Lễ suy tôn Thánh Giá _ các bài suy niệm

Các bài suy niệm
LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
 (Ds 21, 4b-9 (Pl 2, 6-11); Ga 3, 13-17)

1. Thập giá là chìa khóa
2. Nhìn đúng cách
4. Thánh giá, con đường vâng phục – Lm. Trần Thanh Sơn
5. Dùng chính đau khổ và sự chết _ JKN
6. Thánh Giá: cây phúc trường sinh- Lm. Hữu Độ
7. Chú giải của William Barclay
8. Đấng đã được giương cao _ Noel Quesson
9. Thiên Chúa đã yêu thế gian _ Fiches Dominicales
11. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
12. Hạt giống… nảy mầm của Trọng Hương 

19. Lễ suy tôn Thánh Giá _ Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
22. Thánh Giá Chúa là nguồn phúc vinh _ Lm. Anton Nguyễn Văn Độ

32. Những kẻ điên Lm Giuse Đinh lập Liễm
33. Thập giá Đức Giêsu ..... Lm. Phêrô Lê văn Chính
34. Bắt nguồn từ Giêrusalem Trọng Hương
38. Suy tôn thánh giá ĐGM. Phaolô Maria Cao Đình Thuyên
39. Suy tôn thánh giá ĐGM. Phaolô Maria Cao Đình Thuyên
40. Vinh quang thập giá Trầm Thiên Thu
41. Ngang qua thập giá  Sưu tầm


Thập giá là chìa khóa
Cơ sở chính của Liên Hiệp Quốc là một tòa nhà bằng kính, nghiêng mình trên một giòng sông. Tại đây, đại biểu của các quốc gia trên thế giới thường xuyên gặp gỡ nhau. Nhiều người trong số họ là những Kitô hữu, hay ít nữa cũng có một niềm tin vào Đấng Tối cao.
Cũng tại đây, có một căn phòng mà việc trang trí tốn kém hơn năm ngàn đôla. Thế nhưng, vì sợ va chạm, nên không ai dám gọi đó là nhà nguyện, mà gọi đó là nơi tĩnh tâm. Không một bàn thờ, không một cây nến, không một biểu tượng tôn giáo được trưng bày. Thường xuyên chỉ có một bình bông và một luồng ánh sáng. Ngoài những công nhân lo quét dọn và thay bông thì dường như không một ai bước vào căn phòng này.
Như chúng ta đã biết, đại biểu của các quốc gia đến đây để bàn tới hạnh phúc của nhân loại, thu xếp để có được những giải pháp đảm bảo cho nền hòa bình thế giới. Thế nhưng chỉ có một chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa dẫn tới kỷ nguyên hòa bình và hạnh phúc, đó là Đức Kitô và thập giá của Ngài, mà người ta đã quên không đặt vào căn phòng tĩnh tâm ấy. Họ hy vọng thành công ở bước thứ hai, trước khi đặt chân vào bước thứ nhất, việc họ làm chẳng khác gì đặt cái cầy trước con trâu vậy.
Con người thời nay đang đứng trước một khung cửa khép kín, mà lại không có chìa khóa để mở, cho dù biết rằng sau khung cửa ấy sẽ tìm thấy được lời giải đáp thỏa đáng cho những vấn đề đang làm cho chúng ta băn khoăn và lo nghĩ.
Hitler, Staline, Mouselini, một thời đã khuấy động, họ muốn đem lại hạnh phúc cho thế giới. Nhưng chiếc chìa khóa của họ lại là chiếc chìa khóa dổm, nên khung cửa vẫn đóng chặt và họ thì chìm vào quên lãng.
Chỉ có một chiếc chìa khóa duy nhất là Đức Kitô Phục sinh mới mở được khung cửa bình an và hạnh phúc. Ngài là Thiên Chúa, đã làm người và chịu chết trên thập giá để cứu độ chúng ta. Để xác tín như vậy, cần phải có một đức tin kiên vững.
Ngày nay người ta đã đem đến thật nhiều những chìa khóa dổm. Danh từ có thể khác nhau nhưng tựu trung vẫn chỉ là một. Nào là sách vở, truyền thanh và tuyền hình. Nào là thể thao, âm nhạc và những phương tiện giải trí. Nào là lạc thú, danh vọng, tiền bạc và những tiện nghi vật chất. Con người nhận ra những thứ đó không đủ và không thể đem lại bình an hạnh phúc.
Đức Kitô Phục sinh là chìa khóa duy nhất, ngoài Ngài ra, không có một giải pháp nào khác. Ngài đòi hỏi nơi chúng ta một sự tuyệt đối: Ai không ở với Ta là chống lại Ta, ai không thu tích cùng Ta là phá hại Ta. Điều đó có nghĩa Đức Kitô là trung tâm mà mọi sự phải hướng tới. Ngài là chân lý, là Thầy dạy của muôn dân, bước theo Ngài sẽ không còn mò mẫm trong đêm tối. Hành động với Ngài sẽ không bao giờ bị thất bại.
Và hơn nữa, nếu chúng ta chấp nhận gian khổ và thập giá với Ngài thì gian khổ chúng ta chịu sẽ là đường lên tới vinh quang và thập giá chúng ta mang sẽ là đường dẫn tới Phục sinh.


Nhìn đúng cách
Alexander Solzhenisyn kể về thời gian đen tối của đời ông, khi mọi hy vọng như biến mất. Là một tù nhân trong trại tù Nga, ông làm việc nặng nhọc 12 giờ mỗi ngày. Ông lại thiếu dinh dưỡng nên bị bệnh trầm trọng. Thực ra, bác sĩ đã tiên đoán cái chết của ông. Một trưa nọ, ông đang xúc cát giữa trời nắng, ông ngã gục xuống. Ông nghĩ rằng lính gác sẽ đến đánh ông chết cho xong. Ông không thiết sống, không thể sống nữa.
Ngay lúc đó, một tù nhân người Công Giáo chạy nhanh tới Alex. Với chiếc gậy đang chống, anh bạn vẽ hình Thánh Giá trên cát, chỉ cho Alex xem rồi vội xoá đi trước khi lính gác nhìn thấy. Lập tức, Alex cảm thấy một tia hy vọng trong lòng. Ông đã lấy hết sức để cố gắng trải qua ngày cực khổ đó và nhiều tháng tiếp sau. Alex đã được cứu thoát trong ngày đó nhờ nhìn vào cây Thánh Giá của Chúa Giêsu. Sự nhắc nhớ chớp nhoáng về tình yêu của Chúa đã đem lại sức mạnh để tiếp tục kiên trì.
Trong bài đọc I, Dân Ich Diên cảm thấu sự nóng bỏng của cát dưới chân và của khí thở, nên họ kêu trách Chúa và Mai Sen. Sách Dân Số kể: "Mệt mỏi vì cuộc hành trình, họ phàn nàn vì đưa họ ra khỏi Ai Cập." Sau khi dân bị phạt, bị rắn độc cắn, Chúa bảo Mai Sen làm con rắn đồng treo lên cột. Ai bị rắn cắn nhìn lên rắn đồng thì được khỏi.
Từ cổ xưa, hình con rắn treo đã nên biểu tượng cho ngành thuốc. Thời xưa, nọc rắn dùng trong y thuật. Thật sự, nọc rắn có thể chữa bệnh hay giết chết.
Rắn treo trên cột trong Cựu Ước là tượng trưng cho Thánh Giá trong Tân Ước. Thánh Giá cũng có thể cứu sống hay đánh bại, tùy theo cách thế chúng ta nhìn. Như trong trường hợp của Alex, ông có thể nhìn hình thánh giá tượng trưng cho những cực khổ mà ông hầu như không mang nổi. Hoặc ông nhìn đó như dấu hiệu tình yêu của Chúa.
Không cần cố gắng bao nhiêu chúng ta cũng thấy nhan nhản thánh giá trong đời sống, như thời tiết quá nóng hay lạnh, mưa hay nắng, thân xác yếu mệt, mất tiền của, mất việc làm, mất người thân... Chúng ta có thể nhìn những đau khổ theo tự nhiên hay nhìn với con mắt đức tin. Lo nghĩ theo tự nhiên sẽ đưa chúng ta đến chán nản, thất vọng, quên sinh. Nhìn những thánh giá theo đức tin sẽ được Chúa ban ơn giải thoát.
Làm sao để nhìn theo đức tin? Chúng ta hãy nhớ đến Thánh Giá Chúa Giêsu trên đồi Can Vê. Hãy suy tưởng những hình khổ đó có nghĩa gì đối với Chúa. Con đường thương khó là cả một sụp đổ của những gì muốn làm, là sự thiện Ngài muốn thực hiện dường như bị chà đạp bởi đầu óc ngang ngạnh, thiển cận của con người, là sự bất lực đầu hàng trước quyền lực sự dữ.
Mặc dù thế, Thánh Giá Chúa lại là chiến thắng. Lòng nhân từ của Chúa không thể bị đánh trẹo bởi sự dữ. Dù tội lỗi lớn lao đến đâu, lòng thương xót của Chúa vẫn tha thứ. Dù mây mù có dầy đặc tăm tối đến đâu, mặt trời vẫn chiếu sáng. Chúa Giêsu đã trải qua đêm tăm tối nhất để chúng ta cố gắng làm gì có thể trong những lúc thử thách và cuối cùng công chính sẽ chiến thắng. Không phải chỉ có Thánh Giá Chúa mới chiến thắng, cả những thánh giá của chúng ta cũng là cơ hội để chiến thắng.
Nếu thiếu đức tin, những thánh giá đó trở nên nặng nề, khó có thể mang được và dần dần nó sẽ đánh quỵ chúng ta. Với đức tin, chúng ta sẽ nhìn thánh giá như dấu chứng tình yêu, tình yêu Chúa đối với chúng ta và tình yêu chúng ta đối với Chúa. Chúa Giêsu đã chia sẻ kiếp người đau khổ để chiến thắng và đem lại sức mạnh cho chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta trải qua những đau khổ để theo Chúa.


Thánh giá, con đường vâng phục – Lm. Trần Thanh Sơn
Hàng ngày khi đọc báo, xem truyền hình và ngay cả trên đường phố, chúng ta thấy nhan nhản những bảng quảng cáo, cùng với biết bao lời hay, ý đẹp để giới thiệu cho các sản phẩm: nào là 3 trong 1, nào là ngon bổ rẻ, nào là tiện lợi, nhanh chóng, nào là số 1 thế giới… và còn nhiều rất nhiều lời khác nữa. Trong khi đó, khi mời gọi các môn đệ và từng người chúng ta theo Ngài, Đức Giêsu lại nói: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mỗi ngày mà theo Ta” (Mt 16, 24). Thật đúng là một lời mời gọi khác thường, bởi vì trước mắt mọi người, thập giá thì có gì hay đâu, hay nói theo cách nói của thánh Phaolô: “thập giá là một sự điên rồ đối với dân ngoại, và là một điều ô nhục đối với người Do thái” (1 Cr 1, 23). Thế nhưng, chính ngang qua con đường thập giá đó, Đức Giêsu đã đem lại ơn cứu độ muôn đời cho từng người chúng ta, như lời Ngài nói với Nicôđêmô: “Cũng như Môisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để những ai tin Người thì không bị tiêu diệt muôn đời”.
Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn được cùng quý ông bà anh chị em dành thời giờ để suy niệm về hai khía cạnh của mầu nhiệm thập giá: Vâng phục, con đường của thánh giá và Thánh giá, con đường đưa tới sự sống, để từ đó, chúng ta rút ra bài học cho bản thân từng người chúng ta.
1. Vâng phục, con đường của thánh giá:
Thời đại hôm nay, do quá chú trọng đến tự do cá nhân, nên khi nói đến hai chữ: “Vâng phục” người ta thường nghĩ rằng điều này làm cho chúng ta mất tự do. Mặt khác, nhìn bên ngoài, vâng phục còn có vẻ như là cách sống của trẻ con, những con người yếu đuối, chưa trưởng thành. Tuy nhiên, sự vâng phục mà Lời Chúa hôm nay muốn nói đến đó là sự vâng phục trong lòng tin và tình yêu. Một sự vâng phục trong tự do mà chỉ có những tâm hồn mạnh mẽ, và thực sự trưởng thành mới có thể thực hiện được.
Đó chính là sự vâng phục mà Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã sống suốt cuộc đời mình, như lời thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Philipphê mà chúng ta vừa nghe: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình … Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Vâng, Đức Giêsu đã “hủy bỏ chính mình… và tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Ngài đã sẵn sàng chết trên cách ô nhục trên thập giá, cho dù Ngài hoàn toàn có thể tránh khỏi được. Điều đó cho thấy sự mạnh mẽ, và tình yêu tuyệt vời mà Ngài dành cho chúng ta, một tình yêu đi cho đến cùng (x. Ga 13, 1).
Vâng phục của Đức Giêsu, chính là sự biểu hiện của những tâm hồn mạnh mẽ, tự do và trưởng thành, như lời Ngài nói: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10, 18). Đức Giêsu đã hoàn toàn tự do khi vâng ý Cha, hiến dâng mạng sống của Ngài, vì Ngài biết rõ đây là con đường đem đến ơn cứu độ cho chúng ta. Và như thế, ý của Cha cũng chính là quyết định trong tự do của Đức Giêsu.
Vâng phục còn là con đường của tình yêu, bởi vì khi vâng ý Cha đi con đường thập giá, Đức Giêsu đã cho chúng ta thấy rõ tình yêu tuyệt vời mà Ngài dành cho chúng ta, bởi lẽ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Chính trong tình yêu, sự vâng phục không còn là gánh nặng, nhưng trở nên nhẹ nhàng và là phương thế diễn tả chân thành, cụ thể nhất của tình yêu.
Chính nhờ sự vâng phục đó, Đức Giêsu đã biến thập giá từ một biểu tượng của sự ô nhục, và là một trong những hình phạt dã man nhất mà con người dành cho nhau, trở thành cây Thánh giá, biểu tượng cho sức mạnh của tình yêu và sự sống. Một tình yêu và sự sống phát xuất từ Thiên Chúa và tiếp tục tuôn chảy đến cho từng người chúng ta hôm nay.
2. Thánh giá, cây sự sống:
Nhờ sự vâng phục của Đức Giêsu, Thánh giá đã trở nên một biểu tượng cho sự sống. Điều này đã được báo trước qua hình ảnh con rắn đồng treo trong hoang địa thời Xuất hành. Lúc đó, trong cuộc hành trình về Đất Hứa, mặc cho Thiên Chúa đã ban biết bao nhiêu ơn lành và gìn giữ họ suốt quãng đường dài trong sa mạc, dân Do thái vẫn không ngừng kêu trách Chúa và Môisen: “Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa”. Họ đã kêu trách, chống đối lại Thiên Chúa, hay nói cách khác, họ đã không còn tuân phục Thiên Chúa. Như thế, họ đã đi vào “vết xe cũ” mà Nguyên tổ đã đi trong vườn Địa đàng năm xưa, khi đưa tay hái trái cây Thiên Chúa cấm, và hậu quả của sự bất tuân thật rõ ràng: “Bởi đó Chúa đã cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người”.
Bất tuân đã đưa đến sự chết. Do đó, để lấy lại sự sống, con đường duy nhất là chính là sự vâng phục. Ý thức điều đó, họ đã chạy đến với Môisen, và thưa rằng: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn”. Lúc đó, Chúa đã phán cùng Môisen: “Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống”. Như thế, việc những kẻ bị rắn cắn được cứu sống không phải do sức mạnh của con rắn đồng, nhưng chính là do lòng tin tưởng và vâng phục của họ đối với Thiên Chúa, thể hiện qua việc vâng lời Người mà nhìn lên con rắn đồng. Thiên Chúa sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm, những bướng bỉnh, cố chấp của chúng ta, miễn là chúng ta thành tâm quay trở lại với Ngài.
3. Sống mầu nhiệm Thánh giá:
Họp nhau cùng với toàn thể Giáo Hội suy tôn Thánh Giá hôm nay, không phải chúng ta suy tôn một khúc gỗ, hay kính nhớ một hình phạt, nhưng là cơ hội để chúng ta chiêm ngắm tình yêu tuyệt vời của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Một tình yêu được thể hiện qua sự vâng phục hoàn toàn của Ngài đối với Thánh Ý Chúa Cha, một sự “vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Nhờ đó, Đức Giêsu đã biến thập giá thành Thánh giá đem lại ơn cứu độ cho chúng ta.
Không chỉ chiêm ngắm, ngang qua lời Chúa hôm nay, Giáo hội cũng mời gọi từng người chúng ta đi lại con đường Đức Giêsu đã đi, con đường của sự vâng phục. Trước hết, đó là sự sẵn sàng vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Đứng trước mỗi một biến cố vui buồn trong cuộc sống thường ngày, chúng ta hãy suy nghĩ, cầu nguyện để tìm ra ý Chúa và can đảm thi hành. Vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa là sẵn sàng sống theo sự thật, bởi vì chính Đức Giêsu đã khẳng định rằng: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14, 6a). Sự thật đó là Lời Chúa trong Kinh Thánh, là lời giáo huấn của hàng Giáo phẩm, của cha mẹ, thầy cô, những người có trách nhiệm hướng dẫn chúng ta. Sự thật đó còn có thể đến từ bạn bè, từ những em nhỏ, và cả những người không tin có Thiên Chúa nữa. Chúng ta cần sẵn sàng sống theo Sự thật, theo Chân lý, cho dù Sự thật đó đến từ nơi đâu. Chúng ta hãy khiêm tốn mở rộng cõi lòng để đón nhận Chân lý và sống công chính.
Nếu trong từng gia đình, từng cộng đoàn, mỗi người đều hết lòng vâng phục và sống theo Sự thật, tôi tin chắc rằng, gia đình và cộng đoàn của chúng ta sẽ nhận được sự sống vĩnh cửu phát xuất từ cây Thánh Giá của Đức Giêsu mà chúng ta mừng kính hôm nay. Amen.


Suy Niệm của JKN
Dùng chính đau khổ và sự chết để giải thoát khỏi đau khổ và sự chết
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu nói Ngài từ “trời” xuống. Vậy “trời” ở đây là gì? Có phải là không gian bao la với hàng tỷ tỷ tinh tú không?
2. “Con Người phải được giương cao” nghĩa là gì? Đức Giêsu đã dùng cách gì để cứu con người khỏi đau khổ và đem lại hạnh phúc cho họ? Nếu Ngài dùng cách ấy, thì đó có phải là cách tối ưu và hữu hiệu nhất không?
Suy tư gợi ý:
1. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Đấng từ trời xuống”
Chữ “trời” xuất hiện rất nhiều lần trong tất cả các sách Kinh Thánh. Nó chỉ một thực tại căn bản của tôn giáo, của đời sống tâm linh. Nhưng “trời” là gì? - Bình thường, người ta hay nghĩ trời là không gian bao la vô tận, trong đó chứa hàng tỷ tỷ tinh tú hay thiên thể như mặt trời, trái đất, trăng sao. Nghĩ như vậy thì hoàn toàn không sai, vì đó là nghĩa chính, nghĩa đen, nghĩa vật chất của chữ “trời”. Nhưng “trời” thường được nói đến trong Kinh Thánh không có ý nghĩa vật chất như vậy. Chữ “trời” với ý nghĩa vật chất chỉ là dấu chỉ, là hình ảnh tượng trưng cho một cảnh giới tâm linh tuy vô hình đối với con mắt vật chất của con người, nhưng lại có thật, thậm chí còn thật hơn cả thế giới vật chất này nữa. Thế giới vật chất này tuy kéo dài hàng tỉ năm, nhưng vẫn là một cái gì hữu hạn cả về không gian lẫn thời gian: trải rộng trong một khoảng không gian nào đó nhất định, có thời điểm sinh ra và có thời điểm bị tiêu diệt. Khi đã bị tiêu diệt, thì sự hiện hữu của nó chỉ tương tự như một hình bóng, một giấc mơ thoảng qua, tương tự như hiện nay ta nghĩ về sự hiện hữu của những ngôi sao đã tắt, hay những nền văn minh cổ đại mà người ta khám phá được những di tích của chúng dưới lòng đất. Chúng hiện hữu mà có vẻ như không hiện hữu, chẳng khác bao nhiêu so với những giấc mơ trong đêm!
Cảnh giới tâm linh là cảnh giới của Thiên Chúa, của các thiên thần, mà những người có đời sống tâm linh phát triển có thể cảm nghiệm được phần nào, chẳng hạn các nhà thần bí như Phaolô (x. 2Cr 12,2), Gioan Thánh Giá, Têrêxa Avila, Meister Eckhart, hay các Kitô hữu thánh thiện khác. Đó là cảnh giới của sự sống vĩnh cửu mà thánh Phaolô mô tả: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1Cr 2,9). Người bình thường không hề có một kinh nghiệm nào về cảnh giới này, cũng chẳng có thể tưởng tượng ra được, vì nó vượt ra khỏi tất cả mọi khả năng tưởng tượng của con người, tương tự như một người mù bẩm sinh không thể có một quan niệm hay tưởng tượng nào đúng đắn về màu sắc và ánh sáng. Cảnh giới này tồn tại muôn đời, nó hoàn toàn không liên quan gì với không gian hay thời gian mà chúng ta thường quan niệm. Nói theo triết lý Ấn Độ, nó nhỏ đến nỗi một hạt bụi cũng đủ chứa nó trọn vẹn, nhưng nó cũng lớn đến nỗi cả vũ trụ bao la này cũng không chứa nổi nó. Đức Giêsu “về trời” hay “thăng thiên” là trở về với cảnh giới tâm linh này, nơi Ngài đã từ đó mà đến.
Cảnh giới tâm linh sâu thẳm và vô tận này không ở đâu xa, nó hiện diện ngay trong tâm hồn chúng ta, nhưng nếu không có đời sống tâm linh sâu xa, chúng ta chẳng hề cảm nghiệm được. Ba Ngôi Thiên Chúa, Đức Giêsu hiện diện thật sự trong cảnh giới này. Theo lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, thì Ngài là người duy nhất đã từ cảnh giới tâm linh này đến với con người. Và Ngài đến trần gian này là để giúp chúng ta khám phá, thưởng nếm và dẫn chúng ta vào sống trong cảnh giới tâm linh bất diệt này. Chỉ khi nào khám phá và thưởng nếm cảnh giới tâm linh này, con người mới giải thoát được mọi đau khổ, mới cảm nghiệm được thế nào là hạnh phúc chân thật, thứ hạnh phúc không ai có thể lấy mất được.
2. “Con Người phải được giương cao…”
Để giúp con người đi vào đời sống tâm linh, là đời sống của Thiên Chúa, hay sự sống đời đời, thì Đức Giêsu phải “được giương cao”, tương tự như con rắn đồng ở trong sa mạc thời Môsê, khi được giương cao lên, ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó thì được chữa lành. Hình ảnh con rắn đồng được giương cao quả là đầy ý nghĩa. Tình trạng bị rắn cắn đau đớn và có thể chết người tượng trưng cho sự đau khổ tột cùng của con người. Thiên Chúa đã lấy ngay hình con rắn để trị bệnh rắn cắn, nghĩa là lấy chính đau khổ để diệt đau khổ: đó là một hình thức “dĩ độc trị độc”. Khi con rắn “được giương cao” thì nó trị được sự đau đớn do rắn cắn, điều đó có nghĩa là khi người ta hiểu được giá trị của đau khổ, khiến họ tự nguyện chấp nhận đau khổ, thì sự chấp nhận đó có thể tiêu diệt được đau khổ, chẳng những cho mình, mà cho cả người khác. Việc con rắn “được giương cao”, theo cách hiểu truyền thống, là hình ảnh Đức Giêsu bị treo lên cao khỏi mặt đất, hay bị treo trên thập giá, nghĩa là Ngài đã tự nguyện chấp nhận sự đau khổ cùng tột của con người. Nhờ đó, Ngài đem lại ơn cứu độ hay sự giải thoát khỏi đau khổ cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Đây là một bài học về một định luật trong cuộc sống: Đau khổ của con người có thể được hóa giải bằng chính việc vui lòng hay tự nguyện chấp nhận tất cả những đau khổ xảy đến với mình. Thật vậy, khi ta không còn sợ hãi đau khổ, mà sẵn sàng vui vẻ đón nhận khi nó đến với mình, thì nó bỗng mất đi hoặc bớt đi khả năng gây đau khổ. Trái lại, càng sợ đau khổ, càng muốn tránh né nó, thì nó lại càng tăng khả năng gây khổ hơn. Chính vì thế, kinh nghiệm dân gian về định luật này được tóm lại trong câu: “Ghét của nào, Trời trao của nấy”: càng ghét đau khổ, thì càng hấp dẫn đau khổ đến với mình. Về hạnh phúc cũng có phần tương tự như vậy. Càng quan tâm tới hạnh phúc của mình, càng khao khát tìm hạnh phúc, thì hạnh phúc dường như càng xa khỏi tầm tay của mình. Càng không nghĩ tới nó, không quan tâm tới nó, thì dường như nó càng dễ đến gần mình hơn, và vào trong tầm tay của mình.
Đau khổ và hạnh phúc là cái gì liên quan rất mật thiết với “cái tôi” của ta. Càng coi “cái tôi” của mình là quan trọng, càng quan tâm hay chú ý tới nó, thì càng nhạy cảm với đau khổ, càng dễ đau khổ, càng thấy bị “mất mình”, “vong thân”. Trái lại, càng coi “cái tôi” của mình không là gì cả, càng ít quan tâm tới nó, thì càng dễ cảm nhận được hạnh phúc. Đây quả là một nghịch lý của sự sống. Càng sống ích kỷ, càng chỉ nghĩ đến mình, ta càng đánh mất mình, càng thấy cuộc đời là vô nghĩa, và càng đau khổ. Trái lại, càng quên mình, nhất là càng sống vị tha, ta càng thấy cuộc sống có ý nghĩa và hạnh phúc. Đức Giêsu có nói về nghịch lý này: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Còn thánh Phanxicô Khó Khăn thì nói: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình).
Vui lòng hay tự nguyện chấp nhận đau khổ, mất mát, thiệt thòi, nhục nhã là một hình thức xả kỷ, quên mình, “tự hủy”, đó là một hình thức “được giương cao”, “được treo lên”. Đây chính là con đường dẫn đến giải thoát mà Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta, và Ngài đã làm gương cho chúng ta: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Như vậy, Ngài đã lấy chính đau khổ của mình để diệt đau khổ cho nhân loại, lấy sự tự hạ mình để nâng con người lên, lấy cái chết của mình để đem lại sự sống cho con người. Thánh Phêrô viết: “Vì Người mang vào mình những vết thương mà anh em được chữa lành” (1Pr 2,24). Đó là cách Ngài diệt đau khổ và đem lại hạnh phúc cho chúng ta.
3. “… để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”
Bài Tin Mừng viết: “Con Người phải được giương cao, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. “Được giương cao” ở đây có nghĩa là “được treo lên”, là tự nguyện chịu đau khổ và chết. Ngài đau khổ để con người hạnh phúc. Ngài chết để con người được sống. Nhưng thực ra, con người vẫn đang đau khổ và vẫn chết về mặt tâm linh. Con người chỉ hưởng được ích lợi của sự đau khổ và sự chết của Ngài khi họ tin vào Ngài. Tin vào Ngài nghĩa là gì? Chắc chắn không phải chỉ là sự tuyên bố chấp nhận Ngài là Con Thiên Chúa hay là Đấng Cứu Độ, mà là một thái độ sống chứng tỏ mình chấp nhận điều ấy. Tin rằng Ngài đã đau khổ và đã chết để đem lại ơn cứu độ hay hạnh phúc và sự sống cho nhân loại, nghĩa là tin rằng cách Ngài làm là cách tốt nhất để đem lại hạnh phúc và sự sống cho mình và mọi người. Nếu thật sự tin như thế, ta sẽ áp dụng cách đó vào trong đời sống của mình, nghĩa là sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ xảy đến, sống xả kỷ, quên mình, để nhờ đó chẳng những chính ta được hạnh phúc và còn đem lại hạnh phúc cho người khác nữa. Đó cũng chính là cách để đi vào cảnh giới tâm linh vĩnh cửu, vào sự sống đời đời mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đã dùng đau khổ để giải phóng nhân loại khỏi đau khổ, đã quên đi hạnh phúc của chính bản thân để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Nếu Ngài đã dùng cách đó, ắt đó phải là cách tối ưu và khôn ngoan nhất để giải thoát khỏi đau khổ và đem lại hạnh phúc. Do đó, nếu con tin Đức Giêsu, ắt con cũng phải bắt chước Ngài sử dụng cách đó để tự giải thoát khỏi đau khổ và tìm đến hạnh phúc, đời này cũng như đời sau.


Thánh Giá: cây phúc trường sinh- Lm. Hữu Độ
Có một cây tre cao lớn, xanh tươi được trồng trong vườn. Ông chủ vườn rất thích cây tre đó nên chăm chút nó hơn mọi thứ hoa cảnh khác. Năm đó gặp mùa hạn hán, mưa xuống qúa ít, trời lại nóng nực làm cho hoa cảnh trong vườn ông chủ héo khô dần đi. Rất đau lòng ông chủ đến bên cây tre mà tâm sự với nó. Cây tre ngậm ngùi thông cảm với ông chủ rồi nó nói: "Bây giờ chỉ còn một cách là ông đốn tôi xuống, xẻ đôi tôi ra làm thành máng để ông chuyển nước từ bể dự trữ của ông mà tưới cho các hoa cảnh khác kẻo chúng chết hết." Ông chủ nghĩ đó là cách hay nhất nhưng ông lại tiếc rẻ cây tre mà bao năm ông chăm chút nó. Cây tre biết ông chủ thương mình nhưng nó mạnh dạn nói: "Ông hãy làm ngay đi, tôi bằng lòng chịu đốn xuống, chịu xẻ ra để cho các cây khác được sống. Dù tôi có chết đi nhưng các hoa cảnh khác được sống thì tôi cũng vui lắm rồi."
Gương hy sinh của cây tre trên nhắc nhở cho chúng ta gương hy sinh tuyệt vời của Chúa Giêsu. Ngài chấp nhận chết đi để muôn người được sống.
Đối với phong tục của người Rôma thì không có án tử nào đáng khinh bỉ, đáng sợ hãi cho bằng án tử bị đóng đinh trên thập giá. Bọn lính đóng đinh đoán được sự căm phẫn và đau khổ của tội phạm trên thập giá vì thế họ thường cắt lưỡi tội phạm để chúng khỏi nguyền rủa bọn lính và không nói lộng ngôn tới các vị thần. Tuy nhiên bọn lính đó lại rất ngạc nhiên khi chứng kiến "tội phạm" Giêsu, tuy hấp hối đau đớn trên thập giá nhưng Chúa Giêsu đã không tức tối nguyền rủa họ mà lại xin tha thứ cho họ. Không nói lộng ngôn tới Thiên Chúa mà lại khiêm nhường phó linh hồn trong tay Thiên Chúa. Không trả thù họ mà lại ban ơn cho họ, khi nước và máu từ Trái Tim Chúa vọt ra đã chữa lành một con mắt hư của tên lính cầm đòng đâm ngực Chúa.
Hôm nay Giáo Hội suy tôn Thánh Giá bởi vì Chúa Kitô đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc nhân loại. Bởi vì khi xưa cây trái cấm đem cho con người cái chết thì hôm nay cây Thánh Giá đem cho con người sự sống. Bởi vì khi xưa cây trái cấm đuổi ông bà nguyên tổ ra khỏi địa đàng thì hôm nay cây Thánh Giá mời gọi con cháu ông bà vào Thiên Đàng. Và bởi vì trên chiến trường đánh bại kẻ thù người ta dùng cây kiếm, cây súng thì hôm nay tại chiến trường đánh bại satan và tội lỗi Chúa Giêsu dùng cây Thánh Giá.
Như vậy khi đề cao Thánh Giá là chúng ta nhìn nhận những ích lợi của Thánh Giá. Khi suy tôn Thánh Giá là chúng ta xin Chúa cho mình học được bài học: chấp nhận Thánh Giá Chúa gửi đến.
Đau khổ hay thập giá là một phần thông thường của cuộc đời vì nó gắn liền với số phận bất toàn, giới hạn của con người. Thêm vào đó, vì chúng ta có tội nên cần có Thánh Giá để giúp chúng ta: đền tội - bớt dính bén vào thế gian - và tiến tới gần Chúa.
Đời sống không thiếu vắng thập giá nhưng hãy tin chắc một điều là những thập giá đó Chúa đã cân nhắc trước khi gửi đến cho mình. Nói Chúa cân nhắc có nghĩa là thập giá đó: vừa với sức mỗi người - Chúa ban đủ ơn thánh để chúng ta chấp nhận - và nhằm ích lợi cho chúng ta, ích lợi hồn hơn ích lợi xác, ích lợi đoàn thể hơn ích lợi cá nhân, ích lợi đời đời hơn ích lợi tạm thời.
Bài học thập giá không dễ học, chẳng có trường đại học nào dám dậy. Chỉ có trường Giêsu ra điều kiện rõ ràng với môn đồ: "Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta." (Mc 8:34)
Hãy cố sắm cho gia đình mình một Tượng Chịu Nạn đễ mỗi lần gặp đau khổ chúng ta biết nhìn lên và cầu xin: "Lạy Chúa Giêsu xin giúp con biết vác Thánh Giá này cho nên vì yêu mến Chúa." Và chúng ta có quyền tin tưởng rằng Thánh Giá sẽ là Cây Phúc Trường Sinh cho mình và cho nhiều người khác.


Chú giải của William Barclay
CON NGƯỜI PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO (Ga 3,14-15)
Đến đây, Gioan quay về với câu chuyện lạ lùng của Cựu Ước đã được kể lại trong Dân Số 21,4-9. Trên hành trình qua hoang địa, dân Israel lẩm bẩm than phiền và tiếc rẻ việc bỏ xứ Ai Cập ra đi. Để trừng phạt, Chúa cho tai họa rắn độc đến cắn họ chết. Dân chúng ăn năn và kêu xin Đức Chúa thương xót, nên Ngài dạy Môsê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cao, hễ ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành và thoát chết. Câu chuyện đã gây ấn tượng sâu đậm trong dân Israel. Họ kể lại rằng về sau con rắn bằng đồng đó đã trở thành thần tượng. Dưới thời Khitkigia, đã phải hủy vì dân chúng thờ lạy nó (2V 18,4). Dân Do Thái có phần bối rối về biến cố ấy, vì họ bị cấm tuyệt đối trong việc làm các tượng. Pharisêu giải thích như sau: “Không phải con rắn đã ban sự sống. Khi Môsê treo con rắn lên thì người Israel nhìn và tin Đấng đã truyền lệnh cho Môsê làm như thế. Chính Chúa đã chữa lành cho họ”. Quyền phép chữa lành không ở trong con rắn. Con rắn chỉ là một dấu hiệu, một biểu tượng, chỉ cho người ta hướng tư tưởng mình về Chúa, và khi họ nghĩ đến Ngài thì được chữa lành.
Gioan dùng câu chuyện này như môt loại dụ ngôn về Chúa Giêsu.Ông nói: “Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó, tư tưởng họ hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng tư tưởng về Ngài, tin Ngài, thì cũng được sự sống đời đời”.
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Nó được dùng cho việc Chúa bị treo trên thập giá; và nó cũng được dùng cho việc Chúa được cất lên đểvào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; Pl 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó –là việc Ngài có thể làm thật dễ dàng nếu muốn- thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang. Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu được gọi phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất biến của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Trong câu 15 chúng ta gặp lại hai thành ngữ mà không thể rút tỉa hết ý nghĩa trong đó, vì cả hai vượt xa những gì chúng ta có thể khám phá được. Nhưng chúng ta phải cố gắng lãnh hội ít nhất là một phần trong ý nghĩa của chúng.
1. Thứ nhất là tin Chúa Giêsu. Mệnh đề này có ít nhất ba nghĩa:
a. Hết lòng tin Thiên Chúa vốn đúng như điều Chúa Giêsu tuyên bố. Chúa yêu thương chúng ta, lo lắng chăm sóc mỗi người, Ngài chẳng mong gì hơn là tha tội cho chúng ta. Chúa là tình yêu. Không phải dễ cho người Do Thái tin như vậy. Họ nhìn vào Chúa của luật, áp đặt các luật lệ Ngài trên dân chúng để trừng phạt khi họ vi phạm. Nên dân Do Thái nhìn Chúa như một vị Thẩm Phán, và loài người là tội nhân trước tòa án của Ngài. Họ nhìn Chúa như một Chúa hay đòi hỏi sinh tế và của lễ. Muốn ra mắt Chúa, loài người phải trả giá mà Chúa đã định. Thật khó cho họ nghĩ là Chúa không phải là một quan tòa chuyên tìm cách trừng phạt. Một ông cai chỉ chờ tìm cách vồ lấy công nhân, mà Ngài là người Cha tha thiết trông chờ đứa con đi hoang trở về nhà. Chúa Giêsu đã phải trả giá bằng đời sống và sự chết của Ngài để công bố cho loài người biết điều đó. Và chúng ta không thể trở thành Kitô hữu nếu chưa hết lòng tin như vậy.
b. Làm thế nào chúng ta biết chắc Chúa Giêsu hiểu rất rõ những gì Ngài nói? Có gì bảo đảm Phúc Âm kỳ diệu ấy là thật? Đến đây chúng ta đụng đến tín điều thứ hai. Chúng ta phải tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là tâm trí của Thiên Chúa, biết rất rõ Chúa Cha, thân cận mật thiết với Chúa Cha, vốn là một với Chúa Cha, đến mức Ngài có thể nói cho chúng ta biết chân lý tuyệt đối về Chúa Cha. Chúng ta phải tin chắc Chúa Giêsu biết rõ những gì Ngài nói, Ngài đã nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha, vì tâm trí của Chúa Cha vốn ở trong Ngài.
c. Nhưng lòng tin còn một yếu tố thứ ba nữa. Chúng ta tin Chúa là Cha yêu thương, vì chúng ta tin Chúa Giêsu là con của Chúa Cha, vì thế những gì Ngài nói về Chúa Cha đều đúng thật. Đến yếu tố thứ ba, chúng ta phải đặt mọi sự trên cơ sở những gì Chúa Giêsu nói là đúng thật. Chúng ta phải làm theo tất cả những gì Ngài chỉ dạy. Khi Ngài dạy, chúng ta phải đặt mình, không chút do dự, vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta làm theo như vậy. Chúng ta phải tin lời của Ngài. Mỗi hành vi, cử chỉ nhỏ nhất trong đời sống đều phải được thực hiện trong sự vâng lời Ngài không chút nghi ngờ.
Như vậy, niềm tin có ba yếu tố: tin Chúa là Cha yêu thương của chúng ta; Chúa Giêsu là Con Chúa Cha, do đó Ngài cũng nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha và đời sống; và vâng phục Chúa Giêsu cách vững vàng không chút nghi ngờ.
2. Mệnh đề quan trọng thứ hai là sự sống đời đời. Chúng ta đã học biết sự sống đời đời là chính sự sống của Chúa, hãy đặt vấn đề: “Nếu được sự sống đời đời, cụ thể là chúng ta được gì?”. Được sự sống đời đời thì đời sống sẽ như thế nào? Khi hưởng sự sống đời đời thì mọi mối liên hệ trong đời sống đều được bao phủ bằng sự bình an.
a. Sự sống đời đời cho chúng ta sự bình an với Chúa, chúng ta không còn sợ sệt như trước mặt một vị vua độc tài, hay tìm cách lẩn tránh một quan tòa nghiêm khắc, nhưng chúng ta được ở trong nhà với Cha mình.
b. Sự sống đời đời là an hòa với mọi người. Nếu chúng ta được tha thứ, chúng ta phải biết tha thứ, nó khiến ta có thể nhìn người khác như Chúa nhìn họ, có thể hòa hợp với mọi người thành một đại gia đình sống trong thương yêu.
c. Sự sống đời đời cho chúng ta sự an hòa với đời sống. Nếu Chúa là Cha, thì Ngài điều hành mọi sự để tất cả trở thành tốt lành. Lessing thường nói, nếu được hỏi con Nhân sư (Sphin, con vật đầu người mình sư tử, theo truyền thuyết Ai Cập, thông suốt mọi sự) một câu thì ông sẽ hỏi nó, “Vũ trụ này có phải là một vũ trụ thiên thần không?” Khi chúng ta tin Chúa là Cha, thì phải tin bàn tay của người cha chẳng bao giờ làm con cái mình nhỏ lệ cách không cần thiết. Chúng ta có thể không hiểu rõ về cuộc đời, nhưng chúng ta sẽ không còn oán tránh nó nữa.
d. Sự sống đời đời khiến chúng ta an hòa với chính mình. Nói cho cùng, con người sợ chính mình hơn bất cứ gì khác. Ta biết sự yếu đuối của mình, biết sức mạnh của những cơn cám dỗ, biết các công việc và những đòi hỏi của đời sống mình. Ta biết mình vẫn đương đầu với mọi điều đó nhưng có Chúa ở cùng. Không phải là ta sống nữa, nhưng là Chúa Cứu Thế sống trong ta, trong đời mình có sự bình an được thiết lập bằng sức mạnh.
e. Sự sống đời đời khiến ta biết chắc sự bình an sâu xa nhất của thế gian chỉ là cái bóng của sự bình an tuyệt vời sắp đến. Nó cho ta một hy vọng, một mục đích để tiến tới đời sống kỳ diệu quang vinh trên đất này, và đồng thời một đời sống tốt đẹp vô cùng ở tương lai.
TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA (Ga 3,16)
Tất cả các vĩ nhân đều có những đoạn văn riêng mình ưa thích. Đoạn văn trên đây là “Bản Văn Của Mọi Người”. Đây chính là Phúc Âm cho tất cả những tấm lòng đơn sơ. Bản văn này nói với chúng ta một số điều quan trọng.
1. Nguồn gốc và khởi đầu của cứu rỗi là từ Thiên Chúa. Đôi khi Kitô giáo đã được trình bày như là chúng ta phải đến thuyết phục Chúa để xin Chúa chấp thuận hòa giải với chúng ta, như là Chúa phải được thuyết phục mới bằng lòng tha tội cho chúng ta. Có khi người ta vẽ ra một bức tranh về Thiên Chúa nghiêm khắc, giận dữ, không dung thứ và khư khư nắm chặt lề luật. Nhiều khi người ta trình bày thông điệp Kitô giáo như là Chúa Giêsu đã làm một điều gì đó thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với loài người, từ xử phạt ra tha thứ. Nhưng câu Kinh Thánh trên cho chúng ta biết rằng mọi sự là do Chúa khởi đầu. Chính Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian vì Ngài yêu thương nhân loại. Đằng sau mọi sự đó là tình thương của Chúa.
2. Nguồn mạch chính của bản chất Chúa là tình yêu. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang nhìn vào nhân loại vô tâm, không vâng lời, phản loạn, và phán rằng: “Ta sẽ đánh gục chúng, kỷ luật chúng, trừng trị, xử phạt và giáng tai họa cho đến chừng nào chúng chịu hồi tâm”. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang tìm cách đàn áp loài người để thỏa mãn quyền hành của Ngài, để hoàn toàn chế phục vũ trụ. Nhưng bản văn phi thường này cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang hành động, không phải vì chính Ngài, mà vì chúng ta. Ngài không hành động để thỏa mãn ước muốn cầm quyền của Ngài, để giầy đạp vũ trụ dưới gót chân, nhưng là nhằm thỏa mãn tình yêu của Ngài. Ngài không phải là vị bạo chúa độc tài, đối xử với mọi người như thần dân, bắt phải tuân phục vô điều kiện. Ngài là người Cha không thể vui, cho đến khi những đứa con hoang đàng của mình trở về. Ngài không đàn áp loài người khiến họ phải đầu phục, Ngài trông mong và dịu dàng kêu gọi họ trở lại với tình thương của Ngài.
3. Chiều rộng của tình yêu Chúa là cả thế gian. Ở đây không phải là một quốc gia, không phải chỉ những người tốt lành, thánh thiện, không phải chỉ những người biết yêu mến Ngài, nhưng toàn thể nhân loại. Toàn thể những người khó yêu và chẳng có gì đáng yêu, người cô đơn chẳng được ai yêu, người yêu mến Chúa lẫn người chối bỏ tình yêu của Ngài, người chẳng bao giờ suy nghĩ đến Ngài cùng người yên nghỉ trong tình yêu của Ngài, tất cả đều được bao gồm trong tình yêu bao la, bao hàm tất cả của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã nói: “Chúa yêu mỗi người chúng ta dường như chỉ có một mình ta để Ngài yêu mà thôi”.


Chú giải của Noel Quesson
Trong trí óc của chúng ta, Thánh Giá liên kết với ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Và ngày Thứ Sáu Tuần Thánh vẫn còn là dịp để suy niệm về sự “đau khổ" là cuộc khổ nạn, cho dù Tin Mừng của Thánh Gioan với bài tường thuật ngày hôm đó thật ra đã nhấn mạnh đến “cường quyền " của Đức Giêsu. Một truyền thống Phụng vụ lâu đời đã muốn cử hành lễ Suy tôn Thành Giá, cây Thập Giá Vinh quang, từ ngày 14 tháng chín năm 335 lúc hoàng đế Constantin vùa mới trở lại đạo. Và vợ vua, thánh nữ Hélène, cho xây dựng Vương cung Thánh đường Anastasis (tiếng Hy-lạp nghĩa là Phục sinh) tại Giêrusalem, trên địa điểm đồi Gôn-gô-tha và Mộ thánh. Lúc đó ngày lễ Suy tôn Thánh Giá mau chóng trở thành lòng sùng kính của đại chúng ở Phương Đông và từ thế kỷ thứ V chuyển sang Phương Tây.
Lời cầu nguyện trong ngày lễ này, không quên những khổ đau của thập giá, nhưng làm nổi lên giá trị của vinh quang thập giá “cây cao quý hơn mọi cây, là biểu hiệu vinh dự được chọn để mang Đấng Cứu Thế”.
Oi Thánh giá cao quý hơn cây bá hương, nơi sự sống của thế gian bị đóng đinh.
Trên ngươi, Đức Kitô đã chiến thắng, sự chết của Người tiêu diệt sự chết.
Lạy Cứu Chúa Giêsu, vinh quang thuộc về Chúa, thánh giá của Chúa, đem lại cho chúng con sự sống.
Thánh ca ngày hôm đó, do Venance Fortunat, vị Giám mục tương lai của thành Tours soạn năm 568, lần đầu tiên được hát ngày 19 tháng 11 năm đó trong một đám rước do Thánh Grêgôri thành Tours dẫn đầu cũng tán dương khía cạnh vinh quang của thánh giá.
Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống
Đoạn văn này rút ra từ diễn từ bài nói với ông Nicôđêmô. Người ta nhớ rằng Nicôđêmô một thân hào Pharisêu, thầy dạy Luật đã đến gặp Đức Giêsu ban đêm khung cảnh ban đêm này thấm đẫm một bầu khí mầu nhiệm. Thật vậy tất cả chúng ta đều ở trong đêm tối trước mặt Thiên Chúa. Như Nicôđêmô, tất cả chúng ta đều là những người "mò mẫm đi tìm trong đêm tối". Ở đây, Đức Giêsu mạc khải rằng những chuyện trên trời chỉ người nào từ trời xuống mới biết được Thập giá là một phần của các thực tại thánh thiêng và chỉ có thể hiểu được trọn vẹn bởi "Đấng từ trời xuống".
Chúng ta hãy ở trong tình trạng sẵn sàng để lắng nghe sự mạc khải sẽ được bày tỏ cho chúng ta trong đêm tối.
Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc
Tin Mừng thường dùng những kỷ niệm của Kinh Thánh. Giai thoại "con rắn bằng đồng" rất nổi tiếng. Trong cuộc xuất hành trong sa mạc Sinai, những người Do Thái đã bị những con rắn có vết cắn cháy bỏng tấn công (Ds 21, 6-9). Nọc độc của chúng làm chết người. Môsê đã cho treo một con rắn bằng đồng trên một cây gậy cắm ở giữa trại. Cây gậy rắn thần ấy là hình ảnh thần thoại mà các thầy thuốc tiếp tục dùng làm huy hiệu, và họ thường gắn vào xe họ. Con rắn bằng đồng này là "Rắn chữa lành": "Vì bất cứ ai ngước trông lên đều được cứu, không phải do bởi vật họ nhìn, nhưng là do chính Ngài, Đấng cứu độ muôn dân hết thảy" (Kn 16,7). Chúng ta thấy rằng theo cách giải thích này của sách Khôn Ngoan, thì điều chính yếu không phải là một cử chỉ ma thuật, và như thể tự động, mặc dù bề ngoài là thế. Cái nhìn ngước lên con rắn bằng đồng không tự nó cứu sống, như thể đó là một cử chỉ phù thủy hướng về một thứ bùa ngải. Quả thực, cách giải thích của các giáo trưởng cho rằng cách cụ thể ấy là dấu chỉ của đức tin, đó là hành động quay về với Thiên Chúa Đấng cứu chữa!
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy
Như thể đến lượt mình, chúng ta được mời gọi người trông lên thánh giá, để được chữa lành. Chúng ta phải dám nhìn vào Đấng chịu đóng đinh, Đấng được giương cao trên đời và trên thập giá.
Có khi nào tôi nhìn thẳng vào ảnh chuộc tội để cầu nguyện không?
Và như thế, hôm nay chúng ta được đưa vào mầu nhiệm đặc biệt của vinh quang thập giá. Gioan thánh sử đã chọn từ "giương lên" (uspathènai trong tiếng Hy Lạp) một cách có chủ ý, để đồng thời nói rằng Đức Giêsu được thập giá đưa lên khỏi mặt đất về mặt thể chất nhưng còn được đưa lên một cách mầu nhiệm trong vinh quang của thánh giá. Tin Mừng của Gioan sẽ dùng cách chính xác cùng một từ để nói với chúng ta rằng Đức Giêsu được đưa lên bên hình của Chúa Cha, bởi sự sống lại và lên trời (Ga 3,16; 8,28; 12, 32-34). Buổi chiều thứ sáu ấy, Thánh Gioan là người duy nhất trong các tông đồ còn dám đứng lại dưới chân thánh giá. Ngài đã không bao giờ quên được hình ảnh đó từ lúc được ánh sáng Phục sinh chiếu rọi. Từ đó, trong suốt 70 năm, ngài đã suy niệm về thánh giá và ngài đã mang lại cho chúng ta kết quả suy niệm ấy bằng cách đặt nó vào chính miệng của Đức Giêsu, bởi một phương thức cổ điển trong thời cổ đại.
Đối với Gioan, Thánh Giá và Phục sinh là cùng một mầu nhiệm được diễn tả bằng một từ duy nhất này: Đức Giêsu đã được nâng lên khỏi mặt đất! Đối với Ngài "chịu đóng đinh" tương đương với "được suy tôn". Đối với Gioan, sự thăng thiên được cất lên bắt đầu từ ngày thứ Sáu tuần Thánh. Thật vậy nếu sự sống lại của Đức Giêsu như một chữ ký của Thiên Chúa trên mọi công việc của Đức Giêsu, thì sự sống lại không phải là một sự biện minh "sau đó". Lễ Phục sinh không đến để xóa bỏ Thánh giá, như thể Thánh giá đã là Vinh quang của Thiên Chúa. "Giờ đây Con Người được tôn vinh" (Gioan 13,31), Đức Giêsu đã nói ngay khi tiến trình Cứu nạn mới bắt đầu bởi sự phản bội của Giuđa. "Phần tôi một khi giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.
Vậy NGÀY HÔM NAY, chúng tôi được mời gọi ngước mắt nhìn lên Đấng đã được "giương cao". Một người HyLạp có văn hóa chỉ có thể nhìn trong thập giá của Đức Giêsu một sự điên rồ dã man, một công dân La Mã chỉ nhìn thấy ở đó hình phạt cho dân nô lệ, một người Do Thái chỉ nhìn thấy ở đó một nguyền rủa của Chúa. Nhưng đối với Thánh Phaolô, đó chính là sự "khôn ngoan của Thiên Chúa" (1Cr 1,23). Cái chết tự nguyện của Đức Giêsu rõ ràng là một cái chết vì yêu chứ không phải là do phạm tội sát nhân. Thánh giá của Đức Giêsu là đỉnh cao của đời sống yêu thương. Tình yêu mến của Chúa Con đối với Cha Người. Tình yêu thương huynh đệ phổ quát với các anh em tội lỗi.
Là đỉnh cao của sự đau đớn nơi con người, Thánh giá cũng là đỉnh cao của sự Mạc khải của Thiên Chúa. Thánh giá là lễ hiển linh của Ba ngôi! Ý nghĩa sâu nhất của Thánh giá là phải tìm hiểu trong chính hữu thể của Thiên Chúa: "Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”. Thánh giá mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là ai: hành động thuần túy của tình yêu, sự hiến thân thuần túy. Hành động tình yêu tối cao này mà chúng ta gọi là một tình yêu điên rồ thì hoàn toàn và mãi mãi "tự nhiên" đối với Con của Chúa Cha. Thật ra Thánh giá chỉ là sự diễn tả cụ thể điều mà Ngôi Lời không ngừng thực hiện từ muôn thuở: Hiến dâng mình cho Đấng Khác (tha thứ tuyệt đối) không giữ lại điều gì lại cho chính mình.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
Vâng, tình yêu tột cùng ấy đã đốt cháy trái tim của con người ấy, Đức Giêsu, và làm cho Người chết vì tình yêu tình yêu này chính là dấu chỉ của một tình yêu tột cùng khác, tình yêu của Chúa Cha, Đấng cũng yêu thương bằng một tình yêu điên rồ đến nỗi đã ban Con Một của Người. Như thế, nghịch lý của Thánh giá đã được khám phá: Vốn là dấu chỉ của ô nhục, Thánh giá trở thành dấu chỉ của vinh quang. Trong đức tin, thế giới này mà sự ác, sự chết, sự phi lý thống trị trở thành một thế giới "được Thiên Chúa yêu thương". Thánh giá dựng lên ở Giê-ru-sa-lem. Và ở trung tâm của mọi đời sống Kitô hữu không ngừng cao rao rằng cả điều phi lý không còn là phi lý nữa, trong ánh sáng tăm tối của Thiên Chúa. Nếu chúng ta chấp nhận cách nhìn của Thiên Chúa, những đau khổ của chúng ta có thể thay đổi dấu chỉ": Từ tiêu cực chúng có thể trở thành tích cực trong Đức Giêsu.
Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời
Chấp nhận cái nhìn của Thiên Chúa chính là “tin”. Đức tin cho chúng ta là một cái nhìn mới về mọi sự, đặc biệt về tội lỗi, sự chết và sự ác. Thế giới này đối với chúng ta đôi khi có vẻ quá xấu xa với nhtlng thù hận, áp bức, những thói ích kỷ của nó, thế mà Thiên Chúa yêu thương nó! Không, Người không yêu sự ác này, nhưng bởi vì Người biết nó chưa hoàn tất. Người đã tạo dựng thế giới này để "dẫn đưa nó về sự hoàn thiện". Một ngày kia, sẽ không còn nước mắt, khóc than, tang tóc" (Khải Huyền 21,4). Nhưng không có một sự suy luận thuần túy nào dẫn chúng ta đến kết luận đó. Duy chỉ đức tin cho chúng ta đi trước thời gian và nhìn thấy điều không thể thấy (Dt 11,1) khi "chiếm hữu được điều mà chúng ta hy vọng".
Phải, đời sống vĩnh cửu đã bắt đầu đối với những ai tin. Nhớ đến điều đó há chẳng quan trọng sao, khi người ta đương đầu với những đau khổ triền miên và không thể chữa lành được.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ
Thiên Chúa là Đấng Hằng sống đích thực. Bên trên sự phi lý của sự chết. Người ban cho chúng ta sự sống của chính Người. Đó là sứ điệp chính yếu của toàn bộ Tin Mừng. Thiên Chúa muốn cứu tất cả mọi người. Thiên Chúa muốn cứu toàn thể thế gian. Người đã làm tất cả vì điều đó. Sứ mạng của Đức Giêsu là của Thánh Giá của Người, là dấu chỉ chiến thắng, vinh quang. Lạy Cứu Chúa Giêsu, vinh quang thuộc về Chúa, Thánh giá. Chúa ban cho chúng con sự sống.
Đây là cây sự sống, nơi Ađam mới hiến dâng máu Người để quy tụ mọi người trong một Nhiệm Thể duy nhất. Đây là cây sự sống nơi Đấng Chí ái của Chúa Cha mở những cánh cửa của Nước Thiên Chúa cho nhân loại. Đây là cây sự sống nơi Đấng vô tội bị nhục mạ gánh hết tội lỗi của chúng ta, để giao hòa đất với trời.


 Chú giải của Fiches Dominicales
THIÊN CHÚA ĐÃ YÊU THẾ GIAN ĐẾN NỖI ĐÃ BAN
CON MỘT, ĐỂ AI TIN VÀO CON CỦA NGƯỜI…
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa
Trong khi bầu khí căng thẳng do việc Chúa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ gây ra chưa lắng dịu, thì ông Nicôđêmô, một kỳ mục trong dân tìm gặp Đức Giêsu. ông đến vào lúc đêm tối, nhằm giữ kín sự việc, nhưng dưới ngòi bút của Gioan nó mang một ý nghĩa tượng trưng: phải chăng Nicôđêmô đang ở trong bóng tối tim đến ánh sáng?
Cuộc đối thoại mở đầu với đề tài phải tái sinh. Đức Giêsu tuyên bố: "Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bới nước và Thần Khí" (3, 5).
Rồi từ câu 11 trở đi, cuộc đối thoại biến thành độc thoại. Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy bằng cách kể lại những biến cố trong lịch sử dân Israel. Người nhắc đến biến cố bí ẩn trong sách Xuất Hành: con rắn đồng được treo lên làm dấu hiệu, chẳng những được hoàn tất, mà còn bị vượt lên trên trong biến cố khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Người.
+ Ngày xưa, thời xuất hành trong hoang địa, con cái Israel vì kêu trách và thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa, nên đã bị rắn độc tràn ra cắn chết nhiều người. Sách Dân Số thuật lại (21,4-9): bấy giờ ông Môsê treo một con rắn đồng lên cao: hễ ai nhìn lên con rắn đồng vòi lòng tin thi được thoát chết. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1 6,7).
+ Dấu chỉ giờ đây nhường chỗ cho thực tại mà nó ám chỉ, đó là sự hiện diện của Đức Giêsu, Môsê mới, là Lời hằng sống ban sự sống của Thiên Chúa. Bị treo lên", Đức Giêsu cũng sẽ bị treo lên bởi những kẻ đóng đinh Người vào thập giá; Người sẽ được nâng lên bởi Chúa Cha, Đấng đón nhận Người vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa (8,28-30). Và cũng như xưa, hễ ai nhìn lên con rắn đồng thì được sống, ngày nay hễ ai nhìn lên "Con người" bị đóng đinh và " phục sinh thì được Người ban cho sự sống đời đời.
- Nguồn gốc của hành vi cứu độ này không cần tìm đâu xa, nó ở ngay trong tình thương điên dại của Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô đối với thế gian. X. Léon-dufour diễn tả: “Ở trọng tâm của tất cả mọi sự và đặc biệt của vai trò Con Người và của con đường đi đến thập giá, ta thấy Thiên Chúa yêu thương thế gian. Lời xác quyết nêu bật Thiên Chúa và tình thương của Người như thực tại tuyệt đối. Tình thương đi trước mọi sự, cũng như trong Lời Mở Đầu, ánh sáng thần linh của Ngôi Lời soi chiếu mọi người trong bóng tối. Thiên Chúa thương yêu chỉ có một ý định là ban ơn cứu độ và sự sống (Lecture de L'evangile selon Jean, cuốn 1, Seuil, trang 305-306).
Như thế, ở đây, thập giá được trình bày như địa điểm mạc khải tình thương của Thiên Chúa, một biểu lộ tối hậu là nguồn mạch sự sống.
2. Mời gọi ta đáp trả
Đến đây coi như Nicôđêmô biến mất. Đức Giêsu xem như đối thoại với một nhóm thính giả, chính là chúng ta ngày nay:
Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa tỏ bày qua Đức Giêsu Con Ngài, luôn kêu mời sự đáp lại của con người có tự do. Và nó đòi một lời đáp ngay lúc này, đối diện với Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ngay bây giờ, cuộc xét xử đang được thực hiện:
Hoặc từ khước Thiên Chúa, đóng cửa không đón tiếp, mù quáng không muốn nhận ánh sáng, chìm đắm trong tối tăm và bị luận phạt. Hoặc cởi mở đón nhận ánh sáng, đón nhận sự cứu độ của Thiên Chúa, và như thế tất cả đều thay đổi, vì mọi hoạt động của ta sẽ được nhìn nhận như những hoạt động của Thiên Chúa, và trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Người.
 X. Léon Dufour giải thích thêm: "trong những câu chúng ta vừa đọc, thái độ lựa chọn hay từ chối đều thể hiện trong lời đáp trả của con người trước Đấng Thiên Chúa sai đến. Một đặc điểm quan trọng khác là: sự sống vĩnh cửu và luận phạt đời đời không chỉ được thi hành vào ngày thế mạt, nó được thực hiện ngay trong giây phút hiện tại, ngay khi gặp gỡ Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu, lập tức được sống, trái lời, từ khước tin Chúa, con người tự ý chọn lựa cái chết (vĩnh viễn), mà Thánh Kinh thường ám chỉ bằng câu "bị xét xử”. (Sđd, trang 308-309).


BÀI ĐỌC THÊM
1. "Cái nhìn cứu sống"
(G. Bessière, trong "Dieu si proche" năm B, DDB, trang 42-43).
Đem câu chuyện con rắn đồng so sánh với Đức Giêsu, kể cũng hơi lạ thường! Câu chuyện lạ thường này có ý nghĩa gì đây? Truyền thống Thánh Kinh có thuật rằng, trong cuộc Xuất hành, khi dân Do thái bị đói, bị khát đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Họ đã phải chịu hình phạt: những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc cho dân. Nhưng rồi Thiên Chúa đã xót thương. Người truyền cho ông Môsê treo con rắn bằng đồng lên cột cao: "Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống" (Ds 21, 8)
Ở đây sự so sánh nằm ở từ "treo lên”, Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tìm kiếm sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu, nếu kẻ ấy "tin" Đức Giêsu ban sự sống, và Ngài ban cách sung mãn. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Bởi đâu có ân huệ vô biên thoả mãn mọi ước muốn như vậy: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Người đã ban chính Con duy nhất của Người”. Nguồn gốc không thể diễn tả đó, chính là tình thương phát xuất từ mầu nhiệm cao siêu mãnh liệt đối với muôn loài muôn vật.
Viễn tượng thật hết sức lạc quan. Có người chủ trương rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến tiêu diệt những kẻ ô nhơ, tội lỗi. Đức Giêsu lại bày tỏ thái độ chống lại chủ trương tàn bạo này. Thiên Chúa không sai Con của Người đến để phán xét, nhưng "để nhờ Người mà thế gian được cứu sống".
Nếu có ai cố tình giam hãm mình trong sự dữ, hay trong bóng tối, thì không phải Chúa luận phạt, mà chính họ đã chọn bóng tối cho mình.
Phải chăng như vậy là nói rằng những người ngoài Kitô giáo, nghĩa là không gắn bó với Đức Giêsu, đều bị mất phần rỗi? Thánh Gioan nhìn nhận rằng sự gặp gỡ Thiên Chúa còn sâu xa hơn; nó được thể hiện trong sự thành tâm, trong giá trị của các hành động và trong sự mở rộng tâm hồn ra với người khác. Thánh sử đề cập cuộc tranh luận này khi viết: "Phàm ai thực thi chân lý, thì đến với ánh sáng”
2. Một cuộc sống được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện
(Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp "Thư gởi những người công giáo Pháp", Cerf, trang 55-56).
Sau hết, tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa làm thay đổi cách thế hoạch định cả cuộc sống trần thế, và khiến ta hiểu khác đi lịch sử của ta trong thế giới này, và cả cách hoàn tất lịch sử đó nữa. Bởi vì "cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8,38-39).
Mặc dầu chúng ta chia sẻ những ưu tư của thế giới này, chúng ta vẫn tin rằng cuộc sống con người như được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện, mà không gì làm thay đổi được và rằng ân sủng của Thiên Chúa hằng theo dõi và sẽ còn theo dõi trong mọi hoàn cảnh của lịch sử chúng ta. Và chúng ta cũng hy vọng rằng cái chết, đôi khi là cái chết tàn bạo, không chấm dứt số phận chúng ta, bởi vì Chúa hứa cho ta sống lại và sống vĩnh cửu.
Đứng trước những nỗi sợ hãi của thời đại chúng ta, chúng ta không thể im lặng về kết cục của số phận con người, dưới ánh sáng của Tình Thương. Giao ước của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong thế giới mới, thế giới đã được biến đổi, mà chúng ta mong đợi. Niềm hy vọng này luôn nâng đỡ những người (nam cũng như nữ) đang đấu tranh chống lại sự chết và những quyền lực của sự chết, những người dám hiến dâng sự sống mình vì tình yêu Đức Giêsu Kitô.


Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
Câu 13: Chúa Giêsu là Đấng mặc khải duy nhất
Câu này quá rõ ràng, xác quyết rằng sự hiểu biết duy nhất đích thực về Thiên Chúa là sự hiểu biết do Đấng từ trời xuống, Con Người. Cựu Ước thường gợi nhớ niềm mơ ước có được sự hiểu biết trực tiếp về Thiên Chúa: “Ai lên trời rồi lại xuống?” (Cn 34,4). Tác giả sách Khôn Ngoan tự hỏi: “Việc trên trời ai phát minh được” (9,16-18).
Chúa Giêsu là Đấng mặc khải mà ông Nicôđêmô (và qua ông, dân Do thái) đã không nhận biết (x. 1,18; 6,46; 14,7-9). Từ yêu sách này, Chúa Giêsu và qua Người, các Kitô hữu, không những chống lại những người Do thái đương thời, cả đến những người thân cận như ông Nicôđêmô, mà còn chống lại những người ngộ đạo tự hào đưa ra một sự hiểu biết các mầu nhiệm của ta ngoài Chúa Giêsu.
Câu 14-17: Nội dung mặc khải của Chúa Giêsu
Để tạo uy tín cho lời nói của mình, trước hết Chúa Giêsu đặt nó vào trong lịch sử Israel. Sự mới mẻ mà Người mang đến, cần phải là sự hoàn tất mọi điều Kinh Thánh. Con rắn được giương cao trong sa mạc, theo sách Dân Số 21,4-9, đã giải thoát các người Do thái bất trung khỏi phải chết. Từ giai thoại bí nhiệm này, chúng ta nên lưu ý những điểm có thể làm sáng tỏ điều mặc khải tiếp sau:
a) Con rắn được giương cao, giống như con người sẽ được treo lên thập giá. Có sự giống nhau từng chữ.
b) Sự chết đe dọa dân tộc là do sự cứng lòng tin. Dân Do thái được cứu độ không phải bằng một nghi thức phù phép, mà bằng một nghi thức đầy ý nghĩa tượng trưng, đó là đức tin vào Thiên Chúa. Tác giả sách Khôn Ngoan đã hiểu rất rõ điều đó: “Ai nhìn lên (con rắn) sẽ được thoát, không phải nhờ xem điềm lạ đó mà được khỏi, nhưng tại nhờ vào Ngài là Cứu Chúa muôn loài” (16,7). Quả thật, ơn cứu độ do Thiên Chúa mà có.
c) Hiểu rộng hơn, việc tham chiếu với đoạn nói về con rắn bằng đồng kết nối sự giáng thế của Chúa Giêsu với những biến cố Xuất hành. Chúa Giêsu là một Môsê mới, và chắc chắn đối với Thánh sử, Người còn hơn thế nữa.
Con Người sẽ phải được giương cao để ai tin vào Người thì được sống muôn đời Quả thật Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời
Câu này tóm gọn mặc khải; ở đây chúng ta đang đứng trước những “chuyện trên trời” được nói đến ở câu 12. Nên lưu ý đến kết cấu Do thái song song: cách phân chia câu cú có thể giúp nhận ra những thành phần của câu tương ứng với nhau: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”; hoàn cảnh và các tác nhân cụ thể gây nên cái chết của Chúa Giêsu không được phơi bày ở đây. Thánh sử chỉ giữ lại sự “nhất thiết” (phải) ăn rễ sâu trong ý định của Thiên Chúa. Việc dùng thì thụ động tiếp sau đó có thể là một cách hành văn để tránh phải dùng đến từ “Thiên Chúa”. Kết cấu bản văn chứng tỏ sự song song giữa Thiên Chúa yêu thương và Người được giương cao. Từ câu này chúng ta nhận ra bản tóm lược sự mặc khải, chúng ta thử dẫn ra những điểm sau đây:
a/ Trong Tin Mừng Gioan, sự nâng lên tương ứng với việc treo lên thập giá (x. 2,28; 12,31-34). Tại sao việc bị treo lên thập giá, “điều ô nhục đối với người Do thái, sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cl 1,23) lại là tuyệt đỉnh mặc khải nơi Gioan (x. 19,31-37)?
b/ Điều đó bởi vì thập giá là nơi phơi bày tình yêu của Thiên Chúa. Từ này xuất hiện ở đây lần đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Đặc biệt nó sẽ được lặp lại trong phần thứ hai của Tin Mừng. “Thiên Chúa đã yêu đến nỗi đã ban Con mình”: cả hai động từ đều được dùng ở thì quá khứ vô định, một sắc thái của thì động từ không dùng trong tiếng Pháp, chỉ định một thời điểm rõ ràng và chính xác (hội nhập vào bước đường lịch sử của Chúa Giêsu và kết thúc trên thập giá). Chính nhờ ân huệ này của Thiên Chúa mà Gioan có thể nói đến tình yêu. Đó là tình yêu hiển thị (1Ga 4,10). Việc nhập thể chính là sự biểu lộ tình yêu mà đỉnh cao là thập giá.
c/ Thập giá không phải là nguồn ơn cứu độ ở khía cạnh một của lễ đền tội đẫm máu. Chính bởi vì nó là cách diễn tả cao cả nhất của tình yêu Thiên Chúa, cho nên nó là nguồn sự sống cho các tín hữu. Chúng ta không nên nhìn thập giá như nơi Thiên Chúa trút cơn thịnh nộ, nơi Chúa Con bị Chúa Cha từ bỏ để cứu độ chuộc tội lỗi loài người. Nơi đây Chúa Con và Chúa Cha thông hiệp cùng một tình yêu dành cho nhân loại. Prométhée chịu hình phạt của chúa tể trên chính tảng đá mà chúa tể đã xử phạt mình vì đã mang lửa cho loài người. Và ca đoàn lý giải các nguyên do hình phạt bằng những lời lẽ này: “Đó là kẻ thù của Zeus, kẻ đã chấp nhận sự căm hờn của mọi thần linh vì đã quá yêu loài người”. Trong Tin Mừng của Gioan, tình yêu loài người được Thiên Chúa Cha và Con cùng chia sẻ.
d/ Cho dù ông Nicôđêmô đã biến mất cách lạ lùng, thì cũng một chủ đề đó kết nối phần thứ hai của bài trần thuật với phần bài mà ông có mặt: ông này, ngờ vực, đã không muốn tin rằng một người đã già có thể sinh ra lần thứ hai. Ở đây chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa trên thập giá có năng lực làm cho những ai tin vào Người được sống muôn đời.


Hạt giống… nảy mầm của Trọng Hương
* LỊCH SỬ
Lễ Suy Tôn Thánh Giá hôm nay bắt nguồn từ Giêrusalem.
Ngày 3.9.335 người ta long trọng cung hiến đại thánh đường ANASTASIS do hoàng đế Constantin ra lệnh cho xây trên mồ của Chúa Giêsu. Ngày 13.9 cũng là ngày kỷ niệm tìm được Thánh Giá thật. Ngày 14.9, một ngày sau cuộc thánh hiến thánh đường mới để cho dân chúng lần đầu tiên đến tôn thờ, kính viếng.
Sau này, người ta liên kết thánh lễ này với việc hoàng đế Heraclius chiếm lại được thánh giá thật vào năm 628 ; trong một trận chiến, người Ba Tư theo Hồi Giáo đã chiến thắng và lấy đi cây Thánh Giá này. Hera clius phải chiến đấu cật lực để đem Thánh Giá trả về chỗ cũ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Bài Tin Mừng nói đến con rắn đồng thời sa mạc. Con rắn đồng ấy là hình ảnh tiên trưng cho chính Chúa Giêsu là Đấng sẽ được treo lên Thập giá. Ai tin vào Ngài và ngước nhìn lên Ngài thì sẽ được cứu độ.
Ý tưởng chính của Lời Chúa hôm nay là: tội lỗi của con người - lòng nhân từ của Thiên Chúa - Thiên Chúa dùng những phương tiện (mà cao quý nhất là chính Chúa Giêsu) để tha thứ và cứu độ loài người.
B. ... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu mời Nicôđêmô và chúng ta nhìn lên Thánh giá. Nhìn lên Thánh giá, chúng ta sẽ thấy gì? Thấy tội lỗi của chúng ta ; thấy tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa ; và nếu cái nhìn của chúng ta thấm đượm lòng sám hối, tin tưởng và mến yêu thì chúng ta sẽ được ơn cứu độ.
2. Hình con rắn đồng đã được loài người dùng làm biểu tượng cho ngành Dược. Ngày xưa trong sa mạc, con rắn đồng đã cứu dân Israel khỏi chết thì ngày nay các dược phẩm cũng cứu loài người khỏi nhiều thứ bệnh tật. Nhưng con rắn đồng ngày xưa và những dược phẩm ngày nay cũng chỉ là một chút bóng mờ của chính Chúa Giêsu trên thập giá. Chính Chúa Giêsu trên thập giá mới là linh dược chữa trị mọi thứ bệnh tật và cái chết của linh hồn. Khi ta bệnh, ta tìm thuốc uống. Khi linh hồn ta bệnh, ta có tìm đến thập giá Chúa Giêsu không?
3. Kỹ sư Frank Denton được giao nhiệm vụ thiết kế những bộ y phục đặc biệt cho những nhà phi hành vũ trụ. Một trong những phần quan trọng nhất của mỗi bộ y phục này là một ống dây cung cấp dưỡng khí cho các nhà phi hành. Khi thiết kế xong ông đặt tên cho 2 bộ y phục của 2 phi hành gia ấy, một là J 3.16 và bộ kia là J 3,17. Đó chính là 2 câu trong bài Tin Mừng hôm nay: Ga 3,16 là “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Còn Ga 3,17 là “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Ý của nhà thiết kế này là cầu mong cho cuộc du hành vũ trụ của các phi hành gia được an toàn nhờ sự che chở của Chúa: cũng như những bộ y phục đặc biệt cung cấp dưỡng khí rất cần thiết để giúp các nhà phi hành có thể đi từ vệ tinh mẹ đến vệ tinh con thế nào, thì Chúa Giêsu cũng rất quan trọng và cần thiết để giúp mỗi người chúng ta đi từ đất lên đến trời (Kể theo Mark Link, Sunday homilies, Year B).
4. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16)
Đã nhiều lần con ngước nhìn Thập giá, để rồi thấy hiện diện một Tình yêu. Nhưng tận sâu thẳm tâm hồn, vẫn chẳng cảm nhận Tình yêu ấy dành cho con, vì chưa nhận ra tình yêu ấy chính là bao giọt mồ hôi của cha, sự dịu hiền chăm sóc của mẹ, mối quan tâm của thầy của bạn, và tình thương của bao người xung quanh.
Lạy Chúa là Đấng yêu thương, xin cho con biết mỗi nghĩa cử yêu thương con làm đều có giá trị thánh hóa con và mọi người, để tiếp tục qua con, mọi người nhận ra Tình yêu Chúa (Hosanna)
Thập Giá, con đường về trời
Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khuôn mặt, bất kỳ lúc nào cũng có thể ngước nhìn lên trời. Khi thức cũng như khi ngủ, và ngay cả khi đã bị chôn vùi trong lòng đất, mặt chúng ta cũng vẫn còn hướng lên trời. Vậy hướng lên trời để làm gì? Tôi xin thưa là để chúng ta nhớ rằng chúng ta còn có một người Cha đang mong chờ chúng ta, cũng như để chúng ta xác tín rằng Nước Trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Vậy thì để tìm về với Chúa, để đạt tới quê hương Nước Trời, chúng ta phải làm gì?
Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa đã xác quyết: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Thế nhưng con đường ấy như thế nào? Phải chăng là một con đường ngợp những cánh hoa. Tôi xin thưa không phải là như thế, nhưng là một con đường vừa khúc khuỷ, vừa nhỏ bé mà ít người muốn đặt chân vào. Và cụ thể hơn nữa, đó là con đường đau khổ, con đường thập giá như lời Người đã xác quyết: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Đó là con đường duy nhất, rẽ ngang vào một lối khác, chắc chắn thế nào chúng ta cũng bị lạc.
Thực vậy, muốn được vào Nước Trời, chúng ta phải có công nghiệp, mà muốn có công nghiệp, chúng ta phải vác lấy thập giá mình. Công nghiệp của chúng ta mặc dù là nhỏ bé nhưng lại là một sự cộng tác cần thiết cho chính bản thân chúng ta được cứu rỗi. Bởi đó chúng ta đừng vội lẩm bẩm kêu trách mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách. Trái lại hãy coi đó là một diễm phúc vì được làm chính việc của Chúa, vì được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Hơn nữa những khổ đau chúng ta phải chịu trong cuộc sống hiện tại, sẽ không thể nào sánh ví được với hạnh phúc trường tồn vĩnh cửu mà chúng ta sẽ được đón nhận trên quê hương Nước Trời.
Có một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng vắng, ngày đêm không lúc nào ra khỏi chiếc lều ẩm thấp và chật hẹp. Ấy là chưa kể đến những hình khổ mà thầy dùng để đánh tội. Ngày kia có mấy người quý phái đến thăm, họ hết sức ngạc nhiên khi thấy thầy hãm mình một cách nghiêm ngặt. Họ hỏi thầy làm sao mà thầy có thể chịu đựng nổi. Thầy bèn chỉ vào một kẽ nứt bằng bàn tay trên vách núi và nói: Chính cái đó đã giúp đỡ tôi. Vì mỗi khi thân xác tôi muốn nổi loạn, thì qua kẽ nứt ấy tôi nhìn thấy bầu trời, và qua bầu trời tôi nhớ tới quê hương vĩnh cửu và đích thật của tôi.
Thực vậy, những giọt nước mắt ngày hôm nay nhỏ xuống, thì ngày mai sẽ kết thành những trái chín của hạnh phúc Nước Trời, bởi vì nhờ những giọt nước mắt khổ đau ấy mà chúng ta trở nên giống Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được sống lại với Người. Bởi vì chính Ngài đã long trọng công bố: Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an.
Ba cuộc đời - ba cách chết
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Đó chính là Thầy Giêsu ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau? Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?
Trước hết đó là Thầy Giêsu, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian. Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: "yêu thương và phục vụ cho" người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại "mọi sự đã hoàn tất" và nói cùng Chúa Cha "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha".
Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: "Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi". Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giêsu, anh chỉ mơ ước Thầy Giêsu nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng. Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.
Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp nhận thập giá trên vai anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau khổ. Cái chết làm cho anh nổi loạn. Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giêsu, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.
Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có người chấp nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời. Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường. Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người. Amen.
Suy tôn Thánh Giá – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tuần báo Thế Kỷ Kitô, xuất bản bên Hoa Kỳ có kể lại kinh nghiệm sau đây của một vị linh mục công giáo tại bang Carolina vào Tuần Thánh.
Để giúp các tín hữu trong giáo xứ suy niệm về mầu nhiệm thập giá, linh mục này cho dựng một cây thập giá cao to, bằng gỗ sơn đen ngay trong sân nhà thờ. Chẳng may trong ngày hôm đó, có người xưng mình là đại diện cho hãng du lịch trong vùng gọi điện thoại đến khiếu nại. Lý do như sau: khách du lịch đi qua trước nhà thờ không thích nhìn thấy cây thập giá đen thui này, họ muốn xem những gì vui tươi hơn. Đó là câu chuyện của đời này ở bên Hoa Kỳ. Nhiều người đã quên hay cố quên mầu nhiệm thập giá trong đời sống đức tin, nhưng không phải chỉ là chuyện đời này mà thôi, ngay từ thời xa xưa, thời các thánh tông đồ cũng đã xảy ra như thế. Thánh Phaolô đã thốt lên rằng: "Nhiều người sống nghịch lại thập giá Chúa. Họ chỉ sống theo cái bụng, chạy theo lợi lộc, ham vui". Thập giá Chúa còn có ý nghĩa gì đối với người Kitô hôm nay chăng?
Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá, Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh từ trời xuống của chính mình như là Con Thiên Chúa: "Không ai đã lên trời, ngoài trừ Con Người, Đấng từ trời xuống". Tự nó, thập giá là chặng dưới đất và thực tại đau buồn do con người tạo ra, nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó thì cần phải đóng đinh Con Thiên Chúa vào đó, cần phải hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn từ trên cao, trong cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian và chịu chết treo trên thập giá, để biến dấu chỉ của sự trừng phạt trở thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. "Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, như con rắn đồng của Môsê, để ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời". Chúa muốn ông Nicôđêmô nhìn về thập giá từ trên cao theo cái nhìn của chính Chúa, và lúc đó con người sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa dùng thập giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.
Như lời mời gọi của Chúa cho ông Nicôđêmô, cần phải đặt Con Thiên Chúa vào thập giá, cần phải treo Con Thiên Chúa lên thập giá, con người chúng ta có hiểu được ý nghĩa của thập giá? Thập giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ của sự thù ghét của con người đối với con người, của con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người biệt phái Pharisiêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa.
Mỗi người Kitô chúng ta hôm nay, nhân ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với thập giá Chúa. Phải chăng thập giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em? Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?
Lạy Chúa,
Xin thương dạy con hiểu biết, đón nhận và sống mầu nhiệm thập giá trong chính đời sống của con. Xin cho con một tâm hồn quảng đại, không chạy trốn trước lời mời gọi của thập giá Chúa, nhưng sẵn sàng để cho cuộc đời con được đóng đinh vào thập giá với Chúa, trở thành của lễ hy sinh, giúp anh chị em nhận ra tình yêu Chúa.
Chúa dùng Thánh Giá chuộc tội loài người
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Suy tôn Thánh giá. Thánh giá là một nghịch lý trong đạo Thiên Chúa giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng. Một đàng thánh giá là nguyên nhân thất vọng, tai họa và sự chết. Đàng khác Thánh giá mang lại nguồn hy vọng, toàn thắng và sự sống. Trước khi Đấng Cứu thế đến, thánh giá là hình phạt khiếp sợ cho tội nhân. Bị coi là một tội nhân nên Đức Giêsu phải chịu đóng đinh trên thánh giá với hai người trộm cướp. Ngày nay Thánh giá đã trở nên dấu hi vọng và toàn thắng cho người Kitô giáo. Đó chính là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định: Rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hi lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1,23-24).
Phúc âm hôm nay nhắc đến một việc khủng khiếp xẩy ra cho dân Chúa trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân chúng phàn nàn, kêu trách Chúa vì họ thiếu đồ ăn, nước uống, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến cắn. Rồi với lòng thương xót, Chúa lại truyền cho ông Môsê làm cây gậy đồng để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa khỏi (Ds 21,4b-9). Đức Giêsu coi việc treo con rắn đồng trong sa mạc là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để những ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,15). Thánh Phaolô cũng đã rao giảng về Đức Kitô chịu đónh đanh cho tín hữu Phi-líp-phê: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,8).
Như vậy theo Thánh kinh thì ơn cứu độ đến với loài người qua thánh giá và phục sinh. Thánh giá và phục sinh của Đức Kitô không thể nào tách rời được. Không có thánh giá, không thể có phục sinh. Không có phục sinh, không thể có sự sống vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao Giáo Hội có thể nói đến sự toàn thắng của thánh giá trong nền tảng thần học của thánh giá.
Người Kitô giáo không thể tin vào Đức Kitô mà lại chối bỏ thánh giá. Người Kitô giáo không thể chối bỏ thánh giá, mà phải tôn vinh Thánh giá như phương tiện cứu rỗi. Họ phải hãnh diện về biểu hiệu của Thánh giá. Tuy nhiên họ không được dừng lại ở thánh giá mà phải vượt qua thánh giá và tìm cho ra ý nghĩa của việc mang vác thánh giá. Vì có sự liên hệ giữa thánh giá và phục sinh mà Đức Giêsu mời gọi người môn đệ vác lấy thánh giá để theo Người (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23). Tại một một tiểu chủng viện kia trong quá khứ, các chủng sinh được ban giáo sư tập cho thói quen đặt thánh giá bên gối đầu giường để khi chưa ngủ được thì suy niệm về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh. Sau khi chịu chức linh mục, có linh mục kia vẫn giữ thói quen để thánh giá bên gối đầu giường. Khi không thấy thánh giá, linh mục đó cảm thấy như thiếu thốn một báu vật gì khiến cho linh mục đó cảm thấy khó ngủ.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhắc nhở người tín hữu về nền tảng của đức tin: qua thánh giá thì có triều thiên, triều thiên cứu rỗi, triều thiên đợi chờ những ai chạy tới cùng đích. Đối với người tín hữu, Thánh giá đã trở nên biểu hiệu của tình yêu thương bao la mà Thiên Chúa dành cho loài người. Do đó mà thánh Gioan Newman đã có thể đặt bút viết: Thập giá Chúa Kitô đã khiến cho những giá trị nhân bản phải được xét lại, bằng cách bầy tỏ một tình yêu mạnh đến nỗi đã san bằng hố sâu giữa sự sống và chết.
Nhìn quanh, người ta thấy biết bao người đang phải mang vác thánh giá về đau yếu, bệnh hoạn và tật nguyền về thể lý, tâm lý và tinh thần. Có những người uống thuốc chữa trị nhiều năm mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Có những người đi bác sĩ, nằm nhà thương liên tiếp, mà bệnh tật vẫn còn đó. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh băn khoăn, lo âu, sợ hãi và hiểu lầm trong suốt cả cuộc sống.
Nhiều người còn phải mang vác thánh giá của cảnh nghèo túng và đói khát, ta cầu xin Chúa cho đất đai của họ trở nên mầu mỡ để họ có thể sản xuất thực phẩm. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh kì thị, ta cầu xin Chúa là sức mạnh và nguồn hi vọng của họ. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh bách hại vì tin vào Chúa ngay cả trong thời đại ta đang sống ở những miền đất khác nhau trên thế giới, ta cầu xin Chúa là nguồn an ủi và là sức mạnh của họ, ban chọ họ lòng can đảm, cậy trông. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh chia li, ta cầu xin Chúa cho họ được đoàn tụ với người thân yêu. Nhiều người khác phải mang vác thánh giá của cảnh li dị, ta cầu xin Chúa hàn gắn những vết thương lòng của họ.
Cuối cùng ta cầu xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho những người phải mang vác những thánh giá khác nhau của cuộc sống để họ có thể biến đổi thánh giá thành dụng cụ của sự toàn thắng và ơn cứu độ.
Lời cầu nguyện cho những ai đang phải mang vác thánh giá của cuộc sống:
Lậy Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người!
Vì yêu thương nhân loại,
Chúa đã chịu đau khổ và vác thánh giá vì tội lỗi loài người
gồm tội lỗi của chính con.
Xin Chúa ban sức mạnh và niềm an ủi cho những ai
đang phải vác thánh giá của cuộc sống
về bệnh tật, đau khổ phần hồn, phần xác và tinh thần.
Xin Chúa làm vơi nhẹ những thánh giá của họ
và biến đổi thánh giá của họ thành dụng cụ cứu rỗi. Amen.
Học yêu Thánh Giá – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tình cờ tôi nghe bài hát “học yêu Thánh Giá”, từ web: mp3.zing.vn/bai-hat/Hoc-yeu-Thanh-Gia.
Lời ca ngắn gọn mà sâu sắc, giai điệu nhẹ nhàng cho tôi cảm nhận sâu lắng về tình yêu Thánh Giá Chúa Giêsu.
Thánh Giá là chữ T.
Người nằm giang tay chữ Y.
Là tình yêu, yêu đến tận cùng.
Yêu nhân gian chiều ngang.
Yêu đời mình chiều sâu.
Yêu Chúa là chiều cao.
Để tình yêu luôn mãi nhiệm mầu.
Thập giá là chữ T được tạo nên do hai thanh gỗ. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Trên thập giá, Chúa Kitô chịu đóng đinh dang tay thành chữ Y. Tình yêu là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống. Cả ba chiều kích ngang, sâu, cao của thập giá đều quy tụ nơi tình yêu của Đấng chịu đóng đinh. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh. Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha “đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11).
Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.
Ca nhập lễ ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá đã mượn lời của Thánh Phaolô trong thư Galat 6,14 để hân hoan hát lên: “Niềm vinh dự của chúng ta chính là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được sống và được phục sinh; chính Người cứu độ và giải thoát chúng ta”.
Kinh Tiền Tụng đã chú giải: “Thật vậy, xưa vì cây trái cấm, loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời; và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm nay thảm bại vì cây thập giá của Đức Kitô, Chúa chúng con”.
Thánh Bonaventura viết: “Thánh Giá là cây tòan hảo, được thánh hóa bởi Máu Chúa Kitô, mang đầy trái thơm ngon“. Cây Thánh giá còn được phong phú hóa như là một loài cây quý hiếm và tươi thắm diễm lệ, hoa trái tràn đầy trong lời trong kinh ‘A Rất Thánh Giá’: “Khen cây thánh giá ở giữa rừng phàm, nên giống báu lành, nên cây sang trọng, nên đơn linh nghiệm, nên tàu vượt qua biển hiểm thế nầy….Cây thánh giá tốt lành rất mực dìm dà êm mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình. Cội rễ, nhành lá, búp bông, hoa quả. Từ xưa đến nay, cây nào dám ví bằng cây thánh giá, từ cây thánh giá chở mình Chúa Cả đóng đinh trên cây thánh giá”.
Tại bãi biển Copacabana tối thứ sáu 26-7-2013 đi Đàng Thánh Giá, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn giảng Thập giá là: “Một tình yêu tuyệt vời khi đi vào tội lỗi của chúng ta và tha thứ cho nó, đi vào đau khổ của chúng ta và cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng. Đó là một tình yêu đi vào cái chết để chiến thắng nó và cứu vớt chúng ta. Thập giá của Chúa Kitô chất chứa tất cả tình yêu của Thiên Chúa, lòng thương xót vô biên của Ngài. Đây là một tình yêu mà chúng ta có thể đặt vào đó tất cả niềm tin của chúng ta, nơi chúng ta có thể tin tưởng. Các bạn trẻ thân mến, chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, chúng ta hãy phó thác vào Người một cách trọn vẹn! (x. Ánh Sáng Đức Tin, 16). Chỉ trong Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, chúng ta mới có thể tìm thấy phần rỗi và ơn cứu độ. Với Ngài, sự dữ sự đau khổ và cái chết không còn quyền thế, bởi vì Ngài cho chúng ta hy vọng và sự sống: Ngài đã biến Thập giá từ một công cụ của sự thù ghét, sự thất bại và sự chết thành một dấu chứng của tình yêu, sự khải hoàn và sự sống”.
Đức Thánh Cha nhắc lại sự kiện vào cuối Năm Thánh Cứu Độ 1984, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã muốn tín thác Thập Giá Chúa cho người trẻ và ngài nói: “Các con hãy đem Thánh Giá vào trong thế giới như dấu chỉ tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và loan báo cho tất cả mọi người rằng chỉ nơi Chúa Kitô chết và phục sinh, mới có sự cứu rỗi và ơn cứu độ” (Diễn văn với giới trẻ, 22 tháng 4 năm 1984). Kể từ đó, Thập Giá đã rong ruổi qua mọi đại lục, và đi qua các thế giới khác nhau nhất của cuộc sống con người, hầu như được thấm nhập bởi các tình trạng sống của biết bao nhiêu người trẻ đã trông thấy và đã mang Thập Giá đó. Không có ai đụng tới Thập Giá Chúa Giêsu mà không để lại một cái gì đó của chính mình, và không đem một cái gì đó của Thập Giá Chúa Giêsu vào trong cuộc sống của mình.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu.Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Chúa Giêsu chết trên thập giá, muốn minh chứng rằng Người yêu thế gian hơn yêu chính mình. Nơi thập giá,Chúa Giêsu chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là một tình yêu ở dạng thức cao nhất:Tình Yêu đến mức tận cùng, một Tình Yêu tự hiến trọn vẹn của Thiên Chúa. Yêu là hiến tế, là hy sinh chính mình. Hiến dâng chính mình vì thiện ích của kẻ khác. Chúa Giêsu hiến dâng chính mình trên thập giá như là sự đền bù vì ơn cứu độ nhân loại.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Chúng ta yêu mến, tôn thờ Chúa Giêsu trên Thánh Giá.Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.
Từ thập giá đến Thánh Giá – Lm Vũ Xuân Hạnh
Suy niệm lễ Suy tôn Thánh Giá, tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Thập giá đâu phải chuyện đùa, đâu phải cứ muốn vác là kê vai vác. Muốn vác phải bỏ mình! Chính vì thế, lời ấy trở thành một thử thách, còn hơn thế, là một thách thức lớn trong đời ta. Từ bỏ đã khó, từ bỏ chính mình lại càng khó. Nhưng Chúa không dừng ở đó, Người mời gọi ta đi xa hơn để theo Người: Từ bỏ chính mình vác thập giá. Lời Chúa quả là một đòi hỏi quyết liệt.
Suy nghĩ về lời mời gọi “Ai muốn theo Ta…” như thế, tôi lại đọc sứ điệp Giới trẻ lần thứ XV. Ngay từ đầu số 1 của sứ điệp, bằng những lời lẽ của một người cha đầy tình cảm, thân thiện và trìu mến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết cho các bạn trẻ: “Các bạn trẻ thân mến, cách đây 15 năm (trong những ngày Đại Hội Giới Trẻ lần thứ I năm 1985), cha đã trao cho các con cây Thánh Giá lớn bằng gỗ và mời gọi các con đem đi khắp thế giới như DẤU CHỈ TÌNH YÊU của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và để loan báo cho mọi người rằng chỉ nơi Đức Giêsu tử nạn và phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc, kể từ ngày đó, nhờ những cánh tay và những tâm hồn quảng đại, cây Thánh Giá này đã trải qua một cuộc hành hương dài không ngưng nghỉ qua các lục địa, hầu chứng tỏ rằng Thánh Giá luôn đồng hành với người trẻ và người trẻ luôn đồng hành với Thánh Giá”.
DẤU CHỈ TÌNH YÊU”! Đúng vậy, có hình tượng nào là biểu tượng của tình yêu lớn lao bằng Thánh Giá, có lý lẽ nào là bằng chứng hùng hồn của tình yêu cho bằng Thánh Giá. Chỉ có Thánh Giá mới là dấu chỉ tình yêu đúng nghĩa nhất, trọn vẹn nhất: Tình yêu của một người chết thay cho muôn người qua muôn thế hệ. Hơn thế nữa, tình yêu của một vì Thiên Chúa quyền năng đã làm người chết thay cho loài người.
Vì thế, chỉ có thánh giá mới là lẽ sống và hướng sống mà con người phải học lấy để sống và yêu. Cũng chính vì thế, chỉ có Thánh Giá, không chỉ cây Thánh Giá của Đức Thánh Cha trao - đúng hơn, cây Thánh Giá ấy là biểu trưng cho một tình yêu Thánh Giá mà Chúa Kitô thắp lên trong lòng người - mới xứng đáng được các bạn trẻ lãnh nhận và mang đi khắp thế giới, loan báo cho mọi người: “Chỉ nơi Chúa Kitô Tử nạn và Phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc”.
Cũng vậy, chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô, chỉ có tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thắp trong tâm hồn, mới đồng hành với người trẻ trên mọi nẻo đường cuộc sống, và người trẻ đồng hành với Thánh Giá để hô to trên khắp trần gian về một tình yêu Thánh Giá bằng lời và bằng đời chứng tá, thậm chí cả mạng sống để làm chứng tá. Hiểu lời Đức Thánh Cha như thế, tôi cũng muốn ngỏ với bạn dù ở lứa tuổi nào: Tình yêu Thánh Giá là một tình yêu mà chúng ta có được nhờ lãnh nhận từ nơi Chúa Kitô. Tình yêu ấy phải được thắp trong cuộc đời bằng cả cuộc đời của bạn, của tôi. Nếu được Thánh Giá đồng hành, can đảm chấp nhận để Thánh Giá đồng hành và cùng đồng hành với Thánh Giá, ấy chính là lúc bạn và tôi đang hướng về Chúa Kitô để làm trọn lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Bởi vậy, dẫu Lời Chúa là một đòi hỏi quyết liệt, và quyết liệt đến mức tưởng như vượt quá sức, thì Giáo Hội một khi lãnh nhận Lời ấy, qua vị Cha chung, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vẫn tiếp tục mời gọi ta tháp nhập thập giá cuộc đời mình vào Tình yêu của Thánh Giá Chúa Kitô để không chỉ Thánh Giá Chúa Kitô, mà chính ta từ nay phải là dấu chỉ của tình yêu Thánh Giá sau khi được tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thánh hóa. Trở nên dấu chỉ, ta sẽ nói cho mọi người rằng: Dẫu lời mời gọi bước theo Chúa có quyết liệt đến đâu, ta vẫn có thể vượt qua, vẫn có thể trung thành, miễn là ta chấp nhận đức tin, chấp nhận phó thác chính mình nơi tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô. Chỉ có đức tin mới làm cho ta đủ sức gánh lấy thập giá cả đời mình. Đức tin chính là đôi mắt của tâm hồn để nhìn Chúa Kitô đi trước trên đường thập giá mà bước theo sau.
Nếu hiểu thập giá là nỗi chông chênh, là nước mắt, là bệnh tật, là đớn đau trong đời, là tình yêu vắng bóng và cô đơn, buốt giá lên ngôi…, thì dẫu cho người có đức tin hay không có đức tin, đều phải chấp nhận vác lấy trong từng ngày sống của mình. Nhưng nếu tôi tin, tôi sẽ yêu mến cây thập giá của đời mình hơn. Đức tin sẽ cho tôi cảm nhận thập giá dễ chịu hơn , vừa sức hơn. Nếu tôi tin, tôi sẽ hiểu rất rõ rằng, cùng với Chúa Kitô, Đấng đã dùng Thánh Giá để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, sẽ làm cho thập giá đời tôi thành Thánh Giá. Và thập giá cuộc đời chỉ là giới hạn, sẽ được tình yêu Thánh Giá của Chúa Kitô thánh hóa, để những gì chỉ là giới hạn trong cuộc đời mang lấy giá trị vĩnh cửu. Khi tin vững như thế, khi yêu mến Thánh Giá Chúa Kitô, và chấp nhận bước theo Người như thế, thái độ chấp nhận ấy, chính là câu trả lời cho lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình…”.
Tắt một lời: Khi chấp nhận đồng hành cùng Thánh Giá, là đang hướng tới lời mời gọi của Chúa: “Ai muốn theo Ta...”. Nhưng khi lòng chấp nhận tin nơi tình yêu Thánh Giá và dám phó thác cho tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô, để từng ngày sống ta bước đi với Người, để tình yêu Thánh Giá của Người thánh hóa thập giá đời ta, biến thập giá ấy thành Thánh Giá mang ơn cứu độ và cứu chuộc, lúc ấy ta không chỉ hướng tới lời mời gọi của Chúa nhưng là đang thực thi lời mời gọi ấy. Vì lúc ấy chính là lúc ta chấp nhận vác Thánh Giá với Người cách dứt khoát nhất. Và khi chấp nhận vác Thánh Giá như thế, cũng chính là lúc ta chấp nhận từ bỏ mình cách triệt để nhất.
Lễ suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đã là người, không ai tránh khỏi thập giá. Thập giá có thể làm tê liệt hoặc hủy hoại con người, nhưng nó cũng có thể là phương tiện giúp người ta nhận ra sự thực về chính mình, giúp người ta gần gũi và tùy thuộc Thiên Chúa hơn.
1) Thập Giá
Khi một người đang đi xe trên đường, gặp một cây lớn nằm vắt ngang; việc đưa chiếc xe vượt qua cản trở này là một vất vả với họ; cây nằm ngang đường đúng là “thập giá”. Tùy cây đó lớn nhỏ mà người ta có thể vượt qua chướng ngại đó hay không. Chuyện cái cây vắt ngang đường chỉ là một hình ảnh, “thập giá” cũng có thể là “cây” mà người ta đã ấn trên vai Đức Giêsu, và bắt Ngài vác ra gò Sọ, nơi mà chẳng ai muốn cho mình. Trên đường đời, có bao nhiêu cản trở vắt ngang; nó có thể là những bệnh tật, những thất bại trong đường công danh sự nghiệp, điều không được như ý trên đường tình duyên.
Thập giá đã hủy diệt nhiều người, nếu người ta không vượt qua được mà cũng không sẵn sàng chấp nhận thập giá. Có nhiều người cảm thấy bất hạnh khi gặp những bệnh nan y, thế nhưng cũng có những người chấp nhận bệnh hoạn, và vui sống trong hoàn cảnh của mình. Có những người mắc bệnh phong, nhưng vẫn vui trong tình trạng và hoàn cảnh của họ; họ còn lạc quan hơn nhiều người không mắc bệnh gì.
Vượt qua cái cây đổ ngang trên đường, là điều có thể làm được. Tránh khỏi thập giá người ta ấn trên vai như trường hợp Đức Giêsu bị dẫn trên đường đến gò Golgotha, là điều không thể. Có lúc người ta vượt qua thập giá, nhưng có lúc người ta phải chấp nhận thập giá; chấp nhận thập giá cũng là một cách vượt qua thập giá. Đức Giêsu là người đã vượt qua thập giá bằng cách chấp nhận; và các Kitô hữu anh hùng tử đạo cũng là những người đã noi gương Đức Giêsu, vượt qua thập giá bằng cách chấp nhận; các ngài đã lãnh nhành thiên tuế.
2) Thập Giá của Đức Giêsu
Thời Đức Giêsu, người Do Thái sống dưới ách thống trị của người Roma, hình phạt chết treo thập giá là một điều khủng khiếp, một mối nhục. Người Roma không bị kết án chết trần truồng trên thập giá. Án thập giá chỉ dành cho những dân bị trị. Án thập giá là án ô nhục nhất giữa những hình phạt dành cho tội nhân. Đức Giêsu đã bị thi hành án ở gò Sọ, gần thành Yêrusalem, bên đường đi. Sở dĩ những người lãnh án bị hành hình nơi có người qua lại như thế, là nhằm răn dạy những người còn sống: nếu họ hành xử như vậy, họ cũng sẽ bị hình phạt như thế. Những người cầm quyền mong rằng, khi người ta nhìn thấy cảnh khủng khiếp của những tội nhân tử hình như vậy, người ta sẽ khiếp sợ mà không phạm tội nữa.
Đức Giêsu đã bị chết treo thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài bị người ta liệt vào đồng hàng với những người tệ nhất trên đời. Hình phạt tử hình thập giá cho Ngài như cao điểm thập giá trong đời Ngài, tuy nhiên thập giá đã không thiếu trong suốt đời Đức Giêsu. Sinh trong một gia đình nghèo, thiếu điều kiện sống và ăn học, cũng là thập giá đối với nhiều người; sống trong một làng nghèo, với nhiều người, cũng là một thập giá. Khi đi rao giảng, Đức Giêsu đã bị nhiều người chống đối; Ngài bị người ta cho là người mất trí, một kẻ lộng ngôn phạm thượng, một kẻ thuộc phe quỷ vì lấy quyền của tướng quỷ mà trừ quỷ, một tội nhân. Bao nhiêu chống đối, bao nhiêu bất lợi trên đời: đó cũng là những thập giá đối với Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã không bị hủy diệt bởi dư luận, bởi thế lực phàm trần. Người ta có thể vu oan giá họa cho Ngài, người ta có thể giết Ngài, nhưng người ta không thể bắt Ngài khuất phục. Ngài là con người tự do với tất cả: tự do với tiền bạc, tự do với dư luận khen chê, tự do với mọi thế lực hãm hại Ngài. Ngài vẫn cố sống cho ra người, trong mọi hoàn cảnh, và sống yêu thương. Tất cả những hoàn cảnh và thái độ của người ta đối với Ngài, vẫn không thay đổi được thái độ thẳm sâu của Ngài đối với mọi người: yêu thương. Ngài yêu thương tất cả con người, thông cảm với những giới hạn của con người, ngay cả đối với những người thù ghét và giết chết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết”.
3) Thập giá tôi luyện con người
Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Đường gian nan, sông khúc khuỷu, mới biết tay đua giỏi. “Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Con người ta lộ diện mình là ai, khi gặp những lúc gian nan sóng gió. Trước khi đưa một vật tưởng là vàng mà không phải là vàng thật vào lửa, người ta có thể lầm tưởng nó là vàng thật; nhưng một khi đưa nó vào lửa, lửa giúp người ta nhận ra sự thật: nếu là vàng thật nó sẽ không biến đổi, còn nếu là vàng giả thì nó sẽ biến đổi màu.
Thập giá giúp con người biết rõ về mình, biết mình là ai. Thập giá giúp mình nhận ra mình thật mong manh mỏng dòn, và cần Thiên Chúa giúp để có thể vượt qua những sóng gió chông gai trên đường đời. Thập giá, đối với những ai thuộc về Thiên Chúa, có thể giúp con người cậy dựa vào Thiên Chúa, tùy thuộc Thiên Chúa, gần gũi Thiên Chúa, thuộc trọn về Thiên Chúa hơn.
Thập giá không phải luôn luôn đến từ sự dữ, nhưng giả sử nếu nó do sự dữ thì con người vẫn chiến thắng sự dữ nhờ vào Thiên Chúa, như Đức Giêsu đã chiến thắng sự dữ nhờ Thiên Chúa. “Khi con người bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta”. Chính khi sự dữ giết được Đức Giêsu, thì lúc đó nó chiến bại. Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu. Thiên Chúa chiến thắng sự dữ. Những ai kết hiệp với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa, thì sẽ chiến thắng sự dữ, vì Thiên Chúa chiến thắng sự dữ qua chính người đó.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Bạn có kinh nghiệm thập giá làm hủy hoại con người không? Xin chia sẻ.
 Thập giá có khi nào làm người ta thăng hoa không? Xin bạn chia sẻ quan điểm và kinh nghiệm.
Chóp đỉnh của sự đau khổ!
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)
Kính thưa quý vị! Suy tư về Thánh giá là suy tư về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm Người. Vì thế, không ai có thể suy cùng, hiểu tận một mầu nhiệm quá lớn lao đối với nhân loại, là mầu nhiệm Thập giá.
Vâng! Bản thân Thập giá không có gì để suy tôn, nhưng chúng ta suy tôn về một mầu nhiệm của đau khổ, nơi đó Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại. Tại sao Thiên Chúa lại muốn cứu độ con người qua mầu nhiệm Thập giá? Thưa, chúng ta hãy so sánh hai vấn đề: ĐAU KHỔ và TÌNH YÊU.
Tình yêu càng lớn, đau khổ càng nhiều. Đó là quy luật, mà từ khi biết có tình yêu , người ta đã biết điều nầy. Bởi vì khi yêu, người ta mới đủ nghị lực cũng như can đảm để gánh lấy đau khổ. Còn nếu thiếu hương vị của tình yêu, người ta không thể gánh lấy đau khổ đến cùng.
Vâng! Với ý nghĩa đó, con người đôi lúc rất sợ “yêu”, bởi vì giá trị của tình yêu gắn liền với đau khổ. Nhưng khởi nguyên, Thiên Chúa không tạo ra đau khổ, đau khổ chỉ có mặt khi có sự đối nghịch với Thiên Chúa. Như vậy, cho thấy, đau khổ là hệ lụy của sự chống lại Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta hiểu được Thiên Chúa là sự hoan lạc vô biên, vì tận cùng của sự sống không phải là đau khổ. Như vậy, có mâu thuẫn khi nói: “Thiên Chúa là tình yêu”? Thưa hoàn toàn không. Bởi vì , nơi Thiên Chúa không có sự đau khổ, vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống. Đau khổ chỉ gắn liền với cái chết, chết tâm linh và chết thân xác.
Như vậy, vấn đề cứ quẩn quanh, lúc thì nói: Tình yêu gắn liền với đau khổ. Lúc thì nói: Đau khổ gắn liền với cái chết. Và người ta thường nói: “Chỉ có cái chết mới hết khổ”. Như vậy, hệ lụy của đau khổ chỉ có nơi thân xác?! Còn linh hồn thì sao?! Thưa, linh hồn chính là bảo tồn của sự sống. Ai cũng biết, sự sống nơi thế gian không là vĩnh cửu. Vậy sự sống vĩnh cửu ở đâu, nếu như không ở nơi có Thiên Chúa hiện hữu? Nhưng: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người , Đấng từ trời mà xuống” (Ga 3,13). Như vậy, vấn đề nằm ở nơi: “Đấng từ trời mà xuống”.
Đấng từ trời mà xuống” đã gánh lấy đau khổ cho nhân loại. Như vậy, tình yêu được nối kết và hiện hữu giữa nhân loại, nhờ “Đấng từ trời mà xuống”. Nên chi, chúng ta nói: “Thập giá là nơi tình yêu ngự trị”, bởi vì Thập giá không còn đơn thuần là nơi biểu thị sự đau khổ đơn phương. Mà là nơi đã có “Tình yêu” đồng hành. Vì đau khổ và nhục nhã nơi Thập giá đã được Thiên Chúa đóng ấn bởi Người Con Một của Thiên Chúa là đấng cứu chuộc Giêsu-Kitô. Vì: “Như ông Môi-sen đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (c 14). Để làm gì? Thưa , “để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (c15).
Từ đó, tình yêu được gắn kết với đau khổ, vì tình yêu đã tự nguyện gánh lấy đau khổ. Đau khổ không chỉ là án phạt của nhân loại, mà là nơi đó tình yêu đã song hành. Như vậy, Thập giá là nơi sự chết đã được “đóng đinh” nhân danh Đấng từ trời mà xuống. Đồng nghĩa, mọi sự khổ đau của nhân loại cũng được đóng đinh vào Thập giá, khi chúng ta nhìn lên Đấng đã được đóng đinh, được treo lên, được đâm thâu, chúng ta tin vào Người thì chúng ta được cứu độ.
Tình yêu và đau khổ không còn mâu thuẫn với nhau nữa, mà là đã song hành với nhau. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đã biểu lộ rõ ràng tình yêu của Ngài cho nhân loại. Chúa Giêsu không còn mãi trên Thập giá với sự chết của nhân loại. Nhưng từ đó, Người đã biểu dương quyền sống của Thiên Chúa và Đấng là Con Thiên Chúa cho mọi kẻ tin vào Người.
Như vậy, có thể nói tình yêu và đau khổ đã được Đấng từ trời mà xuống quân bình bởi sự hóa giải của Người. Từ đó , chúng ta nhận thấy rằng: Chóp đỉnh của Đau khổ chính là Thập giá. Nhưng Thiên Chúa đã dạy cho chúng ta rằng: Đau khổ của Thập gía sinh ra hoa trái, vì nơi đó không còn là sự trừng phạt của Thiên Chúa, mà là nơi đó tình yêu của Thiên Chúa đã biểu lộ và chuẩn nhận.
Con Rắn Đồng ngày xưa là biểu tượng của sự tha thứ của Thiên Chúa, nó chỉ là một vật tượng trưng về lòng xót thương của Thiên Chúa, chứ nó không phải là linh vật, nó không có sức mạnh cứu độ, nó chỉ nhờ vào Lời phán dạy Thiên Chúa mà thôi!
Nhưng Đấng từ trời mà xuống được giương lên trên Thập giá thì tất cả nhân loại được “cứu”, từ đó Thập giá và sự đau khổ của nó không còn là sự đau khổ đơn thuần, mà là nơi tình yêu ngự trị. Vì vậy, nơi đó được gọi là THÁNH GIÁ nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian. Chúng ta hãy đến mà thờ lạy.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con. Amen.
Thánh Giá, tình yêu bừng sức sống
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Nhìn lên thánh giá, suy nghĩ nông cạn và non nớt của loài người dễ cho rằng, đó là một thất bại to lớn. Người ta cũng dễ dàng nghĩ rằng, dấu vết của Thánh Giá chẳng qua chỉ là những kỷ niệm về một cái chết nhục nhã của một con người mà các Kitô hữu coi là vị lãnh đạo của mình, còn ghi lại nơi đời sống các Kitô hữu.
Suy nghĩ như thế là hời hợt, là dốt nát trước nội dung của bài học mà Thánh Giá gợi lại. Thực ra, đối với Kitô hữu, Thánh giá chính là hiện thân, là sự thành công lớn lao của một tình yêu vừa tận cùng vừa bất tận. Nói đúng hơn, đó là sự tận cùng của một tình yêu bất tận. Đó là một tình yêu vượt hết mọi rào cảng, vượt thắng tất cả sự tàn nhẫn và tội ác của con người. Đó là một tình yêu hạ mình, một tình yêu mà Thiên Chúa là Chúa trời đất đã hiến dâng chính mình để cứu lấy con người.
Nhìn lên Thánh Giá, các Kitô hữu không chỉ ôn lại một kỷ niệm, nhưng còn thấm thía nỗi đau trong tâm hồn, vì họ nhận ra dấu vết khủng khiếp do tội lỗi chính mình gây ra. Từ giữa bóng đêm tội lỗi ấy, lại tuôn trào sức sống Phục Sinh khơi nguồn từ Thánh Giá Chúa Kitô.
I. TỪ THÁNH GIÁ BỪNG LÊN ƠN PHỤC SINH
Mừng lễ Suy tôn Thánh Giá Chúa, ngắm nhìn Thánh Giá Chúa, ta chỉ thấy một nỗi im lặng bao trùm. Nhưng chính trong ý nghĩa của thinh lặng Thánh Giá, ta lại nghe bằng chính nội tâm mình tiếng gào thét của một sức mạnh vô cùng: sức mạnh của một Tình Yêu đời đời bền vững. Sức mạnh của Tình Yêu trường cửu làm bừng lên ơn Phục Sinh giữa những tăm tối của nỗi chết chóc.
Ngay buổi chiều ngày Phục sinh, Chúa Kitô đã hiện ra với các môn đệ. Sau khi ban bình an, “Chúa cho các ông xem tay và cạnh sườn” của mình. Cho xem tay và cạnh sườn cũng đồng nghĩa với việc Chúa cho xem dấu vết kinh hoàng của Thánh Giá. Nhưng buổi chiều hôm Phục Sinh, thánh Tôma lại vắng nhà. Ông đã tỏ dấu nghi ngờ và đòi kiểm chứng sự kiện Phục Sinh. Đúng một tuần lễ sau, Chúa Phục Sinh đã đáp ứng đòi hỏi và giải tỏa nghi ngờ của thánh Tôma. Người hiện ra và bảo: “Tôma, đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Trước dấu chứng hùng hồn của Thánh Giá trên thân thể Đấng Phục Sinh, thánh Tôma chỉ còn biết run rẫy, cúi đầu thú nhận: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 19-31).
Chúa Kitô đã phục sinh. Nhưng Chúa chỉ phục sinh sau Thánh Giá. Vì thế, sự Phục Sinh dù vinh hiển và khải hoàn đến đâu, vẫn không thể xóa nhòa bất cứ một dấu ấn nào của Thánh Giá trên thân thể Đấng Phục Sinh. Nơi Chúa Kitô, hội tụ cả hai: Thánh Giá và Phục Sinh. Để có Phục Sinh cần có Thánh Giá. Như vậy, trước Phục Sinh đã có Thánh Giá. Thánh Giá đi trước và Phục Sinh đi sau, làm thành cuộc Vượt Qua có một không hai trong lịch sử, làm nên lịch sử và thánh hóa lịch sử. Thánh Giá khơi nguồn ơn Phục Sinh. Từ Thánh Giá, bừng lên ánh sáng chói ngời của ơn Phục Sinh. Bởi Đấng đã ngang qua Thánh Giá vào Phục Sinh vẫn khắc sâu dấu Thánh Giá nơi thân thể mình dù đã phục sinh, vì vậy, Thánh Giá:
- Không bao giờ mai một trên bàn thờ, trong từng hiến lễ. Chính vì thế, Chúa Kitô vẫn tiếp tục dâng hy tế của mình để tuôn trào ơn Phục Sinh mỗi khi dân Chúa cử hành mầu nhiệm Vượt Qua.
- Không bao giờ mai một trong Hội Thánh. Chính vì thế, Hội Thánh từ ngàn xưa, vẫn không ngừng đón nhận những thử thách và ngày càng lớn lên trong mọi thử thách ấy.
- Không bao giờ mai một trong nhân loại. Chính vì thế, nhân loại vẫn gánh lấy sức nặng của chính mình để tồn tại, để phát triển.
- Không bao giờ mai một trong lịch sử. Chính vì thế, lịch sử còn đó rất nhiều vết máu loan vương vãi, sẽ còn tiếp tục loan máu để gầy dựng một trang sử không phải cho quốc gia này, thế lực kia, dân tộc nọ, nhưng là một trang sử Thánh, chứa đựng ơn cứu độ loài người.
- Không bao giờ mai một trong sự sống của thụ tạo. Chính vì thế, "nếu thụ tạo đã từng ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người” (Rm 8, 19), sẽ còn tiếp tục “rên xiết và quằng quại đau đớn như sắp sinh nở” (Rm 8, 22) cho đến ngày chuyển vào “trời mới đất mới” (Kh 21, 1).
- Không bao giờ mai một trong đời người. Chính vì thế, đời người vẫn còn đó nhiều đau đớn, ưu phiền, tang tóc…
Và mãi mãi sẽ không bao giờ mai một. Nhân loại vẫn còn, thụ tạo vẫn còn, vẫn còn đó dấu ấn vô cùng của Thánh Giá.
Nếu Chúa Kitô đã phục sinh ngang qua Thánh Giá, chúng ta cũng sẽ như Chúa của mình, sẽ phải đón nhận Thánh Giá, rồi vào vinh quang Phục Sinh. Bước theo Chúa, vác Thánh Giá để đến Phục Sinh, đó là hành trình tất yếu, sẽ không bao giờ vắng bóng trong đời người.
Vì thế, dấu vết kinh hoàng của Thánh Giá trên thân thể Đấng Phục Sinh còn là một nhắc nhở cho ta về khuôn mặt tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu, Thiên Chúa đã cúi mình thật sâu trong thân phận con người để ta được diễm phúc làm con Thiên Chúa.
II. THÁNH GIÁ, BÀI CA TUYỆT MỸ CỦA TÌNH YÊU
Mãi mãi, dấu Thánh Giá vẫn không bao giờ mai một trong Hội Thánh nói riêng và trong nhân loại nói chung, để bất cứ nơi đâu, nếu nhìn thấy bóng dáng Thánh Giá, người ta nhận ra rằng, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu chung thủy, vẫn mãi mãi hiện diện giữa lòng đời. Đó là bài ca tuyệt mỹ của tình yêu tuyệt đối.
Thánh Gioan đã ghi nhận lời của Chúa Giêsu, cũng chính là ghi nhận lời của Tình Yêu không cùng ấy: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin ở Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). “Yêu… đến nỗi đã ban”, Cụm từ tuy đơn giản nhưng khắc họa sự lớn lao hết sức của tình yêu, đủ nói lên tất cả sức mạnh, tất cả sự tha thiết, tất cả sự mãnh liệt của một tấm lòng yêu thương. Còn hơn cả một lòng yêu thương mà chúng ta vẫn bắt gặp nơi nhiều anh chị em, bởi Đấng đã “Yêu… đến nỗi đã ban” ấy không phải là tình yêu con người dành cho nhau, nhưng là tình yêu của Đấng Tạo Thành dành cho thụ tạo của mình. Đó là Tình Yêu của Thiên Chúa hiến dâng cho loài người. Và tình yêu mà Thiên Chúa đã trao hiến ấy, không phải là cái gì bên ngoài Thiên Chúa, nhưng là chính bản thân Thiên Chúa, là chính Đấng phát xuất từ giữa cung lòng Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, là hiện thân khôn tả của tình yêu vô cùng mà Thiên Chúa dành cho loài người.
Vì thế, khuôn mặt thập giá của Chúa Kitô là bằng chứng hùng hồn nhất, là tiếng nói mạnh mẽ nhất, là nét bút tuyệt vời nhất, là vết khắc sâu sắc nhất về một tình yêu bền vững có một không hai trong lịch sử nhân loại, tình yêu của Thiên Chúa từ trời cao dành cho người trần thế. Bởi vậy, cái chết của Con Người chịu đóng đinh kia, cho thấy chiến thắng của tình yêu siêu phàm. Cái chết uy hùng kia biểu dương một tình yêu mạnh hơn sự chết, có sức tiêu diệt hận thù và làm phát sinh từ trong cái chết của tội lỗi loài người một nguồn sống vô tận cho cả loài người.
Nơi Thánh Giá, chúng ta nhận ra rằng, chính khi tội ác của con người lên đến cao điểm, thì cũng là lúc tình yêu của Thiên Chúa dâng cao tột cùng. Nơi Thánh Giá, tình yêu chiến thắng tội ác; sự sống chiến thắng sự chết; ánh sáng chiến thắng bóng tối; tha thứ chiến thắng hận thù. Đó cũng chính là phương tiện mà loài người dùng để khử trừ Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mình, lại được Thiên Chúa dùng để quay lại cứu độ loài người.
Vì thế, Thánh Giá, nơi Thiên Chúa hiến trao Con Một mình, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian, lại chính là nơi cứu chữa cả một đoàn con đông đảo trên khắp trần gian. Và Thánh Giá, nơi sĩ nhục không gì bằng, lại trở nên vinh quang vô cùng cho tất cả những ai tin. Bởi tất cả những ai tin, sẽ thuộc về Chúa Kitô và sẽ được Người cứu thoát như chính Người đã từng tuyên bố: “Chúa Cha yêu thương Người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời” (Ga 3, 35-36).
III. KẾT LUẬN
Hôm nay, tôn thờ Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vô cùng, vì Người đã yêu thương ta đến nỗi không còn kể mình nữa, miễn là ta được sống. Muôn đời, Thánh Giá là bài ca tuyệt mỹ của một Tình Yêu tuyệt đối: THIÊN CHÚA YÊU CON NGƯỜI. Thiên Chúa yêu đến nỗi “đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin ở Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Chúa Giêsu đã chấp nhận chết và chết trên Thánh Giá. Đó là lời nói cuối cùng, vô giá của tình yêu. Bởi “không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Vì thế, tình yêu mà Chúa Giêsu diễn tả qua Thánh giá là một tình yêu không còn bất cứ cái gì sánh ví. Thánh Giá, mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa, là cuốn sách giá trị tuyệt đối, mà ở đó, những trang sách viết đầy hai chữ “TÌNH YÊU”. Cuốn sách ấy mở ra cho con người ơn bình an vô cùng, khiến con người hạnh phúc và reo vui vì được giải thoát.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Chúng con ca tụng Tình Yêu diệu kỳ của Chúa đã làm cho chúng con được tái sinh trong sự sống. Xin cho chúng con luôn ý thức Tình Yêu mà Chúa dành cho chúng con, để chúng con sống suốt đời cho Tình Yêu của Chúa, và ngày càng xứng đáng với mối tình siêu nhiên ấy.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con điều khó khăn trên mọi điều khó khăn, đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Chúa trong mọi nỗi khổ đau của đời con. Xin cho con đủ sức và lâu bền đi trên chính con đường Thánh Giá mà Chúa trao, để chúng con được thấy tình yêu chia sẻ và nâng đỡ của Chúa trong suốt mọi chặng đường Thánh Giá của cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, xin cho mỗi lần nhìn lên Thánh Giá là một lần chúng con ý thức ngày một hơn lòng thương xót của Chúa vẫn bao trùm lấy cuộc đời chúng con, để biết cảm tạ Chúa bằng lòng yêu thương anh em xung quanh suốt đời chúng con. Amen.
Thánh Giá Chúa là nguồn phúc vinh
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày 14 tháng 9, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa với niềm vui vì được cứu độ. Ngày hôm nay, Thánh Giá được trình bày cho các tín hữu không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để tự hào và không có khóc lóc. Lễ này khởi đi từ hai sự kiện lớn là khánh thành là cung hiến đền thờ Calvario và Mộ Thánh ở Thánh Địa do bà Helena, mẹ vua Constantin (khoảng năm 270, 280 đến 337), hoàng đế Roma cho xây cất năm 335. Ngày 14 tháng 9 còn là ngày mừng vì tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326.
Cuộc chiến thắng của người Kitô giáo trước quân Ba Tư vào thế kỷ thứ VII, giúp tìm lại Thánh Giá Chúa và cung nghinh về Giêrusalem là sự kiện thứ hai. Từ đó, ở Giêrusalem có lễ Suy Tôn Thánh Giá vào ngày 14 tháng 9. Tuy nhiên với dòng thời gian, lễ này có một ý nghĩa riêng, vì được cử hành với niềm vui của mầu nhiệm Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, được Đức Kitô dùng để cứu độ thế gian.
Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để «tán dương» Đức Kitô: «Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang» (Pl 2, 8 -11). Thánh Gioan lại đề cập đến Thập Giá là khí cụ để cứu độ con người: «Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời» (Ga 3, 14).
Như thế, Thánh Giá là Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, Thánh Giá ban tặng cho nhân loại ơn sủng và ơn tha thứ. Nên «chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta» (Ca nhập lễ).
Giáo hội cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa, nhờ Đấng bị đóng đinh, chúng ta được đưa về trời cao, vứt bỏ sau lưng tội lỗi thế gian để đạt tới sự thiện trên trời. Chúng ta hát mừng Chúa sống lại hiển vinh, vì bởi cây Thánh Giá niêm hân hoan tràn ngập khắp địa cầu. Còn hạnh phúc nào hơn từ cây Thánh Giá; vì chính nhờ cây Thánh Giá, nguồn vinh phúc, ơn cứu độ chúng ta được phục hồi. Thật vậy, nếu không có cây Thánh Giá, Đức Kitô đã không bị đóng đinh, sự sống đã không bị treo lên gỗ giá, máu và nước, nguồn suối trường sinh đã không chảy ra từ cành sườn để rửa sạch tội lỗi thế nhân, bộ mặt kẻ tội lỗi đã không bị lột trần, chúng ta sẽ không được tự do và không được hưởng nhờ ơn phúc từ cây sự sống. Nếu như không có Thánh Giá, thiên đàng không được mở, sự chết không bị chôn vùi, mọi thủ đoạn của hỏa ngục sẽ không được phơi bày ra. Thánh Giá thật cao cả và quí giá biết bao. Cao cả, vì Đức Kitô đã chiến thằng khải hoàn trước mọi đau khổ, Thánh Giá phát sinh sự thiện với biết bao kỳ công. Quí giá, vì Thánh Giá vừa là sự khổ đau vừa là khí giáp của Thiên Chúa. Là khổ đau, vì chính nhờ cây thánh giá Đức Giêsu đã hoàn toàn chịu chết ; là khí giáp, vì ma quỉ đã bị tổn thương và đánh bại, sự chết đã bị Đức Giêsu tiêu diệt vĩnh viễn; cửa Hỏa ngục bị đập tan và Thánh Giá trở nên ơn cứu độ cho toàn thế giới. Thánh Giá được gọi là vinh quang của Đức Kitô, và tán dương Người. Chúng ta nhìn thấy nơi Thánh Giá, chén của ao ước và tất cả mọi khổ đau mà Đức Kitô đã phải chịu vì chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.
Lời mời khó – Anmai
Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9, 23)
Ở đời! Có chăng người ta sẽ hăng hái bước đi theo ai đó, đi tìm điều gì đó nhẹ nhàng và thênh thang, êm ái và dịu chàng chứ chẳng ai đời lại muốn đi tìm cái khổ, cái khó cả.
Thoạt đầu, xem ra lời mời gọi khó nghe và nghịch lý nhưng ở khi đối diện với thực tại của cuộc đời, ai cũng có cây thập giá của đời mình. Và nếu như ai vui lòng vác những đau khổ, những vất vả thì đến cuối cuộc đời, đến cuối chặng đường sẽ cảm thấy lòng thanh thản và được hưởng vinh quang cùng với Đấng đã vui lòng vâng phục Chúa Cha.
Thập giá, từ xưa đó chính là dấu chỉ, là biểu tượng, là hình ảnh, là dụng cụ để người ta thi hành án tử cho tên tử tội. Với Chúa Giêsu cũng vậy, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi cây thập giá khi thi hành án. Án tử người ta dành cho Chúa Giêsu cũng chỉ vì cái tội kiêu ngạo. Cũng vì loại trừ, vì khước từ một Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Độ trần gian cho nhân loại, những người Do Thái thời Chúa Giêsu đã tìm đủ mọi cách để khử trừ Đấng đó ra khỏi cuộc đời này khi có dịp.
Cái tội kiêu ngạo đẩy con người vào con đường chết đó không phải có vào thời Chúa Giêsu nhưng nó đã có từ khi con người xuất hiện. Chính ông bà nguyên tổ đã đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình vì tưởng rằng sau khi ăn trái cấm như lời con rắn dữ mời gọi họ sẽ hơn Thiên Chúa.
Vẫn là cái tội kiêu ngạo không chấp nhận thân phận thụ tạo của mình.
Trong cái thân phận là thụ tạo, điều chính yếu, điều căn cốt nhất mà con người phải nhận ra đó chính là mình chẳng là gì cả, tất cả là nhờ Chúa và bởi Chúa. Khi ý thức như vậy, con người sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản. Và ngược lại, khi con người không nhận ra căn cốt của đời mình thì con người sẽ nổi loạn để rồi lại bất phục tùng và cảm thấy mệt mỏi khi phải vác thập giá của đời mình.
Trong dòng chảy lịch sử cứu độ, những khuôn mặt, nhưng hình ảnh của những con người đau khổ vẫn còn đó như là bài học cho những ai bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Những khuôn mặt đó, nhìn thấy quả là đau khổ bởi lẽ không còn gì đau khổ hơn nhưng những người đó vẫn đi theo Chúa cho đến cùng.
Khuôn mặt sáng, khuôn mặt đẹp mà ta nhìn ngắm phải chăng là khuôn mặt của ông Giob. Đọc lại cuộc đời của ông. Nỗi đau tột cùng của ông sẽ không đau lắm khi ông là người bình thường mà lại rơi vào cảnh mất mát, đau thương cả tinh thần lẫn thể xác. Nỗi đau càng giày vò ông khi cuộc đời của ông đang sống trong vinh quang, trong phú quý và có thể nói là đỉnh, là điều mà nhiều người mơ ước với cái cơ nghiệp, con đàn cháu đống cùng với đàn súc vật thật đông. Nỗi đau sâu hoẵm đó nó khoét đời ông và thử thách niềm tin của ông khi những người bạn đến thách thức ông. Đau hơn nữa đó chính là lời phỉ báng, lời kém tin của người vợ của ông. Nhưng, trong những thử thách đó, lòng ông vẫn đơn thành: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về lòng đất cũng trần truồng. Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi. Người muốn sao nên vậy: xin chúc tụng danh Chúa. Mình biết đón nhận ơn lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận sao?” (G 1,21 ; 2,10b)
Lịch sử lại cứ trôi và cuộc đời vẫn chảy. Ta lại bắt gặp hình ảnh của người môn đệ đã hoàn thành cách xuất sắc khi bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá.
Nhìn, nghe, đọc những trang giấy trong sách Thánh, ta sẽ thấy những đau khổ của người môn đệ đau khổ đến tột cùng là Đức Trinh Nữ Maria. Thấy thôi chứ không cảm được đau khổ mà Mẹ phải chịu.
Thập giá ập đến ngay cuộc đời của Mẹ khi Mẹ nhận lời sứ thần truyền là mang thai Đấng Cứu Độ. Sẽ bị ném đá theo luật Do Thái ngay khi người ta truy tầm ra rằng thiếu nữ Maria không có chồng mà lại có mang. Thoát được án tử sau khi Giuse nhận Mẹ về làm vợ. Cuộc đời đâu êm ả như bao người suy và bao nhiêu người nghĩ. Tưởng chừng một màu hồng tươi đẹp trải suốt trên cuộc đời của Mẹ nhưng đâu được như thế! Đau khổ cứ như cuộn, cứ như ôm lấy cuộc đời của Mẹ. Đau khổ đó cuộc vào đời Mẹ cho đến tận cùng đó chính là đỉnh đồi Canvê. Không còn nỗi nhục và nỗi đau nào cho bằng con mình vô tội lại chịu chết treo cùng với hai người có tội. Vô cớ, oan khiên nhưng đành phải chấp nhận bởi lòng người gian ác.
Mẹ đã thưa hai tiếng xin vâng cho đến cuối cuộc đời.
Và sẽ là một thiếu sót lớn hay nói cách khác là sẽ vô nghĩa khi không chiêm ngắm con người chịu treo trên thập giá để mang lại ơn cứu độ cho con người. Ơn cứu độ cho nhân loại khởi nguồn từ con người đã hoàn toàn vâng phục chịu chết treo trên thập giá như người mang trọng tội.
Thư gửi tín hữu Philip đã diễn tả:
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. (Pl 2, 6-8)
Chúa Giêsu, dù ở cái địa vị vinh quang nhưng lại trút bỏ và vâng phục và chết một cách nhục nhã. Còn ta, ta là ai mà ta lại tưởng mình thế này thế kia để ta lại muốn một lần nữa treo Chúa Giêsu – Đấng Cứu Độ trần gian – trên thập giá.
Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi,
Ngài phán bảo: “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi!”
Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi!
Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.
Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ?
Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. (Tv 89,3-4.5-6.12)
Lời mời gọi bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá mãi mãi vẫn là lời mời gọi luôn luôn mới và giá trị trên cuộc đời của ta. Lời mời gọi đó quả là khó chứ không phải dễ dàng bước theo. Khi và chỉ khi ta nhìn nhận thật phận tôi đòi của chúng ta, thân phận thụ tạo của chúng ta thì khi ấy chúng ta lại nhẹ nhàng và thanh thản để đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi. Và, khi vâng phục đến tột đỉnh vác thập giá đời mình thì dĩ nhiên ta cũng sẽ được hưởng phần phúc cứu độ mà Đấng Cứu Độ trần gian bị treo trên thập giá đã hứa ban cho những ai ngày mỗi ngày bước đi theo Ngài.
Suy niệm của ĐGM. Phaolô M. Cao Đình Thuyên
Một nhà thông thái nằm mơ thấy mình để cả cuộc đời đi tìm một cuốn sách hay nhất gồm tóm mọi sự trên đời, cuốn sách đó chỉ tóm gọn trong một trang hay nhất, rồi trang ấy gồm trong một dòng hay nhất, rồi dòng ấy trong một chữ hay nhất. Ông giật mình tỉnh dậy, trên bàn ông có một chữ to tướng: Crux, Thánh Giá.
Phải, Thánh Giá là chữ hay nhất gồm tóm những bài học hay nhất, của một dòng chữ hay nhất, của một trang hay nhất, của một cuốn sách hay nhất. Vậy Thánh Giá là gì? Chắc chắn ta không nhìn và giải thích về mặt thể lý: 2 thanh gỗ, sắt, đồng, chì, vàng, bạc đóng vào nhau thành hình chữ thập, dù có gắn ảnh chuộc tội hay không.
Thánh Giá là tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Chúa Kitô, đã tỏ cho loài người bằng cách hứng chịu mọi đau khổ trên thập giá để cứu độ chúng ta, và ngược lại, Chúa muốn chúng ta cũng qua Thánh Giá đóng góp phần mình vào ơn cứu độ để cứu mình và anh em, để tất cả được sống lại vinh quang với Chúa. Chỉ một vài dòng đơn sơ, nhưng nói đến Thánh Giá là động chạm đến bao vấn đề hết sức quan trọng và sâu sắc.
Trước hết, Thánh Giá là tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: “Tình yêu Thiên Chúa cốt tại điều này là không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước nhưng chính là Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Tình yêu của Thiên Chúa biểu hiện qua việc Ngài đã sai Con Một Ngài vào trong thế gian để làm của lễ đền tội chúng ta”. Như thế, tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu nhưng không, vô vị lợi. Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng ta tốt hay vì Ngài cần chúng ta, nhưng chỉ vì Chúa tốt lành vô song. Tiên tri Giêrêmia đã nói rất cảm động: “Ta đã yêu con bằng tình yêu muôn đời, bởi thế Ta đã giữ bền ân nghĩa với con” (Giêrêmia 31,3). Thánh Augustin cũng nói: “Nguồn nước có được lợi gì khi kẻ khát nước đến uống ở đó, mặt trời có lợi gì khi con mắt được ánh sáng chiếu tới”. Nhà thần học Don Scot dòng Phanxicô, vào thế kỷ 14 còn nói mạnh hơn: “Giả thiết loài người không phạm tội thì vì yêu ta Chúa cũng có thể làm người và chịu nạn chịu chết”. Giả thiết vậy để kích thích ta thêm lòng đạo đức, đào sâu thêm huyền nhiệm tình yêu, chứ thực tế loài người đã phạm tội và Chúa đã sai con Ngài xuống thế gian thật để cứu chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài, mà cao điểm là cuộc khổ nạn và chết trên thập giá. Trước một tình yêu cao cả và vô vị lợi như thế sao ta lại dễ thất vọng chán nản mỗi khi gặp thử thách? Là con cái Chúa, là tu sỹ, nhất là tu sỹ Mến Thánh Giá lại ngã lòng mỗi khi Chúa muốn chúng ta chia sẻ Thánh Giá với Ngài? Phải chăng ta còn quá ích kỷ trong việc mến yêu Chúa? Ta yêu Ngài chỉ vì ta cần đến Ngài chẳng khác gì coi Ngài như cái vòi nước, khi cần thì đến vặn dùng, xong lại đóng sập lại ngay. Một nhà mục sư Tin Lành giảng về câu Kinh Thánh của Thánh Gioan trên rất hay: 2 gia đình, 1 Công giáo, 1 Tin lành đi lại với nhau rất thân, gia đình Công giáo có 5 người con, ông bà Tin lành đã già mà không có con. Họ quý mến nhau lắm và mọi sự thông cảm chia sẻ với nhau rất quảng đại. Một hôm ông bà Tin lành mạnh dạn nói với ông bà Công giáo: Cả 2 ta cùng thờ một Chúa Giavê, một Chúa Kitô, tuy là 2 Hội Thánh nhưng chúng ta vẫn quý mến nhau vì cũng gặp ở một Chúa. Chúa cho gia đình bác nhiều cô cậu, còn tôi trong cảnh già nua buồn bã, tôi muốn xin bác cho chúng tôi 1 cô hoặc 1 cậu để ông bà làm vui. Tôi hứa sẽ yêu thương giáo dục cháu hết sức! Ông bà Công giáo cảm động quá về bàn với nhau xem nên cho đứa nào.
- Con cả là một cậu trai tuấn tú, thông minh, ngoan ngoãn, nhất định không được. Vả ai lại cho trưởng nam đi.
- Con thứ là một cô gái xinh đẹp đạo đức lại vừa đính hôn với một thanh niên xứ bạn, ai lại cho đi đứa con chỉ vài ba tháng nữa sẽ về nhà chồng.
- Con thứ ba là cậu trai tàn tật, què chân. Hai vợ chồng buồn bã cho số phận hẩm hiu của con nên càng đem lòng ưu ái con để bù thiệt cho nó, thì sao có thể cho nó đi và lại cho bạn một đứa con tàn tật, làm sao coi được.
- Con thứ tư là một cô thiếu nữ 10 tuổi. Vừa nói tới bà đã khóc tru trếu vì bà coi cô như hòn ngọc. Bà coi cô là hình ảnh sống động của mình vì lời ăn tiếng nói, nụ cười, cả dáng đi đều giống hệt như bà.
- Con thứ 5 là cậu trai út, 4 tuổi, suốt ngày nói nói cười cười, khi ngồi trên gối mẹ, lúc lại nằm trên tay cha. Đi nhà thờ, đi dạo chơi luôn kèm theo mẹ cha sao có thể rời được. Rút cuộc đành phải báo lại cho ông bạn Tin lành là không thể cho ông bạn được đứa nào cả
Nhà mục sư cao giọng: Con người thân thiết nhau đến thế mà người có 5 con không thể cho ông bạn 1 đứa. Thế mà Thiên Chúa và nhân loại có thân thiết nhau được như thế không? Tội lỗi đã làm con người nên tử thần với Chúa, Chúa Cha lại chỉ có 1 người con vô cùng quý hóa, ấy mà Ngài lại cho con mình xuống trần gian tội lỗi chịu trăm ngàn đau khổ mà cao điểm là Thánh Giá để loài người được an vui.
Chúng ta nghĩ sao về tình yêu Chúa đối với ta và tình mến ta với Chúa. Lạy Chúa, xin tha thứ cho nỗi vong ân bội nghĩa của chúng con!
Cũng vì thế mà đứng trước Thánh Giá chúng con vẫn không một chút mủi lòng. Vì không cảm hết được tình yêu Chúa đã tự triệt tiêu mình vì chúng con. Chúng con mang Thánh Giá trong mình mà chúng con lại mau mắn xua đuổi Thánh Giá đi xa dù chỉ là một Thánh Giá nhỏ nhẹ – một chút nhức đầu sổ mũi, một lời nói đùa cợt, một sự góp ý xây dựng đã đủ làm con phản ứng gay gắt, đỏ mày đỏ mặt, cử chỉ thô bạo, lắm lúc còn ấm ức tìm cách báo thù.
Ôi thật là lạ lùng! Thế mà con còn dám hãnh diện vì mình là người yêu Thánh Giá. Lạy Chúa, nghĩ lại chúng con thật đáng xấu hổ thẹn thùng. Thật đáng Chúa quở trách: Bọn này thờ ta bằng môi bằng miệng. Chúng con thật đáng liệt vào hạng ngoại giáo, thu thuế và bọn Biệt phái trong Phúc Âm.
Cũng vì không cảm hết được tình Chúa yêu con đến triệt tiêu mình cho con, nên con thường mắc bệnh chủ quan và luôn nhìn và phóng đại đau khổ mình mà không biết nhìn đến những thánh giá kẻ khác. Đau khổ mình thì dùng kính hiển vi mà phóng đại để tủi thân, để phàn nàn, để than trách. Còn đau khổ kẻ khác thì lại coi nhẹ, cho là việc nhà giàu đứt tay, không đáng kể. Ôi thật là ích kỷ! Sao con không nhìn lên Thánh Giá với những đau khổ dữ dằn hồn xác của Chúa đã gánh chịu cho con và cho tha nhân con. Tự hào là những người yêu Thánh Giá hơn ai, mến Chúa hơn ai mà con lại không biến cải những Thánh Giá chúng con thành những cây Thánh Giá để nên giống Chúa, để biểu lộ tình yêu Chúa yêu tha nhân? Thánh Têrêxa Avila thì nói: “Hoặc đau khổ hoặc chết”. Thánh Mađalêna de Passi: “Không chết nhưng xin đau khổ mãi mãi”. Thánh Rosa Lima: “Lấy vòng gai có mũi nhọn đội lên đầu, vác cây khổ giá nặng lâu giờ trong một ngày, ban đêm tự treo 2 tay lên khổ giá để kết hợp với Chúa hấp hối trên thánh giá xưa. Thế mà con, tu sỹ Thánh Giá thì lạikhiếp sợ Thánh Giá, chê chối tránh né Thánh Giá. Thật dân này chỉ mến ta bằng môi bằng miệng. Nhà văn Montalenebat viết trong cuốn “Các đan sỹ Phơng Tây” miêu tả lời than của cây gỗ Thánh Giá rất cảm động như sau: Từ năm xửa năm xưa, lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ nữa, lúc đó tôi mọc ở khu rừng, họ đã hạ tôi xuống đất, cưa chặt và mang tôi đi. Những kẻ thù thô lỗ đã chiếm lấy tôi để thành một trò hề. Họ đem tôi lên một ngọn núi và chôn tôi xuống đất. Ở đó tôi thấy Chúa tể loài người trong uy quyền đi tới trèo lên tôi. Để khỏi bất tuân với người tôi không dám gẫy cũng không dám cong, tôi cảm thấy đất run rẩy dưới chân tôi. Tôi cũng run khi thấy vị anh hùng ôm lên lấy tôi, nhưng tôi không dám cúi mình xuống, cũng không dám lún sâu xuống đất. Dù sao tôi cũng phải đứng thẳng và vươn lên để dương cao trên dân chúng Đấng là vua cao cả, là Chúa trời đất. Họ xuyên thủng tôi bằng những cái đinh màu xám, những vết thương còn biểu hiện trên mình tôi ngày nay. Cả Ngài lẫn tôi đều bị chửi rủa. Máu từ cạnh sườn Ngài loang đổ trên mình tôi. Mặt trời tối sẫm, cả vũ trụ than khóc vua họ bị ngã xuống. Trong cuộc thương khó trên Núi Sọ, cây gỗ giá đã đồng hóa mình với Chúa Giêsu, đã góp phần vào ơn cứu chuộc – Cây gỗ giá đã tuyên bố không dám gãy không dám cong mà cứ đứng thẳng và vươn lên. Còn ta, những người tự hào mình là kẻ hợp tác với ơn cứu độ, chuyền thông ơn cứu độ lại không dám đồng hóa với Chúa Kitô, không dám vươn lên, không dám vươn cao cho thế giới biết Đấng chịu đóng đinh là Chúa Trời Đất yêu thương ta vô cùng sao? Lạy Chúa, xin cho con can đảm như Cha Charle de Foucauld: Khi tôi ôm lấy Thánh Giá thì một trật tôi ôm lấy Chúa Kitô chịu đóng đinh vào đó.
Sùng kính hay là vác thập giá
Tôi không rõ việc sùng kính thập giá Đức Kitô khởi sự từ đâu và vào thời gian nào, nhưng chắc chắn việc đó phải có từ thời hoàng đế Constantin, hay nói rõ hơn từ năm 335 là năm mà truyền thuyết cho rằng đã tìm lại được thập giá Đức Kitô; và nhân biến cố đó, hoàng đế đã cho xây một thánh đường ngay chính nơi mộ Đức Kitô, ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 là để kỷ niệm ngày cung hiến ngôi thánh đường này.
Như vậy, việc sùng kính thập giá quả đã có từ lâu đời, nhưng cũng không phải là một truyền thống có từ ban đầu. Vậy thì từ ban đầu thập giá có ý nghĩa gì?
Tôi xin thưa, ngay từ ban đầu thập giá đã là dấu chỉ của hồng ân cứu độ:
- Như Maisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Đồng thời thập giá còn là dấu chỉ của một tình yêu to lớn mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Cũng như thập giá là dấu chỉ của người môn đệ Chúa:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Đối với người môn đệ Đức Kitô thì không có gì là vinh dự ngoài thập giá, bởi vì nhờ thập giá mà chúng ta được giải thoát, được cứu độ. Nhưng vinh dự vì thập giá nghĩa là gì? Phải chăng, là vì chúng ta có thập giá như là một kỷ vật châu báu, quí giá hơn vàng bạc. Nếu thế thì chẳng lẽ Đức Kitô lại làm giàu cho chúng ta với cây thập giá của Ngài sao?
Hẳn là không. Nhưng phải nhìn nhận rằng, chúng ta nhiều khi đã lợi dụng thập giá Chúa để làm giàu. Thánh giá trở nên một đồ vật cho người ta buôn bán: Nào thánh giá vàng, thánh giá bạc và như thế thánh giá trở thành phương tiện để người ta khoe khoang, vinh dự khi ấy không còn là vinh dự được Đức Kitô cứu chuộc bằng giá máu của Ngài. Làm như thế thánh giá trở nên một đồ vật quí giá chứ không phải là một kỷ vật nhắc nhở cái chết của Chúa. Và kẻ đeo thánh giá đó không cần phải tin Đức Kitô, lại càng không thể làm môn đệ của Ngài vì người môn đệ chân chính của Ngài là phải luôn vác thập giá trên vai, và nhất là phải chịu đóng đinh vào đó vì yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Đã hơn hai ngàn năm nay, người ta đã tạo ra biết bao kiểu thánh giá, to có nhỏ có và thánh giá đã có mặt ở khắp mọi nơi, nhưng càng ngày càng ít người chịu vác thánh giá trên vai và càng ít người hơn nữa chịu đóng đinh vào đó. Đáng buồn nhất là có những kẻ không ngần ngại đóng đinh người khác hay bắt kẻ khác vác những thánh giá nặng nề, đang khi chính mình vẫn đưa miệng hôn kính thánh giá.
Đức Kitô mời gọi chúng ta tình nguyện vác thập giá đi theo Ngài, nhưng chính Ngài cũng vác thập giá của mình mà đi trước chúng ta. Không bao giờ Ngài chất thập giá trên vai kẻ khác. Còn chúng ta, nhiều khi đã không chịu vác thập giá của mình thì chớ, mà lại còn chồng chất trên vai những người nghèo khổ và bé mọn, những người mà bình thường thập giá của họ đã nặng nề, mà không một ai giúp đỡ như Simong, mà không ai lau mặt cho như Veronica thuở trước.
Nay đã đến lúc phải đặt thập giá vào đúng vị trí của nó, nghĩa là trên vai mỗi người chúng ta. Bởi đó, việc hôn kính thánh giá không quan trọng bằng việc vác thập giá, và việc suy tôn thánh giá cũng chẳng lợi ích gì nếu không sẵn sàng chịu đóng đinh mình vào thập giá.
Phải được giương cao
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Nhiều người ngoài Kitô giáo cảm thấy sợ khi vào nhà thờ, nhìn lên thánh giá, thấy một người bị đóng đinh, máu chảy đầm đìa. Tại sao lại thờ một người khủng khiếp như vậy?
Một số nơi đã đặt tượng Chúa Phục Sinh trên thánh giá. Hẳn nhà thờ sẽ tươi hơn, ít gây sốc hơn, mầu nhiệm phục sinh được nổi bật hơn...
Nhưng chúng ta vẫn không được quên Chúa chịu đóng đinh. Không có cái chết ấy thì cũng chẳng có ơn cứu độ. Không có thánh giá thì cũng chẳng có phục sinh.
Khi suy tôn thánh giá, chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập. Chúng ta suy tôn chính Đấng đi đóng đinh vào thánh giá. Ngài là Đấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người, là "Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Chúng ta cũng không suy tôn đau khổ và cái chết, nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu: Tình Yêu của Cha dám trao cho thế gian người Con Một, Tình Yêu của Con dám sống hết mình cho Cha và anh em. Đau khổ và cái chết là cái giá phải trả cho một tình yêu. Tình yêu lớn nhất là tình yêu hiến mạng.
Thập giá là một thất bại của Tình Yêu.
Quà tặng của Cha bị loài người từ khước: Người Con yêu dấu bị làm nhục và đóng đinh.
Quà tặng của Con bị loài người rẻ rúng: Con chẳng đáng giá bằng tên sát nhân Baraba.
Thiên Chúa thất bại vì Ngài khiêm tốn. Ngài để cho con người có tự do chối từ. Ngài đau đớn lặng thinh khi Con Ngài hấp hối...
Nhưng thập giá lại là một thành công của Tình Yêu.
Nơi thập giá, tội ác con người lên đến cao điểm. Cũng nơi thập giá, Tình Yêu Thiên Chúa lên đến tột cùng.
Và Tình Yêu đã thắng tội ác, sự sống thắng sự chết, ánh sáng thắng bóng tối, tha thứ thắng hận thù.
Cha không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá, nhưng đưa Ngài ra khỏi nấm mồ hiu quạnh.
Thất bại của thập giá đã biến thành chiến thắng.
Thập giá trở thành Thánh Giá đem lại sự sống đời đời.
Thánh Giá đã trở nên biểu tượng của Kitô giáo.
Thánh Giá có mặt cả trên nến phục sinh.
Thánh Giá ở trên thân xác ta, mỗi lần ta làm dấu, nhưng Thánh Giá còn ở với người Kitô hữu suốt đời: "Ai muốn theo Tôi hãy vác thánh giá mình mà theo Tôi".
Đừng sợ hãi tránh né dù đau đớn xót xa. Đừng kéo lê, bạn sẽ thấy thánh giá nhẹ hơn và sinh trái.
Hãy hôn kính Thánh Giá của mình, của quê hương, của Giáo Hội, dù chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết được mầu nhiệm.
Ước gì chúng ta thấy được ý nghĩa của khổ đau nhờ tin tưởng nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đứng trước những thất bại và khổ đau trong cuộc sống, bạn thường có thái độ nào (chán nản, bực tức, nổi loạn, đón nhận, phấn đấu vượt qua...)? Có khi nào nhờ thất bại và khổ đau mà bạn thấy mình lớn lên không?
Có khi nào bạn chấp nhận một chút hy sinh, một chút đau khổ, để người khác được hạnh phúc không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả, đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con, và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh Giá, bao lâu tuỳ ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ và lòng khát khao nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau. Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha, đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha, lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha, và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân, và yêu Cha chỉ vì Cha, chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh Giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối, nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý, nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi. (Karl Rahner)
Thập Giá và cuộc sống
Thập giá nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta?
Chúng ta thường thấy: nơi ơi bản thân, Thập giá được dùng làm đồ trang sức chúng ta đeo trên tai, trên cổ. Trong mỗi gia đình đều có một bàn thờ. Và trên bàn thờ ấy, chính giữa thường là cây thập giá, vì đó là vị trí chúng ta lấy làm ưng ý nhất. Tại giáo xứ, chúng ta nhìn thấy thập giá trên tháp chuông, trên cung thánh hay trên những phần mộ.
Thập giá đã quá quen thuộc với chúng ta ngày từ hồi còn tấm bé. Chúng ta không thể diễn tả niềm tin Kitô giáo mà không cần đến cây Thập giá. Thế nhưng, còn trong cuộc sống thì sao?
Phải thành thật mà nói: nhiều khi Thập giá đã làm cho chúng ta run sợ và chúng ta đã tìm mọi cách để lẩn tránh. Thập giá dường như đã trở nên một cái gì thù địch, trái ngược với bản tính và niềm hạnh phúc của chúng ta.
Thế nhưng, kinh nghiệm cho thấy: chúng ta không thể nào lẩn tránh khỏi Thập giá, bởi vì Thập giá là một cái gì nằm sẵn trong thân phận con người. Sự chọn lựa của chúng ta không phải là có hay không có Thập giá, nhưng là có biết vác Thập giá mình cho nên hay không mà thôi. Bởi vì Thập giá sẽ đem lại nhiều lợi ích nếu chúng ta biết vác lấy vì lòng yêu mến Chúa.
Thực vậy, đứng trước thập giá, Chúa Giêsu đã có một thái độ hoàn toàn khác biệt với chúng ta. Phúc âm kể lại rằng:
Bấy giờ Chúa Giêsu và các môn đệ đang ở Giêricô, cách thủ đô Giêrusalem khoảng bốn mươi cây số, mà ngày lễ Vượt qua thì lại sắp tới, từng đoàn người hành hương hát vang những câu thánh vịnh. Và rồi một lần nữa Chúa Giêsu nói trước cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài:
- Này Ta lên Giêrusalem, Con người sẽ bị nộp trong tay kẻ ngoại. Họ sẽ khạc nhổ, đánh đòn và sẽ giết chết Ngài.
Các môn đệ không muốn tin vào điều ấy. Lên Giêrusalem giữa một tình hình căng thẳng như lúc này, thì quả là một việc điên khùng và dại dột, nếu không muốn nói đó là một hành động tự sát, bởi vì đã từ lâu, bọn biệt phái và luật sĩ tại đó đã quyết định giết Chúa Giêsu.
Thế nhưng, các ông lại không đủ can đảm can ngăn Chúa Giêsu, bởi vì đã một lần Phêrô lên tiếng:
- Ước gì Thày không phải như vậy đâu.
Và ông đã bị Ngài quở trách nặng lời:
- Hỡi Satan hãy xéo đi, vì ngươi chỉ biết những việc thuộc về thế gian, mà chẳng biết chi đến những việc thuộc về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước những khổ đau và cái chết nhục nhã Ngài sẽ phải chịu, thế mà Ngài vẫn cương quyết đi lên Giêrusalem.
Cuộc hành trình đi lên Giêrusalem phải chăng chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Còn thái độ của các môn đệ, phải chăng cũng chính là thái độ của chúng ta.
Thực vậy, cuộc đời chúng ta thì chất đầy những khổ đau và lo lắng: nào đau ốm bệnh tật, nào hận thù chiến tranh, nào nghèo túng khổ cực… Chúng ta cảm thấy như bất lực, không thể nào giải quyết được. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã can đảm bước đi và Ngài đã bước đi cho tới cùng, bởi vì sau thập giá sẽ là vinh quang phục sinh.
Có hai bà già mắc bệnh lao, nằm bên cạnh nhau trong một căn phòng bệnh viện. Họ biết rằng cơn bệnh của họ không còn phương cách nào cứu chữa, chỉ còn chờ ngày được nghỉ yên dưới lòng đất lạnh mà thôi.
Một bà thì cô độc, chỉ có một mình, bởi vì gia đình và những người thân đều đã chết vì trúng đạn pháo kích. Còn bà kia thì đã có chồng, nhưng ông chồng này đã bỏ bà từ lâu và hiện đang sống với người vợ lẽ. Bà biết rõ điều ấy.
Trước những nỗi đớn đau và bất hạnh như thế, mọi lời an ủi và khích lệ dường như đã trở nên thừa thải, nếu không muốn nói là đã trở nên lẩm cẩm và ngu ngốc. Thế nhưng, mỗi lần viếng thăm, tôi đều thấy hai bà cầm cây Thánh giá và nói với tôi:
- Cuối cùng chỉ còn lại cây Thập giá. Bởi vì chính tại Thập giá, Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng tôi và hơn chúng tôi bội phần. Cây Thập giá của Chúa đã nói với chúng tôi nhiều điều và đã đem lại cho chúng tôi niềm an ủi tuyệt vời nhất giữa những đắng cay chua xót của cuộc đời.
Hôm nay, chúng ta không phải chỉ suy tôn Thánh giá trong lời kinh tiếng hát hay trong những nghi thức phụng vụ, mà còn phải biết suy tôn Thánh gía trong chính cuộc sống chúng ta, bằng cách chấp nhận những hy sinh gian khổ mà chúng ta gặp phải vì lòng yêu mến Chúa, bởi vì đó chính là cây thập giá đời thường Ngài muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Bên trên những gai nhọn là cánh hồng nở thắm. Bên trên thập giá đời đời thường là vinh quang phục sinh chờ đón.
Nhờ Thánh Giá hướng dẫn.
Phi trường mới ở Pittsburgh, Penssylvania, là một trong những phi trường lớn nhất và được trang bị đầy đủ nhất ở Hoa Kỳ. Chỉ một vài giây trong thời gian bay từ phi trường là nhà thờ Hiệp Nhất, trên đường thẳng với một trong những đường bay bận rộn nhất của phi trường. Một vài phản lực cơ bay quá thấp trên nhà thờ đến nỗi giáo dân sợ ngọn tháp nhà thờ bay đi mất. Người ta quyết định đặt một Thánh giá cao 3m bằng đèn điện quang ngay ở ngọn tháp là điểm cao nhất của khu vực. Một phi công đã nhìn nhận rằng: “Hầu hết chúng tôi đều dùng ánh sáng Thánh giá làm biển chỉ đường tới phi trường”.
Hôm nay, chúng ta cử hành điều được gọi là chiến thắng của Thánh giá. Hãy lưu ý là chúng ta tôn vinh Thánh giá hơn là tượng chiụ nạn. Thánh giá không còn thân xác Chúa Kitô treo trên đó, còn tượng chịu nạn thì có mang thân xác Ngài. Tại sao chúng ta tôn vinh thánh giá hơn là tượng chịu nạn? Bởi vì các Kitô hữu tiên khởi chỉ tôn vinh thánh giá, họ muốn đưa ra chân lý cao cả là Chúa Kitô đã chiến thắng nhờ thánh giá, Ngài không còn bị đóng đinh vào đó nữa, bởi sự phục sinh, không những Ngài chỗi dậy khỏi mồ mà còn làm cho thánh giá thành dấu chỉ chiến thắng.
Trong năm thế kỷ đầu của Kitô giáo, Chúa Kitô rất ít được tiêu biểu trên thánh giá, và không còn đau khổ, chết chóc và thất bại, nhưng là chiến thăng, sinh động, vinh quang. Cánh tay Ngài giang rộng ra, nhưng không còn đinh sắt để mời gọi mọi người, và cầu nguyện cho tất cả chúng ta.
Còn lý do khác nữa chúng ta tôn vinh thánh giá là các Kitô hữu tiên khởi quay mặt về hướng Đông khi cầu nguyện, vì đó là hướng mà họ mong đơi Chúa Kitô trở lại. Dần dần thay vì quay mặt về hướng đông, họ quay về thánh giá là biễu tượng ơn cứu độ chúng ta, và họ cảm thấy là họ quay về đúng hứơng. Và họ thực hành như vậy.
Thánh giá là cột trụ chỉ dẫn cho họ và cũng là cho chúng ta. Thánh giá chiếu sáng của ngọn tháp nhà thờ Hiệp Nhất ở Pittsburgh là cột trụ hứơng dẫn cho các phi công khởi hành và trở lại phi trường. Thánh giá cũng hứơng dẫn cho bạn và cho tôi khi chúng ta khởi sự và hoàn tất bất cứ côngviệc nào dù nhỏ hay lớn.
Khi thánh giá hứơng dẫn chúng ta, thì chúng ta có thể chắc chắn là mình ở trên đường ngay thẳng, để chúng ta thật là đang “ở trên con tàu thiêng liêng”. Hãy khởi sự và kết thúc mọi công việc với Thánh gía chiến thắng và rồi mỗi phận sự sẽ là một chiến thắng, thành công. Chúng ta bắt đầu Thánh lễ này với dấu thánh giá, chúng ta sẽ kết thúc thánh lễ này với dấu thánh giá. Chúng ta dâng lên Thiên Chúa mọi sự chúng ta làm trong và nhờ lễ vật hiến tế này của Chúa Kitô. Ngài đã chiến thắng nhờ thánh giá đó. Chúng ta sẽ chiến thắng nhờ thánh giá đó, biểu tượng vẻ vang cho những thành công của chúng ta hôm nay và vào ngày tận cùng.
Đó là tinh thần của các Kitô hữu tiên khởi, tinh thần của công đồng Vatican II, mà muốn chúng ta làm nổi bật sự phục sinh. Trong tinh thần đó, chúng ta có thể làm mọi sự. Chúa Kitô chiến thắng ở với chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Suy niệm của JM.
SUY TÔN THÁNH GIÁ
Thập giá nhắc đến một nghịch lý này: Chính lúc hạ mình xuống cùng cực, Con Người được nâng lên, được tôn vinh. Lúc Người bị kết án tử hình, thế gian lại được cứu độ.
Bài ca của Thánh Phaolô
Thập giá tới độ thấp nhất trong âm điệu của bài ca trong thơ gởi giáo đoàn Philíphê. Âm điệu của Con Thiên Chúa đời đời tự hạ mình xuống làm người, rồi lại tiến hành được tôn vinh trở về với vinh quang Thiên Chúa. Trung tâm thập giá là phụng vụ, khổ hình là dụng cụ tối cao đem ơn cứu chuộc đến cho loài người. Thập gía mang nặng ý nghĩa sự dữ cùng cực của chúng ta và vì Đức Giêsu đã chịu treo vào nó là dấu chỉ ơn cứu độ chúng ta.
Tôn vinh
Thánh Gioan dùng hình ảnh con rắn đồng Môsê treo lên, những ai bị rắn độc cắn nhìn lên rắn đồng sẽ được chữa khỏi. Đức Kitô bị treo lên thánh giá đem lại ơn cứu độ cho những người nhìn lên Người với lòng cậy trông, sẽ nhận biết Người là con Thiên Chúa. Người trộm lành, môn đệ Gioan, viên sĩ quan Rôma, ông biệt phái Nicôđêmô, ông Giuse Arimathia, nghị viện hội đồng, đây là những vị được vây quanh Thánh Giá Đức Giêsu, mọi sự đã lìa những vị này, chỉ có một người liên kết với các vị ấy là Đức Giêsu trên thập giá.
Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết những mầu nhiệm của Thiên Chúa: Đức Giêsu là Người tôi tớ đã chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang xuất hiện từ thập giá, một nghịch lý của mặc khải Kitô giáo tại thế này. Thiên Chúa đã hạ mình thấp hèn trong Đức Giêsu, để mặc khải những sự lạ lùng hơn tất cả mọi quyền năng của thế gian này và nhờ thế đã giải thoát chúng ta khỏi thế gian này.
Trong khi nhìn lên thánh giá, chúng ta cảm tạ Chúa Cha, Ngài đã ban Con Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận ra ý nghĩa đời sống của chúng ta:
Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, chúng ta biết đặt mình trước mặt Đức Kitô trên thánh giá. Chúng ta muốn chiêm ngắm Chúa, thì hãy nhìn lên thánh giá, Ngài sẽ hiện ra cho chúng ta nhìn ngắm, nhờ cái nhìn này chúng ta được cứu độ.
18. Thập giá: Quyển sách cao siêu nhất
Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.
Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng... Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa.Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: "Đây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận". Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác.
Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng".
Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Đức Tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái". Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu".
Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại...
Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.
19. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
Suy niệm:
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ XVII đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt.
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông.
Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một:
Loài người càng tội lỗi Chúa càng yêu thương, yêu thương đến nỗi trao ban hết những gì thuộc về mình là Người Con duy nhất. Tình thương ấy được cụ thể hóa bằng việc Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá. Trên thập giá Chúa đã giải nghĩa yêu thương. Một tình yêu quá cao vời vượt quá sức mường tượng của con người. Thế nên chỉ có hành động, những hy sinh cụ thể mới cảm hóa được lòng người hầu mong cứu họ thoát khỏi cảnh tội lỗi. Chính vì thế, thập giá đã trở thành Thánh Giá; Thánh Giá trở thành biểu tượng tình yêu cứu độ, biểu tượng của sự sống, của vinh quang. Vì thập giá được đón nhận trong tình yêu thì thập giá sẽ trở thành Thánh Giá.
Mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá là dịp nhắc nhớ mỗi chúng ta hãy tạ ơn tình Chúa cao vời. Đồng thời nhắc chúng ta cũng biết sống hy sinh cho tha nhân, hy sinh vì những lý tưởng cao đẹp, hy sinh chịu thiệt thân để bảo vệ đức tin. Và nhất là hãy biết yêu người như Chúa yêu ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng thập giá để cứu chuộc chúng con. Chúa cũng có thể cứu chúng con bằng những phương thế khác. Nhưng Chúa đã không chọn cách nào khác ngoài việc chết trên thập giá. Và như thế chúng con mới hiểu được Chúa yêu chúng con đến cùng. Chúa đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: ý nghĩa của tình yêu trọn hảo. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con cũng biết đón nhận thập giá của bản thân với tron vẹn tâm tình yêu thương: Yêu Chúa và yêu mọi người, để tình Chúa luôn mãi ở trong con. Và cuộc đời con luôn diễn tả tình yêu Chúa. Amen.