NGÔI
MỘ TRỐNG
Tin vào Thiên Chúa phải làm rỗng cái đầu và thanh tẩy
trái tim, nghĩa là loại khỏi lòng trí những đam mê, thành kiến, tính kiêu căng;
không cậy dựa vào quyền lực, tiền tài hay sự khôn ngoan kiểu trần gian.
Một
nhà khoa học muốn đi thực tế trong rừng nên nhờ anh thợ săn dẫn đường. Trên đường
đi họ trao đổi với nhau nhiều điều, có lúc họ tranh luận gay gắt về vấn đề tôn
giáo. Muốn kết thúc đề tài này, nhà khoa học nói:
- Bao giờ anh chỉ cho tôi thấy Thiên Chúa của anh tôi mới tin.
Trước
đề nghị đó, người thợ săn im lặng. Đêm ấy, cả hai đã tìm một nhánh cây to trong
rừng làm chỗ ngủ cho an toàn. Hôm sau vừa thức dậy, vị khách reo lên:
- Đêm qua có đàn voi đi qua đây.
Anh
bạn dẫn đường trả lời:
- Khi nào ông chỉ cho thấy đàn voi đó, tôi mới tin.
Nhà
khoa học chỉ dấu chân voi và nói với sự xác tín:
- Những dấu chân này chứng tỏ đàn voi ấy có khoảng 10 con.
Người
thợ săn nói:
- Ông không thấy đàn voi, nhưng nhờ dấu chân, ông biết chúng đi
qua đây. Tôi không gặp Thiên Chúa, nhưng nhờ dấu chỉ là những điều kỳ diệu
trong vũ trụ, tôi nhận biết Người.
Trong
đoạn Tin Mừng vừa nghe, thánh Gioan đã kể lại trải nghiệm của ngài. Khi thấy
nơi an táng Đức Giêsu chỉ còn là ngôi mộ trống, các khăn liệm và vải che mặt
Người được xếp lại cẩn thận, ông tin rằng Đấng chết trên thập giá và được an
táng, đã sống lại. (Ga 20, 1-9)
Thánh
Gioan rất yêu mến Đức Giêsu, việc ngài thấy ngôi mộ trống và tin Thầy đã sống lại,
phải chăng niềm tin ấy thiên về cảm tính và quá vội vàng?
Kinh
Thánh cho chúng ta biết có nhiều người tin vào Thiên Chúa và thực thi ý Người,
mặc dù họ không thấy rõ đường đi phía trước và chẳng có gì bảo đảm cho tương
lai. Một cách nào đó, họ như thánh Gioan, chỉ thấy ngôi mộ trống, nhưng vẫn
tin. Chúng ta kể ra đây ba trường hợp.
Abram
được kêu gọi rời bỏ những gì ông đang có để đến miền đất Thiên Chúa hứa ban,
nơi đó ông sẽ trở thành tổ phụ một dân lớn, tên tuổi lẫy lừng và được chúc
phúc. (St 12, 1-5) Muốn thực hiện lời dạy của Chúa, Abram phải bỏ những gì ông
đang có để bước vào cuộc phiêu lưu vô định; dẫu vậy, ông đã tin và ra đi.
Bà
góa thành Sêrepta nghe người đàn ông đang đói xin bà tấm bánh với lời hứa: "Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn
cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất." (1 V 17, 9-15) Nếu ở
trường hợp ấy, liệu chúng ta có tin vào lời của ngôn sứ Êlia? Vậy mà bà góa ấy
đã tin.
Simon
và các bạn rất có kinh nghiệm về nghề chài lưới, suốt đêm ấy họ vất vả mà chẳng
được gì. Sau khi nhờ thuyền của ông để giảng dạy dân chúng, Đức Giêsu nói: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt
cá." (Lc 5, 1-9) Tin lời Người, ông đã thả lưới.
Những
mẫu gương đức tin mà chúng ta vừa nhắc đến, nhìn ở góc độ con người, họ đã có sự
chọn lựa và quyết định dại dột, đã bày tỏ niềm xác tín vào những điều thiếu căn
cứ. Nhưng thực ra họ lại rất khôn ngoan, vì không đặt niềm tin trên suy luận,
chứng cứ và sự bảo đảm của loài người mà dựa vào quyền năng và tình thương của
Chúa, Đấng khôn ngoan và chân thật vô cùng. Thật vậy, vì hoàn toàn tin tưởng
nơi Chúa, Abram được hưởng những gì Người đã hứa. Bà góa ở Sêrepta được cứu sống
qua những ngày đói kém. Còn ông Simon trúng mẻ cá lớn và bỏ mọi sự để theo làm
tông đồ của Đức Giêsu.
Người
đời dựa vào những gì chắc chắn như của cải, địa vị, tài năng…, còn những người
tin vào Thiên Chúa dám “đánh cược” cả tương lai và số phận họ để sống theo lời
dạy của Chúa. Họ hướng về tương lai như bước vào khoảng không vô định, nhưng đó
lại là thái độ khôn ngoan. Thánh Phaolô đã chỉ ra sự khác biệt to lớn giữa sự
khôn ngoan của người đặt niềm tin nơi Chúa và kẻ cậy dựa vào cách thế của loài
người: “Những gì thế gian cho là điên dại,
thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho
là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh.” (1Cr 1,
27)
Như
vậy, tin vào Thiên Chúa phải làm rỗng cái đầu và thanh tẩy trái tim, nghĩa là
loại khỏi lòng trí những đam mê, thành kiến, tính kiêu căng; không cậy dựa vào
quyền lực, tiền tài hay sự khôn ngoan kiểu trần gian. Bước theo Chúa cần ra khỏi
sự an toàn của bản thân, biết khao khát chân lý, lo tìm kiếm sự thiện và hoàn
toàn tín thác nơi Người.
Trong
tương quan với tha nhân, chúng ta cũng phải can đảm loại trừ lối nhìn nghi kỵ,
tính ghen tương, sự gian dối, hận thù và những ham muốn chiếm hữu cách bất
chính. Khi đó, gia đình và xã hội sẽ được hồi sinh trong sự cảm thông, tình hiệp
nhất và lòng yêu thương chân thành.
Tin
vào những gì đang có làm chúng ta cảm thấy an toàn, giữ một thói quen sẽ dễ chịu
hơn là phải thay đổi. Nhưng dám chết cho lối sống cũ, chúng ta mới được đổi mới.
Can đảm bỏ sự an toàn của bản thân để sống theo lời Chúa dạy, chúng ta sẽ bước
vào khoảng trời rộng mở. Biết khao khát và tìm kiếm những sự trên trời, chúng
ta mới thấy mọi sự nơi trần gian này chỉ là phương tiện giúp mọi người được sống
xứng đáng và là cơ hội để làm việc thiện.
Mừng
Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cùng dâng lời tạ ơn vì nhờ Người các tín hữu được
sống lại qua bí tích Rửa Tội. Xin cho mọi người biết đặt trọn niềm tin tưởng,
và luôn kiên trì thực thi lời dạy của Đấng đã chết và sống lại vì hạnh phúc của
muôn người.
Lm.
Mt