NGƯỜI NƯỚC NGOÀI NHÌN NGƯỜI VIỆT
Mặc dù mang
tính cá nhân, đây là những nhận xét có tính khách quan và tích cực xây dựng cho
người Việt. Hy vọng chúng cũng giúp mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ nhìn ra những
gì cần thay đổi nơi mình để có thể hòa nhịp vào nền văn minh thế giới.
1.
Cần cù lao động song dễ thỏa
mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.
2.
Thông minh, sáng tạo, song
chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn,
chủ động.
3.
Khéo léo, song không duy trì đến
cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của
sản phẩm).
4.
Vừa thực tế, vừa mơ mộng,
song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.
5.
Ham học hỏi, có khả năng
tiếp thu nhanh, song ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không
hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không
phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học
vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê)
6.
Xởi lởi, chiều khách, song
không bền.
7.
Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những
mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).
8.
Có tinh thần đoàn kết, tương
thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp
khó khăn, bần hàn. Còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu
có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.
9.
Yêu hòa bình, nhẫn nhịn,
song nhiều khi lại hiếu chiến, hiếu thắng
vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục.
10.
Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên
kết để tạo ra sức mạnh (Cùng một việc, một người
làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).
11.
“Giờ cao su”: Nhìn chung, ý thức giờ
giấc của người Việt Nam rất kém. Nhiều bạn đi du học ở các nước phát triển lúc
đầu rất hay bị bỡ ngỡ. Họ dễ bị trễ tàu, lỗi hẹn nhưng dần dần họ cũng khắc phục
được. Ðến khi về nước họ lại khó chịu với “giờ cao su” của chúng ta.
12.
Thiếu tự tin và óc phê phán :Nhiều bạn sinh viên năm thứ ba, thứ tư
Ðại học mà vẫn ngại phát biểu ý kiến hoặc trình bày vấn đề trước đám đông vì
thiếu tự tin, thiếu thói quen suy nghĩ,đi học chỉ biết “chép chính tả”. Kiểu giáo dục thụ động luôn tỉ lệ thuận với sức ì của tư duy và tỉ lệ nghịch với óc phê phán
(critical thinking) của thanh niên.
13.
Bệnh hình thức: Có bạn trong cơ
quan hay công ty mình làm việc đang chẳng đâu vào đâu thì lại đi học master. Có
bạn tốt nghiệp rồi mà chưa tìm được việc làm cũng đi học master. Tư duy nặng về
“điểm chác”, bằng cấp rất phổ biến. Không xác định tư tưởng học để làm việc mà
học để lấy bằng. Người Mỹ có quan điểm: to learn is to change. Còn chúng ta ra
sức theo học rất nhiều lớp học nhưng rốt cuộc cách làm việc không thay đổi gì cả,
điều khác là chúng ta có thêm mấy cái bằng bổ sung vào hồ sơ cá nhân.
14.
Không tiết kiệm: hay tâm
lí thích tiêu xài phung phí. Ðây là virus đang
rất phổ biến và rất dễ lây lan trong giới trẻ. Họ quan tâm đặc biệt đến quảng
cáo, thích xem các loại tem nhãn quần áo, nhận xét, đánh giá người khác qua tài
sản, thấy thèm muốn, thán phục nếu ai đó có nhiều quần áo, xe, điện thoại,
nhà…”xịn” hoặc tiêu xài sang hơn mình. Chúng ta đang tiêu dùng nhiều hơn chúng
ta kiếm được.
15.
Thiếu trách nhiệm cá nhân,
thừa trách nhiệm tập thể: Nói chung trong những người bình thường, chúng ta thường
hay đùn đẩy trách nhiệm, bất kỳ việc gì chuyển được sang cho người khác cũng đều
thấy nhẹ cả người. Khi xảy ra sai phạm đó sẽ là lỗi chung của cả tập thể chứ
không của riêng cá nhân nào.
16.
Thể lực kém: xuất phát từ nhiều
nguyên nhân như chế độ dinh dưỡng, chương trình học quá tải, học lệch, tâm lí
lười vận động… Và hậu quả là khi làm việc với các đồng nghiệp nước ngoài, mặc
dù rất cố gắng nhưng người Việt trẻ vẫn rất hay bị hụt hơi và cảm thấy khó có
thể theo được cường độ làm việc của họ.
17.
Thiếu thực tế: Chúng ta thường
hay suy nghĩ viển vông, thiếu suy nghĩ thực tế và chưa có suy nghĩ học là để
làm việc vì có ra trường thì cũng chả có việc để làm...
18.
Tinh thần hợp tác làm việc theo
team work còn hạn chế. Thế kỷ 21 là thế kỷ làm
việc theo nhóm vì tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ngay cả văn học và
nghệ thuật, một cá nhân cũng không thể đảm đương được.
19.
Thiếu tác phong
công nghiệp: Ðây là điểm rất quan trọng, có thể bao
hàm một vài điểm đã nêu trước. Một nhà xã hội học Mỹ nói về nguồn gốc của cách
làm việc tiểu nông như sau: “Anh nông dân sau khi gieo lúa xong có thể nhậu lai
rai, ngủ dài dài và chờ đến thời điểm nhổ cỏ, bón phân mới làm tiếp. Mà việc
này có làm muộn vài ngày cũng chẳng sao, không ảnh hưởng gì đến hoà bình thế giới.
Nhưng một người công nhân đứng máy luôn luôn phải đúng giờ, có thao tác chính
xác tuyệt đối và tinh thần kỷ luật cao. Một sơ suất nhỏ cũng có thể gây tác hại
đến cả dây chuyền.”