(k. 1900)
Gregory Grassi được sai đến
Trung Hoa, làm Giám Mục của giáo phận Bắc Shanxi. Vào
năm 1900, trong cuộc nổi dậy của các võ sĩ, cùng với 14 nhà truyền giáo Âu Châu
và 14 tu sĩ Trung Hoa, ngài chịu tử đạo vào thời kỳ bách hại ngắn ngủi nhưng đẫm
máu.
Các nhà
thừa sai Kitô Giáo thường bị bắt trong các cuộc chiến chống với chính quốc gia
của mình. Khi các chính phủ Anh, Ðức, Nga và Pháp buộc nhà cầm quyền Trung Hoa
phải nhượng bộ đất đai vào năm 1898, cả một phong trào chống người ngoại quốc nổi
dậy ở Trung Hoa.
Gregory
Grassi sinh ở Ý năm 1833, thụ phong linh mục năm 1856 và năm năm sau ngài được
sai đến Trung Hoa Lục Ðịa. Sau đó Cha Gregory được tấn phong làm Giám Mục của
giáo phận Bắc Shanxi. Vào năm 1900, trong cuộc nổi dậy của các võ sĩ, cùng với
14 nhà truyền giáo Âu Châu và 14 tu sĩ Trung Hoa, ngài chịu tử đạo vào thời kỳ
bách hại ngắn ngủi nhưng đẫm máu ấy.
Hai
mươi sáu vị tử đạo bị bắt theo lệnh của Yu Hsien, quan đầu tỉnh Shanxi. Tất cả
bị chết chém vào ngày 9 tháng Bảy 1900. Năm vị thuộc dòng Phanxicô Hèn Mọn; bảy
vị thuộc tu hội Phanxicô Truyền Giáo của Ðức Maria -- là các vị tử đạo tiên khởi
của tu hội. Về phía người Trung Hoa có bảy chủng sinh và bốn giáo dân, tất cả đều
thuộc dòng Ba Phanxicô. Ba giáo dân Trung Hoa khác bị giết ở Shanxi chỉ vì làm
việc cho các tu sĩ Phanxicô và bị bắt cùng với các người khác. Ba tu sĩ
Phanxicô người Ý cũng được tử đạo trong tuần đó ở tỉnh Hunan.
Tất cả
các vị tử đạo được phong chân phước vào năm 1946.
Lời Bàn
Tử đạo
là sự nguy hiểm nghề nghiệp của các nhà truyền giáo. Trong cuộc nổi dậy của các
võ sĩ ở Trung Hoa Lục Ðịa, năm giám mục, 50 linh mục, hai trợ sĩ, 15 nữ tu và
40,000 Kitô Hữu Trung Hoa đã bị giết. Tuy nhiên, số giáo dân Công Giáo Trung
Hoa vào năm 1906 là 146,575 đã tăng lên đến 303,760 vào năm 1924. Sự hy sinh lớn
lao đã đem lại kết quả lớn lao.
Lời Trích
"Tử
đạo là một phần của bản chất Giáo Hội, vì nó biểu lộ cái chết của Kitô Hữu
trong hình thức tinh tuyền, là một cái chết vì đức tin không chịu kiềm chế. Qua
sự tử đạo, sự thánh thiện của Giáo Hội, thay vì thuần tuý vẫn chỉ có tính cách
không tưởng, đã thể hiện một diễn đạt tỏ tường cần thiết nhờ ơn sủng của Thiên
Chúa. Ngay từ thế kỷ thứ hai, người chấp nhận cái chết vì đức tin Kitô Giáo hoặc
luân lý Kitô Giáo được coi là một 'chứng nhân'. Danh từ này xuất phát từ Phúc
Âm, vì Ðức Giêsu Kitô là 'chứng nhân trung tín' tuyệt đối (Khải Huyền 1:5;
3:14)" (Karl Rahner, Tự Ðiển Thần Học, tập 2, trang 108-109).