SUY
NIỆM LỄ CHÚA BA NGÔI
MỤC LỤC
19. Thiên Chúa
là tình yêu Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
20. Chịu trách
nhiệm về . . . Achille Degeest
24. Mầu nhiệm
Thiên Chúa. . . Lm. Phêrô Lê văn Chính
25. Chúa Ba Ngôi
Sưu tầm
26. Dấu thánh
giá Sưu tầm
27. Thiên Chúa là Tình Yêu Dẫn lễ
27. Thiên Chúa là Tình Yêu Dẫn lễ
1. Chúa Ba Ngôi
Trong cuộc đời, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn hạn hẹp của
người không bao giờ có thể hiểu thấu. Để diễn tả những thực tại lạ lùng ấy, cha
ông chúng ta ngày xưa đã thách: Đố ai biết núi mấy
cây, biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng. Đố ai quét sạch lá rừng, để ta
khuyên gió, gió đừng rung cây. Đố ai biết đá mấy hòn, tua rua mấy chiếc, trăng
tròn mấy đêm. Đố ai tát bể Đông khô, tất sông Bồ Đề, nhổ mạ cấy trên.
Trong tất cả mọi thực tại tuyệt diệu khó hiểu của cuộc sống con
người, có lẽ tình yêu là khó hiểu nhất: Đố ai cắt nghĩa được tình yêu, có
nghĩa gì đâu một buổi chiều…Tình yêu của con người mà còn khó hiểu, thì
tình yêu của Thiên Chúa lại càng khó hiểu hơn gấp ngàn vạn lần. Bởi vì, Thiên
Chúa được gì khi tạo dựng nên chúng? Tại sao Chúa lại phải chịu chết để cứu
chuộc chúng ta? Chỉ có tình yêu đích thực vô biên và vô vị lợi mới trao ban sự
sống và tận hiến tất cả.
Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay cho chúng ta thấy được mầu nhiệm tình
yêu của Thiên Chúa. Và theo sự diễn tả của thánh Gioan, thì từ nguyên thủy đã
có tình yêu và tình yêu qui hướng về Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa chính là
tình yêu. Và tình yêu đã nhập thể, đến sống giữa chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã
tỏ lộ ra cho loài người, như là Con Thiên Chúa. Đồng thời, trong Ngài chúng ta
nhận Thiên Chúa là Cha và Chúa Thánh Thần như là người mẹ trao ban sự sống. Tuy
chỉ là một, nhưng Ngài lại có Ba Ngôi, đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần.
Chúa Cha là Đấng hướng dẫn toàn bộ cuộc sống con người và lịch
sử thế giới. Chính Ngài đã trao ban cho Chúa Con sức mạnh dẫn đưa con người và
thế giới trở về với Ngài, theo chương trình tình yêu nguyên thủy của thời tạo dựng.
Khi vâng lời Chúa Cha trong mọi sự, Chúa Con sửa chữa cho nhân
loại khỏi án phạt sự chết và khỏi một cuộc sống xa lìa Thiên Chúa, cũng như nổi
loạn chống lại thánh ý Ngài. Đồng thời, Chúa Cha còn hướng dẫn cuộc sống của
các Kitô hữu và của Giáo Hội, dân riêng mới của Ngài, qua sự hiện diện và hoạt
động của Chúa Thánh Thần, Đấng trợ giúp con người hiểu biết sự thật toàn vẹn. Nghĩa
là hiểu biết và chấp nhận chương trình yêu thương và cứu độ mà Thiên Chúa đã có
đối với con người và thế giới.
Tuy nhiên, ở đây cũng như trong thời tạo dựng, Thiên Chúa hoàn
toàn tôn trọng sự tự do của mỗi người chúng ta. Ngài để cho chúng ta được tự do
quyết định chấp nhận hay khước từ chương trình cứu độ đầy yêu thương ấy. Chính
vì thế, như một câu danh ngôn đã bảo: Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu. Con
người nắm giữ vận mạng trong chính lòng bàn tay của mình. Hay như lời thánh
Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Thiên Chúa không cần hỏi ý kiến
chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với
Ngài, bởi vì Ngài sẽ không thể cứu độ chúng ta, nếu như chính bản thân chúng ta
lại không muốn.
2. Mặt
trời ban sự sống
Một vị linh mục đang chờ máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, thì
một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và bắt đầu đề cập tới vấn đề tôn giáo, ông
nói:
- Tôi không thể nào chấp nhận được những điều tôi không hiểu,
chẳng hạn như vấn đề Chúa Ba Ngôi hay bất cứ vấn đề nào giống như thế. Chẳng ai
có thể cắt nghĩa cho tôi, nên tôi sẽ không bao giờ tin.
Chỉ vào một luồng ánh sáng chiếu qua khung cửa kính, vị linh mục
hỏi:
- Ông có tin mặt trời không nhỉ?
Ông ta trả lời:
- Dĩ nhiên là có.
Vị linh mục nói tiếp:
- Phải, ánh sáng ông thấy qua cửa sổ, xuất phát từ mặt trời cách
đây 150 triệu cây số. Sức nóng chúng ta cảm nhận được cũng xuất phát từ mặt
trời. Đối với Chúa Ba Ngôi, một phần nào cũng tương tự như thế. Mặt trời là
Chúa Cha. Từ mặt trời mà có ánh sáng, cũng như từ Chúa Cha mà có Chúa Con. Rồi
từ Chúa Cha, Chúa Con mà có Chúa Thánh Thần, cũng như từ mặt trời, từ ánh sáng
mà có sức nóng. Ông hiểu thế nào về mặt trời, ánh sáng và sức nóng. Thì một
phần nào tương tự như thế, ông hiểu về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Hôm nay chúng ta tụ hợp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba
Ngôi. Trước hết chúng ta phải chấp nhận, đó là một chân lý, một mầu nhiệm không
ai có thể hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là do Chúa Giêsu đã nói
với chúng ta, như lời Ngài đã phán trong Tin Mừng: “Các con hãy rửa tội cho họ
nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”.
Mặt trời là nguồn năng lượng vật chất thế nào thì Chúa Ba Ngôi
cũng là nguồn sống thiêng liêng cho chúng ta như vậy. Mặt trời chiếu toả ánh
sáng thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng soi sáng tâm hồn chúng ta như vậy. Mặt trời
đem đến sức nóng để sưởi ấm vạn vật thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng sẽ đem lại
sức nóng thiêng liêng để sưởi ấm, đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với
anh em đồng loại. Mặt trời tiêu diệt vi khuẩn chữa lành bệnh tật thế nào, thì
Chúa Ba Ngôi cũng sẽ khử trừ những thói hư tật xấu và loại trừ tội lỗi ra khỏi
tâm hồn và cuộc đời chúng ta như thế. Mặt trời đem lại cho chúng ta niềm vui
cho chúng ta thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc
vĩnh cửu như thế.
Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý: Chúa Ba Ngôi không phải là một
nguồn năng lượng vô hồn nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu
thương. Với Ngài, chúng ta có thể kêu cầu như chúng ta vốn đã thường làm, mỗi
khi chúng ta làm dấu thánh giá, đọc kinh Sáng Danh, hay như lát nữa đây, chúng
ta cùng nhau hát kinh Tin Kính. . .
Cùng với lời tuyên xưng chúng ta hãy sống gắn bó mật thiết với
các Ngài, để rồi các Ngài sẽ ra tay nâng đỡ phù trợ cho chúng ta trong mọi hoàn
cảnh của cuộc sống.
3. Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
THIÊN CHÚA TÌNH YÊU
Một bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa
thì chọn những nơi rừng núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây
nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn
quả là có con mắt nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra,
phát xuất từ quan niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì
thấy những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường
mong giải thoát chính mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã
từ giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là
đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương,
đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống
trần không chỉ là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người
nghèo, người tội lỗi để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói
đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.
Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không
yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng
thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.
Không phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực
ra Thiên Chúa đã yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì
Thiên Chúa là tình yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì không
thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng
còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh
cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên
Chúa là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo nên sự cho đi và
nhận lãnh ở nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cũng đạt đến mức tuyệt hảo. Thiên Chúa Cha
trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có, nên Chúa Con là hình ảnh hoàn
hảo của Chúa Cha, đến nỗi Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy
Cha Thầy, Thầy và Cha là một”. Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả
những gì mình nhận lãnh. Việc hiến dâng này ta thấy rõ trong thái độ khiêm tốn,
tự hạ, vâng phục vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vâng
lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có
tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Và
Người đã vì Chúa Cha mà hiến mạng sống.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy
không chỉ đóng kín nơi bản thân mình. Cũng không chỉ dừng lại ở một đối tượng
hạn hẹp. Nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc biển chân trời. Ba Ngôi
Thiên Chúa là một bầu trời tình yêu hạnh phúc. Nhưng tình yêu của Ba Ngôi Thiên
Chúa không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đến khắp vũ trụ, ấp
ủ cả thế giới, nâng niu cả sinh linh vạn vật. Ba Ngôi là một lò lửa tình yêu. Lò
lửa tinh luyện tình yêu càng ngày càng phong phú, là nguồn mạch của mọi tình
yêu trên đời.
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như thế không xa vời. Trái lại rất
gần gũi, thiết thân với đời sống chúng ta, là nguồn mạch sự sống của ta, là
khuôn mẫu ta phải noi theo, là cùng đích ta phải đạt tới.
Ta ra đời là do tình yêu của Thiên Chúa. Có thể nói nhân loại là
kết tinh của tình yêu Thiên Chúa. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã nói: “Ta
hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta”. Thiên Chúa là tình yêu. Con người
giống Thiên Chúa vì có trái tim biết yêu thương. Cây cỏ không có trái tim biết
yêu thương. Cầm thú không có khả năng yêu thương. Chỉ có con người mới có khả
năng yêu thương vì con người giống Thiên Chúa.
Nhưng tình yêu ở nơi con người chưa hoàn hảo vì còn chen lẫn
nhiều ích kỷ, hận thù, ghen ghét. Vì thế con người còn phải thanh luyện cho
tình yêu ngày càng thêm tinh tuyền, thêm quảng đại, thêm phong phú. Càng yêu
thương con người càng nên giống Thiên Chúa. Càng quảng đại con người càng gần
với trái tim Thiên Chúa. Càng quên mình con người càng tham dự vào sự sống
Thiên Chúa.
Được sinh ra trong tình yêu nên con người phải sống bằng tình
yêu. Như thế con người mới sống trọn định mệnh đời mình. Như thế con người mới
đạt được cùng đích đời mình là sống hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Thiên
Chúa Ba Ngôi.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn mạch tình yêu, là sự sống sung
mãn, là thiên đàng hạnh phúc, con đã được sinh ra trong tình yêu của Chúa. Xin
cho con biết sống tình yêu hy sinh theo gương Chúa Giêsu Kitô, để con được kết
hợp với Chúa, sống chan hoà hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Thiên Chúa là tình yêu. Bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên
Chúa thế nào?
2) Bạn có là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa chưa?
3) Bạn làm gì để sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?
4. Thiên Chúa yêu thế
gian
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Có một điều thường khiến các bạn trẻ băn khoăn, đó là làm sao
nhận ra một tình yêu chân thực, làm sao không bị chóa mắt bởi những ảo ảnh,
không bị lừa dối bởi những ngọt ngào, để rồi vỡ mộng.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta một số tiêu chuẩn, khi mời ta
nhìn vào tình yêu của Thiên Chúa.
Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao: "Thiên Chúa đã
yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một của Người. . . "
Không phải chỉ là trao một quà tặng, hay một cái gì ở ngoài
mình, nhưng là trao đi một điều thiết thân và quý báu.
Điều quý báu nhất của Thiên Chúa Cha là người Con Một của Ngài,
Đức Giêsu Kitô.
Khi trao cho chúng ta Đấng bị treo trên thập giá, Thiên Chúa đã
trao cho ta chính bản thân Ngài.
Ngài chấp nhận Con Ngài phải chết để nhân loại được sống.
Tình yêu chân thực chẳng hề biết giữ lại cho mình.
Tình yêu chân thực là tình yêu chia sẻ, tình yêu mong hạnh phúc
cho người mình yêu: ". . . để bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không
phải chết, nhưng được sống muôn đời. "
Sự sống muôn đời đã bắt đầu từ đời này.
Được sống là được đưa vào thế giới thần linh, được chia sẻ hạnh
phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thiên Chúa không muốn cho ai phải trầm luân. Nếu có ai hư mất
hay bị luận phạt thì không phải là vì Thiên Chúa độc ác, nhưng chỉ vì Ngài tôn
trọng tự do con người.
Con người có thể tin hay từ chối, mở ra hay khép lại trước sự
sống được trao ban.
Thánh Gioan đã dám định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu.
Một Tình Yêu chia sẻ chan hoà giữa Ba Ngôi: Cha trao tất cả cho
Con, Con dâng tất cả cho Cha. Thánh Thần là sự thông hiệp giữa Cha và Con.
Một Tình Yêu tràn ngập cả vũ trụ: Thiên Chúa là Tình Yêu sáng
tạo khi Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài; Ngài là Tình Yêu cứu độ khi
Ngài muốn thứ tha cho ta qua Đức Giêsu; Ngài là Tình Yêu thánh hóa khi Ngài
muốn ban cho ta sức sống mới trong Thánh Thần.
Chúng ta sẽ mãi mãi xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta xa lạ với
tình yêu.
"Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa" (1Ga 4,8). Ai
không ở lại trong tình yêu thì cũng không ở lại trong Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16).
Ước gì đời ta được tưới gội bởi Tình yêu, để mọi việc chúng ta
làm đều bắt nguồn từ Tình yêu và quy hướng về Tình yêu.
Ước gì chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa Tình yêu bằng một đời
sống hiến trao và chia sẻ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tình yêu là hai từ được sử dụng khắp nơi. Điều mà người ta
thường gọi là tình yêu, thực ra chỉ là sự chiếm đoạt của bản năng ích kỷ. Theo
bạn, thế nào là tình yêu thực sự đáng tin? Làm sao nhận ra tình yêu đó?
Có khi nào bạn cầu nguyện với từng Ngôi Cha, Con và Thánh Thần
không? Bạn biết gì về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con
biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con
biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng
tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi
người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng.
Xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim
khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho
tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
Xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng
chúng con và trong lòng từng con người bé nhỏ.
5. Huyền
nhiệm tình yêu – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa là tình yêu. Đó là chân lý, là lời khẳng định của
thánh Gioan Tông đồ được ghi lại trong sách Tin Mừng. Thực vậy, sách Tin mừng
được xem là lá thư mà Thiên Chúa đã tỏ tình với con người qua suốt dọc dài lịch
sử của ơn cứu độ. Tình yêu đó được tỏ bày qua từng biến cố của dòng đời để dần
dà với thời gian con người mới khám phá ra tình yêu của một vì Thiên Chúa nhưng
được thực hiện qua 3 cách thức khác nhau. Ngài đã tỏ mình là một vì Thiên Chúa
là Cha qua công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật và Ngài còn tiếp tục thi thố tình
thương đó qua sự quan phòng đầy kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa. Ngài đã tỏ
tình yêu của mình qua Ngôi Hai Thiên Chúa mang lấy thân phận con người để có
thể cùng chia sẻ những thăng trầm nổi trôi của cuộc sống con người. Ngôi Hai
Thiên Chúa đã ghi dấu tình yêu vĩnh cửu của mình qua cái chết thập tự giá để
nói lên một tình yêu vô bờ bến mà Ngài dành cho con người. Vì "không có
tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người dám thí mạng sống vì người mình
yêu". Với Ngôi Ba Thiên Chúa, tình yêu của Ngài luôn đầy tràn trong cuộc
đời các tín hữu để thánh hoá con người làm con cái Thiên Chúa và trở thành đền
thờ cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của
Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra
làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc
đời chúng ta "như con ngươi trong mắt Ngài". Chúa biết rõ từng cuộc
đời chúng ta như mục tử biết từng con chiên. Chúa vẫn ngàn đời tín trung với
tình yêu ban đầu, vì cho dầu "như người cha người mẹ có bỏ con cái, còn Ta
cũng không bao giờ bỏ các ngươi". Tình thương đó Chúa muốn mời gọi chúng
ta đón nhận với lòng tri ân và cũng biết trao lại tình yêu đó cho tha nhân. Vâng,
có lẽ, điều Chúa muốn nơi chúng ta chính là hãy hoạ lại chân dung tình yêu của
Chúa cho anh em. Vì con người là "hoạ ảnh của Chúa", nên con người
phải biết sống yêu thương. Yêu thương sẽ làm chúng ta giống Chúa hơn. Yêu
thương sẽ giúp chúng ta sống hoàn thiện con người mình hơn. Chính tình yêu phục
vụ tha nhân sẽ là cách chúng ta đáp đền tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho
chúng ta.
Người ta kể rằng: Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam
Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng
dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em.
Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên
tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm
thân bé bỏng của em.
Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng
miệng vẫn còn gào thét: "Phong hủi! Phong hủi!"
Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những
giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị
cứu tinh của mình:
- Tại sao ông lại lo lắng cho con?
Nhà truyền giáo đáp:
- Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em
sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ là người anh lớn của em bé.
Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
- Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?
Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:
- Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng
nhiều càng tốt.
Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối
cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút
cơm cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong
trại.
Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh
nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau rằng:
- "Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!"
Vâng, con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con phải
chăng cũng là sứ điệp mà lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta? Hãy sống cho tha
nhân. Hãy trao tặng cho nhau một nụ cười cảm thông. Một cái bắt tay thân mật. Một
nghĩa cử bác ái đầy tình người. Hãy sống cho anh em của mình một cách quảng đại.
Hãy là chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa một thế giới mà con người đang xa
dần nhau vì quyền lợi bản thân, vì bon chen và hưởng thụ. Hãy giới thiệu cho
nhân thế một tình yêu tinh ròng không bị hoen ố bởi những toan tính ích kỷ, tầm
thường. Hãy giới thiệu cho thế giới một tình yêu hy sinh đến quên cả chính mình
cho người mình yêu được hạnh phúc.
Nguyện xin Chúa Ba Ngôi là suối nguồn tình yêu dẫn chúng ta đi
sâu vào huyền nhiệm tình yêu của Chúa để chính chúng ta cũng biết thở ra hơi ấm
tình thương cho anh em của mình. Amen.
6. Thiên Chúa là nguồn
yêu thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Chúng ta có thể tuyên xưng với người Do thái giáo và Hồi giáo
rằng: Chúng tôi tin một Thiên Chúa duy nhất, Đấng Tạo Hóa, Chủ Tể vũ trụ. Nhưng
là người Kitô hữu, được Chúa Kitô soi sáng, chúng ta còn tin Thiên Chúa duy
nhất có Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm nền tảng của đức tin chúng ta.
Không ai biết được Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải cho. Trong
thời Cựu ước, loài người chỉ được biết có sự hiện hữu của một Thiên Chúa Giavê,
Ngài là Đấng hằng hữu, nhưng còn Thiên Chúa Ba Ngôi thì chính Chúa Giêsu mạc
khải cho trong thời Tân ước này. Theo mạc khải đó, chúng ta biết được có sự
hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Ngài là nguồn yêu
thương và bình an, là gương mẫu tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Chúng ta hân hạnh
được làm con Chúa Ba Ngôi để dám gọi Ngài là Cha: “Cha ơi”. Đáp lại vinh dự đó,
chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng và tuyên xưng danh Ngài cho đến tận cùng
thế giới.
Giáo hội muốn dành riêng một ngày Chúa nhật trong năm Phụng vụ
để đặc biệt tôn kính và tim hiểu mầu nhiệm lớn lao này. Chúng ta sẽ không bao
giờ thấu hiểu được Chúa Ba Ngôi như thánh Augustinô đã làm, nhưng chúng ta biết
Chúa Ba Ngôi là khuôn mẫu của sự yêu thương và hiệp nhất. Trong cuộc sống hằng
ngày Chúa Ba Ngôi vẫn ngự trị và hành động trong chúng ta, do đó, chúng ta phải
tôn kính Ngài, học đòi bắt chước Ngài mà sống yêu thương và phục vụ.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
1. Bài đọc 1: Xh 34, 4-6. 8-9.
Qua đoạn sách Xuất hành hôm nay, chúng ta biết, Thiên Chúa là
Đấng giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung. Chính Thiên
Chúa đã giải thoát Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, nhưng dân Chúa lại phản bội
Ngài, đi thờ con bò vàng thay Chúa. Tuy thế, qua lời cầu xin của ông Maisen,
Thiên Chúa đã tha thứ cho họ và vẫn trung thành thi hành giao ước đối với họ.
Ngay từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho thấy Ngài là
một vì Thiên Chúa của tình yêu. Trong thời Tân ước, việc mạc khải được sáng tỏ
hơn với việc Thiên Chúa sai Con Một của Ngài đến cứu độ trần gian là Đức Giêsu
Kitô.
2. Bài đọc 2: 2Cr 13,11-13.
Thánh Phaolô, dựa vào niềm tin: Thiên Chúa là nguồn tình yêu và
bình an, đã mời gọi các tín hữu Côrintô hãy vui lên vì mọi người đã được cứu
chuộc và được làm con Chúa để mọi người không còn sợ sệt mà dám gọi Thiên Chúa
là Cha:”Cha ơi”.
Vì trong cộng đoàn Côrintô có sự lộn xộn bất hoà với nhau, nên
thánh Phaolô đã viết thư cảnh cáo và khuyên bảo họ hãy sống đoàn kết thương yêu
nhau ; đồng thời cũng cầu chúc họ được tràn đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi.
3. Bài Tin mừng: Ga 3,16-18.
Bài Tin mừng hôm nay nhắc lại tư tưởng đã được đề cập trong bài
Cựu ước ở trên: Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng giầu lòng thương xót. Tình yêu
Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể trong Tân ước: Thiên Chúa tỏ ra là Thiên
Chúa yêu thương đã ban Người Con duy nhất cho trần gian, để ai tin vào Con của
Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Điều đó buộc mọi người phải
tin vào Con Thiên Chúa, ai không tin thì sẽ bị lên án.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ba Ngôi yêu thương và hiệp nhất.
1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đã là mầu nhiệm thì không thể hiểu thấu được, nhất là mầu nhiệâm
Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm lớn trong Đạo. Câu chuyện của thánh Augustinô
sẽ soi sáng thêm cho chúng ta về vấn đề này: Sau một đời ăn chơi trụy lạc và
chạy theo tà thuyết, Augustinô đãõ tìm về với Kitô giáo. Ngài được xem là điển
hình của một sự khao khát và tìm kiếm không ngừng. Điều đó được thể hiện qua
một giai thoại như sau:
Augustinô thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến
thức và nỗ lực tìm kiếm, con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một
hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa,
tình cờ Ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào
một lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sò# ấy múc nước biển đổ vào.
Nhưng dã tràng xe cát Biển đông, nó cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn
không bao giờ đầy. Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi
chuyện. Ngài hỏi nó đang làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự:
- Thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại
dương.
Thánh nhân lắc đầu bảo nó:
- Cháu không thể làm được chuyện đó đâu.
Đứa bé ngước lên và mỉm cười nói:
- Múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn
mầu nhiệm về Thiên Chúa.
Thánh Augustinô chợt hiểu được một chân lý: Thiên Chúa là một
mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được.
(D. Wahrheit, Tìm về cõi phúc, tr 68).
* Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu
nhiệm vĩ đại. Khi học giáo lý, ta đã học thuộc lòng về các mầu nhiệm, trong đó
có 3 mầu nhiệm lớn nhất trong Đạo:
. Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể.
. Mầâu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc.
. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
* Ta không thể biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi mà hoàn toàn do Chúa
Giêsu mạc khải cho trước khi Ngài về trời, khi Ngài phán:”Mọi quyền năng trên
trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân,
làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ
mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,18-19)
* Đây quả là một mầu nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn
tả được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng trong vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể
lấy được nhiều hình ảnh cụ thể dùng lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi: Khi
thuyết giảng tại công viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để cố gắng
giúp người ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi. Ông thường
nói:”Nước đang rơi đây thực là nuớc nhưng nó có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể
hơi, thể rắn và thể lỏng – nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng nước mưa
đang rơi đây”.
Dĩ nhiên tất cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả
thực tại, tuy nhiên chúng ta có thể thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không
phải có ba loại nước, mà chỉ có một loại nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng
khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế.
Một phương pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa
dạng của Ba Ngôi là ví dụ mà thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có lần trong lúc
cầu nguyện, Ngài bỗng nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một
hợp âm duy nhất.
Và cuối cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá
của loại xa trục thảo (3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.
Làm thế nào chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên
vào hành động cụ thể? Chúng ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong
cuộc sống riêng tư của chúng ta? Có phương pháp mà một số người cho là hữu ích
đó là cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một
ngày vừa chấm dứt. . .
(M. Link. Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 179-180)
2. Bài học rút ra từ Chúa Ba Ngôi.
Nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thì không bao giờ cùng. Các nhà
thần học có nghiên cứu, có tìm hiểu đến đâu, có tranh luận đến khô bọt mép đi
nữa thì cuối cùng cũng chỉ đi đến một kết luận chung: TÔI TIN”, vì đây là một
mầu nhiệm cao cả trong Đạo mà! Ngay trong thế giới tâm linh của con người cũng
còn có biết bao điều bí ẩn lớn lao mà không khám phá ra như người ta vẫn nói:
Dò sông dò biển dễ dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người. (Ca
dao)
Có ai dám tự phụ cho rằng mình hoàn toàn hiểu được chính mình
không? Khi hai người khác phái được kết hợp với nhau trong hôn nhân, tình vợ
chồng dù có thâm sâu đến đâu, cũng không bao giờ con người có thể hiểu được
tường tận người phối ngẫu của mình. Mãi mãi cho đến bên kia cõi chết, mỗi người
vẫn là một mầu nhiệm đối với nhau.
Nếu những bí ẩn của đời sống con người còn chưa hiểu hết được,
làm sao ta có thể hiểu tường tận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi? Ta chỉ có thể rút ra
được vài bài học từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi để áp dụng vào cuộc sống của ta.
a) Bài học về yêu thương.
Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định:”Thiên Chúa là Tình thương”
(1Ga 4,8). Thánh Grêgôriô Cả nói:”Để giữ vững cương vị thì tình thương phải lan
tràn sang người khác”. Nói khác đi, tình thương phải bắt nguồn nơi mình và phải
kết thúc nơi người khác, chẳng vậy nó chỉ còn là ích kỷ chứ không còn là tình
thương nữa.
Bài Tin mừng hôm nay bắt đầu bằng câu:”Thiên Chúa yêu thương thế
gian đến nỗi đã trao ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Con Một
Người sẽ không phải chết mà còn được sống đời đời “(Ga 3,16). Yếu tính của tình
thương là CHO ĐI và KẾT HỢP. Yêu tức là CHO tất cả. Thiên Chúa yêu thương loài
người và đã cho loài người tất cả: trời đất, núi non, sông biển cùng với muôn
vàn tạo vật. Thiên Chúa còn cho loài người sự sống – một thứ chỉ có Người mới
cho được. Thiên Chúa cho loài người một linh hồn – một thứ làm cho loài người
nên giống Thiên Chúa (Rm 8,17).
Thiên Chúa đã ban cho loài người tất cả rồi. Còn một điều cao
qúi nhất mà Thiên Chúa cũng ban, đó là ban chính Con Một Người:”Thiên Chúa đã
yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người cho thế gian”.
Chúng ta biết do đức tin: Thiên Chúa là Đấng duy nhất nghĩa là
chỉ có một bản thể, trong bản thể ấy lại có Ba Ngôi – Ba Ngôi đúc lại thành một
Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa yêu thương thế gian. . . cho nên đã phó Con Một
Người cho thế gian, nghĩa là đã ban trót mình cho thế gian. Không những ban
Chúa Con là ngôi thứ Hai mà là ban chính mình, trong đó gồm cả bản tính Thiên
Chúa ở trong Ba Ngôi, cho nên ban Con Một Người tức là đã ban tất cả Thiên Chúa
– tất cả mình – và chính mình cho thế gian. Và như vậy là Thiên Chúa đã THƯƠNG
thế gian, và đã giữ đúng nghĩa chữ THƯƠNG là cho TẤT CẢ.
(Lm Nguyễn duy Tôn, Lời Chúa, năm A, t II, tr 9)
Truyện: Tình yêu hiến thân.
Ngày 20. 06. 1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì
chứng bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang
tuyến, nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất
phóng xạ, nên chị từ chối, thà chết còn hơn để cho bác sĩ chữa trị ung thư bằng
quang tuyến.
Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu
trai mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng:”Vào mấy ngày cuối
cùng của cuộc đời, chị Brown biết mình bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin
tưởng thế nào chị cũng thành công và sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng
xạ”.
Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của
tình mẫu tử, dám hy sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt”.
b) Bài học về Hiệp nhất.
Theo Tân ước, chúng ta thấy có một trường hợp hy hữu mà Ba Ngôi
Thiên Chúa cùng hiện diện và cùng hoạt động. Đó là khi Chúa Giêsu xin ông Gioan
làm phép rửa cho mình: lúc Ngài ở dưới sông lên thì trời tự nhiên mở ra, và từ
trên không trung có tiếng phán ra rằng:”Đây là Con Ta yêu dấu”. Cùng một trật
đó, thấy hiện đến và đỗ trên đầu Chúa Con một chim bồ câu. Đó là lần thứ nhất
từ khi có lịch sử loài người, Ba Ngôi hiện diện và hành động trong một lúc:
Trước hết là Ngôi Con chịu phép rửa, rồi Ngôi Cha từ trời phán ra, và sau hết
Ngôi Thánh Thần dưới hình chim bồ câu hiện đến.
Về niềm tin vào Chúa Ba Ngôi, Hội thánh đã tóm tắt lại trong
kinh Tin kính của thánh Athanasiô đại khái như sau: Có một Đức Chúa Trời mà
Người có Ba Ngôi: Ngôi nhất khác , Ngôi hai khác, Ngôi ba khác. . . Đức Chuá
Cha là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Thánh Thần là Đức
Chúa Trời, nhưng là một Đức Chúa Trời, chứ không phải là ba Đức Chúa Trời. . . Đức
Chúa Cha phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời ; Đức Chúa Con phép tắc vô
cùng và có từ trước đời đời ; Đức Chúa Thánh Thần phép tắc vô cùng và có từ
trước đời đời. . . Không có Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém, Ba Ngôi đều bằng nhau,
như nhau về tất cả mọi phương diện. . . Đức Chúa Cha không bởi ai sinh ra, Đức
Chúa Con bởi Đức Chúa Cha sinh ra. Đức Chúa Thánh Thần bởi Ngôi Cha và Ngôi Con
mà ra.
Đó là tất cả những điều về Chúa Ba Ngôi do Chúa Giêsu dạy, các
tông đồ trối lại và các thánh Giáo phụ để lại cho chúng ta.
Trong các câu mở đầu của kinh cầu, Hội thánh luôn xưng hô và ca
tụng Ba Ngôi Thiên Chúa mà trong kinh cầu chữ (bằng chữ Hán của ông Cử Thiện ở
Bùi chu) được giáo dân đọc trong các ngày giỗ, được dịch là:”Tam vị nhất thể
Thiên Chúa giả”:
Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời, thương xót chúng con. Câu dịch rất vắn gọn
và đúng ý nghĩa: Ba Ngôi vị chỉ có một bản tính Thiên Chúa và là Thiên Chúa
thật.
Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi cùng hoạt động trong Hội thánh và
nơi từng người nói lên sự hiệp nhất bền chặt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là
một mô hình tuyệt vời về sự hiệp nhất mà Chúa ban cho ta để ta cũng phải củng
cố sự hiệp nhất trong Hội thánh và trong cộng đoàn chúng ta. Sự hiệp nhất sẽ
đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.
Truyện: Bài học từ loài ngỗng.
Vào mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương Nam để tránh
đông theo hình chữ V , bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ
đó. Mỗi khi một con ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con
ngỗng bay ngay sau nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được
71% sức lực so với khi chúng bay từng con một .
Mỗi khi một con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh
chóng cảm thấy sức trì kéo và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh
chóng trở lại đàn để bay theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của
sức mạnh từ bầy.
Khi con ngỗng đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh
và một con ngỗng khác sẽ dẫn đầu.
Tiếng kêu của bầy ngỗng từ đàng sau sẽ động viên những con đi đầu
giữ được tốc độ của chúng.
Cuối cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống,
hai con ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo
vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là
chết, và khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam
(Lấy từ internet theo Thùy Trang forward)
c) Một vài thực hành.
* Kinh Sáng danh: Khi đọc kinh Nhật tụng, mỗi khi
đọc kinh Sáng Danh , ta hãy tỏ lòng cung kính, cúi đầu, để ca tụng và tôn vinh
Chúa Ba Ngôi trong đời sống ta. Mỗi chục kinh Mân côi, chúng ta cũng đọc một
kinh Sáng danh và còn nhiều dịp khác chúng ta có thể đọc được kinh đó.
* Dấu Thánh giá: một trong những kinh nguyện mà
người công giáo chúng ta học, là dấu Thánh giá, thật đơn sơ và tốt đẹp. Chúng
ta đưa bàn tay phải lên trán, lên ngực, vai trái và vai phải khi chúng ta cầu
nguyện:”Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” . Hành động thánh đó nhắc nhở
chúng ta rằng: có Chúa Ba Ngôi trong một Thiên Chúa, và Ngôi Hai đã chết trên
thập gíá vì tất cả chúng ta.
Lạy Cha là Thiên Chúa của con, bây giờ con mới hiểu sâu sắc câu
nĩi của Đức Giê-su: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của
Ngài cho họ". Thì ra sự cơng bằng vơ biên của Cha khơng cho phép Cha làm
một cái gì đơn giản hơn để cứu chuộc nhân loại. Và bây giờ con mới hiểu được
tình Cha yêu thương nhân loại, trong đĩ cĩ con, như thế nào! Xin cho con biết
sống xứng đáng với tình yêu ấy! Cho con biết đáp lại tình yêu vơ biên ấy bằng
trọn tình yêu của con. Đồng thời cũng cho chúng con được biết thể hiện tình yêu
ấy trong cuộc sống hằng ngày bằng cách yêu thương, phục vụ mọi người và hiệp
nhất với nhau để xây dựng Hội thánh.
Truyện: Tình yêu của Thiên Chúa
Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một
người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công
lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch
cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên
Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo: - Tôi không hiểu ông nói gì.
Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là
gì cả.
Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện
với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài
cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự
thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa
bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành
tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp
đỡ bà.
Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc
động đến rướm nước mắt: - Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương
là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của
Thiên Chúa.
7. Con búp bê và biển
cả
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong quyển sách tựa đề: “Sức thu hút của Thiên Chúa”, tác giả
người Italia, ông A-léc-xan-drô Phong-xa-tô đã kể lại câu chuyện vui sau đây về
con búp bê bằng muối:
Muốn tìm hiểu thế nào là biển cả để thỏa mãn tính tò mò của
mình, con búp bê một mình tiến ra bờ biển và hỏi:
- “Biển cả ơi, bản chất của biển cả là như thế nào?”
Và biển cả đã trả lời:
- “Biển cả là biển cả. Nếu ngươi muốn biết ta là như thế nào thì
hãy xuống đây, hãy để cho toàn thân ngươi thấm nhập vào biển cả”.
Con búp bê bằng muối do dự. Nhưng rồi vì tính tò mò thúc đẩy, nó
tiến gần ra mặt nước rồi đưa hai chân thấm vào nước biển. Trong nháy mắt sóng
biển đánh mạnh vào đôi chân bằng muối của nó làm cho đôi chân tan thành nước
biển. Con búp bê kinh hãi lùi lại, nhưng đôi chân đã mất. Tiếng biển cả dịu
dàng mời gọi:
- “Này con búp bê nhỏ kia ơi, biển cả là biển cả. Ngươi muốn
biết biển cả như thế nào thì đừng sợ. Hãy tiến vào đây với ta. Ta sẽ bảo vệ
ngươi. Ngươi sẽ được hòa nhịp với ta và hiểu ta như thế nào. Hãy can đảm lên!
Nếu bỏ cuộc nửa chừng thì không bao giờ ngươi sẽ hiểu biển cả như thế nào đâu,
và phải sống những năm tháng còn lại với đôi chân đã mất”.
Tính tò mò thúc đẩy, con búp bê ngâm mình xuống biển. Chỉ một
lát sau con búp bê bằng muối đã hòa tan trong nước biển và hiểu được thế nào là
biển cả.
Anh chị em thân mến, giữa con búp bê bằng muối và biển cả có một
căn bản giống nhau. Cũng thế, giữa con người và Thiên Chúa cũng có một sự giống
nhau. Con người đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Tâm hồn
con người hướng về Thiên Chúa, muốn hiểu biết Thiên Chúa, muốn được kết hợp với
Ngài ngày càng khăng khít hơn, giống như con búp bê bằng muối kia muốn hiểu
biển cả là thế nào.
Như con búp bê được biển cả mời gọi dìm mình vào trong lòng biển
cho mình hòa tan trong biển để hiểu được biển cả, thì mỗi người chúng ta cũng
được mời gọi dìm mình vào trong Thiên Chúa. Cần để cho cái tôi của mình được hòa
tan đi, biến mất đi trong Thiên Chúa để có thể hiểu biết Thiên Chúa, sống kết
hợp với Ngài. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Lý trí loài người khó
mà hiểu biết cho tường tận được. Chúng ta không hiểu biết Thiên Chúa bằng lý
trí cho bằng tình yêu. Thật vậy, chỉ khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng
ta mới hiểu và biết Chúa. Chỉ có sự hiểu biết như vậy mới làm cho ta thỏa lòng
thỏa trí. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu
nhiệm hiệp thông và tình yêu.
Thiên Chúa là Tình Yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu
như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng.
Nhưng Ngài là 3: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu
thương hiến tặng sự sống, hoàn toàn tương quan với nhau, hiệp nhất với nhau:
Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu
và sự sống này giữa Cha và Con là Chúa Thánh Thần.
Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi mà
còn lan tỏa ra bên ngoài, trên khắp vũ trụ: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian
đến nỗi đã trao ban cho thế gian quà tặng quý giá nhất của người Con Chí Ái của
Ngài, nghĩa là chính sự sống của Ngài. Rồi đến lượt Người Con ấy cũng trao ban
Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Chính nơi Người Con
ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu mà chúng
ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu và thế nào là sống như con người được
tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa: “Ai không yêu thương anh em là không
biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh
em như Ngài đã yêu thương, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Thưa anh chị em, với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa
muốn vạch ra cho chúng ta con đường của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta chỉ
có thể yêu thương và hiệp nhất với nhau khi mỗi người thực sự phải là mình, và
chấp nhận đồng hành gắn bó với tha nhân, coi tha nhân là thành phần của chính
hiện hữu của mình, đồng thời ý thức rằng mình chỉ có thể sống nhờ tha nhân, sống
với tha nhân và sống cho tha nhân; bởi vì tự chính trong nguyên lý, sự sống
không phải là một thực tại đơn độc, khép kín, mà là chia sẻ, hiệp thông: sự
sống thần linh của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Cái độc đáo mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi muốn nói lên đó là
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự khác biệt. Ngài yêu thích sự khác
biệt. Ngài tạo ra sự khác biệt và Ngài bao hàm chính sự khác biệt đó trong bản
tính của Ngài. Nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa của sự hiệp nhất. Ngài hiệp nhất
những gì khác biệt. Phải có cái khác biệt thì mới có thể nói tới hiệp nhất. Phải
có Ba Ngôi mới có thể hiệp nhất thành một Thiên Chúa. chỉ khi nào chúng ta chấp
nhận và tôn trọng cái khác biệt: khác biệt về hiện hữu, về chủng tộc, văn hóa,
tôn giáo, địa vị, phái tính, tuổi tác v. v… và sống với những khác biệt đó,
hiệp nhất những cái khác biệt đó. Chỉ khi đó, chúng ta mới đi đúng con đường mà
ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi soi dẫn chúng ta. Sự hiệp nhất ấy không làm
cho chúng ta phong phú hơn và sống đúng bản chất là cộng đoàn của Thiên Chúa
yêu thương, là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, trong Thánh lễ hôm nay, cũng như trong các
Thánh lễ, chúng ta dâng lên Chúa Cha của lễ cuộc đời chúng ta, nhờ Đức Kitô,
cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, để chúc
tụng vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi muôn đời.
8. Chúc tụng
Thiên Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
"Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa
đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta". Đó là lời mở đầu của thánh lễ mừng
kính Thiên Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một
Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn
vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô. Nhưng
cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng
không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải
cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly
vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và
về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các
tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến
chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: "Ta và Cha Ta, chúng
ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong
người đó". Và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong
thánh lễ kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu
nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về
Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy
có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả. Sự
việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người
hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì
chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ
nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. "Thầy
còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội
được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ
đưa các con vào trọn cả trong sự thật. "
Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa,
cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu
nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không
bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày, chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được
hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng
trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa và
trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em chung quanh như chính
Thiên Chúa muốn, càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống
cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa, thì chúng ta càng có tâm hồn quảng
đại, mở rộng đón nhận anh chị em chung quanh và mời gọi họ trong mọi hoàn cảnh
cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không sự chứng
minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu
Thánh Giá chúng ta mang lấy trên thân mình hàng ngày trước mỗi công việc quan
trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để
sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi
vĩnh phúc mai sau.
9. Trao ban tất
cả vì yêu thương – Lm. Trần Ngà.
Kinh thánh (St 22, 1-18) cho biết: Sau nhiều tháng năm chờ đợi
mỏi mòn, mãi cho đến trăm tuổi, Cụ Áp-ra-ham mới được diễm phúc sinh đứa con
nối dõi tông đường. I-xa-ác chào đời đem lại niềm vui chan hoà cho Cụ Áp-ra-ham.
I-xa-ác là lẽ sống, là cây gậy chống đỡ tuổi già, là tương lai cho giống nòi và
là tất cả của Cụ già trăm tuổi.
Thế mà Thiên Chúa truyền cho Cụ phải sát tế đứa con yêu để tế lễ
cho Ngài.
Trời đất như quay cuồng sụp đổ khi Cụ Áp-ra-ham nghe lệnh truyền
của Thiên Chúa.
Phải ở trong hoàn cảnh của Cụ già trăm tuổi như Áp-ra-ham mới
cảm nhận thấm thía nỗi đau thương và mất mát vô cùng lớn lao của một người cha
phải sát tế đứa con một rất đỗi yêu quý của mình. Nếu không vì tình thương lớn
lao đối với Thiên Chúa, Cụ Áp-ra-ham không thể nào thực hiện được sự hiến dâng
đau lòng đó.
Cụ Áp-ra-ham sẵn sàng hi sinh tất cả vì Thiên Chúa là Đấng mà Cụ
thần phục và mến yêu.
Nhưng Thiên Chúa chỉ thử lòng Cụ Áp-ra-ham thôi. Ngài không nỡ
để cho một người cha phải gánh chịu nỗi đau thương lớn lao đến thế.
Trích đoạn Tin Mừng trong ngày lễ hôm nay cũng đề cập đến một
người Cha khác đã thực hiện một sự trao ban triệu lần cao cả hơn.
Vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm, vì không muốn cho muôn
người phải lâm vào cảnh đau khổ trầm luân vì tội lỗi ngút ngàn của họ, Thiên
Chúa Cha đã trao ban Con Một vô cùng yêu quý của Ngài, để Con của Ngài chết
thay cho nhân loại, để cho những ai tin vào Con Ngài thì được cứu sống và được
sống muôn đời:
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên
Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để
thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ". (Gioan 3, 16-17)
Xưa kia, Thiên Chúa không nỡ để cho I-xa-ác phải chết dưới lưỡi
dao run rẩy của Cụ Áp-ra-ham, không để cho thân xác của I-xa-ác phải chịu thiêu
đốt trên bàn thờ để làm hy lễ cho Ngài, nhưng đã đến một thời, Thiên Chúa Cha
lại để cho Con Một Ngài, là Ngôi Hai Thiên Chúa, phải chịu đóng đinh, chịu quằn
quại đau thương và chịu chết trên thập giá để đền cho hết tội lỗi chúng ta và
ban lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, dân
đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang hay con chó trung thành liều chết
để cứu mạng chủ cũng còn là điều dễ hiểu. Đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa
Tể đất trời lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt
quá trí tưởng tượng con người.
"Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến
mạng vì bạn hữu mình" (Gioan 15, 13) và không có tình yêu nào sánh ví được
với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
* * *
Khi được người khác biếu tặng một món quà, ai trong chúng ta
cũng đều nhớ ơn ân nhân và tìm cách đền đáp lại bằng món quà tương xứng.
Khi được Chúa Trời cao cả ban tặng chính Con Một Ngài để cứu
mạng cho chúng ta, khi được Chúa Giê-su hiến thân chịu chết để cứu ta khỏi chết
muôn đời, có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc đền đáp công ơn cao dày đó?
Để đền đáp phần nào tình thương trời bể của Thiên Chúa Cha, Đấng
đã trao ban Con Một mình cho nhân loại, để đền đáp sinh mạng của Chúa Giê-su đã
trao hiến cho bạn và cho tôi, chúng ta hãy dâng cho Ngài một hiến lễ tương tự,
dù vạn lần nhỏ bé hơn. Đó là "hiến dâng thân mình chúng ta làm của lễ sống
động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rôma 12, 1). Đó cũng là nguyện
ước của chân phước An-rê Phú Yên hôm xưa: "đem cuộc sống báo đền cuộc
sống; lấy tình yêu đáp trả tình yêu".
10. Lễ
Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Tại vùng Texas Hoa Kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của
anh Biên, chủ một nông trại nuôi bò to lớn. Người ta gọi anh bằng một tên riêng
đầy lòng kính trọng là ông Biên quảng đại, đến nỗi nhiều người không còn nhớ
tên thật của anh là gì, mà chỉ biết tên anh là ông Biên quảng đại. Dù là người
giàu có nhất vùng nhưng nếp sống của ông lại rất gần gũi với mọi người, từ
người giúp việc cho tới những người láng giềng chung quanh.
Ông có một người con duy nhất, nhưng rủi thay trong một chuyến
đi nghỉ cuối tuần, ông bị một tai nạn xe hơi làm cho vợ và người con duy nhất
bị chết. Sau những ngày u buồn, một hôm đi dạo chơi gần nông trại, ông chợt gặp
một đứa trẻ rách rưới và có vẻ đang bơ vơ. Ông gọi lại và hỏi thăm về gia đình,
đứa bé không trả lời chi được về những câu hỏi của ông. Bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ.
Mới sinh ra đã bị cha mẹ bỏ rơi, nên từ đó em bé nay sống với người này, mai
sống với người khác, lang thang đây đó. Em chỉ còn biết một điều là tên gọi của
em: ai ai cũng gọi em là Jimmi, nên em biết tên mình là Jimmi. Ông Biên liền
nhận đứa trẻ về nhà làm con nuôi và làm chúc thư, nếu ông qua đời thì tài sản
ông sẽ dành cho Jimmi, người con nuôi mới nhận được.
Nhiều người bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại sao ông làm như vậy?
Ông Biên trả lời: với một lý do duy nhất, là Jimmi giống hệt đứa
con của tôi đã chết. Tôi thương nó vì nó giống con tôi, tôi nhìn thấy con tôi
nơi nó.
Anh chị em thân mến,
"Tôi thương nó, vì nó giống hệt con tôi, tôi nhìn thấy con
tôi nơi nó". Câu nói này của ông Biên gợi lại cho chúng ta mối tương quan
giữa tình thương của Thiên Chúa Cha với mỗi người chúng ta là đồ đệ của Chúa
Giêsu Kitô. Thiên Chúa Cha đã yêu thương mỗi người, vì chúng ta đã lãnh nhận ơn
cứu rỗi, được tái tạo giống hệt như Chúa Kitô, Con Một Ngài. Thiên Chúa Cha yêu
chúng ta, vì Ngài thấy Con Một Ngài nơi mỗi người chúng ta.
Mừng Lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta không mừng với lý trí muốn hiểu
cho thấu đáo mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, một
Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi là Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần; nhưng
hãy mừng với một con tim tin yêu chân thành, vì đã cảm nghiệm được Thiên Chúa
Ba Ngôi nơi chính mình.
Tình thương của Thiên Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa đã an bài vũ trụ,
nâng đỡ cuộc sống con người và ban cho chúng ta sự sống. Tình thương của Chúa
Giêsu Kitô, Đấng mặc lấy thân phận con người đến cứu chuộc chúng ta, để làm
sáng tỏ lại hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta, giúp chúng ta trở về nhà Cha an
toàn. Tình thương của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ban ơn soi sáng, nâng đỡ, an
ủi, giúp chúng ta sống trọn kiếp sống trần gian.
Mừng Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta được nhắc nhớ rằng, Thiên
Chúa Cha, Con, Thánh Thần đã yêu chúng ta và chúng ta được mời gọi để đáp lại
tình yêu thương ấy bằng một đời sống trổ sinh nhiều hoa trái tốt, xứng đáng con
yêu quí của Thiên Chúa: "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở
trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5,48).
Chúa Giêsu đã mạc khải cho Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương
thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho thế gian, để tất cả những ai tin vào
Người thì khỏi phải chết. Quả vậy, Thiên Chúa đã đến thế gian không phải để lên
án thế gian, nhưng nhờ Con của Ngài mà thế gian được cứu độ, ai tin sẽ được
cứu; ai không tin thì đã bị lên án rồi" (Jn 3,16-18).
Lạy Chúa, xin ban thêm Đức Tin cho con để chúng con mỗi ngày
được trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.
11. Thiên Chúa Ba Ngôi:
tình yêu tuyệt hảo
“Biết làm sao định nghĩa được tình yêu?”. Có
lẽ đây không chỉ là câu hát đầy thi vị trong lãnh vực tình yêu, mà còn là khắc
khoải của từng người trong chúng ta. Thật thế, ai trong chúng ta cũng yêu và
muốn được yêu. Tuy nhiên, không gì khiến chúng ta phải lúng túng cho bằng định
nghĩa thế nào là tình yêu. Tình yêu quả thật là một mầu nhiệm. Tại sao chỉ có
con người mới biết yêu? Có lẽ chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi này bằng
chính mầu nhiệm của Thiên Chúa mà thôi.
Vào cuối đời mình, khi suy niệm về cuộc sống, cái chết và sự
phục sinh của Chúa Giêsu, thánh Gioan Tông Đồ đã phát biểu như sau: “Thiên Chúa
là Tình Yêu”. Đây quả là công thức độc nhất vô nhị của Kitô giáo; trước và sau
Kitô giáo, có lẽ không một tôn giáo hay một triết thuyết nào đã gọi Thiên Chúa
là Tình Yêu. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho
thế gian”. Gọi Thiên Chúa là Tình Yêu, bởi vì Thiên Chúa vừa tỏ mình cho chúng
ta một cách gần gũi, thân thiết, lại vừa là một mầu nhiệm mà chúng ta không bao
giờ hiểu thấu được. Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã tỏ mình qua người Con
Một của Ngài, Người Con ấy đã sống kiếp sống của con người và đã chết một cách
đau thương nhục nhã để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tình
yêu nào cũng muốn được bộc lộ, người yêu nào cũng muốn tỏ tình. Bằng cuộc sống
và cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực sự tỏ tình với con người: Ngài
đã tỏ tình và yêu thương cho đến cùng. Chính vì thế, Ngài đã sai phái Thánh
Thần đến để khai sinh Giáo Hội. Thánh Thần chính là Tình yêu nối kết Chúa Cha
và Chúa Con. Thiên Chúa thông ban tình yêu của Ngài cho Giáo Hội, để Giáo Hội
hiện diện như một dấu chứng tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Giáo Hội là
tiếng tỏ tình của Thiên Chúa đối với con người.
Mừng kính Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội muốn nhắc nhớ chúng ta
chân lý ấy. Tỏ mình cho chúng ta, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng Ngài là
Ba Ngôi Vị, Ngài là Tình Yêu. Đó là mầu nhiệm cơ bản nhất, từ đó Giáo Hội được
xuất phát và xây dựng; Giáo Hội vừa là hình ảnh vừa là thể hiện Chúa Ba Ngôi. Nhưng
mầu nhiệm Ba Ngôi không chỉ là nền tảng của Giáo Hội, mà còn là ánh sáng chiếu
dọi vào bí ẩn của con người. Thật thế, chỉ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta
mới hiểu rõ được ơn gọi và định mệnh của con người. Nếu Thiên Chúa là tình yêu
và nếu con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, thì một cách tất
yếu, con người chỉ thực sự là người khi biết yêu thương. Phẩm giá của con người
được xây dựng trên chính tình yêu. Ai chối bỏ tình yêu, ai gieo rắc hận thù,
người đó cũng chối bỏ con người và chối bỏ chính Thiên Chúa; trái lại ai sống
trong tình yêu, người đó cũng sống trong Thiên Chúa.
Lễ Chúa Ba Ngôi không chỉ là một lời ca tụng tình yêu Thiên
Chúa, mà còn là một tuyên xưng về phẩm giá con người. Thiên Chúa phú bẩm cho
con người khả năng yêu thương; Ngài tỏ mình cho con người để con người cũng
nhận ra được phẩm giá cao cả của mình. Mỗi ngày, từ lúc khởi đầu một ngày mới
cho đến lúc trở lại giường ngủ, chúng ta không ngừng tuyên xưng mầu nhiệm của
tình yêu Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của con người. Mầu nhiệm ấy gắn liền với
Thập Giá Chúa Giêsu mà chúng ta vẽ trên người. Qua cái chết trên Thập Giá,
không những Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta mầu nhiệm của Thiên Chúa, Ngài còn
vạch ra cho chúng ta con đường đi vào mầu nhiệm ấy, đó là con đường của yêu
thương. Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương cho đến giọt máu cuối cùng; Ngài
đã tỏ cho chúng ta thấy bộ mặt của Thiên Chúa; Ngài đã dạy cho chúng ta biết
thế nào là yêu thương.
12. Trí khôn và ý muốn
Cách đây hàng ngàn năm, có một nhà hiền triết tài giỏi tên là
Simonide. Ngày kia, nhà vua cho vời ông ta đến và hỏi:
- Thượng đế là gì?
Ông ta xin nhà vua cho mình một ngày để suy nghĩ. Sáng hôm sau,
khi nhà vua gọi tới, thì ông ta lại xin thêm hai ngày nữa để suy nghĩ.
Và khi hai ngày đã trôi qua, ông ta lại xin thêm bốn ngày nữa. Rồi
sau đó, ông ta lại xin thêm tám ngày nữa. Cứ mỗi lần nhà vua truyền cho ông ta
đến, thì ông ta lại xin hoãn với số ngày gấp đôi. Sau cùng, nhà vua bực bội,
cho triệu ông ta đến và giận dữ hỏi:
- Cho tới bao giờ, nhà ngươi mới trả lời câu hỏi của ta? Thượng
đế là gì?
Bấy giờ ông ta mới ôn tồn trả lời:
- Xin nhà vua đừng hối thúc tôi. Vấn đề thật khó khăn và tôi
nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được câu trả lời. Bởi vì càng suy nghĩ, tôi
lại càng cảm thấy bối rối. Vấn đề dường như đã vượt ra ngoài khả năng của tôi.
Kể lại câu chuyện này, tôi cũng muốn nói lên sự bất lực của
chúng ta khi phải trình bày về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mà chúng ta mừng kính
hôm nay. Mặc dù chúng ta đã học hỏi, đã tìm tòi, nhưng không bao giờ được quên
rằng: Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Sở dĩ chúng ta biết được là vì chính Chúa
đã tỏ lộ cho chúng ta.
Tất cả những gì chúng ta biết về mầu nhiệm này được gồm tóm như
sau: Nơi Thiên Chúa có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cực thánh
này đều có chung một bản tính, nên bằng nhau về mọi phương diện và chỉ làm
thành một Thiên Chúa duy nhất.
Trong giây phút này, tôi chỉ xin chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ,
đó là đứng trước mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, trí khôn chúng ta lại quá nhỏ bé đề mà
hiểu thấu, nhưng con tim chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến.
Thực vậy, trí khôn chúng ta quá nhỏ bé để mà hiểu thấu. Tôi xin
đưa ra một thí dụ: trước mặt chúng ta đây có ba cô, cô Quít, cô Mít, cô Cam. Đó
là ba ngôi vị. Mỗi người có một bản tính khác nhau và làm thành ba con người
riêng biệt. Đối với Chúa Ba Ngôi thì khác. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, mặc dù là ba ngôi riêng biệt, những chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Đó là
một mầu nhiệm không thể nào hiểu thấu, bởi vì trí khôn chúng ta quá nhỏ bé.
Hẳn rằng đã nhiều lần chúng ta được nghe mẩu chuyện về thánh
Augustinô. Ngài là một vị thánh tiến sĩ trong Giáo Hội, đã viết nhiều cuốn sách
có giá trị. Ngày kia, để bắt đầu viết một thiên khảo luận về Chúa Ba Ngôi,
ngài đã đi dạo trên bờ biển để suy nghĩ và cầu nguyện. Bỗng chốc ngài nhìn thấy
một em bé đang dùng một chiếc vỏ sò múc nước và đổ vào một chiếc lỗ nhỏ trên
bãi cát. Ngài dừng chân và hỏi:
- Em làm gì thế?
Em bé bèn trả lời:
- Tôi muốn tát hết nước biển vào trong chiếc lỗ này.
Thánh nhân mỉm cười và nói:
- Làm sao tát hết được?
Nhưng em bé nghiêm nét mặt và nói:
- Tôi làm việc này còn dễ hơn cái ảo vọng của ngài là muốn trình
bày cặn kẽ về Chúa Ba Ngôi.
Nói đoạn, em bé biến mất. Thánh nhân hiểu rằng đó chính là một
thiên thần được Chúa sai đến để nhắc nhở: trí khôn con người thì quá nhỏ bé để
hiểu về mầu nhiệm này.
Thế nhưng, con tim của chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến Ngài. Thực
vậy, Chúa Giêsu đã tỏ lộ không phải để chúng ta hiểu thấu, nhưng để chúng ta
yêu mến.
Trước hết, con tim chúng ta đủ to lớn để ca tụng ngài. Mỗi khi
hát: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Mỗi khi đọc: Sáng danh Đức Chúa
Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Môi khi làm dấu thánh giá, là chúng
ta ca tụng và thờ lạy Chúa Ba Ngôi.
Hơn thế nữa, con tim chúng ta cũng đủ to lớn để cảm tạ Chúa Ba
Ngôi. Vậy Ngài đã làm gì cho chúng ta? Chúa Cha đã tạo dựng nên chúng ta ngay
khi chúng ta còn chưa cất tiếng khóc chào đời. Chúa Con đã dùng cái chết trên
Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Và Chúa Thánh Thần luôn thánh háo chúng ta. Nhờ
bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Nhờ bí tích Thêm sức,
chúng ta trở nên những người lính chiến của Chúa Thánh Thần. Nhờ bí tích Giải
tội, chúng ta được tẩy sạch mọi tội lỗi. Vì thế, chúng ta phải cảm tạ và yêu
mến Chúa Ba Ngôi.
Sau cùng, trái tim chúng ta cũng đủ to lớn để cho Chúa Ba Ngôi
ngự trị. Thiên Chúa không ngự trên chốn trời cao, xa cách ngàn trùng. Trái lại,
Ngài sống trong chúng ta, Ngài ở cùng chúng ta và chúng ta là đền thờ sống động
của Ngài. Mỗi khi tâm hồn chúng ta sạch tội trọng, Chúa Ba Ngôi sẽ ngự trị và
trao ban cho chúng ta sự sống thầm linh, sự sống ân sủng, nhờ đó, chúng ta
thuộc về gia đình của Thiên Chúa.
Hãy yêu mến Chúa Ba Ngôi, để rồi chúng ta sẽ được chiêm ngắm
Ngài nhãn tiền, mắt đối mặt trong niềm hạnh phúc đời đời.
13. Ba Ngôi
Trong thánh lễ ban phép Bí tích Thêm sức, Đức Tổng Giám mục hỏi
một ứng viên định nghĩa Ba Ngôi Thiên Chúa là gì. Một bé gái 14 tuổi nhỏ nhẹ
trả lời: “Thưa Ba Ngôi Thiên Chúa là Ba Ngôi trong một Thiên Chúa”. Đức Tổng
giám mục đã lớn tuổi, nặng tai, nghe không rõ, bèn hỏi lại: “Cha không hiểu con
nói gì?” Vị linh mục giúp lễ cho ngài là một nhà thần học bèn trả lời: “Thưa
Đức cha, Đức cha không cần phải hiểu. Ba Ngôi là một mầu nhiệm!”
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta biết rằng mình
không thể hiểu được, vì đó là một mầu nhiệm. Nhưng cũng biết chắc rằng chúng ta
đang sống mầu nhiệm đó. Ai cũng sống trong dòng đời, nhưng mấy ai đã hiểu được
cuộc đời. Ai cũng cảm được dòng nhạc hay, nhưng lại không thể lấy được cái hay
đó ra cho người khác xem!
Tách ra khỏi dòng sông, con cá sẽ chết. Biệt lập ra khỏi dòng
đời, con người sẽ không tìm thấy hạnh phúc. Lẩy ra một nốt nhạc, nó chỉ là một
âm thanh trơ trọi, không còn là một bài ca. Một vũ khúc được liên kết bởi các
cử điệu trong sự liên tục trôi chảy và nhịp nhàng. Đó chính là những hình ảnh
sống động giúp ta hiểu phần nào về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Có một cuốn sách tuyệt hay với tựa đề “Flow” – “Sự Trôi Chảy”
của Mihaly Csikzentmihalyi, giáo sư tâm lý học trường Đại học Chicago. Tác giả
đã trình bày những kết quả của việc nghiên cứu nhằm xác định một cách chính xác
câu hỏi: “Điều gì làm cho con người hạnh phúc?” Sau khi thử nghiệm và phỏng vấn
hàng trăm người trong nhiều năm, giáo sư đã đi đến kết luận rằng con người cảm
thấy hạnh phúc nhất khi chúng ta sống “trong sự trôi chảy”.
Qua lời khẳng định này, tác giả muốn nói đến khả năng tự làm mất
đi cái bản ngã của mình để hòa điệu vào cái khác hay người khác, hy sinh cuộc
đời mình cho một người, một công trình, hay một hoạt động, nhẩy ra khỏi sự hạn
hẹp của cái tôi chủ quan để hòa mình vào dòng suối cảm nghiệm của cuộc đời.
Sống “trong sự trôi chảy” có thể thực hiện dưới vô số những hình
thức: leo núi, đánh cờ, nghe nhạc, hàn huyên trong câu chuyện gẫu, đắm chìm vào
trong cuốn tiểu thuyết trinh thám, hay hăng say làm việc giúp đỡ người nghèo. Bất
cứ cái gì thúc đẩy chúng ta ra khỏi bản thân mình, bất cứ cái gì làm cho chúng
ta ngây ngất, hay tạo nên hoan lạc có thể được coi như “trong sự trôi chảy”. Đồng
thời, khi chúng ta bị ngã bật ngửa ra, qua sự chán chường hay lo âu, khi chúng
ta tê cóng lại thay vì chuyển động trôi chảy, chúng ta trở nên bất mãn, không
hạnh phúc.
Đối với người Công giáo thì chẳng có gì ngạc nhiên, vì chúng ta
ngầm khẳng định cái kinh nghiệm nội tâm này và biểu tỏ ra một cách sâu xa mỗi
khi làm dấu thánh giá. Tôi tự hỏi chúng ta có thường ý thức rằng Thiên Chúa mà
chúng ta thờ phượng không phải là một tĩnh vật bất động nhưng là một tập thể
của những ngôi vị linh hoạt và năng động: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức
Chúa Thánh Thần.
Từ nguyên thủy, Đức Chúa Cha, nguồn thần tính vô tận và phong
phú, biểu tỏ qua Chúa Con, một cuộc hành trình đi ra khỏi chính mình trong kiến
thức và tình yêu. Và Đức Chúa Con, từ nguyên thủy tự cho phép mình được phát
biểu và rồi trở về với Đức Chúa Cha trong hoan lạc. Trong tình yêu hỗ tương, sự
chia sẻ thân mật sâu xa của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con là Đức Chúa Thánh Thần.
Diễn tả theo ngôn ngữ gợi cảm của thánh Bernard of Clairvaux:
Đức Chúa Cha là người hôn, Đức Chúa Con là người được hôn, và Đức Chúa Thánh
Thần chính là nụ hôn mà Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con chia sẻ với nhau. Thiên
Chúa của chúng ta là một sự nhịp nhàng, một vũ khúc, một dòng sông, một dòng
đời. Bản chất của Đức Chúa Cha là hướng về người khác, là đi ra khỏi chính Ngài.
Bản tính của Đức Chúa Con là quên mình, trong khi bản tính của Đức Chúa Thánh
Thần là yêu thương và được thương yêu.
14. Tình yêu
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé
xén sạch đám cỏ trước nhà.
Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ
đã được cắt xén gọn gàng – ngoại trừ một mảng cỏ tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông bố nói rằng ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì
đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô
nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót kia.
Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa
ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô
bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.
Thiên Chúa là tình yêu. Người đã dựng nên con người cao trọng
hơn các loài thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu thương
Thiên Chúa đã không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để
cứu chuộc con người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật
mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm tình yêu mà Ba
Ngôi Thiên Chúa đã thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là
lễ của Tình Yêu.
Chỉ những ai sống yêu thương mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chỉ những ai thực thi đức ái mới sống trọn ơn gọi làm con Thiên
Chúa.
Chỉ những ai biết sống trao ban mới tìm được nguồn vui đích thực
trong Thiên Chúa Tình Yêu.
Nếu Thiên Chúa đã hiến trao con Một của Người để người Con ấy
phải chết và để nhân loại được sống, lẽ nào người tín hữu còn sống ích kỷ để
giữ lại cho riêng mình những hạnh phúc nhỏ nhoi, tầm thường.
Nếu Thiên Chúa đã muốn chia sẻ hạnh phúc của Ba ngôi, là không
muốn cho con người phải chết nhưng được sống hạnh phúc muôn đời, lẽ nào chúng
ta đành khép lại con tim để chối từ chia sẻ trao ban.
Được dựng nên theo và giống hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu,
nên ơn gọi đích thực của con người chính là ơn gọi sống yêu thương.
Được cứu độ bằng giá máu của Đức Kitô, nên lẽ sống của người
Kitô hữu chính là tha thứ trong yêu thương.
Được thánh hóa bằng sức sống của Thánh Thần, nên cứu cánh của
người tín hữu là phải nên thánh nhờ sống yêu thương.
Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ
lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn
toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa”. Chỉ
những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ
những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một
Thiên Chúa Tình Yêu.
15. Dòng sông
Hôm nay toàn thể Hội thánh mừng kính trọng thể mầu nhiệm Một
Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất của Kitô giáo. Không một ngày
nào Hội thánh và mỗi người chúng ta lại không tuyên xưng mầu nhiệm ấy, bởi vì
mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá, mỗi khi đọc kinh sáng danh thì đó là lúc
chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Nhưng có lẽ chẳng mấy khi ta
quan tâm để tìm hiểu xem mầu nhiệm này có ảnh hưởng như thế nào đối với cuộc
đời của chúng ta. Bởi vì nói tới các mầu nhiệm, đặc biệt là mầu nhiệm Một Chúa
Ba Ngôi, chúng ta dễ có cảm tưởng đó là những chuyện xa vời và chẳng liên hệ gì
tới đời sống của mình. Nhưng không phải thế. Mầu nhiệm nào cũng rất gần gũi và
liên hệ mật thiết với đời sống của con người, bởi mầu nhiệm nào cũng là một
luồng ánh sáng soi cho chúng ta hiểu rõ thân phận mình và dẫn lối để chúng ta
đi tới bến bờ hạnh phúc.
Đối với mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta không thể tìm được
một hình ảnh, một ngôn từ nào để diễn tả cách chính xác, rõ ràng và đầy đủ được.
Tuy nhiên chúng ta có thể tạm dùng hình ảnh một dòng sông để diễn tả ảnh hưởng
của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời mình.
Con sông mang dòng nước phù sa đến tưới cho các cánh đồng, cho
các vườn cây được tươi tốt và đơm bông kết trái. Dòng sông cũng mang sự sống
đến cho con người và mọi loài. Chúng ta thử tưởng tượng nếu một ngày nào đó
mình không có chút nước nào để dùng thì cuộc sống sẽ ra sao?
Thiên Chúa Cha chính là cội nguồn của dòng sông, và Người đổ vào
dòng sông nguồn nước phù sa mầu mỡ là tình yêu và ân sủng của Người. Chúa Giêsu
chính là dòng sông chứa đựng nguồn nước tình yêu và ân sủng ấy. Và Chúa Thánh
Thần là sức đẩy để nguồn nước tình yêu chảy đến các tâm hồn.
Như con cá sẽ không sống được nếu nó nhảy ra khỏi dòng sông. Như
cây cối sẽ không thể tươi tốt và đơm bông kết trái nếu nó không hút lấy sự sống
từ dòng sông mang lại. Càng ở xa dòng sông, cánh đồng càng dễ nứt nẻ và khô
cháy. Cũng vậy, con người sẽ không thể sống được nếu tách ra khỏi dòng sông
tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Càng xa rời tình yêu của Thiên Chúa
bao nhiêu, con người càng cằn cỗi bấy nhiêu và rồi sẽ chết khô. Bởi đó, sống
mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là biết mở lòng mình ra để đón lấy nguồn nước
tình yêu và ân sủng của Người, để ta có thể sống và được sống dồi dào. Đón nhận
dòng nước là đón nhận Chúa Kitô và tin vào Người. Lời Tin Mừng trong thánh lễ
hôm nay dạy ta như thế. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một
Mình, để những ai tin vào Người sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Mà
tin vào Chúa Kitô chính là thể hiện trong đời mình cuộc sống của Người, nghĩa
là suy nghĩ, nói năng, hành động và cư xử như Người. Điều Chúa Kitô quan tâm
nhiều nhất và đã sống triệt để nhất chính là tình yêu thương. Người yêu Chúa
Cha nên thi hành mọi sự theo ý Cha. Người yêu con người nên chấp nhận chết để
cho con người được sống.
Yêu Chúa và yêu người, đó chính là ta đang sống mầu nhiệm Một
Chúa Ba Ngôi vậy.
16. Sống
hoà nhịp
Ngày kia, có một người nông dân đi lên thành phố. Khi đang đi bộ
trên một con đường đông đúc, thì đột nhiên, anh ta nói với một người bạn cùng
đi với mình: “Tôi có thể nghe được tiếng kêu rúc rích của một con dế”. Người bạn của anh ngạc nhiên và hỏi: “Làm
sao mà anh lại có thể nghe được tiếng dế, giữa tất cả những tiếng động ồn ào
này?”
Người nông dân đáp lại: “Bởi vì hai tai của tôi hòa nhịp được
với tiếng dế”.
Thế rồi anh ta lại càng cố tình lắng nghe nhiều hơn, và dõi theo
âm thanh đó, anh đã tìm ra được một con dế đang bò trên bờ cửa sổ. Người bạn
của anh không thể nào làm được điều này. Nhưng người nông dân không hề tỏ ra
ngạc nhiên. Thay vào đó, anh móc vài đồng xu từ trong túi áo ra, và ném chúng
xuống lề đường. Khi nghe được tiếng leng keng của mấy đồng xu, những người qua
đường liền ngừng lại nhìn theo dấu vết của chúng.
Người nông dân nói: “Bạn hiểu ý tôi chứ: Không có ai trong số
những người này có thể nghe được tiếng dế, nhưng tất cả bọn họ đều có thể nghe
được âm thanh của tiền bạc. Người ta nghe được cái gì hòa nhịp với hai tai của
họ, và không thể nghe được tất cả những thứ còn lại”.
Điểm cần ghi chú ở đây khá rõ ràng: Nếu ít bị lo lắng phiền
muộn, chúng ta có thể hòa nhịp với Thiên Chúa. Voltaire đã nói: “Ngay khi mở
đôi mắt của mình ra, thì tự nhiên, người ta thừa nhận được sự hiện hữu của
Thiên Chúa”. Và Abraham Lincoln đã nói: “Tôi có thể nhận thấy con người có thể
nhìn xuống mặt đất, và trở nên một người vô thần ra sao, nhưng tôi không thể
tưởng tượng được làm thế nào mà người ta có thể nhìn lên bầu trời, và nói rằng
không hề có Thiên Chúa”.
Khi nhìn vào sự vật nào đó hoặc người khác, người ta sẽ nhận
biết ngay rằng những sự vật này không tự hiện hữu được, mà chính là nhờ Thiên
Chúa. Tương tự như một căn nhà phải có người xây dựng ra nó, một cái áo do
người may, một cánh cửa do thợ mộc. Như vậy, thế giới chứng tỏ rằng phải có
Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa.
Khi nhìn vào một công trình nghệ thuật, không thể nào bạn không
nghĩ đến người nghệ sĩ. Nhìn vào thế giới tạo vật, mà không nhận thấy Đấng Tạo
hóa, chính là mù quáng, không thấy được ý nghĩa của toàn thể công việc sáng
tạo, và ý nghĩa sự hiện hữu của bản thân mình. Tuy nhiên, thật đáng buồn là có
nhiều người nhìn, mà vẫn không thấy gì. Họ lắng nghe, mà vẫn không nghe được gì.
Đức Giêsu đã nói về Thiên Chúa, như là một người Cha đầy lòng xót thương và
khoan dung. Người nói về chính mình, với tư cách là Con của Cha, và Người gửi
Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, để trợ giúp chúng ta sống tư cách người môn
đệ và con cái của Thiên Chúa.
Chúng ta đang trực diện với một mầu niệm vĩ đại. Tuy nhiên, bất
cứ người con nào cũng đều có thể thấu hiểu, bằng cách cầu nguyện và sống mầu
nhiệm này. Chúng ta nghĩ đến Thiên Chúa như là một người Cha (và người Mẹ), một
người Cha yêu thương chúng ta một cách sâu sắc. Chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu như
là một người Anh, Đấng hiến tặng cho chúng ta chính cuộc đời của Người. Và
chúng ta nghĩ đến Chúa Thánh Thần như là một người Bạn. Đấng trợ giúp chúng ta
sống theo Đức Giêsu, và liên kết chúng ta với nhau, như là anh chị em trong một
cộng đoàn của lòng tin và tình yêu thương. Với tư cách là những người Kitô hữu,
đây là bầu khí mà trong đó chúng ta sinh sống, di chuyển và hiện hữu.
17. Kẻ
nội thù
Trong một gia đình gồm bảy hay tám người, thế nhưng chỉ có một
người cha là gia trưởng. Trong một nhà máy gồm hàng trăm thợ thuyền, thế nhưng,
chỉ có một ông giám đốc để điều hành. Trong một sư đoàn gồm cả ngàn binh lính,
thế nhưng, chỉ vó một vị tướng để chỉ huy. Trong một quốc gia gồm hàng triệu
người dân, thế nhưng, chỉ có một ông tổng thống để cai trị.
Cũng vậy, chỉ có một Thiên Chúa là chủ tể, là vị vua tối cao, đã
an bài và sắp xếp mọi sự. Ngoài Ngài ra, không còn một thần minh nào khác. Đó
là một sự thật tương đối dễ hiểu và dễ tin. Tuy nhiên đã từ lâu, mỗi khi làm
dấu thánh giá hay đọc kinh Sáng danh. chúng ta vốn hằng tuyện xưng: Thiên Chúa
ấy lại có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa. Chúa Con cũng là Thiên Chúa và Chúa
Thánh Thần cũng lại là Thiên Chúa. Thế nhưng, cả ba chỉ là một Thiên Chúa vì
cùng chung một bản tính. Đó là một màu nhiệm vượt ngoài khả năng hiểu biết của
chúng ta.
Người ta đã cố gắng đưa ra những hình ảnh để sánh ví. Chẳng hạn
hình ảnh về mặt trời. Phải, mặt trời là một khối lửa, vừa tỏa sáng vừa đem lại
sức nóng. Lửa, sáng và nóng, ba đặc tính này cũng chỉ làm nên một mặt trời mà
thôi. Chẳng hạn một cây hồng gồm rễ, thân và hoa. Thế nhưng, cả ba phần nay
cũng chỉ làm thành một cây hồng mà thôi. Chẳng hạn như nước, có thể ở ba trạng
thái khác nhau, lỏng như nước lã, đặc như nước đá, khí như hơi nước. Thế nhưng,
cả ba trạng thái này cũng chỉ là nước mà thôi.
Tuy nhiên, những so sánh trên chỉ là những hình ảnh quá mờ nhạt,
nếu không muốn nói là què quặt và lệch lạc, khã dĩ bóp méo cả sự thật mà chúng
ta đã tin theo. Trí khôn và ngôn ngữ của con người thì quá nghèo nàn, không thể
nào hiểu thấu và diễn tả nổi về màu nhiệm cao cả này, như trường hợp của thánh
Augustinô: Múc cả nước biển mà đổ vào chiếc lỗ nhỏ còn dễ hơn là suy nghĩ về
Chúa Ba Ngôi.
Sởi dĩ chúng ta tin, đó là vì chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ và truyền
dạy. Thực vậy, khi Ngài chịu phép rửa của Gioan ở sông Giócđan, Phúc âm đã kể
lại: Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và từ trời có
tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Qua đó, chúng ta thấy
có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói từ trời cao, Chúa con đang chịu phép rửa
và Chúa Thánh Thần qua hình chim bồ câu.
Khi Chúa Giêsu biến hình trên đỉnh Taborê, Phúc âm cũng ghi
nhận: Lúc Phêrô còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ và từ trong đám
mây có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, hãy vâng lời Ngài. Qua đó, chúng ta
cũng thấy có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói, Chúa Con đang biến hình và
Chúa Thánh Thần qua đám mây chói lòa.
Sau cùng, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn
đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, Rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và
Thánh thần.
Tuy nhiên, điều quan trong chúng ta cần tìm hiểu, đó là Chúa Ba
ngôi đã làm gì cho chúng ta?
Trước hết, Chúa Cha đã yêu thương chúng ta bằng cách dựng nên
chúng ta, nhận chúng ta làm con để rồi trao ban cho chúng ta quyền thừa kế Nước
trời.
Ông vua kia nuôi một con chim hoàng yến. Nó hót rất hay khiến
ông thích nó lắm. Ông mua những thức ăn hảo hạng và làm cho nó một chiếc lồng
bằng vàng. Trong lúc quá say mê, ông đã nói với nó: Ta sẽ nhận ngươi làm con để
ngươi thừa kế gia tai và vương quốc của ta. Chắc hẳn chúng ta sẽ bảo ông vua
này điên khùng hay sao mà lại nói với một con chim như vậy. Tuy
nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu điên khùng hơn thế
nữa.
Báo chí cách đây đã lâu có đăng tải tin một công chúa nước Anh
sẵn sàng từ bỏ tất cả để kết hôn với một anh chàng phó nhòm. Người ta cho rằng
cô công chúa này đã yêu một cách cuồng si. Tuy nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương
chúng ta bằng một tình yêu cuồng si hơn thế nữa. Chúng ta là gì mà lại được
diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha?
Thứ đến, Chúa Con đã yêu thương chúng ta bằng cách xuống thế làm
người và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Nếu chúng ta ca ngợi
cha Đamiêng, người đã tình nguyện đến sống chung với những người cùi ở Molokai,
một hòn đảo xa xôi và hẻo lánh, để rồi đã chết đi giữa những người cùi bất hạnh
ấy, thì chúng ta lại càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn nữa, bởi vì Ngài đã đến ở
với chúng ta, những kẻ đang mắc phải chứng phong cùi thiêng liêng là tội lỗi.
Nếu chúng ta ca ngợi cha Maximilanô Kolbê, người đã tình nguyện
chết thay cho một bạn tù trong trại tập trung của Đức quốc xã, thì chúng ta lại
càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn thế nữa bởi vì Ngài cũng đã tình nguyện chết
thay cho chúng ta để nhờ đó chúng ta được sống muôn đời.
Sau cùng, Chúa Thánh Thần đã yêu thương chúng ta bằng cách cư
ngụ trong tâm hồn chúng ta và trao ban cho chúng ta sự sống thần linh cùng với
những ơn sủng do công nghiệp của Chúa Giêsu để nhờ đó chúng ta được trở thành
con cái Thiên Chúa và xứng đáng lãnh nhận phần sản nghiệp Nước trời.
Để đáp lại tình yêu cao cả đó, chúng ta sẽ làm gì? Tôi xin đề
nghị hai việc.
Việc thứ nhất đó là mỗi khi làm dấu thánh giá hay mỗi khi đọc
kinh Sáng danh, chúng ta hãy làm và hãy đọc cho trang nghiêm và sốt sắng, để
nhờ đó tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi.
Việc thứ hai đó là trong đời sống thường ngày, chúng ta hãy ra
sức khử trừ tội lỗi, bởi vì tội lỗi chính là kẻ nội thù, làm cho chúng ta quay
lưng chống lại tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Bởi vì mỗi
khi phạm tội, chúng ta không còn vâng phục Chúa Cha, chúng ta đóng đanh Chúa
Con một lần nữa và chúng ta xua đuổi Chúa Thánh Thần ra khỏi cõi lòng chúng ta.
18. Chú
giải của Noel Quesson
Phải mất ba thế kỷ, các Công đồng của Giáo Hội mới định nghĩa
chính xác Ba Ngôi. Nhưng ngay từ lúc khởi đầu, mọi sự đã được đem đến trong Tin
Mừng, đặc biệt là Tin Mừng của Thánh Gioan. Cuộc đàm thoại với Nicôđêmô mà
chúng ta đọc hôm nay là một đoạn trích ngắn, thật sự đã làm cho chúng ta khám
phá một điều gì đó chủ yếu: “tranh luận" hẳn là không đi tới đâu, phải đi
theo Đức Giêsu và dấn thân với Người. ông Nicôđêmô đại diện cho các môi trường
trí thức Do Thái ông là bậc thầy trong dân Israel (Ga 3,10). . . Tuy nhiên ông
không hiểu! trước tiên Ba Ngôi không phải là một vấn đề hóc búa của trí tuệ mà
một thực tại đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu! Và tình yêu này mang một khuôn
mặt: Đức Giêsu trên thập giá. Gioan là tông đồ duy nhất đã dám đối mặt với cảnh
tượng ấy của tình yêu điên rồ của Thiên Chúa, khi tham dự vào bi kịch trên đồi
Golgotha, cả cuộc đời Ngài, thánh Gioan đã suy niệm trước Đức Giêsu “được gương
cao” khỏi mặt đất trước mắt Ngài. Thánh Gioan đã nói với chúng ta sự suy niệm
ấy. Đồng thời nó cũng là chân lý sâu xa nhất về căn tính của Đức Giêsu.
“Thiên Chúa yêu đến nỗi. . . "
Trước khi đi xa hơn trong câu này, tôi để cho những chữ ấy thấm
vào người tôi.
Vậy ra đây là vấn đề tình yêu. Và một tình yêu sẽ làm những
chuyện điên rồ người ta đã đoán ra điều đó trong trạng từ "đến nỗi".
. .
Israel biết rằng Thiên Chúa yêu thương. Toàn bộ Cựu ước là một
chung cư về điều đó. Bài đọc đầu tiên cho chúng ta nghe lại mặc khải với Môsê
trong sa mạc Sinai:"Ta là Đức Chúa Giavê, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi,
hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín" (Xh 34,4-9). Vâng, toàn bộ
Kinh Thánh đều biết tình yêu của Thiên Chúa nhưng không một ai có thể đoán được
tình yêu ấy đi tới mức nào?
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi. . . "
Từ thế gian mà trong tiếng Hy Lạp là “kosmos", trong Tin
Mừng Thánh Gioan thường có nghĩa xấu, ở đây cần biết rằng thế gian, toàn vũ trụ
được Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa yêu thương thế gian mà Người đã làm ra. Người
ta thương yêu cái gì mình đã làm ra. Nhưng cần biết rằng Thiên Chúa yêu thương
mọi người. Thiên Chúa đã yêu thương một ‘anh nọ’ và một ‘chị kia’. Và tôi đặt
những khuôn mặt cụ thể được yêu thương hoặc không. . . trên những từ ấy. Thiên
Chúa đã yêu thương anh X. đến nỗi. . . Thiên Chúa yêu thương chị Y đến nỗi.
'Thiên Chúa yêu thế gian đến nối đã ban. . . "
Hai động từ này: ‘yêu’ ‘ban’ ở thì quá khứ bất định trong ngôn
ngữ Hy lạp và dịch thì quá khứ trong tiếng Pháp (trong tiếng Việt là “đã yêu”
và “đã ban”). Thiên Chúa đã yêu và đã ban. Đây là một hành động chính xác, có
ngày giờ nơi chốn. Quả thật! Đức Giêsu Nagiaret con của Bà Maria, con người
thật đã can thiệp vào lịch sử cách nay hai mươi thế kỷ trong một xã hội của Đế
quốc La mã đồng thời đó cũng là một biến cố của hoàn vũ đã biến đổi triệt để
lịch sử của nhân loại. Kinh Tin Kính của chúng ta không phải là một chuỗi các ý
tưởng, nhưng là một chuỗi "sự kiện": Thiên Chúa đã sáng thế, Đức
Giêsu đã được trinh thai bởi Chúa Thánh Thần; Người đã đau khổ, đã chết đã sống
lại. . .
Phụng vụ của chúng ta không phải là những ngày lễ các ý tưởng:
Chúng ta không mừng lễ công lý, tình huynh đệ và cả đức tin. Cách nói: "lễ
đức tin tạo ra sự lẫn lộn. Tin Mừng không phải là sách bàn về học thuyết, là
một "tường thuật kể lại các biến cố. . . mà tác giả là Thiên Chúa. Chính
Thiên Chúa là "chủ thể" của hành động: Người yêu. . . Người ban. . .
“Người đã ban Con Một. . . ”
Nếu đọc lướt qua nhanh câu này, người ta có thể chỉ nghĩ đến sự
Nhập Thể: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con của Người! Nhưng có một tính từ
nhỏ: Con "Một" tính từ ấy xem ra có thể tầm thường với bất cứ người
nào không biết Kinh Thánh. Vả lại, đối với thính giả Do Thái, hai từ ấy (Con,
Con Một) nhắc đến một đoạn văn của Cựu Ước trong trí nhớ của mọi người: vị đại
tổ phụ sáng lập đức tin, Abraham đã chấp nhận hiến tế con trai, con duy nhất
của ông (St 22,2-22,16). Đối với Gioan điều này ám chỉ đến sự “tận hiến” trên
đồi Golgotha, chứng tá cao cả nhất của tình yêu. Trong một câu trước, Gioan đã
nói với chúng ta rằng: “Con Người phải được giương lên như con rắn đồng trong
sa mạc” (Ga 3,14). Thánh Phaolô cũng đã viết: ‘Đến như chính Con Một, Thiên Chúa
cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” ( Rm 8,32). Tình yêu ấy
là vô cùng tận! sự điên rồ của tình yêu.
“Để ai tin vào con của người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời”.
Thiên Chúa đã khởi xướng trước, Người đã “yêu thương đầu tiên”. Mọi
sáng kiến đến từ phía Người. Nhưng như chúng ta biết rõ, để có tình yêu, nếu
chỉ có lời tuyên bố, bày tỏ, trước những bước, dấu chỉ từ một trong hai phía
chưa đủ … mà phải có sự tương ứng, đón nhận, đáp trả, … đức tin là lời đáp lại
của con người đối với lời tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa: người ta trao đức tin
cho người khác, người ta làm cho người ấy tin tưởng, tín thác cho nhau, người
ta được “đính hôn”!
Cái được mất của đức tin ấy vô cùng quan trọng: vấn đề là chết
hay sống: “ai tin thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Đó là một song
luận khắc nghiệt: hoặc là …hoặc là. . đó là một chọn lựa quyết định: trong
trường hợp này người ta không sống, trong trường hợp kia người ta được sống…
không có con đường trung bình mà là sự phân đôi triệt để khốc liệt. Hoặc người
ta chấp nhận “sự ban cho của Thiên Chúa” và đi đến sự sống muôn đời là đặc tính
của Thiên Chúa hoặc người ta ở lại với nhân tính của mình và dĩ nhiên là phải
chết. Không thể có thái độ nghiêng ngả quanh co. Phải nói “có” hoặc “không”
trước sự ban cho của Thiên Chúa. Và theo nhà văn Bernanos, Xatan muốn làm chúng
ta trở thành “Ông Ouinn”… là ông vừa nói “có” (oui) và “không” (nn. . non) ông
nước đôi đó nói “có” khi bắt đầu nói “không”.
“Quả vậy Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian không phải để
lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ con của Người mà được cứu độ”.
Tư tưởng này của Đức Giêsu rất cách mạng. Trong đạo Do Thái cùng
thời với Đức Giêsu , người ta thường loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đến tiêu diệt
thế giới tội lỗi. Các thủ bản ở Qumran chứa đầy quan niệm ấy của phái Manikêu:
con cái của ánh sáng sẽ tiêu diệt con cái của bóng tối trong một cuộc chiến đấu
một mất một còn, không khoang nhượng. Gioan Tẩy Giả gần với tâm thức đó, cũng
chờ đợi một Đấng Mêsia trả thù và xét xử (Mt 3,10-12).
Nhưng quan điểm của Kitô giáo về thế gian thì hoàn toàn quân
bình hơn. Không phải là một quan điểm lạc quan, bịt mắt trước sự xấu ác và
không nghe thấy khát vọng bao la về một “thế giới tốt đẹp hơn”… cũng không phải
là quan điểm bi quan luôn luôn lặp lại rằng thế giới thì xấu xa… nhưng là một
quan điểm “cứu độ”
thừa nhận sự xấu ác của thế gian nhưng không phải lên án nó, nhưng để cứu nó!
Đức Giêsu cứu thế thật tuyệt vời!
Còn chúng ta thì sao? có phải chúng ta là những môn đệ của Đức
Giêsu ấy không? chúng ta có yêu thương thế gian như Thiên Chúa không? nghĩa là
bằng sự đấu tranh chống lại điều ác và tội lỗi của thế gian để cứu độ nó. Tình
yêu thương của chúng ta có tính “cứu chuộc” không? nghĩa là trước hết phải thực
hiện và sáng suốt trên những khuyết điểm và tội lỗi của anh em chúng ta (cả
chúng ta nữa) bị lệch lạc méo mó nhưng chúng ta cũng phải có đủ lòng nhân hậu
để cứu giúp họ ra khỏi tình trạng ấy và ban cho họ cơ hội để đổi mới…
Tôi còn phải cầu nguyện nhiều về hai từ: ‘không nên đoán xét’ mà
hãy ‘cứu’.
“Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án…”
Đối với Đức Giêsu, đức tin thoát khỏi sự phán xét. Như thể sự
phán xét đã “hiện đại hoá” vào ngày hôm nay, và đặt vào đôi tay của con người:
chính con người tự phán xét mình. Và Đức Giêsu nói rằng đức tin là sự phán xét
ấy: “ai tin là người được cứu, còn ai không muốn tin đã bị lên án rồi…”
“Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi”.
Chúng ta thấy những lời này rất nghiêm khắc, bởi vì chúng ta
nghĩ đến bao nhiêu người không tin, trong vòng bà con hoặc trong chính gia đình
chúng ta, và trong thế giới bao la đó những nền văn minh lớn hoàn toàn không có
được khả năng biết Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta không thể loại trừ ra khỏi Tin
Mừng các công thức căn bản ở đó con người bị thúc bách phải chọn lựa “theo”
hoặc “chống”…”có” hoặc “không”…tuy nhiên phải có sự phân biệt chủ yếu:
1. Khi gởi đến các Kitô hữu đã thật sự tuyên xưng đức tin, thì
lời cảnh báo nghiêm khắc ấy tức là không được chối bỏ đức tin mà mình đã tuyên
xưng là một lời mời gọi không ngừng lặp lại sự tuyên xưng ấy bằng cách mỗi ngày
canh tân sự chọn lựa sống theo Đức Giêsu Kitô của mình: nghĩa là "phó dâng
đời sống mình bởi tình yêu như Người!".
2. Về phần mọi người khác, chưa bao giờ có cơ hội chọn lựa Đức
Giêsu một cách thật sự có ý thức, cá nhân là trưởng thành. . . thì điều mà
chúng ta biết về tình yêu Thiên Chúa (Đấng đã sai Con của Người đến thế gian
không phải để lên án thế gian mà để cứu độ nó), cho phép chúng ta hy vọng rằng
nhiều người trong số những người thực tế 'không theo Đức Giêsu cũng đã theo
Người dù họ không biết điều đó (và quả là thiệt thòi cho họ) bằng cách sống làm
người của họ "theo Đức Giêsu Kitô" nghĩa là "phó dâng đời sống
mình bởi tình yêu như Người!"
"Vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa"
Và một lần nữa chúng ta biết chọn lựa ấy khẩn thiết như thế nào.
. . ngay từ bây giờ. Nhưng trong một đoạn văn song song khác, Đức Giêsu sẽ nói
rằng một "kỳ hạn của ân sủng" sẽ được ban cho con người, bởi vì chỉ
đến ngày sau hết mà "lời của Đức Giêsu sẽ xét xử những kẻ từ chối Người
(Ga 12,47-50). Điều đó không loại bỏ sự khẩn thiết của ngày hôm nay. . . nhưng
tất cả đời sống của chúng ta mỗi ngày là sự phán xét của chúng ta. . .
Để kết thúc sự suy niệm này, chúng ta biết rõ hơn tại sao trang
Tin Mừng này được chọn cho ngày lễ Chúa Ba Ngôi. Trong Tin Mừng, Thiên Chúa Ba
Ngôi không phải là một vấn đề mà người ta đề cập như một sự trình bày lý thuyết
và trừu tượng. . . đó là một thực tại của tình yêu người ta bước vào thực tại
ấy để sống tình yêu ngay từ HÔM NAY bởi đức tin trong Đức Giêsu.