như Chúa.
Xin cho chúng con cũng dám vì yêu thương
mà tận tâm phục vụ anh chị em của con.
17. Mến Chúa yêu người
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa
Giêsu đã cho chúng ta thấy giới răn thứ nhất đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết
lòng. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu
thương anh em như chính mình vậy.
Tuy nhiên đọc lại Phúc âm, chúng ta có cảm
tưởng dường như Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh tới giới răn thứ hai. Ngài đã coi
việc yêu người là cách thức để biểu lộ tình mến Chúa. Thực vậy có lần Ngài đã
phán: Mỗi khi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất
bình với ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em mình trước
đã rồi mới tới mà dâng của lễ sau. Hơn nữa mỗi hành động bác ái yêu thương
chúng ta thực hiện cho người anh em là chúng ta thực hiện cho chính Chúa. Thế
nhưng đặc điểm của lòng yêu người là gì? Tôi xin thưa: đó là tinh thần phục vụ.
Phục vụ một cách nhưng không, một cách vô vị lợi, không cần đền ơn báo đáp,
không mưu cầu danh vọng địa vị hay được bù lỗ cách này cách khác. Chính Chúa
Giêsu đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ,
nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Tình yêu Ngài dành cho chúng ta thật cao cả, bởi vì Ngài đã hiến mạng sống Ngài
cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài
cũng phải sống tinh thần phục vụ như thế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi đã quỳ xuống
rửa chân cho các môn đệ, thì Ngài đã nói với các ông: Nếu Thầy đã rửa chân cho
các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Từ những điều vừa trình bày
chúng ta đi vào một vấn đề thời sự nóng bỏng trong giáo xứ, đó là vấn đề bầu
ban hành giáo. Khi thi hành chức vụ của ban hành giáo, thì một trật chúng ta thể
hiện tinh thần phục vụ đối với Chúa cũng như đối với người khác tại cộng đồng
giáo xứ. Trong những ngày qua, tôi rất xúc động vì có những bà mẹ, những bà vợ,
biết mình không thể ra ban hành giáo được, cho nên đã tích cực động viên chồng
con của mình. Một bà vợ thì nói: Tôi rất mừng khi thấy ông ra ứng cử, bởi vì
khi đã vào ban hành giáo, ông sẽ đạo đức hơn và chừa bỏ được những thói hư tật
xấu của mình. Một bà mẹ thì bảo: Mẹ cho con ăn học và mong con sẽ làm được một
cái gì lợi ích cho đời. Thế nhưng dưới một góc độ khác, chúng ta không khỏi lo
âu và băn khoăn, vì suốt hơn hai tháng cổ động mà hiện giờ, khu vực Thánh đường
Vô Nhiễm vẫn còn khiếm khuyết một ứng cử viên. Trong giáo xứ rất nhiều người hội
đủ điều kiện, có dư thiện chí và tinh thần phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh, vì lý
do này lý do khác, đã không thể ra được. Chúng ta hoàn toàn thông cảm với những
anh em có lý do chính đáng. Thế nhưng cũng có những người mạnh miệng tuyên bố,
nhưng rồi khi đến việc lại chẳng thấy đâu, cho nên sự thể có những tên gọi vừa
khôi hài lại vừa chua chát, chẳng hạn như: chánh lặn, chánh chuồn, chánh né…
Như thế xem ra phục vụ bằng mồm thì dễ hơn phục vụ bằng hành động, bằng việc
làm. Một trong những lý do thường được đưa ra để chuồn, để lặn, để né đó là bà
xã. Thực sự thì hiện nay, gia đình nào mà chẳng có những khó khăn, đã ra gánh
vác việc chung thì thế nào cũng phải chấp nhận hy sinh một phần công việc nhà.
Mà các bà thì vốn tham lam, muốn độc quyền, không muốn ông xã của mình bị chia
sẻ, bị hy sinh, cho nên đã ngáng chân, đã làm kỳ đà cản mũi, để ông xã đừng ra.
Bởi vì nếu ông xã mà ra, sợ ông ấy quá siêng năng việc chung mà bê trễ việc
riêng, nhất là những khi mùa màng dồn dập, cho nên khi có người đến vận động
thì tay chân dãy lên đành đạch và miệng thì chối bai bải. Hành động như thế, chứng
tỏ chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu trách nhiệm chung, cũng như thiếu
tin tưởng vào Chúa, bởi vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những kẻ phục vụ Ngài.
Bằng chứng cụ thể là rất nhiều vị chánh, vị phó, vị trùm, vị quản trong những
năm phục vụ giáo xứ, kinh tế gia đình vẫn không bị suy giảm, mà hơn nữa lại còn
tậu đất, sắm tivi cassette, mua máy bơm, máy suốt cũng như máy cày, như vậy cũng
vẫn ăn nên làm ra, cả về tiền bạc cũng như về con cháu.
Để kết luận tôi xin mượn lời kinh hoà
bình của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng
sự Chúa trong mọi người.
18. Yêu thương
Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong
lâu đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ
qua đêm, đã bị hoàng tử từ chối. Chẳng may, bà lão lại là một bà phù thủy. Để
phạt tội hoàng tử không có lòng thương người, bà đã biến chàng thành một con
mãnh thú, hình tượng xấu xí và hung dữ. Trước khi ra đi, bà cho con mãnh thú một
lời hứa sẽ biến trở lại thành hoàng tử nếu có ai thực sự yêu thương mãnh thú.
Trong ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở,
có một thiếu nữ xinh đẹp tên là Belle. Cô mồ côi mẹ, sống với cha già. Cha già
con mọn bị đám thợ săn thường xuyên quấy phá. Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn
thú, đi lạc vào lâu đài, bị mãnh thú bắt giữ. Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô
tìm được cha. Vì thương cha, cô chấp nhận đổi mạng, ở lại sống với con mãnh thú
để người cha được tự do ra về.
Về đến nhà, người cha đã kết hợp với bọn
thợ săn tìm cách giết con mãnh thú để cứu con gái. Trong khi đó cô gái bắt đầu
quen thân, trò chuyện và đem lòng yêu mến mãnh thú, tuy rất đau khổ phải xa
cách người cha. Còn mãnh thú vì yêu thương cô gái, không nỡ để cô sống trong
đau khổ, nên đã đồng ý thả cô về nhà với cha. Chiến trận ác liệt đã xảy ra giữa
bọn thợ săn và con mãnh thú. Đang khi giao chiến với bọn thợ săn, mãnh thú bị
thương nặng. Sau khi về thăm cha già, cô gái thương nhớ con mãnh thú và quyết định
trở lại tiếp cứu. Cô đến đúng khi mãnh thú bị thương, đang quằn quại trong đau
đớn. Cô năn nỉ: “Không! Xin đừng chết! Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm hôn
lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ hôn yêu thương đó, mãnh thú biến trở lại thành một hoàng
tử khôi ngô tuấn tú như trước. Đó là câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược trong
cuốn phim hoạt hình “The Beauty and the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”.
Câu chuyện trên nói lên sức mạnh cứu độ
của tình yêu. Tình yêu có khả năng giải thoát và biến đổi con người. Thật vậy!
Hầu hết những vấn đề rắc rối và thảm kịch xẩy ra trên thế giới đều do thiếu
tình thương. Rất nhiều phạm nhân đã gây nên tội ác chỉ vì không thể ban tặng
hay đón nhận tình yêu thương.
Điều mỗi con người đều khao khát, ước ao
và cần đến là tình yêu. Thánh Kinh dạy rằng,:Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu
là bản chất của Thiên Chúa. Và bởi con người được dựng nên theo hình ảnh của
Thiên Chúa, nên cũng luôn khát khao và tìm kiếm tình yêu. Dựa trên nhu cầu căn
bản này của con người, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho những
người Biệt phái biết điều răn duy nhất của đức ái, sự viên mãn của lề luật:
“Yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn…” Điều
răn thứ hai là:”Yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Câu chuyện được kể về một đôi vợ chồng tới
gặp cha sở và nói: “Thưa cha, chúng con sắp ly dị, nhưng chúng con muốn xin cha
cho chúng con biết ý kiến?” Cha sở suy nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi người chồng:
“Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương vợ con như Chúa Giêsu Kitô đã yêu
thương Hội Thánh. Con có thể thực hành được điều đó không?” Người chồng thưa:
“Thưa không. Con không nghĩ con giữ được điều đó”. Cha sở nói: “Vậy thì con hãy
bắt đầu ở mức độ thấp hơn vậy. Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương người
lân cận như yêu chính mình. Con có thể yêu thương vợ con một cách tối thiểu như
vậy được không?” Người chồng nói, “Thưa cha không. Điều này cũng còn quá cao!”
Một cách tuyệt vọng, sau cùng cha sở đành nói: “Thánh Kinh cũng dạy rằng, con
hãy yêu thương kẻ thù của con, thôi con hãy về nhà và bắt đầu từ đó đi!”
Nhóm Biệt phái, đa số gồm các luật sĩ,
chủ trương phải tuân giữ các luật lệ của Cựu Ước và cộng thêm khoảng 613 luật lệ
do truyền thống của các thầy Rabbi. Còn nhóm Sađđucêô chỉ tin vào các luật lệ
và các tiên tri mà thôi, không tin vào truyền thống của các thầy Rabbi. Câu hỏi
được đặt ra cho Chúa Giêsu: “Trong luật lệ, giới răn nào quan trọng nhất?” đã
được tranh cãi giữa những người Biệt phái và Sađđucêô. Âm mưu của nhóm người Biệt
phái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu vào những trường hợp xung khắc khó giải quyết giữa
các phe nhóm tôn giáo và chính trị để tiêu diệt Ngài. Tâm hồn họ mang nặng thù
hận và ích kỷ đang khi bề ngoài giả vờ bàn hỏi về những giới luật yêu thương!
Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau
một chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một
biến cố cảm động như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay
hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi
người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi
đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để
phô trương với bè bạn. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng
chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón
chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn
thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và ấm
áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết rằng
tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng tối
thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.
Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra
nhận xét rằng việc yêu thương một người khác là điều thử thách lớn nhất trong mọi
sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình.
Chính vì những đòi hỏi này nên có nhiều người đã chưa bao giờ yêu người khác một
cách thực sự. Hoặc có thể đã yêu, nhưng sau đó gặp đau khổ, họ đã tháo lui. Để
thực sự yêu thương một người khác ở mức độ sâu xa, cần phải có sức mạnh để tiến
tới việc chia sẻ chính cuộc sống của mình. Đó chính là tình yêu hướng về Thiên
Chúa và tha nhân được Chúa Giêsu đề cập đến.
19. Yêu thương
Có một bản tin “Phở nóng chiều mưa” của
tác giả Bút Bi. Câu chuyện sư sau: “Tiệm phở A đường Kỳ Đồng” chiều hôm kia mưa
như trút nước. Một ông già khoảng 70 tuổi, tay lần dò chiếc gậy, tay xách chiếc
gà men cũ kỹ lập cập bước vào quán, mua phở mang về. Lúc ông đang lóng ngóng lấy
tiền – gói trong hai ba lớp bịch ni lông – ra để trả, một trong hai thanh niên
đang ngồi ăn phở ở chiếc bàn ngoài cùng bảo là đã trả tiền phở cho ông rồi. Ông
già lãng tai ngớ ra không hiểu, người thanh niên vừa nói câu trên chỉ người bạn
đang cắm cúi ăn: “Thằng này trả chứ không phải cháu đâu”. Rồi anh nói thêm có lẽ
để câu chuyện được tự nhiên hơn: “Nó hỏi bác có con gái không?” Ông già dường
như vẫn còn chưa hết ngạc nhiên thật thà nói có. Người thanh niên kia bật cười,
bảo nói chơi đó bác ơi. Bút Bi tình cờ có mặt ở đó cũng bật cười. Mấy cô phục vụ
trong quán cũng cười ầm lên. Ông già hiểu ra, hoạt bát hẳn lên, nói vài câu vui
vẻ rồi chống gậy đi về.
Tò mò, Bút Bi nhìn hai người thanh niên.
Họ ăn mặc giản dị, mang dép, đi chiếc Cub đời cũ, trông có lẽ là những người
lao động lam lũ, và cử chỉ của họ thật dễ thương. Người già thường có cảm giác
bị bỏ rơi, thèm sự hỏi han, chăm sóc. (Ông già phải tự chống gậy đi mua phở dù
có con cái?). Chắc tối hôm ấy ông sẽ thấy vui lắm, chẳng những vậy có khi nó
còn trở thành một kỷ niệm của ông, để ông đi kể lại với bà con, chòm xóm. Còn
Bút Bi cũng thấy vui quá, bèn quyết định ăn luôn… hai tô phở!
Nghe xong câu chuyện “Phở nóng chiều
mưa” trên đây, chúng ta cảm thấy ấp áp lên tình con người. Một sự quan tâm tế
nhị, một lời thăm hỏi chân thành, một nghĩa cử yêu thương thầm kín, đã làm cho
mối quan hệ giữa người với người thân gần gũi hơn, thông cảm nhau hơn, và quí mến
nhau hơn.
Điều cốt lõi của Kitô giáo chính là yêu
thương. Giới răn lớn nhất của đạo cũng chỉ là Mến Chúa, yêu người. Đó là sứ điệp
mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Đức Giêsu trả lời cho người thông luật:
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết
trí khôn ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải
yêu người thân cận như chính mình”.
Người Kitô hữu, luôn mang trên mình cây
thập giá. Cây thập giá ấy có một ý nghĩa rất cao đẹp: Thanh dọc của cây thập
giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêu mến
Người với tất cả trái tim, với trọn vẹn con người. Thanh ngang của cây thập giá
muốn nói với người tín hữu, phải vươn đến với tất cả mọi người, để yêu thương họ
như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không
có thanh ngang, thì đâu phải là cây thập giá. Nếu có mến Chúa mà không có yêu
người, thì chưa phải là Kitô hữu. Cũng như đồng tiền luôn có hai mặt, thì người
Kitô hữu luôn phải sống trọn vẹn hai giới răn mến Chúa và yêu người mới đích
danh là Kitô hữu.
Có nhiều người nghĩ rằng Mến Chúa thì dễ
quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hàng ngày, năng tham dự các bí
tích. Và họ bằng lòng với mức độ ấy. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy
nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ hết, chúng
ta đã yêu được mấy chữ hết đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng,
yêu đại khái, yêu theo vụ mùa.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết lòng khi
chúng ta dám hy sinh thì giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các
giờ cầu nguyện, các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết linh hồn
khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa
và các giới răn của Người.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết trí khôn
khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương tâm, trước kẻ bách hại,
cho dù phải đe dọa đến cuộc sống và tính mạng.
Mến Chúa đã khó, yêu người lại càng khó
hơn. Vì người ta đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương. Với cái nhìn không thân thiện
của chúng ta sẽ có rất nhiều người dễ ghét và đáng ghét. Yêu người như Chúa dạy
là yêu như chính mình. Có ai lại ghét mình bao giờ. Trái lại, người ta thường
yêu mình quá độ.
Chúng ta chỉ có thể yêu người thân cận
như chính mình khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và
quyền lợi của người khác.
Chúng ta chỉ có thể yêu người thân cận
như chính mình khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau,
giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân.
Chúng ta chỉ có thể yêu người thân cận
như chính mình khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai
đang cần sự trợ giúp.
Mauriac viết: “Ngày nào bạn không còn thắp
sáng tình yêu, ngày đó nhiều người sẽ chết vì giá lạnh”.
20. Luật trọng đại nhất
Hôm nay Chúa Nhật 30 Thường Niên, Chúa
Giêsu và Mẹ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta một giới luật quan trọng nhất của
người tín hữu Kitô, đó là giới răn "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một
giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian,
Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi,
nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức
bất công, khỏi mọi độc tài kìm kẹp, cốt để đem lại cho con người được tự do, hầu
sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong
xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật.
Bởi thế, người ta đếm được 248 điều dạy phải làm và 365 điều buộc phải tránh.
‘Nhất cử nhất động’ con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật.
Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không
biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi
không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào
những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng
cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy,
chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật
sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là
thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại
đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.
Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài đã đặt lại nền
tảng sự công chính, đem đến sự sống đời đời trên tình yêu thương. Ngài đã phản
đối những lề luật chẻ cọng tóc ra làm tư đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người,
chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một
giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên
Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn
thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi
hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy
làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị
Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng
cho đời sống con người chúng ta.
Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết
Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên
qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha
chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi
làm một việc gì không cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép
cái kia không?
Nếu có cấm thì cố tìm xem trong các lời
cấm đó có câu nào, tiếng nào để có thể tìm ra một kẽ hở để lánh qua không?
Nhưng một người con ngoan bao giờ cũng tự hỏi: "Tôi làm cái này, cha mẹ
tôi có vui không? Và tôi chỉ thích làm cho cha mẹ tôi hài lòng mà thôi ".
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy
của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm
gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng
cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật
lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy
người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều
răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó
là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối
liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích
đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng
ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở
và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai
có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi.
Tôi còn nhớ trong những năm chiến tranh ở
Việt Nam,
một đêm nọ họ đạo tôi bị pháo kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ
và thăm những người lớn tuổi để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ
hãi. Tôi ghé thăm một bà đạo đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày
nào hết; Chúa Nhật có hai lễ bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi
ghé vào thăm bà, bà nói với tôi rằng: "Thưa cha, thật Chúa thương con vô
cùng, vì đêm rồi khi họ pháo kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức
và Chúa đã nhận lời con rõ ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo
kích đều rơi ở xóm trên hết". Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chúa
mà nhận lời bà kiểu đó, thì chết mẹ người ta hết rồi".
Vậy khi chúng ta chỉ mến Chúa mà quên
yêu người thì cũng lố bịch và buồn cười như câu chuyện của bà già trên vậy
thôi. Tình yêu đối với tha nhân phải là sự biểu lộ ra bên ngoài của tình yêu đối
với Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa hoàn thiện hoá đối với tha nhân,
không thể tách rời hai tình yêu đó ra khỏi đời sống đạo của mình được.
Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự,
tự nhiên chúng ta cảm thấy yêu mến tất cả anh em đồng loại của mình, và khi
chúng ta yêu mến anh em đồng loại của mình đến nơi, đến chốn với tất cả lòng
bác ái vị tha, tự nhiên tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ
kỹ hai điều này: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ
nói dối. Còn ai bảo mình yêu người mà không mến Chúa thì là sai lầm".
Xin Chúa cho tất cả chúng ta được mến
Chúa hết tâm hồn, biết yêu thương anh em mình như chính mình vậy, để cho danh
Chúa được cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
21. Lạy Chúa, xin giúp con yêu mến Chúa
Có lẽ các bạn đã nghe bài thơ “Cây cối”
kết thúc với những lời “Những bài thơ được làm do những người ngốc như tôi,
nhưng chỉ Thiên Chúa có thể tạo dựng được một cây”. Tác giả của bài thơ đó theo
đạo công giáo lúc 27 tuổi. Ông là một văn sĩ nhạy cảm, cởi mở và đơn sơ, lấy những
vật thông thường như thảo mộc và nói lên vẻ đẹp của chúng. Ong tòng quân vào thời
thế chiến thứ nhất và đã bị giết đi khi thi hành nghĩa vụ vào tuổi 32, để lại
người vợ và gia đình. Tinh thần tôn giáo sâu sắc của Klmer đạt tới sung mãn
trong đức tin công giáo. Ông yêu mến và sống đức tin ấy. Những bức thư ông gửi
cho vợ, cũng là một thi sĩ, cho các con và bạn hữu đầy tràn những hiểu biết
thiêng liêng. Trong một bức thư ông viết có một cái gì rất gần với Tin Mừng hôm
nay: “Hãy cầu nguyện cho tôi được yêu mến Chúa hơn. Đối với tôi, nếu tôi có thể
yêu mến Chúa mãnh liệt hơn, kiên trì hơn mà không sao nhãng thì thật không có
gì khác đáng kể... Tôi đạt được niềm tin do cầu xin ơn ấy. Tôi hy vọng đạt được
lòng yêu mến cũng bằng cách đó”.
Bao nhiêu người trong chúng ta đã xin
Chúa giúp chúng ta yêu mến Ngài? Yêu mến là một hồng ân do chính Thiên Chúa. Có
nhiều người nghĩ lầm rằng chúng ta có thể tiến triển trong lòng yêu mến Chúa do
những nỗ lực của chính mình, rằng hoàn toàn tùy thuộc ở cách chúng ta học biết
yêu mến Thiên Chúa. Chắc chắn là chúng ta cần làm mọi sự có thể để thực thi lệnh
truyền Chúa Kitô: “Hãy kính mến Thiên Chúa là Chúa con”. Nhưng trên hết và vượt
mọi nỗ lực của chúng ta, hồng ân này sẽ được ban cho chúng ta khi chúng ta cầu
xin cùng cha chúng ta trên trời.
Chúng ta muốn ám chỉ điều gì khi nói
“Yêu mến Chúa?” Đây là định nghĩa có giá trị giúp ta hiểu. Yêu mến Chúa nghĩa
là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là: “Con hãy
ao ước làm vui lòng Chúa”. Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo
cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể
ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha
nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo
cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: ai yêu mến Chúa
thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng
giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
Bạn đến tham dự Thánh lễ bởi vì Thiên
Chúa được vui lòng khi bạn tôn thờ Ngài. Bạn năng rước lễ bởi vì Thiên Chúa muốn
ở với bạn. Bạn cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn thưa chuyện với
Ngài. Bạn tôn kính danh thánh Chúa bởi vì điều đó làm viu lòng Ngài. Bạn thảo
kính cha mẹ bởi điều đó là vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng sức khỏe và đời sống của
tha nhân bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng năng lực của phái tính
vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng quyền lợi của tha nhân đối với của
cải của họ, danh thơm tiếng tốt, vợ con họ, bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa.
Thưc hiện những điều này là yêu mến
Thiên Chúa. Và để thực hành những điều này, chúng ta cần đến sự trợ giúp của
Thiên Chúa, chúng ta phải xin Ngài giúp đỡ như Kilmer đã làm, như các thánh đã
làm. Bạn hãy cầu xin như trong lời nguyện nhập lễ: “Xin cho chúng con được thêm
lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy”.
Lạy Chúa, con muốn làm vui lòng Chúa.
Xin Chúa giúp con làm vui lòng Chúa
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
22. Điều răn trọng nhất - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo tinh thần của Đức Giêsu, thì
trong hai điều răn quan trọng nhất ấy, điều răn nào quan trọng hơn? Phải ưu
tiên sống điều răn nào?
2. Tại sao thánh Phao-lô tóm toàn bộ lề
luật vào một điều răn duy nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm
13,8)? Ngài bỏ điều răn yêu Chúa sao?
3. Nếu bạn là một người cha đông con, đồng
thời là người cha tốt lành không chút vị kỷ, bạn muốn con cái yêu thương mình bằng
cách nào?
CHIA SẺ
1. Hai điều răn trọng
nhất của Do Thái giáo và Kitô giáo
Người khôn ngoan thì trong mọi lãnh vực
luôn luôn phân biệt điều chính và điều phụ, điều cốt lõi và điều «bì phu», điều
cần thiết và điều ích lợi, điều quan trọng và điều không quan trọng. Phân biệt
như thế không phải để chỉ làm điều chính và bỏ điều phụ, mà để khi không thể
làm được cả hai, thì phải ưu tiên cho điều chính. Vì điều chính là yếu tố quyết
định thành công, không thực hiện nó thì chắc chắn sẽ thất bại. Còn điều phụ, nếu
làm được thì rất tốt, rất ích lợi, có thể làm cho sự thành công rực rỡ hơn,
nhưng không làm được thì cũng vẫn có thể thành công.
Trong việc giữ đạo và nên thánh, chúng
ta cũng cần biết điều nào là cốt tủy, là quan trọng nhất; nếu không giữ điều
này thì coi như chưa phải là giữ đạo, và không thể nên thánh, cho dù có giữ những
điều phụ thuộc một cách thật hoàn hảo. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết,
giữa biết bao giới răn, thì giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.
Đó là cốt tủy của lề luật: «Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc
vào hai điều răn ấy». Nếu giữ đạo mà không phân biệt điều nào chính điều nào phụ,
thì chúng ta dễ giữ đạo theo «kiểu Pha-ri-siêu» đã bị Đức Giêsu tố cáo: «Các
người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng
nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23); «Các
người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà» (23,24). Hướng dẫn người khác giữ
đạo và nên thánh mà không phân biệt chính phụ, thì dễ trở thành «những kẻ dẫn
đường mù quáng» (23,16). Do đó, bài Tin Mừng hôm nay có tầm quan trọng đặc biệt
cho mọi Kitô hữu muốn giữ đạo và nên thánh.
2. Hai điều răn tóm lại
thành một điều răn: «yêu thương»
Cũng trong chiều hướng tìm cái chính yếu,
ta có thể tiếp tục đặt vấn đề: trong hai điều răn ấy, điều răn nào quan trọng,
chính yếu hơn?
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt,
có vẻ là hai giới răn khác nhau, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả khác
nhau của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là
«yêu», đối tượng của động từ «yêu» này có vẻ là hai đối tượng khác biệt nhau:
tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế và thực hành thì
dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy
«tuy hai mà một», tương tự như hai trang của cùng một tờ giấy: tuy là hai mặt
khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất.
Thật vậy, rất nhiều lời trong Thánh Kinh
cố tình đồng hóa Thiên Chúa với tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ thể nhất là trong đoạn
nói về cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25,31-46), Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài
với tha nhân, đặc biệt những người đau khổ, nhỏ bé, bị khinh thường, áp bức:
«Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh
em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta», và «mỗi lần các
ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi
đã không làm cho chính Ta».
Tại sao thế? Vì con người là «hình ảnh của
Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6). Có ai yêu một người mà lại không yêu bức ảnh của
người ấy không? Ta thấy những cặp tình nhân, khi không có mặt nhau, thường hôn
lên ảnh của nhau. Hơn thế nữa, con người là con cái của Thiên Chúa: ngay khi được
tạo dựng, con người đã được Thiên Chúa yêu thương và nâng lên hàng con cái Ngài
(x. Kn 5,5; Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,16). Và Ngài yêu quí con người đến mức,
sau khi họ sa ngã, Ngài đã cho Con Độc Nhất của Ngài xuống trần, chịu đau khổ
và chết để cứu chuộc họ (x. Ga 13,1; Rm 5,6-8; 14,15b; 1Cr 15,3; 2Cr 5,15; 1Tx
5,10; 1Pr 3,18). Do đó, ai yêu Thiên Chúa, tất nhiên cũng phải yêu con cái của
Ngài, những người mà Ngài hết mực yêu thương: «ai yêu mến Đấng sinh thành, thì
cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra» (1Ga 5,1).
Như vậy, tha nhân bên cạnh và chung
quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất của chính
Thiên Chúa. Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ
chính là không yêu Ngài. Người Kitô hữu có đức tin đích thực phải nhìn thấy
chính Thiên Chúa ở nơi những người mình gặp hằng ngày, và yêu Ngài ở nơi họ.
Không thể yêu Ngài ở nơi một ai khác chính đáng hơn nơi tha nhân. Chính vì thế,
thánh Gio-an mới nói: «Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại
ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em
mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga
4,20). Do đó, «ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình»
(4,21).
Quả thật, không phải là phi lý mà thánh
Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật không còn vào hai giới răn, mà
vào một giới răn duy nhất: «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh
em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2); «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật»
(Rm 13,8); «Các điều răn đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận
như chính mình. (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (13,9-10); «Luật Kinh
Thánh được đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu người thân cận như chính
mình"» (Gc 2,8). Không những ta phải yêu thương những người chung quanh
mình, hy sinh cho họ, mà còn phải làm sao để họ cũng sống yêu thương và thúc đẩy
nhau sống yêu thương nữa: «Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này
thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt» (Dt 10,24).
3. Thực hiện việc yêu
Thiên Chúa bằng việc yêu tha nhân
Để dễ hiểu những điều trên, ta hãy xét
trường hợp của một người cha rất giàu có, rất khỏe mạnh, không thiếu thứ gì,
cũng không cần thứ gì cả. Người cha ấy có một đàn con đông đảo, nhưng vì lỗi của
chúng nên chúng trở nên nghèo nàn, đau khổ, thiếu thốn. Nguyên nhân gây nên
tình trạng đau khổ ấy là chúng không biết yêu thương. Người cha ấy đã tìm đủ
cách để đàn con hạnh phúc hơn, bằng cách giáo dục để chúng có nhiều tình thương
hơn, vì một khi chúng biết yêu thương thì tất nhiên và tự nhiên hạnh phúc sẽ đến
với chúng. Thử hỏi người cha ấy mong mỏi gì nơi đàn con? Chắc chắn là mong
chúng yêu thương nhau (x. Ga 13,34-35).
Có một đứa con kia mong cha ban cho mình
của này vật nọ, nên chỉ biết nghĩ đến cha, mong hầu hạ cha, lo cho cha từng
chút, đang khi cha đã quá đầy đủ, chẳng cần ai lo cho mình một thứ gì. Ngược lại,
đối với những anh em ruột thịt bên cạnh mình đang đau khổ và thiếu thốn, đang cần
được chăm nom săn sóc, thì người ấy chẳng thèm đoái hoài đến. Thử hỏi người cha
ấy có hài lòng về cách xử sự của người con ấy không? Cách xử sự như thế có hợp
lý không? Nếu ta là người cha ấy, ta sẽ nghĩ gì về đứa con ấy, ta muốn nó xử sự
thế nào?
Nếu ta là người cha ấy, chắc chắn điều
ta mong mỏi nhất là thấy con cái mình yêu thương nhau, lo cho nhau, hy sinh cho
nhau, và hễ chúng làm được điều ấy, thì ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương
của chúng đối với nhau sẽ làm cho chúng hạnh phúc, là điều ta mong muốn nhất.
Ta nghĩ rằng chính những đứa biết yêu thương anh em mình một cách vô vị lợi mới
là những đứa con hiếu thảo, vì chúng có tình thương đích thực. Vì nếu anh em
chúng nghèo khó và khó thương mà chúng còn thương được, ắt chúng phải thương
yêu cha chúng hơn nhiều. Còn những đứa chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên lo
chăm chút cho cha đang khi cha chẳng cần điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến anh em
mình, thì tình thương của chúng đối với cha rất đáng nghi ngờ. Có thể chúng chỉ
yêu bản thân chúng mà thôi, còn việc chúng chăm chút đến cha có thể chỉ là một
chiến thuật cầu lợi theo sự khôn ngoan ích kỷ của chúng.
Minh họa trên cho thấy chúng ta phải yêu
mến Thiên Chúa bằng cách nào. Có thể nói điều răn quan trọng nhất chính là «yêu
mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn». Nhưng phải thể hiện
tình yêu ấy thế nào cho phù hợp với ý của Thiên Chúa? Qua giáo huấn của Đức
Giêsu, ta thấy cách tốt nhất để thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa
chính là thực hiện điều răn thứ hai: «yêu người thân cận như chính mình». Đức
Giêsu đã làm gương về điều ấy. Ngài chết trên thập giá vì yêu thương con người,
đồng loại của Ngài (với tư cách Ngài là một con người), nhưng cái chết ấy chính
là lễ hy sinh để thờ phượng Thiên Chúa được Thiên Chúa đánh giá cao nhất. Vậy
cách thờ phượng Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa tốt nhất chính là yêu thương những
người người chung quanh mình, những người mình gặp hằng ngày, và hy sinh bản
thân mình cho họ.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: «Cha là
Thiên Chúa, Cha không cần và không thiếu một thứ gì. Vậy thì con yêu Cha cách
nào đây? Nếu con muốn yêu Cha cách thực tế, con hãy yêu Cha nơi những người sống
chung quanh con, họ chính là hiện thân của Cha ở bên cạnh con. Con yêu họ,
chính là con yêu Cha, và đó là cách tốt nhất để con tỏ lòng hiếu thảo đối với
Cha».
23. "Ngừng lại!"
Để làm cho mọi người chú ý, một nhà giảng
thuyết thường hay bày ra nhiều kiểu cách có tính khôi hài trong khi ông giảng.
Một lần kia, khi bắt đầu đọc kinh Lạy Cha, ông đọc to hai chữ đầu "Lạy
Cha" rồi bất ngờ ông la to "Ngừng lại". Ngay lập tức ông vào bài
giảng của ông. Điều ông làm đó gây cho dân chúng cảm thấy xấu hổ khi họ đọc tiếp
kinh Lạy Cha, vì họ không hiểu ý nghĩa của nó.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng có đoạn
mà chúng ta không nên để cho nó thoáng qua khi nghe, nhưng chúng ta phải tìm hiểu
thâm sâu về ý nghĩa của nó. Câu Phúc Âm đó như sau: "Ngươi phải yêu mến
Thiên Chúa ngươi." Chúng ta hãy ngừng tại đây để suy nghĩ. Giới luật này
có ý ám chỉ về điều gì? Làm thế nào để chúng ta có thể bày tỏ lòng chúng ta yêu
mến Thiên Chúa? Chúng ta đối thoại với Chúa qua việc chúng ta cầu nguyện. Chúng
ta tôn thờ Chúa hiện diện nơi mỗi người chúng ta và chúng ta cám tạ Chúa vì
Ngài thương yêu chúng ta. Chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài ban sự sống cho chúng ta
và tất cả mọi sự mà chúng ta đang hưởng dùng tại cõi đời này. Chúng ta cảm tạ
Chúa vì qua Chúa Giêsu chúng ta biết được rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng
ta và còn ban nhiều ơn lành cho chúng ta khi chúng ta còn sống. Chúng ta có thể
nói" Cám tạ Chúa, Cám tạ Chúa" triệu triệu lần nhưng chúng ta vẫn
chưa hiểu ý nghĩ của nó ám chỉ về điều gì thì có ích gì cho chúng ta.
Giới luật mến Chúa mà chúng ta không thể
hiểu thấu được vì chúng ta còn hay lỗi phạm đến giới luật "yêu mến kẻ
khác." Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu được hỏi "Giới luật nào
cao trọng nhất?" Ngài dùng một câu trong Cựu Ứơc để trả lời cho chúng ta.
Thứ nhất, "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi," thứ hai, "Ngươi
phải yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi." Chúa Giêsu muốn chúng ta phải
hiểu cao sâu hơn nữa về giới luật tình yêu trong mọi khía cạnh. Giới luật yêu mến
Chúa và yêu mến kẻ khác không thể nào tách rời nhau được. Chúng ta không thể
nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng đồng thời lại ghét anh em mình.
Chúa Giêsu phán: "Ta ban cho các
ngươi giới luật mới... Hãy yêu mến kẻ khác như Thầy đã yêu thương các con. Nếu
các con yêu thương nhau, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy"
(Jn 14:34-35).
Chúng ta hãy bày tỏ lòng yêu mến Chúa
tha thiết của chúng ta qua việc chúng ta yêu thương tha nhân. Nếu sự quan tâm của
chúng ta nơi tha nhân quá nông cạn thì việc chúng ta yêu mến Chúa cũng nông cạn
như vậy. Việc đến nhà thờ chỉ có ý nghĩa khi chúng ta thay đổi lối nhìn của
chúng ta đối với tha nhân.
Một nhóm linh mục tu sĩ đã mời một nhà
quảng cáo thật nổi tiếng đến để hướng dẫn họ biết làm cách nào để cho cộng đoàn
của họ được tăng triển và mọi người trong cộng đoàn sống hăng hái hơn. Họ hy vọng
có thể đạt được nhiều kết quả nơi vị thuyết trình này. Nhưng nhà thuyết trình
này đã làm cho họ trở nên bỡ ngỡ giống như nhà giảng thuyết trong câu truyện
trên. Ông ta không một lời chào hỏi hoặc giới thiệu. Ông ta nhập đề vào buổi
thuyết trình với một câu như sau: "Nếu Thiên Chúa đã quên các bạn thì một
người hèn kém như tôi thì có thể làm gì cho các bạn được đây? Các bạn có biết rằng
sức mạnh nào đã làm cho các môn đệ Chúa Giêsu trở nên bạo dạn và thay đổi cả
Tây phương như vậy không? Đó chính là sức mạnh của Đức tin và phép lạ."
Sau đó ông ta kết thúc bài thuyết trình của ông ta như sau: "Bởi vì các bạn
không còn niềm tin Chúa nơi các bạn nữa, các bạn đã tìm kiếm những sự khôn
ngoan thầm kín để thay vào niềm tin đó. Khi các bạn làm như vậy thì các bạn đã
tự đưa mình vào hố sâu không lối ra." Quả thật như vậy, trong đời sống mỗi
người chúng ta ai cũng tìm cách nào đó để cho những sự khôn ngoan thế tục làm
lu mờ niềm tin trong tâm hồn chúng ta. Do đó chúng ta khó lòng đáp trả tiếng
nói của Đức tin, vì lòng tin của chúng ta về giới luật yêu thương của Chúa
Giêsu đã không còn nơi chúng ta. Chúa Giêsu phán: Chúng ta sẽ được nhận biết
chúng ta là con Thiên Chúa qua việc chúng ta thương yêu kẻ khác, nhưng chúng ta
đã không chấp nhận điều đó. Chúng ta muốn yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta lại
oán hận kẻ khác. Điều đó không thể nào xẩy ra được.
Chúng ta hãy ngừng lại, suy nghĩ và kiểm
điểm cõi lòng nơi mỗi người chúng ta xem coi chúng ta đã hiểu được ý nghĩa thật
sự về lòng yêu mến Chúa của chúng ta như thế nào. Chúng ta chân nhận rằng yêu mến
Thiên Chúa và yêu thương tha nhân là hai giới luật không bao giờ tách rời ra được.
24. Điều răn trọng nhất – Lm PX. Vũ Phan Long
Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên
Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình
yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính
bên trong và đời sống bên ngoài.
1.- Ngữ cảnh
Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn
văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của
Đức Giêsu với các đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách
gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn
đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm
Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết,
là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người
Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt
ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu
cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính
Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường
được người Do Thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.
Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một
cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do Thái giáo; vị này hẳn
là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta
không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản
văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử”
Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ
lại (22,34);
2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục
tiêu và nội dung (22,35-36);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).
3.- Vài điểm chú giải
- Điều răn nào là điều
răn trọng nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang đi tìm một
nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp
với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia
sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4).
Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk iii).
- yêu mến
(37): Động từ Híp-ri ’âhav có một loạt ý nghĩa, từ tình yêu tính dục đến tình
yêu đới với người trong gia đình, đối với bạn bè, sự trung thành trong đời sống
chính trị đến tình yêu đối với Thiên Chúa. Theo cách giải thích của người Do
Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được diễn tả trước tiên bằng những
hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến Thiên Chúa là hy sinh mạng sống
vì các điều răn của Người.
- hết lòng, hết linh
hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học Híp-ri, “trái tim”
(lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con
người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo
ngôn ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức
lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ
này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn,
huy động tất cả con người, thậm chí phải chết.
- yêu người thân cận
(39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18 là như sau: Đây là những điều khoản luân lý căn
bản của Thiên Chúa liên hệ đến người thân cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội
hoặc một đối thủ tại tòa án. Song song với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai
lệch, nói dối, thề gian, lừa gạt, cướp đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống,
thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi phạm quyền lợi của tha nhân.
- thân cận
(39): Theo bản văn căn bản Lv 19,18 và theo hầu như cách giải thích Lv 19,18 của
toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại) đây là người Israel mà thôi,
những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho. Chỉ những người ngoại quốc đang
sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền công lý này, mới được kể vào số
“người thân cận” (Lv 19,34); sau này, chỉ những người dự tòng mới được coi như
thế. Đức Giêsu theo truyền thống Mt đã mở rộng nghĩa của từ ngữ này mà áp dụng
cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12; 19,19).
- Tất cả Luật Môsê và
các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều
răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định ấy;
Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là cách gọi tên bộ Kinh Thánh Do Thái
(tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ
trong Kinh Thánh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu chuyển tiếp:
Người Pharisêu quy tụ lại (34)
Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng
các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức gây ra với Đức
Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến
những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.
Để đáp lại tin tức về sự thất bại của
phái Xađốc, người Pharisêu đã họp nhau lại.
* Câu hỏi về điều răn
trọng nhất (35-36)
Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để
“thử” (peirazôn) Người (c.
35), như họ đã từng làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý do
của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối
phân phối và giải thích Lề Luật (Torah) khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra
thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật
chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui
do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x.
Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù
sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng
trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì
thế, câu hỏi của vị thông luật để “thử”
Đức Giêsu có lý do: không chỉ là một tranh luận lý thuyết nhà trường, nhưng
cũng có một nhu cầu thực tế. Bởi vì có khi họ đã phải chỉ cho biết những điều
răn nào không được vi phạm, cho dù người ta có bị giết, hoặc phải dạy điều gì
là quan trọng nhất đối với Lề Luật và các điều răn này dẫn xuất từ các điều răn
khác thế nào. Vì vậy, họ có nói tới một kơlal (tiếng Híp-ri có nghĩa là phổ
quát tính, nguyên tắc căn bản, tóm tắt, danh hiệu) và một guph (tiếng Híp-ri có
nghĩa là phần thân, phần cốt yếu) trong Lề Luật.
* Câu trả lời của Đức
Giêsu (37-40)
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc
đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời
nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến
trong Lề Luật, và bất cứ người Israel
tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là
trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ là ở chỗ Người đã đặt
hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” (homoia) có nghĩa là điều
răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức
là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa,
Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc
vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý
Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác, hay là tất
cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế yêu mến người thân cận có
nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc, một tình yêu y như dành
cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải được yêu mến “hết lòng,
hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt giữa ba từ ngữ này, bởi
vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn” để dịch từ lev Híp-ri (=
trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả bản thân mà yêu mến Thiên
Chúa.
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã
rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế
không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận
tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy
trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng
tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như
Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).
Có thể nói ở c. 40, tác giả Mt tóm tắt
cái nhìn của ngài về hai điều răn trọng nhất. Công thức “ Luật (Môsê) và các
sách ngôn sứ”
đưa chúng ta trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng
Đức Giêsu làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ, và cả hai khối này tập trung vào
hoàng kim quy tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được
hoàn tất qua Đức Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi en) cho chúng ta biết
quan niệm của tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc,
chính là nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng
như Lề Luật và các sách ngôn sứ.
+ Kết luận
Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là
câu trả lời của một kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây
là câu trả lời của vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người
hoàn tất Luật (x. 5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang
lại cho Luật tính chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình
yêu đối với tha nhân không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có;
hai tình yêu này nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc
đời, cái chết và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể công bố với giọng uy
quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc yêu mến Thiên Chúa và
yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề Luật, dưới dạng điều
răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất
(“hai trong một”), Đức Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người.
Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự
những gì được yêu cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất
Lề Luật và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10).
Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để
vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như
cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.
2. Người thân cận không phải chỉ là người
thuộc về cùng một dân tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất
cứ ai cũng có thể là người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế.
Tránh né luật yêu thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi
những người ở bên mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào.
Chính tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với
chúng ta phải là mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.
3. Yêu thương anh em không phải chỉ bởi
vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này
không phải là một liên hệ pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể
yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác
vì chính họ, ta yêu mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất,
vì con người chỉ có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của
thánh Phaolô để thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).
4. Sự liên kết giữa tình yêu đối với
Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai
tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản
tính bên trong và đời sống bên ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ
tình yêu đối với Thiên Chúa; chính tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ
không tuyệt đối hóa bản thân, mà lại có một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một
tình yêu nồng nàn hơn đối với người thân cận.