CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN -
A
1. Hiền lành.
2. Ách của Tôi êm ái.
3. Khiêm nhường – ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt.
4. Gió và mặt trời.
5. Suy niệm của Lm. Trần
Ngà.
6. Khiêm nhường
7. Mạc khải cho kẻ bé mọn – R.
Veritas
8. Gánh nặng của Chúa
Giêsu
9. Ai là người mở mắt?
10. Thiên Chúa của chúng ta khiêm hạ thế
nào.
11. Hiền lành
12. Mang lấy ách
13. Mang lấy ách
14. Gánh
nặng
15. Số không
16. Chướng ngại
17. Hiền lành
18. Hãy đến với Ta
19. Chú giải của Noel Quesson.
20. Chú giải của Fiches Dominicales
21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà
Lạt
22. Học cùng Đức Giê su sự ... Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
23. Hiền lành và khiêm nhương Lm
Giuse Đinh lập Liễm
24. Hãy học cùng Ta... Suy niệm của
Lm. Trần Ngà
26. Ách của Ta thì êm ái... Sưu tầm
27. Dẫn lễ: Học hiền lành khiêm tốn với Chúa Giêsu
catholic.org.tw
28. Khiêm
nhu
1. Hiền lành.
Mặt trời và gió luôn
tranh cãi xem ai mạnh hơn ai. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đi trên con
đường vắng. Mặt trời nói với gió:
- Ai làm cho người ấy
cởi bỏ chiếc áo choàng mau hơn thì sẽ thắng cuộc.
Gió đồng ý và ra tay
trước. Chàng ta càng thổi thì người kia lại càng giữ chặt lấy chiếc áo. Cuối
cùng chàng gió kiệt sức và đành chịu thua.
Lúc đó mặt trời mới ra
tay. Bác ta toả xuống những tia nắng khiến người kia cảm thấy nóng bức. Và thế
là người ấy phải cởi áo ra.
Tác giả câu chuyện
trên đã kết luận như sau: Bạn có thể thành công nhờ sự hiền lành dễ thương hơn
là nhờ bạo lực.
Ngày nay sự hiền lành
dễ thương không còn được đánh giá cao như trước, bởi vì ngày nay bạo lực được
phổ biến và có mặt khắp nơi, trên báo chí cũng như trên phim ảnh và truyền
hình.
Thật khác xa với lời
Chúa dạy: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Tiên tri Isaia đã nói
trước về sự hiền lành của Đức Kitô như sau: Ngài không la hét, không to tiếng
hoặc ăn nói ồn ào ngoài đường phố. Người không bẻ gẫy cây sậy bị giập, không
thổi tắt ngọn đèn còn leo loét.
Một thí dụ tuyệt hảo
về sự hiền lành dễ thương của Chúa là cách thức Ngài xử lư đối với người phụ nữ
bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài chẳng những dễ thương đối với người
phụ nữ, mà còn dễ thương với cả những kẻ tố cáo chị ta, vốn tự cho mình là công
chính. Chúa Giêsu không la hét, không quát mắng, nhưng Ngài chỉ cúi xuống và
viết trên cát.
Ngài khuyên chúng ta
bắt chước người mục tử hiền lành trong dụ ngôn con chiên lạc. Người ấy không hề
đánh đập hay lôi kéo con chiên về nhà, trái lại đã vác nó trên vai. Ngài cũng
khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Ông ta đã
không quở mắng đánh đập, trái lại đã ôm hôn cậu và mở tiệc ăn mừng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay
chứa đứng một lời mời gọi quan trọng, đó là hãy noi gương bắt chước Chúa sống
hiền lành và khiêm nhường. Cố gắng đối xử với mọi người bằng sự nồng thắm chân
tình. Tiếp đến là hãy đối xử với những kẻ làm hại chúng ta theo cách đối xử của
Chúa đối với người phụ nữ ngoại tình, của người cha đối với đứa con hoang đàng,
của người mục tử đối với con chiên lạc. Nghĩa là hãy cảm thông hơn là kết án.
Và sau cùng là hãy đối
xử với những người đang phải mang lấy gánh nặng của khổ đau, của bất hạnh một
cách khéo léo và tế nhị, hầu đem lại cho họ sự an ủi và khích lệ. Tóm lại,
chúng ta hãy thực thi lời khuyên nhủ của Chúa: Các con hãy học cùng Ta vì Ta
hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
2. Ách của Tôi êm ái.
Suy Niệm
Khi quy hoạch thành
phố tương lai, người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí.
Nghỉ ngơi thư giãn là
một nhu cầu quan trọng cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường.
Nghỉ ngơi không chỉ
cần cho thân xác hay trí óc. Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn.
Cái tâm của chúng ta cần
được sống trong an tĩnh giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen.
Nhiều người bị suy
nhược thần kinh, bị stress.
Có người tự tử vì
không đủ sức để tiếp tục sống.
Đức Giêsu mời chúng ta
đến với Ngài, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề.
Gánh nặng của nỗi đau
và vấp ngã trong quá khứ
Gánh nặng của trách
nhiệm và yếu đuối hiện tại
Gánh nặng phải mang vì
người khác...
Tất cả những ai bị
căng thẳng và lo âu, chán chường và mệt mỏi. Tất cả những ai muốn tìm một chút
nghỉ ngơi. Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh.
Hãy mang lấy ách của
tôi.
Đức Giêsu không ngần
ngại nói đến ách của Ngài mà những kẻ đến với Ngài phải mang.
Ngài không giấu ta về
những đòi hỏi nghiêm túc, về con đường hẹp mà ít người muốn đi, về thánh giá mà
ta phải vác để theo Ngài.
Như thế sự an bình thư
thái Ngài hứa ban đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ.
Đó là thứ bình an ngay
giữa khổ đau và nước mắt, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương, vì xác tín
là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa.
Nếu ách của Ngài êm và
gánh của Ngài nhẹ, thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi
sự trở nên êm nhẹ.
"Chỗ nào có lòng
yêu mến, thì không cảm thấy vất vả; mà giả như có vất vả đi nữa thì người ta
cũng thích cái vất vả đó" (thánh Âutinh)
Hãy học với tôi.
Đức Giêsu kêu gọi
chúng ta làm học trò của Ngài.
Chúng ta học trường
Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu.
Bài học nằm nơi chính
trái tim Ngài: "Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu."
Khi mang trong mình
những tâm tình của Thầy Giêsu thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại.
Chúng ta cần theo học
Thầy Giêsu suốt đời, cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, cần sống
hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ.
Chỉ như thế chúng ta
mới được Thầy Giêsu mạc khải, và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là
những gánh nặng mà con người hôm nay phải mang vác? Đâu là gánh nặng của người
nghèo và của người giàu? Đâu là nỗi vất vả và gánh nặng của người trẻ hôm nay?
Bạn thấy theo đạo có
phải là một gánh nặng không? Giữ đạo nặng nề ở điểm nào? Có cách nào làm cho nó
nhẹ nhàng hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con trở nên
đơn sơ bé nhỏ, nhở đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới
đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền
hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm
nhu để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con
sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc và được
cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
3. Khiêm nhường – ĐTGM.
Ngô Quang Kiệt.
Chúng ta thường tuyên
xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, phép tắc vô cùng. Khi tuyên xưng Thiên Chúa
là Đấng Toàn Năng, ta thường nghĩ đến một Thiên Chúa oai nghi bệ vệ, cao sang
quyền thế, xa cách. Ta không nghĩ hay không dám nghĩ rằng Thiên Chúa thật rất
khiêm nhường. Thực sự Thiên Chúa rất khiêm nhường.
Vì khiêm nhường nên
Thiên Chúa ẩn mình trong vô hình. Ở đời, một người quyền thế chiếm rất
nhiều không gian của người khác. Người quyền thế ở nhà lớn, ngồi ghế rộng. Sự
hiện diện của họ khiến mọi người khép nép, nói năng mất tự nhiên, đi đứng phải
nhìn trước nhìn sau. Nếu bây giờ Thiên Chúa hiện hình đứng giữa chúng ta. Chắc
hẳn chúng ta chẳng thể ngồi thoải mái như bây giờ. Trái lại chúng ta sẽ quì sụp
xuống, gục đầu, đấm ngực ăn năn. Nhưng Thiên Chúa đã che giấu dung nhan. Người
ẩn mình trong vô hình để cho ta được tự do. Người nhường không gian cho con
người. Người tự trở nên một Đấng nghèo hèn, bé nhỏ đến độ bị người đời quên
lãng.
Vì khiêm nhường nên
Thiên Chúa im lặng. Trong xã hội, người uy quyền thường nói nhiều. Người
nhỏ phải nghe người lớn, người nhỏ có muốn nói cũng bị tiếng người lớn át đi.
Thiên Chúa đã tự trở nên bé nhỏ. Người im lặng nhường lời cho con người. Người
lắng nghe con người cả khi họ chỉ trích, chống đối, lên án Người. Người trở nên
một Đấng bé nhỏ nghèo hèn, khép nép, im lặng trong thế giới ồn ào của loài
người.
Vì khiêm nhường nên
Thiên Chúa đã cúi xuống thân phận con người. Con người chẳng là gì mà Chúa
vẫn thương. Người còn cúi xuống sâu hơn nữa trước những kẻ tội lỗi để nâng họ
lên. Khi người ta cúi xuống trước một kẻ cao trọng, sự khiêm nhường ấy đáng
nghi ngờ. Nhưng khi người ta cúi xuống trước một thân phận tội lỗi, nghèo hèn,
sự khiêm nhường ấy rất chân thực.
Chính sự khiêm nhường
thẳm sâu làm chứng quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thông thường ở đời, quyền
năng là để chiến thắng, để chế ngự, để đè bẹp. Ai chống lại quyền lực, quyền
lực sẽ nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là để chịu
thua, để yêu thương, để tha thứ. Sức mạnh không ở nơi quyền lực. Quyền lực bộc
phát là quyền lực không tự kiềm chế được. Trái lại, khiêm nhường là chế ngự
được sức mạnh của mình. Đó mới chính là quyền năng thực sự mạnh mẽ.
Thiên Chúa vô hình. Có
lẽ ta sẽ khó mà hiểu biết sự khiêm nhường của Thiên Chúa, nếu ta không nhìn
thấy sự khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là
một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Ngài không ngừng đi
xuống. Từ trời cao Người đã hạ mình xuống thế. Từ thân phận là Thiên
Chúa Người đã hạ mình xuống làm một người bình thường. Là Thiên Chúa cao sang,
Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là thánh thiện vô
cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tội đồ. Là Đấng hằng sống, Người đã tự
nguyện chết đi. Suốt cuộc đời, Người đã không ngừng cúi xuống những thân phận
tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Và một cử chỉ không thể nào quên là
trong bữa tiệc ly, Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã hạ mình
xuống tận cùng, không còn có thể xuống hơn được nữa.
Vì Thiên Chúa khiêm
nhường luôn tìm đường đi xuống, nên những ai kiêu căng tìm nâng mình lên sẽ
chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường
nhỏ bé mới gặp được Người.
Hôm nay Chúa Giêsu tha
thiết mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta
hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hãy ghi danh vào học trường Chúa
Giêsu. Hãy học bài học khiêm nhường. Hãy học bài học Giêsu. Hãy học với Thầy
Giêsu. Hãy bước theo Thầy Giêsu xuống những bậc thang khiêm nhường thẳm sâu. Ở
bậc thang cuối cùng, Thiên Chúa đang chờ đợi ta, ta sẽ gặp được Người. Ta sẽ
kết hiệp với Người. Ta sẽ rũ sạch mọi vất vả lo âu. Ta sẽ được bình an.
Lạy Chúa Giêsu hiền
lành và khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng con nên giống như trái tim Chúa.
Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Những dấu nào cho
thấy sự khiêm nhường của Chúa?
2. Có quyền ăn nói,
nhưng im lặng nhường lời cho người khác. Có vị thế cao, nhưng ẩn mình nhường
chỗ cho người khác. Có dễ không?
3. Sức mạnh bùng nổ
trên người khác. Và sức mạnh chế ngự chính mình. Đàng nào mạnh hơn?
4. Thiên Chúa tuyệt
đối khiêm nhường. Khám phá này có tác động gì trên bạn không?
4. Gió và mặt trời.
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Trong tập “Những ngụ
ngôn của Ê-xốp”có một câu chuyện ngụ ngôn kể về cuộc tranh cãi giữa mặt trời và
gió. Hai nguồn năng lượng này cãi nhau xem ai mạnh hơn ai.
Ngày nọ, một cơ hội xảy đến giúp cả hai dàn
xếp được cuộc tranh cãi. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đang đi trên một
con đường quê hoang vắng. Mặt trời liền thách thức với gió: “Ai làm cho người
ấy cởi bỏ chiếc áo choàng ra mau hơn thì người ấy là người thắng cuộc”. Gió ta
chẳng những đồng ý mà con quyết định ra tay trước. Chàng gió bèn thổi tới tập,
nhưng càng thổi thì người kia càng giữ chặt lấy chiếc áo choàng, sợ nó tung bay
mất. Cuối cùng, kiệt sức, gió ta đành phải chịu thua. Lúc đó mặt trời mới ra
tay. Ông mặt trời chiếu toả hết vinh quang của mình ra. Chỉ trong mấy phút,
người nọ nóng quá phải cởi bỏ chiếc áo choàng ra.
Cuối câu chuyện ngụ ngôn, Ê-xốp bàn luận: “Bạn
có thể thành công nhờ sự dịu hiền dễ thương hơn là nhờ bạo lực”.
Anh chị em thân mến,
Trong một thế giới mà
những quy luật “mạnh được yếu thua”, “lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng”, hoặc
“được làm vua thua làm giặc”, gần như là tất yếu và phổ biến, thì lời giảng dạy
của Chúa Giêsu về đức hiền lành và khiêm nhường, quả thực rất khó được chấp
nhận và xác tín, nếu không muốn nói là chướng tai và ngược đời.
Hôm nay, Lời Chúa vẫn
tiếp tục mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Thầy vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm
nhường”. Hiền lành và khiêm nhường là hai đức tính đặc biệt nhất ở nơi Chúa
Giêsu. Thánh Phaolô đã nói: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất
quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh
quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế,
Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây
thập tự” (Pl 2,6-8). Phải chăng đó là một sự khiêm nhường tột cùng của một
Thiên Chúa làm người; hạ mình xuống rốt chót mọi người, lãnh nhận cái chết của
tên nô lệ bị đóng đinh thập giá.
Trong Tin Mừng hôm nay
Chúa Giêsu còn cho biết: những người có tâm hồn bé nhỏ, khiêm nhường là những
người được Chúa yêu thương đặc biệt và được Chúa tỏ ra cho biết những Mầu nhiệm
Nước Trời. Vì chỉ những ai có tâm hồn bé nhỏ mới có tinh thần và trái tim rộng
mở đón nhận Lời Chúa. trong lời cảm tạ Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói: “Lạy Cha,
Con ngợi khen Cha vì đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm
Nước Trời, mà lại mạc khải cho người bé mọn”.
Nhưng ai là những kẻ
bé mọn?
Theo Tin Mừng Thánh
Matthêu, những kẻ bé mọn là những người nghèo khổ, những người yếu thế, những
kẻ đang vất vả và phải mang gánh nặng. Trong Do Thái giáo, cái ách hay là gánh
nặng thường là hình ảnh của những luật lệ. Các thầy thông luật tự cho mình là
khôn ngoan thông thái, thường hay bày vẽ ra đủ thứ luật lệ mà những kẻ đơn sơ,
bé mọn dù cố gắng đến đâu cũng chẳng thể nào tuân giữ trọn vẹn được. Làm sao
đầu óc đơn sơ chất phác của họ phân biệt nổi cái gì chính yếu, cái gì thứ yếu
trong những luật lệ chi li lắt léo mà đầu óc mấy ông Pharisêu, những kẻ có tinh
thần nệ luật, chỉ biết sống nô lệ, như cái máy, đã chỉ có khả năng là giăng
lưới gài bẫy, khiến những kẻ đơn sơ chất phác không thể nào lọt vào được bên
trong cái thế giới thánh thiêng cao cả mà họ đã dựng lên. Chúa Giêsu không thể
chấp nhận một thứ vương quốc của Thiên Chúa chỉ dành riêng cho những kẻ khôn
ngoan thông thái và những kẻ đạo đức giả chỉ biết cậy vào thành tích giữ luật
của mình. Ngài đã đến như một người nghèo sống giữa người nghèo và loan báo Tin
Mừng cho người nghèo. Nước Trời mà Ngài loan báo là một vương quốc mở ra cho
những người bé mọn, nghèo hèn, nghèo về thể chất đã đành, nhưng cũng nghèo về
tinh thần nữa, nghĩa là những người tội lỗi.
Nhưng Chúa Giêsu không
phải là người chủ trương vô luật lệ. Ngài cũng có những đòi hỏi của Ngài. Nhưng
luật lệ của Ngài là “cái ách êm ái”, “cái gánh nhẹ nhàng”. Vì ách đó, gánh đó
chính là lòng yêu thương. Lòng yêu thương này Ngài mời gọi chúng ta cùng chia
sẻ với Ngài. Nhưng để có thể yêu thương, con người phải biết sống hiền từ và
khiêm tốn. Bởi vì kẻ kiêu ngạo không thể biết yêu thương: họ chỉ biết chiếm
đoạt và thống trị. Họ cũng không thể hiền từ với tha nhân, trái lại, luôn luôn
là những kẻ độc ác.
Thưa anh chị em,
Cuộc đời của Chúa
Giêsu thật đơn sơ giản dị. Ngài sống giữa loài người như một người anh em nhỏ
bé nghèo hèn, không thích giàu sang, chẳng muốn dùng quyền để thống trị và cũng
chẳng tỏ ra khinh khi chê ghét một người nào, cho dù là kẻ tội lỗi. Trái lại
Ngài đã đặc biệt ưu ái những người này, tới mức bị thiên hạ dị nghị, coi Ngài
là bạn thân của những người tội lỗi. Sở dĩ như thế là vì chân lý Ngài mặc khải
không phải là thứ chân lý trừu tượng cao siêu mà những bậc khôn ngoan thông
thái của trần gian ưa suy luận, nhưng chân lý của Chúa là chân lý của tình
thương mà tình thương là ngôn ngữ mà cả trẻ thơ măng sữa cũng hiểu được.
Nhân loại chúng ta có
quá nhiều những nhà bác học, những nhà hiền triết thông hiểu những điều cao
siêu huyền bí. Và trong Giáo Hội chúng ta cũng không thiếu những bậc khôn ngoan
thông thái, nhưng có lẽ chúng ta hơn bao giờ hết lại cần đến thứ ngôn ngữ giản
dị nhất, đó là tình thương, một thứ ngôn ngữ có khả năng tuyệt vời để mặc khải
chân lý của Chúa, bởi vì Thiên Chúa là tình thương và chỉ có ai yêu thương mới
biết Thiên Chúa, còn ai không yêu thương thì không biết Ngài. Mà đã không biết
Thiên Chúa thì làm thế nào có thể rao giảng hay làm chứng về Ngài được?
Là con cái của Chúa và
là anh chị em của nhau, chúng ta hãy lấy tình thương, lòng hiền hoà mà đối xử
với nhau, thay vì tàn nhẫn, xâu xé lẫn nhau. Hãy khiêm tốn phục vụ nhau, thay
vì tự tôn, tự phụ mà đè đầu cỡi cổ người khác. Chính tình yêu làm cho con người
trở nên đơn sơ, hiền hoà và khiêm tốn. Cũng chính tình yêu làm cho con người
sẵn sàng nâng đỡ gánh nặng cho người khác, hơn làm khổ cho người mình yêu. Đó
là lý do tại sao Chúa Giêsu, Đấng là hiện thân của chân lý tình thương lại sống
đơn sơ, hiền từ, khiêm tốn và đã mời gọi chúng ta hãy đến học với Ngài.
Là Kitô hữu, chúng ta
tin rằng sự dịu hiền của Chúa Kitô và tình yêu của Ngài cuối cùng sẽ thắng được
bạo lực và áp bức.
5. Suy niệm của Lm. Trần
Ngà.
Qua Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học rất quý báu. Xét về mặt tâm linh hay tu đức
thì đây là một bài học có tác dụng giúp ta có những phẩm chất đạo đức đáng quý;
xét về mặt đối nhân xử thế thì bài học nầy cống hiến cho ta bí quyết thu phục
nhân tâm.
Bài học nầy được Chúa
Giêsu rút ra từ kinh nghiệm cuộc sống của Ngài và truyền dạy lại cho chúng ta,
đó là:
"Hãy học cùng Ta,
vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng."
Người dịu hiền khiêm
nhường là người nhận ra thân phận mình vốn thấp hèn yếu đuối nên biết hạ mình
xuống thấp.
Nước lúc nào cũng chảy
về chỗ trũng; cũng thế, tình thương và ân sủng của Thiên Chúa cùng với tình
thương và lòng quý mến của mọi người thường tuôn về với những người có đức tính
dịu hiền và khiêm nhượng.
Vậy ai học được tâm
tình dịu hiền và khiêm nhượng như Chúa Giêsu, người ấy sẽ được đón nhận tình
yêu và ân sủng của Thiên Chúa cũng như của mọi người chung quanh. Ay là người
thành đạt nhất, hạnh phúc nhất.
Tôi xin mượn lại hai
câu chuyện sau đây để làm sáng tỏ chân lý nầy.
Chuyện ngụ ngôn của
Esop: gió và mặt trời.
Ngày nọ, thần gió gặp thần Mặt Trời và hai bên
muốn so tài hơn thua. Mặt trời nói với gió:
- Ai trong chúng ta lột được áo choàng của
người bộ hành đang đi kia được là người chiến thắng.
Gió chấp nhận ngay cuộc so tài và đòi ra tay
trước. Nó thổi tới tấp, cát bụi tung bay mịt mù, nhưng càng thổi mạnh bao nhiêu
thì người bộ hành càng ghì chặt chiếc áo choàng của mình bấy nhiêu. Cuối cùng
gió kiệt sức và nhường lại cho Mặt Trời thi thố tài năng.
Mặt trời từ từ chiếu dọi ánh sáng của nó
xuống, cách nhẹ nhàng nhưng tạo nên sức nóng hầm hập, khiến người bộ hành không
chịu nổi hơi nóng đành phải cởi áo khoác ra.
Thế là mặc dù Gió hung bạo mạnh mẽ nhưng đành
thua cuộc; còn Mặt Trời dùng đường lối êm dịu nhẹ nhàng mà dành được chiến
thắng.
Đó mới là chuyện ngụ ngôn tây phương, có tính
cách sáng tạo để răn đời, còn đây mới là chuyện thực, vào đời chiến quốc bên
Trung quốc.
Liêm Pha và Lạn Tương
Như
Vua Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc.
Liêm Pha cậy mình có công hơn mà lại đứng dưới nên tức giận, hăm hễ gặp mặt Lạn
Tương Như là giết.
Tương Như nghe nói thế thì tìm cách lánh mặt
Liêm Pha mãi.
Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính
tiền đạo của Liêm Pha, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha
đi qua rồi mới đi ra.
Bọn xa nhân thấy thế tức giận, bèn họp nhau
hỏi Tương Như:
"Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến
đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên yêu mến mà đi theo. Nay ngài
cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm tướng quân doạ
ngài, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều nay lại tránh ở ngoài đường. Sao
ngài lại sợ quá thể vậy? Chúng tôi thật lấy làm xấu hổ, vậy xin đi thôi, không
ở nữa."
Tương Như nói: "Các ngươi xem Liêm tướng
quân có hơn được vua Tần không?"
Bọn xa nhân thưa: "Không".
Tương Như nói: "Lấy như cái oai của vua
Tần, thiên hạ không ai dám chống, Tương Như nầy một mình dám mắng giữa triều
đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng
Quân ư? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì ngại có ta và Liêm
tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống. Tần mà nghe tin ấy
tất thừa cơ đánh Trịêu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc
nước là trọng mà thù riêng là nhẹ vậy thôi".
Bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng: "Tiểu nhân
chúng tôi trí hẹp làm sao độ nổi đại chí của tướng công".
Liêm Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng:
"Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm", bèn trần vai áo đến trước
cửa Tương Như tạ tội: "Tính tôi thô bạo, đội ân tương quốc bao dung, nghĩ
lấy làm hổ thẹn quá!"
Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết bạn
sống chết có nhau.
(Trích lại của Thu
Giang Nguyễn Duy Cần, trong cuốn: ‘Thuật xử thế của người xưa’)
Thế là bằng đường lối
nhịn nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và
chinh phục được cả con người lẫn tâm hồn Liêm Pha.
Đúng như Pascal nhận
xét: "Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi biết quỳ gối xuống...."
Người tự cao tự đại
cho mình là giỏi, cho mình là đúng, không cần học ai, nên không bao giờ giỏi,
không bao giờ thành công trên đường đời; trái lại chỉ thu tích thêm căm ghét
của người khác.
Người khiêm tốn là
người thấy được mình còn nhiều mặt yếu kém, nên sẵn sàng nghe người khác chỉ
giáo cho và nhờ đó sẽ trở thành người khôn ngoan và giành được thắng lợi.
Nhưng nói cho cùng,
cái thắng lợi lớn nhất đời người là được mọi người chung quanh yêu thương quý
mến và chỉ có những ai có tâm hồn dịu hiền khiêm nhượng mới đón nhận được diễm
phúc nầy.
6. Khiêm nhường
Nếu phải kể ra những
điều chúng ta cần học hỏi nơi Chúa Giêsu, thì hẳn là nhiều lắm. Tuy nhiên, cái
khó là phải bắt đầu từ đâu? May thay chính Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho chúng ta
bài học đầu tiên và cần thiết nhất, đó là lòng khiêm tốn, đức từ bi và nhân
hậu. Chính Người đã nói: Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm
nhượng trong lòng.
Khi xây một căn nhà,
thì trước hết chúng ta phải làm nền, phải xuống móng. Nền móng càng sâu, càng
chắc thì ngôi nhà càng có thể xây lên cao. Nền móng đâu có phải được làm bằng
những vật liệu quí giá và đẹp đẽ, nó chỉ là đá cát, đôi khi cả xà bần, gạch vụn
được nện sâu và nện thật chắc. Nó là cái phải không phải để khoe khoang, nhưng
luôn bị chôn vùi, bị che đậy và bị người ta chà đạp lên trên. Quả thế, khi
chúng ta bước vào bên trong một tòa lâu đài, một hoàng cung hay một ngôi nhà
tầm thường nào cũng vậy, chẳng ai để ý đến cái nền, chẳng ai thắc mắ xem nó
được làm bằng gì, và chứa đựng những cái chi ở bên trong, nhưng chúng ta sẽ dẫm
bước lên nó mà đi.
Con người xét về
phương diện cá nhân cũng như tập thể, cũng là một công trình xây dựng, mà nền
móng phải là lòng khiêm tốn. Không có nền móng này, không sớm thì muộn chúng ta
cũng sẽ bị sụp đổ, bởi vì ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình
xống, thì sẽ được nâng lên. Hơn thế nữa, trong lời kinh Ngợi Khen, Mẹ Maria đã
xác quyết: Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhau.
Lão Tử ngày xưa cũng
đã nói: Giàu sang mà kiêu căng là tự rước lấy họa vào thân. Kẻ tự cao tự đại
giống như kẻ nhón gót chân để cao hơn người, xoạc chân ra để lớn hơn người. Như
vậy sẽ chẳng thể đứng vững và tiến bước. Trái lại bậc thánh nhân cho đến ngày
cùng, vẫn không cho mình là lớn, nên mới thành được việc to.
Lịch sử cho chúng ta
đầy rẫy những mẫu gương về những cá nhân cũng những tập thể, đặc biệt là những
đế quốc hùng mạnh, nhưng kiêu căng, đã bị sụp đổ như thế nào. Những con người
như Néron, Napoléon, Hitler…Nhưng đế quốc như Rôma, Mông Cổ…ngày xưa đã thảm
bại ra sao, thì ai cũng đều biết. Sự tự cao tự đại thường đi đôi với lòng tạn
bạo và bất nhân. Bởi vì kẻ kiêu căng thường bắt mọi người phải khuất phục mình,
làm nô lệ cho mình và không ngần ngại dùng bạo lực để đàn áp, chế ngự và tiêu
diệt những ai không chịu khuất phục.
Thế nhưng, Chúa Giêsu
thì khác. Người đã dạy chúng ta: Ai muốn làm đầu, thì phải trở nên rốt hết và
hầu hạ mọi người. Chính Người, trong suốt cả cuộc đời, đã sống khiêm nhu và
trong giờ từ biệt các môn đệ, để ra đi chịu chết, Người đã không ngần ngại quì
xuống rửa chân cho các ông, để nêu gương khiêm nhường, dồng thời kèm theo đó là
bài học bác ái yêu thương, như lời Người đã phán: Con người đến không phải để
được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho
nhiều người.
Xưa nay trong Hội
Thánh vãn có thói quen đề cao đức khiêm nhường. Nhưng đức khiêm nhường ấy
thường được ghép đôi với sự vâng phục. Như vậy xem ra khiêm nhường chỉ là nhân
đức của kẻ bề dưới. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã liên kết đức khiêm nhương với
lòng bác ái và tinh thần phục vụ. Người coi đó là đức tính của người lãnh đạo,
của bậc bề trên. Bởi vì chỉ kẻ khiêm nhường mới có khả năng yêu thương thực sự.
Và chỉ kẻ yêu thương thực sự mới thích phục vụ người khác.
Như thế, khiêm nhương
không phải là thái độ của kẻ hèn nhát, sẵn sàng chịu khuất phục, nhưng là đức
tính của bậc anh hùng, của người đã làm chủ được bản thân mình.
7. Mạc khải cho kẻ bé mọn
– R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin
Mừng’)
Bài Phúc Âm của Chúa
nhật XIV Mùa thường niên hôm nay được trích trong một đoạn văn hay nhất của
thánh Matthêu, người ta gọi đoạn văn này là “Hạt Ngọc Quý Nhất” của Thánh
Matthêu. Dòng tư tưởng của đoạn Phúc Âm này thật cao siêu và êm dịu, chúng ta
thấy ngay về sự bay bổng và suy tư về Nước Trời. Có lẽ lời cầu nguyện này được
thốt ra khi Chúa Giêsu nghe các Tông đồ đi truyền giáo trở về và kể lại cho
Chúa các điều họ đã thực hiện, các mối liên lạc giữa Chúa và Chúa Cha về sứ
mệnh cứu rỗi làm trung gian, và mời gọi mọi người đến với Ngài. Điều ấy là các
mầu nhiệm Nước Trời.
Thánh Phaolô đã cảm
nghiệm được mạc khải này cho chính mình và cho các Tông đồ: “Hết thảy những ai
khó nhọc và gánh nặng…” Theo mạch văn và ý muốn của Chúa mà chúng ta hiểu, đây
là những người Do thái đang bị đè nặng bởi lề luật và các truyền thống của
những biệt phái. Chúa Giêsu đã giải thoát họ khỏi ách lề luật và đem họ đến chỗ
thảnh thơi. Vì từ nay những ai đến với Chúa phải đến với tất cả tâm hồn, phải
được ghi khắc lề luật mới là luật của Thánh Thần ở bên trong và tự nguyện.
Đoạn văn này rất súc
tích tư tưởng, không bao giờ khám phá ra hết, song ít ra chúng ta có thể nhận
thấy chính những tư tưởng sau:
Trước hết là lời cầu
nguyện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài trên trời vì đã mạc khải những
điều này cho các trẻ nhỏ, mà lại không cho những kẻ thông thái và quân tử biết.
Những nhà thông thái tự cao tự đại thường cho rằng mình biết tất cả. Lòng tự ái
tự cao làm cho họ không nhận ra Lời Chúa, còn những bậc quân tử thì lại tự mãn
về lối sống của mình, tự cho mình là chân chính và không cần đến sự giúp đỡ của
Thiên Chúa, không cần ơn cứu rỗi của Ngài. Trái lại những kẻ bé mọn lại biết
rằng mình dốt nát trước sự cao cả của Thiên Chúa, họ thấy mình bé nhỏ khốn nạn,
và sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn về những hồng ân của Thiên Chúa, sẵn sàng
đón nhận ơn cứu rỗi, cảm thấy cần Chúa: “Chúa hạ người quyền hành xuống khỏi vị
cao và nâng người hèn mọn lên”.
Chúa Giêsu tự mạc khải
Ngài: “Sự thực đã được Cha trao phó cho Ta và không ai biết Cha trừ ra Ta, và
cũng không ai biết Ta trừ ra Cha” (Mt 11,27). Lời đó mạc khải về Chúa Giêsu,
Ngài đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Một mình Cha biết đầy đủ về Con, vì Cha
đã sinh ra Con trong trí và do sự hoàn toàn sung mãn của Ngài. Và chỉ có Con
mới biết đầy đủ về Cha và hình ảnh của Con là sự trung thực nhất, là tư tưởng,
ý nghĩ của Cha. Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa
mới hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa. Đây là một mạc khải vô cùng quí báu cho
chúng ta. Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, song không phải hoàn toàn như chúng
ta: “Mọi sự đã được Chúa Cha trao, không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ nào Con
muốn mạc khải cho”.
Một tư tưởng nữa của
Phúc Âm hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến
với Ngài: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những kẻ khó nhọc gánh nặng, Ta sẽ bổ sức
lại cho”.
Lời kêu gọi đầy lòng
nhân hậu và giàu lòng thương xót mà Chúa hứa cho những ai đói khát, những ai
mệt nhọc, Chúa sẽ nâng đỡ và Chúa luôn luôn trung thành giữ lời hứa của Ngài.
Qua mọi thời đại, tất cả những ai đói khát công chính đều no nê, những ai nặng
trĩu tội lỗi đến với Ngài đều được nhẹ nhõm, được bổ sức và được tha thứ. Chỉ
có Chúa Giêsu mới nói được: “Tội con đã được tha thứ” (Mt 9,2), và chỉ có Chúa
Giêsu mới nói được: “Đừng sợ, Ta đã thắng thế gian”, (Ga 16,33) và “Ách Ta thì
êm ái, gánh Ta thì nhẹ nhàng”, (Mt 11,30).
Chúng ta hết thảy đều
phải mang gánh nặng và vất vả, nhưng ở đây chúng ta không có ý nói đến những
gánh nặng bên ngoài đè trên vai của mình. Như khốn nỗi, chính trong lãnh vực
của tâem linh, thường thì chúng ta cũng phải vất vả nặng nề, xác thịt đè nặng,
các ham muốn của tình dục, nhiều tật xấu nào đó kìm hãm tinh thần con người, và
sức nặng nào đó đã cản trở con người cũ, không chịu buông tha cuộc đời chúng ta
để chúng ta được đi theo Chúa một cách an vui.
Hôm nay Chúa Giêsu kêu
gọi chúng ta hãy đến với Ngài, Ngài muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng
hơn, Ngài muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác êm ái hơn, Ngài đến để phục
hồi con người vất vả của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Hãy mang lấy ách của Ta
và hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các
ngươi sẽ tìm ra được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn”.(Mt 11, 29-30).
Vậy chúng ta hãy năng
chạy đến với Chúa, để tìm được nguồn an vui và sự bình an trong tâm hồn. Amen.
8. Gánh nặng của Chúa
Giêsu
Chưa bao giờ Chúa
Giêsu nói về Cha Ngài một cách long trọng như vậy: “Lạy Cha là Chúa trời đất”.
Đây là một trong những lúc mãnh liệt nhất của Tin Mừng. Chúa Giêsu chứng tỏ
Ngài biết rõ vị Chúa tể trời đất đến nỗi chúng ta ngạc nhiên về những ánh sáng
đầu tiên của mầu nhiệm khôn lường này: nơi Thiên Chuá duy nhất có những động
thái tình yêu, những mối “quan hệ” mà chúng ta trình bày bằng những tiếng: Cha,
Con và Thánh Thần. Tôi nghĩ rằng phải dành ra một lúc để chiêm ngắm và cảm tạ
vì những ánh sáng đã không thể đến với chúng ta được: “Con chúc tụng Ngài, lạy
Cha, Đấng mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Có lúc chúng ta nghĩ rằng chúng ta
không là gì cả. Điều này không đúng. Thiên Chúa không yêu thương cái không là
gì cả. Chúng ta là một cái gì đó và thậm chí vĩ đại bởi vì Thiên Chúa yêu
thương chúng ta. Đến sống cuộc sống của chúng ta và biết rõ cuộc sống đó, nhất
là cuộc sống của những người bé mọn, Ngài nói với chúng ta: “Hãy đến cùng Ta,
hỡi tất cả những ai mỏi mệt và gánh nặng”.
Gánh nặng nào? Gánh
nặng của cuộc đời hết sức khó khăn và đôi khi người ta còn chất thêm luật lệ
tôn giáo quá đáng hay được chỉ dẫn không đúng. Thế là người ta cảm thấy sợ hãi
không thể tuân giữ các giới răn, không bao giờ có thể làm vui lòng Chúa. Điều
đó lấy mất tự do nội tâm và niềm vui của chúng ta, tước mất Thiên Chúa khỏi
chúng ta. Nếu Ngài là Đấng làm cuộc sống chúng ta nặng nề, thế thì Ngài đâu
phải là Thiên Chúa Tình yêu?
Chúa Giêsu đã mạnh mẽ
tố giác những kẻ làm gương xấu cho những người bé mọn: “Các luật sĩ và Pharisêu
nói mà không làm: họ đặt những gánh nặng lên vai những người khác trong khi họ
không muốn đụng ngón tay vào: *Mt 23,3-4).
Có lẽ chúng ta đã bị
chấn thương do những kẻ ra sức làm cho chúng ta trở thành những người luôn luôn
có mặc cảm tội lỗi. Thật rất khó mà thoát ra được một sự giáo dục vụng về. Tôi
chỉ biết có mỗi một cách là không ngừng đến với Chúa Giêsu, chiêm ngắm Ngài,
lắng nghe Ngài, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài là Đấng đã nói: “Ta, Ta có thể cho
người nghỉ ngơi an bình cùng với Chúa”.
Đó không phải là một
an bình với một Thiên Chúa giả hiệu là Đấng luôn luôn bằng lòng với chúng ta
theo giá rẻ mạt, Chúa Giêsu nói: “Hãy mang lấy ách của Ta”. Đây thật là một cái
ách bởi vì đây là một điều luật. Không ai có thể bỏ qua điều luật, và luật của
Chúa Giêsu, tức luật tình yêu, cho dầu bó buộc nhất, vẫn là một sự đòi hỏi vô
cùng. Nhưng đây là một sự nghịch lý được Chúa Giêsu khẳng định nếu không thì
chúng ta khó mà chấp nhận: “Ách ta êm ái, gánh ta nhẹ nhàng”. Luật của Chúa
Giêsu duy trì chúng ta trong sự cố gắng nhưng để cho chúng ta được an bình. Nếu
một gánh nặng làm tê liệt chúng ta và làm cho chúng ta buồn khổ thì chắc hẳn đó
không phải là gánh nặng của Chúa Giêsu.
9. Ai là người mở mắt?
Ba chương 11, 12 và 13
của thánh Matthêu xoay chung quanh các chủ đề ‘dấu kín’ và ‘tỏ bày’. Chúa tỏ
bày một giáo huấn và tự tỏ bày chính mình. Giáo huấn không phải là hoàn toàn
mới lạ vì dân Do thái đã được Thiên Chúa dậy dỗ nhiều. Nhưng Đức Kitô mở những
viễn ảnh mới cho những chân lý cũ và có được điều ấy là vì Ngài liên kết những
chân lý ấy với con người của Ngài. Mục đích của Ngài là hướng dẫn các tâm trí
khám ra bản tính con Thiên Chúa của Ngài. Vì vậy ở đây chân lý không phải là sự
khám phá của trí khôn sau những cố gắng học hỏi cho bằng là một cuộc gặp gỡ của
toàn thể con người đáp lại một sự sẵn sàng thâm sâu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha
Ngài vì Chân Lý được tỏ ra như một cuộc gặp gỡ cho những ai có tâm trí không
chất chứa và tấm lòng sẵn sàng đón nhận. Đáng lẽ những kẻ đầu tiên đón nhận ra
Chúa Giêsu là Đức Kitô của Thiên Chúa phải là các vị tiến sĩ luật pháp, vì Lề
Luật và các tiên tri loan báo Đức Kitô. Rủi thay, cái học tinh thần quá họ chất
chứa nặng nề những lý luận tinh tế, những ý niệm trí thức, những tranh luận
diễn giải. Mọi thứ ấy sinh ra tri thức tự mãn và bởi nó sinh ra kiêu ngạo. Vô
tình họ đã dựng nên trước tâm trí một bức màn chắn. Trên đó họ thích thú nhìn
ngắm hình dáng chính mình và do đó không còn có thể nhận ra lối Chúa đi qua, ở
bên kia bức màn. Ý thích của Chúa Cha không phải là muốn các người khôn ngoan
và tài khéo dựng nên một màn chắn trước họ, điều này thật tai hại, nhưng là
muốn cho các người hèn kém và nhỏ bé có khả năng nhận diện Đấng yêu mến và giải
thoát họ.
1) Cho người ‘nhỏ bé’
Chúa ban khả năng nhận biết Chúa Cha qua Chúa Giêsu. Qua các lời nói,
việc làm và con người Chúa Giêsu, họ thấy được rằng giữa Đấng tỏ lộ trước mắt
họ và Thiên Chúa có một tương quan đặc biệt tạo bằng gắn bó mật thiết và sanh
thành như Cha với Con. Tư tưởng Do thái không quan niệm Thiên Chúa như là Cha,
nhưng chỉ theo nghĩa Thiên Chúa tốt lành, chăm sóc và tạo thành. Quan niệm
Thiên Chúa là Cha đến mức độ con người mang tên Giêsu lại là con đồng bản tính
với Ngài, quả thật quá đáng và phạm thượng. Thực ra, mặc khải một việc như thế
vượt quá những khả năng nhân loại, đó là một ơn Thiên Chúa ban. Những kẻ được
lãnh nhận ơn ấy là các tâm trí hèn kém, đơn giản, cởi mở, ‘nhỏ bé’.
2) Đức Giêsu mà Chúa
Cha dùng làm trung gian để tự biểu lộ, Người là ai? Người hiền lành và khiêm
nhượng trong lòng. Chúa Giêsu sống tận cùng mầu nhiệm nhập thể. Đến chia sẻ
thân phận làm người. Người muốn xuống tận kinh nghiệm nhân loại của kẻ hèn kém,
nhỏ bé nhất và kẻ ấy phải có được một lối đi đến Người. Hơn nữa, vì những kẻ
sẵn sàng đón nhận Chân lý, nhất là những tâm trí giản đơn và tình nguyện, vì
những kẻ dễ dàng cảm nhận nhu cầu đến Chúa Cha nhiều nhất (ngay cả qua những
thái độ phản kháng tiêu cực) là những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn nhất, cho nên Chúa
Giêsu thích mặc khải Chúa Cha cho những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn.
10. Thiên Chúa của chúng
ta khiêm hạ thế nào.
Mọi tôn giáo trên thế
giới đều đòi hỏi những tín hữu phải tự hạ trước vị thần linh của họ, nhưng tôn
giáo của chúng ta là tôn giáo duy nhất mà Con Thiên Chúa đã tự hạ trước dân của
Người.
Chúa Cha đã sống với
Chúa Con trong tình âu yếm của Chúa Thánh Thần tự đời đời. Đời sống của Thiên
Chúa là một đời sống vinh quang và hoàn hảo, nhưng đến khi thời gian viên mãn
Thiên Chúa đã sai Con của Người làm Đấng Cứu Độ chúng ta, làm con người giống
như chúng ta mọi đàng ngoại từ tội lỗi. Một lời kinh của Giáo hội đã dâng lên
Chúa Giêsu: “Khi Người trở nên con người để giải thoát chúng ta, Người đã không
khinh chê lòng dạ của Đức Nữ Trinh” (Te Deum). Sự Nhập Thể là một hành động cao
cả của sự khiêm nhượng.
Một số người nói rằng
nếu chúng ta có thể thấy Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể với tất cả sự rực
rỡ vinh quang thần tính của Người, chúng ta sẽ sấp mình thờ lạy trong sự sợ
hãi, không dám đưa mắt nhìn lên vẻ mặt huy hoàng của Người. Nhưng đó không phải
là mối quan hệ mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có với Người. Chúa Giêsu hiến tặng
cho chúng ta một sự mời gọi nồng ấm, hãy sống thân mật với Người trong tin
tưởng và yêu mến mà không có sợ hãi. Người đã không thể nói thẳng cách rõ ràng
hơn. Người nói: “Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Kể từ khi chúng ta
không còn sợ hãi Chúa Giêsu, nhưng là thân mật với Người. Chúng ta đừng bao giờ
ngần ngại mang đến cho Người những gánh nặng của chúng ta để Người nâng đỡ cho.
Chúa Giêsu đã nói về ách của Người. Ách là một cái cày bằng gỗ nặng, nó được
đóng để đặt lên cổ của đôi bò, để giữ chúng lại và để chúng kéo xe. Có lẽ khi
còn nhỏ, Chúa Giêsu đã thấy thánh Giuse đóng những cái ách như vậy và đã biết
nó nặng như thế nào rồi. Người quyết định sẽ dạy cho mọi người biết tôn giáo
của Người không giống như cái ách nặng nề bằng gỗ đó. Đó là lý do vì sao Người
phán: “Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.
Tiên tri Zacaria, được
linh ứng bởi Thánh Thần đã thấy một hình ảnh Đấng Mêsia ngự đến. Ông tuyên bố
với toàn dân: “Hãy nhìn xem Vua ngươi đang đến”. Và vụ Vua này không đến với
hoàng bào vương giả và không cỡi trên một con ngựa chiến. Đúng hơn Người hiền
lành, cỡi trên một con lừa non nớt, con lừa con của lừa mẹ. Người đã đến không
phải cỡi trên mình ngựa như một vị vua oai nghi tiến vào cuộc chiến nhưng trên
một con vật chậm chạp mà người nông dân dùng để dọn đất.
Chúa Giêsu đã làm viên
mãn hình ảnh này bằng việc Người tiến vào thành phố Giêrusalem vào Chúa Nhật Lễ
Lá. Nơi đó, Người đã trải qua hành vi lớn lao nhất của sự khiêm nhượng: ấy là
cuộc thương khó và cái chết của Người trên thánh giá để cứu chuộc chúng ta. Ý
tưởng về một Thiên Chúa khiêm hạ như vậy khiến cho không một trí tưởng tượng
của con người nào có thể nghĩ tới. Chỉ khi Thiên Chúa mạc khải, tư tưởng chúng
ta mới có thể nghĩ tới và tình yêu của người dành cho chúng ta trở thành một
thực tại trong đời sống của chúng ta.
Trong mỗi thánh lễ
chúng ta lắng nghe trong lòng chúng ta lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy đến với
Ta, hỡi những ai vất vả và gánh nặng, Ta sẽ đến bổ sức cho các ngươi”. Khi đi
đến với Chúa Giêsu là chúng ta xếp hàng đi hướng về vị chủ tế để rước lễ, vị
chủ tế hành sự như Chúa Giêsu, giới thiệu với chúng ta Mình và Máu Thánh của
Người, làm của nuôi thiêng liêng bổ sức thần linh cho chúng ta. Chúng ta đến
với Chúa Giêsu bởi vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Trong Người,
linh hồn của chúng ta tìm thấy sự nghỉ ngơi vì ách của Người thì êm ái và gánh
của Người thì nhẹ nhàng.
11. Hiền lành
Ngài sẽ chẳng bẻ gãy
cây sậy đã dập nát, cũng chẳng thổi tắt tim đèn còn khói. Đó là những lời tiên
tri Isaia đã loan báo về Đấng Cứu Thế, qua đó chúng ta thấy được khuôn mặt của
Ngài. Một khuôn mặt hiền hòa khả ái.
Thực vậy, Ngài đã
không đến trong sấm chớp mưa dông, nhưng đến trong một đêm đông lạnh giá. Ngài
không phải là một vị tướng lãnh oai hùng trong chiến trận, nhưng là một người
cha giàu lòng thương xót.
Khí giới của Ngài
không phải là gươm giáo và súng đạn, nhưng là giới luật yêu thương. Đúng thế,
Ngài đã xác quyết:
- Thầy truyền cho các
con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau.
Và Ngài còn nhấn mạnh
hơn nữa:
- Nếu ai tát má bên
phải của con, thì hãy đưa cả má bên trái cho nó nữa.
Đồng thời, Ngài đã
khuyến khích chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài. Thế nhưng noi gương bắt
chước Ngài ở điểm nào, nếu không phải như Ngài đã khẳng định:
- Các con hãy học cùng
Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhưỡng trong lòng.
Ngài là Thiên Chúa
quyền năng, thế mà đã trở nên như một con chiên hiền lành trước người thợ xén
lông.. Vì thế, hiền lành chính nhân đức của người mạnh và phải có bản lãnh mới
kiềm chế nổi sự nóng giận của mình. Vậy nhân đức hiền lành nắm giữ vai trò nào
trong cuộc sống mỗi người chúng ta?
Kinh nghiệm cho thấy:
chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay
như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác. Và
trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va
chạm, những bực bội, những buồn phiền, vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những
sai lỗi, khuyết điểm của mình. Hơn thế nữa, bá nhân bá tánh, mỗi người đều có
một tính tình riêng.
Bởi đó, chúng ta cần
phải biết quên đi và tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng, vì một sự nhịn là chín
sự lành.
Chính sự hiền lành sẽ
tạo nên trong gia đình một bầu khí hòa thuận và êm ấm:
- Chồng giận thì vợ
bớt lời,
Cơm sôi nhỏ lửa, chẳng
đời nào khê.
Chính sự hịền lành sẽ
bắc được một nhịp cầu cảm thông và sẽ tạo được những mối liên hệ tốt ngoài xã
hội giữa chúng ta với nhau, bởi vì:
- Già néo thì đứt
giây.
- Bên thẳng thì bên
phải chùng,
Cả hai đều thẳng, thì
cùng đứt dây.
Kinh nghiệm cũng cho
thấy những đổ vỡ xảy ra phần lớn chỉ vì sự nóng giận, nhiều khi rất vô lý của
chúng ta.
Thực vậy, quan sát một
con sư tử mắc bẫy. Bẫy chỉ là những sợi dây. Thế nhưng, nếu con sư tử càng lồng
gầm gừ, càng dãy dụa thì những sợi dây lại càng xiết chặt. Còn nếu nó bình
tĩnh, dùng hàm răng nhọn hoắt mà cắn dần những sợi dây, thì chẳng mấy chốc, nó
sẽ được giải thóat.
Bởi đó, người ta
thường bảo:
- Giận quá thì mất
khôn.
Sự nóng giận là như
dầu đổ vào lửa, làm cho lửa bùng cháy lên. Trong khi đó, sự hiền lành là như
thùng nước dập tắt ngọn lửa. Đúng thế, sự hiền lành bao giờ cũng xoa dịu, cũng
hàn gắn. Một thanh sắt nóng đỏ, nếu đem ngâm trong nước, nó sẽ nguội ngay lập
tức.
Để kết luận, tôi xin
kể lại mẫu gương của thánh Phanxicô Salêsiô. Thời còn trai trẻ, ngài là một
người có tính nóng như lửa đốt, hơi một chút là nổi sùng, hơi một chút là quát
tháo. Phải mất hơn hai mươi năm tập luyện. ngài mới trở thành một vị thánh hiền
dịu và dễ thương.
Ngày kia, có một người
đang tức giận đối với ngài. Ông ta xua bày chó sang tòa giám mục để chúng sủa
vang. Còn ông ta và đám gia nhân thì bước vào phòng ngài và chửi bới om xòm.
Chính ông ta đã nhổ nước miếng vào mặt ngài. Thế nhưng, ngài vẫn yên lặng, bình
tĩnh rút khăn ra lau. Chính thái độ hiền hòa khả ái này đã cảm hóa được ông ta,
khiến ông ta sám hối và quay trở về cùng Chúa.
Như vậy, hiền lành
không phải là hèn nhát, nhưng là anh hùng. Kẻ khác đánh chúng ta và chúng ta
đánh trả lại, thì đó chỉ lả phản ứng thông thường của loài vật. Trái lại, kẻ
khác đánh chúng ta mà chúng ta vẫn tha thứ, vẫn cầu nguyện cho họ, thì đó mới
là thái độ anh hùng, xứng đáng với địa vị của con người.
Hơn thế nữa. sự hiển
lành còn là một phương tiện hữu hiệu nhất để cảm hóa người khác, bởi vì chỉ với
một giọt mật, người ta có thể bắt được nhiều ruồi hơn cả một thùng dấm chua.
12. Mang lấy ách
Báo Văn Học số 193 tháng 5 năm 2002, trong mục
Tin Văn do Thế Quân phụ trách, đăng tin về em bé Mattie Stepanek 11 tuổi, hiện
sống với mẹ ở Upper Marlboro, bang Maryland. “Mới sinh ra, em đã mang một căn
bệnh di truyền quái ác có tên là ‘dysautonomic mitochondrial myopathy’”, một
hình thức khá hiếm hoi của bệnh yếu cơ – muscular dystrophy. Bệnh này đã giết
chết ba anh chị em của Mattie, còn bản thân em thì đời sống bị dính liền vào
chiếc xe lăn với một bình ốcxy thường xuyên bên cạnh. Nhỏ nhắn, yếu ớt, thiếu
sức khỏe và mang một căn bệnh vô phương cứu chữa như thế, nhưng em luôn vui vẻ,
lạc quan. Em rất ham học và sáng tạo. Em bắt đầu làm thơ và viết văn vào lúc 3
tuổi. Em đọc và mẹ em đánh máy lại. Lúc 5 tuổi, em đã có mấy trăm bài thơ và
đến nay đã có hàng ngàn bài thơ”.
“Em có ba ước mơ: thứ nhất là xuất bản một tập
thơ của riêng em, thứ hai là được diện kiến với “model” của em là cựu tổng
thống Jimmy Carter và cuối cùng là được xuất hiện trong chương trình truyền
hình của Oprah. Năm 2001, cả ba ước mơ của em không những đã thành đạt mà còn
thành đạt ngoài ý muốn. Tháng 7 năm 2001, hai nhà xuất bản “VPS Books” và
“Hyperion Books” hợp tác nhau xuất bản thi tập đầu tiên của em, tựa đề là
“Heartsongs”. Ngay lập tức, nó trở thành “bestseller” trên toàn quốc. Tháng 10
năm 2001, em được diện kiến cựu tổng thống Carter trong chương trình truyền
hình “Good Morning America”. Và ngày 19 tháng 10 năm 2001, em xuất hiện trong
chương trình truyền hình Oprah.
Tối ngày 17 tháng 4 năm 2002, Mattie xuất hiện
trong chương trình “Lary King Live” của hệ thống truyền hình CNN. Trong cuộc
trò chuyện này, bằng một giọng nói lưu loát, cử chỉ sống động, em trả lời nhiều
câu hỏi về cuộc sống, việc học, việc làm thơ và những mơ ước của em một cách
thông minh, chân thành và đôi khi còn pha chút dí dỏm. Trả lời câu hỏi liên
quan đến căn bệnh nan y của em, Mattie nói: “Các bác sĩ không tin rằng cháu sẽ
sống nổi một ngày. Nhưng cháu đã sống được. Rồi họ lại bảo “OK, thằng nhỏ sống
đến 6 tháng là cùng”. Cháu đã sống… Khi cháu lên 2, họ nói “OK, 10 tuổi thôi”.
Bây giờ đây cháu đã được 11 tuổi. Họ sẽ có thể nói “đến mười mấy thôi, quá lắm
là đến hết tuổi thiếu niên, nhưng cháu dự tính sẽ sống đến 101 tuổi lận”.
Đề cập đến sự kiên trì
phấn đấu của mình để tồn tại và sáng tác, em phát biểu: “Đôi khi, cháu tự hỏi:
Tại sao lại là cháu? Tại sao cháu lại có một đời sống khó khăn như thế này? Tại
sao mấy anh chị em của cháu lại chết? Tại sao bệnh không lành? Nhưng rồi cháu
nghĩ lại và tự hỏi: Tại sao không phải là cháu chứ? Cháu có thể chịu đựng được
tốt hơn một đứa trẻ khác đã phải chịu những khó khăn trong đời của nó. Hoặc là
cháu có thể chịu đựng tốt hơn một đứa nhỏ chẳng hiểu gì chuyện đó cả và có thể
còn đau khổ hơn”.
Trong bài Phúc Âm hôm
nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mang lấy ách của Người trên đôi vai chúng ta.
Phải chấp nhận những nhọc nhằn vất vả, bệnh tật ốm yếu, khổ đau buồn sầu, và
tất cả những ngang trái ngoài ý muốn như là cái ách phải mang lấy trong cuộc
đời.
Người Do Thái dùng
thành ngữ cái ách để chỉ sự vâng phục, phục tùng. Họ nói về cái ách của lề
luật, cái ách của các giới răn, cái ách của Vương Quốc, và cái ách của Thiên
Chúa. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cụ thể này để diễn tả lời mời gọi của Người.
Theo William Barclay,
Chúa Giêsu nói, “Ach của Ta thì êm ái”. Chữ “êm ái”, tiếng Hy Lạp là “chrestos”
có nghĩa là vừa vặn. Trong xứ Palestine những cái ách của con bò được làm bằng
gỗ; con bò phải được dẫn đến tiệm thợ mộc để đo kích thước phù hợp với từng
con. Sau đó cái ách phải được thợ mộc đẽo gọt, điều chỉnh, sửa chữa cẩn thận
cho thật vừa vặn để không làm trầy da hay tổn thương đến con vật.
Có một huyền thoại cổ
kể lại rằng Chúa Giêsu là người thợ mộc sản xuất ra những cái ách vừa vặn vào
loại hạng nhất ở xứ Galilêa, và trong khắp cả nước người ta ùn ùn kéo đến với
Người để mua những cái ách hạng nhất do Người làm ra. Thời ấy, các cửa tiệm
cũng có những nhãn hiệu dán trên cửa, và cái nhãn hiệu của tiệm thợ mộc ở
Nagiarét nổi tiếng với hàng chữ: “My yokes fit well” – “Ach Ta rất vừa vặn”.
Chúa Giêsu nói: “Ach
của Ta thì êm ái”, có nghĩa là: “Cuộc sống Ta ban cho con không phải là gánh
nặng làm tổn hại đến con; bổn phận của con đã được đo lường thích hợp với con
rồi”. Bất cứ điều gì Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta đã được làm để phù hợp
chính xác với những nhu cầu và khả năng của chúng ta.
Chúa Giêsu nói: “Gánh
của Ta thì nhẹ nhàng”. Đúng như lời của một thầy Rabbi đã nói: “Gánh của tôi đã
trở nên bài ca của tôi”. Điều này không có nghĩa là gánh nặng thì dễ dàng mang
vác; nhưng có nghĩa rằng nó được đặt trên vai chúng ta bằng tình yêu. Nó sẽ
được mang vác trong tình yêu. Và tình yêu sẽ làm cho những gánh nặng nề nhất
cũng trở nên nhẹ nhàng như thánh Augustinô đã nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đó hết
khó nhọc”.
13. Mang lấy ách
Có một câu chuyện cổ
kể về một người đàn ông đang đi trên đường, tình cờ gặp một em bé trai đang
cõng một em bé trai khác nhỏ hơn nhưng đã bị cụt hai chân trên lưng. Người đàn
ông đó nói với bé trai rằng: “Đó quả thật là một gánh nặng cho em phải mang”.
Nhưng em bé trai đã trả lời rằng: “Đó không phải là một gánh nặng. Đó là đứa em
nhỏ của cháu”. Gánh nặng được trao ban trong tình yêu và mang lấy bằng tình yêu
sẽ luôn nhẹ nhàng!
Trong chuyện “Ngụ ngôn về những con chim” kể
rằng thuở sáng tạo trời đất và các loài súc vật, tất cả đều bước đi bằng chân
loanh quanh trên mặt đất, trừ những con chim! Nhưng những con chim này chẳng
chịu làm gì hết mà chỉ phàn nàn về gánh nặng Thiên Chúa bắt chúng phải mang
trên vai, trong khi đó chẳng có một loài vật nào phải mang cả. Thoạt đầu, đối
với loài chim, đôi cánh là những bộ phận xấu xí và luộm thuộm nhất chúng phải
mang. Chúng nghĩ rằng đó là cách chúng đã bị Thiên Chúa phạt vì một lý do nào
đó. Tại sao cứ phải mang lấy những cái cánh vướng vít gây cản trở và khó khăn
mỗi khi cất bước? Tại sao? Tại sao lại là chúng mình? Sau cùng có hai hay ba
con chim mạo hiểm hơn bắt đầu tập cử động những bộ phận phụ thuộc này. Chúng
bắt đầu chớp cánh phất phơ, và sớm khám phá ra rằng cái mà chúng coi như một
gánh nặng trên vai thực ra đã làm cho chúng có thể cất cánh bay lên cao được.
Cái “gánh nặng” đã biến thành một món quà đẹp đẽ.
Con người sinh ra đời
kèm theo với cái ách, gánh nặng và trách nhiệm. Đó là cuộc đời! Và chúng ta
cũng không thể tránh được lòng mong ước thoát khỏi chúng. Đó cũng là cuộc đời!
Chúng ta muốn được giải thoát, nhưng tự sức chúng ta không làm nổi. Chúa Giêsu
nói với chúng ta: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng,
Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người”. Chúng ta không mang vác một mình, nhưng
với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, cái ách sẽ trở nên êm ái và gánh nặng sẽ nên nhẹ
nhàng. Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, cái ách trở nên giống như đôi cánh chim
giúp ta bay lên cao hơn trong đời sống tinh thần.
Trong tiểu sử cuộc đời
thánh nữ Têrêsa Avila có kể một câu chuyện về việc ma quỉ giả dạng giống Chúa
Giêsu sống lại hiện ra với thánh nữ. Vừa nhận ra sự giả dạng thánh nữ đuổi nó
đi ngay. Trước khi ra đi, Satan hỏi: “Làm thế nào bà đã biết được tôi là một
người mạo nhận?” Thánh nữ đáp lại: “Bởi vì mày không có những vết thương”.
Trong bài suy niệm của thánh nữ về đời sống tinh thần, The Interior Castle –
Lâu Đài Nội Tâm – thánh nữ Têrêsa đã nói đi nói lại về hình ảnh của Chúa Kitô
chịu đau khổ đến hơn 40 lần. Thánh nữ thường xuyên đề cập đến đau khổ là vì,
đối với thánh nữ, hình ảnh Chúa Kitô mang thương tích đã đến với chúng ta trong
chính thương tích của chúng ta là chìa khóa để tìm hiểu cuộc hành trình thiêng
liêng. Chúng ta có một Thiên Chúa cùng đồng hành với chúng ta. Ngài biết sự
phấn đấu và hiểu nỗi đau khổ của chúng ta.
Cái ách ở thế kỷ thứ
nhất thường được mang bởi hai con vật cùng kéo cày hay kéo xe chung với nhau.
Khi chúng ta mang lấy trách nhiệm phục vụ Chúa Kitô, chúng ta cũng mang lấy ân
sủng và sức mạnh của Chúa Kitô. Thiên Chúa là Đấng đã ra lệnh cho chúng ta phải
cúi xuống để Người đặt lên chúng ta cái ách của Người, cũng sẽ ở bên cạnh chúng
ta để cùng mang vác với chúng ta.
14. Gánh nặng
“Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đó là một lời kêu
gọi, một lời nhắn nhủ, một lời khích lệ đầy an ủi và phấn khởi Chúa Giêsu nói
với tất cả và từng người chúng ta.
Theo nguyên nghĩa Hy
Lạp, thì chữ “vất vả mang gánh nặng nề” Chúa Giêsu nói ở đây được hiểu là cái
bao đựng vật dụng cá nhân như cái ba-lô người ta đeo trên lưng, còn theo nghĩa
thông thường, đó là những vất vả, khó khăn, trách nhiệm mà người ta phải chấp
nhận. Dù theo nghĩa nào thì chúng ta cũng hiểu ngay là mỗi người đều có những
vất vả và đau khổ, được gọi chung là gánh nặng riêng cho đời mình.
Thực vậy, đời người
giỏi lắm là được trăm năm trần thế. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Trăm năm nào
có gì đâu? Nhưng từ lúc trắng răng đến lúc bạc đầu, không lúc nào vất vả, đau
khổ không theo đuổi chúng ta, đến nỗi ca dao tục ngữ đã nói: “Gánh khổ mà đổ
lên non. Còng lưng mà chạy khổ còn chạy theo”. Đời là bể khổ, đời là thung lũng
nước mắt, không ai chối cãi, không ai phủ nhận, sinh ra và có mặt trên đời là
khổ: “Hữu sinh hữu khổ” là thế. Với thời gian, lớn lên, đau khổ, vất vả hằng
theo sát gót con người, dù ở đâu và làm gì, ai cũng có những vất vả và đau khổ
của riêng mình.
Chúa Giêsu đã nhận
thấy điều đó, Chúa đã hình dung bằng hai tiếng “vất vả và gánh nặng”, và Chúa
động viên, khích lệ, kêu gọi: “Hãy đến với Chúa” để Chúa an ủi, nâng đỡ. Thực
vậy, ở đời này có nhiều gánh nặng: gánh nặng bản thân, gánh nặng gia đình, gánh
nặng xã hội, gánh nặng của bệnh tật, thất bại, mất mát, hiểu lầm của tình người
và tình đời. Đã gọi là gánh nặng thì phải vất vả gánh vác: vất vả với cuộc mưu
sinh, vất vả đêm ngày, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng ăn, thế mà có
khi vẫn không đủ sống; vất vả sớm tối với bầy con, vất vả khi chúng còn nhỏ bé,
vất vả khi chúng đã khôn lớn, nhất là khi chúng hư hỏng, quậy phá.
Ngoài ra, “gánh nặng”
còn được hiểu là những đau khổ của đời người. Đời người sống giỏi lắm là trăm
năm, nhưng thử hỏi có ai là không đau khổ chăng? Ai cũng có những đau khổ riêng
mình: người trước người sau, người ít người nhiều, người tinh thần người thể
xác, người đi tu hay sống đời gia đình… không ai dám nói đời mình không có đau
khổ. Cuộc đời trần gian là thế.
Như vậy, chúng ta dễ
dàng chấp nhận: vất vả và gánh nặng đời này thì nhiều thứ, nhiều cỡ, nhiều kiểu
và chúng ta cũng nhìn nhận rằng: trước những gánh nặng đó, nhiều khi tự sức
chúng ta, chúng ta không làm gì được, chúng ta buông xuôi, chán nản ư? Thậm chí
có những người khi gặp khó khăn, khủng hoảng thì bỏ cả việc đạo đức và chán cả
cầu nguyện, như vậy là sai lầm lớn. Những lúc vất vả, khó khăn, đau khổ càng
nhiều và càng nặng, chúng ta càng phải đến với Chúa mau hơn và nhiều hơn. Hãy
đến với Chúa để cảm nhận được sự nâng đỡ và bổ sức của Chúa. Nhưng chúng ta nên
nhớ: Chúa nói Ngài nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta thôi chứ Ngài không cất gánh
nặng cho chúng ta, Ngài làm cho nhẹ gánh chứ không cất gánh nặng đi. Có nghĩa
là chính chúng ta phải cố gắng làm việc và tìm mọi cách để giải tỏa gánh nặng
đời mình rồi Chúa sẽ giúp sức thêm, chứ đừng ngồi mà than thân trách phận, hoặc
chỉ cầu xin, khấn vái thôi thì chưa đủ.
Có một câu chuyện ngụ
ngôn kể rằng: Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng
khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp
lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu
giúp. Vị thần hiện ra nói: “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao”, bác
đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình
giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn dạy
chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết những
khó khăn. Nếu trong cuộc sống chúng ta còn biết nhờ vả vào những người quyền
thế hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ vào Chúa. Cho
nên, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, nhất
là những khi vất vả hay khổ đau, chúng ta hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ, bổ
sức cho chúng ta.
15. Số không
Truyện Tây Du Ký kể lại cuộc hành trình của
thầy trò Đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh, đem về phổ biến cho dân gian.
Trên cuộc ra đi đầy gian nan thử thách của
thầy Tam Tạng, không chỉ là núi rừng hiểm trở với yêu ma quỷ quái, mà còn là
những tật xấu của ba người đồ đệ thân tín. Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới và Sa
Tăng, ba tên này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Đường cũng như bao người
khác phải vượt qua để đạt chánh quả. Đó là tính kiêu căng, lòng ham vật dục và
sự lười biếng.
Trên cuộc hành trình
về quê trời, mỗi người tín hữu cũng phải vượt qua bao gian nan thử thách, phải
chiến đấu với những cơn cám dỗ triền miên. Thấu hiểu nỗi truân chuyên của con
người, hôm nay Đức Giêsu đã kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh
nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
Hãy đến với Người, tất
cả những ai đang phải “Bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”, những ai “đầu tắt
mặt tối” để kiếm sống, những ai “thấp cổ bé miệng”, Người sẽ ủi an bổ sức, sẽ
cho họ được an dưỡng nghỉ ngơi.
Hãy đến với Người, tất
cả những ai đang mang gánh nặng của quá khứ tội lỗi, của hiện tại yếu hèn, của
tương lai chông chênh, Người sẽ xoa dịu vỗ về, sẽ ban cho họ sự bình an thanh
thản.
Đức Giêsu còn tha
thiết mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi… Vì ách của tôi êm ái, và gánh
tôi nhẹ nhàng”. Nếu bất ngờ chúng ta bị một “cái ách giữa đàng mà quàng vào cổ”
thì thật là gay go. Nhưng nếu chúng ta tình nguyện đón nhận cái ách của Đức
Giêsu, là thánh giá bổn phận hằng ngày, thì cái ách kia sẽ trở nên êm ái, và
gánh kia sẽ ra nhẹ nhàng. Vì chính con đường chúng ta đang tiến bước là con
đường tình yêu, hành trình mà chúng ta đi tới là hành trình Nước Trời.
Chính trong tình yêu
mà chúng ta cảm thấy bình an giữa cơn giông tố, niềm hân hoan trong lúc khổ
đau.Chính trong tình yêu mà cái ách sần sùi trở nên êm ái, và cái gánh nặng nề
hóa ra nhẹ nhàng.
Thánh Augustinô nói:
“Nơi đâu có tình yêu thì không có vất vả, mà nếu như có vất vả thì người ta
cũng yêu cả nỗi vất vả ấy”. Để có được thanh thản giữa bao lo toan của cuộc
sống, để có được bình an giữa muôn bão tố cuộc đời, để có được thư thái giữa
bao gánh nặng chồng chất, chúng ta hãy học nơi Thầy Giêsu: “Hiền lành và khiêm
nhường trong lòng”.
Kẻ kiêu ngạo phô
trương, cậy mình khôn ngoan tài đức, nên chẳng mấy ai ưa, mà Thiên Chúa cũng
khinh chê loại bỏ. Còn người hiền hậu khiêm tốn nhận mình bé mọn, chỉ biết cậy
dựa vào Chúa, nên được mọi người quí mến, mà Thiên Chúa lại yêu thương và ban
cho Nước Trời. Đức Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen
Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này,
nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”. Một ly nước đầy không thể đổ thêm
thứ gì vào đó. Cũng vậy, một kẻ chất đầy kiêu căng tự mãn thì không còn chỗ cho
Thiên Chúa dạy dỗ và ban ơn. Chỉ có những tâm hồn nhận mình bé mọn, nhận mình
là con số không, là trống rỗng thì lại có đủ chỗ cho Đấng vô cùng.
Đức Giêsu đã làm gương
trước khi dạy chúng ta hãy sống hiền lành và khiêm nhường; là Thiên Chúa cao cả
quyền năng, nhưng Người lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân để yêu thương và
cứu chuộc con người.
Người không lên án
người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang mà còn cứu bà khỏi trận mưa đá hãi
hùng.
Người không khiến lửa
trời xuống đốt cả làng Samari theo đề nghị của hai môn đệ háo thắng.
Người ví mình như
người cha nhân hậu tha thứ cho đứa con hoang đàng.
Người xem mình như mục
tử nhân lành chăm sóc từng con chiên.
Người xin Cha tha thứ
cho những kẻ lăng nhục, hành hạ và đóng đinh Người.
Tột đỉnh của sự hiền
lành và khiêm nhường nơi Đức Giêsu chính là Người đã hạ mình, vâng lời cho đến
chết, và chết trên cây thập giá. Chiều thập tự mây cứ thong thả bay, suối cứ
lững lờ trôi. Và lời kinh cứ tiếp tục xuôi thời gian gởi vào cuộc đời: “Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Trong cõi lòng hiền lành và
khiêm nhường bao giờ cũng gói trọn con tim bao dung độ lượng.
16. Chướng ngại
Trên chuyến xe lửa
tiến về Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Sau khi đoàn tàu
chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm
trong việc cầu nguyện.
Anh sinh viên nhìn cụ
già với vẻ khinh bỉ. Một lát sau anh nói: - Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những
chuyện nhảm nhí à?
Cụ già thản nhiên đáp:
- Đúng vậy, tôi vẫn
tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Anh sinh viên cười
ngạo nghễ rồi nói:
- Lúc còn con nít tôi
có tin. Nhưng bây giờ khoa học đã mở mắt cho tôi và tôi không thể tin được nữa.
Ông hãy quăng xâu chuỗi ấy đi và hãy học hỏi những khám phá mới, ông sẽ thấy
những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
Cụ già khiêm tốn hỏi:
- Cậu vừa nói về những
khám phá khoa học mới. Cậu có thể giúp tôi hiểu được những khám phá ấy?
Anh sinh viên hăng hái
trả lời:
- Được chứ. Ông cứ cho
tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi tặng ông những cuốn sách khoa học rồi ông sẽ thấy sự
phong phú kỳ diệu của nó.
Cụ già rút trong túi
ra một tấm danh thiếp và đưa cho anh sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, anh
thanh niên tái mặt và lặng lẽ cúi đầu đi sang toa khác, bởi vì trên tấm danh
thiếp có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. Ông Louis Pasteur
là một nhà bác học đã có nhiều phát minh trong lãnh vực hóa học và sinh vật
học. Chính ông đã tìm ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại. Dù thông thái như thế,
nhưng ông vẫn khiêm tốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, vẫn nỗ lực tìm
kiếm Chúa để sống gắn bó với Người. Vì thế ông đã nghe được tiếng Chúa và đón
nhận được những mặc khải của Người.
Còn anh sinh viên kia
khả năng và sự hiểu biết không được bao nhiêu, nhưng đã tỏ ra kiêu căng tự phụ
về sự hiểu biết ấy. Sự kiêu căng của anh đã che khuất đi khuôn mặt của Thiên
Chúa, đã làm át đi tiếng nói của Người trong tâm hồn anh. Chính vì thế anh đã
không thể nhận ra dung mạo của Thiên Chúa, không nghe được tiếng nói của Người
trong cuộc đời mình.
Thời đại hôm nay nền
khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực. Cuộc sống kinh tế của con người càng ngày
càng phát triển. Người ta giàu có hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng tất cả những
tiến bộ và phát triển ấy không đủ để phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và
niềm tin tôn giáo. Chỉ có điều là người ta quá tự hào về những thành quả khám
phá của mình, tự hào về sự giàu sang của mình. Và sự tự hào ấy đã ngăn cản, đã
che mờ đôi mắt làm họ không còn nhận ra được những mặc khải của Thiên Chúa cho
họ.
Phần chúng ta thì sao?
Chúng ta chọn thái độ của nhà bác học Louis Pateur hay của anh sinh viên trong
câu chuyện trên?
17. Hiền lành
Trước hết, chúng ta
biết hiền lành là một trong những đức tính Chúa Giêsu đã đặt vào số tám mối
phúc: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. Rồi hôm
nay, chúng ta lại thấy Chúa nói: “Hãy học với tôi vì tôi hiền lành”. Có lẽ
không ai dám khuyên một lời như thế. Chúa Giêsu đả đưa ra lời khuyên đó, vì
chính Ngài đã sống gương mẫu và kêu mời mọi người hãy sống như thế để chính
mình được an bình, hạnh phúc, và đồng thời cũng đem lại bình an và phúc lộc cho
những người chung quanh.
Quả thực, Chúa Giêsu
đã sống hiền lành và làm gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta có thể nêu ra một số
trường hợp cụ thể: Chẳng hạn, khi những người Pharisêu nhục mạ Ngài là bị quỉ
ám, Ngài vẫn bình thản và nhắc nhở họ: “Đừng xét đoán theo bề ngoài. Hãy xét
đoán cho công minh”. Chúa rao giảng giáo lý của Chúa một cách hiền hòa, không
chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và
bắt bẻ Ngài. Nhiều khi thấy đương đầu với họ không có lợi, Ngài tự ý lánh đi,
để cho sự tức giận hay ghen ghét của họ dần dần lắng xuống. Đối với các môn đệ
quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo.
Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm
thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa,
đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng,
đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không
một lời phản đối, bực tức, phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những
người làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Ngài đã tắt thở và an nghỉ trong sự suy phục sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài một
cách toàn vẹn: “Mọi sự đã hoàn tất”, “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong
tay Cha”.
Đó, chúng ta thấy Chúa
Giêsu đã sống hiền lành một cách trọn vẹn, nên Ngài dám nói, dám kêu gọi chúng
ta hãy học, hãy sống như Ngài. Ngài thực sự là mẫu gương cho mọi người. Qua mẫu
gương hiền lành của Chúa, chúng ta rút ra được ý nghĩa của sự hiền lành là tự
chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng.
Người hiền lành là
người làm chủ được chính mình, chiến thắng được chính mình, tức là thắng được
cái tôi kiêu hãnh, ganh tị, giận hờn, tự ái, nóng nảy, tham lam của mình. Trong
mỗi người có hai phần: phần thượng là ơn thánh, lý trí và ý chí. Còn phần hạ là
cái dục vọng. Chiến thắng được chính mình là biết dùng ơn Chúa, dùng lý trí và
ý chí điều khiển các dục vọng của mình, không để ngoại cảnh hoặc người khác chi
phối, không phản ứng theo niềm vui nỗi buồn để đưa mình lên hay hạ người khác
xuống.
Cũng thế, người hiền
lành thì kiên nhẫn, chịu đựng mọi hoàn cảnh bất trắc hay những điều ngoài ý
muốn của mình. Không tự mãn hay phóng đại công việc của mình, khoe mã, cầu
danh, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, bắt bẻ hay bực tức về chuyện sơ suất của
người khác. Chúng ta mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi sở thích, và có những
khả năng, tài năng khác nhau, không ai giống ai. Chúng ta sống với nhau, chúng
ta phải biết kiên nhẫn, chịu đựng để hòa hợp với nhau, chia sẻ cho nhau. Vì
thế, đòi hỏi chúng ta phải biết chịu đựng nhau, chấp nhận nhau. Chịu đựng chấp
nhận cái hay cái tốt của người khác thì dễ nhưng chấp nhận chịu đựng cái xấu
cái dở của người khác mới khó và đó mới là nhân đức. Có những trường hợp chúng
ta phải chịu đựng, chấp nhận không phải một hai lần mà rất nhiều lần. Chấp nhận
và chịu đựng được mới thực sự là người hiền lành.
Lại nữa, bao lâu còn
là người, chúng ta còn lỗi lầm, còn cần được sửa sai, còn cần được tha thứ, và
tha thứ mãi. Tha thứ nhiều là dấu chúng ta chịu đựng nhiều. Tha thứ nhiều sẽ
chứng tỏ được tấm lòng quảng đại bao dung làm cho thêm bạn bớt thù. Tha thứ
không phải là yếu thế hơn người được tha thứ, nhưng chính là tấm lòng rộng lớn
hơn họ. Càng tha thứ sẽ làm cho đối phương nhận ra lỗi lầm của họ và họ sẽ thấy
cần được tha thứ hơn. Cho nên, người nào muốn tập đức tính hiền lành là phải
tập tha thứ.
Có lẽ tất cả chúng ta
đều phải thú nhận mình còn thiếu rất nhiều đức tính hiền lành. Sống trong gia
đình và sống trong bất cứ tập thể nào, chúng ta vẫn còn nhiều lần tỏ ra thiếu
hiền lành, chưa hiền lành hoặc không hiền lành. Cho nên, Lời Chúa hôm nay thực
là một bài học hữu ích, một lời kêu gọi chúng ta hãy sửa chữa hoặc cố gắng hơn
nữa, để sống hiền lành. Nếu lịch sự được coi là bông hoa của đức ái, thì huống
nữa là hiền lành. Vì thế, Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy sống theo gương
mẫu hiền lành của Ngài.
18. Hãy đến với Ta
Hôm nay Giáo Hội cho
chúng ta lắng nghe lời kêu mời tha thiết của Chúa Giêsu: "Hỡi những ai khó
nhọc và gánh nặng hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi".
Mỗi người chúng ta có lẽ giờ phút này cũng mang đến đây một gánh nặng, gánh
nặng của những âu lo trong cuộc sống và nhất là gánh nặng của tội lỗi đang đè
nặng trong lương tâm của ta.
Tin ở tình yêu của
Thiên Chúa, chúng ta mang những gánh nặng đó cho Chúa Giêsu để xin Ngài tiếp
tục độ trì, nâng đỡ chúng ta và tin ở tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta cũng
mang đến cho Ngài những gánh nặng tội lỗi của mình để xin Ngài tẩy rửa tâm hồn
chúng ta.
Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II, Người đã làm một cử chỉ mang nhiều ý nghĩa cao cả, đó là Ngài đã
tuyên bố phục hồi danh dự cho ông Galilê, người đã bị Giáo Hội ở thế kỷ XVII
kết án là lạc đạo, vì ông cho rằng trái đất quay xung quanh mặt trời.
Từ hàng bao thế kỷ
qua, nhiều người xem ông Galilê như là nạn nhân của một Giáo Hội độc đoán, áp
bức đối với con người. Và hiện nay không thiếu những người vẫn tiếp tục nhìn
vào Giáo Hội như một sức kéo trì trệ, ngăn cản bước tiến của nhân loại. Với
việc phục hồi danh dự cho ông Galilê, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II không những
nhìn nhận một lỗi tầm của quá khứ, mà Ngài còn khẳng định một nguyên tắc nền
tảng về sự tự trị của tôn giáo và khoa học.
Trong sứ điệp gởi cho
vị giám đốc của đài thiên văn Vatican năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
đã khẳng định như sau: "Tôn giáo không xây dựng trên khoa học, và khoa học
cũng không là một nối dài của tôn giáo". Mỗi bên có một phương pháp, một
nguyên tắc, một cách giải thích và những kết luận riêng của mình. Vì thế, Kitô
giáo tự biện minh cho mình mà không dựa vào khoa học.
Lời tuyên bố trên đây
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đưa chúng ta vào một trong những chân lý nền
tảng của Kitô giáo, chân lý đó là: “Đức tin là một ơn nhưng không Thiên Chúa
ban cho con người". Điều đó có nghĩa là không phải tìm kiếm, lý giải uyên
bác thì con người mới đạt được đức tin. Nói như triết gia kiêm nhà toán học
người Pháp là Pascal: "Muốn có đức tin thì người ta phải quì gối xuống mà
van xin".
Lời cầu nguyện của
Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nêu bật tính cách nhưng không ấy của đức
tin. Chúa Giêsu đã cảm lạ Thiên Chúa Cha vì đã giấu ẩn không cho những nhà hiền
triết và khôn ngoan thông thái biết những chân lý về mầu nhiệm Nước Trời, mà
chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn đơn sơ.
Lời cầu nguyện này
được Chúa Giêsu thốt lên cho một loạt những thất bại của Ngài lại Bethsaida
cũng như một số thành phố khác lại Galilêa, quê hương của Ngài. Cho dẫu Chúa
Giêsu đã làm được rất nhiều phép lạ, nhưng nhiều người vẫn không tin Ngài, và
một số thì chống đối ra mặt. Điển hình và gay gắt nhất chính là thái độ cứng
lòng tin của các luật sĩ và biệt phái, tức là những hạng người được xem là khôn
ngoan và trí thức trong dân. Họ dựa vào những hiểu biết uyên thâm của mình để
khước từ sứ điệp của Chúa Giêsu.
Vì vậy, chỉ còn lại
những dân chài lưới dốt nát được Chúa Giêsu chọn làm môn đệ, chỉ còn lại một số
nhỏ những người thất học nghèo hèn bị xã hội đẩy ra bên lề, và Chúa Giêsu gọi
họ là những kẻ bé mọn. Họ là những người đã đón nhận tinh thần "Tám Mối
Phúc Thật". Họ là những con người nghèo khó, hiền lành và nhất là có tâm
hồn trong sạcho Họ là những người có tinh thần trẻ thơ mà Chúa Giêsu đã đề ra:
"Nếu các con không giống như trẻ nhỏ thì các con sẽ không được vào Nước
Trời".
Thật vậy, đức tin là
một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho, nhưng chỉ có những ai biết mở
rộng tâm hồn, biết dốc cạn chính mình, biết chối từ những chỗ dựa của trần thế
như tiền bạc, danh vọng, quyền bính, chỉ có những ai có tinh thần nghèo khó,
đơn sơ như thế mới cảm nhận được đức tin, mới hiểu biết được mầu nhiệm Nước Trời.
Lý luận của đức tin,
của luân lý và khoa học: Luận lý của đức tin là luận lý của lình yêu. Trong
tình yêu người ta không lý luận, tình yêu không là số thành của một mớ những
cộng trừ nhân chia. Tình yêu không là kết luận của một sự lý giải. Tình yêu là
trao ban và trao ban nhưng không, trao ban không tính toán, không so đo hơn
thiệt.
Kitô giáo chúng ta
không chỉ là một hệ thống gồm những điều phải tin và phải giữ. Kitô giáo chúng
ta thiết yếu là một con người, con người ấy chính là Chúa Giêsu Kitô. Con người
ấy không ngừng mời gọi chúng ta đi vào quan hệ mật thiết với Ngài. Con người ấy
không ngừng nói với mỗi người chúng ta: "Hãy đi theo Ta". Đi theo
Ngài tứ là tiếp nhận sức sống củaNgài, là mặc lấy tâm tư, suy nghĩ hành động và
nhất là cái nhìn của Ngài.
Thánh Phaolô đã diễn
tả một cách chính xác cái nhìn ấy của Chúa Giêsu như sau: "Những gì con
người cho là yếu nhược thì lại là sức mạnh của Thiên Chúa. Những gì con người
cho là ngu dại thì đó lại chính là lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa". Tựu trung
đó chính là lý luận và lẽ khôn ngoan của Thập giá. Lý luận và khôn ngoan ấy
cũng là lý luận của tình yêu. Bởi vì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là
một cái chết của tình yêu.
Chúng ta đang tham dự
vào mầu nhiệm Thập giá của Chúa Giêsu, khi Ngài đã đoan hứa với chúng ta:
"Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức nâng đỡ các
ngươi".
Nguyện xin sức sống
của Ngài mà chúng ta tiếp nhận trong Thánh lễ mỗi ngày bổ sức cho chúng ta, để
chúng ta bước đi theo Ngài và mãi mãi được thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi
sống nhưng không phải là tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
19. Chú giải của Noel
Quesson.
Vào lúc ấy, Đức Giêsu
cất tiếng nói…
Thành ngữ. "vào
lúc ấy” thường là công thức về văn phong mà các sách Kinh dùng làm lễ đã thêm
vào để bắt đầu một đoạn Tin Mừng một cách tự nhiên hơn. Nhưng ở đây là môt
ngoại lệ, nó có trong bản văn của Matthêu. Vậy trong bối cảnh nào mà lời cầu
nguyện chúng ta sắp đọc được đưa vào?
“Lúc ấy" là một thời điểm bi
đát. Đức Giêsu sống trong một bầu khí căng thẳng và thất bại. Ở chương 11 thánh
Matthêu vừa mô tả sự "hoài nghi" của Gioan Tẩy trong nhà tù:
"Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai
khác? "Đức Giêsu kế đó đã thuật lại cách thức mà những kẻ đồng thời với
Người đã từ chối ông Gioan vị ẩn sĩ khổ hạnh và cả Đức Giêsu Đấng Hằng Sống
nhân từ (11,16-19). Rồi Đức Giêsu lên án nghiêm khắc những thành phố bên bờ hồ
Ti-bê-ri-a đã không đón nhận sứ điệp và các phép lạ của Người. Nhiều người
trong hoàn cảnh thất bại này hẳn sẽ rơi vào sự thất vọng và chán nản. Vả lại,
đây là một “bài ca vui mừng" trào dâng từ đôi môi Người. Vậy tâm tình thầm
kín của Đức Giêsu là gì?
Lạy Cha là Chúa Tể
trời đất...
Trong một vài dòng,
chúng ta nghe Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là "Cha" năm lần. Chúng ta đã
quá quen nên không nhận thấy rằng cách gọi Thiên Chúa này mở ra một cuộc cách
mạng tôn giáo thật sự. Những nhà chú giải đã tìm trong toàn bộ Kinh Thánh và
tất cả văn chương Do Thái trước Đức Giêsu chưa bao giờ từ ngữ ấy, "Cha”
được dùng một cách tuyệt đối và dùng để cầu khẩn trực tiếp Thiên Chúa. Không
một Thánh Vịnh nào dám gọi Thiên Chúa một cách thân mật.
Như thế, những người
Do Thái, ngày nay cũng thế, bởi lòng tôn kính, không dám phát âm cái tên khôn
tả của Thiên Chúa nhưng dùng mọi cách nói tránh, ví dụ như: "Đấng Hằng
Hữu, xin chúc tụng..." Dường như các tông đồ không thể nghĩ ra một từ ngữ
như thế, bởi họ cũng là người Do Thái, nếu như họ đã không nghe thấy trên đôi
môi Đức Giêsu đang cầu nguyện. Và đàng sau từ ngữ ấy, ngày hôm nay đã trở thành
thông thường, chúng ta nhận ra tiếng “Abba!" trong ngôn ngữ A-ra-men. Đây
là một từ âu yếm của các con nhỏ dùng nói với cha chúng, tương đương với chữ Ba
(Bố) của chúng ta..
Cha! Ba, Chúa của trời
đất!
Sự đối chiếu của hai
khía cạnh ấy của Thiên Chúa thật cảm động. Đây là Thiên Chúa cao cả, Tạo Hóa
của toàn thể vũ trụ! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con theo gương Chúa có đủ hai
thái độ cầu nguyện ấy: sự đơn sơ của tình cảm; sự tôn thờ chân chính.
Con xin ngợi khen Cha.
Động từ Hy Lạp dùng ở
đây là "exomologeisthai" có nghĩa là "xưng thú”, "tuyên
xưng công khai đức tin" "dâng lời ngợi khen", "cảm
tạ". Như thế, giữa những thất bại trong việc rao giảng, đây là một lời cầu
nguyện ngợi khen tràn ngập linh hồn; một thứ Thánh Thể ".
Và chúng ta không thể
không ngạc nhiên bởi sự giống nhau đáng ngạc nhiên giữa lời Đức Giêsu cầu
nguyện với bài ca ngợi khen (Magnificat) của Mẹ Người. "Linh hồn tôi ngợi
khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng". Cả hai bài kinh này đều được
cấu kết bằng những ẩn dụ trong Kinh Thánh (Cn 8,9; Xi-ra-cít 51,1-30; Kn 6,9;
Đn 7,13-l4). Và cả hai ca hát niềm vui của những người nghèo khó mà Thiên Chúa
ưa thích.
Vì Cha đã giấu không
cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng mạc khải cho người bé
mọn.
Đức Giêsu cầu nguyện
và đi từ đời sống cụ thể của Người. Người đi từ sự thất bại mà các kinh sư và
các Thầy dạy Luật đã gây ra cho Người... từ sự tiếp đón mà Người đã nhận từ
những người khiêm nhượng và nghèo khó. Còn tôi thì sao? Tôi có cầu nguyện từ'
đời sống và những lo lắng của tôi? Tôi có dám thử tìm ra "lời để ngợi
khen" giữa những hoàn cảnh bất lợi đang làm tổn thương tôi? Khi đọc lời
kinh này của Đức Giêsu người ta có thể bị đụng chạm bởi cảm tưởng Thiên Chúa
"giấu giếm" một điều gì đó cho một số người Và mạc khải điều đó cho
những người khác! Trong toàn bộ Cựu ước, chúng ta tìm thấy ngôn ngữ Sê-mít này
rất mạnh xem ra bất chấp tự do của con người. Ví dụ như, chính Thiên Chúa làm
cho "lòng vua Pha-ra-on thành ra chai cứng" (Xh 9,12). Công thức này
muốn diễn tả tất cả không ngoại trừ, hoàn toàn tất cả đều phụ thuộc vào Thiên
Chúa, nhưng đúng là con người phải chịu trách nhiệm về những sự khước từ của
mình, mà không phải là Thiên Chúa. Chính vì thế người ta tìm thấy công thức rõ
ràng là trái ngược: "Vua Pha-ra-on làm cho lòng mình ra chai cứng (Xh
8,11). Dĩ nhiên ở đây vấn đề không phải là Đức Giêsu cám ơn Cha Người về việc
truyền giảng thất bại và Người cũng không đổ cho Thiên Chúa sự thất bại ấy...
Nhưng với sức mạnh trong ngôn ngữ mà chúng ta không còn sử dụng nhưng đã được
điển hình hóa về mặt văn hóa, Người cám ơn Cha Người vì đám đông không học vấn
đã tiếp đón Lời trong khi những người trí thức, than ôi lại tha hồ bị kẹt cứng
trên sự chắc chắn của họ.. Chúng ta còn nhận thấy rằng đây không phải là một
thứ kết án trí tuệ. Nhưng Đức Giêsu thừa nhận rằng thông thường trí tuệ quý báu
của con người thực ra sẽ dẫn tới chỗ kiêu ngạo mù quáng vì tự phụ. Lý trí con
người là khả năng phi thường để con người hiểu biết những sự vật của thế giới
này và thiết lập những quy luật khoa học... nhưng lý trí bị giới hạn trong thế
giới, và không thể nhận ra Nước Thiên Chúa bởi chỉ ánh sáng duy lý. Thánh
Phaolô sẽ nói về đức tin như một thứ điên rồ": "Tôi đã không dùng lời
lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa"
(1Cr 2,1). "Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ, nhưng cái điên rồ
của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người" (1Cr 1,18-30).
Vâng, lạy Cha, vì đó
là điều đẹp ý Cha.
Để giải thích sự tiếp
nhận của những người bé mọn và nghèo khó, đối diện với sự khước từ của các
người thông thái và tự mãn, Đức Giêsu không phân tích khuynh hướng tâm lý và
đức hạnh của họ. Người lập tức cho rằng đặc quyền của- những kẻ bé mọn là
"lòng nhân từ của Thiên Chúa". Họ không tốt hơn những người khác
nhưng vì họ chịu thua thiệt, họ đặc biệt lôi kéo "lòng nhân hậu của Chúa
Cha. Đó là một tư tưởng bền bỉ của Đức Giêsu: bạn là kẻ tội lỗi; bạn bị coi
chẳng ra gì; bạn bị khinh bỉ bạn, bị đè bẹp... Cha của Đức Giêsu nhìn bạn với
một tình yêu thương đặc biệt.
Cha tôi đã giao phó
mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai
biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.
Một lần nữa, phải nhận
thức về lòng tự hào không chịu nổi của ông Giêsu người Na-da-rét. Người khẳng
định có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa và chính Người là một người nghèo
giữa những người nghèo. Vả lại, Người dám nói rằng không một ai biết Người.
Không một ai có thể thâm nhập vào căn tính sâu xa của Đức Giêsu trừ Chúa Cha!
Và, ngược lại Đức Giêsu thực sự cho rằng chỉ có Người biết được Thiên Chúa!
Trong những công thức
ấy, người ta nhận ra những tư tưởng thường được Thánh Gioan hòa điệu:
"Không ai đến Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Khi các Công đồng
của thế kỷ thứ IV và thứ V định nghĩa Đức Giêsu như “Thiên Chúa thật, và người
thật", khi các Công đồng ấy định nghĩa Ba Ngôi với sự bằng nhau về bản
tính của Chúa Cha, Chúa Con và. Chúa Thánh Thần, thì các Công đồng ấy chỉ nói
lại bằng những từ ngữ chính xác hơn điều mà các sách Tin Mừng và giáo lý tiên
khởi đều đã khẳng định. Một bản văn nhân bản văn này, trong số nhiều bản văn
khác, chứng tỏ rằng những giáo huấn về Chúa Giêsu đã đồng hóa "con người
này" với "Đức Chúa Giavê. Phải, những người Do Thái đã gán cho con
người Giêsu những câu nói chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa: "Không ai biết
Tôi ngoài Thiên Chúa; và không ai biết Thiên Chúa ngoài Tôi. Vả lại, giả thuyết
những người Do Thái "thần linh hóa" một người Do Thái quả là một điều
không có thật.
Trong các tôn giáo
khác của Đế quốc La Mã, có thể nghĩ đến những con người, ví dụ như những Hoàng
đế đã được thần linh hóa. Nhưng điều này không thể nghĩ ra được trong môi
trường Do Thái: họ thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất siêu việt không thể diễn
tả, mà người ta không bao giờ đám gọi tên! Kết hợp Đức Chúa Giavê với một con
người, dù người này là ai là một sự phạm thánh ghê tởm.
Để đi đến điều đó, cần
phải có những sự bó buộc mạnh mẽ trên bình diện các "sự kiện" và
những "lời" của Đức Giêsu; tác động đến những người đã là các chứng
nhân.
Phần chúng ta, sau
2000 năm, chúng ta chiêm niệm mầu nhiệm kỳ diệu ấy với nhiều sự đơn sơ và tôn
thờ? Con người mà người ta thấy ăn bánh và quả ô-liu là người nông dân bé mọn ở
Na-da-rét đã từng đốt lửa trên bờ hồ, là người mà người ta đã thấy lúc khóc và
lúc cười, lúc tức giận và lúc đói khát. Một con người mà ban đêm người ta nghe
thấy tiếng ngáy trong những lúc cắm trại ở giữa cảnh trời sao diễm ảo; người ta
đã nghe Người trong lúc cầu nguyện, đã gọi Thiên Chúa "'Abba?". Và,
với một vẻ bề ngoài tầm thường nhất, người khẳng định: "Không ai biết rõ
Chúa Cha, trừ người Con, và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho!". Mạc khải?
Thật vậy, người ta chỉ biết Thiên Chúa qua điều mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng
ta!
Mạc khải. Một cách hiểu biết
khác với sự nhận thức duy lý Thiên Chúa không được chinh phục sau một quá trình
suy luận thông thái. Thiên Chúa được tiếp đón trong một tấm lòng nghèo khó:
"Thầy sẽ chỉ cho con bí mật của Thầy nếu con yêu mến Thầy Điều đã bị giấu
đối với các bậc khôn ngoan và thông thái được mạc khải cho người bé mọn! Người
ta không đổ đầy một cái chén đã đầy rồi phải có một tấm lòng trống trải để
Thiên Chúa tìm được chỗ cho Người. Phải có một trí tuệ khiêm tốn để Thiên Chúa
bày tỏ Người ra. Lạy Chúa, xin tạo ra trong chúng con sự sẵn sàng để đón nhận
mạc khải.
Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh
em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi,.vì tôi có lòng hiền hậu và
khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và
gánh tôi nhẹ nhàng.
Đức Giêsu khẳng định
rằng "ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng
Tin Mừng có những yêu sách rất mạnh mẽ. Điều quan trọng là không nên giản lược
những yêu sách ấy. Nhưng Đức Giêsu tự giới thiệu như đầy sự hiền hậu và khiêm
nhường: Người là lòng nhân hậu của Thiên Chúa nhập thể. Lúc đó có thể nói sự
hoàn thành những yêu sách ấy xuất phát tự bản chất của hữu thể. Rõ ràng Người
đến đề nghị một cách sống mới cho những người không thể mạng gánh nặng của Luật
pháp; tức những người nghèo và những người tội lỗi.
Các ngôn sứ đã loan
báo rằng Thiên Chúa từ chối viết Luật trên các bảng đá, theo cách ở bên ngoài
của con người, nhưng Người sẽ viết Luật trên lòng người: đó là sự loan báo của
Tân ước (Gr 32,31-34). Chúng ta nhận thấy sự nhất quán của tư tưởng ấy. Luôn
luôn là vấn đề những người "nhỏ bé", hèn mọn. Đức Giêsu, chính là
Thiên Chúa cao cả, Con của Đức Chúa trời đất, đến chia sẻ sự đau khổ của những
người nghèo, để giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy. Người đề nghị làm nhẹ bớt
những gánh nặng của chúng ta. Phải luôn suy niệm thấu đáo hình ảnh này: người
nào mang gánh nặng nề; dừng lại một giây lát để đặt gánh xuống! Và đây là điều
Đức Giêsu đề nghị chúng ta: "Thầy sẽ cho anh em nghỉ ngơi bồi
dưỡng!".
20. Chú giải của Fiches
Dominicales
KINH TẠ ƠN CỦA ĐỨC GIÊSU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
+ Trong một bối cảnh
đối nghịch và thất bại hiển nhiên sau những chỉ dẫn làm nòng cốt cho sứ mạng
Kitô hữu (ở Chúa nhật 11, 12 và 13), ta chờ đợi được thấy 12 môn đệ lên đường
sứ mạng. Nhưng hôm nay, ta gặp lại Đức Giêsu giữa bộn bề hoạt động truyền giáo,
Matthêu viết: "Dạy bảo 12 môn đệ rồi, Đức Giêsu lên đường dạy dỗ và rao
giảng tại các thành thị trong nước (11,1). Trong hoạt động truyền giáo ấy,
Người phải trả lời những chất vấn của Gioan Tiền hô cũng như phải đương đầu với
sự cứng lòng, sự chống đối của các đối thủ và sự bất tín của các thành thị xứ
Galilê.
Đối diện với các sứ
giả của Gioan Tiền hô. Gioan Tiền hô nhận thấy thái độ của Đức Giêsu không phù
hợp với những lời rao giảng nghiêm khắc của ông, nên từ trong tù, ông sai người
đến hỏi Đức Giêsu: "Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi
một người khác?”.
Để trả lời họ, Đức
Giêsu đưa họ trở lại những lời tiên báo của Isaia: “Hãy về thuật lại cho Gioan
những gì các ngươi đã nghe và đã thấy: người mù nhìn thấy, kẻ què đi được kẻ
chết sống lại và người nghèo được nghe giảng Tin Mừng". Thời ứng nghiệm
lời tiên tri đã tới. Phải biết nhận định những dấu chỉ loan báo về Nước Trời.
Đức Giêsu nói với Gioan: "Phúc cho ai không vấp phạm vì Ta". Khi
"những sứ giả của Gioan đi rồi", Đức Giêsu tiếp tục liên hệ sứ mạng
của Gioan với sứ mạng của Ngài và tố cáo những ai không đón tiếp sứ mạng của
các Ngài. Vạch trần ý đồ xấu xa của các đối thủ, Đức Giêsu so sánh họ với đám
trẻ con hư đốn muốn chơi trò đám tang khi ta đề nghị chúng chơi trò đám cưới,
và đòi chơi trò đám cưới khi ta đề nghị chúng chơi trò đám tang. Vì thái độ bất
tín của miền Galilê quê hương Ngài dù họ đã thấy biết bao phép lạ Người làm sau
cùng Ngài đã phải thốt lên những lời đau đớn y hệt các tiên tri trong Cựu ước.
1. Kinh tạ ơn của Đức Giêsu.
Vậy mà Matthêu đã đặt
lời kinh nguyện lạ lùng của Đức Giêsu vào trong cái bối cảnh chống đối và thất
bại hiển nhiên của sứ vụ Galilê ấy. Lời kinh mà trong Phúc âm Luca 10,21-22, ta
gặp thấy trong sứ mạng của các môn đệ.
Một lời cầu nguyện
mang âm hưởng rất Do Thái, trong đó Đức Giêsu ngỏ lời với "Chúa trời
đất". Một lời cầu nguyện mà tiếp theo đó, Đức Giêsu, trong tương quan với
Đấng mà Ngài gọi là "Cha", đã tự nhận mình là "Con": một
danh hiệu bất ngờ qua đó hiển lộ mối liên hệ duy nhất nối kết các Ngài:
"Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự, không ai biết Con trừ ra Cha; cũng không ai
biết Cha, trừ ra Con và người mà Con muốn mạc khải cho”.
Một lời cầu nguyện còn
vang âm lời phán ra từ đám mây, khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan
"Đây là Con Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người”.
Bây giờ Đức Giêsu cầu
nguyện: "Điều Cha đã giấu những bậc khôn ngoan thông thái, Cha lại mạc
khải cho những kẻ bé nhỏ. Vâng, lạy Cha, Cha đã muốn như vậy vì lòng nhân lành
của Cha. Cha cũng dùng tình yêu thương ấy ấp ủ Đức Giêsu, Con rất yêu dấu, Tôi
tớ của Người, và những kẻ bé nhỏ sẽ nhận biết Cha trong cảnh nghèo hèn của họ. Một
kinh nguyện tạ ơn, một tiếng reo vui, một lời tuyên xưng đức tin, một "bài
ca tán tụng". Tại sao lại tạ ơn? Vào đúng lúc khó khăn này? Không phải vì
Ngài đã thất bại đối với những bậc khôn ngoan thông thái, những kẻ cho rằng họ
nắm giữ đặc quyền hiểu biết, nhưng vì sự đón nhận mà đám đông những "người
bé nhỏ", những kẻ khiêm nhường, những người có tâm hồn nghèo khó, dành cho
Người. Những người ấy đã nhận ra nơi Người mầu nhiệm Thiên Chúa Cứu Độ bí mật
tình yêu của Người đối với nhân loại. Họ đã nhận biết nơi Người Thiên Chúa tối
cao đã tỏ ra gần gũi, Thiên Chúa vì đại đã tỏ ra ngang hàng với những kẻ bé
nhỏ.
Cl Tassin ghi nhận:
"Lời kinh này phản ánh đúng sự lượng giá của Đức Giêsu về sứ mạng của
Người. Lời kinh cũng cho ta mẫu mực của mọi lời kinh tông đồ, lời kinh, biết
nhìn lại những thành công và những thất bại, để khám phá ra ý định của Thiên
Chúa với niềm hạnh phúc.
Trong lời nói và cử
chỉ của Đức Giêsu, những người bé nhỏ khám phá ra Thiên Chúa là một người Cha.
Họ hiểu rằng giữa Thiên Chúa và con người ấy có một sự hỗ tương toàn vẹn, rằng
Đức Giêsu muốn mạc khải Thiên Chúa và rằng, trong sứ mạng của Người, Thiên Chúa
tỏ mình ra trong một ngôi vị.
2. …và lời mời gọi trở nên môn đệ Người.
Đối với những người
được tỏ cho biết mối liên hệ duy nhất nối kết Người với Chúa Cha, Đức Giêsu kêu
gọi hãy trở nên môn đệ của Người. Để qua Người đi sâu vào sự hiểu biết trừu
tượng, nhưng trong một liên hệ sống động giữa các ngôi vị. "Gánh" mà
Người gọi ra ở đây có lẽ là gánh của thói duy lề luật tỉ mỉ. Người là Đấng đến
không phải để phá huỷ, nhưng"hoàn thành", Người "chống lại thói
tục chính yếu của tôn giáo thời ấy là áp đặt một kỷ luật khắt khe trên con
người mà không thông truyền cho họ niềm vui ơn cứu độ". Người đề nghị một
sự công chính mới. Một sự công chính đòi hỏi hơn nhưng cũng nhẹ nhàng hơn, vì
đó là sự gắn bó với cá nhân của Người, Đấng khai mở ra tình yêu của Chúa Cha.
Một sự công chính mà bản thân Người rất "nhân lành và khiêm nhường trong
lòng" đến hoàn tất trong những ai gắn bó với Lời Người.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một lời nguyện
không tách rời những câu Phúc Âm ở đoạn trước. (L. Monloubou,
Evangile de Matthieu, Salvator). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu được trích dẫn ở
đây không tách rời những câu Phúc âm ở đoạn trước. Vì quen chia cắt chương này,
ta hay coi thường mối liên hệ chặt chẽ nối kết Lời của Đức Giêsu với sự thất
bại khi Người rao giảng tại Galilê. Thất bại này giải thích tại sao Đức Giêsu
kết án những thành thị bất tín. Điểm lý thú của lời kinh nguyện của Đức Giêsu
là, sau khi cảm nhận sự thất bại trong chuyến đi vòng quanh Galilê, Đức Giêsu
"chúc tụng” Chúa Cha. Trong Cựu ước không thiếu gì những bản văn miêu tả
phản ứng hiếu chiến rất nhân loại của các ngôn sứ. Sau khi bị tổn thương vì gặp
thất bại, họ qui trách nhiệm cho Thiên Chúa về những thất bại đó. Bài tự thuật
của Giêrêmia tường thuật lại mối thất vọng nặng chất người - trừ Đức Giêsu ai
dám kết án một sự thất vọng như thế? của vị ngôn sứ bất hạnh, bị các thính giả
mà ngài kết án vây hãm tứ bề. Những câu nói của một vị ngôn sứ tuyệt vọng vì thất
bại, muốn nghi ngờ Thiên Chúa đã được Giêrêmia thuật lại (15,15-18 hoặc
15,19-21) có thể dùng trong bài đọc 1; những lời ấy cho thấy sự yếu đuối của
tín hữu, và của chính vị ngôn sứ đã muốn nghi ngờ Thiên Chúa, chúng cho thấy
sức mạnh vô song của Đức Giêsu, vì, thay vì phản loạn, nghi ngờ Ngài đã
"chúc tụng" Ngài nói "Vâng, lạy Cha, đó là ý định của Cha: Đức
Giêsu chúc tụng. chúc tụng phát xuất từ sự ngưỡng mộ. Ta chúc tụng vì ngưỡng mộ
một tác phẩm, một nhân vật có những dấu hiệu của sự hoàn hảo, toàn bích. Như
thế Đức Giêsu nghĩ rằng kết quả của chuyến rao giảng tại Galilê, tuy bề ngoài
có vẻ bi quan, vẫn có cái gì tích cực. Để thẩm định sự vật như thế, phải vượt
qua những lý do tự nhiên. Vì tiếng kêu thán phục thốt lên trong lời chúc tụng
không chỉ phát xuất do sự vật mà ta nhìn ngắm, ngưỡng mộ, tiếng kêu ấy phát
xuất từ việc đối chiếu với Thiên Chúa. Một... ngất ngây phát sinh khi ta thoáng
thấy Thiên Chúa; tình trạng đó là kết quả của một hành vi của Thiên Chúa, như
một tác phẩm thần linh. Vậy ta ngưỡng mộ Thiên Chúa hơn là tác phẩm của Người.
Và ta chúc tụng. Đức Giêsu chúc tụng Thiên Chúa vì, tuy không quên trách nhiệm
đối với những kẻ bất tín trong thất bại của Ngài (sự kết án những thành thị
minh chứng điều đó) Ngài đã nhận ra một mầu nhiệm thần linh; Ngài biết rằng
Thiên Chúa có mặt trong tấn kịch. Nó đã hầu như phá huỷ nỗ lực rao giảng. Phúc
âm của Ngài. Ngài ngưỡng mộ sự hiện diện này, công trình của Thiên Chúa này.
Chính Thiên Chúa đã che mắt những kẻ bất tín, cũng chính Thiên Chúa mạc khải cho
"những ai đơn sơ": vì tất cả những điều đó, Ngài phải được chúc tụng.
Ngài tỏ ra là một Thiên Chúa hiện diện còn hơn cả hiện diện: một Thiên Chúa
"là Cha" Đức Giêsu nói: "Lạy Cha, Con chúc tụng Cha".
2. Đức Giêsu, sự mạc
khải của Chúa Cha cho những kẻ bé nhỏ. (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s'est
approché, DDB).
Lời nguyện của Đức
Giêsu: "Lạy Cha là Chúa trời đất Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không
cho những người khôn ngoan thông thái biết, nhưng Cha đã mạc khải cho những
người hèn mọn...". Không có ý nói Thiên Chúa phân biệt đối xử; Đức Giêsu
không tuyên bố cửa Nước Trời vĩnh viễn khép chặt đối với một vài loại người.
Nhưng mỗi người chúng ta đều bị đe doạ vì thói tự mãn, kiêu căng về kiến thức,
về sự khôn ngoan phàm trần... Để đón nhận Thiên Chúa và ơn cứu độ, con người
phải diệt trừ thói tự mãn. Đó không phải là hạ mình. Ngược là đó là sự cao cả
của con người: năng lực của họ mở ra vô biên và do đó đạt đến viên mãn. Vì thế
Đức Giêsu có thể ca ngợi Chúa Cha đã ban cho con Người được đi vào mầu nhiệm
của Ngài: "Con chúc tụng Cha...vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé
mọn". Đó không phải là một lựa chọn cứng ngắc, nhưng là sự quan tâm yêu
thương của Ngài. "Vâng? lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”.
Điều mà Chúa Cha che
giấu những người khôn ngoan thông thái, nhưng mạc khải cho những kẻ bé: mọn, đó
là mầu nhiệm Thiên Chúa, đời sống thân mật của Thiên Chúa. Thiên Chúa Tình Yêu
tỏ mình ra trong mầu nhiệm đời sống của Ngài, mầu nhiệm sự thân mật của Ngài,
là Thiên Chúa Ba Ngôi: -"Tất cả đã được ban cho Ta từ Cha. Không ai biết
Con trừ ra Cha, cũng không ai biết Cha trừ ra con và những người mà Con muốn
mạc khải cho? Vì đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa, của tình yêu là sức sống Thiên
Chúa mà Ngài muốn ta chia sẻ, sự khôn ngoan thông thái loài phàm trần chúng ta
không tài nào hiểu được. Ta không thể phán đoán Thiên Chúa theo chuẩn mực nhân
loại. Ta không thể tiến vào mối thân mật thâm sâu với Thiên Chúa bằng những nỗ
lực hay bằng lý luận của loài người. Ta chỉ có thể mấp mé ở ngưỡng cửa nơi lý
trí còn có thể phiêu lưu, nơi lòng muốn có thể vươn tới nhưng không bao giờ đạt
được đối tượng. Các triết thuyết lý luận về Thiên Chúa, các nhà thần bí hướng
dẫn cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng sau cùng Thiên Chúa vẫn là "Đấng vượt
trên tất cả". Ta chỉ nhận biết Ngài nếu để Ngài dạy dỗ: Ta chỉ gặp được
ngài nếu để Ngài dẫn ta đi. "Không ai biết được Chúa Cha trừ ra Con và
những ai mà Con muốn mạc khải cho....Đức Giêsu là con đường duy nhất. Ngài là
Con Thiên Chúa làm người để nói lời Thiên Chúa bằng ngôn ngữ loài người và để
tỏ ra tình yêu Thiên Chúa trong cử chỉ của con người... Ngài đã trở nên anh em
của ta, để dẫn đưa ta về với Cha qua những nẻo đường quanh co của hiện diện
nhân loại. Mắt ta ngây ngất chiêm ngưỡng nơi Ngài một sự khôn ngoan và một tình
yêu đích thực. Tim ta bốc lửa vì lời Ngài trao ban cho ta bí mật của bụi gai
cháy đỏ. Ta chỉ biết được Chúa Cha và Chúa Con nhờ thờ lạy, chiêm ngắm trong
ngọn lửa của Thánh Thần.
21. Chú giải của Giáo
Hoàng Học Viện Đà Lạt
TIN MỪNG MẶC KHẢI CHO NGƯỜI HÈN MỌN
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Thuở ấy". Chi tiết xác định
này có một giá trị thần học hơn là thời gian; nó nối kết câu 25 với cc. 20-24:
dù quê hương của Chúa Giêsu (Capharnaum, c.23) có từ khước Người chăng nữa, thì
những kẻ bé mọn vẫn hiệp lòng với lương dân (Tyr, Siđon c.21) để đón tiếp
Người. Các thành, trung tâm của các trường giáo sĩ và của văn hóa tôn giáo đã
chẳng biết Đấng mà những kẻ "đơn hèn" nhận ra vậy.
“Con xin ngợi khen
Cha": Chúa Giêsu đội ơn hay xưng tụng Cha Người vì đã gặp thất bại
nơi những kẻ khôn ngoan thông thái; không phải Người ưa thích đám hèn dân hơn
hạng ưu tú vì tính khí hay là vì thiện cảm tự nhiên đâu; song Người nhận ra
rằng thất bại ấy, và sự thành công đi kèm theo, đều tương ứng với chính bản
chất của công cuộc Người thực hiện để phục vụ nhân loại là cứu kẻ nghèo, hạng
người bị giới quyền cao khinh bỏ.
“Lạy Cha": Ở đây, Matthêu dùng
hô cách (vocatif) patôr là hình thức đúng của tiếng kêu. Nhưng trong câu tiếp,
cũng tiếng kêu ấy của Chúa Giêsu (Lạy Cha!) lại được diễn tả bằng chủ cách
(nominatif) (ho patôr) là hình thức sai trong Hy ngữ. Việc chuyển từ hô cách
sang chủ cách cho thấy từ ngữ Aram Chúa Giêsu dùng hẳn là Abba, tiếng mà vào
thời Người, thường được sử dụng khi gọi (hô cách) cũng như khi nói về người cha
(Hy ngữ ho patôr). Điều này thánh Phaolô đã xác nhận lúc bảo Kitô hữu cầu khẩn
Thiên Chúa bằng mấy tiếng “Abba, ho patôr" (Rm 8,15 và Gl 4, 6). Thế mà,
chữ Abba là một tiếng kêu thân mật dành cho việc xưng hô trong gia đình. Không
bao giờ một người Do thái dám gọi Thiên Chúa bằng Abba tương đương với chữ ba
ơi trong việt ngữ, papa trong Pháp ngữ. Người ta chẳng tìm thấy một lời khẩn
cầu nào với Thiên Chúa bằng chữ Abba trong mọi kinh nguyện Do thái của 10 thế
kỷ đầu trước Chúa Kitô, cũng như trong các kinh nguyện phụng vụ hoặc kinh
nguyện riêng tư cả. Thành ra ngôn ngữ của Chúa Giêsu ở đây có một cái gì đó mới
mẻ, độc đáo, lạ lùng: Người dám nói với Thiên Chúa như một đứa bé nói với cha
nó cách đơn sơ, thân tình, không chút sợ hãi. Tiếng này mặc khải chính nền tảng
của mối thông hiệp giữa Chúa Giêsu với Thiên Chúa vậy.
“Chúa trời đất": Đây là nơi duy nhất
trong Tin Mừng mà chúng ta gặp tiếng xưng hô long trọng này. Công thức thật đặc
biệt quan trọng ở đây vì cho phép ta thực sự lượng giá được tầm mức và ý nghĩa
của những lời sắp nói.
"Đã che dấu
":
Cặp động từ "che dấu-mặc khải" nổi bật lên trên toàn bộ các chương
11-13 và là chìa khóa giúp hiểu được chúng. Không phải loài người, cũng chẳng
phải Chúa Giêsu, song chính Thiên Chúa là chủ từ của động từ ấy; câu 26 sẽ nhấn
mạnh điều đó; sự cứng lòng và niềm tin mà Chúa Giêsu gặp không phải là những
tai nạn, cũng chẳng phải là những kết quả tích cực hay tiêu cực, của các nguồn
lực riêng của Người đâu; chính quyền bính và ý muốn Thiên Chúa điều khiển tất
cả hoạt động của Người.
“Điều ấy": Không phải là những
phương diện riêng biệt đặc biệt cao sâu của sứ vụ Chúa Giêsu, song là ý nghĩa
tổng quát của toàn thể công trình mặc khải của Người. Các tiếng “Khôn
ngoan" và “thông thái" cùng chỉ hạng học thức, chuyên môn, có thẩm
quyền trong lãnh vực tôn giáo (x. Is 29, 14 và 1Cr 1, 19); trong lúc tiếng bé
mọn" chỉ những “người nghèo trong tinh thần” của Bát phúc (Tv 19, 8; 116,
6), chỉ đám cùng dân là những người "tội lỗi" mà Biệt phái bao giờ
cũng khinh bỉ; lý tưởng của những kẻ sau này ngày càng thoái hóa sự hiểu biết
có tính cách vật chất và thuần lý về Lề Luật các truyền thống giáo sĩ. Như vậy
ở đây Chúa Giêsu vừa đối lập với ngộ đạo kiểu quý phái của Qumrân vừa sung khắc
với các tôn giáo huyền bí của các nhóm người Hy lạp.
“Không ai biết được
Cha trừ ra Con": Đối lại với tri thức thuần lý của các giáo sĩ, Chúa Giêsu đưa
ra một tri thức diện hiện sinh, làm bằng sự thân mật và tình yêu. Ý chí, tình
yêu, cảm giác, nghĩa là tất cả mọi hình thức của trí tuệ mến yêu (inteuigence aimnte)
đều tham dự vào tri thức đó. Đàng khác, Kinh Thánh đã chẳng gọi cuộc gặp gỡ sâu
xa nhất giữa hai vợ chồng trong tình yêu là sự "hiểu biết" đó sao (St
17, 25...)? Ở đây biết và yêu chỉ là một chuyện. Đây cũng là nơi duy nhất trong
các trình thuật Nhất lãm phát biểu một cách rõ ràng và không chối cãi được mối
tử hệ thần linh của Đấng Mê-si-a.
"Hết thảy những
kẻ lao đao và vác nặng". Cũng một tiếng Hy lạp có nghĩa "gánh
nặng được dùng chỗ này và Mt 23, 4 nơi Chúa Giêsu quở trách Biệt phái đã đặt
những “gánh nặng nề" lên vai người khác. Như vậy ở đây Chúa Giêsu chẳng
nghe lời các thử thách và khó khăn của đời sống, sức nặng của tội lỗi v v nhưng
đến gánh nặng không thể nào chịu đựng của tinh thần vụ luật giáo sĩ. Điều này
được xác nhận trong các câu tiếp theo: "mang lấy ách" là một thành
ngữ thông thường các giáo sĩ dùng để chỉ ách của nước Thiên Chúa, của Lề luật,
của trời, của các huấn lệnh v.v... xem chú thích BJ). "Ta sẽ nâng đỡ các
con": Hy ngữ: anapausô - dịch sát chữ là: "Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại
sức".
"Hãy mang lấy ách
của Ta": Chúa Giêsu không đến để miễn cho con người mọi bó buộc luân
lý; Người thay thế các yêu sách Lề luật Do thái bằng những đòi hỏi của Người là
những đòi hỏi, như đã thấy trong Diễn từ trên núi, cũng có tính cách nghiêm
chỉnh, và còn triệt để hơn các đòi hỏi của luật Môisen. Chỉ có điều là vị Tôn
sư đề nghị ra chúng thì hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, khác xa với các
giáo sĩ. Và chẳng những Người ban cho môn đồ sức mạnh để mang ách đó trong vui
tươi song còn làm gương cho họ bằng cách sống điều mình đòi hỏi: "Lịnh
truyền của Người không nặng nề" (1Ga 5, 3) và "chỉ tóm lại nơi một
lời này: Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình ngươi" (Rm 13, 9).
"Ta hiền
lành": Nơi đây Mt dùng chữ praus (hiền lành) như ơ chân phúc thứ hai.
Chúa Giêsu là kiểu mẫu của môn đồ vậy.
“Ach Ta thì êm ái và
gánh Ta lại nhẹ nhàng": Điều này chẳng có nghĩa là Chúa Giêsu đòi
hỏi ít thua các giáo sĩ đâu. Người đòi hỏi nhiều hơn nhưng cách khác. Tình yêu
làm mọi gánh hoá ra nhẹ nhàng. "Nơi nào có tình yêu, nơi ấy chẳng có gian
khổ" thánh Augustin đã nói như thế.
KẾT LUẬN
Học theo đức Khôn
ngoan chân thật của Nước Trời là nên nghèo hèn với Chúa Giêsu. Cái thường gây
vấp phạm, là cách thức Chúa mặc khải chính mình Người: quyền này tỏ trong sự
yếu đuối!
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Giống hạng người
"khôn ngoan, thông thái" mà Chúa Giêsu nhắm đến là những kẻ dùng trí
tuệ riêng để xây cho mình một Thượng đế quan, một vũ trụ quan hoàn toàn đóng
kín, cùng nhất định không muốn thay đổi chúng để học thêm điều gì mới lạ. Họ
tưởng mình đã biết hết về Thiên Chúa, đã nắm trọn học thuyết đích thật về Ngài.
Nhưng người ta có bao giờ mà nắm được chân lý, chính Chân lý luôn nắm chúng ta,
và chỉ cần chúng ta để cho Ngài nắm lấy. Cơn cám dỗ ngàn đời của tâm trí con
người, khởi từ câu chuyện biểu tượng của Adam và Eva, bao giờ cũng vẫn là một:
Đó là tin rằng "mắt chúng ta sẽ mở ra" và "chúng ta sẽ nên giống
Thiên Chúa" bằng cách ăn trái cây hiểu biết, bằng cách vận dụng trí tuệ
của mình, thay vì chấp nhận rằng chính trong khi tự biến đi trong tình yêu
Thiên Chúa mà chúng ta trở nên giống Ngài nhờ ân sủng.
2. Đức tin chúng ta
đừng bao giờ biến thành một gánh nặng không thể vác nổi, một gánh nặng làm tróc
thịt trầy da. Nếu nó trở thành một gánh nặng, hãy tin chắc rằng nó không chính
thực đâu. Tình yêu chỉ biết mang lại tự do, ánh sáng và sự nâng đỡ cho những
tâm hồn gặp gỡ được nó.
3. Trong đoạn này,
Chúa Giêsu cho chúng ta một tấm gương cầu nguyện. Lời cầu nguyện ấy bắt đầu
bằng một lời tạ ơn nói lên lòng chấp nhận thánh ý Chúa Cha và biết ơn Ngài vì
đã cho gặp thử thách của thất bại. Nó tiếp tục bằng cách đi lên đến tận nguồn
của lịch sử cứu rỗi, tức là mầu nhiệm Thiên Chúa trong chính mình Ngài. Sau
cùng nó kết thúc bằng cách hứa ban cho ta ơn cứu rỗi ấy một cách cụ thể nếu
chúng ta chấp nhận trở nên khó nghèo.
4. Ngày nay những kẻ
"bé mọn" là ai? Phải chăng là một giai cấp xã hội? Có tương quan nào
giữa lời nhận xét của Chúa Giêsu cách đây 2000 năm và cái chúng ta có thể nhận
xét hôrn nay các tin hữu không? đâu là những kẻ khôn ngoan và thông thái của
thời đại này? Phải hiểu thông thái và khôn ngoan theo nghĩa trần tục hay nghĩa
tôn giáo? Ta có được đi đến chỗ bảo rằng các tín hữu tưởng mình biết mọi sự về
Thiên Chúa những kẻ khôn ngoan và thông thái hiện thời mà ơn cứu rỗi bị che dấu
đi không?
5. “Ách dịu dàng của
Chúa Giêsu chỉ các đòi hỏi của đức tin Kitô giáo, chỉ bổn phận Kitô hữu: giữ
mười giới răn, chống lại tính xấu thực hành luân lý Tin Mừng của Diễn từ trên
núi, tuân phục các quyết nghị của Giáo Hội, chấp nhận bệnh tật, già nua, cái
chết. Gánh này, thay vì đè nặng chúng ta, lại ban cho đời chúng ta một ý nghĩa.
Như đôi cần chim, nó mang chúng ta lên trong lúc chúng ta tưởng phải mang nó.
6. Chúng ta sẽ học ở
trường nào nếu không phải là trường của Chúa Giêsu Kitô? Xa Người, chúng ta chỉ
có thể học đòi theo những thúc đẩy mù quáng và mâu thuẫn của đam mê, những cái
nhìn thiển cận và tầm thường của tinh thần thế tục, học đòi … theo sự khôn
ngoan nhân loại, thứ khôn ngoan tự biết mình không thể ban một ý nghĩa cho cuộc
đời. Còn nơi trường Chúa Kitô, chúng ta học biết rằng mình là con cái được yêu
đang tiến về Chúa Cha, dưới sự dẫn dắt của Chúa Con hiền lành và khiêm nhượng
trong lòng.