Các
bài suy niệm
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN - A
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN - A
MỤC
LỤC
23. Thiên Chúa muốn
cứu rôi mọi người Lm Giuse Đinh lập Liễm
24. Thiên Chúa
là Chúa của mọi người Lm.
Carôlô Hồ Bặc Xái
25. Nước chảy đá
mòn Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
32. Đức Kitô
không để người nào . . . Charles E. Miller
33. Một đức tin
mạnh mẽ Sưu tầm
34. Hai người
đàn bà kia Sưu tầm
35. Nỗi lòng
người mẹ Sưu tầm
36. Đau khổ
Sưu tầm
37. Người nghèo
Sưu tầm
38. Những bia đá
niềm tin Sưu tầm
39. Chúa thương
cứu giúp mọi người catholic. org. tw
1. Ơn
Cứu Độ
Ý tưởng chính của phần phụng vụ sáng hôm nay đó là Thiên Chúa
mong muốn cho mọi người được cứu độ, không phân biệt chủng tộc, màu da và tiếng
nói. Thực vậy, trong một thị kiến, tiên tri Isaia đã mở rộng cửa đền thờ cho
tất cả những tâm hồn thiện chí. Ngay đến những người xa lạ cũng được mời gọi.
Kể từ nay sẽ không còn rào chắn, sẽ không còn vách ngăn bởi vì mọi cánh cửa đã
được rộng mở, để đón nhận những kẻ tìm kiếm Chúa.
Rồi trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy người đàn bà ngoại giáo có
đứa con bị quỷ ám, đã tin tưởng vào Chúa Giêsu. Bà gọi Ngài là con vua Đavít. Bà
đã sụp lạy Ngài và xin Ngài giúp đỡ. Tuy nhiên thái độ của Chúa Giêsu đã làm
cho chúng ta sững sờ và ngạc nhiên. Dường như Ngài muốn dành ưu tiên cho dân Do
Thái và dường như muốn thử thách lòng tin của bà. Lần thứ nhất Ngài đã yên
lặng. Lần thứ hai Người đáp: Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của
nhà Israel mà thôi. Lần thứ ba, Ngài lại bảo: Chớ lấy bánh của con cái mà vứt
cho chó. Thế nhưng bà vẫn một niềm cậy trông. Bà sẽ không ra về bao lâu đứa con
gái của bà chưa được chữa lành. Bà đã chấp nhận lời nói có vẻ sỉ nhục của Chúa,
nhưng rồi lợi dụng nó để đem lại lợi ích cho mình bà nói: Nếu thế thì những con
chó cũng sẽ được hưởng những mẩu vụn từ bàn rơi xuống. Cuối cùng Chúa Giêsu đã
phải ca ngợi niềm tin của bà và làm phép lạ cứu chữa đứa con gái của bà. Là một
người ngoại đạo bà đã làm gương cho các môn đệ về một niềm tin khiêm nhường và
kiên vững.
Cũng trong chiều hướng ấy, thánh Phaolô đã gióng lên một tiếng
chuông và Ngài cho chúng ta được biết: có một mối liên hệ mật thiết giữa người Do
Thái và dân ngoại. Dân ngoại đã không vâng lệnh Chúa và cuộc đời họ thì chồng
chất tội lỗi, thế nhưng người Do Thái cũng không hơn gì. Bởi thế Ngài đã tỏ
lòng nhân từ cho cả hai. Ngài đã không bỏ rơi dân Do Thái, dân mà Ngài đã đổ
xuống biết bao nhiêu ơn lành quý giá. Thế nhưng tội lỗi đã làm cho họ thực sự
xa cách Chúa và làm cho Ngài nổi giận. Dầu vậy lòng thương xót của Ngài vẫn
không hề thay đổi. Đối với dân ngoại cũng vậy, Ngài luôn sẵn sàng giơ tay nâng
đỡ họ, bởi vì ơn cứu độ chính là một hành động nhân từ và thương xót mà Ngài đã
thực hiện cho chúng ta.
Bởi đó chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương của Chúa và hãy
kiên tâm bền chí cho đến cùng vì ai kiên tâm bền chí cho đến cùng thì người ấy
sẽ được cứu chuộc.
2. Củng
cố đức tin.
Kết thúc đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã lên tiếng ca
ngợi đức tin của một người đàn bà Canaan. Còn đức tin của chúng ta lúc này thì
sao? Mạnh mẽ hay yếu kém? Nếu như đức tin của chúng ta lúc này đang yếu kém,
thì có cách nào để củng cố, để gia tăng hay không?
Đức tin có thể được sánh ví như một bắp thịt. Nếu không chịu khó
tập luyện thì bắp thịt ấy sẽ suy yếu dần. Trái lại, càng luyện tập, thì bắp
thịt ấy càng trở nên mạnh mẽ. Đức tin cũng vậy, nó cần phải được tập luyện. Trong
phạm vi này, chúng ta có nhiều cách để tập luyện để củng cố cho đức tin nên
mạnh mẽ.
Trước hết, chúng ta có thể học hỏi lời Chúa, tìm hiểu Phúc Âm
như chúng ta đang làm trong giây phút này. Chúng ta có thể tham dự thánh lễ một
cách sốt sắng. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng tư một cách có ý thức, để kín
múc nguồn sinh lực thiêng liêng cho đức tin của mình. Tuy nhiên có một phương
cách luyện tập đức tin rất hữu hiệu.
Trong tác phẩm “Anh em nhà Karamaốp”, Dostoevski, kể lại rằng:
Một bà già bị khủng hoảng về đức tin, đến hỏi ý kiến một vị linh mục. Cuối cùng
vị linh mục đã đưa ra một phương cách để giúp bà củng cố niềm tin của mình, đó
là bằng tình yêu. Vị linh mục nói: Hãy cố gắng yêu thương láng giềng của bà
thật tình. Càng yêu thương, bà chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Chúa và đời
sống mai hậu sau khi chết. Càng yêu thương, đức tin của bà càng lớn lên và
những nỗi ngờ vực sẽ bị tiêu tan.
Từ lời khuyên này, chúng ta nhận thấy đức tin và đức mến luôn đi
đôi với nhau, không khác gì hai thanh sắt của đường rầy xe lửa. Tìm được cái
này tức là tìm được cái kia. Đức tin và đức mến liên kết với nhau mật thiết như
xác với hồn. Chúng ta có muốn thực sự tin vào Chúa hay không? Nếu muốn, thì
chúng ta phải làm một điều gì đó cho Ngài. Giữa thời buổi đầy ngờ vực này, thì
không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát
được uống, kẻ trần trụi được mặc, thì lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng mình đã thực
sự làm những điều ấy cho Ngài.
Chúa sẽ tỏ lộ chính Ngài cho chúng ta như thể Ngài là một người
vẫn còn sống. Và điều này dẫn chúng ta trở lại với người phụ nữ Canaan của đoạn
Tin Mừng hôm nay. Bà đến với Chúa là vì kẻ khác chớ không vì mình. Bà đến với
Chúa vì tình yêu, với tư cách của một người mẹ, một người mẹ đầy yêu thương đối
với đứa con của mình. Cuối cùng Chúa đã lên tiếng ca ngợi đức tin của bà.
Trong phạm vi đức tin, có những ngày tươi sáng và hứng khởi,
nhưng cũng có những ngày ảm đạm và khủng hoảng. Nếu như lúc này đức tin chúng
ta đang suy yếu, ngoài việc học hỏi và cầu nguyện chúng ta hãy thực hiện những
hành động bác ái, để nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa nơi những người anh em
của chúng ta.
Sau thế chiến thứ II ít lâu, người ta thu dọn những đổ vỡ và
người ta thấy trên một bức tường nhỏ, có hàng chữ sau đây của một người Do Thái
đang trên đường trốn tránh bọn Đức quốc xã. Người Do Thái ấy đã viết như thế
này: Tôi tin vào mặt trời ngay cả lúc nó không chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu
ngay cả lúc nó vắng bóng. Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài yên lặng.
3. Sức
mạnh của lòng tin – Lm Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Norman Vincent Peale (1898-1993) là một mục sư danh tiếng trong
Giáo Hội Tin Lành Methodist, đồng thời cũng là nhà tâm lý trị liệu danh tiếng ở
Mỹ, đã xuất bản nhiều tác phẩm thuộc hạng ăn khách nhất (best-selling books),
trong đó có cuốn "sức mạnh của tư tưởng tích cực" (The Power of
positive thinking) xuất bản năm 1952, được dịch ra đến 41 thứ tiếng, bán ra hơn
20 triệu cuốn và còn được thu vào băng dĩa để phát hành.
Cuốn sách nầy lôi cuốn được nhiều độc giả đến thế nó vì giúp cho
người ta tìm thấy bí quyết tránh thất bại và đạt tới thành công. Bằng cách nào?
Tác giả cuốn sách viết: người ta thất bại vì người ta thiếu lòng tin, thiếu
lòng tin nơi Thiên Chúa và thiếu tin tưởng vào khả năng của mình. Vậy muốn
thành công, hãy gầy dựng cho mình một niềm tin mạnh mẽ.
Tác giả dùng một câu lời Chúa, trích trong Tin Mừng Mat-thêu làm
nên bí quyết để thành công trong cuộc đời, để giành lấy thắng lợi. Câu đó là:
"nếu bạn có lòng tin thì chẳng có việc gì mà bạn không làm được." (Mt
17,20)
Chân lý đó được chứng tỏ qua sự kiện sau đây:
Khi Chúa Giêsu vượt qua biên giới Do-thái qua miền Tia và
Xi-đôn, có một người đàn bà xứ Canaan, là người ngoại bang đến gặp Chúa Giêsu
và thống thiết nài xin Người: "Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng
thương tôi! Con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!"
Chúa Giêsu lặng thinh không đáp.
Nếu ở trong hoàn cảnh người đàn bà nầy, chắc chúng ta tức tối bỏ
đi, thầm oán trách Chúa vô tâm. Đó là bức tường thứ nhất người đàn bà Canaan
đụng phải, nhưng bà không thối lui.
Bà cứ liên lỉ nài van, còn Chúa Giêsu thì cứ tiếp tục lặng
thinh. Bà kêu xin bền bĩ đến độ các tông đồ đi theo chịu hết nổi, nên mới xin
Chúa Giêsu đáp lại ước vọng của bà: "Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ
theo sau chúng ta mà kêu mãi!"
Chúa Giêsu lại từ chối: "Thầy chỉ được sai đến với chiên
lạc nhà Israel".
Sứ mạng của Chúa Giêsu vào thời điểm đó chỉ dành cho dân Israel
mà thôi. Chưa đến lúc, chưa đến giờ đem ơn cứu độ cho mọi dân tộc.
Bị từ chối thẳng thừng, bị dụng vào bức tường thứ hai, nhưng bà
không nhụt chí. Bà vẫn tiếp tục van xin. Bà bái lạy Người cách thành khẩn:
"Lạy Ngài xin cứu giúp tôi".
Lần nầy, Chúa Giêsu trả lời cách cứng cỏi và quyết liệt:
"Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con". Thế là bà lại đụng
phải bức tường thứ ba, tưởng như còn cao hơn, dày hơn hai bức tường trước. Vẫn
không thoái chí, bà khiêm nhường chấp nhận thân phận thấp hèn của mình và khiêm
tốn cầu xin: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những
mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống".
Đến đây thì Chúa Giêsu không thể chối từ được nữa và nguyện vọng
của người phụ nữ Canaan đã được đáp ứng hoàn toàn. Con gái bà đã được cứu chữa.
Chúa Giêsu xác nhận rằng bà được như ý bà muốn là nhờ lòng tin:
"Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy."
Vì muốn cho chúng ta biết rằng lòng tin có sức cứu chữa và làm
nên phép lạ, nên sau mỗi lần cứu bệnh nhân lành bệnh, Chúa Giêsu không nói:
"Ta đã chữa lành con, hãy về bình an", nhưng Ngài lại nói: "Đức
tin của con đã cứu chữa con".
Tin Mừng Mátthêu cũng nhấn mạnh rằng nếu không có lòng tin, thì
người ta chẳng đạt được gì cả, bằng chứng là khi Chúa Giêsu về thăm quê hương
Ngài là Nadarét, người đồng hương không tin vào Ngài, nên không có phép lạ nào
xảy ra. "Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin" (Mt
13,58) hay như tường thuật của thánh Máccô: "Người đã không thể làm được
phép lạ nào tại đó... Người lấy làm lạ vì họ không tin" (Mc 6, 5-6)
Chúa Giêsu khẳng định rằng ai có lòng tin thì có thể làm được
bất cứ việc gì. "Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì dù anh em
có bảo núi nầy: "rời khỏi đây, qua bên kia!" nó cũng sẽ qua, và sẽ
chẳng có gì mà anh em không làm được." (Mt 17,20)
Một sự kiện điển hình chứng tỏ niềm tin làm nên phép lại là khi
Phê-rô thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, ông cũng muốn được như Thầy và đã xin
Chúa Giêsu cho ông thực hiện điều đó. Chúa Giêsu chấp thuận. Tin vào quyền năng
Chúa Giêsu, Phêrô làm nên được điều kỳ diệu: ông đi được trên mặt nước để đến
với Thầy. Thế nhưng khi thấy gió thổi mạnh, ông đâm ra lo sợ và nghi ngờ. Chính
vì mất niềm tin nên ông bị chìm đắm. Ông hốt hoảng la lên. Chúa Giêsu nắm lấy
tay Phêrô kéo lên và trách ông: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài
nghi!" (Mt 14, 22 - 33).
Lòng tin là bí quyết của thành công, đó là bài học quan trọng mà
Chúa Giêsu muốn gửi đến chúng ta hôm nay, tiếc thay chúng ta không biết tận
dụng bài học đó để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đề cao lòng tin, khen ngợi những người mạnh
tin và chê trách các môn đệ yếu lòng tin. Xin ban thêm Đức tin cho chúng con để
nhờ đó, chúng con vững vàng thắng vượt gian nan thử thách và giành lấy những
thành tựu tốt đẹp trong cuộc đời.
4. Lời
nguyện chân thành
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài hát nói về tâm trạng xem ra mâu thuẫn của một người
ngoại đạo như sau: "Lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng con tin có
Chúa ở trên cao". Lời hát thật đơn sơ nhưng nói lên niềm tin chân thật của
một người ngoại đạo. Anh công nhận mình ngoại đạo. Nhưng anh cũng không chối
cãi niềm tin vẫn có trong lòng mình. Anh công nhận mình vẫn ở ngoài đạo nhưng
anh lại gắn bó mật thiết với Chúa. Bằng chứng là anh đã cầu nguyện với Chúa.
Anh nói với Chúa về sự thật của anh, một người ngoại đạo. Anh nói với Chúa về
niềm xác tín của anh, anh tin có Chúa ở trên cao. Anh giải bày với Chúa những
khúc mắc trong cuộc đời anh. Anh đang trình bày với Chúa về nhu cầu của mình.
Anh cần Chúa cho anh niềm tin để anh không còn nghi ngại một điều gì nữa! Anh
đang cần có một đức tin đủ để tin vào sự hiện diện của Chúa.
Lời Chúa hôm nay cũng tường thuật về cách thức biểu lộ niềm tin
chân thành của một người đàn bà ngoại đạo miền Canaan. Bà là người ngoại đạo
nhưng bà lại kêu cầu Chúa là Con Vua Đavit, nghĩa là bà đã tin Chúa Giêsu là
Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng đối với Chúa niềm tin chân thành thôi chưa
đủ để nhận ơn lành từ Chúa, mà còn phải kiên nhẫn, phải khiêm tốn, và nhất là
phải có một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đấng mà mình kêu xin.
Người đàn bà này đã trải qua những giai đoạn đó:
Trước tiên bà kiên nhẫn kêu xin. Xin lần thứ nhất chưa được, bà
liền xin lần thứ hai và mãi cho tới lần thứ ba bà mới được toại nguyện.
Niềm tin của bà thật cảm động, vì bà quá khiêm tốn trước mặt
Chúa. Bà chỉ ao ước nhặt từng mảnh vụn ơn thánh rơi rớt của những người con
Chúa. Bà biết mình không xứng đáng được ơn. Bà không dám nghĩ mình được tắm
trong biển cả yêu thương của Chúa, nhưng chỉ cần một giọt thánh ân trong biển
lòng thương xót của Chúa có thể cứu sống con của bà.
Niềm tin của bà còn đạt tới niềm tin tưởng tuyệt đối, không có
gì lay chuyển nổi! Cho dù trước thái độ xua đuổi khéo léo của các môn đệ và sự
lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà không bỏ cuộc. Bà vẫn một lòng cậy trông vào Chúa
đến mức độ mà Chúa phải ca tụng bà: "đức tin của bà thật lớn lao. Bà muốn
sao được vậy". Và phép lạ đã diễn ra bởi lòng tin của một người mẹ hết
mình vì con.
Vâng, lòng tin thường là điều kiện cần thiết để Chúa thi thố
tình thương của Ngài dành cho chúng ta. Lòng tin càng lớn thì ân ban càng
nhiều. Lòng tin càng được tôi luyện trong gian nan thử thách thì càng thấy rõ
hơn tình thương của Chúa khi được Ngài giải thoát khỏi mọi hiểm nguy. Lòng tin
cần phải kiên nhẫn mới có thể thấy sự bất lực của con người trước sự dữ và
quyền năng cao vời của Thiên Chúa luôn sẵn lòng bảo vệ con người khỏi mọi sự
dữ.
Lòng tin này đã được thánh nữ Monica thực hiện suốt 18 năm ròng
rã. Thánh nữ Monica luôn cầu xin Chúa cho đứa con hoang đàng của mình là
Augustino. Hằng ngày bà khóc lóc, ăn chay và hãm mình. Người đời nhìn bà là một
người phụ nữ bất hạnh vì chồng khô khan, và con truỵ lạc. Đã có lần đức tin của
bà cũng bị lung lay. Bà muốn bỏ cuộc, nhưng thánh Ambrosio đã nói với thánh nữ:
"Bà hãy yên trí, đứa con của biết bao giọt nước mắt sẽ không thể nào hư
mất". Thực vậy, nhờ niềm tin của người mẹ mà Thiên Chúa đã thay đổi phận
số của người con. Thánh Augustino đã từ bỏ con đường tội lỗi để sống đời thánh
thiện. Thánh nhân đã bỏ con đường con công danh để tận hiến cho Thiên Chúa. Thánh
nhân đã không tìm kiếm thú vui thể xác nhưng tìm kiếm hạnh phúc Nước trời.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người đã cạn kiệt nước
mắt. Có biết bao bà mẹ đã khổ vì con cái hư hỏng. Có biết bao gia đình quá cơ
cực vì một thành viên bước vào con đường truỵ lạc. Có biết bao cơn bệnh hiểm
nghèo đang cướp dần sinh mạng của những người chúng ta thương. Nước mắt vẫn
chảy cho những phận đời cơ cực, bị bỏ rơi, bị bội phản. Nước mắt vẫn tuôn chảy
cho những trái ngang của cuộc đời, những bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống. Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy tin tưởng và cầu xin giữa những thử thách
gian nan cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa vẫn đang chờ một lời
kinh, một lời cầu của chúng ta. Thiên Chúa cần lòng tin nơi chúng ta. Ngài có
thể làm mọi sự. Nhưng Ngài lại bất lực trước sự cứng lòng tin của chúng ta.
Phép lạ Chúa làm không nhằm mục đích phô diễn quyền năng của Thiên Chúa. Ngài
càng không làm phép lạ vì sự hiếu kỳ của con người. Ngài chỉ có thể làm phép lạ
vì đức tin chân thành, kiên nhẫn và tin tưởng của chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn tin tưởng kêu cầu Chúa khi
gặp những gian nan. Xin cho mỗi người chúng ta đừng đánh mất niềm tin khi gặp
những thử thách trăm bề, nhưng luôn kiên nhẫn trong lời cầu xin. Vì sau đêm dài
là ánh bình minh. Amen.
5. Niềm
tin chịu thử thách - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Elvire là con gái út trong một gia đình nghèo. Cô ước mơ trở
thành cô giáo. Cô xin học bổng và ghi danh tại một trường Cao đẳng Sư phạm. Nhà
trường chấp thuận với điều kiện: cô phải luôn giữ điểm trên trung bình.
Nhập học. Giáo sư dạy Triết lớp cô là một người vô thần. Mỗi lần
nói về Giáo hội hay Đức Kitô, ông luôn tìm cách che đậy hay xuyên tạc. Elvire
cảm thấy bất bình. Cô biết rằng nếu phản đối giáo sư, cô sẽ khó tránh khỏi việc
lãnh về những con điểm không tốt.
Thế nhưng, lòng tin yêu Chúa Giêsu đã thúc bách cô. Nhiều lần cô
can đảm giơ tay phát biểu. Có khi cô còn nói: “Thưa thầy, điều đó không đúng”
hay “Em không đồng ý.”
Đôi lúc cô cảm thấy đuối lý trước đầu óc thông thái và “cáo già”
của ông thầy. Thế nhưng, trong các lời phát biểu của cô luôn ánh lên tia sáng
của niềm tin, thứ niềm tin ôm ấp chân lý. Điều này khiến người ta suy nghĩ.
Elvire không thích thú gì khi đương đầu với thầy mình. Nhưng cô
không thể sống theo kiểu “nín thở qua cầu”. Thấy thế, các bạn cô cũng tìm cách
khuyên ngăn, nhưng họ không thành công.
Thời gian trôi qua. Kỳ thi cuối khoá đã đến. Giây phút nhận kết
quả mới hồi hộp làm sao. Elvire và các bạn mỗi người được phát một phiếu điểm.
Tay cô run run mở phiếu. Chợt cô reo lên: “Điểm A”.
Thành quả cuối cùng trong lớp Triết học của Elvire là điểm tối
đa.
Câu chuyện người con gái có tên Elvire khiến tôi không khỏi tự
vấn: nếu rơi vào trường hợp tương tự liệu tôi có đủ tinh tế và can đảm nói lên
niềm xác tín của mình không, hay tôi sẽ làm ngơ cho qua chuyện?
Nếu hành trình đức tin gặp phong ba thách đố, phải chọn lựa giữa
giá trị Phúc âm và lợi lộc trần gian, liệu tôi có dám đặt chân lý Tin Mừng lên
trên tất cả không?
Qua việc tự vấn, tôi khám phá ra rằng mình dễ hèn nhát tránh né
làm chứng cho niềm tin. Đôi khi vì một chút danh dự, tư lợi, hay địa vị tôi dễ
rơi vào cảnh sống như kẻ vô thần. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng những lần mình
can đảm đáp trả tiếng gọi của Tin mừng là những khi mình sống bình an và phong
phú nhất. Những lúc đó tôi thấy mình cũng đạt được điểm tối đa như Elvire vậy.
Thế ra, kiên trung sống theo chân lý, bền đỗ bước trong niềm
tin, người ta sẽ gặt hái được hoa trái tốt tươi cho cuộc đời. Chính câu chuyện
người đàn bà xứ Canaan trong Thánh Kinh cũng minh chứng cho điều đó:
Hôm ấy, Đức Giêsu đi lên mạn cực bắc của nước Do thái, vượt qua
biên giới Galilê để tiến vào vùng Tyrô và Siđôn. Ngài muốn tìm một nơi yên tĩnh
để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Một người phụ nữ ngoại giáo chạy theo và kêu cầu
Ngài cứu chữa cho con gái bà đang bị quỷ ám.
Trước lời khẩn nguyện chân thành và tha thiết của người mẹ, Kinh
Thánh kể, Chúa Giêsu “không đáp lại một lời nào”.
Tại sao Ngài im lặng? Tại sao Chúa Giêsu làm thinh trước một lời
cầu xin chính đáng? Có lẽ lắm khi trong cuộc đời tôi cũng đặt vấn đề như thế.
Nhiều lần Chúa Giêsu đã làm phép lạ để tỏ mình cho dân chúng.
Phép lạ đóng vai trò như một dấu chỉ. Thế nhưng lắm khi người ta lại đọc sai
dấu chỉ đến nỗi thay vì nhận chân Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, họ lại khinh
thường và rêu rao Ngài dùng quyền ma quỷ để làm phép lạ (Mc 3:22). Có khi người
ta lại suy tôn phép lạ như nhu cầu thiết yếu và xem Chúa là cái máy cung cấp.
Thế nên có lần Ngài phải chạy trốn lên núi (Gn 6:15) hoặc cấm không cho họ nói
lại những phép lạ Ngài làm (Mc 8:26).
Thái độ dè dặt của Chúa Giêsu thật đáng suy nghĩ: Ngài không đến
để phô trương các việc lạ lùng hòng thu hút niềm thán phục nơi quần chúng và sự
mến mộ của kẻ hiếu kỳ. Ngài đến là để thực thi Thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó là
tìm kiếm chiên lạc của Israel.
Yvon Daigneault có viết: “Israel của Chúa Giêsu là Israel của
lòng tin, qui tụ những ai có niềm tin vào Ngài. Trong Israel đó ta nhìn thấy
một viên bách quản Rôma, một người cai trị có những lối sống không mấy rõ ràng,
một phụ nữ không được tiếng tốt cho lắm như Madalêna, và một đám đông không kể
xiết những người tội lỗi. Trong đó có chúng ta hợp thành con cháu thật sự của
Abraham.
Chúa Giêsu không muốn loại trừ người phụ nữ Canaan khỏi Israel
này. Đây là dân mà Chúa Cha giao phó cho Ngài. Chúa Giêsu thách đố bà tiến đến
đức tin chân chính để có thể gặp được Ngài. Bà hiểu điều này và đã diễn tả niềm
tin mới của mình bằng một công thức thật cảm động, đầy niềm vui và lòng khiêm
nhượng”.
Đây là phần lạ lùng nhất của đoạn Phúc âm: khi nghe Chúa Giêsu
nói “Người ta không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho đàn chó”, bà đã
khiêm tốn thưa: “Vâng, lạy Ngài, nhưng chó cũng được ăn những bánh vụn rơi
xuống từ bàn của chủ nó” (Mt 15,26-27).
Không biết trong hoàn cảnh như thế liệu đức tin của tôi có đủ
mạnh để khiêm tốn và bền chí cầu xin, hay tôi sẽ quay ra than trách: không ban
ơn lại còn xỉ vả bêu nhuốc nghĩa là thế nào? Chắc tôi sẽ tự ái, khó chịu mà bỏ
Chúa mất.
Thái độ kiên trì khẩn nài và vững tin trước thách đố của người
đàn bà Canaan đáng cho tôi học hỏi biết bao. Nhờ kiên tâm bám vào Chúa mà bà đã
được điểm “A”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì
được như vậy” (Mt 15,28).
Tôi ước ao được điểm A như thế lắm. Song trước tiên, có lẽ tôi
phải biết thốt lên với tất cả lòng thành lời nguyện như người phụ nữ ngày xưa:
“Kyrie eleison – Xin Chúa thương xót con”.
6. Chó con cũng
được ăn…
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài,
xin cứu giúp tôi!”
Lời cầu xin trên của người đàn bà Canaan có gì khác không nhỉ
với lời kêu cứu của Phêrô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có
quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức
Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị
quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14, 31) Còn lời
cầu xin thương xót của người đàn bà Canaan ngoại giáo và bất xứng này lại được
Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”
Quả thế, đoạn Tin Mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi
tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là
người Canaan thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất
dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân
riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng
xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh
trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp
lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được
yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai
đến với các con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ
đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho
con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn
đệ nói riêng (điển hình nhất là Phêrô) tự coi mình là thành phần được tuyển
chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên
Chúa, thì người dàn bà Canaan này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không
nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội
dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.
Còn về phía người đàn bà Canaan, bà không hề muốn che dấu sự bất
xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng
thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng
bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật
dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật
công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn
thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho
thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn
đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn - “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Canaan hầu
như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ
đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm
tốn đón nhận xót thương!
Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai
thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Maria tại thôn
xóm Nadarét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức
nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức
Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ
thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi
diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là
các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ
Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ
nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới
muôn đời.
Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu
chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Maria. Khiêm nhường là nhân đức
không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như
tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Maria, và đặt
gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một
ý nghĩa nào đó? Maria Nadarét và Maria Mácđala bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu
lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác
biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận
ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này
là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô
địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con
chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng
thương xót vô bờ của Thiên Chúa - Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng
ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các
con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. A-men
7. Sống
niềm tin – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con
đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi
không phục những người Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo
lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta
suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho
bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với
những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng
giềng gần". Đôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng
hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có
biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không
mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn
chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn
bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm
chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng
ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô
hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu
sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách
lòng giả dối của người Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng
lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã
hội, bị đặt bên lề Đền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của
Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người
chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những
ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý
Chúa".
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng
đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua
việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như
tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên
nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin
và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực
hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên
Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của
cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin:
chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là
tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của
mình. Đây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc
sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu
thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi
để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới
thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
8. Tâm hồn
khiêm tốn – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã
vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã
gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh
nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người con Do Thái đồng hương. Vừa bước
vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu van của một người đàn bà đang
gặp thử thách: "Lạy Ngài, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đức con
gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm". Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời.
Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa không đáp lại? Chúa là Đấng
nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của những ai đến với Chúa và đã dạy
các tông đồ: "Hãy cầu nguyện thì sẽ được. Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho".
Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả lời cho người đàn bà đang thành
tâm kêu xin? Hẳn có lý do.
Các tông đồ không hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn
bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau: "Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà
ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của
Chúa như một sự từ chối và các ngài cũng muốn phủi tay: "Xin Chúa đuổi bà
ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy nữa". Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà
Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ như sau: "Ta chỉ được sai đến để cứu
những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi".
Chúng ta nên học hỏi thái độ khiêm tốn và kiên trì
của người đàn bà: "Lạy Thầy, xin cứu giúp tôi". Bà không bực tức,
không nổi giận, không trách móc Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng
im lặng thì bà càng khiêm tốn hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin
bằng cả con người của mình. Bà sụp lạy Chúa Giêsu và nói: "Xin Ngài thương
xót con". Sự im lặng của Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin,
thử thách trong việc cầu nguyện Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: "Không
được lấy bánh dành cho con cái mà đem ném cho chó". Đây là thử thách ở mức
độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại
khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con
chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn chủa rơi xuống". Có thể
nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng
thành trong đức tin. Chúa Giêsu trấn an bà như sau: "Này bà, lòng tin của
bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy". Người đàn bà chỉ xin Chúa
cho lợi lộc thông thường cho con bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.
Chúng ta có thể tượng tưởng người đàn bà sẽ vui mừng biết bao
hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn đường gian nan nhìn lại, chúng ta
sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im lặng là những giây phút quí trọng vô
cùng vì những im lặng và từ chối này của Chúa giúp đức tin của chúng ta được
trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian nan, chúng ta có thể hiểu được chương
trình của Chúa dành cho cuộc đời mình. Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi
qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách hay không.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho tất cả những ai chọn theo Chúa có được tâm
hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm ân sủng của cuộc đời.
Lạy Chúa,
Xin thương nâng đỡ chúng con và củng cố đức tin cho chúng con.
9. Một
con chó biết ơn.
Bà ấy liền bái lạy và thưa với Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu
giúp tôi!” Người đáp: “Không lên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó
con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những
mảnh vụn trênbàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của
bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó con gái bà được khỏi.
(Mt. 15, 25-28)
Thái độ của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này không được đáng
mền. Những câu: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được
vậy.” Cho người ta thấy Đức Giêsu rất cảm thương, tốt lành và kính chuộng những
kẻ hèn mọn và nghèo khổ.
Thánh Mátthêu cho chúng ta thấy một Đức Giêsu có óc bè phái:
“Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.” Có óc
kinh bỉ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
Nhưng kìa: Đức Giêsu hoàn toàn không phải thế, Thánh sử muốn dạy
chúng ta biết lắng nghe và hiểu rõ bài học này.
Có nhiều người lương dân biết xưng tụng, kêu van danh Đức Kitô,
trong khi những Kitô hữu nghe danh người xưa kia mà nay lại không biết kêu cầu
Người. Hay ngay cả khi họ nghĩ đến Người, hiểu biết Người bây giờ, họ vẫn điếc
chẳng nghe Tin Mừng của Người, mù không thấy những phép lạ của Người, sự phục
sinh của Người, câm không nói về Người.
Chó con trong nhà.
Chó con được ăn những đồ thừa, không những nó bằng lòng mà còn
tỏ niềm vui mừng và biết ơn nữa. Trẻ con trong nhà thì sao? Không phải lúc nào
chúng cũng biết ơn, cảm ơn dù chúng được chăm lo rất nhiều, chúng không thấy vì
được quá nhiều đặc ân, quá thường xuyên.
Bà lương dân này chẳng được dạy dỗ, chẳng được ân huệ gì, bà lại
có niềm tin thật mạnh đó là điều thiết yếu Đức Giêsu muốn Người không nói bà
phải tỏ ra ngoan ngoãn phục tùng, Người không tra hỏi về đời tư của bà. Như bất
cứ một kẻ nào đó đến với Người, cầu khẩn Người, với cảnh cùng khổ của mình, với
lòng tin cậy được nhận lời.
Chúng ta hãy thành khẩn.
Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Không còn đề cập đến vấn đề đức tin nữa, nó làm chúng ta mù
quáng bằng đủ mọi thứ bào chữa để che đậy lòng thiếu đức tin của chúng ta.
Nếu người lương dân biết tin vào Đức Kitô thì càng có lý mạnh mẽ
đòi chúng ta càng xây dựng niềm tin vào Đức Kitô biết bao! và phải làm cho
Người trở lên sống động nơi chúng ta và nơi mọi người đến chừng nào! vì chúng
ta hiểu biết Người hơn lương dân gấp bội.
10. Lòng tin của
bà mạnh thật.
Suy Niệm
Một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám. Bà là dân ngoại, còn Đức
Giêsu là người Do thái. Ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà. Không rõ nhờ
đâu mà bà biết được Đức Giêsu. Khi thấy Ngài, bà tin rằng cơ may đã đến, con bà
hoàn toàn có hy vọng khỏi bệnh.
Đức Giêsu khen bà là người có lòng tin lớn lao. Khi đọc lại đoạn
Tin Mừng trên, chúng ta thấy điều đó.
Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi Chúa thinh lặng.
Bà xin Ngài nhìn đến nỗi đau của người mẹ, đau vì nỗi đau của
đứa con. Nhưng Đức Giêsu không đáp lại một lời. Phải chăng Ngài lạnh lùng trước
nỗi đau, lãnh đạm trước điều Ngài có thể làm được? Lắm khi chúng ta cũng gặp sự
thinh lặng như thế. Chúng ta khắc khoải tự hỏi: Chúa có nghe gì không? Chúa có
thấy gì không?
Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi bị từ chối.
Bà chẳng ngã lòng trước sự thinh lặng của Đức Giêsu. Bà cứ đi
sau mà kêu, kêu hoài, kêu mãi. Rồi bà trực tiếp giáp mặt Ngài, và nài xin Ngài
cứu giúp. Kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng: "Không nên lấy
bánh của con cái mà ném cho chó con." Bà có bị sốc không khi Đức Giêsu ví
dân ngoại với chó con nuôi trong nhà không đáng được hưởng phần bánh của con
dân Israel? Chắc chắn bà đã chẳng thất vọng trước lời từ chối này.
Lòng tin lớn lao là lòng tin khiêm tốn.
Bà chấp nhận lối so sánh của Đức Giêsu. Bà chấp nhận mình chỉ là
chó con, chỉ dám trông chờ những vụn bánh từ bàn rơi xuống. Bà không dám mong
được phần ăn của các con. Sức mạnh của lòng tin ở nơi sự khiêm tốn.
Tin không phải là đòi hỏi. Tin là chờ đợi tất cả từ tay Chúa, và
đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không.
Đức Giêsu từ chối giúp người phụ nữ dân ngoại vì Ngài thấy rõ sứ
vụ Cha giao cho Ngài: Ngài chỉ được Cha sai đến với người Israel thôi. Nhưng
Đức Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc. Ngài tin Cha vẫn nói với Ngài qua
mọi cảnh ngộ, nên Ngài cứ để cho trái tim Ngài được tự do mở ra, ngỡ ngàng và
ngây ngất trước lòng tin của người phụ nữ. Ngài để cho mình bị chinh phục và
chấp nhận thay đổi quyết định ban đầu.
Thay đổi không phải là phản bội hay thiếu ý chí. Thay đổi là
trung thành và uyển chuyển để có thể nắm bắt được ý Cha mới hé lộ cho ta.
Ước gì chúng ta để Cha dẫn đi từng ngày, và mở chúng ta ra trước
những chân trời mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lòng tin lớn lao của người phụ nữ dân ngoại đã khiến Đức Giêsu
đổi ý. Ngài đổi ý vì Ngài nghe thấy một lời mời gọi mới của Cha. Bạn là người
uyển chuyển hay là người có tính nguyên tắc? Làm sao để uyển chuyển không trở
thành thiếu kiên định, và tính nguyên tắc không trở thành cứng nhắc?
Bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn hiện nay? Bạn có còn tin vào
Thiên Chúa không? Theo bạn, tin là gì?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy
được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao
ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên
rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó
có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết
những gì Cha làm cho đời con.
11. Lòng tin của
bà lớn thật.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con
Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
***
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con
gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta
mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
***
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin
cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
***
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn
Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của
chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
***
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt
8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức
Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
***
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
***
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại
lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước
Trời.”
***
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi
đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
***
Lời nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
*
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
*
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
*
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
12. Suy niệm
của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
TIN YÊU SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ THEO GƯƠNG ĐỨC MẸ
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn
tiến bất ngờ của phép lạ. Bất ngờ đầu tiên: người phụ nữ ngoại
đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Người ngoại với người Do Thái không bao
giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách càng xa diệu
vợi. Thế mà người phụ nữ này dám vượt qua hết những rào cản để đến với Chúa. Bất
ngờ thứ hai: Chúa đã có thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối bằng im
lặng không trả lời. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói quyết liệt: “Thầy chỉ được
sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi”. Và căng thẳng đến tàn
nhẫn: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Bất ngờ
thứ ba: người phụ nữ chấp nhận tất cả những thử thách, và đã có câu trả
lời thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những
mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin tưởng.
Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ.
Lôi cuốn ở nét đẹp tâm hồn người phụ nữ. Ẩn sâu trong vẻ đẹp của
thái độ người phụ nữ ngoại đạo, ta thấy nổi bật hai phẩm chất cao quí đó là: Tin
và Yêu. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ
hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy
tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết
nên bà chấp nhận tất cả, không chỉ sự mệt nhọc tìm kiếm mà cả sự dửng dưng lạnh
nhạt và nhất là sự khinh khi nhục mạ. Yêu con nên bà tin Chúa. Tin Chúa có
quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa.
Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Tin và Yêu
giống như đôi cánh đã giúp người phụ nữ bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao
lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Tin và Yêu giống như
giòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức
mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu quả lớn. Tin và Yêu
giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh
cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn Thiên Chúa.
Trong bối cảnh của Năm Thánh Thể, thái độ người phụ nữ ngoại đạo
khiến ta liên tưởng đến Đức Mẹ, người phụ nữ Thánh Thể. Người phụ nữ ngoại đạo
này là một bà mẹ hiền. Vì thương con đói khổ nên bà đã lặn lội đi tìm tấm bánh
về nuôi con. Vì thương con nên bà chấp nhận tất cả mọi vất vả, khổ cực, nhục
nhã. Và Chúa đã thưởng công bà. Bà chỉ mong tìm được những mẩu bánh vụn dư thừa
từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã ban cho bà trọn vẹn tấm bánh thơm ngon của
những đứa con. Bà chỉ mong được như lũ chó con chực chờ thức ăn dư thừa từ bàn
chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã cho bà và con gái bà được đồng bàn với con cái
Chúa. Chúa đã ban cho bà tấm bánh hạnh phúc. Đó là tấm bánh cứu độ. Cho bà được
gia nhập gia đình Chúa, trở nên con cái Chúa. Bà đã mở được đường lên Nước
Trời, đã làm cho Chúa thay đổi chương trình, thu nhận dân ngoại vào Nước Chúa.
Cũng thế, Đức Mẹ là người mẹ rất hiền từ. Vì thương yêu chúng ta
nên Mẹ cũng lặn lội đi tìm cho ta tấm bánh hạnh phúc. Mẹ đã trao ban cho
ta tấm bánh cứu độ. Đó chính là Chúa Giêsu Kitô. Nếu hiểu rằng Thịt Máu
Chúa Giêsu Thánh Thể cũng chính là thịt máu Mẹ đã cưu mang trong lòng, ta mới
rõ Đức Mẹ là người Mẹ hiền đã tìm cho con cái tấm bánh cứu độ thơm ngon hạnh
phúc. Và để có được tấm bánh đó, Đức Mẹ đã phải chịu rất nhiều vất vả, đau đớn,
khổ nhục như lời tiên tri Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn
bà”. Chính nhờ Mẹ, ta được ăn bánh các thiên thần, được đồng bàn với thần
thánh, được nên con Thiên Chúa.
Không những ban cho ta tấm bánh cứu độ, Đức Mẹ còn dạy ta
sống bí tích Thánh Thể trong đức tin và tình yêu.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin thật Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể,
noi gương Mẹ khi xưa nghe lời thiên thần truyền tin đã hoàn toàn tin rằng bào
thai trong lòng Mẹ là Con Thiên Chúa.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin vào quyền năng của Chúa.
Như xưa tại tiệc cưới Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: “Người bảo gì thì hãy cứ
làm theo”. Hôm nay, trong Năm Thánh Thể, Đức Mẹ cũng muốn nói với ta: Nếu Chúa
đã dạy: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng
cử hành bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin vì Đấng đã có thể biến nước lã hoá
thành rượu ngon cũng có thể làm cho bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người.
Đức Mẹ dạy ta hãy luôn hướng về bí tích Thánh Thể
như xưa Mẹ đã theo Chúa Giêsu trên mọi bước đường, dù gian nan khổ cực.
Đức Mẹ dạy ta dâng mình làm hy lễ. Như xưa Mẹ đã đứng dưới chân
Thánh giá, cùng Chúa Giêsu dâng hiến những đau khổ làm hy lễ dâng Thiên Chúa
Cha.
Và cũng như xưa Đức Mẹ đã đem Chúa Giêsu đến với bà Elisabet,
đem lại niềm vui lớn lao cho bà, vì đã cho Thánh Gioan Baotixita được khỏi tổ
tông truyền khi còn trong lòng mẹ, Đức Mẹ cũng dạy ta khi sống bí tích Thánh
Thể, hãy trở nên những nhà tạm sống động đem Chúa Giêsu Thánh Thể đến khắp mọi
nơi, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Hôm nay khi cho người phụ nữ ngoại đạo được tấm bánh của con
cái, được đồng bàn với con cái Chúa, Chúa cho bà được gia nhập dân riêng Chúa.
Điều đó nhắc nhở ta khi sống bí tích Thánh Thể cũng hãy chăm lo việc truyền
giáo, đi quy tụ nhiều người về bàn tiệc Thánh Thể, vào dự tiệc Nước Trời. Đức
Mẹ La Vang luôn quan tâm đến việc truyền giáo, nên Mẹ không ngừng yêu thương và
ban ơn lành cho những lương dân chạy đến với Mẹ. Trong những buổi cử hành sắp
tới, ta sẽ được nghe những chứng từ rất sống động về tình thương của Mẹ.
Đức Mẹ là thầy dạy về bí tích Thánh Thể một cách tuyệt hảo.
Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị khuyên mời ta hãy đến nơi
trường của Đức Mẹ. Hôm nay, họp nhau đông đảo về đây, ta hãy tạ ơn Mẹ La Vang
đã ban cho ta Chúa Giêsu là tấm bánh cứu độ hạnh phúc. Ta hãy xin Mẹ dạy ta
biết sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời. Hãy noi gương Mẹ đem Thánh Thể đến
khắp các nẻo đường, quy tụ một dân đông đảo về dự tiệc Thánh Thể, dự tiệc Nước
Chúa.
Lạy Mẹ La Vang xin nhận lời chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bí quyết nào khiến bà mẹ ngoại đạo đạt được ước nguyện?
2) Người phụ nữ ngoại đạo nêu gương cầu nguyện cho ta thế nào?
3) Đức Mẹ đã sống đức tin vào tình yêu thế nào trong cuộc đời?
13. Ơn
Cứu Độ phổ quát.
Tại một làng bên Ấn Độ có một đạo sĩ thánh thiện, ai cũng tìm
đến xin đến ông cầu nguyện cho. Cứ mỗi lần có ai đến kêu cứu, vị đạo sĩ thường
vào rừng, tìm đến một nơi vắng vẻ và cầu nguyện. Lần nào Thiên Chúa cũng nhận
lời ông và độ trì cho dân chúng.
Khi nhà đạo sĩ qua đời, dân chúng trong làng cũng muốn có người
kế tục. Họ tìm được một người tuy không thánh thiện nhưng biết rõ nơi vị đạo sĩ
trước kia thường đến cầu nguyện cũng như thuộc lòng lời kinh của ông.
Người này nói với Chúa:
- Lạy Chúa, Chúa biết con không phải là người thánh thiện. Nhưng
con tin chắc rằng Chúa không nỡ bỏ rơi dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu
giúp họ.
Thiên Chúa đã nhận lời ông và cả dân làng đều được cứu giúp mỗi
khi đến nhờ ông cầu nguyện.
Khi người này qua đời, thì dân làng lại phải đi tìm một người
khác để thay thế. Họ tìm được một người. Người này thuộc lời cầu nguyện, nhưng
lại không biết chỗ cầu nguyện trong rừng.
Ông bèn thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, con biết không màng đến nơi chốn. Nơi nào mà không
có sự hiện diện của Chúa. Vậy xin Chúa nhận lời con mà đến cứu giúp dân Chúa.
Thiên Chúa cũng đã nhận lời ông và cứu giúp tất cả những ai xin
ông cầu nguyện.
Thế nhưng đến lúc con người trung gian này cũng qua đời, dân
chúng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Nhưng kẻ kế vị này không biết
chỗ trong rừng lại cũng chẳng thuộc lời cầu nguyện.
Ông đã thưa Chúa:
- Lạy Chúa, con biết Chúa không màng đến công thức của lời kinh
mà chỉ lắng nghe nỗi thống khổ của dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp
họ.
Thế là một lần nữa Chúa cũng nhận lời cầu xin và độ trì dân
chúng trong làng. Nhưng sau khi người này qua đời thì dân chúng không còn biết
chọn ai thay thế nữa. Cuối cùng họ phải nài nỉ một người mà họ biết là không
đạo đức chút nào. Ông ta chỉ biết có tiền bạc. Ông càu nhàu với Chúa:
- Lạy Chúa, Chúa là ai mà cứ bắt con cầu nguyện rồi mới ra tay
cứu giúp. Bao nhiêu lời cầu cứu đây tôi xin giao cho Chúa tất cả. Tuy Chúa muốn
làm gì thì làm.
Nói xong ông quay trở lại với công việc của mình. Vậy mà Chúa
cũng nghe lời cầu nguyện của ông và dân chúng trong làng lúc nào cũng được cứu
giúp.
Anh chị em thân mến, Thiên Chúa yêu thương con người bằng một
tình yêu không thể đo lường, tính toán hay tưởng tượng được. Lời kinh, nơi
chốn, ngay cả sự thánh thiện của con người không phải những gì cốt yếu để Thiên
Chúa có thể thi thố tình thương của Ngài. Điều cốt yếu hơn cả mà Thiên Chúa chờ
đợi nơi con người là niềm tin tưởng, phó thác trọn vẹn.
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa còn nghe lời kêu xin
của một phụ nữ ngoại đạo ở Canaan, vì nhận thấy lòng kêu xin của bà thật là
vững mạnh. Đức tin quả lấp đầy cái hố xem ra ngăn cách hồng ân Thiên Chúa với
các dân ngoại. Bà đã kêu cầu với Chúa Giêsu bằng danh hiệu “Con Vua Đavit”. Bà
có lòng trông cậy đặc biệt vào quyền năng cao cả của Ngài. Nhưng vì người ngoại
đạo nên bà không phải là người mà Đưc Giêsu phải đến thực hiện lời hứa dành cho
người Do Thái. Chúa làm thinh. Các môn đệ đã mau mắn can thiệp: “Bà đã làm cho
chúng tôi điếc tai mất, xin Thầy bảo bà ta yên cho chúng con nhờ!”. Câu trả lời
của Đức Giêsu “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà
thôi”xem ra ăn khớp với yêu cầu của các môn đệ. Nhưng cũng cho thấy rằng, các
con chiên lạc của nhà Israel có thể đôi khi lại ít gắn bó với Đức Giêsu hơn là
những con chiên xa lạ trong dân ngoại. Quả thực, Đấng chăn chiên tốt lành đã
không từ chối người này hay người kia.
Nghe câu trả lời có vẻ dứt khoát, người đàn bà không ngã lòng và
cứ nài nẵng: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”. Đến đây câu trả lời của Chúa lại có
vẻ khinh bỉ hơn: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.
Ai cũng thấy rằng không nên so sánh như vậy, nhưng chắc cũng đoán ra rằng có lẽ
là một thử thách lòng tin. Người đàn bà ngoại giáo Canaan cũng có thái độ như
thế, bà đã chịu chơi không kém. Bà không phản đối mà còn tự nhận mình là “chó
con”trong nhà để đòi được ăn những mảnh vụn rơi xuống đất, nghĩa là đòi cho con
mình được khỏi bệnh. Đức Giêsu đọc rõ lòng tin tưởng của bà, Ngài như lấy làm
ngạc nhiên về lòng tin của bà và đã nhận lời cùng với lời ca ngợi: “Này bà,
lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa thấu suốt tận đáy lòng con người và Ngài muốn tìm ở
đấy trước hết là lòng tin. Với lòng tin chân thật thì bất cứ ai, dù là người
ngoại đạo, cũng được Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Ngài là ơn phổ
quát, cho mọi dân tộc. Ngày nay Chúa dùng Giáo Hội của Đức Kitô để cứu độ nhân
loại qui tụ mọi dân tộc lại cho Ngài. Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ chung và
duy nhất của cả nhân loại. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay cũng đã
cho thấy: Thiên Chúa đầy lòng thương xót và muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi
người. Vì thế, Thánh Phaolo đã quyết định đi tới dân ngoại để đem lại cho Tin
Mừng cứu độ. Rồi đây Do Thái và dân ngoại sẽ gặp nhau trong Giáo Hội của Đức
Giêsu như một đàn chiên dưới sự chăn dắt của một Chủ Chiên.
Thánh lễ tái diễn mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Nhớ đến tình
thương và ơn huệ lớn lao Ngài đã ban cho chúng ta qua Đức Kitô, chúng ta hãy
cảm tạ Chúa và cùng với Ngài mở rộng cõi lòng yêu thương đến với hết mọi người,
để ơn cứu độ phổ quát của Chúa có thể đến được với mọi dân tộc trên thế giới.
14. Lời
cầu xin của bà được toại nguyện
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục trình bày việc Chúa Giêsu vượt qua
biên giới để tiến vào vùng đất của dân ngoại, và một người trong dân là người
đàn bà xứ Canaan sắp sửa được dự phần vào tác vụ của Ngài, đó là được lãnh nhận
hồng ân như những người Do Thái. Đây là điểm khởi đầu, một dấu chỉ mời gọi để
rồi sau này các tông đồ được Chúa Thánh Thần soi sáng vượt qua ranh giới hạn
hẹp của quốc gia để đi đến tận cùng bờ cõi trái đất rao giảng Tin Mừng cho mọi
dân tộc.
Khi bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu gặp những lời kêu van của
người đàn bà đang bị thử thách: "Lạy Con Vua David, xin dủ lòng thương
tôi, đứa con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm". Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại
một lời nào, và trước lời khẩn cầu tha thiết như vậy lại sao Chúa Giêsu không
đáp lại
Lời cầu nguyện của người đàn bà thật cảm động, thật chân thành,
thế mà lại sao Chúa lại không đáp trả. Chúa là Đấng nhân từ trước những người
cùng khổ chạy đến kêu cầu Ngài. Hơn nữa, Ngài đã dạy cho các đồ đệ cầu nguyện
rằng: “Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho, hãy xin thì sẽ được", thế mà lại sao
trong lúc này Chúa tặng thinh không trả lời người đàn bà, hẳn phải có lý do nào
đó mà Ngài không trả lời.
Thật vậy, các tông đồ không thể hiểu được thái độ của Chúa và
cũng không muốn bị quấy rầy, nên nói với Thầy mình: "Xin Thầy bảo bà ấy về
đi, kẻo bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu xin mãi". Các đô đệ hiểu tầm
thái độ im tặng của Chúa như một sự chối từ nên các ông cũng muốn phủi tay:
“Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho rảnh, đừng để bà ấy quấy rầy nữa". Không những
Chúa im tặng mà Ngài còn lên tiếng chối từ lời van xin của người đàn bà trong
cơn thử thách: "Ta chỉ được sai đến với chiên lạc của nhà Israel".
Đứng trước một thách thức về lòng tin như vậy, người đàn bà xứ
Canaan đã không ngã lòng trước lời từ chối của Chúa, bà đến sụp Lạy dưới chân
và thưa với Ngài rằng; "Lạy Ngài, xin thương giúp tôi". Bà không thắc
mắc, không giận dỗi hay trách móc Chúa thế này thế nọ, nhưng bà khiêm tốn hạ
mình hơn nữa. Bà không những van xin bằng lời nói mà còn van xin bằng cả con
người, bà sụp Lạy trước Chúa Giêsu và nói: "Xin Ngài thương cứu giúp
tôi". Sự im tặng của Chúa, sự chối từ của Ngài là một thử thácho Thử thách
trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện, Ngài muốn thử thách người đàn
bà van xin nhiều hơn nữa: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho
con chó". Lời nói cứng cỏi này xem ra không phù hợp với một con người nhân
từ đầy yêu thương như Chúa. Và rồi thử thách đã đến mức độ cuối cùng, ai có thể
vượt qua được, nhưng người đàn bà dân ngoại này đã vượt qua, bà đã thưa với
Chúa Giêsu như sau: "Thưa Ngài đúng tắm, nhưng các chó con cũng được ăn
những vụn bánh từ nơi bàn ăn của chủ rơi xuống". Tâm hồn khiêm tốn đã giúp
người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Giờ đây
Chúa Giêsu mới trả lời: "Này bà, đức tin của bà đã được chấp nhận, bà muốn
sao thì được vậy". Người đàn bà đã xin được Chúa Giêsu cho con mình khỏi
bị quỉ ám.
Thái độ của Chúa Giêsu từ im tặng đến chối từ đã hướng dẫn bà
đến mức độ trưởng thành của lòng tin: "Lòng tin của bà vững mạnh, bà muốn
sao thì được như vậy". Sự thử thách đã đến lúc chấm dứt, và cuối đoạn
đường gian nan, khi nhìn lại xem ra như Chúa im tặng hay từ chối trước lời ta
cầu xin, nhưng giây phút đó là những giây phút quí báu vô cùng, vì những phút
im tặng và chối từ ấy giúp lòng tin của ta được trưởng thành. Như vậy, vào cuối
đoạn đường gian nan ta mới hiểu được phần nào chương trình của Chúa cho cuộc
đời của mình. Nhưng liệu ta có đủ sức để đi đến cuối con đường, đến nơi mà Chúa
muốn chúng ta trưởng thành trong đức Tin hay không? Đó là một đức tin mà giờ
đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
15. Vững
vàng tin tưởng.
Có một giai thoại kể rằng: Có một thanh niên thích chơi những
trò chơi mạo hiểm. Hôm đó anh mang một chiếc dù lớn đến bên bờ một vực thẳm
tính để chơi cho thoả chí mạo hiểm của anh, không biết loay hoay thế nào, anh
trượt chân té xuống vực thẳm. May quá, anh bám được một nhánh cây chìa ra trên
bờ vực. Khi đã nắm được nhánh cây kia, anh thở phào một cái, tuy nguy hiểm vẫn
chưa qua, nhưng anh nghĩ như thế này là có hy vọng sẽ được cứu.
Anh ngước mắt nhìn lên bờ vực, không thấy có bóng dáng một ai,
cúi xuống, anh nghĩ chỉ còn cách cầu nguyện. Thế là anh cầu xin: “Lạy Chúa, xin
cứu con, con xin hứa con sẽ làm bất cứ điều gì Chúa muốn”. Bỗng có tiếng Chúa
từ trời vọng xuống: “Được, Ta sẽ cứu con, nhưng trước khi cứu con, Ta muốn con
có thực sự tin Ta có thể cứu con được không”. Anh thưa ngay: “Lạy Chúa, con tin
chứ, con tin chắc là Chúa cứu được con, Chúa cứu con ngay đi con mỏi tay lắm
rồi”. Chúa nói: “Được, nếu con tin thì con cứ buông tay con đang bám vào nhánh
cây đó đi”. Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào nhánh cây chứ không chịu buông
tay ra, rồi chàng ngẩng nhìn lên bờ cố la lớn: “Có ai ở trên bờ không, cứu tôi
với”. Giả sử chúng ta là chàng thanh niên trên đây,
liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin
vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc sống của chúng
ta không? Điều Thiên Chúa muốn là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa.
Lòng tin tưởng của chúng ta phải như em bé trong câu truyện sau:
Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện: Vào một
đêm kia, một đám cáy bùng lên tại một ngôi nhà trong khi ngọn lửa đang phừng
phừng bốc lên, người ta trông thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con hấp tấp
chạy ra tức khắc, họ buồn rầu nhìn ngôi nhà mình bốc cháy. Bất chợt họ nhận ra
mình thiếu đứa con nhỏ nhất, một đứa bé trai năm tuổi. Đứa bé lúc đó chạy ra,
thấy khói lửa nghi ngút, nó hoảng sợ lùi lại rồi leo lên tầng trên. Mọi người
nhìn nhau: không thể liều lĩnh đi vào trong nhà bây giờ chỉ còn là một lò lửa
hừng hực. Thì kìa, một khung cửa trên kia mở toang, đứa bé giơ tay kêu cứu.
Cha nó thấy nó, ông quát to: “Nhảy xuống đi”. Đứa bé chỉ thấy
khóí lửa mịt mù, nhưng nó nghe ra tiếng cha nó, nó liền đáp: “Ba ơi, con không
thấy ba đâu cả”.
Cha nó lại quát: “Ba thấy con, nhảy đi”, đứa bé đã nhảy, và đã bình an vô sự
rơi vào vòng tay cha nó, vì ông kịp đỡ lấy nó.
Đứa bé đứng trong ngôi nhà bốc cháy ấy lại không phải là hìng
ảnh diễn tả người Kitô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa sao? Trong cơn khốn quẫn,
chúng ta nghe ra tiếng Chúa bảo mình: “Hãy tin tưởng vào Ta, hãy nhảy vào vòng
tay của Ta”, và rất nhiều phen chúng ta đã trả lời: “Chúa ơi, con chẳng thấy
Chúa đâu cả”,
và đã tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Có bao giờ chúng ta nghĩ như thế không hay
nghĩ tương tự như thế không? Dường như Chúa đi đâu vắng lúc chúng ta cần đến
Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay,một lần nữa, nhắn nhủ chúng ta về giá trị
của đức tin. Đức tin có sức mạnh, có khả năng đảo ngược được tình cảnh trong
đời người, giúp chúng ta vượt được gian khó, và làm được những việc quá sức tự
nhiên của mình. Ngưòi phụ nữ ngoại giáo trong Tin Mừng đã có một đức tin như
thế, nên bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy con gái bà bị quỷ ám khốn cực và
các thầy thuốc đã vô phương cứu trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về
mặt tự nhiên, nhưng bà đã tin Chúa có thể cứu chữa được con bà, nên bà đã đến
kêu xin Chúa, và dù Chúa thử thách bà, bà vẫn kiên nhẫn hết lòng tin tưởng.
Chính vì lòng tin vững mạnh đó, Chúa đã làm phép lạ cứu chưã con gái bà.
Có lẽ sau đức tin của viên đại đội trưởng ở Caphácnaum thì phải
kể đến đức tin của người phụ nữ Canaan này, là người ngoại giáo nhưng hết lòng
tin tưởng vào quyền phép của Chúa Giêsu. Đây là tấm gương và bài học cho chúng
ta khi cầu nguyện: Chúng ta hãy kiên nhẫn, cầu xin chưa được, cầu xin tiếp, cầu
xin mãi, đừng bao giờ nản lòng, vì ai kiên nhẫn và tin tưởng cầu xin, sẽ được
như ý.
16. Lòng tin.
Trước Công đồng Vatican II, những người tín hữu có đời sống luân
lý công khai bê bối, nhưng không chịu ăn năn trở lại, khi chết thường bị các
cha sở cấm không cho chôn cất trong nghĩa trang của nhà thờ, vì nghĩa trang
Công giáo là phần đất đã được thánh hiến, chỉ dành cho những người tín hữu có
đời sống xứng đáng mà thôi.
Có một ông cụ già sống bê bối về luân lý, say sưa cờ bạc, ăn ở
lung tung… Khi chết, cha sở ra lệnh cho người nhà phải chôn cất ông ở ngoài
hàng rào của nghĩa trang trong xứ. Sau nhiều năm, cha sở đã đổi đi nơi khác,
người con gái của ông già trở về nhà thờ cũ để thăm mộ và xin lễ cầu nguyện cho
ông. Bà đi kiếm mộ cha mình ở bên ngoài hàng rào nghĩa trang nhưng chẳng thấy.
Bà đành phải đi tìm người trông coi nghĩa địa ngày xưa để hỏi xem chuyện gì đã
xảy ra. Người trông coi nghĩa địa đã dẫn bà ra đúng mộ của thân phụ, nhưng đã
nằm ở bên trong hàng rào nghĩa trang. Bà ngạc nhiên hỏi, “Tại sao ông lại dời
mộ của thân phụ tôi?” Người trông coi nghĩa trang mỉm cười trả lời: “Chúng tôi
đã không dời mộ của ông cụ, nhưng vì bên trong nghĩa trang không còn đủ chỗ
chôn cất nữa, nên phải mở rộng nghĩa trang ra. Chúng tôi chỉ dời hàng rào ra mà
thôi”.
Đây là điều Chúa Giêsu đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay, khi
chữa bệnh cho con gái của người đàn bà xứ Canaan. Người đàn bà Canaan đến với
Chúa là người ở bên ngoài những hàng rào ranh giới do sự kỳ thị phân biệt của
xã hội.
Đối với những người Do thái, sự trong sạch và nhơ bẩn được phân
định rõ ràng. Nếu là người Do Thái và biểu tỏ đức tin qua việc giữ luật Do
Thái, người đó được coi là trong sạch. Nếu là ngoại kiều, hay là Do Thái mà
không tuân giữ luật lệ Do Thái, đó là người dơ bẩn. Sự phân định ranh giới này
rất đơn giản và rõ ràng!
Có hai điều làm cho người đàn bà xứ Canaan bị loại trừ trong bậc
thang phân định giá trị của người Do Thái: đàn bà và dân ngoại. Trong xã hội Do
Thái thời Chúa Giêsu, người đàn bà bị lãng quên. Trong bài Phúc Âm Mt 14,
13-21, Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều cho 5000 người ăn uống no nê, “không kể đàn
bà và trẻ con”. Đàn bà và trẻ con không được kể đến, coi như không có giá trị.
Hôm nay một lần nữa, thánh Matthêu nói đến người đàn bà xứ Canaan, mà không
nhắc đến tên của bà. Điều này có ý nghĩa. Chắc chắn bà phải có tên. Nhưng không
được nhắc đến tên chứng tỏ bà đã bị xã hội thời đó khinh bỉ và loại trừ.
Điểm thứ hai, bà là người dân ngoại xứ Canaan. Đối với người Do
Thái, dân ngoại là xấu. Người Canaan, kẻ thù truyền kiếp của tổ tiên người Do
Thái, còn xấu hơn nữa. “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Chúa
Giêsu đã sử dụng phong tục và lối nói quen thuộc của người Do Thái để so sánh
những người dân ngoại giống như chó. Xã hội Do Thái thời xưa không cưng chiều
và quý trọng chó như xã hội tây phương thời nay. Gọi ai bằng chó là một điều sỉ
nhục. Vì chó liếm những vết ghẻ chốc, và mang bệnh truyền nhiễm như trong câu
chuyện người phú hộ và ông Ladarô.
Theo William Barclay, bởi lòng kiêu căng, người Do Thái đã gọi
dân ngoại là “những con chó ngoại đạo”, “những con chó vô tín ngưỡng”. Sau này
họ gọi những người theo Kitô giáo là “những con chó Kiô hữu”. Một sự diễn tả
đầy khinh bỉ! Trong cuốn tự thuật của Mahatma Gandhi, vị thánh của người Ấn
Độ giáo, ông kể lại rằng trong thời gian còn là học sinh, ông đã đọc Phúc Âm và
nhìn thấy trong những lời giảng dạy của Chúa Giêsu câu trả lời cho vấn nạn lớn
lao của người dân Ấn Độ phải giải quyết với chế độ đẳng cấp. Đang khi suy nghĩ
một cách nghiêm chỉnh về đức tin Kitô giáo, một buổi sáng Chúa nhật, Gandhi
bước vào nhà thờ với ý định sẽ bàn thảo với mục sư về tư tưởng của mình. Tuy nhiên,
vừa bước vào trong nhà thờ, người dẫn chỗ ngồi đã từ khước không tìm chỗ và đề
nghị ông nên bước ra ngoài đi đến nhà thờ dành riêng cho giai cấp của ông.
Gandhi đã bỏ nhà thờ và không bao giờ trở lại nữa. Sau này ông nói: “Nếu những
người Kitô hữu cũng có những đẳng cấp khác nhau, thì tốt hơn tôi nên ở lại với
Ấn Độ giáo”. Vì sự kỳ thị và phân biệt mà người đàn bà Canaan và ông Gandhi
đã bị loại trừ. Nhưng Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người nhìn thấy rằng ân
sủng và tình yêu của Thiên Chúa vượt qua tất cả mọi hàng rào ranh giới của con
người dựng nên.
17. Lòng tin.
Người ta kể về một người đàn bà ở bãi biển. Bà ấy vừa già, lại
dơ bẩn và ăn mặc dị hợm. Bà đi bộ lang thang dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng
ngừng lại cúi xuống nhặt một cái gì đó bỏ vào trong túi sách. Khi bà đi ngang
qua đám trẻ con đang đùa vui trên cát biển, cha mẹ của những em bé này liền gọi
các em lại để khỏi gần gũi với bà. Họ lo lắng và sợ hãi vì không biết bà có thể
làm điều gì gây nguy hại cho các em. Họ căn dặn con cái: “Không có việc gì phải
liên hệ với bà ta cả”.
Sau này, họ khám phá thấy rằng bà lão đi dọc theo bờ biển và nhặt những miếng
kính vỡ bỏ vào trong túi xách để trẻ em không bị đứt chân chảy máu khi chạy vui
đùa trên bãi biển.
Nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng dẹp bỏ
những hàng rào ngăn cách. Điều này được thể hiện bằng thái độ nhìn tất cả mọi
người bình đẳng như nhau, không còn phân biệt kỳ thị nam nữ, giàu nghèo, sắc
tộc, màu da, hay tôn giáo. Và trong ánh sáng đức tin, phải nhìn mọi người là
anh chị em của mình, là con cái của Chúa Cha trên trời. Thánh Phaolô đã nhắc
nhở chúng ta điều này trong thư gửi tín hữu Galát: “Không còn chuyện phân biệt
Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em
chỉ là một trong Đức Kitô”.
Đối với những người ngoài Kitô giáo, trong tuyên ngôn về liên
lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra Aetate, đoạn 5, Công
Đồng Vatican II đã nói: “Chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha mọi người
nếu chúng ta không muốn xử sự như anh em đối với một số người, cũng được tạo
dựng giống hình ảnh Chúa. Liên lạc giữa con người với Thiên Chúa là Cha và giữa
con người với anh em mình, có liên quan mật thiết với nhau như lời Thánh Kinh:
“Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.
Do đó, mọi lý thuyết hay hành động đưa đến kỳ thị về phẩm giá
con người và những quyền lợi do phẩm giá đó mà ra, kỳ thị giữa con người với
nhau, giữa dân này với dân khác, sẽ không có nền tảng.
Vì thế, Giáo Hội bác bỏ mọi sự kỳ thị hoặc đàn áp chủng tộc hay màu
da, giai cấp hay tôn giáo, vì thái độ ấy xa lạ với tinh thần Chúa Kitô. Do đó,
thánh Công đồng theo chân thánh Phêrô và Phaolô, khẩn thiết kêu mời các Kitô
hữu: “Hãy sống ngay lành giữa người lương dân”, nếu có thể được, tuỳ khả năng
mà sống hoà thuận với hết mọi người như những người con một Cha trên trời”.
Đối với những người Kitô hữu, trong tinh thần hiệp nhất, Công
đồng nói: “Thánh công đồng này khuyến khích tất cả mọi người Công giáo hãy nhận
ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất”.
Đối với những anh chị em ly khai, Công đồng Vatican II nói:
“Người Công giáo cần phải vui mừng nhìn nhận tôn trọng những giá trị thật sự
Kitô giáo, xuất phát từ cùng một gia sản chung được tìm thấy nơi các anh em ly
khai. Nhìn nhận những kho tàng phong phú của Chúa Kitô và những hoạt động của
quyền lực Người trong đời sống của những kẻ đang làm chứng về Người – và có khi
phải đổ máu mới nói lên được chứng tá ấy – quả là chính đáng và có giá trị cứu
rỗi: vì Thiên Chúa luôn đáng khâm phục và việc Người làm bao giờ cũng kỳ diệu”.
Nhìn vào tấm gương của người đàn bà Canaan, chúng ta cũng rút ra
được bài học quý giá trong đời sống đức tin. Với tình yêu lớn lao của một người
mẹ đối với con gái đang đau nặng, người đàn bà Canaan đã vượt qua mọi ranh giới
kỳ thị của xã hội – đàn bà và dân ngoại – để kiên trì tin tưởng vào lòng nhân
lành của Chúa Giêsu. Tình yêu là động lực dẫn đến đức tin.
Trong cuốn truyện “Anh em nhà Karamazốp”, Dostoevski kể về câu
chuyện của một bà lão đang bị khủng hoảng về tinh thần và thể lý. Ngày nọ bà
đến bàn luận vấn đề này với linh mục Zossima. Bà tâm sự về sự yếu kém của đức
tin, cùng nỗi nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa và đời sống mai sau.
Linh mục Zossima thông cảm lắng nghe, rồi khuyên bà rằng chẳng
có cách nào minh chứng rõ ràng về những điều này, nhưng vẫn có thể làm cho đức
tin của bà chắc chắn hơn bằng tình yêu thương tha nhân. Hãy cố gắng yêu người
láng giềng cho thật tình. Càng yêu thương, bà sẽ càng tin tưởng chắc chắn hơn
về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về đời sống sau khi chết. Càng yêu mến, đức
tin của bà càng trở nên mạnh mẽ, và làm tiêu tan hết những nỗi nghi ngờ. Bà đã
thử nghiệm và thấy có kết quả.
Linh mục Mark Link S.J., trong bài giảng Chúa nhật XX hôm nay,
đã ví tình yêu và đức tin đi đôi với nhau không khác gì như hai đường rầy xe
lửa. Tìm được cái này sẽ thấy cái kia. Đức tin và tình yêu liên kết với nhau
như xác với hồn. Cha cũng dùng lời của bác sĩ truyền giáo Albert Schweitzer,
trong cuốn sách có nhan đề “Reverence for Life” – “Kính trọng Cuộc Sống” như
sau:
“Bạn có muốn tin vào Chúa Giêsu không? Bạn có thực sự muốn tin
Ngài không? Như thế bạn phải làm một điều gì đó cho Ngài. Trong thời buổi đầy
ngờ vực này thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà các bạn cho kẻ khác
đồ ăn, nước uống hoặc áo mặc, những nghĩa cử này Chúa Giêsu đã hứa chúc phúc
như là làm cho chính Ngài, thì lúc đó bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm điều
ấy cho Ngài. Chúa Giêsu sẽ mặc khải chính Ngài cho bạn như thể Ngài là một
người vẫn còn sống”.
Các bậc cha mẹ cần củng cố đức tin hãy bắt chước người đàn bà
Canaan, đến với Chúa Giêsu với lòng yêu thương con cái tha thiết. Và tất cả mọi
người, muốn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, hãy mở
rộng tâm hồn để chấp nhận những người anh chị em không cùng tôn giáo, lập
trường chính trị, văn hoá, sắc tộc hay ngôn ngữ. Bởi “Ai không yêu thì không
nhận biết Thiên Chúa”.
18. Mỉm
cười.
Chuyện kể rằng: một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa.
Em cẩn thận đọc cho người bán hàng tên của từng món đồ mà mẹ em đã ghi trên
mảnh giấy. Người bán hàng nhìn em và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em
một cách thích thú.
Sau khi đã xếp gọn các món vào giỏ cho em, ông dẫn em đến trước
cái hộp đầy kẹo. Vừa mở nắp hộp ông vừa bảo em thò tay vào lấy kẹo. Em bé vui
mừng rút ra một viên kẹo. Người bán hàng bèn khích lệ em và nói:
- Cháu hãy bốc cho đầy lòng bàn tay của cháu đi.
Em bé mỉm cười đáp:
- Vậy ông hãy bốc kẹo giùm con.
Người bán hàng ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao vậy?
Em bé dí dỏm trả lời:
- Tại vì bàn tay của ông lớn hơn bàn tay của con rất nhiều.
Như em bé nhìn nhận cái bé nhỏ của mình trước sự lớn lao của
người khác, nên đã được ban cho dư đầy, thì người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan
cũng khiêm tốn nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn “những mảnh vụn trên bàn
chủ rơi xuống”.
Bà còn hết lòng tin tưởng vào bàn tay lớn lao quyền phép của
Thiên Chúa, nên bà xứng đáng lãnh nhận hồng ân cao cả, là con bà tức thì được
chữa khỏi quỉ ám.
Đó chính là thái độ cần phải có khi cầu nguyện.
Chỉ có những lời cầu nguyện khiêm tốn, nhận mình là không và
Chúa là tất cả, chẳng đòi hỏi gì mà chỉ trông đợi lòng thương xót Chúa, mới là
những lời cầu nguyện đẹp nhất.
Chỉ có những lời cầu nguyện kiên trì, không bao giờ thất vọng
nản chí cả khi Chúa xem ra như bỏ quên, như chối từ, mới là những lời cầu
nguyện phát sinh sức mạnh.
Sức mạnh của lời cầu nguyện chính là đức tin. Sau khi đã chối từ
lời cầu xin của người đàn bà ngoại giáo với lý do chính đáng: “Thầy chỉ được
sai đến với những con chiên lạc nhà Israel”, thậm chí Người còn nặng lời với
bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Thế mà Đức
Giêsu, cuối cùng đã để bà chinh phục: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà
muốn sao thì sẽ được vậy”. Đứng trước lòng khiêm tốn, kiên trì và phó thác,
Thiên Chúa sẽ không nỡ chối từ. Đức Giêsu không những đã ban cho người đàn bà
được thỏa lòng mong ước mà còn công khai khen ngợi đức tin mạnh mẽ của bà trước
các môn đệ.
Nếu Đức Giêsu đã không tiếc lời khen ngợi đức tin của người đàn
bà ngoại giáo, hẳn là Người muốn đưa ra một mẫu gương khi cầu nguyện: khiêm
tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Nếu người đàn bà ngoại giáo cầu xin mà cũng được nhận lời, thì
chứng tỏ Chúa không bị giới hạn trong phạm vi Giáo Hội, mà Người muốn ban ơn
cho ai là tùy ý Người.
Có thể nói, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa,
vì thế, nhà toán học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có đức tin, con người
phải quỳ gối cầu xin”. Cầu xin là nhìn nhận Chúa là tất cả, là đặt thánh ý Chúa
trên hết, là nhận biết mình yếu đuối, và chỉ cậy trông một mình Người mà thôi.
19. Người
ngoại ở cửa bên cạnh.
Glady bị mù từ lúc mới sinh. Vậy mà cô đã nhập trường Đại Học.
Cô có thể tìm đường đi bất cứ chỗ nào trong khu vực nhà trường mà không cần ai
giúp đỡ, trừ khi cô đi vội vàng. Thế rồi có một cô gái cần giúp đỡ. Một đêm
điện bị cúp. Phòng ngủ tối đen như mực. Các cô sờ soạn tìm lối đi, vấp ngã và
va chạm ở những dãy hành lang. Nhưng Glady ở đúng trong môi trường của mình. cô
sống trong bóng tối luôn mãi nên cô có thể dẫn các bạn của cô an toàn chắc chắn
đi mọi chỗ họ muốn tới. Glady thực sự hình thành chính mình đêm đó.
Tin Mừng hôm nay nói về người đàn bà khác gặp cản trở và đã hình
thành chính mình khi gặp Chúa Giêsu. Người đàn bà Canaan gặp cản trở vì phải là
người Do thái. Bà ấy thuộc về một dân tộc không những là dân ngoại, nhưng từ
lâu còn là địch thù của dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Thế mà bà cứ kêu to nài
xin cứu chữa con bà bị quỉ ám.
Bà mẹ ở Canaan này là người dân ngoại. Bà ấy biết ít hay không
biết gì về Đấng là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên, rõ ràng là bà đã nghe biết những
phép lạ của Chúa Giêsu, bà lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua David, xin thương
xót tôi”. Tóm lại, bà mẹ này không tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà
tin Ngài là một người khác thường và có quyền năng tuyệt vời.
Các môn đệ muốn đuổi bà ấy đi, còn Chúa Giêsu thì thoái thác.
Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất vọng. Bà kêu lớn tiếng: “Lạy
Ngài, xin giúp tôi”. Bà ấy biện hộ rằng: bà thỏa mãn với những mảnh bánh vụn
chứ không cần phải là được cả năm chiếc bánh. Chúa Giêsu khen ngợi lòng tin của
bà và đã chữa lành con gái bà ngay tức khắc.
Cũng có hơn một tỷ người như bà mẹ này trên thế giới. Ngay ở Hoa
Kỳ, dù rằng 90% tuyên bố rằng: họ tin vào Thiên Chúa mà chỉ 50% chính thức lưu
tâm đến Thiên Chúa. Dĩ nhiên chúng ta phải lưu tâm đến hàng triệu người không
được gặp Chúa Kitô. Nhưng tôi muốn làm tiêu tan về cá nhân, như bà mẹ ở Canaan,
họ không thuộc về gia đình Thiên Chúa nhưng như bà, họ rộng mở đối với Chúa Kitô
và Giáo Hội của Ngài.
Mỗi người chúng ta biết một vài người hay gia đình, một người
láng giềng, một người bạn công nhân, một người quen thuộc, xem ra họ ít hay
không lưu tâm tới Thiên Chúa. Họ không phải là người xấu đâu. Thực vậy, họ có
thể có đức tính tự nhiên trổi vượt, như tính chân thật, sự ân cần. Nhưng họ là
nhưng người xa lạ đối với Chúa Kitô.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho họ, chân thành và đều
đặn xin Chúa Kitô lôi kéo họ về cùng Ngài. Các bạn hãy dâng thánh lễ này, hãy
nói về họ với Chúa Giêsu khi hiệp lễ, hãy giới thiệu cho họ những sách báo công
giáo, hãy mời họ tham dự một vài buổi lễ đặc biệt như lễ Giáng sinh, phục sinh,
nhất là các bạn hãy tỏ cho họ thấy rằng: Chúa Kitô có ý nghĩa rất lớn đối với
các bạn. Ngài cũng có ý nghĩa rất lớn đối với họ. Ngài đã đổ máu ra vì mọi
người. Các bạn đừng đẩy người ngoại đi như các tông đồ làm. Hãy đem họ lại cùng
Chúa Kitô.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
20. "Này bà, bà có
lòng mạnh tin".
(Suy niệm của Lương Văn Liêm – Don Bosco)
Trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Người
Do thái muốn nên công chính, nhưng không thực hiện được bởi họ tìm cách nên
công chính nhờ luật, những người ngoại họ nên công chính được là vì họ tin”
hoặc “Đức tin là bằng chứng cho những gì anh em không thấy, là bảo chứng
cho những gì anh em trông đợi”
Quả thật nhờ lòng tin, người đàn bà xứ Canaan cứu được người con
gái bà bị quỷ ám đã nhiều năm phải sống trong tình trạng rất khổ sở, đức tin
của bà đã được chính Đức Giêsu khen “Bà có lòng tin mạnh thật”. Nhưng lòng tin
mạnh mẽ của bà do đâu và vì đâu? Với những suy nghĩ hạn hẹp mình viết lên đôi
dòng cảm nghĩ do đâu và vì đâu, mong được sự đóng góp của tất cả các bạn trẻ.
Đức tin mạnh nhờ lắng nghe và đi tìm.
Xứ Canaan là nơi mà người Do thái xưa kia cho là dân ngoại,
không hề biết đến Thiên Chúa, nếu có biết thì cũng chỉ thoảng qua. Người đàn bà
xứ Canaan chắc chắn không biết Đức Giêsu xuất thân từ đâu và cũng không thể nào
biết Đức Giêsu có một quyền năng siêu phàm cải tử hoàn sinh, là thần y chữa bá
bệnh để rồi tự tìm đến với Chúa, có phải chăng bà đã nghe những người Do thái
truyền miệng cho nhau về Đức Giêsu, từ lắng nghe, bà cất bước đi tìm để rồi
những cố gắng của bà đã được toại nguyện. những diều đó đều khởi đi từ Thiên
Chúa, Ngài đã gieo vào lòng con người từ khai thiên lập địa, khi con người biết
lắng nghe và cất bước đi tìm Ngài sẽ tỏ lộ cho mọi người biết Ngài qua mọi sự
việc, biến cố.
Đức tin mạnh khởi đi từ tình yêu.
Vào thời cựu ước ông Áp-ra-ham đã yêu mến Đức Chúa hết lòng và
khởi đi từ tình yêu đó mà ông đã tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và trở
thành Cha già các dân tộc tin vào Thiên Chúa. Mẹ Maria cũng một lòng yêu mến
Thiên Chúa một cách tuyệt đối, cũng chính tình yêu đó, Mẹ Maria đã tin tuyệt
đối vào lời mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa điều này
đã được chính Bà Ê-li-sa-bét chúc mừng Mẹ “Em thật có phúc vì đã tin những gì
Thiên Chúa thực hiện nơi em”
Nói về người đàn bà xứ Canaan trong Tin Mừng hôm nay, cũng khởi
đi từ tình yêu nhưng không phải tình yêu của bà dành cho Thiên Chúa vì bà có
biết Đức Giêsu là Chúa đâu, bà yêu người con gái của mình, đó là giọt máu của
bà, là niềm vui của bà trong cuộc sống “con đau mẹ cũng đau”, chính cái đồng
cảm trong tình yêu mẫu tử, bà đã mạnh dạn đến để xin cùng Đức Giêsu chữa cho
con bà và chính tình yêu đó thúc đẩy bà tin Chúa sẽ thực hiện điều bà mong ước
là cho con gái được khỏe mạnh. Từ tình yêu dành cho con dẫn đến lòng tin, bà đã
được Chúa đáp trả.
Đức tin mạnh khởi đi từ sự khiêm nhường.
Bắt nguồn từ sự lắng nghe, đi tìm, đồng thời kết hợp với tình
yêu dành cho người con thúc đẩy, người dàn bà xứ Canaan đã đặt niềm tin vào Đức
Giêsu. Ngoài những điều đó bà còn tỏ ra rất khiêm nhường, khiêm nhường lắng
nghe những lời miệt thị của người Do thái, khiêm nhường khi chính Đức Giêsu
lặng im với lời van xin, khiêm nhường chịu đựng khi các tông đồ nói bà nhiều
lời và khiêm nhường chấp nhận mình chỉ là con chó con dưới bàn ăn của chủ.
Chính nhờ lòng tin trong sự khiêm nhường đó mà bà đã được thỏa lòng mong ước.
Đức tin mạnh khởi đi từ lòng kiên nhẫn
Thánh Mátthêu đã trình thuật một cách tỉ mỉ về sự kiên nhân của
người đàn bà xứ Canaan: Lần đầu bà van xin, Chúa như vờ không nghe thấy. Lần
hai chính các môn đệ thưa với Chúa nhưng chúa đáp lại với các môn đệ một cách như
vô tình “Thầy chỉ được sai lạc nhà Israel mà thôi”. Lần ba bà lại van xin một
cách tha thiết nhưng chính Đức Giêsu đáp lại
“Không thể lấy bánh của con mà ném cho chó” với lòng kiên nhẫn
bà đã đáp lại “Nhưng thưa Ngài! Chó con cũng được thừa hưởng những miếng bánh
vụn từ bàn ăn rơi xuống”. Quả thật điều bà xin với Chúa rất chính đáng và đó
cũng là những lời giáo huấn của Đức Giêsu, bà không xin cho chính bà, bà xin
cho người con đang rất cần tình yêu liên đới của mọi người và cũng từ nơi Chúa.
nếu không có sự kiên nhẫn liệu bà ta có được những điều mình mong ước ngay lúc
hiện tại và tương lai? Chính do lòng kiên nhẫn bà đã thành công một cách mỹ mãn
đem lại cho chính bà niềm vui, đem lại cho con gái bà một sức sống mới và đem
lại vinh quang cho Thiên Chúa qua Đức Giêsu
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ vì Chúa đã ban nhưng không Đức tin
cho chúng con, nhưng vì thiếu lắng nghe, đi tìm, thiếu tình yêu, thiếu sự kiên
nhẫn mà đức tin của chúng con không đủ mạnh vì thế mà lời cầu nguyện của chúng
con chưa thấu đến tai Chúa, giữa cuộc sống đầy những cám dỗ, sóng gió tứ bề
luôn phủ lấp cuộc đời chúng con.
Xin cho chúng con có được sự lắng nghe qua lời của Chúa, qua lời
mời gọi, giáo huấn của các bậc bề trên, biết đi tìm Chúa mọi lúc, mọi nơi, luôn
có một tình yêu như Chúa đã yêu chúng con và cuối cùng xin cho chúng con có
lòng kiên nhẫn, chờ đợi Chúa trong đời sống cầu nguyện. Nhờ đó mà chúng con có
được sự bình an, niềm vui của Chúa và giúp chúng con luôn làm sáng danh Chúa
trong đời sống thường ngày. Amen.
21. Ra
khỏi đó, Đức Giêsu lui về - Noel Quesson.
Chúng ta đã nhận thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu
"rút lui", "lánh mặt" ở vùng đất của dân ngoại. Đã hẳn có
nhiều lý do được đưa ra. Dẫu sao, đây là một khúc quanh trong sứ vụ của Người.
Từ khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu cảm nhận một cách xót xa sự hiểu lầm của
dân chúng. Thật ra họ không biết sứ mạng thật của Người.
Từ nay, Người tránh họ, để chuyên tâm đào tạo nhóm nhỏ các môn
đệ. Vả lại, như mỗi người trong chúng ta, Người không tránh khỏi sự mệt mỏi thể
xác và tâm lý, và Người cảm thấy nhu cầu được yên tĩnh, nghỉ ngơi, cầu nguyện,
xa khỏi các đám đông.
Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđon, thì này có một người đàn bà
Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng...
Vậy để được yên tĩnh, Đức Giêsu phải vượt qua một biên giới. Và
này Người đi dọc theo bờ biển tuyệt đẹp miền nam xứ Libăng với những vách đá
màu vàng chạy xuôi ra Địa Trung Hải, và những vườn cây ăn trái xum xuê.
Vùng đất này, lẽ ra là một ốc đảo bình yên lại thường bị các
cuộc chiến huynh đệ tương tàn làm xáo động. Tại đây, Đức Giêsu gặp tôn giáo
‘thờ thần’ của dân ngoại. Tia và Xiđon không còn nằm trong phần đất của Israel.
Đó là hai thành phố cảng thương mại lớn, có cư dân hỗn hợp. Nhưng danh tiếng
của Đức Giêsu đã vượt qua biên giới. Và đây là một phụ nữ mà Matthêu giới thiệu
rõ ràng là "người đàn bà Canaan" để nhắc chúng ta nhớ lại những kẻ
thù đầu tiên của Israel đã tiến vào Đất Thánh. Người đàn bà ấy đang kêu lên...
“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi? Đứa con gái
tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!"
Theo thói quen thường có, Matthêu cho lời cầu xin của người đàn
bà một phong cách hoàn toàn "phụng vụ”:
Lạy Ngài, xin rủ lòng thương tôi" dịch chính xác ra tiếng Hy-lạp là:
"Kyrie éléisòn mé". Về chữ "Con vua Đavít" đây rõ ràng là
một tước hiệu của Đấng Mêsia.
Vậy quả là một nghịch lý đáng kinh ngạc: Đức Giêsu vừa có một
cuộc tranh luận, khi còn ở trên đất Israel, với các kinh sư và Pharisêu từ
Giêrusalem đến (Mt 15,1-20); và chính trong vùng đất ngoại bang này, Người nhận
được một lời cầu nguyện của đức tin do một người đàn bà. Đức Giêsu sẽ đón nhận
lời cầu nguyện tốt đẹp, chân thành và cảm động ấy như thế nào, Người đã từng
nói: “Anh em cứ xin thì sẽ được… cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho" (Mt 7,7).
Nhưng Người không đáp lại một lời.
Lạy Chúa Giêsu, tại sao Người không đáp lại lời cầu xin của một
người mẹ đáng thương trong cảnh khốn khố? Tuy nhiên đó là một lời cầu xin rất
tinh tuyền: bà xin Ngài "cứu con gái bà khỏi bị quỷ ám”. Lạy Chúa tại sao
Ngài dường như rất hay im lặng khi chúng con cầu xin sự giải thoát chúng con,
và giải thoát những người mà chúng con yêu mến?
Tạm thời trong lúc chờ đợi lịch sử chấm dứt sẽ soi sáng thêm cho
chúng ta, có lẽ chúng ta nhớ lại ràng Đức Giêsu thường rất dè dặt trong việc
làm phép lạ. Người không muốn bị coi như một người chuyên làm các phép lạ.
Một cách bình thường, Thiên Chúa để cho các quy luật của vũ trụ
diễn ra và Người không muốn làm ngược lại bất cứ lúc nào. Những lần chữa bệnh
hay làm phép lạ nào đó mà Đức Giêsu đã thực hiện thì không nhiều và trước tiên
luôn luôn là những "dấu chỉ". Nhưng mọi “dấu chỉ" đều mơ hồ và
đều phải được giải thích. Nhiều người Pharisêu khinh thường những phép lạ của
Đức Giêsu bằng cách cho rằng các phép lạ ấy thuộc quyền lực của ma quỷ (Mt
12,24)... còn với các đám đông, các phép lạ ấy thường chỉ ở trong bình diện của
thầy trị bệnh và thầy pháp, điều này khiến Người phải chạy trốn (Mt 14,22) đến
nỗi. Đức Giêsu thường cấm người ta nói ra những phép lạ Người làm (Mc 1,34-44;
7,36; 8,26; 9,9).
Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: "Xin Thầy bảo bà ấy
về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”.
Rõ ràng đây là một giải pháp dễ dãi. Nhưng như thế chẳng phải là
làm ngưng mọi cuộc đối thoại đó sao? Người ta thoát khỏi sự phiền phức. Thế là
xong. Rồi người ta được yên tĩnh.
Chúng ta cũng thế, như các Tông đồ, chẳng phải chúng ta cũng
thường đi đến một thái độ cuối cùng như thế, và do đó cắt đứt mọi dự định trao
đổi đó sao?
Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của
nhà Israel mà thôi”.
Người bắt đầu không đáp một lời. Rồi giờ đây một sự từ khước dứt
khoát. Lạy Chúa, tại sao vậy? Tại sao Chúa nói không với người đàn bà đang cầu
xin Chúa? Tuy nhiên, chúng con biết rằng Chúa có trái tim nhân hậu và hay chạnh
lòng thương xót. (Mt 9,36; 14,14; 15,32).
Nhưng rõ ràng, trước sự khắt khe này của Đức Giêsu chúng ta cảm
thấy bị tổn thương.
Khi chúng ta biết được sự dịu dàng của Đức Giêsu đối với những
người nghèo, chúng ta không thể nghĩ rằng những sự từ chối bề ngoài này không
bao hàm một ý nghĩa. Chúng ta hãy thử vượt qua cảm tưởng ban đầu để khám phá ý
nghĩa bao hàm trong công thức: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên
lạc của nhà Israel mà thôi". Bởi công thức này, Đức Giêsu nói lại với
chúng ta tình yêu của Người theo thánh ý Chúa Cha: Người đã được Chúa Cha sai
đến vì một nhiệm vụ chính xác và hạn chế. Mọi đời sống con người được đóng
khung trong không gian và thời gian. Người ta không thể ở khắp nơi và làm mọi
việc.
Đức Giêsu không tự mình quyết định sứ mạng của Người: Người đã
được sai đi. Chính Chúa Cha đã giới hạn môi trường hoạt động trong phạm vi mà
một con người có thể hoàn thành trong một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng ta cũng
thế, thay vì bám víu những mơ ước của chúng ta, chúng ta phải chấp nhận thân
phận con người có giới hạn, bị gắn chặt vào một nơi nào đó ngõ hầu làm tròn
nhiệm vụ riêng của mình và chỉ có chúng ta mới có thể làm được. Chúng ta luôn
luôn bị cám dỗ mơ mộng đến một đời sống khác... đời sống của những người khác?
Thật vậy Đức Giêsu, ngoại trừ những cuộc du hành ít ỏi (và rất
có ý nghĩa), hiếm khi Người ra khỏi biên giới của xứ Palestine, Người dành phần
chính của sứ vụ cho những người đồng hương Do Thái của Người. Những người khác,
các môn đệ, sẽ đi khắp thế gian (Mt 28,19), nhưng chỉ sau khi Người đã dược
trao toàn quyền trên trời tức là sau cái chết và sự sống lại của Người (Mt
28,18).
Trong lúc này, Đức Giêsu bằng lòng đảm nhận một cách khiêm tốn
nhiệm vụ "nhỏ bé" giới hạn đã được trao cho Người, và Người định
nghĩa sứ mạng của Người khi tóm tắt lời tiên tri tuyệt vời trong đó Thiên Chúa
tự giới thiệu như một Mục Tử Nhân Từ, đích thân đến để quy tụ và chữa lành
những con chiên lạc (Ed 34,1-31). Nhưng dù bà mẹ đáng thương có hiểu biết viễn
cảnh lịch sử ấy… bà có bằng lòng không?
Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Ôi quả là một lời khẩn nài tuyệt diệu!
Thêm vào những lời đáp lại trước đó, câu này há chẳng phải là
một lời đáp lại lý do tại sao của chúng ta đó sao?
Những thử thách của đức tin, những thử thách của việc cầu nguyện
há chẳng phải là một sự thanh luyện đức tin và làm tăng giá trị của sức mạnh
cho sự cầu nguyện chân thực. Giữa người đàn bà Canaan và Đức Giêsu có một quan
hệ mầu nhiệm gây ngạc nhiên trong giây phút ấy: theo vẻ bề ngoài, đó là mối
quan hệ bị phá vỡ, một lời từ chối, một sự bỏ rơi... nhưng bên trong những tấm
lòng, chính những kh6 khăn của hoàn cảnh lịch sử làm nẩy mầm một quan hệ sâu xa
nhiều hơn giữa hai người. Cũng như thế, trên núi; một đập nước dường như chận
dòng nước lại… nhưng gây ra sự dâng lên cho đến lúc tạo ra những điều kỳ diệu.
Còn chúng ta? Chúng ta có biết giải thích những thử thách của
chúng ta không? Thay vì để chúng ta bối rối bởi những khó khăn, chúng ta có
biết "nâng cấp" mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa không? Trước
sự bền đỗ tuyệt diệu này của người đàn bà ngoại giáo, Thầy chúng ta sẽ đáp lại
gì?
Người đáp: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho
lũ chó con”.
Quả là khắc nghiệt! Lạy Chúa, Chúa vừa hóa bánh ra nhiều. Thế mà
Chúa từ khước mẩu bánh nhỏ mà người đàn bà nghèo khổ ấy cầu xin. Không thể như
thế. Hãy đọc cho đến phần cuối của câu chuyện này…
Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được
ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống".
Không để cho mình chán nản, người đàn bà đã nắm lấy trái bóng và
với sự hóm hỉnh, trả trái banh lại cho Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu thực ra đã
chẳng muốn cứu giúp người đàn bà ấy hay sao? Ở Phương Đông gọi một người nào đó
là con chó là một sự nguyền rủa nặng nề. Nhưng khi dùng chữ chó con Đức Giêsu
muốn gợi ra tính chất của thú nuôi trong nhà, chúng hoàn toàn thuộc về những
thành viên trong nhà như các con cái.
Đức Giêsu đáp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn
sao thì sẽ được vậy". Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
Rõ ràng đây là chỗ mà câu chuyện phải đi đến. Một niềm hy vọng
to lớn được mở ra xuyên qua Tin Mừng này nhờ đức tin của người đàn bà ngoại
giáo ấy. Nếu Đức Giêsu khiêm nhường giới hạn mình nơi những con chiên lạc của
nhà Israel thì ở đây, Người cho thấy rằng sứ điệp và ơn cứu độ của Người là
dành cho tất cả mọi người. Và chúng ta phải để cho chính Tin Mừng tra vấn chúng
ta. Tại sao tôi may mắn có được đức tin? Tại sao tôi là một người có đặc ân,
được ăn "bánh của con cái Thiên Chúa"? Có phải tôi không quên, mà
quên thì rất thường xảy ra, đám đông nhiều vô kể đang chờ những mảnh vụn từ bàn
ăn của Thiên Chúa? Mọi sự tuyển chọn của Thiên Chúa cũng là một sứ mạng hoàn vũ…
Nếu Thiên Chúa chọn "một số người", chính là để sai họ
đi đến với mọi người khác. Israel là dân tộc đầu tiên được chọn, phải là dân
tộc đầu tiên tiếp nhận sự trung tín tuyệt vời của Thiên Chúa với những lời
Người hứa, không quên mục đích sau cùng: Mọi người phải được cứu chuộc! “Toàn
cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế"... cho
những người khác (Xh 19,5-6).
22. Chú giải
của Lm. FX. Vũ Phan Long.
NGƯỜI PHỤ NỮ CANAAN
1.- Ngữ cảnh
Trong các bản văn trước, ta thấy, sau khi Đức Giêsu bị dân
Nadarét loại trừ và Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, Đức Giêsu đã hoàn toàn tập trung
vào việc giáo huấn các môn đệ; Người có chữa bệnh, nhưng không còn ngỏ lời với đám
đông nữa. Tuy nhiên, các tranh luận với người Pharisêu vẫn còn, ngày càng gay
gắt hơn. Đức Giêsu trách họ là đã thêm quá nhiều quy tắc vào Luật Môsê khiến
cho Luật này trong thực tế không còn giá trị nữa; cùng lắm chỉ một số chuyên
viên rất rành các truyền thống tiền nhân mới giữ được mà thôi. Đức Giêsu phản
ứng bằng cách đưa Luật Môsê trở lại với sự đơn giản ban đầu, để toàn dân có thể
tuân giữ.
Trong bản văn đi trước sát đoạn văn của chúng ta, Đức Giêsu còn
đi xa hơn. Trong một dịp tranh luận với người Pharisêu về món ăn trong sạch và
không trong sạch, dường như Người gợi ý là người ta có thể ăn mọi thức mà chính
Luật Môsê cấm! Thế mà điều này đã từng là một trong những lý do gây chia rẽ Do
Thái và Dân ngoại. Vậy Đức Giêsu dường như đang quay về với một thái độ mềm dẻo
hơn đối với Dân ngoại. Chính trong khung cảnh này mà ta đọc được truyện
"Người phụ nữ Canaan". Tác giả Mt trình bày cho thấy Đức Giêsu đã làm
một phép lạ theo lời thỉnh cầu của một phụ nữ ngoại giáo. Đứng trước sự cứng
lòng tin của dân Người và sự chống đối ngày càng gia tăng của giới lãnh đạo tôn
giáo, phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với
người ngoại?
2.- Bố cục
Bản văn được bố trí thành những đoạn đối thoại với Đức Giêsu,
như những bậc đi lên tới một cao điểm:
* Mở: Hoàn cảnh (15,21);
1) Đoạn một: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu làm ngơ = từ
chối (15,22-23a);
2) Đoạn hai: Đức Giêsu và các môn đệ: Đức Giêsu trả lời = từ
chối (15,23b-24);
3) Đoạn ba: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu trả lời = từ
chối (15,25-26);
4) Đoạn bốn: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu khen ngợi =
đồng ý (15,27-28).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn
(21): Ghi chú về nơi chốn này có tính cách thần học. Tác giả Mt cho thấy Đức
Giêsu tiếp xúc với Dân ngoại cư ngụ trong vùng này. Cụm từ "Tia và
Xiđôn" thường được dùng để gọi vùng Dân ngoại cư ngụ ở về phía biên giới
tây bắc Paléttina; nơi này cũng còn được gọi là Phênikia. Dân Phênikia tự gọi
mình là "dân Canaan", và Cựu Ước cũng như Tân Ước đã lấy lại tên gọi
đó.
- ở vùng ấy đi ra (22): Giải thích như
BJ (1998) rằng "ân huệ cuối cùng được Đức Giêsu ban cho người phụ nữ ngoại
giáo này rất có thể sẽ là trong đất Israel", hay như Bd CGKPV (2004):
"Mátthêu hình như muốn ngụ ý rằng, sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết
tuyên xưng Chúa Giêsu là Con vua Đavít là vì bà đã đi ra khỏi miền dân ngoại và
chỉ trong đất Israel bà mới được Chúa thi ân" dường như có phần ép nghĩa.
Nhưng c. 21 lại cho hiểu rằng chính Đức Giêsu mới đi ra khỏi đất Israel để đi
vào vùng Dân ngoại. Trong thực tế, các biên giới địa lý, chính trị và dân tộc
giữa Galilê, Xyri và Phêniki cũng chẳng rõ ràng gì. Đàng khác động từ "đi
ra" (exelthousa) và giới từ apo cũng rất có thể chỉ liên hệ đến xuất xứ
ngoại giáo của bà ấy mà thôi. Vì thế, giáo sư Guillemette đề nghị dịch là
"... thì này có một người đàn bà Canaan của vùng ấy...". Dịch như
thế, thì hài hòa với câu trước (c. 21). TOB (1994) dịch là "này đây một
người đàn bà Canaan đến từ đó...".
- Con vua Đavít (23): Vì danh tiếng
Đức Giêsu đã lan tới các vùng này, người ta biết các tên của Người. Do đó,
không chắc là khi gọi Người như thế, người phụ nữ đã tin Người là Đấng Mêsia.
Rất có thể bà gọi Người như thế là chỉ bắt chước người Do Thái. Tuy nhiên, lời
kêu của bà cũng vẫn là một lời trách gửi đến cho dân Do Thái vì họ đã không
biết nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
- Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel
mà thôi (24): "Chỉ được sai đến" là một
thái bị động thay tên Thiên Chúa (= Thiên Chúa chỉ sai Thầy đến với...). Đức
Giêsu nhắc lại một bài sai rất phù hợp với các sấm ngôn nói rằng sẽ đến một
ngày Yhwh đuổi các mục tử giả hiệu ra khỏi Israel và trao nhiệm vụ chăn dắt cho
Đấng Mêsia (x. Ed 34,23). Nay Người loan báo rằng giờ đó đã đến. Người có vai
trò tái lập Israel thành một đoàn chiên duy nhất, trung thành với Yhwh. Khi dân
Israel đã được quy tụ lại rồi, khi họ đã lại đi theo vị mục tử chân thật của
Thiên Chúa rồi, chỉ khi ấy các dân trên thế giới mới có thể được quy tụ lại
quanh Thiên Chúa chân thật. Nhưng giai đoạn hai này của chương trình cứu độ
không trực tiếp liên hệ đến sứ mạng của Người là Mêsia. Về chú giải,
"những con chiên lạc nhà Israel" (ta probata... oikou Israêl) cũng có
thể là một thuộc-cách giải nghĩa (epexegetical genitive), và có nghĩa là
"những con chiên lạc là nhà Israel".
- Chó con (26): Từ Hy Lạp
kynarion ("chó con") là dạng giảm nhẹ của từ kyôn ("chó").
Người Do Thái thường gọi Dân ngoại là "chó" (Híp-ri keleb). Phải
chăng Đức Giêsu dùng từ ở dạng giảm nhẹ để giảm bớt tính khinh bỉ trong từ
"chó"? Không chắc, bởi vì: 1) Trong Hy Lạp koinê (bình dân), không
chắc là dạng giảm nhẹ ấy có giá trị là một sự giảm thiểu; 2) Ngôn ngữ A-ram
không có dạng từ tương ứng với "chó con". Do đó, hẳn là Đức Giêsu đã
dùng từ A-ram truyền thống là kalơbâ' (chó) để gọi Dân ngoại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang
hẳn với người ngoại? Bản văn Mt đọc hôm nay trả lời với chúng ta rằng đấy không
phải là ý định của Đức Giêsu. Quả thế, Đức Giêsu đã chỉ chấp nhận làm phép lạ
sau khi đã từ chối lâu dài, y như thể Người đã chấp nhận cực chẳng đã. Chúng ta
tìm hiểu bản văn.
Người phụ nữ đã thưa với Đức Giêsu: "Lạy Ngài là Con vua
Đavít, xin rủ lòng thương tôi" (c. 22). Khi nói" Xin rủ lòng thương
tôi", bà đã dùng ngôn ngữ Kinh Thánh lấy từ các Thánh vịnh (Tv 6,3; 9,14;
26,7; 30,10; 40,56; 85,.3; 122,3; v.v.). Đây là ngôn ngữ quen thuộc với Hội
Thánh. "Ngài/Chúa, kyrie", là danh hiệu các môn đệ và những người cầu
xin thường dùng để thưa với Đức Giêsu. Khi gọi Người là "Con vua
Đavít", cho dù đức tin của bà chưa rõ ràng, bà cho thấy bà đang quay về
với Đấng Mêsia của Israel, Đấng đã chữa lành nhiều người đau ốm trong dân. Như
vậy, bà biết rằng Đức Giêsu được gửi đến với con cái Israel; độc giả thấy được
đức tin của bà ở chỗ là, dù biết như thế, bà vẫn kêu cầu Người.
Các môn đệ tìm cách đuổi bà ấy đi. Các ông đóng một vài trò tiêu
cực, giống như ở 14,15; 19,13. Các ông giải thích xấu tiếng kêu la của người
phụ nữ; các ông không nghe ra được nỗi cùng quẫn của bà, mà chỉ thấy là bà đang
đi theo nhóm và làm phiền bằng tiếng kêu la. Lời đáp của Đức Giêsu nằm trong
ngữ cảnh này: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà
Israel mà thôi" (c. 24); Người tuyên bố như vậy trước mặt các môn đệ và
trong hoàn cảnh dân Do Thái khép lòng lại trong thái độ cứng tin. Điều này,
chính Người đã một lần nói lên khi sai phái Nhóm Mười Hai (x. 10,6). Như thế
Người hỗ trợ cho việc dứt khoát từ chối người phụ nữ và còn cho thấy điều này
thuộc về lịch sử cứu độ. Nếu vậy, sau này khi Đức Giêsu truyền dạy các môn đệ
đi đến với muôn dân (28,18-20), điều này có nghĩa là có một sự thay đổi căn bản
trong chương trình của Thiên Chúa. "Các con chiên lạc của nhà Israel"
không phải chỉ là "các con chiên đen" tại Israel, nhưng có thể hiểu
là toàn thể dân Thiên Chúa mà Đức Giêsu được gửi tới. Câu trả lời của Đức Giêsu
cho thấy Người không dành cho người phụ nữ một chút quan tâm nào nữa. Thế nhưng
bà vẫn quay về Đức Giêsu và bái lạy Người (x. 8,2; 9,18). Một lần nữa, bà gọi
Người là "Ngài/Chúa, kyrie", và một lần nữa, bày nài xin Người với
những lời lấy từ các Thánh vịnh (Tv 43,27; 69,6; 78,9; 108,28). Một lần nữa,
Đức Giêsu từ chối bằng lời lẽ rất mạnh: "Không nên lấy bánh dành cho con
cái mà ném cho lũ chó con" (c. 26). Người muốn nói rằng Tin Mừng chỉ được
nhắm phân phát cho "con cái", tức là dân tộc Do Thái, những người
thừa kế lời Thiên Chúa hứa. Không chắc người phụ nữ hiểu được ý này, khi bà trả
lời: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn
trên bàn chủ rơi xuống" (c. 27). Có lẽ phải nói rằng bà tự gọi mình là
"chó" không phải là một sự khiêm nhường, nhưng là để bẻ lại Đức
Giêsu: Trong gia đình, nhưng con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn chủ
rơi xuống. Dù bị từ chối nhiều lần, người phụ nữ vẫn không nản chí, bà vẫn tiếp
tục cầu xin. Thế là Đức Giêsu chấp nhận lời bà thỉnh cầu.
Đức Giêsu mô tả sự tin tưởng vô điều kiện của người phụ nữ, được
diễn tả bằng những lời xin được lặp lại liên tục, là "lòng/đức tin"
(x. 8,10.13; 9,22.29). Đức tin có nghĩa là người ta không có bất cứ điều gì ngoại
trừ sự tin tưởng đặt nơi Đức Giêsu. Câu truyện kết thúc giống như truyện viên
sĩ quan ở Caphácnaum. Lời thỉnh cầu không ngơi nghỉ của bà đã được chấp nhận.
Con gái bà được khỏi (c. 28).
Việc Đức Giêsu chấp nhận lời thỉnh cầu của bà trở thành một lời gián
tiếp kết án sự công chính và sự an toàn mà dân Do Thái nghĩ là họ đang có, dựa
trên truyền thống và tư cách thừa kế lời Thiên Chúa hứa cho tổ phụ Abraham: họ
không còn biết đón nhận ơn Thiên Chúa tuyển chọn trong đức tin nữa. Còn bà
Canaan, bà đã đạt được điều bà muốn có, là bởi vì bà ở trước nhan Thiên Chúa
trong tư thế chờ đợi khiêm tốn như những người được nói đến trong các Mối Phúc.
Bà đã tỏ ra như là một người hành khất dưới chân Đức Giêsu, cứ không ngừng cầu
xin, cứ hy vọng ngược lại mọi hy vọng, giống như Abraham, như bà góa trong dụ
ngôn Lc (Lc 18,1-8), như những người biết dùng sức mạnh mà vào Nước Trời (Mt
11,12). Lời bà cầu xin chính là hình thái cụ thể và sống động của niềm tin bà.
Đức Giêsu thấy "lòng tin của bà mạnh thật" (c. 28), bởi vì lòng tin
của bà là trọn vẹn, nó cho thấy một con tim không chia sẻ đang chờ đợi được no
lòng thỏa dạ từ sự hào phóng của Thiên Chúa, từ ý muốn của Chủ. Đồng thời,
chính đức tin này càng cho thấy là sự mù quáng và định kiến của dân Do Thái đối
với Đức Giêsu thật thê thảm, vì họ đã từ khước nhìn nhận Người là Đấng Mêsia,
trong khi "con chó" ngoại giáo này đã biết nhận ra Người là "Con
vua Đavít" (c. 22). Sự tin tưởng vô điều kiện đặt nơi Đức Chúa và Con vua
Đavít cũng hàm chứa kinh nghiệm cụ thể về sự chữa lành.
+ Kết luận
Truyện người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu
thuẫn nhau: sự tuyển chọn Israel làm dân riêng của Thiên Chúa và Thiên Chúa
hoàn toàn tự do trong việc thực hiện chương trình cứu độ. Ta vẫn có thể đọc
truyện bà Canaan để ghi nhận sứ điệp cứu độ và hy vọng, nhưng cũng phải luôn đề
phòng xu hướng duy tín hoặc cuồng tín. Nếu bà ấy cuối cùng đã được Đức Giêsu
lắng nghe, tác giả vẫn không có ý nói rằng bất cứ ai có đức tin y như đức tin
của bà thì luôn luôn đạt được thành công như thế. Các mầu nhiệm của Thiên Chúa
không phải bao giờ cũng trở nên minh bạch khi con người thỉnh cầu Ngài.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Bản văn hôm nay cho hiểu rằng tư cách của
chúng ta là người đã được rửa tội không phải là một quyền để chúng ta có thể
phê phán hoặc khinh bỉ người khác. Tư cách này thật ra là một ơn Thiên Chúa ban
cho chúng ta. Riêng Ngài, Thiên Chúa không hề bị ràng buộc vào bất cứ cấu trúc
tôn giáo nào hay bất cứ tư cách nào của con người cả. Ngài vẫn đang thấy có
"lòng tin mạnh thật" nơi những người mà chúng ta coi thường. Ngài vẫn
có thể làm dấy lên một dân mới cho Ngài.
2. Bà Canaan này đã vượt qua được mọi trở ngại,
bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình
thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được các trở ngại bằng trí thông minh
đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn khiêu khích, hoặc bằng thái độ
quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh. Để làm được như thế, trước tiên bà phải rất thương
yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu đuối, không có thể tự làm gì
để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng trở thành đại diện cho những
người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ. Bà là phát ngôn viên của
những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà hiểu vụ việc của bà, bà
xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được cứu giúp. Không phải bà
chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế nào thì tùy Đức Giêsu; bà
đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối được.
3. Không biết là bà có linh cảm được rằng Đức
Giêsu thế nào cũng chấp nhận lời bà thỉnh cầu chăng. Không biết là bà có đã
nghe biết nhiều về Đức Giêsu chưa. Không biết là bà có hiểu biết phần nào nhân
cách của Người chăng. Nhưng cách bà xin cho thấy là bà biết là bà có thể cậy
dựa vào Đức Giêsu. Dù sao người phụ nữ cũng có linh cảm sắc bén hơn về con
người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ gặp gỡ. Chắc chắn bà này
đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này. Khi biết rằng bà xin không
phải cho bà, khi biết rằng con người mà bà đến gặp để thỉnh cầu là con người có
lòng nhân ái, thì bà chẳng có gì để sợ mất. Bà đã xin, xin mãi. Ta có thể nhớ
đến dụ ngôn Đức Giêsu kể về bà góa nhất định xin ông quan toà bất nhân cứu xét
cho vụ việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng Luca. Dường như sự kiên trì là một
đức tính chủ yếu của phái nữ.
4. Dường như tôi dễ buông xuôi trước một khó
khăn dù bé nhỏ. Dường như tôi không có xác tín mãnh liệt về ơn gọi của tôi để
sống cho đến mức độ cuối cùng. Dường như tôi không có cảm thức rằng số phận của
người khác liên hệ đến cách tôi sống ơn gọi của tôi. Quả thật, tôi lùi bước tức
khắc khi vừa bị từ chối. Có mấy khi tôi kiên trì cầu xin Chúa cho một người đã
cậy nhờ tôi cầu nguyện cho đâu. Dường như tôi chẳng dám lên tiếng cho những
người cô thế cô thân, vì tôi sợ liên lụy đến tôi, tôi sợ mất quyền lợi, mất chỗ
đứng, mất sự tín nhiệm... Có khi chỉ nguyên nghĩ rằng tôi chẳng đạt được kết
quả gì đâu, là tôi đã cảm thấy tê liệt, chân tôi không sao nhúc nhích được nữa
rồi. Người phụ nữ Canaan này, một người ngoại, cho tôi thấy rằng kiên trì là
một nhân đức, bởi vì nó lay chuyển được lòng của Thiên Chúa! Bà ý thức rằng bày
tỏ nguyện vọng tốt lành, nhất là để trợ giúp kẻ khác, thì không phải là chuyện
xấu để phải cả nể, để phải giữ kẽ, để phải nổi tự ái lên.
5. Hội Thánh sống giữa Dân ngoại có nhiệm vụ
công bố sứ điệp của Đức Giêsu cho họ: Đức Giêsu không giam hãm Thiên Chúa bên
trong biên cương của Israel, nhưng đã để chính mình được đánh động bởi lòng tin
của người phụ nữ ngoại giáo. Đối với cộng đoàn đã tách khỏi Israel, giai thoại
này cho thấy các tín hữu có thể tìm được một cuộc sống mới và một vùng dấn thân
mới giữa các Dân ngoại.