NHỊP
CẦU THIÊNG LIÊNG
Chị
chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành lũy che chở cuộc đời,
hoá ra chỉ là những tảng đá ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối
dào dạt trào tuôn.
Từ khi cầu Mỹ Thuận được
đưa vào sử dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi
nhau hơn. Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa
vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối liền dòng sông thiêng liêng giúp con người
đi về gặp gỡ Thiên Chúa.
Hôm nay, khi mở đầu câu
chuyện với người phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng
sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn
cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần
linh.
Đức Giêsu gặp người phụ nữ
bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt
chị, đó chỉ là một gã Do Thái bẩn thỉu. Còn tệ hơn thế, anh chàng Do Thái này
nghèo mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống. Chị
hợm mình, vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít,
có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước, nơi ấy có
sự sống. Vì nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con
người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu
có.
Người phụ nữ có giếng nước,
có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình. Chị còn có đền thờ vững chắc xây dựng
trên núi Garidim, trách nào chị chẳng hợm mình.
Nhưng Đức Giêsu đã phá tan
sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù
du, vì giếng nước ấy không cho nước hằng sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia
đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối
duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì đền
thờ chỉ là gạch đá vô hồn, không có Chúa ngự bên trong.
Trong phút chốc, chị trở
nên thật nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả. Nay chị thấy mình trắng
tay. Trước kia chị tưởng mình giàu có. Nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo
nàn. Bóc đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn
cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy một niềm tin nhen nhúm, một mạch suối trào
dâng.
Chị chợt tỉnh ngộ. Những
thứ mà trước kia chị tưởng là thành lũy che chở cuộc đời, hoá ra chỉ là những tảng
đá ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối dào dạt trào tuôn.
Những thứ mà trước kia chị
tưởng là nơi nương tựa êm ấm, hoá ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được
lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hóa bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn.
Thì ra, của cải, dục vọng,
tôn giáo vụ hình thức là những tấm màn che mắt, không cho chị nhận ra Đấng Cứu
Thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc đó, bị
các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói rách: "Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi
ư?" Nhưng Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt
chị. Nhát gươm thứ nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống. Chị nhìn ra người
đối diện "cao cả hơn tổ phụ
Giacóp." Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống. Chị
nhận ra Người là "một tiên tri". Một nhát nữa vung lên, mảnh vảy cuối
cùng rơi xuống. Chị nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và chị tin vào Người.
Niềm tin trào dâng. Hạnh
phúc trào dâng. Chị quên cả múc nước, quên cả bình, chạy về làng báo tin vui.
Chị để quên chiếc bình, vì
chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả giếng nước,
cả người chồng hờ, cả ngôi đền thờ trống rỗng.
Lời Chúa như lưỡi gươm sắc
bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian. Mảnh
đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc.
Lời Chúa là ngọn đèn soi
đường. Nên chị bước đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới.
Lời Chúa là chiếc cầu đưa
chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc bình múc nước, vì bên
kia cầu chị đã có mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ,
vì bên kia cầu chị đã gặp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi
đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong
tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với những đường
bay rất đẹp.
Về đại bàng, Cha Anthony
de Mello kể một câu chuyện rất sâu sắc. Một người nông dân vào rừng, lượm được
một trứng đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở
ra cùng lũ gà con. Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu.
Nó cứ sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một
con chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay
thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác
gà trống: "con gì mà khủng khiếp quá
nhỉ". "Đó là đại bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về
đất thấp. Chúng ta chỉ là gà". Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến
chết.
Người phụ nữ là cánh đại
bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn
ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta
ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn
là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng,
những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết
chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.
Xin lời Chúa như lưỡi gươm
tách bạch trắng đen, để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo,
thói đạo đức hình thức. Xin lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ, để dòng suối
tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và để tình
yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.
TGM Ngô Quang Kiệt