CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH – Năm A
CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
MỤC LỤC
1.Tôma
1. Tôma
Một phần nào đó, tất cả chúng ta đều giống Tôma. Thực vậy, chúng
ta chỉ tin một khi đã thấy. Tinh thần khoa học ngày nay làm cho chúng ta đặt
lại tất tất cả các vấn đề. Chúng ta phê bình, chúng ta phân tích, chúng ta thí
nghiệm, chúng ta kiểm chứng trước khi ưng thuận.
Rồi từ đó chúng ta bước sang lãnh vực đức tin. Chúng ta đòi hỏi
đức tin phải có những lý lẽ hợp lý, xác thực như những sự kiện của khoa học. Vì
thế, những chân lý mạc khải, đối với chúng ta thật khó mà chấp nhận.
Tuy nhiên, để khỏi lầm lẫn tai hại, chúng ta cần phải xác định:
đối tượng của đức tin không phải là đối tượng của khoa học. Phạm vi của khoa
học là vật chất, cho nên nó đòi hỏi những sự vật cụ thể, khả dĩ có thể thực
nghiệm được. Còn phạm vi của đức tin là siêu nhiên, cho nên nó đòi hỏi những
chân lý khả dĩ đem lại cho con người sự giải thoát. Và những chân lý ấy phải
được dựa trên uy quyền và lời chứng của Đức Kitô. Khoa học chỉ có thể biến đổi
cái thế giới vật chất bên ngoài, nhưng đức tin sẽ biến đổi cái thế giới tâm
linh bên trong của mỗi người chúng ta.
Chúng ta thấy khi Chúa hiện đến, Tôma liền nhận ra Ngài và quỳ
gối xuống tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Tất cả mọi nghi ngờ đều tan biến. Tôma chấp nhận toàn bộ thực tế và nhìn nhận
Đức Kitô, người đã chết mà nay lại đang sống. Ông không cần sờ vào vết thương
của Ngài, chỉ sự hiện diện của Ngài, một sự hiện diện đầy yêu thương và uy
quyền đã củng cố niềm tin và thay đổi hẳn con người Tôma.
Và như thế, chúng ta sẽ rút ra được một bài học quý giá, đó là
trong phạm vi đức tin, chúng ta cần tìm tòi, cần đào sâu để có được một đức tin
kiên vững. Đó mới chỉ là bước thứ nhất. Bởi vì có đức tin mà thôi chưa đủ, điều
quan trọng hơn là phải sống đức tin. Hay nói một cách khác liệu đức tin có đủ
mạnh để làm chuyển biến cuộc đời, cũng như đổi thay chính con người chúng ta
hay không?
Muốn được như thế, không gì hơn là hãy sống gắn bó và tiếp xúc
thân mật với Đức Kitô. Sự tiếp xúc này, ngày xưa đã biến đổi các môn đệ từ
những người u mê dốt nát, hèn nhát và sợ sệt trở thành những người thông suốt
giáo lý Tin Mừng và nhất là can đảm loan truyền và làm chứng cho Tin Mừng đó.
Lạy Đức Kitô phục sinh, xin hãy biến đổi và uốn nắn con người chúng con.
2. Tin vào Chúa sống
lại
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện
ra cách nhau vừa đúng một tuần.
Lần thứ nhất Ngài hiện ra với nhóm
các môn đệ đang run sợ trong một căn phòng đóng kín. Ngài đã cầu chúc bình an,
còn các ông thì vui mừng khi gặp lại Ngài. Chúa Giêsu hiện ra không phải chỉ để
đem lại cho các ông niềm vui mừng và an ủi sau những giờ phút kinh hoàng của
cuộc thương khó. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn muốn mời gọi các ông tham dự vào
sự biến đổi sâu xa nơi bản thân Ngài. Hay nói cách khác, Ngài muốn đưa các ông
đi vào mối quan hệ với chính Ngài. Các ông đã biết Ngài trong cuộc sống thân
xác, nhưng cuộc sống ấy đã qua bởi vì Ngài đã sống lại, đã được đổi mới trong
Thánh Thần cho một cuộc sống mới, trong một cuộc sáng tạo mới.
Đúng thế, khi tạo dựng Adong nguyên tổ loài người, Thiên Chúa đã
hà hơi ban sinh khí thì nay vào ngày đầu tiên của công cuộc tạo dựng mới, Đức
Kitô Phục sinh cũng đã hà hơi trên các môn đệ đang như chết cóng vì hợ hãi, để
ban cho các ông sinh khí mới là Thánh thần. Chính nguồn sinh khí mới này sẽ đem
lại cho các ông quyền tha tội, mà trước đây chỉ dành cho một mình Chúa Giêsu.
Các con hãy chịu lấy Chúa Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy
được tha. Như thế, chúng ta thấy: Chúa Thánh Thần và quyền tha tội được nối kết
chặt chẽ với nhau, vì mục đích chính yếu của Chúa Thánh Thần là tẩy luyện, là
đổi mới. Tiếp đến các ông được Chúa sai đi, hầu tham dự vào công cuộc tẩy luyện
và đổi mới trần gian. Trước kia, khi Chúa Giêsu còn ở với các ông, các ông có
thể sống ỷ lại và tầm thường, nhưng giờ đây thì không được nữa, bởi vì các ông
đã lãnh nhận một sứ mạng lớn lao: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.
VÌ thế các ông tiếp nối chính sứ mạng được sai đi của Chúa Giêsu. Các ông sẽ
lên đường và làm chứng về Ngài cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Lần thứ hai Chúa Giêsu hiện ra
với các tông đồ, trong đó có cả Tôma một người vốn cứng lòng. Và chúng ta thấy
Tôma đã tuyên xưng đức tin của mình sau khi đã nhìn thấy những vết thương nơi
tay chân và trái tim của Chúa. Từ đó, Ngài mời gọi các ông hãy có lấy một lòng
tin mới. Từ nay lòng tin sẽ không còn đặt nền tảng trên giác quan, mà là trên
chứng từ của những người đã thấy. Chính với lòng tin này mà người Kitô hữu được
kết hiệp mật thiết với Đức Kitô Phục sinh.
Ngày nay, Giáo Hội nói chung và mỗi người tín hữu nói riêng cũng
sẽ tiếp nối sứ mạng được sai đi mà ngày xưa Ngài đã trao cho các môn đệ. Chúng
ta được sai đi để rao tỉang sự sống lại, để xây dựng một quan hệ mới giữa con
người với con người. Con người tội lỗi, thuộc thế giới cũ, bị đặt dưới quyền lực
của sự chết và bị coi như thù địch. Trong khi đó, con người phục sinh với cuộc
sống mới, phải đối xử với nhau như anh em phải yêu thương và đùm bọc lấy nhau.
Thực hiện được sứ mạng sai đi như thế, là chúng ta đã chu toàn được điều Đức
Kitô Phục sinh nhắn gởi đến mỗi người chúng ta.
3. Suy niệm
của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
GẶP GỠ ĐỨC KITÔ PHỤC SINH
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay,
Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục
sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có
những cảm nghiệm sau đây:
1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi
nẻo đường.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người
có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Người xuất hiện trong vườn,
gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới.
Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất
hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất
hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo.
Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được
bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc
sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người
xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với
các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay
giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc
đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ
cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những
người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường
đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng
hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các
môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối
của Tôma.
2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình
an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết
của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: "Bình an
cho các con". Người còn thổi hơi vào các ông và nói: "Các con hãy
nhận lấy Thánh Thần".
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ
còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần LinhChúa bay là là trên mặt
nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát
như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một
tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người
mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh,
Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn
khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ
sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững
niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.
3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức
Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn
đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn
sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy.
Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là
linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh,
những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những
trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì
cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan
báo Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức
Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên
các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về
loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ
Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ
dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau
khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: "Như Cha
đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con".
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành
những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình
mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể
không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống
cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao
giảng Tin Mừng".
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người
luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho
đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng
cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi
trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời.
Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt
mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên
chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc
không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón
chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất
nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh,
cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn.
Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
4. Bình an cho các con –
Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật
Lễ Phục Sinh. Bài Phúc Âm hôm nay trích từ Phúc Âm thánh Gioan có thể được xem
như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục Sinh và hơn nữa là một tổng kết cho con
đường đức tin của các Tông đồ, của các đồ đệ Chúa.
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các Tông đồ, củng cố đức tin
của họ với hồng ân Thánh Thần và sai các ngài ra đi với sứ mạng mà Chúa đã
chuẩn bị các ngài trong suốt thời gian đến Phục Sinh: "Như Cha đã sai
Thầy, thì giờ đây Thầy cũng sai các con ra đi".
Con đường đức tin của các Tông đồ từ ngày được gọi theo Chúa cho
đến giây phút quan trọng được củng cố bởi quyền năng của Chúa Phục Sinh. Chọn
theo con đường đức tin này như được gợi lại cho chúng ta chiêm ngắm nơi đoạn
Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, trước hết chúng ta nhìn thấy các Tông đồ lo sợ thu
mình lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước những chống đối của những kẻ
không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà Chúa đã trải qua và các ngài
cũng sẽ phải trải qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai mà họ đã nghe Chúa nói đến
và đã được chuẩn bị để thi hành nhưng cảm thấy chưa đủ sức để thi hành. Nếu
không có mầu nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa Phục Sinh đến đổi
mới con người họ thì đức tin của các Tông đồ chưa được trưởng thành hoàn toàn
đúng mức Chúa mong muốn để có thể làm chứng cho Chúa, chu toàn sứ mạng Chúa
trao phó cho.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta được chứng kiến một cuộc
thay đổi quan trọng trong đời sống các Tông đồ, chứng kiến một cuộc đổi mới và
kiện cường đức tin nơi các Tông đồ, từ lo sợ đến được củng cố để ra đi bắt đầu
sứ mạng. Trước khi Chúa Phục Sinh hiện đến, các Tông đồ đang sống trong lo sợ,
đóng kín nơi chính mình và đóng kín trong căn phòng. Ai trong chúng ta đã không
trải qua một giai đoạn thử thách này và cũng có thể là đang trải qua thử thách
đức tin, đó là những giây phút đen tối bị cám dỗ mất đức tin vào Chúa về những
nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, về mầu nhiệm thập giá trong đời sống của mỗi
người chúng ta.
Trong bộ phim có tựa đề là Dấu Ấn Thứ Bảy, có một đoạn đối thoại
thật ý nghĩa:
Thần chết hiện ra trong dung mạo của một người phàm và đã đối
thoại với một dũng sĩ, cuộc đối thoại đó như sau:
Trước hết Dũng sĩ bắt đầu:
Tại sao Thiên Chúa lại ẩn mình? Tại sao Ngài không xuất hiện mạc
khải chính mình cho chúng ta biết? Tại sao Thiên Chúa không đưa tay Ngài ra và
chạm đến chúng ta? Tại sao ít ra là Ngài nói vài lời với chúng ta?
Thần chết trả lời:
Nhưng Thiên Chúa đâu có làm điều đó được, không phải vậy sao?
Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói, Ngài chỉ giữ im lặng.
Dũng sĩ tiếp:
Đành vậy, Thiên Chúa không làm điều gì như vậy, Ngài không chạm
đến chúng ta, Ngài không nói chuyện với chúng ta. Đôi khi tôi nghi ngờ không
biết Ngài có thật sự hiện hữu ở bên kia nữa không?
Thần chết trả lời:
Có thể Ngài không hiện hữu ở bên kia, có thể không ai hiện hữu
bên kia cả, có thể là tất cả chúng ta chỉ hiện diện một mình nơi cõi đời này mà
thôi. Dũng sĩ có bao giờ nghĩ như vậy hay không? Có lẽ Thiên Chúa không có đâu,
chỉ có chúng ta sống cô đơn lẻ loi một mình trong thế giới này mà thôi.
Anh chị em thân mến!
Mẫu đối thoại trên đây có thể làm chúng ta suy nghĩ thêm. Các
Tông đồ ngày xưa là những kẻ duy nhất được nghe Chúa nói, được sống với Chúa
như với một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, nhưng không phải vì thế mà
các Ngài không bị thử thách, không bị lạc mất niềm tin vào Chúa khi Chúa trải
qua cuộc khổ nạn, các Ngài phải tin vào Chúa là Con Thiên Chúa, là Đấng đã chết
và đã phục sinh.
Chúa cho các Tông đồ và đặc biệt là Tôma, cũng như chúng ta đã
đọc qua trong bài Phúc Âm hôm nay, được dịp may kiểm chứng một cách cụ thể:
"Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây". Chúng ta ngày hôm nay không thể
nào được diễm phúc kiểm chứng như vậy, như cuộc đối thoại tưởng tượng giữa Dũng
sĩ và Thần chết, nhưng như các Tông đồ ngày xưa, chúng ta cần tin vào Chúa để
không còn sống trong lo sợ, để có đủ sức chu toàn sứ mạng của Chúa. Lời Chúa
phán với Tôma cũng như cho chúng ta ngày hôm nay đó là: "Phúc cho những ai
không thấy mà tin".
Xin Chúa ban cho chúng ta hồn ân Chúa Thánh Thần, xin Chúa ban
cho chúng ta sự bình an của Ngài để củng cố chúng ta trong đức tin. Amen.
5. Cuộc
sáng tạo mới – Lm Ignatiô Trần Ngà
Ngày thứ nhất của nhân loại cũ
Từ khởi thuỷ, sau khi dựng nên trời đất muôn vật, Thiên Chúa lấy
bùn đất dựng nên Ađam. Mới đầu thân thể ông chỉ là một khối đất bất động, không
hề có dấu hiệu của sự sống.
Thế rồi, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam (St 2,7), tức thì
Ađam bắt đầu mở mắt, cựa mình và vươn vai chỗi dậy thành một con người đầy sức
sống và được trở thành thuỷ tổ loài người đông đảo trên khắp trái đất.
Đó là ngày thứ nhất của lịch sử loài người, ngày khai sinh nhân
loại cũ, khởi đi từ con người đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng, thông ban sự
sống và những phẩm tính cao đẹp của Ngài.
Tiếc thay, con người tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo
hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đoạ, đánh mất phẩm chất cao đẹp mà Thiên Chúa
đã phú cho và phải mang lấy án phạt đời đời nên Thiên Chúa phải thực hiện kế
hoạch kiến tạo một nhân loại mới.
Ngày thứ nhất của nhân loại mới
Thế rồi, "vào ngày thứ nhất trong tuần - và cũng là ngày
thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới - nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín,
vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc
anh em được bình an!" (Ga 20, 19-22)
Kế đó, như thời khởi thuỷ, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam
để thông truyền sự sống cho ông, thì nay Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các tông
đồ đang co cụm như những xác không hồn để thông ban Chúa Thánh Thần cho họ:
"Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần" (Ga 20, 22)
Thế là từ đây, các tông đồ bắt đầu đón nhận sức sống mới, các
ông được hồi sinh, được trở nên can đảm mạnh mẽ, thoát ra khỏi căn phòng đóng
kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông suốt mấy tuần qua để ra đi khắp các nẻo
đường, hô vang Tin Mừng cứu độ.
Đó là ngày thứ nhất trong tuần đồng thời cũng là ngày thứ nhất
trong lịch sử của nhân loại mới.
Ngày thứ nhất trong cuộc đời người môn đệ
Vậy mà cho đến hôm nay, sau hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu khai
sinh nhân loại mới, vẫn còn trong ta sự ương ngạnh của Ađam, muốn sống theo dục
vọng của mình bất chấp lời giáo huấn của Thiên Chúa. Vẫn còn trong ta tính ù lì
khiếp nhược của các tông đồ sau biến cố Thầy Giêsu thụ nạn, tự giam mình trong
phòng kín như mộ địa tối tăm. Vẫn còn trong ta con người ích kỷ chỉ biết sống
cho mình, cho gia đình mình mà chưa mở ra với tha nhân và lối xóm.
Thế nên, hơn lúc nào hết, chúng ta cần Chúa Giêsu hiện đến thổi
hơi truyền ban Thần Khí cho chúng ta như Ngài đã thực hiện cho các tông đồ xưa,
để chúng ta được hồi sinh, được vượt ra khỏi ngục tù do lòng tham lam ích kỷ dựng
nên, thoát ra khỏi mộ địa do chính sự hèn yếu của chúng ta vây bọc.
Và nhờ đó, ngày thứ nhất trong cuộc đời người môn đệ được khai
mở trong ta.
6. Lòng Chúa xót thương
– Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là
cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng
thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay
chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố
diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra
nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành.
Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.
Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với
Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn
trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi
làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế
nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng
gọi: "Adam, Adam ngươi đang ở đâu?". Âm thanh của tiếng gọi không
mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt,
có điều pha trộn chút âm điệu xót xa. "Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây
trong vườn mà ta đã cấm?".
Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là
người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn.
Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi
Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói,
lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa
Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm
để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn
không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem "đừng than
khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm
hại mình, vì "họ không biết việc họ làm"; Đỉnh cao của lòng thương
xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh
trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: "ngay đêm nay
ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức
cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa
Giêsu trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính
mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy
bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha
đã quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là
vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavít đã từng
nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi
chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.
Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn "Một
Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ" như sau:
Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn
bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối
nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong
giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục
không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi
xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là
Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!
Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các
tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi
Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn
Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và
cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.
Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi
chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực
thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của
mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời
cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
Có lẽ đây là vấn đề mà những người Kitô hữu phải lo lắng quan tâm.
Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi
đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của
đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm
HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách
mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng, nhưng tội phạm thì năm nào
cũng được nghe câu nói quen thuộc: "năm nay cao hơn năm trước".
Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông
Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra
hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh
nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha
thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu
diệt.
Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina,
biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu
thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và
nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối
về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội
được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu long xót thương tha
thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.
7. Củng
cố đức tin – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Có một chi tiết đặc biệt liên quan tới đoạn Phúc Âm vừa nghe, đó
là cùng một đoạn Phúc Âm này đã được chọn để dùng cho Chúa Nhật thứ hai phục
sinh cho ba năm liền A, B, và C, nghĩa là năm nào vào Chúa Nhật thứ hai phục
sinh, chúng ta cũng đều đọc, nghe đoạn Phúc Âm này. Chi tiết này nói lên tầm
quan trọng và ý nghĩa phong phú trong Mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục Sinh
là trung tâm và là nguồn năng lực tái tạo cộng đoàn những đồ đệ của Chúa.
Ngay từ khởi đầu đoạn Phúc Âm, chúng ta được nhắc lại việc Chúa
Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng lại vắng mặt Thomas, và trong lần hiện ra
này, Chúa đã ban cho các tông đồ sự bình an: "Bình an cho các con".
Sự bình an này làm cho các tông đồ thực sự được vui mừng. Các tông đồ được vui
vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho các tông đồ Chúa Thánh Thần, quyền năng tha
tội và sai các ông ra đi làm chứng cho Chúa. Các tông đồ có thể nói được trong
giai đoạn này - trong phần thứ nhất của đoạn Phúc Âm hôm nay - đã tin phần nào
và đã chia sẻ cho Thomas: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa", nhưng Thomas
không tin và đòi kiểm chứng một cách cụ thể. Có thể nói, đây là giai đoạn thứ
hai của cộng đoàn. Thái độ cứng lòng tin của Thomas đã gây chia rẽ hay làm yếu
kém đi sức mạnh làm chứng của cộng đoàn cho Chúa Phục Sinh. Một cộng đoàn chia
rẽ như vậy thì chắc chắn không thể nào có sự bình an, không thể nào có niềm vui
để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Cộng đoàn Kitô chúng ta ngày hôm nay là một cộng đoàn của những
người tin Chúa Phục Sinh đã qui tụ lại. Chắc chắn Chúa Phục Sinh hiện diện ở
giữa chúng ta, Ngài là trung tâm liên kết và nâng đỡ sự hiệp nhất của cộng đoàn
chúng ta, Ngài là nguồn mạch của sự bình an và niềm vui của cộng đoàn chúng ta.
Chúa Phục Sinh ban cho cộng đoàn các đồ đệ đầu tiên sự bình an, Chúa Thánh Thần
và sức mạnh làm chứng cho Chúa. Đó là một cộng đoàn lý tưởng cho tất cả mọi
cộng đoàn Kitô khác rải rác khắp nơi trên thế giới, qua muôn thế hệ. Đó là một
cộng đoàn lý tưởng, trong đó niềm vui và sự bình an đã thay thế cho sự u buồn
thất vọng: thấy Chúa các tông đồ đều vui mừng. Và niềm vui, sự bình an này luôn
luôn là dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Nhưng vì là những con người cụ thể,
như chúng ta đây, mỗi người đều có những giới hạn của mình và cộng đoàn của
chúng ta, cộng đoàn của các môn đệ Chúa chắc chắn phải trải qua những thử
thách, những trở ngại.
Sự vắng mặt, sự cứng lòng tin của Thomas, thái độ của Thomas,
tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn.
Sự vắng mặt của chúng ta, sự cứng lòng tin của mỗi người chúng ta hay thái độ
của chúng ta đối với Chúa Giêsu cũng như đối với anh chị em, thái độ đó cũng có
ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã đáp lại khuyết điểm
này của cộng đoàn các tông đồ để mang lại niềm vui và sự bình an, để trao ban
sứ mạng qua việc Chúa đáp lại đòi hỏi của Thomas để biến đổi ông, và Thomas đã
tin và tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa Trời tôi, Lạy Chúa và là Chúa
Trời con". Và Chúa Giêsu dường như muốn cho các môn đệ của Ngài từ đó
không nên thách thức như Thomas nữa: "Phúc cho những ai không thấy mà
tin".
Cộng đoàn chúng ta hôm nay cần thực hiện lý tưởng của cộng đoàn
Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để cho Chúa Giêsu Phục Sinh qui tụ chúng ta
lại trong tình yêu của Người, hãy đón nhận sự bình an của Chúa trong niềm vui
nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm chứng một cách xứng đáng cho Chúa. Nhưng
như vừa nói chúng ta đây là những con người có giới hạn và Chúa Phục Sinh cũng
đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập và để lại cho chúng ta một phương thế để
tái tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn, để gìn giữ cộng đoàn được luôn hiệp nhất
với Chúa và giữa mọi người với nhau, phương thế đó là bí tích Hòa Giải: "Các
con tha tội cho ai thì trên trời cũng tha; các con cầm tội ai thì trên trời
cũng cầm lại".
Không có phương pháp nhân loại nào khác có sức phục hồi và củng
cố sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa cho bằng phương thế siêu nhiên mà
Chúa Giêsu đã thiết lập và muốn cho các tông đồ sử dụng, và chúng ta biết rất
rõ phương thế đó là phương thế nào. Đó là sự tha thứ bí tích, và đó cũng là bí
tích của sự tha thứ. Dĩ nhiên, để lãnh nhận bí tích tha thứ của Chúa để chúng
ta được tha thứ và tha thứ cho nhau, để xây dựng lại sự hiệp nhất cộng đoàn các
môn đệ Chúa, để làm cho cộng đoàn chúng ta có thể chu toàn sứ mệnh Chúa đã trao
phó "Hãy làm chứng cho Thầy", thì mỗi người chúng ta cần hành động
như Thomas, cần kiểm điểm lại đức tin của mình và loại bỏ đi những gì không phù
hợp với đức tin trong nếp sống của chúng ta, để có thể khiêm tốn tuyên xưng mỗi
ngày, mỗi giây phút: "Lạy Chúa, Lạy Chúa Trời con, Lạy Chúa, con tin Chúa
là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ của con." Cần phải canh tân đức tin hàng ngày
để đức tin của chúng ta được củng cố thêm mãi, để chúng ta có được sự bình an,
niềm vui và sức mạnh làm chứng cho Chúa mọi nơi, mọi lúc.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta canh tân đức tin và củng cố đức
tin.
8. Mối
phúc thật Đức Tin – Cố Lm Hồng Phúc
Chúng ta đang ở vào cuối tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Mầu nhiệm
Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao hơn cả. Mầu nhiệm căn bản của Đức Tin chúng ta.
Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của chúng ta vẫn
còn trong tội lỗi” (1 Cr 15, 17).
Tại Nhã điển, thủ đô Hy lạp, Phaolô gặp ngoài đường phố những
bàn thờ “kính thần vô danh”. Phaolô dùng sự kiện ấy làm nhập đề và giảng một
bài cho giới trí thức tại Tối cao Pháp viện. Ngài trình bày việc Chúa Giêsu đã
Phục sinh sống lại từ cõi chết. Vừa nghe đến việc người chết sống lại, một nhà
trí thức đứng lên, nhắc cho Phaolô biết lời của nhà hiền triết Eschyle rằng:
“Khi tro bụi đã uống máu một con người, người ấy không bao giờ sống lại”.
Phaolô buồn “rũ áo” đi đến cùng dân ngoại (Cv 17, 22-33).
Đạo Kitô giáo không phải là một triết lý theo quan niệm Hy lạp,
một thứ tam đoạn luận, mà là một cái gì cao siêu hơn: một mầu nhiệm, một sự
sống, một niềm Tin.
Mầu nhiệm ấy, Thiên Chúa không mặc khải cho người khôn ngoan
hiền triết mà cho kẻ bé mọn, để bẻ gãy sự kiêu căng của người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng.
Chiều thứ nhất Phục sinh, các môn đệ họp nhau trong nhà Tiệc ly
nơi Chúa đã lập phép Thánh Thể thứ năm tuần trước và hứa rằng Ngài sẽ trở lại.
Bỗng nhưng, trong khi đóng cửa then cài, Ngài xuất hiện. Ngài đứng đó và nói:
Shalom - Bằng an cho các con. Ngài đến đem sự bìng an vui mừng cho họ và sai họ
đi phổ cập ơn cứu rỗi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Chúa
Giêsu nhận lấy cho mình quyền năng tha tội, quyền năng của một Thiên Chúa (Mt
9, 2-8). Hôm nay, Ngài trao lại cho các môn đệ bằng một lời nói, bằng một hơi
thở, “Ngài thổi hơi trên họ và nói: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Các con tha tội
cho ai thì tội họ được tha, các con cầm tội ai thì tội họ bị cầm lại”. Ngày
khai thiên lập địa, Chúa thổi hơi ban sự sống cho nguyên tổ Ađam (St 2,7) thì
nay, hơi thở ấy chính là Ngôi Ba Thiên Chúa mà một trong hoa quả là bình an (Ga
5, 22).
Nhưng chiều hôm ấy, trong một nhóm môn đệ thiếu mặt Tôma, một
con người thực tế, khó bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt
thấy tai nghe, tay sờ đụng, nhưng người ta cũng dùng lý trí để kiểm chứng, dùng
niềm tin để tăng phần hiểu biết.
Tôma nghe các bạn cho biết, họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống
lại. Tôma không tin. Có lẽ ông nói: “Còn khuya tôi mới tin”, nếu tôi không kiểm
chứng bằng mắt thấy, tay sờ đụng. Thái độ của Tôma lại càng làm nổi bật sự hiển
nhiên của dữ kiện sống lại.
Hôm nay, Chúa hiện ra với các môn đệ có Tôma hiện diện. Chúa
nhắc lại các đòi hỏi của Tôma kéo dài cả tuần lễ nay. Tôma không biết làm gì
hơn là phủ phục xuống và tuyên xưng Đức Tin, “Lạy Chúa là Chúa Trời tôi”, một
lời tuyên xưng trong sáng, tóm tắt tất cả Tin Mừng của Gioan và của chúng ta.
Ngài là Cứu Chúa đã chết để đền tội ta nhưng nay Ngài đã phục
sinh trở về với Thiên Chúa, đồng hàng với Thiên Chúa, chính là Thiên Chúa.
Trong dịp này. Ngài cũng để cho chúng ta, qua Tôma, một mối phúc thật khác là
phúc thật Đức Tin. Ngài nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin,
Phúc cho ai không thấy mà tin” (Gio 20, 29). Đức Tin là một đặc ân của Thiên
Chúa, người ta có thể thành tâm đón nhận cũng như có thể, như dân Do thái xưa,
từ chối ơn Chúa.
Tại Lộ-Đức, Đức Mẹ đã ban nhiều ơn và làm nhiều phép lạ. Cách
đây 50 năm, có hai người thời danh là Bác sĩ Alexis Carrel và nhà văn Emile
Zola cùng đi Lộ-đức để quan sát. Cả hai cũng chứng kiến một ơn lạ nhãn tiền.
Tại nhà ga Austerlitz, Zola gặp một người đàn bà hấp hối, bệnh lao đến thời kỳ
tuyệt vọng. Bà tên là Marie Lebranche, Zola nói: “Bà này đến Lộ-Đức khỏi bệnh
thì tôi tin!” Người đàn bà sắp chết đó đi tắm suối Đức Mẹ run rẩy nhưng sau đó
chỗi dậy, cất tiếng hát Ave Maria, rồi tự đi ra hang đá quì cầu nguyện một giờ.
Bác sĩ khám, phổi nguyên lành. Zola ứa nước mắt. Bác sĩ Carrel cũng xúc động,
được ơn trở lại. Bác sĩ viết cuốn “Hành trình Lộ-Đức” để nói lên sự thật; Zola
chối sự thật trong cuốn “Lourdes” của ông.
“Tôma, vì con thấy Thầy nên con tin. Phúc cho những ai không
thấy mà tin”.
Xin Chúa ban cho con mối phúc thật niềm Tin ấy.
9. Đức
Giêsu hiện ra với các môn đệ
(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Dựa theo bố cục tổng quát của Tin Mừng Gioan, đoạn văn này nằm
trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm
theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin Mừng.
Trong tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình minh, Maria
Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống không. Cho tới nay,
có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17).
Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người. Người
gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi
sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn
đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng
để các ông trở thành sứ giả đi khắp nơi mà ban ơn tha tội, ban sự bình an.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không có Tôma (20,19-23):
a) Lời chào “bình an” thứ nhất với việc chứng minh (cc. 19-20),
b) Lời chào “bình an” thứ hai với sứ mạng (cc. 21-23);
2) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (20,24-29):
a) Tôma không tin anh em (cc. 24-25),
b) Đức Giêsu và Tôma (cc. 26-31);
3) Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu
(20,30-31).
3.- Vài điểm chú giải
- Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần
(19): Cuộc hiện ra xảy ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc
24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều,
Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau, rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem
ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác giả dùng từ ngữ
“ngày ấy” mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà
Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20;
16,23.26). Tác giả dùng công thức “Ngày thứ nhất trong tuần” cho cả hai lần
hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có thể là vì ông muốn nhắc đến
thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào “ngày thứ nhất trong tuần” (Cv
20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
- các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu ra
trong bản văn là “vì các ông sợ người Do Thái”, nhưng có lẽ tác giả cũng còn
muốn cho thấy là thân thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đóng kín. Đây
cũng có thể là một ghi nhận về hoàn cảnh hiện tại của các môn đệ.
- Bình an cho anh em (19): Trong tiếng
Hípri, shâlôm (= bình an, HL eirênê) là một lời chào thông thường. Nhưng trong
văn cảnh long trọng ở đây, lời của Đức Giêsu có ý nghĩa khác, không phải chỉ là
“Cầu chúc anh em được bình an”, như thể họ còn phải chờ đợi sự bình an đến
trong tương lai. Ở đây, lời Đức Giêsu nói là một nhận định về thực tại: chắc
chắn họ đang có sự bình an của Người.
- Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong các Tin
Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47), nhưng ở đây, mẫu mực
cho việc sai đi là quan hệ của Con với Cha (một đề tài thần học của Ga, xem
17,18).
- Người thổi hơi vào các ông...
Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến
làn hơi sáng tạo của Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là
Thánh Thần. Trên thập giá, Người đã “trao Thần Khí” (paredôken to pneuma; trước
đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta đã dịch là “trút
hơi thở”)
(19,30): Người đã trao ban Thánh Thần cho những người đứng dưới chân thập giá,
đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của Thiên Chúa,
và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng các Kitô hữu.
- Anh em tha tội cho ai ...; anh em cầm giữ ai...
(23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy Lạp (Bản LXX), Truyện Bilơam:
chẳng hạn so sánh Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX. Theo bản văn Hípri, vua Balác xác
tín rằng “kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc họa/bị nguyền rủa” (Ds 22,6 Hípri),
nghĩa là sẽ bị nguyền rủa qua lời nguyền Bilơam tuyên bố. Ông không bận tâm với
quyền năng của Thiên Chúa Israel, là Đấng có đồng ý thì Bilơam mới có thể chúc
phúc hoặc nguyền rủa (Ds 22,12; 23,8). Ngược lại, trong bản văn Hy Lạp, lời của
Balác ở 22,6 có một ý nghĩa có thể giải thích theo hai hướng: có thể hiểu “được
phúc” (eulogêntai) và “mắc họa/bị nguyền rủa” (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một
hậu quả sẽ xảy ra trong tương lai gần (bản văn Hípri: dạng phân từ và vị hoàn),
vừa theo nghĩa một lời thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên
Chúa chúc phúc hoặc bị Thiên Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc
hoặc nguyền rủa. Đó chính là điều Thiên Chúa đã nói với Bilơam: “Ngươi không
được đi với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin
gar eulogêmenon)”. Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng
được chúc phúc, từ đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã
đang bị Thiên Chúa nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông
không biết.
Dạng hoàn thành apheôntai (“được tha”) và kekratêntai (“bị cầm
giữ”)
ở Ga 20,23 có thể được hiểu như thế.
- Chúng tôi đã được thấy Chúa
(heôrakamen ton kyrion, 25): Heôrakamen là thì hoàn tất của động từ horaô, diễn
tả việc “thấy” kèm theo sự hiểu biết thật sự.
- Nếu tôi không thấy dấu đinh... (25):
Đây là lời Tôma khẳng định rằng ông không tin, hoặc để ông tin, Đức Giêsu cũng
phải hiện ra với ông, như đã hiện ra với các môn đệ kia. Đức Giêsu đã đáp ứng
yêu cầu của ông, Người đã mời ông làm như ông nói lúc này, để có thể tin.
- Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin
(27): Dịch sát là “đừng cứ tiếp tục không tin nữa, nhưng hãy bắt đầu tin đi”.
Đức Giêsu mời Tôma thay đổi thái độ.
- Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con
(28): Đây vừa là một tiếng kêu vừa là một hô-cách dưới dạng chủ-cách (= “Lạy
Chúa và lạy Thiên Chúa của con!”) vừa là một lời tuyên xưng đức tin (= “Ngài là
Chúa và Thiên Chúa của con”) độc đáo chưa ai làm. “Chúa của con” nhắm đến Đức
Giêsu của lịch sử, còn “Thiên Chúa của con” là một lượng định mang tính thần
học về bản thân Người. Tuyên xưng Đức Giêsu là “Đức Chúa” thì Maria Mácđala và
các môn đệ đều đã làm (20,18.25); nhưng tuyên xưng vị “Chúa tể” này là “Thiên Chúa”, thì chỉ có Tôma mới làm
ở đây. Vì thế, cũng có thể hiểu câu này là một phép thế đôi (hendiadys): “Chúa
của con” cũng là “Thiên Chúa của con”.
- là để anh em tin rằng (31): Bản văn Hy Lạp
ghi “để anh em tin” là hina pisteu[s]ête (với con chữ sigma nằm trong ngoặc
đơn), tức là có thể đọc hina pisteusête hoặc hina pisteuête. Cả hai cách đọc
đều có thể chấp nhận, nhưng đưa tới hai ý nghĩa rất khác nhau:
(1) Cách đọc thứ nhất, hina pisteusête (subjuntive aorist):
Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em có thể đi đến đức tin”. Trong
trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật là truyền giáo. Những người nhận
bản văn hẳn là những người ở bên ngoài cộng đoàn Kitô hữu.
(2) Cách đọc thứ hai, hina pisteuête (subjuntive present):
Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em tiếp tục tin”. Trong trường hợp
này, mục tiêu của bài tường thuật chỉ là khuyến thiện. Những người nhận bản văn
hẳn là những người thuộc về cộng đoàn Kitô hữu.
Cho dù cách hợp lý hơn là cách đọc thứ hai, ta cũng không thể
chỉ vì có hoặc không có một con chữ sigma (s) mà phân biệt để xác định rằng mục
đích của tác phẩm là truyền giáo hay không. Ta còn phải khảo sát tất cả các
cách dùng liên từ hina, rồi khảo sát cấu trúc văn chương tổng quát của tác
phẩm. Dù sao, khi nghiên cứu TM IV kỹ càng hơn, ta có thể nghĩ rằng tác phẩm
được ngỏ với những người đã là Kitô hữu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong cả hai lần Đức Giêsu hiện ra, thời gian là “ngày thứ nhất
trong tuần”, “ngày của Chúa”, ngày Chúa Nhật. Người chào các môn đệ với những
lời như nhau, “Bình an cho anh em!”. Đây là cuộc gặp gỡ hàng tuần của cộng đoàn
Kitô hữu. Đức Giêsu Phục Sinh tỏ mình ra cho các môn đệ của Người.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không có Tôma (19-23)
Các môn đệ đang sống trong căn nhà cửa đóng then cài, “vì sợ
người Do Thái” (c. 19). Điều này hiểu được sau khi Đức Giêsu qua đời, nhưng có
lẽ cũng phản ánh hoàn cảnh của các môn đệ vào lúc Gioan viết Tin Mừng. Nhiều
lần, trong tác phẩm, ta thấy những ai thuộc về nhóm Đức Giêsu đều sợ bị đuổi ra
khỏi hội đường (x. 9,22). Các môn đệ lúc này không còn là mười hai nữa, mà là
mười một, rồi đọc thêm nữa thì thấy chỉ còn có mười. Khi hiện ra, điều đầu tiên
Đức Giêsu làm là cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các
ông. Rồi Người nói: “Bình an (eirênê) cho anh em!” (c. 19). Không chỉ nói về
bình an, Người còn cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết
thương (tay [chân] và cạnh sườn). Vậy Người chính là Đấng đã chết trên thập
giá, nhưng Người đã thắng cái chết. Không có sự buồn phiền khi trông thấy các
dấu vết của cuộc Thương Khó. “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (c. 20).
Chỉ có niềm vui bởi vì thời điểm tiêu cực cuộc cuộc Thương Khó đã bị vượt qua.
Các môn đệ vui mừng bởi vì Đức Giêsu vui mừng và chuyển thông niềm vui cho họ.
Các ông cũng vui mừng bởi vì Đức Giêsu đã hoàn tất sứ mạng của Người.
Đức Giêsu lại ban cho sự bình an cho các ông một lần nữa, rồi
cho các ông được thông phần vào chính sứ mạng, chính sự sống và quyền của Người
là tha tội. Sau khoảnh khắc nhận biết, như trong trường hợp Maria Mácđala, bây
giờ đến một loại tương quan khác. Ở c. 20, Đức Giêsu nói tiếp: “Như (kathos)
Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (c. 21). Chỉ là một chuyển động
duy nhất: Trong tư cách Chúa Con, Người làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách
môn đệ Người, các môn đệ đi làm chứng về Người và đưa người ta tới chỗ tin vào
Người, để rồi trong Người, các ông được thông hiệp với Chúa Cha. Điểm này rất
quan trọng: tất cả những gì các môn đệ làm, các ông không tự mình mà làm, nhưng
làm theo lệnh Đức Kitô.
Thế rồi để các ông chu toàn được sứ mạng, Đức Giêsu ban cho các
ông Chúa Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (c. 22). Chính Thánh Thần
sẽ ban cho các môn đệ sức mạnh để làm chứng “ad extra” (hướng ra bên ngoài).
Nhưng không chỉ có thế. Dấu chỉ cụ thể của ân ban này là sự tha tội: “Anh em
tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (c. 23). Nối tiếp sứ mạng của Người, các môn
đệ sẽ tha tội và cầm buộc. Có dây liên kết rõ ràng giữa ân ban Thánh Thần và
quyền tha tội để xây dựng nội bộ cộng đoàn. Đều này nêu bật chiều kích “ad
intra” (hướng vào bên trong). Sứ mạng và sự tha tội đi chung với nhau và là hoa
trái của cùng một Thánh Thần do Đức Giêsu ban tặng.
Ở trong một thế giới đang làm cho các ông phải lo sợ, các ông đã
có ở giữa mình Đấng chiến thắng thế gian (x. 16,33) và được đầy sự bình an và
niềm vui của Người. Đức Giêsu đã mở cửa ra cho các ông và làm cho các ông có
thể đi vào thế giới và mang các ân huệ đến cho thế giới. Các môn đệ không được
khép mình lại trong nỗi sợ hãi trước thế giới, nhưng phải đầy tin tưởng đi vào
thế giới.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (24-29)
Khi Đức Giêsu đến, Tôma, một trong Nhóm Mười Hai, không ở với
các môn đệ. Các môn đệ đã gặp Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và được Người sai đi
(cc. 19-23) đảm bảo với Tôma rằng: “Chúng tôi đã được thấy Chúa (heôrakamen ton
kyrion)!” (c. 25). Đây không phải chỉ là lời chia sẻ thông tin về một sự kiện,
mà còn là một lời tuyên xưng đức tin: các ông (“chúng tôi” , tương tự cộng đồng
Hội Thánh) đã thấy Thầy, mà các ông gọi là “Chúa” (danh xứng của Đức Giêsu sau
Phục Sinh), và các ông đã hiểu, đã tin. Nhưng Tôma không tin anh em; ông nêu ra
những điều kiện: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ
ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có
tin” (c. 25). Tôma muốn làm cho rõ ra là Đấng Phục Sinh chẳng phải là ai khác,
mà chính là Đấng đã chịu đau khổ và đã chết, là đây không phải là một Giêsu
khác, nhưng vẫn là Giêsu như trước đây. Trách Tôma cứng tin, hay không hiểu gì
cả, là quá đáng! Ông muốn có một kinh nghiệm cá nhân, ông muốn chính ông đạt
tới đức tin. Đức Giêsu đã chấp nhận các điều kiện của ông. Người chấp nhận tỏ
mình ra theo cách có thể giúp Tôma nhận biết Người.
Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, và cũng như lần trước,
Người ban bình an, sự vững vàng an toàn và sự che chở. Rồi Người ngỏ lời với
Tôma. Làm sao Người biết những chuyện đã xảy ra? Chúng ta không biết, vì bản
văn không nói, nhưng khả năng hiểu biết này của Đức Giêsu chứng tỏ rằng kể từ
nay, Người hiện diện gần gũi với các môn đệ, cho dù về thể lý, họ không nhìn
thấy Người. Người bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy.
Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (c. 27). Người cho Tôma thấy những dấu
chỉ của cái chết và tình yêu của Người, và cũng chứng minh rằng Người là nguồn
mạch ơn cứu độ. Có người cho rằng Tôma đã đưa tay chạm tới Đức Giêsu. Hẳn là
không cần như thế. Tôma đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, một lời tuyên
xưng chưa hề có ai nói lên: “Lạy Chúa của con và là Thiên Chúa của con” (c.
28). Ông đi theo một lộ trình dài hơn mọi anh em, nhưng ông đã đến gần Đức
Giêsu hơn mọi anh em. Vì đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và Thiên
Chúa. Người là Đức Chúa, có quyền năng cứu độ. Quan hệ với Người có tính vững
bền trọn vẹn mãi mãi vì Người là Thiên Chúa. Sau đó, Đức Giêsu đã đưa ra một sự
đối lập giữa “thấy” (horaô) và “tin” (pisteuô) (cc. 8b. 18. 20b. 25ab. 27.
29ab; x. 1,45; 4,50), và nhìn đến các thế hệ tín hữu tương lai. Kể từ nay,
chứng từ về kinh nghiệm mà các môn đệ đã có về Đức Giêsu Phục sinh phải là động
lực đưa moi người đến đức tin, chứ không phải là kinh nghiệm về một cuộc hiện
ra trực tiếp của Đấng Phục Sinh hay về một thánh tích.
* Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu
(30-31)
Cuối cùng, tác giả TM IV tóm tắt mục tiêu của công trình của Đức
Giêsu và cho thấy, đối với những người không được thấy, đâu là nẻo đường đưa
tới đức tin. Các tín hữu hôm nay được mời gọi tin vào Đức Giêsu là Đức Kitô,
Con Thiên Chúa. Đức tin nối kết chúng ta với Người, và nhờ Người là Chúa Con,
chúng ta được đưa vào thông hiệp với Chúa Cha. Đó là sự sống đời đời. Phải
chăng ở đây có nguy cơ chủ quan? Chính là xuyên qua tính chủ quan mà ta đạt
được tính khách quan. Kinh nghiệm đức tin của một người riêng lẻ phải được đối
chiếu với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn. Đức tin của một người tự nó không
đủ. Chứng từ của cộng đoàn luôn cần để bảo đảm cho đức tin của từng người. Tuy
nhiên, đức tin của cộng đoàn không bao giờ thay thế đức tin của từng người. Nếu
TM IV có nhấn mạnh là nhấn mạnh trên điểm này: chiều kích cá vị của tương quan
với Đức Giêsu Phục Sinh.
+ Kết luận
Chúng ta có thể đọc bản văn trên đây như một bức tranh bộ đôi:
trong tất cả các bài tường thuật này, ta ghi nhận chiều kích cá vị trong tương
quan với Đức Giêsu. Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an
(20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an
này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng
Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng
cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự
lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống
giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của
sự bình an của các ông.
Đã nhận được các lời chứng của các môn đệ, kinh nghiệm của Tôma,
các Kitô hữu hôm nay được mời gọi xác tín: quả thật, Đức Giêsu là Đức Kitô, là
Con Thiên Chúa, và hãy tin vào Người. Niềm tin nối kết họ với Người, và nhờ
Người là Chúa Con, các Kitô hữu được đưa vào hiệp thông với Thiên Chúa Cha.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa
họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng
Người vẫn mang những vết tích của cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính
là “Con Chiên đứng như thể đã bị giết” (Kh 5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng
tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là dấu cho thấy sự tàn ác của loài
người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn tin tưởng dấn thân; dấu của sự
tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực tế, biết rằng mình dấn thân vào trong
thế giới nào.
2. Tôma đã tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu theo cách chưa ai
làm: “Lạy Chúa của con và lạy Thiên Chúa của con”. Ông đã đi theo con đường dài
hơn con đường của các anh em, nhưng đã đến gần Đức Giêsu hơn. Đối với cá nhân
ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và là Thiên Chúa. Ông tin, ông quy phục Đức Giêsu,
ông bày tỏ niềm tin vào Người. Maria Mácđala cũng như các môn đệ đã tin vào Đức
Giêsu như là Đức Chúa. Tương quan của họ với Người nay có giá trị vĩnh viễn và
trọn vẹn, bởi vì Đức Chúa ấy chính là Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa
đang tìm đến gần con người để ban cho con người sự sống đời đời. Tôma nhận biết
Đức Giêsu như thế và gắn bó với Người. Do đó, người nào chỉ nói đến một Tôma
thiếu lòng tin, là quên mất là ông đã đạt đến niềm tin nào nhờ sự trợ giúp của
Đức Giêsu. Thật ra các tông đồ đều thấy tin vào sự Phục Sinh là điều không dễ
chút nào!
3. Chúng ta thấy Đức Giêsu để cho mình được nhận biết bởi bà
Maria Mácđala, bởi người môn đệ Người yêu mến và bởi Tôma theo cách khác nhau.
Đây là nét đặc trưng của Tin Mừng Gioan. Các “dấu chỉ” hoặc các “bằng chứng”, được thích ứng với
từng người. Đức Giêsu thuận theo các đòi hỏi của mỗi người. Rồi Người đưa mỗi
người đến với đức tin ở bên kia các dấu chỉ ấy. Luôn luôn cần những dấu chỉ,
nhưng cũng phải luôn luôn vượt qua các dấu chỉ. Đàng khác, kinh nghiệm đức tin
của mỗi người phải được đối chiếu với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn.
4. Nghe lời “Phúc cho những người không thấy mà tin”, chúng ta
cảm thấy phấn khởi vì chúng ta đâu có được thấy Đức Giêsu bằng xương bằng thịt!
Nhưng tại sao lại “có phúc” có lẽ chúng ta nghĩ rằng bởi vì tin dù không thấy
thì khó hơn, nên có công trạng hơn. Thật ra, “có phúc” là vì niềm tin này trung
thực hơn, tinh trong hơn. Người nào thấy thì đã có sự chắc chắn, có chứng cớ
không thể chối cãi về một sự kiện, nhưng như thế thì không phải là đức tin.
5. Hôm nay, ngày lễ “Lòng Thương xót Chúa” mà Đức cố giáo hoàng
Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000, chúng ta nhớ đến hình ảnh Đức
Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska (1905-1938; Đức Gioan-Phaolô
II phong thánh 30-4-2000 và thiết lập lễ Lòng Thương Xót Chúa) để lại: Người
mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ
đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích
Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy
cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức Gioan-Phaolô II thưa với Người: “Lạy
Chúa Giêsu, con tín thác vào Người!” Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng
Chúa thương xót qua lối sống hợp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ
cho nhau.
10. Chúng tôi đã
thấy Chúa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sau khi được phục sinh, Đức Giêsu được tôn vinh lên làm Chúa,
nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ.
Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.
Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp, khỏi căn nhà đóng
kín cửa âm u.
Ngài chúc cho họ bình an ba lần (c.19.21.26), thứ bình an ngay
giữa những bất an, dao động.
Đức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến
thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, vì được Ngài cho tham dự
vào cùng một sứ mạng: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em."
Chỉ có một người không vui, đó là ông Tôma. Ông này vốn có óc
thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Đức Giêsu phục sinh.
Chỉ biết ông đã "không ở với" các môn đệ, lúc Ngài đến. Có vẻ giữa
ông và cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn, khi ông
thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn: "Chúng tôi đã thấy
Chúa." Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan. "Nếu tôi
không thấy... nếu tôi không xỏ ngón tay... nếu tôi không thọc bàn tay... tôi sẽ
chẳng tin đâu." Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Đức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai. Ngài
muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến. Ngài chê ông
cứng lòng trước những lời chứng của anh em, nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều
ông đòi hỏi. Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã
thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại. Quanh chúng
ta vẫn có nhiều người giống Tôma. Họ đòi "thấy và chạm đến" những
thực tại vô hình, như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau.
Nếu "thấy và chạm" có nghĩa là "có cảm
nghiệm", thì đòi hỏi trên thật là chính đáng. Đức Giêsu đã cho Tôma được
thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng giúp người khác thấy và chạm đến
những điều vô hình nhưng có thật. Chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên
Chúa, cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao, cần bay lên khỏi cái nặng
nề của thân xác như người đã cảm được cái nhẹ bổng của linh hồn.
Truyền giáo là làm cho người ta tin, làm cho người ta thấy và
chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta phải nói được rằng:
"Tôi đã thấy Chúa" (Ga 20,18). Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói
được rằng: "Chúng tôi đã thấy Chúa" (Ga 20,25).
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn nghĩ gì về đức tin của bạn? Có khi nào bạn thấy đức tin
đó mạnh không? Nếu bạn thực sự tin vào Chúa, vào sự phục sinh, bạn có thấy cuộc
đời bạn sẽ có những thay đổi và chuyển biến lớn lao không?
2. Có ai là Tôma trong nhóm của bạn không? Có ai chưa được hưởng
niềm vui phục sinh? Bạn đã làm gì để nâng đỡ họ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua
của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm vượt
qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình
an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
11. Hãy nhìn xem
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo, hậu quả của những
lần bị trầy trụa, té ngã. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua. Vết sẹo làm ta kém
đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ, Ngài giúp họ
nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo
nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu;
Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo, dù điều đó
chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Chúng gợi lên
những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có chúng thì cũng
chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái
chết nhục nhã.
Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu thì mọi sự sẽ trở nên
nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành. Có
những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương. Các vết sẹo
của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Chính lúc đó ông khám
phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến để thỏa mãn những
đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào
thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin
Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng
ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin.
Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình, của Hội Thánh,
của cả thế giới, để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt giữa những trăn
trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.
"Phúc cho những ai không thấy mà tin", và phúc cho
những ai biết thấy nên tin.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy Chúa Phục Sinh đã tặng cho
các môn đệ những món quà nào?
Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu trước thái độ của ông
Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma! Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải
gỡ những xung đột trong nhóm của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi.
Dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại
với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người - cũng
như con - đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và
sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho
đi.
Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như
một lời kinh. Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin
vâng cuối cùng. Và con sẽ về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
12. Tần
số tình yêu – Thiên Phúc
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh
của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha: – Ba ơi! Cái tháp đó
để làm gì vậy?
Người cha giải thích: – Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh,
hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu
ích cho đại chúng.
- Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!
- Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó,
con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ
ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng
mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay
sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả
Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay
vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn
biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga
20,28).
Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm
xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng
Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và
Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số, đó là tần số
Tình Yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy
ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt
đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh
hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ
biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên “người môn đệ Đức Giêsu
thương mến” (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô
thì “rất đỗi ngạc nhiên” còn Gioan thì “Ông đã thấy và ông đã tin”? (Ga 20,8).
Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin,
và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức
tin. Nhưng Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay những người đã không thấy mà tin!” (Ga
20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu
chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “ngày thứ ba,
(Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy” (Hs 6,2) và phép lạ “ông Giôna ở trong bụng
cá ba ngày ba đêm” (Gn 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn
chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm phục sinh của chúng ta hôm nay không phải
là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các
Tông Đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô
đứng chung với mười một Tông Đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: “chính Đức Giêsu đó,
Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”
(Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Đức Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của
chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của
anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr
15,17).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng
con tin Chúa mãnh liệt hơn.
Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa
mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen.
13. Nỗi
oan Tôma – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về
một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực
mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu
cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ
do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia
phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến
niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta
gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy
mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.
1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong
đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì
chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin.
Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc
bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy
vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của
cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở
thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ,
đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên
tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế
nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với
người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc
cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung
nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy
Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định
chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành.
Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để
cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức
mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy
trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục
sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất
cả sẽ trở thành hạnh phúc.
2. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn
lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không
phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con
người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi
mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như
thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả
tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ
khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh
nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ
chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem
ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm
một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực
chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không
có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin
nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần
xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước
đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái
độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe
lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ:
“Nhưng hãy tin!”
3. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui
trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm
vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những
kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách
sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn
biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh
chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận
của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân
Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa
với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi
niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm
loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt
nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi
tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không
thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một
thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy,
Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm.
Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe
trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu
bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều
mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để
sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để
tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh
phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi
oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm
nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm
lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được
hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
14. Suy niệm
của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM
Đức Giêsu đã phục sinh. Nhưng điều này đâu có quan hệ gì đến
tôi, nếu Đức Giêsu cũng tương tự như bao người khác, cũng chỉ là một người như
bao người khác: họ được nhưng đâu có nghĩa rằng tôi được? Đức Giêsu Phục Sinh
chỉ ảnh hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu Ngài là Thiên Chúa.
Qua các tông đồ Thiên Chúa của Đức Giêsu Phục Sinh hiện diện
Sau khi Đức Giêsu phục sinh, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các
tông đồ đã nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa. Và dưới tác động của Thánh Thần
các tông đồ đã can đảm tuyên xưng, rao giảng Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống
lại. Và hôm nay sách tông đồ công vụ cho thấy những người tin vào Đức Giêsu đã
trở thành một nhóm đặc biệt, trở thành dấu chỉ của Đức Giêsu Phục Sinh cho con
người thời đó.
Thánh Phêrô trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho con
người. Bóng của Ngài ngả xuống trên bệnh nhân nào thì người đó được khoẻ lại.
Có người nghĩ: không chừng các tông đồ còn làm được những điều lớn lao hơn cả
Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu cũng nói: “Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm người
ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta về cùng
Cha” (Ga.14, 12).
Ngày xưa khi Chúa về trời, các tông đồ đã thành dấu chỉ Thiên
Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội Thánh nơi các tín hữu, Thiên Chúa cũng hiện
diện với con người hôm nay.
Đức Giêsu Phục Sinh là Thiên Chúa
Đức Giêsu khi còn tại thế, Ngài đã nói những lời người Do Thái
không thể chấp nhận được, như Ngài nhận Ngài có quyền tha tội (Mc.2,7), Ngài có
trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), Ngài
ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Người Do Thái không thể chấp nhận
những lời đó, nên đã lấy đá định ném chết Ngài. Nếu Ngài không là Thiên Chúa,
quả thật Ngài phạm tội “phạm thượng”: là người phàm mà dám nhận mình ngang hàng
với Thiên Chúa.
Ngài đã sống lại, nghĩa là, những điều Ngài nói là thật, vì nếu
Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài! Như vậy, Ngài có quyền tha tội
(mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài
là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật.
Ngài là Thiên Chúa thật, nghĩa là Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Và do đó, người ta biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, vì nếu không
yêu con người, tại sao Thiên Chúa nhập thể làm người? Tại sao Ngài phải chấp
nhận cái chết ô nhục trên thập giá? Tại sao Ngài mãi mãi là người? Chính vì
tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên Chúa trở thành một người như bao người.
Thiên Chúa làm tất cả cho con người.
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con
Khi hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần,
Đức Giêsu nói với các tông đồ: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Như
vậy, các tông đồ, và sau đó là các Kitô hữu, có cùng sứ mạng với Đức Giêsu.
Sứ mạng của Đức Giêsu, của Ngôi Lời nhập thể, là làm sao để con
người nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa! Để làm được điều này, Lời Thiên
Chúa đã nhập thể, đã sống như một người hoàn toàn, đã hiến mình làm của ăn cho
con người, đã chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá vì yêu con người, đã yêu
con người đến chết.
Sứ mạng của các tông đồ, của Hội Thánh ngày nay, của mỗi người
tín hữu, là làm chứng cho tình yêu, làm cho thế gian biết rằng Thiên Chúa yêu
thương họ vô cùng. Để làm được điều này, cũng đòi tín hữu phải hy sinh, phải
yêu thương con người ngày nay đến độ quên mình như Đức Giêsu. Thập giá minh
chứng tình yêu. Lửa thử vàng, gian nan thử tình yêu. Tình yêu cải biến, chinh
phục lòng người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, do đâu các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa?
2. Các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa khi nào? Tại sao bạn
biết vậy?
3. Sứ mạng của các Kitô hữu hôm nay là gì?
15. Tin
Trong thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người làng
Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống lại đã gây nên nhiều thái
độ khác nhau: Tin và không tin, chấp nhận và chống đối. Chúng ta cùng nhau phân
tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng ta, cũng như soi sáng cho
chúng ta tin vào Đức Kitô Phục sinh hơn.
Trước hết tin là phải chấp nhận có một thế giới khác vượt ngoài
tầm tay và suy tưởng của chúng ta. Trong thời đại khoa học này, chúng ta dễ bị
cám dỗ, chỉ tin vào những gì thấy được và hợp lý mà thôi.
Chính vì thế một bác sĩ giải phẫu đã tuyên bố:
- Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng thấy linh hồn ở đâu.
Hay như một phi hành gia sau lần bay quanh mặt trăng ba vòng
cũng tuyên bố:
- Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy Chúa nào ở trên trời cả.
Tôma cũng đòi phải thọc chính tay mình vào cạnh sườn Chúa thì
ông mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi mình là trung tâm điểm và bắt
Thiên Chúa phải thế này thế nọ thì chúng ta mới tin.
Tiếp đến, tin vào Chúa Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều. Hai
người yêu nhau dù có tâm sự tính toán kỹ với nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn
phải dám liều. Biết ngày mai sẽ ra như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt
làm chi.
Chẳng bao giờ con người có thể hiểu hết về Thiên Chúa cũng như
về thế giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay sống lại, đồng thời
Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu sau khi chết.
Cũng như Tôma, chúng ta chỉ được nghe nói lại. Ngài là Đấng vô
hình và dường như luôn vắng bóng và im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta.
Tin như vậy không phải là dám liều, dán trao cả cuộc đời và con người chúng ta
vào tay Đấng vô hình đó sao. Với Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp
tục từ bỏ những dự định riêng tư để bước theo Ngài.
Sau cùng, tin đòi phải chiến đấu. Đức tin không đem lại sự yên
ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá hủy con người cũ trong chúng ta. Bởi
đó chúng ta phải chiến đấu với chính mình. Con người vẫn có khuynh hướng ôm
chắc lấy những gì có sẵn, không muốn đánh mất thế giới họ đã tạo ra như của
cải, mạng sống.
Tin vào Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc sống về đời sau Chúa
hứa. Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại giá trị tất cả những gì chúng ta
đang có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi đức tin còn đòi
chúng ta phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ, nếu của cải, mạng sống ngăn cản
Tin Mừng. Nếu không chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như vậy, chúng ta
sẽ bị kéo ghì và ở lại mãi trong thế giới vật chất…
Hơn nữa, đó cũng chính là não trạng chung của những người chung
quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể chẳng có Tin Mừng Phục sinh. Sống
ngược với não trạng trần thế ấy đòi chúng ta phải có một ý chí phấn đấu và mạnh
mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có cảm giác lạc lõng và bơ vơ, không
giống ai và bị thiệt thòi ở đời này.
Sống đức tin và đón nhận niềm vui của Đấng đã sống lại là điều
khó khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ đặt lại vấn đề đức tin, linh hồn, đời sau,
giống như người Do Thái ngày xưa luôn muốn trở lại với kiếp nô lệ nhưng no nê,
bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng và đòi hỏi.
Hãy vững niềm tin vì Chúa đã sống lại, Ngài ở với chúng ta luôn
mãi.
16. Dấu
ấn của đau khổ
Tôi không ngạc nhiên trước lời đòi hỏi của Tôma. Điều làm tôi
suy nghĩ trong lúc này đó là tại sao thân xác phục sinh của Đức Kitô lại còn
mang những thương tích, những dấu ấn của đau khổ?
Tôi cứ nghĩ rằng: sau khi sống lại, thân xác vinh quang của Đức
Kitô hẳn không còn vết tích nào của những cực hình phải chịu.
Bởi vì, sau cuộc thương khó là sự sống lại, sau đau khổ là vinh
quang, sau ngày thứ sáu tuần thánh là sáng Chúa nhật phục sinh. Sự tương phản
mãnh liệt đến độ chúng ta tưởng như có một bước nhảy vọt, cắt đứt và chia lìa
giữa hai tình trạng kể trên, như thể sự phục sinh và vinh quang là phần thưởng
cho những đau khổ Ngài đã phải chịu trong suốt cuộc thương khó, để rồi chúng ta
sẽ dần dần quên đi những kỷ niệm bi đát ấy.
Trong cuộc sống chúng ta thấy người ta thường tặng thưởng huân
chương cho những kẻ can đảm cứu vớt người bị chết đuối hạy gặp phải tai ương
hoạn nạn. Tấm huân chương xứng đáng với những hy sinh mà kẻ ấy đã phải gánh
chịu. Thế nhưng, đó cũng chỉ là một qui ước do xã hội đặt ra.
Sự phục sinh của Đức Kitô thì khác. Đó không phải chỉ là một dấu
chứng của chiến thắng, của phần thưởng mà thôi, nhưng còn là một diễn tiến liên
tục nơi thân xác Đức Kitô. Chính Ngài đã cắt nghĩa:
- Như hạt lúa mì rơi xuống đất, có mục nát đi thì mới trổ sinh
nhiều bông hạt.
Giữa hạt giống được gieo trồng và bông lúa chín vàng dưới ắng
nắng mặt trời có một sự liên tục trong phát triển. Bông lúa chỉ là kết quả của
hạt giống được gieo trồng.
Nơi khác, Ngài cũng nói:
- Như người đàn bà lo âu khi giờ của mình đã đến, nhưng sau đó
thì vui mừng vì đã sinh được một người cho thế gian.
Sự sinh nở chỉ là kết quả của việc thai nghén. Giữa hai sự kiện
này luôn có một sự liên tục trong phát triển.
Cũng thế, Đức Kitô đã bước vào sự chết và sống lại. Chúa nhật
phục sinh không phải chỉ đến sau ngày thứ sáu tuần thánh, mà còn là một sự tiếp
nối, một kết quả, một hoa trái.
Chính vì thế, chúng ta hiểu được tại sao Tôma có thể nhìn thấy
những dấu ấn của đau khổ, của cực hình trên thân xác sống lại của Đức Kitô.
Vinh quang xuất phát từ thập giá và những dấu đanh đã không làm
xấu đi, trái lại còn làm đẹp thêm cho thân xác phục sinh của Ngài.
Cũng giống như trên khuôn mặt nhăn nheo của một cụ già. Những
nếp nhăn ấy chính là kết quả những năm tháng dài của cuộc đời với những khổ đau
và tang tóc, những hy sinh và gian khổ, những yêu thương và phục vụ. Những nếp
nhăn ấy tạo nên vẻ đẹp của kinh nghiệm, của già dặn và chín chắn. Và rồi cặp
mắt của cụ già sáng lên niềm hy vọng được gặp lại chính cái nhìn của Thiên
Chúa.
Để kết luận, chúng ta hãy suy gẫm lời Chúa đã phán để hiểu được
toàn bộ cuộc đời của Ngài, đó là Con người phải chịu đau khổ, và phải chết đi
trước khi được bước vào vinh quang.
17. Dấu
chân của Thiên Chúa – R. Veritas
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhiều năm trước đây có một nhà bác học vượt qua sa mạc với mấy
người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà bác học để ý thấy cứ chiều đến, khi hoàng
hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô tận, thì những người Ả Rập cùng đi đường
đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời chắp tay cầu nguyện.
Nhà bác học hỏi:
- Các ông làm gì vậy?
Họ thản nhiên trả lời không chút do dự: Chúng tôi sấp mình thờ
lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của chúng tôi.
Nhà bác học hỏi lại một cách mỉa mai:
- Vậy chứ các ông đã thấy Chúa bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới
Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng của Ngài khi nào chưa?
Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:
- Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt thấy tai nghe tiếng Chúa
bao giờ cả?
Nhà bác học sửng sốt lên giọng:
- Các ông thực là những người điên, các ông mù quáng sấp mình
thờ lạy một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc tai chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không đáp lại lời nào hết.
Sáng hôm sau, mặt trời chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy,
bước ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:
- Ông hãy nhìn xem, chắc chắn là tối hôm qua có con lạc đà nào
đã đi qua đây rồi.
Một tia sáng đầy hy vọng và vui mừng loé lên trong ánh mắt hướng
dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học những câu hỏi liên tiếp:
- Vậy thì chắc là ông đã thấy lạc đà đi ngang qua đây tối hôm
qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông nó đang lúc ông ngủ chăng?
Nhà bác học thật thà đáp lại:
- Không, tối hôm qua tôi ngủ ngon, đâu có thấy lạc đà và cũng
không sờ tới lông nó.
Hướng dẫn viên nói:
- Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết là
lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi ông lại nói là mắt ông không
thấy, tai ông cũng không nghe tiếng chân lạc đà.
Nhà bác học cương quyết cãi lại:
- Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân
lạc đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?
Cùng lúc đó, mặt trời từ từ ló rạng kéo dài những tia sáng rực
rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay trịnh trọng tuyên bố:
- Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia
sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là dấu chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa
mà chúng tôi tôn thờ.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu Phục Sinh đã nói với ông Tôma: “Phúc cho ai không
thấy mà tin”. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học. Đời sống được
xây dựng trên khoa học, được hướng dẫn bởi khoa học, được đánh giá bằng khoa
học. Cái gì cũng phải có khoa học. Mà khoa học thì phải chính xác, rõ ràng, có
thể phân tích, mổ xẻ và kiểm nghiệm được. Tinh thần khoa học thực nghiệm được
áp dụng vào mọi lãnh vực, kể cả tôn giáo. Người ta nhân danh khoa học mà phê
phán tôn giáo. Cái gì có tính khoa học, kiểm nghiệm được mới đáng tin, ngoài ra
là vấn đề tình cảm, cuồng tín, mê tín. Thái độ phê phán và não trạng thực
nghiệm của con người thời nay không khác bao nhiêu so với tâm tính thực nghiệm
và cứng rắn của Tông đồ Tôma thời xưa trong câu truyện Tin Mừng hôm nay.
Nghe các bạn kể lại: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa Phục Sinh”, ông
Tôma vẫn không tin. Ông muốn dựa vào kinh nghiệm giác quan, chứ không phải dựa
trên các chứng từ. Chúa Giêsu đã sẵn sàng đáp ứng và thoả mạn nguyện vọng của
ông. Ngài đã hiện ra và bảo ông: “Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn
xem tay Thầy… Hãy đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đồng thời Chúa
Giêsu cũng mời gọi ông: “Đứng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin…”. Không những
tin vì đã thấy mà còn phải tiến đến chỗ tin cho dù không được thấy. Dựa vào Lời
Chúa, ông Tôma đã tin mà không cần kiểm chứng nữa. Lúc ấy, Chúa Giêsu mới mạc
khải chân lý này: “Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”.
Thưa anh chị em,
“Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”. Lời này như được
ngỏ với chúng ta, những người tín hữu Kitô hôm nay mà lòng tin dựa trên chứng
từ của các Tông đồ, chứ không dựa vào kinh nghiệm giác quan: sống cách xa biến
cố Chúa Phục Sinh gần 2000 năm, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận đức tin. Tin
nơi Thánh Kinh, tin nơi Giáo Hội, những bảo chứng đáng tin nhất, không còn cách
nào khác. Với ơn đức tin, chúng ta có thể gặp Chúa và tiếp cận với Ngài. Đó là
một hạnh phúc thật sự. Theo ý hướng đó, lời tuyên xưng của ông Tôma cũng phải
là lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, của mỗi người ca vào Đức Kitô ”Lạy
Chúa là Thiên Chúa của con!”.
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh thực sự đem lại cho người Kitô
hữu một niềm hân hoan khôn tả, như Thánh Phêrô đã xác quyết: “Dù bây giờ anh em
không thấy Ngài, nhưng anh em tin, nên anh em sẽ được vui mừng khôn tả, vì đã
nắm chắc thành quả của đức tin anh em, là ơn cứu độ” (1Pr 1,9). Niềm hân hoan đó không chỉ lắng
sâu trong tâm hồn, mà còn tràn ra bên ngoài trong cuộc đời các Kitô hữu. Điển
hình là niềm vui trong cuộc sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Họ chuyên
cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ,
siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu,
đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được
toàn thể dân chúng mến thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng
thêm đông” (Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, nếu Giáo Hội hôm nay có được cuộc sống như
các tín hữu tiên khởi thì Giáo Hội lo sợ gì trước những tra vấn của khoa học.
Chẳng những thế, Giáo Hội còn có khả năng cống hiến cho thời đại khoa học một
lời chứng sống động, hùng hồn về hoạt động của Đấng Phục Sinh trong lịch sử,
ngang qua cuộc sống dấn thân của các Kitô hữu để đem lại tình yêu và sự sống
cho anh em đồng loại.
Con đường của lòng tin chúng ta hôm nay là con đường của lòng mến.
Càng yêu mến nhiều, càng tin vững chắc. Và những người có lòng mến Chúa thường
không cần phải tin, mà họ thấy. Thánh Tôma tiến sĩ cầu nguyện: “Chúa ơi, con
không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma, nhưng con tuyên xưng Chúa là
Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa
hơn nữa”. Và có lẽ đó cũng là lời cầu xin của mỗi người tín hữu chúng ta, trong
cuộc hành trình đức tin trên trần thế này cho đến ngày được xuất hiện trong
vinh quang với Đấng Phục Sinh.
18. Phục
sinh
Chứng lý về sự Phục sinh của Chúa Kitô, không chỉ dựa vào sự
kiện ngôi mộ trống, mà còn phải kể đến những lần Đấng Phục sinh hiện ra với
nhiều người, cũng như phải quan tâm đến những lời chứng của những người đã tận
mắt nhìn thấy Chúa Kitô sống lại. Trang Tin Mừng hôm nay sẽ cung cấp cho chúng
ta những chứng lý quan trọng và sống động ấy.
Chúa Kitô Phục sinh hiện đến vào lúc thánh Tôma vắng mặt, cho
nên ông đã không tin rằng Chúa Giêsu sống lại. Vì thế, ông đòi hỏi một sự kiểm
chứng. Thử hỏi 10 vị tông đồ kia, nếu không tận mắt nhìn thấy và đích thân gặp
gỡ Đấng Phục sinh, các ông có thể dễ dàng chấp nhận lời của anh em khác không?
Chúng ta rất hồ nghi. Bởi lẽ, chuyện kẻ sống lại là chuyện rất khó chấp nhận.
Và chính các ông đã không ít lần tỏ ra nghi ngờ, nao núng, kể cả sau khi đã gặp
Đấng Phục sinh.
Chúng ta không nên trách Tôma, ngược lại phải biết ơn ngài. Bởi
vì chính “sự cứng lòng” của ngài lại làm kiên vững cho niềm tin yếu đuối của
chúng ta, khi Đấng Phục sinh đáp trả đòi hỏi sự kiểm chứng bằng giác quan của
thánh Tôma: “Tôma hãy đặt ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; đưa tay ra mà
đặt vào cạnh sườn Thầy”. Điều này không chỉ để thỏa mãn đòi hỏi riêng của thánh
Tôma, mà còn đáp trả cho yêu cầu của tất cả chúng ta, những kẻ “không thấy” mà
được gọi là “tin”, nhất là trong thời đại khoa học thực nghiệm hôm nay.
Đồng thời, “sự cứng lòng” của thánh Tôma cũng làm cho lời chứng
của cộng đoàn thêm mạnh mẽ. Ngày nay, chúng ta đều là những người không thấy mà
tin dựa vào lời chứng của các tông đồ – những kẻ dám sống, dám chết cho niềm
tin của mình.
Thánh Tôma là môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là
người đầu tiên tuyên xưng đức tin. Sau khi được kiểm chứng về việc Phục sinh,
ngài đã tin – một niềm tin đầy đủ nhất khi ông tuyên xưng: “Lạy Chúa con, lạy
Thiên Chúa của con”. Khi ông tuyên xưng như thế, thì lời chứng của các tông đồ
thật sự trở thành “đắt giá”, thật sự trở thành nền tảng vững chắc cho việc
tuyên xưng đức tin của bao thế hệ Kitô hữu.
Hơn thế nữa, Đấng Phục sinh hiện ra không chỉ để chứng minh
Người đã sống lại, nhưng còn để ban cho các ông sự sống mới “Người thổi hơi vào
các ông…”
Con người vốn chỉ là bùn đất và chỉ có thể trở nên sống động qua
việc “thổi hơi” của Thiên Chúa. Thì ở đây, chúng ta cũng nói được rằng chính
Đấng Phục sinh đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới, Ngài thổi hơi để biến đổi
các tông đồ từ những con người yếu đuối, nhút nhát trở thành những con người
mới với sức sống mới, trở thành những khí cụ sắc bén trong Thánh Thần để rao
giảng Tin Mừng Phục sinh.
Đồng thời với việc ban sự sống mới là mệnh lệnh sai đi: “Như Cha
đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Tiếng “như” ở đây không phải là so sánh, mà là nền tảng
và cội nguồn: nguồn cội của mệnh lệnh là chính Chúa Cha và nền tảng của mệnh
lệnh là sứ vụ cứu thế mà Đấng Phục sinh hoàn thành. Các tông đồ được sai đi để
làm chứng về Đấng Phục sinh và để nối dài hành động của Người trong thế giới.
Hành động này giải thoát thế giới khỏi sự thống trị của tội lỗi, mà sức mạnh
lớn nhất của nó là sự chết đã bị vượt qua.
Mỗi chúng ta, nhờ bí tích Thêm sức cũng được mời gọi trở nên
những tông đồ hăng say làm chứng cho Chúa ngay trong môi trường sống của mình.
Trong thời đại hôm nay, chúng ta làm chứng cho Chúa Kitô Phục
sinh không chỉ bằng lời rao giảng mà còn phải bằng chính cuộc sống của chúng
ta. Cụ thể trong xã hội hôm nay, có rất nhiều người nhất là những người trẻ, họ
luôn sống trong lo âu, sợ hãi, khủng hoảng hoặc không cần biết đến ý nghĩa cuộc
sống, họ lao vào những tệ nạn xã hội mà không thoát ra được. Trước tình trạng đó,
lẽ nào chúng ta ngồi yên? Là những con người của thiên niên kỷ mới này, chúng
ta phải là những người đi bước trước đem sự bình an và đức tin sâu sắc giúp họ
thoát khỏi thất vọng để tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống.
Mỗi chúng ta cần phải mở rộng lòng dám đi sâu vào thế giới để
tìm hiểu và đem Chúa Phục sinh vào mọi lãnh vực, không bo bo trong vỏ ốc nhưng
phải mở rộng ra khắp thế giới.
Có một câu chuyện kể lại rằng, một nhà thông thái kia muốn sáng
lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan của mình
ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng thấy ai theo. Ông bèn than thở với một người
bạn thì nhận được một lời khuyên: “Nếu anh muốn người ta theo anh thì dễ thôi,
anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối cùng, thì thứ sáu anh để
người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa nhật anh sống lại! Chắc
chắn người ta sẽ theo anh rất đông?”.
Quả là lời khuyên độc đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả
của lời khuyên này chính là Napôlêon!
Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người
ta chính là sự sống lại.
Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung
tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.
Đấng Phục sinh đã chọn “ngày thứ nhất trong tuần” làm ngày gặp
gỡ các tông đồ. Như thế, “Ngày thứ nhất trong tuần” đã trở thành ngày của cộng
đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát mừng niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của
cuộc “sáng tạo mới”. Xin cho mỗi ngày Chúa nhật cũng trở thành một ngày giúp
chúng ta sống thánh thiện, hiệp thông, yêu thương… Để mỗi chúng ta trở thành
một bằng chứng cho sự hiện diện sống động của Đấng Phục sinh.
19. Niềm
tin
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn suy nghĩ về thái độ của
Tôma. Tôma không phải là một kẻ cứng lòng, ông chỉ muốn tin vào những gì là rõ
ràng và hiển nhiên. Vì thế, khi nhìn thấy Chúa, ông đã vội vã kêu lên:
- Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.
Và Chúa Giêsu đã nói một lời đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và
khích lệ:
- Phúc cho ai không trông thấy mà tin.
Có lẽ khi nói lời này Chúa Giêsu đã nghĩ tới hằng triệu triệu
người tin tưởng và trung thành phụng sự Ngài, dù chưa một lần nhìn thấy.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta chưa một lần nhìn thấy Ngài, chưa
một lần được đụng tới gấu áo Ngài, chưa một lần được nghe Ngài giảng, chưa một
lần được chứng kiến phép lạ Ngài làm. Dầu vậy, chúng ta vẫn tin tưởng, yêu mến
và thờ lạy Ngài.
Thế nhưng có kẻ đã bảo:
- Đó chỉ là một niềm tin tưởng mù quáng vào một người đã sống
cách đây hơn 2000 năm, niềm tin tưởng ấy không còn thích hợp với não trạng của
con người thời nay.
Tôi xin trả lời:
- Đức tin của chúng ta không mù quáng, nhưng dựa trên những cơ
sở vững chắc.
Thực vậy, sự hiện diện của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử như
sự hiện diện của César, của Khổng Tử. Hàng ngàn năm về trước, các tiên tri đã
loan báo và trong Tân Ước, cuộc đời Chúa Giêsu đã được xác định một cách rõ
ràng và cụ thể, cùng với những lời Ngài đã dạy và những việc Ngài đã làm. Qua
đó chúng ta thấy được rằng: Ngài là Thiên Chúa. Bởi vậy, chúng ta hãy tin tưởng
vào lời Chúa, dù lời ấy nó không phù hợp với sở thích và nguyện vọng riêng tư
của chúng ta.
Thế nhưng, có kẻ lại bảo:
- Nếu đó là những sự kiện cụ thể và hiển nhiên, tại sao không
lôi kéo được hết mọi kẻ tài cao và học rộng?
Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi, ngày nay có nhiều người trí
thức vỗ ngực tự xưng mình là kẻ không tin tưởng. Để có một cái nhìn đứng đắn,
chúng ta cần phải xác định: Những chân lý siêu nhiên không phải là những chân
lý toán học như hai với hai là bốn. Để đón nhận, cần phải có một tâm hồn sẵn
sàng. Đức tin mãi mãi vẫn là một hồng ân của Thiên Chúa. Những đam mê vẩn đục
thường là những chướng ngại vật cản ngăn con đường đức tin.
Tôi xin lấy một thí dụ: Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô chết bốn
ngày sống lại. Đó là một sự kiện lạ lùng, thế nhưng, những kẻ chứng kiến đã có
phản ứng như thế nào? Phúc âm đã kể lại:
- Có những người đã tin vào Chúa, nhưng có những kẻ lại hậm hực
tức tối, để rồi tìm mọi cách để giết Chúa. Trước một sự kiện hiển nhiên như
thế, người thì bảo: Ngài thực là Thiên Chúa hãy tin vào Ngài. Kẻ thì bảo: Ông
ta là một tay nguy hiểm, cần phải khử trừ.
Ngày nay cũng thế. Có những nhà bác học Công giáo thì cũng có
những nhà bác học vô thần. Và đây chính là vai trò của tác dụng ơn Chúa trong
tâm hồn mỗi người. Người thì công nhận, kẻ thì từ khước và làm cho ơn Chúa trở
nên vô hiệu quả, như một câu danh ngôn đã nói:
- Chính trái tim làm cho đầu óc bị hư hỏng.
Cho đến tận cùng thời gian, nhân loại này luôn luôn chia thành
hai giới tuyến: Giới tuyến của những người tin tưởng vào Chúa và giới tuyến của
những kẻ chối bỏ Ngài. Cũng như trên thiên đàng vào thời nguyên thủy đã có
những thần lành và thần dữ. Vậy thì chúng ta thuộc về giới tuyến nào? Hãy tuyên
xưng đức tin như Tôma ngày xưa: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi.
20. Suy niệm
của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Người cứng tin như Tô-ma có gì hay hơn kẻ tin dễ dàng không?
2. Người thời đại có dễ tin như những người thời đại trước
không? Người thời đại sau thì sao? Tại sao lại như vậy?
3. Có cần phải thay đổi phong cách rao giảng Tin Mừng cho những
thế hệ con cháu chúng ta không? Tại sao? Một cách thực tế phải thay đổi thế
nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tô-ma là một mẫu người có tính thực nghiệm.
Khi chưa đích thực gặp lại thân xác đã sống lại của Đức Giêsu,
thì ngoài Tô-ma ra, các tông đồ khác dường như không cảm thấy có vấn đề gì
trong việc tin Ngài đã sống lại. Các ông đã tỏ ra tương đối dễ tin. Nhưng riêng
Tô-ma, ông không tin dễ dàng như thế, vì từ xưa đến nay, ông chưa hề nghe nói
có một ai tự mình sống lại từ cõi chết bao giờ. Cứ bình thường mà xét, phải nói
rằng Tô-ma khôn ngoan và thận trọng hơn các tông đồ khác.
Đối với người như Tô-ma, Đức Giêsu đã không phiền trách gì về sự
cứng lòng tin của ông. Ngài chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng để bổ túc cho sự cứng
tin hợp lý ấy: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không
thấy mà tin!" Và Đức Giêsu đã cho phép Tô-ma được xỏ tay vào lỗ đinh ở tay
và lỗ đòng đâm ở cạnh sườn Ngài. Nhưng có lẽ chính nhờ như thế mà Tô-ma sẽ tin
chắc vào sự sống lại của Ngài hơn ai hết. Người cứng tin mà đã tin thì sẽ tin
rất vững. Còn kẻ quá dễ tin thì cũng sẽ dễ dàng mất niềm tin, hoặc cũng sẽ dễ
dàng tin những điều khác dù chưa đủ nền tảng để tin.
2. Con người thời nay và nhất là những thế hệ sau sẽ càng ngày
càng có tính thực nghiệm giống như Tô-ma.
Ngày nay, con người đã bước vào kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật,
nên con người chịu ảnh hưởng của tinh thần khoa học thực nghiệm rất nhiều. Tinh
thần khoa học thực nghiệm chính là tinh thần của Descartes (1596-1650):
"Chỉ tin sau khi đã chứng minh". Và tinh thần ấy được thể hiện thành
chủ trương "nghi ngờ có phương pháp và phổ quát" (doute méthodique et
universel) của ông. Nghi ngờ để tìm tòi hầu đi đến kết luận chắc chắn. Tinh
thần khoa học thực nghiệm ấy đòi hỏi con người trước khi đi đến một kết luận,
cần phải trải qua ba giai đoạn: nhận xét, đưa ra giả thuyết, và thí nghiệm kiểm
chứng như đòi hỏi của Claude Bernard (1813-1873).
Tinh thần ấy chính là tinh thần của Tô-ma, chính vì thế, các nhà
khoa học Công giáo đã nhận thánh Tô-ma làm bổn mạng của các nhà khoa học. Riêng
bản thân tôi, người viết bài này, cũng rất thích sự cứng tin của Tô-ma, và coi
đó như một đức tính rất cần thiết để sự phán đoán và lời nói của mình có giá
trị, đáng tin. Sự đáng tin không chỉ đòi hỏi đức tính chân thật, mà còn đòi hỏi
sự phán đoán chính xác và chắc chắn. Một người hết sức thật thà không bao giờ
muốn lừa dối ai, nhưng lại dễ tin và hay bị lường gạt, thì phán đoán và lời nói
của người ấy không còn đáng tin nữa. Thiết tưởng những người rao giảng chân lý,
ngoài đức tính chân thật, cần phải có sự chững chạc trong cách phán đoán để trở
nên đáng tin trước mặt mọi người.
3. Đối tượng Phúc Âm hóa trong tương lai là những thế hệ có đầu
óc khoa học thực nghiệm như Tô-ma.
Những nhà truyền giáo hiện nay tại Việt Nam thường thuộc lứa
tuổi giao thời giữa hai thời đại: thời khoa học chưa ảnh hưởng mạnh và thời
khoa học ảnh hưởng rất mạnh trên lề lối suy nghĩ của con người. Thời trước,
người ta dễ tin những ai có uy tín (như các giám mục, linh mục, tu sĩ, hoặc ông
bà cha mẹ, cô dì chú bác). Trẻ con dễ tin vào những điều người lớn nói, không
đặt vấn đề điều đó đáng tin tới mức nào. Nhưng thời nay và nhất là những thế hệ
mai sau, người ta không dễ tin như thế nữa. Họ thường đòi hỏi "nói có
sách, mách có chứng". Muốn họ tin thì phải có bằng chứng. Nếu không chứng
minh bằng sự kiện thì ít nhất phải chứng minh được sự khả tín của điều mình
nói. Ngoài ra, lập luận phải vững chắc, trình bày rõ ràng. Vì thế, việc rao
giảng Tin Mừng hay sứ điệp Kitô giáo không thể theo phương cách cũ mang nặng
tính giáo điều được.
Ngày xưa, tại Việt Nam, trình độ văn hóa giữa linh mục và giáo
dân có sự chênh lệch rất cao. Ngày nay, sự chênh lệch ấy giảm đi rất nhiều,
thậm chí không còn nữa. Rất nhiều giáo dân có trình độ văn hóa cao hơn những
linh mục bình thường. Tuy nhiên các linh mục vẫn thường hơn giáo dân trong
những kiến thức về thần học, giáo lý, v.v… vì người giáo dân hiện nay không
được quan tâm đào tạo về mặt này, hoặc không có điều kiện để quan tâm. Vì thế,
các linh mục thường đảm trách việc loan báo và rao giảng Tin Mừng cho giáo dân
và người ngoại. Nhưng vì trình độ văn hóa của người bình thường ngày càng cao
hơn, nên việc rao giảng Tin Mừng không còn dễ dàng như ngày xưa. Điều ấy đòi
hỏi những người rao giảng Tin Mừng cũng phải có một tinh thần khoa học thực
nghiệm trong cách rao giảng, cần chú trọng đến những bằng chứng xác thực, những
lý luận chặt chẽ, cho dù đức tin không phải đến từ những thứ ấy. Nhưng nếu
không chú trọng đến những thứ ấy, lời rao giảng sẽ bị từ chối ngay từ đầu.
4. Hội nhập văn hóa theo chiều dọc.
Tại châu Á, Giáo Hội đã thành công rất khiêm nhường trong việc
truyền giáo, không thành công rực rỡ như ở châu Âu. Một phần khá lớn là do
thiếu hội nhập văn hóa, vì trước đây, có sự khác biệt về văn hóa giữa dân tộc
truyền giáo với dân tộc được truyền giáo. Ngày nay, với việc toàn cầu hóa, sự
khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc bị giảm thiểu rất nhiều, nên việc hội
nhập văn hóa theo chiều ngang không còn cần thiết và quan trọng như xưa. Trái
lại, sự khác biệt về văn hóa giữa thế hệ trước với thế hệ sau ngày càng gia
tăng. Lề lối suy nghĩ của các thế hệ sau càng ngày càng thấm nhuần tinh thần
khoa học thực nghiệm hơn. Vì thế, nếu không có sự thích ứng khôn ngoan của thế
hệ Phúc Âm hóa (thế hệ trước) với thế hệ được Phúc Âm hóa (thế hệ sau) trong
việc diễn tả sứ điệp, chắc chắn việc Phúc Âm hóa sẽ thất bại. Do đó, hiện nay
việc hội nhập văn hóa theo chiều dọc cần được Giáo Hội quan tâm và thực hiện
nhiều hơn là hội nhập văn hóa theo chiều ngang.
5. Rao giảng bằng việc làm đi đôi với rao giảng bằng lời nói
Tinh thần khoa học thực nghiệm của con người thời đại đòi hỏi
những dấu chứng cụ thể mới tin được. Do đó, những xác quyết trong rao giảng cần
được chứng tỏ bằng thực tế đời sống. Thật vậy, ai mà tin được cái Tin mà chúng
ta rao giảng là Tin Mừng khi chúng ta rao giảng nó với bộ mặt buồn so, ảo não?
Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Giải Phóng khi mà người rao giảng nó
vẫn sẵn sàng khom lưng làm nô lệ cho người, cho vật, cho sự này sự khác, hoặc
cho chính bản thân? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Cứu Độ khi mà nó
không làm cho người người rao giảng nó hoặc theo nó sống tốt hơn, có tình có
nghĩa hơn, và hạnh phúc hơn những người bình thường khác?
Thiết tưởng đã tới lúc chúng ta - những ai còn tha thiết với
tiền đồ của Kitô giáo - cần đặt lại vấn đề sống đạo một cách nghiêm túc hơn và
hãy thành thật với chính lòng mình. Nếu ta cảm thấy Kitô giáo trong thực tế đã
không đem lại một thứ hạnh phúc tự tại cho chúng ta, không tạo được một động
lực đủ mạnh để thúc đẩy ta sống tốt đẹp hơn người ngoài, mà ta vẫn cứ mạnh
miệng rao giảng như là một tôn giáo tốt nhất, hữu hiệu nhất, thì việc rao giảng
của chúng ta đúng là một sự lừa dối có hệ thống. Nếu như thế chúng ta phải trả
lẽ trước mặt Thiên Chúa về sự lừa dối ấy. Chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng
trong thực tế, đức tin ấy đã chết hay mất đi từ lâu mà ta tưởng là ta vẫn còn
đức tin. Vì đức tin không phải là một chấp nhận xuông, hay chỉ là hành động
tuyên xưng ngoài miệng, mà là một cái gì tự nhiên ảnh hưởng rất sâu xa vào đời
sống, khiến ta thay đổi cách suy nghĩ và hành động nên tốt đẹp hơn, và đời sống
ta hạnh phúc hơn rất nhiều. Nếu không được như thế, "đức tin" mà ta
tưởng rằng ta có, không phải là đức tin đích thực.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, rất nhiều khi con chê trách Tô-ma là quá cứng tin, và
tự hào mình dễ tin hơn nhiều. Nhưng trong thực tế, đức tin của con chẳng ảnh
hưởng gì trên cuộc sống con bao nhiêu, nó chẳng làm con hạnh phúc hơn người
không đức tin, chẳng làm con sống tốt đẹp và yêu thương hơn họ. Xin cho con
nhận ra đức tin ấy chưa phải là đức tin đích thật. Xin Cha hãy ban cho con đức
tin đích thực có khả năng thay đổi con người của con, làm con nên thật sự tốt
đẹp và hạnh phúc hơn. Amen.
21. Chú giải
mục vụ của Alain Marchabour
HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ
KHÔNG CÓ ÔNG TÔMA (20,19-23)
Chúa hiện đến (19-20)
Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn trước xem
chừng không thay đổi cách hành xử của các môn đệ (ta có thể nghĩ rằng các môn
đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn hữu” vào nhóm
Mười Một này). Các ông sống trong lo âu sợ hãi và trốn tránh. Chính trong nơi
cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu ngự đến. Sự hiện diện của Người không còn
lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những điều bó buộc tự nhiên như những sự bó
buộc của con người với thể xác mình. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường:
đơn giản Người có thể hiện diện cách khác hơn loài người.
Chúa đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Người nói “Chúc
anh em được bình an”, điều này không chỉ là một lời chúc xã giao, mà còn có
nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu độ, của niềm vui và của sự bình an. Các
dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp
các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng
độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh.
Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường của Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên
con người đang đứng ở giữa họ là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng một con người như
Đấng họ đã biết và y trong, nhưng mà từ nay sự Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo
âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan vui mừng.
Sứ vụ (21-23)
Những lần hiện ra tự nó không nhằm mục đích riêng. Chúng mở màn
cho một sứ vụ. “Như”: đây không chỉ là một sự so sánh, đây là căn nguyên và nền
móng. Các môn đệ được sai đi (theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo dài hoạt động của Chúa Giêsu. Đây là
lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước hiệu Tông đồ cho nhóm Mười
Một. Chủ đề sai đi này đã được trình bày sâu rộng trong diễn từ tư tế
(17,17-19). Như Thiên Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã
ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn làm Chúa,
thổi (cũng động từ Hy Lạp ở đây như trong St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên
các môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để có kinh nghiệm về cái chết, tự tỏ
mình ở đây như là Chúa Tể sự sống. Còn các môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ hãi,
bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến
là Chúa Giêsu, họ có thể tha tội, nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong quyền năng
cái chết cảu Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi,
khi họ được tha cho ai hoặc cầm giữ tội của ai, thì chính Thiên Chúa qua họ mà
tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở đây một dạng văn phạm gọi là “thì
thụ động thần linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa qua thì thụ động. Ta có thể
dịch như thế này: “Bất cứ người nào anh em tha… Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người nào… Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội
họ”.
Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp theo, đều diễn ra vào “ngày
của Chúa’, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên khởi hội họp cử hành phụng vụ,
thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Người và mỗi khi
họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực hóa một lần nữa việc sai họ đi
khắp thế gian.
Ông Tôma: Không thấy mà tin (20,24-29)
Việc ông Tôma vắng mặt cho phép người kể chuyện đưa vào cảnh
tượng tiếp sau. Sự cứng lòng không tin của ông Tôma được đặc biệt nhấn mạnh,
bởi lẽ điều này được diễn tả gần như cùng một từ ngữ như trong 4,48: “Nếu không
thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu”. Ông Tôma, là người tuy đã
mời gọi các bạn đồng môn cùng đi cùng chết với Chúa Giêsu (11,16), lại chối từ
cùng với các bạn đi theo Chúa trong đức tin vào Chúa Giêsu hằng sống. Ông có
hai lỗi: trước hết không tin vào lời chứng của các Tông đồ; sau nữa, nghi ngờ
Chúa Giêsu sống lại.
Chúa Giêsu hiện đến lần thứ hai cũng được miêu tả với những từ
ngữ như lần thứ nhất. Tuy nhiên sự cứng lòng tin của ông Tôma cho phép thánh sử
thực hiện hai mục tiêu: trước tiên việc nhấn mạnh về những dấu vết thương tích
đánh dấu sự liên tục và sự liên kết giữa Chúa Giêsu chịu đóng đinh và Chúa
Giêsu được tôn vinh. Chính việc nâng cao là thập giá làm nên mặc khải tối
thượng về tình yêu của Chúa Cha và vinh quang của Chúa Con. Tiếp đến, đức tin
mà ông Tôma, kẻ không tin, tìm gặp lại, trổi vượt đức tin của các môn đệ bởi vì
ông dành cho Chúa Giêsu tước hiệu vĩ đại nhất của cả Tin Mừng: “Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con!”. Trong số tất cả các tước hiệu của Chúa Giêsu đã
được khai trình giữa chương đầu này, chúng ta đạt đến tột đỉnh mà mọi định
nghĩa giáo lý sau này đều không thể vượt qua được. Giữa “Ngôi Lời là Thiên
Chúa” ở Lời Tựa (1,1) và lời tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa và Thiên Chúa”, mọi
sự đều đã rõ. Quả là ngược mặc khải, kẻ làm chứng về chân lý này lại là người
không muốn tin vào lời chứng của các Tông đồ.
Hạnh phúc cuối cùng là kết luận của Tin Mừng và là sự lặp lại
chủ đề chính yếu của đối tượng: giữa thấy và tin, cảnh tượng và nghe biết, sự
kỳ lạ và lời nói, thì chính phần thứ hai mới là điều kiện thường tình và lý
tưởng của kẻ tin. Ngay cả những kẻ đã thấy, cũng phải tin hơn điều họ đã thấy.
Ngôi Lời từ lúc mặc lấy các phàm, nghĩa là nhân tính nơi mà vẫn phải “nhận biết
Thiên Chúa tỏ hiện trong vinh quang”. Chúng ta, những người lãnh nhận Tin Mừng,
chúng ta quả có phúc vì đã không thấy mà nhờ những lời chứng của các Tông đồ,
chúng ta gắn bó với Chúa Kitô và trở nên những kẻ tin vào Người.
KẾT LUẬN (20,30-31)
Hai câu này làm thành đoạn kết của Tin Mừng trước khi chương 21
được thêm vào. Gioan là tác giả duy nhất trong các thánh sử đã đưa vào tác phẩm
của mình đoạn kết. Để cho độc giả tương lai tiện sử dụng, ông có hai xác định
quan trọng:
Trước hết, Gioan nhận biết đã cố ý thực hiện một sự tuyển chọn
trong số các sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu. Vậy nên cần phải ghi nhớ điều đó
mỗi khi thấy một vài thời kỳ trong cuộc đời của Chúa Giêsu được các Tin Mừng
Nhất Lãm thuật lại, còn ông thì vẫn im lặng, và đừng vội kết luận rằng ông
không hay biết các sự kiện đó. Trong khi định trước các môn đệ như những người
lãnh nhận các dấu lạ, Gioan đặc biệt liên tưởng đến các độc giả của mình, tuy
đã trở thành môn đệ, nhưng lại không thấy các dấu lạ được thực hiện trong cuộc
đời của ông.
Sau nữa và nhất là, ông minh định mục tiêu của mình: kiên định
các môn đệ trong đức tin vào Chúa Giêsu, vừa là Đấng Mêsia như Kinh Thánh đã
hứa, vừa là Con Thiên Chúa, từ đó các môn đệ có được sự sống nhờ Chúa Giêsu.
Như vậy, độc giả có sẵn chìa khóa để học hiểu. Tin Mừng không phải là một quyển
sách bình thường, sáng tác để cho độc giả giải trí, mà là một quyển sách có sự
sống; thừa hưởng cũng một năng lực từ sự xác tín và cũng một tiềm năng sự sống
như lúc Chúa Giêsu còn tại thế. Đối với các độc giả sinh sống vào thời mà Chúa
Giêsu không còn hiện diện bằng xác thể nữa, thì có quyển sách này đây, sẵn sàng
cho cuộc hội ngộ giữa độc giả và quyển sách, làm nảy sinh sự sống do đức tin
vào Chúa Giêsu, Đấng Mêsia và Con Thiên Chúa.
22. Chú giải
của Noel Quesson
Vào chiều hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần... các môn đệ khi đó
tụ tập lại... Tám ngày sau, các môn đệ lại ở trong nhà...
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai sự hiện tỏ của
Đức Giêsu đã sống lại, cách khoảng 8 ngày. Một cách tự nhiên, chúng ta có xu
hướng tập trung chú ý vào cuộc hiện ra lần thứ hai, đó là với Tôma... bởi vì
chúng ta thường khi tự động hóa mình với ông, và tìm được một giải pháp thực
tiễn là có dưới tay mình một người nào đó hoài nghi, một người nào đó khó
tin... và tìm ra được nơi ông một thứ biện minh cho sự thiếu lòng tin của chính
chúng ta.
Nhưng những sự thông đồng của chúng ta với Tôma không ngăn chúng
ta đọc toàn thể văn bản. Trước hết chúng ta lưu ý rằng Đức Giêsu hằng sống hiện
ra, chuyện đó có phải tình cờ không? Vào Chúa nhật. Ngày thứ nhất trong tuần.
Chúng ta biết rất rõ những Kitô hữu ban đầu không họp nhau mỗi ngày đâu. Chính
họ, họ cũng có cuộc sống hằng ngày của mình. Họ không thể luôn luôn ở với nhau
được. Vì thế, chính trong khuôn khổ cuộc gặp gỡ hằng tuần của họ, mà Đức Giêsu
sống lại đến thăm. Chúng ta có thể sai lầm khi nghĩ rằng đức tin là một công
việc có nhiều tính cách riêng tư hay cá nhân: chúng ta nhận thấy rằng sự hiện
diện của Đức Kitô sống lại chủ yếu được người ta thử nghiệm, nhận biết, cảm
thấy trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ cộng đoàn. Họ ở với nhau,...hội họp lại...
trong Giáo Hội.
Các môn đệ đã gài chốt các cửa nơi họ ở, bởi vì họ sợ. Đức Giêsu
hiện đến và ở giữa họ.
Khi thánh Gioan viết điều đó, thì lúc ấy luôn luôn là thời gian
sợ hãi và bách hại. Các môn đệ của Chúa Giêsu có thói quen khi hội họp ở nhà
người này, khi ở nhà kia. Họ đón tiếp nhau... Họ tin cậy nhau. Có những vụ bỏ
cuộc, những người bỏ đức tin và nhóm... Họ cũng sợ... Họ cài chốt các cửa lại.
Nhưng ở mỗi Chúa nhật, dấu chỉ của phòng tiệc ly được làm lại, Chúa nhật đầu
tiên này: một cách huyền nhiệm, Đức Kitô lẻn vào giữa những người thân của
Người, tại nơi họ đang ở: E-phê-sô, Cô-rin-tô, Giêrusalem, Roma. Vâng, mỗi Chúa
nhật, chính là lễ Phục sinh! Chúa ở đó, ngay giữa cuộc đời chúng con, và chính
Chúa đã làm cho chúng con được sống... Không thấy Chúa, chúng con vẫn tin.
Lạy Chúa hôm nay, chúng con cũng bị cám dỗ cài chết cữa nhà một
cách sợ hãi. Khi Thần Khí thổi vào, chớ chi các bức tường trong nhà tù của
chúng con sập đổ, chớ chi thời giờ ca hát của chúng con trở lại: Chúng ta hãy
mở cửa nhà chúng ta cho Đức Kitô sống lại!
Trước khi đi xa hớn trong cuộc suy niệm Tin Mừng này chúng ta
hãy xin Đức Kitô, để giải thoát chúng ta, làm cho chúng ta sống lại khỏi tình
huống chết chóc nào. Như tội lỗi, như thử thách về sức khỏe, như những gò bó
đau đớn và tuyệt vọng, như khó khăn gia đình và nghề nghiệp... Nơi mà ở đó họ
đã gài then cửa!
Người nói với họ: "Bình an cho anh em!".Nói xong Người
cho họ xem bàn tay và cạnh sườn Người. Các môn đệ tràn ngập vui mừng khi thấy
Chúa. Đức Giêsu lại nói với họ: "Bình an cho anh em!"
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô giáo trước hết không phải là
một niềm vui dễ dãi, niềm vui tự phát, thứ niềm vui nâng chúng ta lên cao khi
mọi chuyện xuông xẻ, khi sức khỏe được tốt lành, tuổi trẻ ở đó đầy sức sống,
khi các doanh nghiệp của chúng ta thành công, khi các quan hệ bạn bè và gia
đinh được dễ chịu. Niềm vui Phục sinh, chính là niềm vui đến sau sợ hãi! Đó là
niềm vui và sự bình an đi trở lên từ một tinh huống về cơ bản là thất vọng (cái
chết của một Đấng bị đóng đinh) mà không gì có thể tước đoạt được! Đó là niềm
vui và sự bình an đến từ lòng tin vào Đức Giêsu, ở mỗi cuộc hội họp Chúa nhật,
giống như ngày đó, Đức Giêsu nguyện chúc sự bình an qua tiếng nói của vị linh
mục: "Bình an cho anh chị em!". Và Công đồng Vatican II đã lập lại
truyền thống xưa "hôn bình an: các Kitô hữu được mời ban bình an cho nhau,
nhân danh Đức Kitô. Trao cho nhau một cái bát tay, ôm lấy nhau, mỉm cười với
nhau, trong khi vừa chúc với nhau: Bình an Đức Kitô. Đó không phải là một cử
chỉ tầm thướng... chính là "trở nên Đức Kitô" với người gần ta...,
khi nhiều người họp nhau lại nhân danh Ta. Ta sẽ ở giữa họ.
“Như Chúa Cha đã sai Thầy. Thầy cũng sai anh em..”
Đấy! Chúng ta không tin là nói quá tốt như thế!chính Đức Kitô
nói lại với chúng ta... Tôi, người đàn ông đáng thương người đàn bà đáng
thương, tôi là "Giêsu” được sai đến cùng anh em tôi... đúng như Người đã
được Cha mình sai đi. Ta đừng đi quá nhanh trên các từ này. Ta đừng đi quá
nhanh để bắt kịp Tôma, người cứng lòng tin. Hãy nán lại trên các từ về Đức
Giêsu. Chúng ta hãy nghe trách nhiệm cao vời mà Người trao cho chúng ta:
"sứ mệnh" của Đức Kitô được trao cho Giáo Hội, cho tôi, một phần. Tôi
được Đức Giêsu sai đi... như Đức Giêsu đã được Cha sai đi! Tôi còn phải khám
phá ra ý nghĩa của hai từ này, thêm một lần nữa, đó là những từ Latinh và Hy
Lạp không được dịch ra, hỡi ôi. "Sứ mệnh" có nghĩa "sự sai
đi" (từ missus trong Latinh)... và "tông đồ có nghĩa là "người
được sai đi” (từ Apostolos trong tiếng Hy Lạp)...
Khi tôi gặp gỡ một người nào, trong công việc của tôi, trong môi
trường cuộc cống của tôi, tôi không ở đó chỉ nhân danh riêng tôi, vì lợi ích
của tôi: Tôi được Đức Giêsu sai đến đó nhân danh Người, vì lợi ích của chính
Người! Như Đức Giêsu đã được Cha Người sai đi! Tôi còn phải nói với một sứ điệp
của Đức Giêsu: chính Người nói cho bạn biết điều mà tôi sắp nói với bạn...
người đang sống trong tôi là đôi môi và thân xác của Người, ở gần với Người, để
tỏ ra cho bạn tình yêu của Chúa Cha.
Khi đã nói xong. Người thổi hơi trên họ và Người nói với các
ông: “Anh em nhận lấy Thánh Thần”.
Ơn huệ của Thánh Thần, sự sáng tạo mới... Thần Khí của Đức Giêsu
được truyền đạt cho các môn đệ của Người. Đức Giêsu đã chết, "trở lại cùng
với Cha". Nhưng người Kitô hữu nhận lấy đà tiếp sức! Họ là những người
mang hơi thở đầy sinh lực và Thần Khí Người... họ đi theo công trình của Người:
Thánh Phaolô sẽ nói: "Anh em là Thân thể Đức Ki- tô, anh em là Đền Thờ của
Thánh Thần. Thánh Gioan, chính ông cho chúng ta thấy, vì lợi ích chính mình,
Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Sáng Tạo trong sách Sáng Thế (St 2,7):
"Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin hãy đến (Veni, Creator Spintua)".
Đối với Gioan, Lễ Hiện Xuống, chính là buổi chiều ngày Lễ PS cái
chính yếu trong hoạt động của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng cái chết,
chính là ơn huệ của Chúa Thánh Thần, Người đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ
trong những kẻ chết (Rm 8,11). Trong kinh Tin Kính, đó là điều mà chúng ta
khẳng định một cách chính yếu về Chúa Thánh Thần: Ngài là Đức Chúa, và Ngài ban
sự sống. Thánh Thần được ban cho con người ngay chính chiều ngày Phục sinh, và
Ngài sẽ tỏa sáng rực rỡ trên công trường năm mươi ngày sau, vào ngày lễ Hiện
Xuống, chính cùng một Thánh Thần này, vừa mới thành công một đòn bậc Thầy nếu
ta cấm nói như thế, bằng cách kéo Đức Giêsu khỏi sự chết, đồng thời mạc khải
Người là Con Thiên Chúa nhờ sự Phục sinh. "Nhờ sự Phục Sinh Người được lập
là Con Thiên Chúa theo Chúa Thánh Thần".
"Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha..”
Trói buộc, và tháo gỡ, tha thứ và cầm buộc... các tội lỗi. Lời
lẽ này là một công thức ngữ pháp aramên: người ta dùng hai từ trái nghĩa để
khẳng định mạnh mẽ hơn nữa một thực tại, và nhấn mạnh lên từ "tích
cực". Vì thế, khi ban cho họ Thần Khí của Người, Đức Giêsu cũng ban cho
các môn đệ của Người quyền tháo gỡ con người khỏi sự xấu của mình: Từ nay, trên
trần gian này, họ là những người mang theo lòng thương xót của Thiên Chúa...
như Đức Giêsu khi trước: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em".
Các Kitô hữu được mặc lấy sứ mệnh mà chính Đức Giêsu đã nói là của Người, trong
giáo đường Na-da-rét, đầu tác vụ của Người: Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi,
Thần Khí Thiên Chúa đã thánh hóa tôi. Người đã sai tôi đi mang Tin Mừng cho
người nghèo khó, loan báo một năm hồng ân do bởi Thiên Chúa, giải thoát những
người tù đầy " (Lc 4,18-19). Tôi có phải là người mang tinh thần đó, Thần
Khí giải phóng, của Thần Khí ban sự sống, của Thần Khí yêu thương, và tha thứ
nhân danh Đức Giêsu không? Sự tha thứ là một ân huệ Phục sinh.
Một trong Nhóm Mười Hai, Tôma, lúc đó không ở với các ông, khi
Đức Giêsu hiện đến... ông tuyên bố: "Nếu tôi không thấy... tôi sẽ không
tin..."
Đấy là "người đến trễ, đến sau cuộc lễ Gặp gỡ. Tôma, luôn
luôn, trong Tin Mừng, là người chỉ tin vào lương tri của mình, con người tích
cực ngờ vực những hành vi táo bạo của Đức Giêsu. "Lạy Chúa, chúng con
không biết Chúa đi đâu" (Ga 14,15). Khi Đức Giêsu nói về sự sống lại của
La-da-rô, thì chính Tôma chỉ thấy sự chết (Ga11,15-16).
Tám ngày sau... Đức Giêsu lại đến: "Đặt ngón tay anh vào
đây, hãy xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin nữa..."
Đức Giêsu, dù đã sống lại, vẫn có tính khôi hài? Người đã để cho
Tôma, bên ngoài, xem ra có lý trong một tuần. Chính với một cách mỉm cười mà
tôi đã xem Đức Giêsu nói thẳng với Tôma. Đức Giêsu như có vẻ nói với ông: Anh
bạn đáng thương của tôi ơi, bạn đã tưởng tôi chết, và vắng mặt, khi bạn nói với
các bạn khác, bảo với họ là bạn không tin... nhưng tôi vẫn ở đó, vô hình, có
nghe chuyện bạn nói. Dẫu vậy, tôi không tỏ mình cho bạn lúc đó. Ôi! Sự kiên
nhẫn của Thiên Chúa. Người luôn có tất cả thời gian của Người.
Tôma nói: "Lạy Chúa của con và Thiên Chúa của con".
Đó chính là tiếng kêu đức tin của một người mà đối với anh ta,
sự đụng chạm cũng thành vô ích. Anh ta đã hiểu rằng Đức Giêsu, dù vồ hình, vẩn
có ở đó. Ngay giờ phút ông hoài nghi, thì Người cũng có mặt ở đó.
Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà
tin.
Một mối phúc thật, mối phúc cuối cùng. Người ta không thể trông
thấy những thực tại cao cả nhất của Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới đưa chúng ta
tới đó. Đó chính là hạnh phúc đích thực.