NGÀY
25 THÁNG 1
THÁNH
PHAOLO TRỞ LẠI
Lễ
Kính
BÀI ĐỌC: Cv 22, 3-16
3 Hôm đó, ông Phao-lô nói với dân chúng:
"Tôi là người Do-thái, sinh ở Tác-xô miền Ki-li-ki-a, nhưng tôi đã được
nuôi dưỡng tại thành này; dưới chân ông Ga-ma-li-ên, tôi đã được giáo dục để
giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt. Tôi cũng đã nhiệt thành phục vụ Thiên
Chúa như tất cả các ông hiện nay. 4 Tôi đã bắt bớ Đạo này, không
ngần ngại giết kẻ theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà,5
như cả vị thượng tế lẫn toàn thể hội đồng kỳ mục có thể làm chứng cho tôi. Tôi
còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở Đa-mát, và tôi đi để bắt
trói những người ở đó, giải về Giê-ru-sa-lem trừng trị.
6 "Đang khi tôi đi đường và đến gần
Đa-mát, thì vào khoảng trưa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chói lọi từ trời
chiếu xuống bao phủ lấy tôi. 7 Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng
nói với tôi: "Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?8 Tôi đáp:
"Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: "Ta là Giê-su Na-da-rét mà
ngươi đang bắt bớ. 9 Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh
sáng, nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi. 10 Tôi nói:
"Lạy Chúa, con phải làm gì? Chúa bảo tôi: "Hãy đứng dậy, đi vào
Đa-mát, ở đó người ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ
định cho anh phải làm. 11 Vì ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không
còn trông thấy nữa, nên tôi đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát.
12 "Ở đó, có ông Kha-na-ni-a, một
người sùng đạo, sống theo Lề Luật và được mọi người Do-thái ở Đa-mát chứng nhận
là tốt. 13 Ông đến, đứng bên tôi và nói: "Anh Sa-un, anh thấy
lại đi! Ngay lúc đó, tôi thấy lại được và nhìn ông. 14 Ông nói:
"Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã chọn anh để anh được biết ý muốn của
Người, được thấy Đấng Công Chính và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy phán ra. 15
Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân cho Đấng ấy trước mặt mọi người về các điều anh
đã thấy và đã nghe. 16 Vậy bây giờ anh còn chần chừ gì nữa? Anh hãy
đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh
Người".
ĐÁP CA: Tv 116
Đ. Anh em hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng. (Mc 16,15)
1
Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!
2
Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững
muôn năm.
TUNG HÔ TIN MỪNG: x. Ga
15,16
Hall-Hall:
Chúa nói: Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh
được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Hall.
TIN MỪNG: Mc 16,15-18
15 Hôm ấy, Đức Giê-su hiện ra với Nhóm
Mười Một và nói với các ông rằng: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa,
sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những
dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ
nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống
nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh,
thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”
CANH
TÂN CÁCH SỐNG ĐẠO
MỚI
THỰC LÀ TRỞ VỀ VỚI CHÚA
Qua các Bài đọc
trong Thánh Lễ kính cuộc Trở Về của Tông Đồ Phaolô và ý nghĩa của cuộc Trở Về
cho chúng ta ba điểm giáo lý cần suy gẫm và đem ra thực hành:
-
Sức
mạnh nào làm tổn thương Hội Thánh Chúa nhiều nhất.
-
Người
nào cần phải trở về với Chúa trước nhất?
-
Cuộc
trở về nhắm đạt yêu cầu nào?
I. SỨC MẠNH NÀO LÀM TỔN THƯƠNG HỘI THÁNH CHÚA NHIỀU NHẤT.
Qua trải nghiệm lịch sử Hội Thánh từ thời còn sơ khai đến nay,điều
làm tổn thương uy tín Hội Thánh nhiều nhất là đa số người Công Giáo không chịu canh tân Đức Tin, bỏ việc chính mà làm việc phụ:
1/ KHÔNG CANH TÂN ĐỨC TIN.
Đức Giêsu kết án gắt gao những kẻ bám víu vào truyền thống của
tiền nhân, mà không canh tân đời sống theo giáo huấn của Ngài (x. Mt 15 và
23). Kìa ông Saulô vì quá say mê và tự mãn truyền thống của cha ông dựa trên
Luật Môsê, ông cho đó đã là tuyệt hảo, nên khi thấy nhiều người Do Thái đã bị
các môn đệ của ông Giêsu “dụ dỗ” sửa đổi Luật Môsê để theo Luật ông Giêsu, làm
cho ông Saulô tức cuồng, nên ông lãnh trát của các thượng tế ở Giêrusalem phóng
về Đama gặp bất cứ ai theo Giáo Lý của các môn đệ ông Giêsu, là Saulô ra tay
triệt hạ!
Vì lòng thành của ông muốn bảo vệ đạo Chúa qua Luật Môsê, nhưng
ông đã sai lầm! Ông không hiểu rằng Luật Môsê và giáo huấn các tiên tri chỉ trở
nên hoàn hảo và thực hữu nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Do
đó, Chúa Giêsu dủ lòng thương xót ông: Ngài quật ngã ông ngay trên đường đang
xông tới Đama. Sau khi ông được nghe tiếng Chúa hỏi tội: “Saulô, Saulô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Ông thưa lại: “Ngài là ai?” Thì Ngài nói rõ: “Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ”. Như thế
ông bách hại những người Công Giáo chính là bách hại Chúa Giêsu. Ông khiêm tốn
thưa: “Lạy Ngài tôi phải làm gì?”
Chúa bảo: “Hãy đi học Giáo Lý nơi môn đệ
của Ta”. Nhờ đó con mắt Đức Tin của ông mới được mở ra, và ông trở nên môn
đệ rất xuất sắc của Chúa Giêsu, không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng (x. Cv
22,3-16: Bài đọc; 2Cr 11,5).
Nhìn vào đời sống của Hội Thánh trên toàn thế giới hôm nay,
nhiều người Công Giáo dần dần bỏ Đạo, hoặc sang tôn giáo khác, hoặc không thiết
tha gì đến dự Phụng Vụ của Hội Thánh, kể cả lễ Chúa nhật và lễ Trọng, họ cũng
tỏ ra thờ ơ lãnh đạm! Đan cử đài Chân Lý Á Châu loan tin ngày 05/01/2010 về
tình trạng Giáo Hội Công Giáo tại Hòa Lan:
“Cách đây nửa thế kỷ, Hòa Lan là một nước Công
Giáo vững mạnh, có sức truyền giáo. Nhưng ngày nay (2010), 41% người Hòa Lan
tuyên bố vô tôn giáo; 58% không còn biết lễ Giáng Sinh là gì! Như thế 41% + 58% = 99% mất Đức Tin!!
Đa số nhà thờ Công Giáo ở Hòa Lan biến thành ký túc xá, tiệm buôn bán, thành
nhà thờ Hồi Giáo! Tâm hồn giới trẻ trống rỗng về Đức Tin, nhưng không biết hỏi
ai, vì thiếu người giảng dạy! Một số Linh mục dòng Đaminh và Linh mục dòng Tên
chủ trương dâng Lễ không cần Linh mục, chỉ cần giáo dân quy tụ cùng dâng Lễ là
được. Giáo Hội Công Giáo Hòa Lan đang có nguy cơ biến mất!”
Sự cố này đang diễn ra không phải chỉ ở Hòa
Lan, mà còn hầu hết ở các nước có nền văn hóa Kitô giáo trước đây rất mạnh, nay
đang tiến dần nguy cơ biến mất, cũng chỉ vì đa số các chủ chăn đang đi vào vết
chân “truyền thống” của các tiền nhân. Ngày nay, chúng ta cứ nhìn vào sinh hoạt
của các cộng đoàn dân Chúa, phần lớn giáo dân sống Đạo bắt chước người khác, mà
không cần biết đúng hay sai với Giáo Lý Hội Thánh đã dạy. Đan cử một số vấn đề
-
Có cần phải xây đài Đức Mẹ ở cuối Nhà
Thờ hay không? Trong Nhà Thờ nào cũng có đặt tượng Đức Mẹ, thế thì cuối Lễ tại
sao không cùng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ trong Nhà Thờ? Không lẽ Đức Mẹ ở Đài
thì linh hơn hay sao?
-
Các bảng Tạ Ơn luôn khắc câu “Con Tạ Ơn Đức Mẹ” hoặc “Con Tạ Ơn thánh Giuse”. Như thế có đúng
Đức Tin hay không? Vì “ngoài Chúa ra
không ai có thể lãnh nhận ơn gì” (x. Ga 3,27),và Đức Tin Công Giáo luôn
luôn xác tín: “Chính nhờ Đức Kitô, cùng
với Đức Kitô và trong Đức Kitô, mọi chúc tụng và vinh quang mới quy về Chúa”
(Rm 11,36). Thế thì đáng lẽ mọi bảng Tạ Ơn phải ghi “Con Tạ Ơn Chúa qua lời chuyển cầu
của Đức Mẹ” hoặc “Con Tạ Ơn Chúa, vì Ngài đã nhận lời cầu của
thánh Martin” v. v… Nếu ta cứ bắt chước nhau để bảng Tạ Ơn như người khác
quen làm, là cách ta gán cho các đấng Thánh cướp quyền và danh dự của Thiên
Chúa!
-
Lấy tên địa danh nơi Đức Mẹ hiện ra để
đặt tên cho Đức Mẹ, như Mẹ Lavang, Mẹ Tapao…liệu có lý hay không? Vì như thế là
người ta đã gạt bỏ tên Maria (tiếng
Do Thái là Miryam, tiếng gốc cổ Ai Cập là Mri, có nghĩa là được yêu mến. Thời Tân Ước, tự nguyên bình dân dựa trên tiếng Aram
(Mara), có nghĩa là chủ, chúa, bà. Nên Maria có nghĩa là bà chủ).
Tên Mẹ Thiên Chúa hay như thế, và Đức Giêsu cũng từng gọi Mẹ
mình là Maria. Tại sao nay người ta lại bỏ đi? Đức Maria không phải là nhân vật
thần thoại, mà là con người lịch sử, được Thiên Chúa chọn trong dân tộc Do Thái.
Thì ta cứ phải tạc tượng Mẹ Maria theo mẫu người phụ nữ Do Thái mới hợp lý. Bởi
vì Thiên Chúa không chọn một phụ nữ ở dân tộc khác, không chọn phụ nữ Việt Nam
để làm tượng Đức Mẹ đội khăn đống áo dài! Nếu muốn nhớ ơn Đức Mẹ hiện ra ở Lộ
Đức, ở Lavang, ở Fatima, thì ta gọi là Mẹ Maria Lộ Đức, Mẹ Maria La Vang, Mẹ
Maria Fatima… Nếu cứ bắt chước nhau lấy địa danh nơi Mẹ hiện ra để đặt cho Mẹ,
thì chúng ta hãy cầu xin Mẹ chớ khi nào Mẹ vô ý hiện ra ở địa danh Lạc Quần,
Lạc Đạo, thì người làm tượng không thể diễn tả về Mẹ Lạc Quần, Mẹ Lạc Đạo
được!? Và dân ngoại không thể nhận ra người Công Giáo chỉ có một người Mẹ duy nhất
là Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Hội Thánh.
Và còn rừng vấn đề khác tương tự như trên. Hỏi ai có trách nhiệm
phải làm cho giáo dân diễn tả đúng Đức Tin của mình?
Các chủ chăn lẽ ra phải bắt chước Chúa Giêsu ưu
tiên chu toàn hai sứ mệnh Tư Tế và Ngôn Sứ để quy tụ muôn dân về cho Chúa. Như
giáo huấn của Công Đồng Vat. II trong Sắc Lệnh Đào Tạo Linh Mục số 4 dạy: “Phải
huấn luyện chủng sinh trở thành những mục tử chăn dắt các linh hồn theo gương
Chúa Giêsu là Thầy Linh Mục và là Chủ Chăn. Vậy để chu toàn chức vụ rao giảng
Lời Chúa, họ phải được chuẩn bị để mỗi ngày hiểu Lời mạc khải của Chúa hơn, để
nhờ suy gẫm, thấm nhuần và diễn tả trong lời nói cùng cách sống. Họ phải được
chuẩn bị chu toàn chức vụ Phụng Tự và thánh hóa: để thi hành công việc cứu rỗi
qua Hy Tế Thánh Thể và các Bí tích bằng lời cầu nguyện, và nghiêm chỉnh cử hành
các Nghi Lễ Phụng Vụ”. Bởi thế Sắc Lệnh Chức Vụ Và Đời Sống Linh Mục số
4, đã nhắc nhở các chủ chăn: “Dân Chúa được quy tụ trước nhất là nhờ Lời
Thiên Chúa hằng sống, Lời này phải đặc biệt tìm thấy trên môi miệng các Linh
mục, bởi vì các Linh mục mắc nợ dân về Lời Chúa”.
Để giúp cho các mục tử chu toàn sứ mệnh Tư Tế
và Ngôn Sứ, giáo huấn của Công Đồng Vat. II trong Hiến Chế Phụng Vụ đã dạy:
-
“Khi
cử hành Phụng Vụ, Kinh Thánh giữ vai
trò tối quan trọng. Thực vậy,
Hội Thánh đã trích từ Thánh Kinh những
Bài đọc để dẫn giải trong bài giảng” (số 24).
-
“ Bài
giảng phải căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và các
qui tắc cho đời sống Kitô hữu trong suốt chu kỳ năm phụng vụ. Bài giảng rất đáng được coi như một phần
của chính Phụng Vụ” (số 52).
-
“Bài giảng thuộc phần hoạt động của Phụng
Vụ, nên phải có thời giờ thích hợp
để giảng giải…Phải hết sức trung thành chu toàn thừa tác vụ giảng giải đúng với Nghi Lễ. Tiên vàn
bài giảng phải múc lấy từ nguồn Kinh Thánh và Phụng Vụ , vì như thế là rao
truyền việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ”
(số 35).
Nếu giáo dân đi dự Lễ ở bất cứ nhà thờ Công
Giáo nào, cũng được nghe lời giáo huấn do các chủ chăn khai triển từ các Bài
đọc trong Thánh Lễ ấy, làm đúng với Quy Luật Phụng Vụ, như giáo huấn của Công
Đồng Vatican II đã dạy như trên, thì chắc chắn tháp Babel mới càng ngày càng
được xây dựng rộng và cao chạm tới Trời (dân được cứu độ) khởi đi từ ngày lễ
Ngũ Tuần. Xưa kia con cháu Noe đã phải tản đi khắp nơi vì không thống nhất một
ngôn ngữ, nên việc xây tháp Babel bất thành (x. St 11,1-9).
Vậy chỉ những ai nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy cùng đến nghe và
nói một ngôn ngữ của Hội Thánh do ông Phêrô (Giáo hoàng) loan báo (x. Cv 2). Thế
nên “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên
hạ mà loan báo Tin Mừng” (Mc 16,15: Đáp ca). Vì Chúa nói: “Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh
em ra đi,sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16:
Tung Hô Tin Mừng).
2/ BỎ VIỆC CHÍNH MÀ LÀM VIỆC PHỤ.
Cụ thể vào thời Giáo Hội sơ khai, các Tông Đồ đã bỏ bê cầu nguyện và giảng Lời mà bận tâm lo
việc phục vụ bàn ăn, vì lúc ấy các ông rất có uy tín với giáo dân, nên
nhiều người bán hết nhà cửa và ruộng vườn đem đặt dưới chân các Tông Đồ để chia
sẻ đồng đều cho mọi người (x. Cv 4,32-35). Quả thật, bản chất việc này là tốt,
vì đã diễn tả thời cánh chung trong Nước Thiên Chúa chẳng ai thiếu thốn gì. Vì
thế, các Tông Đồ mải mê nó mà xao nhãng
cầu nguyện và giảng Lời, tức là bỏ việc chính mà làm việc phụ, hậu quả gây
sóng gió trong cộng đoàn, các tín hữu bất hòa với nhau! Đó là lý do thánh
Phaolô phải nhắc nhở cho ông Timôthêu, môn đệ: “Hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối
bỏ. Anh hãy xa lánh cả những người ấy” (2Tm 3,5). Thánh Augustin mỉa mai: “Bạn chạy khỏe lắm đó, nhưng trật đường mất
rồi”. Nhưng nhờ ơn Chúa soi sáng cho các Tông Đồ nhận biết làm thế là sai
lầm, nên các ông đã chọn ra bảy người có uy tín trong dân gọi là Phó tế, để
trao việc quản lý tài sản của Giáo Hội và chia sẻ của cải cho mọi người không
ai dư của, không ai túng thiếu; còn các
Tông Đồ thì trở về với nhiệm vụ chính là cầu nguyện và giảng Lời, từ bấy
giờ Hội Thánh được bình an và phát triển (x. Cv 6,1-7).
Nhìn vào đời sống Hội Thánh từ hơn 20 thế kỷ nay, dù biết rằng các
vị chủ chăn đã được trao sứ mệnh: “1-Tư
Tế, 2-Ngôn sứ, 3-Vương đế”.
Nhưng trong thực tế, hầu hết các ngài đã làm đảo lộn: “3-Vương
đế, 1-Tư tế, 2-Ngôn sứ”, nghĩa là hàng giáo sĩ đã biến sứ mệnh thành cơ cấu để
tỏ uy quyền, hầu những kẻ dưới luôn luôn phải lệ thuộc vào “cụ”. Vì “cụ” muốn
bảo gì cũng phải nghe, truyền điều gì cũng phải làm, phải trái hậu xét! Bởi
thế, các “cụ” không còn đủ giờ chu toàn sứ mệnh Tư Tế (cầu nguyện) và Ngôn Sứ
(giảng Lời). Sống như thế chẳng giống Chúa Giê-su chút nào. Đức Giêsu vốn dĩ là
Chúa, là Vua, nhưng Ngài không thể hiện quyền Vua của Ngài để khuất phục ai, như
Ngài khước từ can thiệp việc chia gia tài cho một người đến xin Ngài đứng ra
phân xử trong gia đình họ (x. Lc 12,13-14), hoặc không để nhiều giờ chữa bệnh,
trừ quỷ, lấn lướt việc cầu nguyện và giảng Lời. Mà có lúc Ngài phải trốn nhu
cầu của dân để có giờ chu toàn sứ mệnh Tư Tế (cầu nguyện) và Ngôn Sứ (giảng
Lời) [x. Mc 1,32-39]. Như thế Chúa Giêsu chu toàn hai sứ mệnh này, thì Ngài đã
chu toàn sứ mệnh Vương Đế. Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã cảnh báo: “Mối
nguy thường xuyên nơi các chủ chăn trong Hội Thánh là năng nổ, đắm chìm vào
những công việc của Chúa, nhưng lại quên mất Chúa là Chủ của công việc”.
Câu nói này Đức Giáo hoàng muốn nhấn mạnh: các mục tử say sưa, nỗ lực để điều
hành mọi sinh hoạt của cộng đoàn, bề ngoài xem ra sinh động và thành công,
nhưng đời sống cầu nguyện và sứ mệnh giảng dạy thì thiếu sót. Chính việc cầu
nguyện và giảng Lời mới là Chúa của công việc.
Bởi thế, giáo huấn của Công Đồng Vat. II trong Hiến Chế Phụng Vụ
số 86 dạy: “Các Linh mục miệt mài với
công việc mục vụ thánh, càng cần phải sốt sắng chu toàn các giờ Kinh Phụng Vụ
ngợi khen, nếu càng ý thức sống động hơn rằng mình phải tuân giữ lời căn dặn
của thánh Phao-lô: “Hãy cầu nguyện không ngừng” (1Tx. 5,17); vì chưng chỉ một mình Chúa mới có thể ban hiệu quả, và sự tiến triển cho công
việc họ làm, Chúa đã phán: “Không có Thầy, các con không thể làm được việc gì” (Ga 15,5). Vì thế, khi thiết lập hàng Phó tế, các Tông Đồ đã nói: “Về phần chúng
tôi, chúng tôi sẽ chuyên tâm đến việc cầu nguyện và giảng dạy” (Cv 6,4)”.
II. NGƯỜI NÀO CẦN PHẢI TRỞ VỀ VỚI CHÚA TRƯỚC NHẤT?
Cuộc trở về của thánh Phaolô, không phải là nhắm trở về trong
lãnh vực luân lý, đạo đức – vì ông Phaolô là một Biệt phái rất gương mẫu trong
việc giữ Luật Môsê, trổi vượt xa nhiều đồng chủng, đồng trang lứa với ông (x. Gl
1,14) – Mà cuộc trở về của ông Phaolô
nhấn mạnh đến việc canh tân, đổi mới Đức Tin, để lôi kéo, tập họp nhiều người
về cho Chúa!
Chân lý này đã được Đức Giêsu nói trong “Dụ ngôn con chiên bị lạc” (x. Lc 15,4-7). Nếu ta cắt nghĩa dụ ngôn
này theo nghĩa đen, thì thật là vô lý! Vì người nuôi chiên, ai cũng mong vắt
được nhiều sữa, lấy được nhiều thịt, đạt kinh tế cao. Thế thì 99 con chiên
không lạc làm cho chủ có nhiều lợi tức hơn, vậy tại sao chủ không vui mừng khi
99 chiên không lạc, mà lại rất vui khi một con trở về, liệu nó có đem lại nhiều
lợi tức cho chủ hơn 99 con kia không?!
Bởi đó, muốn hiểu đúng ý nghĩa và giá trị của dụ ngôn Chiên Lạc,
bắt buộc ta phải hiểu:
-
99 con chiên không lạc là các Tông Đồ được
Đức Giêsu chọn!
-
Một con chiên lạc trở về ràn chiên của
chủ, đó chính là ông Phaolô.
Thực vậy, khi ông Phaolô trở về đoàn chiên Hội Thánh, ông đã trở
thành một Tông Đồ xuất sắc không thua kém “các Tông Đồ thượng đẳng”, hơn cả về
lượng, hơn cả về phẩm chất (x. 2Cr 11,5).
Vì thế, thánh Tông Đồ đã khoe với ông Timôthê
môn đệ ông rằng: “Đức Giêsu bước vào trần
gian để cứu những người tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ nhất!” (1Tm
1,15) Người thứ nhất ở đây không phải là người đầu tiên được Chúa cứu, mà là
mẫu trở về với Đức Giêsu cho tất cả mọi người. Hiểu như thế, chúng ta mới biết
giá trị câu nói của Đức Giêsu: “Khi người
tội lỗi ăn năn sám hối trở về, thì cả tầng trời rúng lên vì niềm vui mừng!”
(Lc 15,7a). Thế thì:
-
Trong
gia đình, người bố là chiên đầu đàn, như sách Huấn ca
30,4 nói: “Người bố dù có tắt thở ông
cũng chưa chết, vì ông đã để lại con cái giống hệt ông!” Người bố ở đây
không chỉ quy trách nhiệm riêng cho người chồng, mà là hết những ai có trách
nhiệm giáo dục trong gia đình: ông bà, mẹ, anh chị, người bảo hộ, đều phải canh
tân đời sống Đức Tin như thánh Phaolô.
-
Trong
một giáo xứ, cha Sở là chiên đầu đàn. Thánh Gioan Maria Vianey
nói: “Linh mục thánh thiện, thì giáo dân
đạo đức; Linh mục đạo đức, thì giáo dân tầm thường; Linh mục tầm thường, thì
giáo dân ra quỷ!” Vậy nếu Linh mục mà ra quỷ, thì giáo dân còn độc ác hơn
quỷ vương Beelzebul!!
-
Trong
địa phận, Giám mục là chiên đầu đàn. Thánh Augustin nói:
“Làm Giám mục cho anh em, tôi rất lo sợ,
làm tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Vì Giám mục chỉ là một chức vụ, tín hữu
mới là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là một danh
hiệu đem ơn cứu độ!” (x. HCHT số 32) Nói kiểu của cha Gioan Maria Vianey
thì: “Nếu Giám mục tầm thường thì hàng
Linh mục trong địa phận ra quỷ!”
Chính vì vậy mà bất cứ Thánh Lễ nào, sau lời Truyền Phép,lời cầu
nguyện đầu tiên là cho Giám mục thủ lãnh (Giáo hoàng),và Giám mục địa phận, vì
các vị này mới là người quyết định làm cho Hội Thánh được bốc lên. Bởi vì mỗi
giáo phận là một Hội Thánh vẹn toàn, vì Giám mục là hiện thân Tông Đồ của Đức
Giêsu, là thầy dạy Đức Tin. Nên việc canh tân sống đạo của mọi thành phần trong
Giáo phận hoàn toàn lệ thuộc vào Giám mục địa phận. Do đó nếu có giáo dân hay
Linh mục nào giống thánh Phaolô, thì cũng chỉ là “đèn chói mắt”, làm nhức đầu
người khác! Nhưng nếu Giám mục là một Phaolô mới, thì sẽ làm bốc lên sức sống
đạo của dân Chúa trong địa phận, trở thành bó đuốc sáng, thành đèn hải đăng soi
dẫn muôn dân tìm về ràn chiên của Đức Giêsu! Thực là buồn cho Hội Thánh Chúa,
suốt hơn 20 thế kỷ nay, mới chỉ có một Giám mục Phaolô mà thôi!
III. CUỘC TRỞ VỀ NHẮM ĐẠT YÊU CẦU NÀO?
Cuộc trở về với Chúa theo gương thánh Phaolô nhằm hai hiệu quả
này:
-
Được thực sự trở nên giống Thiên Chúa.
-
Được hòa hợp với môi trường sống.
1/ TA THỰC SỰ ĐƯỢC TRỞ NÊN GIỐNG CHÚA TRONG CHÚA GIÊSU.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15: Tin Mừng).
Ta lưu ý: Chúa Giêsu không nói loan báo
Tin Mừng cho mọi người, mà Ngài nói cho mọi
loài thụ tạo.
Ta biết tác giả Sách Sáng thế ghi nhận:
“Thiên Chúa tạo dựng loài người giống
hình ảnh của Ngài” (St 1,26a). Thực ra, đó mới chỉ là ước định của Thiên
Chúa muốn con người được giống Ngài, chứ: “Con người đầu tiên là Ađam được dựng nên
thành một sinh vật, còn Ađam cuối cùng là thần khí ban sự sống” (1Cr
15,45). Cũng vì vậy mà Lời Sách Thánh đã nói: “Về con cái loài người, tôi tự nhủ:
Thiên Chúa muốn thử thách họ và cho họ thấy chính họ chỉ là thú vật mà thôi. Quả
thế, con người và thú vật đều cùng chung một số phận: bên này chết, bên kia
cũng chết; đôi bên đều có sinh khí như nhau. Con người chẳng có gì hơn thú vật,
bởi vì mọi sự chỉ là phù vân” (Gv 3,18-19). Nhưng những ai được tạo
dựng lại nhờ, với, trong Chúa Giê-su, thì họ cùng trở nên một xương thịt với Ngài (x. Dt 2,11), được thông dự cùng một sự sống với Ba Ngôi Thiên
Chúa (x. Ga 6,57), đến nỗi được đồng
hóa với Chúa Giêsu (x. Gl 2,20).
Lời Nguyện Nhập Lễ
Thứ Hai, sau Chúa nhật IV Phục Sinh, Hội Thánh cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, là Đấng tạo thành vũ trụ, Chúa đã
muốn cho con người mỗi ngày một trở nên hoàn hảo hơn, và hoàn thành công trình
tạo dựng của Chúa”; và Lời Nguyện Nhập Lễ Thứ Năm sau Chúa nhật thứ IV Phục
Sinh, Hội Thánh lại cầu nguyện: “Lạy Chúa,
Chúa đã tỏ lòng nhân hậu mà cứu chuộc con
người, và nâng lên địa vị cao sang hơn tình trạng nguyên thủy, xin nhớ lại công
trình kỳ diệu này, mà giúp chúng con trung thành luôn mãi với ơn tái sinh Chúa
đã ban.”
2/ SỰ DỮ KHÔNG LÀM HẠI AI VÌ TA ĐƯỢC SỐNG HÒA HỢP VỚI CẢ SỰ
DỮ.
Chúa Giêsu hứa với
những ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy giống các Tông Đồ: “Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc
độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những
người này sẽ được mạnh khỏe” (Mc 16,18: Tin Mừng).
Lời hứa trên mang hai
ý nghĩa:
a- Ai thuộc về Chúa, sống hay chết đều ở trong
tay Chúa: Cụ thể ông Phaolô trong lúc vượt biển đi truyền giáo, con tầu của
ông bị đắm, ông đã bơi vào bờ, vì quá lạnh ông thấy những thổ dân đang đốt lửa,
ông muốn đến sưởi ấm, nên ông đã ôm một mớ củi khô quăng vào đống lửa, ngờ đâu
một con rắn độc quấn lấy tay ông. Thổ dân nắm chắn ông sẽ chết, bởi vì loại rắn
này cắn ai thì vô phương cứu chữa, thế nhưng ông Phaolô bình tĩnh giũ con rắn
vào lửa, ông vẫn sống bình an! (x. Cv 28,3-6). Điều ấy minh chứng rằng: bất cứ
sự dữ nào: dù rắn hay thuốc độc, không làm hại được người đã thuộc về Chúa, một
khi Chúa chưa cho phép!
b- Sống hòa hợp giữa lành – dữ trong mầu nhiệm
Hội Thánh: Ngôn sứ Isaia nói: “Bấy
giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi
chung với nhau,một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con
của chúng nằm chung một chỗ,sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn
chơi bên hang rắn lục,trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang” (Is
11,6-8).
Thực ra chân lý trên,
người tin theo Chúa chỉ thực sự thấy ứng nghiệm khi đã hoàn tất cuộc đời này
trong Thánh Ý Thiên Chúa, như Tông Đồ Phaolô và Phó tế Stêphanô: Ở đời này, “sói
Phaolô” đã ăn thịt “chiên Stêphanô” (x. Cv 7, 54t và Cv 8,1-3). Nhưng khi cả
hai đã được về Trời, lúc đó họ mới hiểu giá trị Lời Kinh Thánh “sói sống chung với chiên”, hoặc “cầm rắn, uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao”!
Vậy mỗi Kitô hữu phải
chu toàn đúng bổn phận của mình ưu tiên theo thứ tự: Cầu nguyện (Tư Tế), giảng
Lời (Ngôn Sứ), rồi phục vụ (Vương Đế) giống Chúa Giê-su (x. Mc 1,32-39), và
biết canh tân đời sống Đức Tin của mình giống thánh Phaolô, đó mới thực sự là ta
đã sống giáo lý của Lễ Kính Thánh Phaolô Trở Lại, để có thể hô lên: “Muôn dân hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi
hãy chúc tụng Người. Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín
của Người bền vững muôn năm.” (Tv 117/116,2).
THUỘC
LÒNG
Đức Giêsu đến trần gian để cứu những
người tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ nhất!
(1Tm 1,15).
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh