CHÚA
NHẬT XXVI QUANH NĂM, NĂM A
I. Giáo Huấn Phúc Âm
Hãy đi làm vườn nho! Nói
khác đi: thực hành thánh ý Chúa.
Đó là lời mời gọi của
Chúa cho tất cả mọi người.
Con người có quyền tự do
đáp trả bằng sự ưng thuận hay từ chối: có thể đi làm vườn nho hay không. Có thể
thực hành ý Chúa hay không.
Ưng thuận hay từ chối thể
hiện qua hành động: đi làm vườn nho. Có nhiều khi con người thay đổi từ ưng
thuận sang hành động khước từ hay từ thái độ khước từ lúc đầu sang hành động
ưng thuận về sau.
II. Vấn nạn Phúc Âm
Tự do: cao quí nhưng có
quá đáng không, khi có quyền từ chối với TC. Đấng cho con người tự do.
Khái niệm về tự do:
Tự do là không bị ép
buộc. Tự do là tự ý quyết định. Tự do là một khả năng của con người để lựa chọn
và thực thi điều đã lựa chọn theo ý mình.Tự do là một khả năng lựa chọn các
phương tiện để đạt đích (theo thánh Tôma).
Một người có Tự do hoàn
toàn, nghĩa là họ không bị hạn chế trong tư tưởng, ngôn ngữ và hành động. Họ
phải biết cái họ chọn, và họ có quyền quyết định điều họ chọn, Họ cũng phải có
phương tiện và cơ hội để nghĩ, nói và làm mà không bị kiểm soát vô lí, cưỡng
bách bất công và hạn chế vô lí. (The World book Encyclopedia F/7, ed. 1975, p.
428)
Có nhiều loại tự do:
Tự do thể lý (bên ngoài):
khi không có những cưỡng ép từ bên ngoài, không bị thế giới vật lí ngăn cản,
không bị xã hội luật pháp cấm đoán.
Tự do tâm lí (bên trong):
khi không bị các động lực mù quáng (đam mê) cưỡng bách hành động.
Tự do chính trị: Có tiếng
nói trong chính quyền, đầu phiếu, điều hành văn phòng, chỉ trích hành pháp,
thành lập và nhập đảng và tổ chức...
Tự do xã hội: Tự do ngôn
luận (bàn cãi và trao đổi tư tưởng)
Tự do báo chí: truyền
thanh, truyền hình không bị nhà nước kiểm soát
Tự do tôn giáo: tin
tưởng, thực hành, truyền bà niềm tin. Quyền không theo tôn giáo nào.
Tự do hội họp: hội họp và
thành lập những nhóm lợi ích.
Tự do theo quan niệm Kitô
giáo:
Con người có Tự do, vì là
hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng Tự do tuyệt đối. (Gn 1,27)
Công đồng Trento xác
quyết rằng: "Tội Adam làm cho con người mất đi sự công chính nguyên thủy,
ý muốn con người ra yếu đuối, nhưng vẫn không mất Tự do, dưới ảnh hbưởng của
thường sủng, con người có thể chấp thuận hay từ chối" (Denz 1521,1554,
1927)
Chúa Kitô đem đến một sự
Tự do chân chính chỉ cho những ai tuân giữ lời Ngài: "Nếu các ngươi ở lại
trong Lời Ta, các ngươi sẽ thực là môn đệ Ta, các ngươi sẽ biết chân lý, và
chân lý sẽ cho các ngươi được tự do" (Ga 8,31). "Hỡi anh em, anh em
đã được kêu gọi để sống Tự do, nhưng đừng lấy nê Tự do mà sống theo xác thịt"
(Gal 5,13)
Tự do chỉ sống động khi
tìm thấy đối tượng riêng của nó, và nhận ra đối tượng thích hợp nhất. "Lạy
Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con, cho Chúa, lòng chúng con không thể nghỉ an
cho tới khi tìm thấy sự nghỉ an trong Chúa" (thống hối. Augutino, confess
1,1)
Tự do là một đặc tính cao
quí, nhưng cũng là một trách nhiệm đáng sợ. Người ta có thể lạm dụng Tự do để
từ chối Thiên Chúa, xúc phạm đến Ngài.
Tự do của con người chỉ
có giới hạn, chúng ta cần phải được cứu rỗi. (The estranged God, Anthony T.
Padovano, 1966, p. 171)
Tự do không có nghĩa là
muốn làm gì thì làm (Mục vụ số 17)
Tự do nằm trong hoạt động
có ý thức, lựa chọn có ý thức, chứ không do bản năng mù quáng hay cưỡng ép.
(Mvụ số 17).
Tự do của con người
thường suy giảm khi bị rơi vào cảnh quá cùng cực (Mv số 31)
Tự do bị hạ giá, nếu
buông thả quá mức theo cuộc sống thoải mái (Mv số 31)
Tự do được đức vâng lời
và bổn phận bảo đảm (Hc Giáo hội 43), nhưng nhiều người dựa vào Tự do mà từ bỏ
tùng phục (Tuyên ngôn Tự do tôn giáo số 8)
Làm sao gọi là tự do
quyết định nếu đã có sự quan phòng của Thiên chúa?
Câu hỏi về Quan phòng và
Tự do trên trở nên phức tạp khi nói về mầu nhiệm ơn tiền định (predestination).
Thánh Augutinô viết: khi quá bênh vực ơn thánh điều khiển, người ta chối phần
Tự do con người. Các nguyên tắc cựu và tân ước sẽ không còn giá trị, nếu con
người không có Tự do (Pl 44,883).
Thánh Toma xác nhận cả
hai: sự quan phòng của Thiên Chúa, và sự Tự do của con người. Theo ngài, tri
thức và hiện hữu của Chúa, không giống tri thức và hiện hữu của thụ tạo. Chúa
không nhận thức sự vật cách "nối tiếp", nhưng Ngài nhận thức chúng
bằng hành vi "toàn thể đời đời". Và, nếu con người không có Tự do thì
những lời khuyến cáo, giới luật, cấm, khen, phạt sẽ trở thành vô nghĩa (Summa
Theologia 1a,83,1). Để dung hòa 2 chân lý trên, thánh Tôma phân biệt nguyên
nhân đệ I và đệ I I. Thiên Chúa là nguyên nhân đệ I của vạn vật, con người hành
động dưới ảnh hưởng của Chúa, họ là nguyên nhân đệ 2 các hành vi của mình. Ví
dụ, khi người thợ mộc đóng cái bàn, ông dùng gỗ sẵn có, ông thực là nguyên nhân
đệ 2 của cái bàn ông làm ra.
Kết luận: "Chỉ với
trí khôn thụ tạo, người ta không thể hiểu được mầu nhiệm, phải có đức tin thay
thế" (Bách khoa trên tr. 94)
Ý kiến cá nhân: Khó hiểu nhưng rõ ràng
là: Thiên Chúa ban cho con người hoàn toàn tự do. Tự do chấp thuận lời mời gọi
đi làm vườn nho Chúa hay thực hiện thánh ý Chúa cũng như tự do chối từ lời Chúa
kêu gọi để sống theo sở thích riêng mình. Chúa là Đấng trung thành tuyệt đối
với lời nói và chương trình của mình. Nên Chúa không “quan phòng” để giết chết
hay hạn chế tự do cao quí đã ban cho con người. Quan phòng không có nghĩa là
tiền định, nhưng có nghĩa là thấy trước chuyện gì sẽ xảy ra. Quan phòng cũng
như người ta thấy trước: hút thuốc là ung thư phổi hay cờ bạc là Bác thằng bần.
Hút thuốc là tự do chọn ung thư phổi. Cờ bạc là tự do chọn nghèo khổ.
Con người có khả năng
thay đổi từ tốt sang xấu hay ngược lại từ xấu sang tốt. Giống như người nói
KHÔNG rồi CÓ hay như của người nói CÓ rồi sang KHÔNG.
Thường người ta đánh giá
không tốt về người hay thay đổi lập trường: Hôm nay thế nầy mai thế khác không
biết đâu mà lường. Tuy nhiên sự thay đổi từ KHÔNG sang CÓ nơi người con thứ
nhất hay từ CÓ sang KHÔNG của người con thứ hai không là chuyện bốc đồng, tùy
hứng nhưng “sau đó nó hối hận, nên lại đi!” Đó là kết quả của suy nghĩ lại hay
hồi tưởng hay sực tĩnh. Thái độ cần thiết cho đời sống bình thường hay đời sống
tâm linh.
Biệt Phái và Luật Sĩ,
những người tự cho là đạo dòng hay đạo gốc nầy đã tưởng rằng mình thực thi
thánh ý Chúa bởi dòng dõi Abraham hay bởi việc tuân giữ nhiệm nhặt và chi li
những luật lệ truyền thống. Kỳ thực họ đã nói KHÔNG với thánh ý Chúa.
Thu thuế và đĩ điếm trước
mắt mọi người là những đứa con nói KHÔNG với lời mời gọi của Chúa, nhưng sau đó
“hối hận, nên lại đi!” Họ âm thầm thực hiện hoán cải. Họ đã nói CÓ với Chúa.
Nên khi Chúa nói: những
người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông! Chúa
không có ý nói làm thu thuế hay làm điếm thì tốt và sẽ vào nước Thiên Chúa
trước những Biệt Phái và luật sĩ. Nhưng Chúa hàm ý: “Nhưng sau đó, nó hối hận,
nên lại đi!”
Việc thực hành thánh ý
Chúa không tùy thuộc cương vị hay tước vị, hay nghề nghiệp hay bậc sống, nhưng
tùy thuộc “nó hối hận, nên lại đi!”
Giáo sĩ, tu sĩ hay giáo
dân hay người tội lỗi bê tha nguội lạnh…. Tất cả đếu có thể thực thi thánh ý
Chúa, đi làm vườn nho Chúa hay có thể từ chối không thực thi thánh ý Chúa,
không làm vườn nho Chúa. Làm vườn nho Chúa là thực thi thánh ý Chúa. Nói khác
đi thực thi thánh ý Chúa bằng việc làm vườn nho Chúa. Làm vườn nho Chúa hay
thực thi thánh ý Chúa là: làm cho Nước Chúa trị đến, cho danh Cha cả sang. Tức
làm cho mọi người biết Chúa và được ơn cứu độ.
Tạo sao Biệt Phái Luật Sĩ
lại không thực thi thánh ý Chúa?
Họ hiểu lầm: Con cháu
Abram, giữ hết mọi luật là thực thi ý Chúa. Cũng giống như có người nghĩ rằng:
Rửa tội Công Giáo, đi lễ Chúa Nhật, giữ Mưới điều răn Đức Chúa Trời và Sáu điều
răn Hội Thánh là thực thi trọn vẹn thánh ý Chúa. Luật lệ hay điều răn là ý Chúa
hay cách giúp thực hiện thánh ý Chúa. Tuy nhiên, thực thi thánh ý Chúa còn là
chuyện lấy ý Chúa hay chương trình của Chúa làm ưu tiên trong cuộc sống của
mình.
Một linh mục đang bôn ba
đây đó xin tiền cất hết nhà thờ nầy sang nhà thờ khác.. có chắc Ngài đang thực
thi thánh ý Chúa không? Vườn nho Chúa có hệ tại hoàn toàn trên số nhà thờ mới
xây dựng không? Một tu sĩ đang ngày đêm soạn bài suy niệm Phúc Âm hay sáng tác
nhạc để phổ biến rộng rãi cho mọi người. Danh tiếng “Thầy” càng ngày càng cao.
Không chắc danh “Cha” được cả sáng!
Giáo dân Công Giáo tích
cực tham gia sinh hoạt giáo xứ tuyên bố rằng: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như
trên trời!” Hoàn toàn vâng phục và làm theo mọi mệnh lệnh của Cha xứ. Cha vui
lắm! Nhưng… chắc gì đó là thánh ý Thiên chúa. Có nhiều khi tô vẽ thánh ý Chúa
để “ý con được tròn” chăng?
Thánh ý Chúa là làm vườn
nho Chúa. Là làm cho mọi người biết Chúa và tôn thờ Chúa. Làm sao khi người ta
nhìn thấy chúng ta làm là biết ngay rằng: Chúng ta đang làm vườn nho cho Chúa.
III. Thực hành Phúc Âm
Lạy Chúa! Này con xin đến
để thi hành thánh ý Chúa.
Con người bao giờ cũng
thích ý mình được thực hiện hay thích người khác phục tùng mình.
Có người vợ đã ngang
nhiên công bố là: Ổng ấy nghe lời tôi răm rắp, bảo đi đâu làm gì là không sai
chạy.
Có người chồng kia đã
mạnh dạn phát biểu: dù là con mèo đen, nhưng tôi bảo vợ tôi nói trằng thì cô ấy
cũng phải nghe tôi mà nói con mèo trằng. Đời sống linh mục không phải dễ mà
cũng không phải lúc nào cũng như ý mình muốn. Tuy nhiên tôi có một kinh nghiệm
làm tôi thấy hạnh phúc trong đời sống là: Lạy Chúa, nầy con xin đến để thực thi
thánh ý Chúa.
Thánh ý Chúa trong đời
linh mục của tôi là bài sai của Đức Giám Mục địa phận.
Thánh ý Chúa trong đời
linh mục của tôi là làm việc nhiều giờ, cố gắng mang ích lợi tối đa cho giáo
dân.
Thánh ý Chúa trong đời
linh mục của tôi là không phải theo ý của ông nào hay bà nào cả mà chu toàn bổn
phận mình mỗi ngày một cách công tâm.
Thánh ý Chúa trong đời
linh mục của tôi là bình an thư thái, không bận vướng và không phải quan tâm
hay chú ý đến chuyện của người phối ngẫu: Làm gì mà đi lâu về vậy cà? Không
biết có tình ý gi không mà cứ gọi điện thoại tâm sự với cô ấy mãi? Tiền bạc
không biết có đủ cho lần đi mua sắm nầy không?....
Thánh ý Chúa trong đời
linh mục của tôi là được đọc Lời Chúa, được dâng lễ, được ban bí tích, được rao
truyền Lời Chúa và được hy sinh cho Nước Chúa.
Cám ơn Chúa ban cho tôi
hạnh phúc được nói và sống: Lạy Chúa nầy con xin đến để thực thi thánh ý Chúa.
Phêrô
Trần Thế Tuyên