CHÚA
NHẬT 4 MÙA VỌNG A
1. Emmanuel
Đối với người Do Thái, thì có con là một sự chúc lành của Thiên
Chúa, còn son sẻ là dấu của kẻ bị Thiên Chúa bỏ rơi. Hơn thế nữa, son sẻ còn là
một tình trạng tương đương với sự chết chóc. Thực vậy, chết là hết sống. Son sẻ
là hết dòng sự sống. Tên tuổi sẽ bị dứt khỏi trần gian.
Quan niệm về đời sau của người Do Thái lúc bấy giờ còn rất mù
mờ. Mọi hy vọng của họ là cuộc sống trần gian. Phần thưởng chính là dòng dõi
nối tiếp mãi trên mặt đất này. Bởi đó việc tiếp tục có dòng dõi sau tai ương
khốn quẫn đã được diễn tả bằng sức sống lại.
Thế nhưng, như lời Kinh Thánh đã xác quyết về Thiên Chúa: Tư
tưởng của Ta không giống với tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng
không giống với đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư
tưởng và đường nẻo của ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo các ngươi bấy
nhiêu.
Chính vì thế, Thiên Chúa thường ghé mắt nhìn đến sự yếu hèn và
bất lực, bởi đó mới nảy sinh những điều đáng ngạc nhiên trong hành động của
Thiên Chúa. Ngài đã tỏ lộ quyền năng của Ngài trong sự bất lực. Đúng thế, sự
đồng trinh của Đức Mẹ cũng là một cái chết, nhưng cái chết đó đã được Thánh
Thần Chúa đem lại một sự sống mới. Đó cũng là điều diễn ra nơi thập giá với cái
chết của Chúa Giêsu. Bởi vì sự phục sinh và sự sống mới, một sự sống dồi dào đã
nẩy sinh từ cái chết đau thương của Ngài trên thập giá.
Đã từ lâu, Thánh Thần vẫn được giới thiệu như là nguyên nhân của
sự sống. Khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, thì thần khí đã bay lượn
trên nước và làm cho mọi sự được thành hình. Adong được nặn từ bùn đất, nhưng
nhờ Thần Khí của Thiên Chúa mà có sự sống. Thần Khí cũng trở thành sự sống của
Adong mới. Một trinh nữ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần đã nói lên sự
can thiệp của Thiên Chúa.
Phụng vụ ngày Chúa nhật hôm nay cho chúng ta cải cảm tưởng rằng
Chúa Giêsu đang đi vào lịch sử nhân loại. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở
cùng chúng ta. Ngài ở giữa chúng ta để cứu chuộc, để giải phóng, để dẫn chúng
ta ra khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Giáo Hội hôm nay chính là sự nối tiếp sự hiện diện hữu hình của
Chúa giữa con người trong thế giới, một sự hiện diện cứu chuộc và giải thoát
không phải chỉ về mặt thiêng liêng bằng cách trao ban các bí tích, mà hơn nữa
một sự giải thoát toàn diện, khỏi tất cả những gì cản trở sự phát triển của con
người và xã hội bằng sự dấn thân và liên đới với mọi nỗ lực xây dựng tình
thương và công lý.
2. Chúa ở cùng chúng ta
Tại Việt Nam và nhất là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo
hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng cho con cái từ khi chúng còn nhỏ. Trong tác
phẩm “Vượt khỏi Đông và Tây”, tác giả John Wu đã mô tả như sau: “Trước đám
cưới, vợ tôi và tôi chả bao giờ thấy mặt nhau. Cả hai chúng tôi đều được giáo
dục theo đường lối cổ xưa của người Trung Hoa. Bố mẹ đã đính hôn chúng tôi với
nhau khi chúng tôi mới lên sáu. Đến năm mười mấy tuổi tôi mới biết được nhà
nàng ở đâu. Tôi khao khát được thoáng nhìn nàng thử xem, nên thỉnh thoảng lúc
tan học về, tôi cố tình đi ngang qua nhà nàng, thế nhưng chả bao giờ tôi được
may mắn nhìn thấy nàng”.
Từ đoạn văn trên chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được mối liên hệ giữa
thánh Giuse và Mẹ Maria trước lúc Chúa chào đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc
hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là đính hôn.
Việc này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ thường
chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này.
Giai đoạn thứ hai là hứa hôn.
Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau... Khi đã
hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự
chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng, nên chỉ có sự
ly dị mới xoá bỏ được nó.
Giai đoạn thứ ba là kết hôn
theo đúng nghĩa. Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai khi hai người ở trong
giai đoạn thứ hai, tức là đã hứa hôn với nhau.
Tuy nhiên tôi muốn chia sẻ về một điểm khác quan trọng hơn, đó
là việc Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thánh Matthêu đã khởi đầu Phúc Âm bằng việc
trích dẫn lời tiên tri Isaia: Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai,
người ta sẽ gọi tên Con Trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Đồng thời thánh Matthêu cũng đã kết thúc Phúc Âm bằng lời hứa của Chúa Giêsu:
Này đây Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Vậy thì Thiên Chúa, Ngài
đã ở cùng chúng ta như thế nào?
Trước hết, Ngài hiện diện giữa chúng ta qua việc sáng tạo, và
đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của Ngài, bởi vì Ngài không phải chỉ tạo dựng
mà còn gìn giữ nó được tồn tại trong một trật tự lạ lùng cho đến ngày hôm nay.
Tiếp đến, Ngài còn hiện diện giữa chúng ta qua lời Ngài trong
Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh ví Kinh Thánh như là một bức thư của người cha
gởi cho con cái mình. Người cha biểu lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong bức
thư như thế nào thì Thiên Chúa cũng mạc khải ý nghĩ của Ngài cho chúng ta trong
Kinh Thánh như vậy.
Cuối cùng Ngài hiện diện giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức
Kitô, Con Một của Ngài. Cùng với việc giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã
bước thêm một bước khổng lồ để đến và cư ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó
chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng nghe chính Thiên Chúa. Hay nói một cách khác
với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta qua một cách cụ
thể và sống động qua một con người bằng máu thịt của Đức Kitô.
3. Dòng tộc – Radio Veritas Asia
(Trích từ ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - RVA)
Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi
tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn
một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản,
chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến
việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng
chẳng có một bộ áo quàn nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành
dụm, cuối cùng chàng củng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều
yết.
Đến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ
đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Động lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già
bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết
lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng
một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc
nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng
giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười
nhìn chàng: “Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”
Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ
tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuận
việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con
người.
Xết về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David,
hậu duệ của vua David. Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm
lời các tiên tri đã báo trước: “Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm
giống côn chính, mầu giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan
thực hiện công lý và công bình trên đất nước”. Hoặc ở một chỗ khác: “Chúa sẽ
lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi”.
Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng
đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ David. Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy
Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao
dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện
chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt
đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí
trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại
bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội
Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung
ngãi đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng.
Ngài tôn trọng nàng, ngái muốn để mặc cho nàng tự phận xử.
Đang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì
ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm
người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm
hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đả trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ
mới sinh. Với người Do thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong
việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa thì khi
chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải
do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để
lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ mà từ đây lòng yêu thương đã
có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết òng
yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người con đang cưu mang.
Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân
vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt
tất cả những giai cấp này thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng
nơi mổi người chúng ta do yêu thương hay dận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm
lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao
giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị vua
tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ
bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hứng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi
người chúng ta.
4. Trong kế hoạch của Thiên Chúa – R.St.G
Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng
cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông
về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con
trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người
khỏi tội lỗi của họ”.
(Mt. 1, 20-21)
Nhiều khi chúng ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không
biết được tính chất huyền nhiệm. Hôm nay, Tin mừng cho chúng ta thấy Giuse như
chống lại đường lối huyền nhiệm của Thiên Chúa.
Giuse bị đặt trước sự kiện một con trẻ được cưu mang bởi một nữ
đồng trinh. Đức Maria, vị hôn thê của ông, được chọn làm Mẹ theo ý định mầu
nhiệm của Thiên Chúa. Mẹ được chọn đi vào đường lối khác thường. Thái độ của Mẹ
thế nào? Thái độ của người công chính ra sao? Không phải thứ công chính giữ
theo luật pháp, cũng không theo ý niệm loài người của Maria. Công chính đây
theo nghĩa riêng của Kinh thánh là hợp với thánh ý Thiên Chúa. Giuse công chính
vì ông kính trọng công trình của Thiên Chúa và thực thi vai trò Thiên Chúa xếp
đặt cho ông. Trong khi thánh Giuse chuẩn bị cho Maria hoàn toàn tự do theo
đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa đã se định, thì Thiên Chúa đã làm cho ông khám
phá ra rằng ông cũng giữ một vai trò thiết yếu đối với xã hội là bảo lãnh cho
Đức Giêsu thuộc gia hệ ông. Thực vậy, chính nhờ ông, Đức Giêsu thuộc dòng
Đavít. Ông đã làm tròn vai trò đó khi nhận Maria làm vợ, đồng thời bảo đảm cho
con trẻ sắp sinh ra có cha trước luật pháp. Nhờ thế Thiên Chúa đã thực hiện kế
hoạch đã định cho Đấng Cứu thế thuộc con dòng Đavít.
Khi nhận ra thân phận loài người chúng ta, Đức Giêsu cho chúng
ta thấy rõ rằng chính trong lịch sử đời mỗi người chúng ta, trong cuộc sống
hàng ngày Chúa Cha cũng thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúng ta có thể noi
theo thái độ của người công chính như thánh Giuse không? Với con mắt đức tin,
chúng ta có sẵn sàng luôn luôn chú ý tuân theo ý Chúa đang thực hiện trong đời
sống chúng ta không?
5. Đấng Emmanuel
Giữa lúc dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon, Thiên Chúa đã sai
Yêrêmia loan báo một Tin mừng là Ngài sẽ ban cho họ một vị vua sẽ đưa dân lưu
đầy trở lại quê hương và thiết lập một dân Israel mới. Vị vua ấy được thánh
Matthêu giới thiệu là Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã ở giữa dân Ngài. Ngài đã ở với họ
trong áng mây, cột lửa, Ngài đã ở nơi họ trong Hòm Bia giao ước và nơi các nhân
vật đặc tuyển. Nhưng vì muốn ở với họ một cách sâu xa hơn. Ngài đã trở nên Đấng
Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Tuy nhiên, để có thể ở giữa loài người, Ngài đã muốn có sự cộng
tác của con người. Đức Maria là người đầu tiên và gương mẫu của việc thực hiện
kế hoạch Emmanuel. Đứng trước kế hoạch hoàn toàn trái ngược với hoài bão và mơ
ước của mình, Người đã tự xoá bỏ mình và cúi đầu vâng phục. Thánh Giuse cũng
vậy, sau khi đã được giải thích cho biết về kế hoạch thần linh, Người cũng đã
sẵn lòng quên mình để cho ý định của Thiên Chúa được hoàn tất. Chính việc
tự xoá mình và hoàn toàn giao phó đời mình cho Thiên Chúa đã làm cho tình yêu
của các ngài sung mãn và đạt đến mức thiên giới mà không cần quan hệ giới tình.
Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi vẫn đang làm cho nhân
loại xoá bỏ những chia rẽ, đố kỵ, ngăn cách để được hợp nhất với nhau trong
tình yêu, bởi vì, Ngài là Tình yêu, Ngài sẽ không thể tìm được nơi ở, bao lâu
nhân loại còn đầy những ích kỷ, oán hận, tranh chấp.
Nhưng trên tất cả, Ngài muốn có một chỗ trong tâm hồn chúng ta.
Ước gì chúng ta biết mở rộng lòng đón lấy Ngài, nên một với Ngài, nhờ đó Ngài
có thể mãi mãi là Đấng Emmanuel cho ta và cho nhân loại hôm nay.
6. Tâm tình của Giuse với biến cố nhập thể – Anmai
Con người, dù quyền cao chức trọng đến mức nào đi chăng nữa vẫn
mang trong mình những giới hạn của phận người. Cảm thức trước giới hạn đó con
người thường tìm đến vị thần linh, vị cứu tinh của đời mình để kêu cứu.
Thiên Chúa là Chúa, là vị cứu tinh của dân tộc Do Thái để rồi
Ngài luôn dõi mắt theo nhìn hành trình đời người của đám dân Ngài chọn. Lúc ẩn,
lúc hiện, lúc đồng hành, lúc khuất bóng nhưng mà hình như lúc nào Thiên Chúa
cũng ở bên cạnh dân riêng của mình. Thiên Chúa luôn can thiệp trong hành trình
cứu độ, hành trình đi trong sa mạc của dân Do Thái để cứu họ thoát khỏi sự dữ,
sự chết.
Hôm nay, chúng ta được nghe Isaia thuật lại câu chuyện hết sức
hấp dẫn. Thời ấy, người ta báo cho nhà Đavít rằng quân Aram đã đóng quân ở
Épraim. Với cái tin rùng rợn ấy, Akhát rúng động như cây rừng rung rinh trước
gió như sách ngôn sứ Isaia diễn tả. Akhát rúng động và không hề biết rằng Thiên
Chúa sẽ ra tay cứu ông cũng như cứu dân. Qua Isaia, Thiên Chúa hứa rằng sẽ làm
cho dân Giuđa phải khiếp sợ. Khi nghe Isaia nói như vậy, nhà vua cảm thấy bình
an vì có Thiên Chúa ở bên ông, ở bên dân của ông.
Thiên Chúa thương dân Do Thái, Thiên Chúa thương Akhát đến độ
còn hỏi vua: "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi
một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." Đứng trước tình yêu bao
la, sự chở che, sự quan phòng của Thiên Chúa Vua Akhát trả lời: "Tôi sẽ
không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa."
Nếu tiếp tục theo dõi những trang sách Isaia tiếp theo, chúng ta
sẽ thấy một cách hết sức thiết thực về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho vua
Akhát cũng như cho dân. Thiên Chúa đã cho dân chiến thắng và qua miệng của
Isaia còn hứa ban Đấng Cứu Độ như chúng ta vừa nghe: Chính Chúa Thượng sẽ ban
cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và
đặt tên là Emmanuen.
Tâm tình của vua Akhát quả là một tâm tình dễ thương. Được Thiên
Chúa yêu thương, được Thiên Chúa cho đòi hỏi nhưng ông lặng lẽ trước ân huệ,
trước ơn cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Người. Giữa dòng người ồn ào và
náo nhiệt, rúng động trước những biến cố của cuộc đời thì lại có những người
bình tâm để nghe tiếng Chúa nói, nghe lời Chúa hứa trên cuộc đời của mình.
Giữa mùa Vọng này, hình ảnh hết sức đẹp của một người trông chờ
Chúa đã hiện lên một cách hết sức dễ thương. Hình ảnh ấy đó chính là hình ảnh
của Thánh Cả Giuse. Nhà nhà náo động, người người náo động thì Giuse hoàn toàn
lặng lẽ. Thái độ lặng lẽ trước ơn cứu độ của Thiên Chúa của Thánh Cả Giuse
chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại. Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta
“gốc tích” của Đấng Cứu Độ trần gian.
“Đây là gốc tích của Đức Giêsu...”. Sau quyển sách gốc tích của
Đức Giêsu Kitô, thì đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Chúa
Giêsu, bám rễ sâu vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi
khác. Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà, Chúa Giêsu sinh ra...
Giuse đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp
pháp một cách xác tín, một cách âm thầm và lặng lẽ. Từ ngày báo mộng, Thánh
Giuse bước vào, nhập cuộc vào chương trình cứu độ mà Thiên Chúa mời gọi Ngài.
Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng
cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà
mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã
cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán
được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.
Nhờ Giuse, Chúa Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa
của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).
Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó,
nhưng Ngài không làm như vậy. Giuse muốn trốn đi vì việc này có thể được mọi
người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha và trên
bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với
chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ
hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria
về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần
mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng
Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc
đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho
Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận
quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng
phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc
cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài
mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc
chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên
Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm
Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng
được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm
lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu
độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.
Thực tế, Hài Nhi Giêsu đến từ một Đấng khác: đứa con bà sinh ra
là bởi Chúa Thánh Thần. Vai trò là cha nuôi của Chúa Giêsu với Thánh Cả Giuse
không phải là chuyện đơn giản. Phải hết sức trầm lắng mới có thể hiểu được ý
muốn của Thiên Chúa trên cuộc đời của Ngài. Giuse, người công chính, sẽ đặt tên
cho Hài Nhi: bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu. Tên gọi có ý
nghĩa, cho biết Hài Nhi không phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín
trong những giới hạn của khả năng loài người: bởi chính Ngài sẽ cứu dân Ngài
khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa?
Lời ngôn sứ nhận lấy đầy đủ tất cả ý nghĩa: người ta sẽ gọi tên Ngài là
Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Chúa Giêsu ghi tên vào một gia
phả, nhưng Ngài làm nổ tung gia phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế
giới loài người chúng ta.
Khi đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian rồi, Giuse vẫn giữ một thái
độ sống hết sức mẫu mực và lặng lẽ để làm gương sáng cho đứa con yêu của Ngài
bởi lẽ Ngài hiểu được tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo
thành nhân cách của Hài Nhi. Chính nhờ gần gũi với Giuse mà Chúa Giêsu sẽ học
biết người cha là gì. Chính nơi Giuse, Chúa Giêsu nhìn thấy phản ánh nhân loại
tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải
chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha:
“Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh mà lại cho một hòn đá ư? Hay, nếu nó xin
một con cá, mà lại cho nó một con rắn?” (7,9-10). Ngài đã học biết rằng, các
người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết
điều đó nơi thánh Giuse. Qua bài học lặng thầm của Thánh Giuse để lại, Chúa
Chúa Giêsu như được củng cố thêm tình thương của Cha để Ngài bước vào cuộc khổ
hình thập giá một cách hiên ngang hơn, một cách quyết liệt hơn.
Đối diện với những thử thách cam go của cuộc đời, thánh Giuse
vẫn luôn giữ thái độ im lặng. Một thái độ thầm lặng để vâng theo ý Chúa. Người
không lên tiếng, ăn to nói lớn, Người không bào chữa cho những hành động của
Người, nhưng tất cả đều theo ý Thiên Chúa. Thánh Giuse đã im lặng, chấp nhận dù
rằng người cũng rất trăn trở, băn khoăn, bồn chồn, lo lắng. Mọi biến cố xẩy đến
trong cuộc đời của thánh Giuse đều được Người chấp nhận với lòng tin thâm sâu:
Người hy sinh lợi ích riêng cho kế hoạch, cho chương trình cứu độ của Thiên
Chúa.
Sự thinh lặng thánh, sự ngụp lặn âm thầm theo Thánh ý Chúa của
thánh Giuse gợi lên cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta bài học hết sức ý
nghĩa. Vì chỉ có sự phó thác thẩm sâu nơi bàn tay nhân từ của Thiên Chúa với
tất cả đức tin sâu xa, con người mới nhận ra đôi mắt nhân hiền, trái tim quảng
đại và tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với từng người. Thánh Giuse đã có
mặt trong mọi lúc nguy biến mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ cần đến, nhưng tới thời
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai thì cuộc đời của thánh Giuse cũng bắt đầu
chấm dứt nơi trần gian này. Sự thinh lặng kéo dài suốt cuộc đời của thánh Giuse
từ lúc Người được sinh ra cho đến ngày Người nhắm mắt xuôi tay. Sự thinh lặng thánh
của thánh Giuse diễn tả cuộc đời của một con người hoàn toàn thuộc về Chúa, cho
Chúa và vì Chúa và như thế, thánh Giuse là mẫu gương tuyệt vời cho mọi người
noi theo.
Những ngày chờ đón Đấng Cứu Độ đến trần gian ắt hẳn mở ra nhiều
tâm tình, nhiều thái độ, nhiều tình cảm nhưng chắc có lẽ tâm tình âm thầm và
trầm lắng của Thánh Giuse là tâm tình, là thái độ hết sức dễ thương mà Thiên
Chúa muốn nơi chúng ta. Chỉ trong âm thầm, chỉ trong chịu đựng những đau khổ
chúng ta mới có thể hiểu được Thánh ý tuyệt vời mà Thiên Chúa tô vẽ trên cuộc
đời mỗi người chúng ta.
7. Vâng theo Ý Chúa – R. Veritas
(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thiên Chúa là Đấng toàn năng, nếu Ngài đã tạo dựng thế giới chỉ
bằng một lời quyền năng của Ngài, thì Ngài cũng có thể cứu chuộc con người một
cách dễ dàng bằng một lời tha thứ. Nhưng Thiên Chúa đã không làm thế. Ngài tôn
trọng tự do của con người và muốn chính con người sử dụng tự do của mình để
cộng tác vào công trình cứu độ. Nhưng bằng cách nào? Thưa, đó là luôn vâng theo
ý Chúa như Đức Maria và thánh Giuse đã sống.
Thật vậy, Đức Maria chỉ là một thiếu nữ bình thường như bao
thiếu nữ khác, sống trong một làng quê nhỏ bé, âm thầm; chỉ có một điều khác
biệt là người đã luôn vâng theo ý Chúa trong mọi sự. Người đã thưa xin vâng, dù
chưa biết rõ chương trình lạ lùng của Thiên Chúa. Cũng thế, thánh Giuse chỉ là
bác thợ mộc nhà quê, nghèo hèn, nhưng có điều khác biệt là ngài đã luôn tuân
theo ý Chúa, điển hình là ngài đã rước Đức Maria về nhà mình sau khi được sứ
thần cho biết là Đức Maria thụ thai là bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
Mỗi kitô hữu chúng ta cũng có thể là một Giuse hay một Maria
khác. Mặc dù chỉ là những con người bé nhỏ, tầm thường, tội lỗi, chúng ta cũng
có thể góp phần vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa nếu chúng ta biết thể
hiện cuộc sống hàng ngày của chúng ta trong sự tuân phục thánh ý Chúa, được
biểu lộ qua luật Phúc âm, qua giáo huấn của Giáo Hội và của các vị Bề trên…
Cuộc sống tốt đẹp của chúng ta sẽ trở thành một dấu hỏi cho người chung quanh:
Tại sao người Công giáo lại vui tươi, bình an như thế; gương sống đạo của chúng
ta sẽ tác động những người khô khan và là một khuyến khích nâng đỡ cần thiết
cho những anh em đồng đạo của chúng ta.
Ước gì chúng ta ý thức được phần đóng góp tuy nhỏ bé, nhưng hữu
hiệu của chúng ta, trong việc làm cho mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu được
mọi người nhận biết, và làm cho nhiều tâm hồn trở thành nơi an bình cho Chúa
giáng sinh.
8. Đừng ngại
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ, còn Tin Mừng
Mátthêu lại nói đến việc truyền tin cho Giuse. Sứ thần Chúa giải tỏa nỗi lúng
túng và bối rối của ông, khi báo cho ông hay thai nhi nơi người vợ chưa cùng
ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận
Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình.
Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông
không hiểu hết.
Maria là một mầu nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần
cũng là mầu nhiệm. Giuse đã để cho các mầu nhiệm vây bọc mình.
Cả cuộc đời Giuse là chiêm ngắm các mầu nhiệm diễn ra một cách
bình thường, sát bên ông. Và chính cuộc đời của ông cũng là một mầu nhiệm.
Giuse chấp nhận ý định của Thiên Chúa dù nó phá vỡ ước mơ ông ấp
ủ từ lâu. Ông muốn làm chồng cô Maria, người ông yêu mến, nhưng Thiên Chúa lại
muốn ông làm bạn của cô thôi. Ông muốn là cha của một đàn con đông đúc, nhưng
ông chỉ là cha nuôi của Đức Giêsu.
Bề ngoài, Giuse vẫn gánh trách nhiệm làm chồng, làm cha, nhưng
căn tính sâu xa của ông, ít ai biết.
Ông sống một mình mầu nhiệm đời ông trước Thiên Chúa.
Giuse đã mau mắn nói tiếng Xin Vâng.
Ông luôn bị đánh thức vào lúc đang an nghỉ. Sứ thần Chúa bảo ông
chỗi dậy để làm điều gì đó. Ông bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya. Từ
Nadarét lên Bêlem, từ Bêlem đi Ai cập, rồi lại trở về. Giuse chịu trách nhiệm
về những kho báu Chúa giao.
Vâng phục một cách đơn sơ: đó là thái độ của Giuse.
Hôm nay có thể Chúa không nói với tôi qua giấc mơ, nhưng qua bao
con đường khác, rất riêng tư, mà chỉ mình tôi cảm nhận được. Nếu tôi mau mắn
nói tiếng Xin Vâng như Giuse, tôi sẽ góp phần vào việc cứu độ cả thế giới.
Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng
cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà
mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã
cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được
điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.
Nhờ Giuse, Đức Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa
của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).
Cùng với Giuse, xin được gọi tên Con Thiên Chúa là GIÊSU.
Cùng với cả vũ hoàn, xin gọi tên Ngài là EMMANUEL. GIÊSU là
Thiên-Chúa-ở-với-ta cho đến tận thế.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa thường nói với bạn bằng
những cách thức nào? Có khi nào bạn xin vâng khi dự tính của bạn bị tan vỡ
không?
Con Thiên Chúa được gọi bằng nhiều tên: Giêsu, Kitô, Con vua
Đavít, Emmanuel. Bạn thích tên nào hơn cả? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về
Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại
không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa
nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời
con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn
về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm
và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải
chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho
Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
9. Ngài từ đâu đến? – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Bắt đầu bài trích Phúc Âm hôm nay, Thánh Mátthêu đã giới thiệu:
“Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô...”. (Đức Giêsu Kitô sinh ra thế này - Et
voici comment Jésus Christ fut engendré...bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de
Jérusalem) (Mt 1,18).
Khi thánh sử Mátthêu mở đầu Phúc Âm của ngài, ngài đã trang
trọng viết: “Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đa-vít, con cháu ông
Áp-ra-ham”. (Gia phả Đức Giêsu Kitô, con Đa-vít, con Abraham. – Généalogie de
Jésus Christ, fils de David, fils d’Abraham. Bản dịch của Cha Thuấn, La Bible
de Jérusalem). (Mt.1,1-17).
Người xưa có câu: “vô tri bất mộ”. Không biết không yêu.Trong cuộc sống, cũng
không ai đặt niềm tin vào người mà mình không hề biết “gốc tích” người đó. Làm
sao ta có thể an lòng đặt niềm Tin Yêu vào một người mà ta không biết gì về “lý
lịch” ?
Nên, không phải vô tình mà thánh Mátthêu mở đầu sách Tin Mừng,
ngài đề cập đến hai lần “gốc tích” của Chúa Giêsu Kitô. Bởi vì, để dọn đường
cho Đức Tin độc giả, thánh Mátthêu muốn độc giả hiểu rõ về Chúa Giêsu. - Đức
Giêsu, Ngài từ đâu đến?
Đức Giêsu: nhân vật lịch sử.
Không một sử gia nào ngày hôm nay còn nghi ngờ tính chất lịch sử
của Chúa Giêsu, khái niệm Ngài không phải là một nhân vật đã sống thực sự trong
lịch sử không còn giá trị gì trên phương diện sử học.
Ngay cả những tranh luận thời xưa, Celse ở thế kỷ thứ hai,
Porphyre ở thế kỷ thứ ba đã qui tụ nhiều lập luận chống lại Kitô giáo, dựa trên
sự nghiên cứu sâu rộng về kinh Thánh, về truyền thống truyền miệng; nhưng các
ông không hề nghi ngờ gì về thực tại của những lời chứng do các môn đệ đã biết
Chúa Giêsu tuyên xưng, hay những lời của Phao-lô, chứng nhân và văn sĩ Kitô hữu
đầu tiên. Sự sống lịch sử của Chúa Giêsu cũng không bị đặt nghi vấn bởi truyền
thống Do Thái, và ngay cả kinh Coran cũng coi Ngài như một vị tiên tri loan báo
đấng Mahomet của Hồi Giáo.
Trong những văn kiện ngoài Kitô giáo, chiến tranh Do Thái (la
guerre Juive) và những Cổ truyền Do Thái (les antiquités Judaiques), được soạn
thảo bởi sử gia Do Thái Flavius Josèphe, có nói hai lần đến sự hiện hữu của
Chúa Giêsu.
Trong những cổ truyền Do Thái (XX & 200), Flavius nhắc đến
cuộc tử đạo của Jacques năm 62: Vị giáo quyền Anan triệu họp đại hội những thẩm
phán để xử án jacques, anh em của Giêsu còn gọi là Kitô, và một phạm nhân khác.
Họ bị kết tội đã vi phạm Luật Thánh và bị kết án tử hình bằng ném đá. Bản văn
này cần hai chú thích sau: thứ nhất là chữ dịch anh em phải được hiểu theo
nghĩa của ngôn ngữ nguyên văn (acception sémitique), nó được dùng để chỉ những
người cùng gia đình, họ hàng, bạn bè; thứ hai là chữ Kitô, dưới ngòi bút của
tác giả ngoại giáo và thân Roma này, được dùng theo nghĩa xấu để chỉ những người
hay gây rối loạn ở vùng Judée thời đấy.
Trong chiến tranh Do thái (Flavius Josèphe XVIII, &63-64),
ông có viết: Trong thời đó có Giêsu, một người khôn ngoan, nhưng có nên gọi như
thế hay không, bởi vì đó là một người làm nhiều điều phi thường, một bậc thầy
đối với nhiều người muốn tìm chân lý. Nhiều người Do Thái và Hy lạp theo ông.
Đó là Đức Kitô. Khi ông bị tố cáo và bị Philatô kết án đóng đinh trên thập giá,
những người theo ông vẫn không từ bỏ. Bởi vì ông sống lại trong ngày thứ ba;
nhiều vị tiên tri thần linh đã nói về những điều này và muôn vàn những điều kỳ
diệu khác về ông. Cho tới bây giờ, nhóm người Kitô vẫn còn tồn tại. (Theo Le Figaro
Magazine, 01.10.1999, Nguyễn Văn Thành chuyển ngữ).
Còn rất nhiều bằng chứng, để có thể tin chắc một người mang tên
Giêsu như Tân Ước ghi lại, đã từng có mặt trong lịch sử nhân loại. Đó không
phải là một nhân vật huyền thoại, được tưởng tượng ra để phục vụ cho những lý
do trần tục của nhân loại.
Vì Giêsu, Ngài là một nhân vật từng có mặt trong lịch sử nhân
loại, nên Ngài phải có “gia phả”,
có “gốc tích” rõ ràng, Ngài là con ai, cha mẹ là ai, sinh ra ở đâu, quê hương,
cuộc đời và sự nghiệp Ngài như thế nào. Đó là “nhân tính” của Đức Giêsu.
Nhưng, Chúa Giêsu không chỉ là một nhân vật lịch sử bình thường.
Ngài không phải chỉ là một vĩ nhân. Ngài còn là: Thiên-Chúa-làm-người.
Đức Giêsu: “Thiên-Chúa-làm-người”.
“Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã
thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có
thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.” (Mt.1,18).
Lý lịch của Chúa Giêsu rất hợp lệ theo thủ tục của con người,
nhưng không tự nhiên theo kiểu con người, vì Ngài là Thiên Chúa. Ngôi Hai xuống
thế làm người, Ngài là Thần Linh Sự Sống, là nguồn sống, Ngài là Đấng ban phát
sự sống, Ngài đến để tái tạo sự sống cho con người, Ngài không thể được hình
thành từ máu huyết phàm nhân.
Thánh Giuse là “người công chính”, chắc chắn đã được Thiên Chúa
mạc khải chương trình huyền nhiệm về Chúa Cứu Thế Giáng Sinh mà ngài có bổn
phận nuôi dưỡng, nhưng, trong sự hiểu biết hạn hẹp của một phàm nhân, hẳn ngài
luôn cần Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn thêm, qua việc Thiên Thần đến với ngài
trong giấc mơ, để ngài an tâm thực thi sứ mạng cao cả của ngài, là cha nuôi của
Đấng Cứu Thế.
“Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta
sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta."
Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.”
(Mt.1,23-24).
Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, đây mới đích thực là “gốc
tích” của Giêsu. Giêsu, không phải chỉ là một “vĩ-nhân-ở-cùng-chúng-ta”, nhưng
là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Và nhân loại phải nhận ra “gốc tích” đích thực
này của một con người lịch sử mang tên Giêsu.
Con người mang tên Giêsu ấy, có “gia phả” từ ngọn nguồn của mọi sự sống. Con
người ấy là Thiên Chúa đã lặng lẽ đến với nhân loại để “ở với nhân loại”, “đồng
hành với nhân loại”, mà nhân loại đã không nhận ra “gốc tích” thật sự của Ngài.
Đó là “Thiên Tính” của Đức Giêsu.
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi
mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ người mà có, nhưng lại
không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón
nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho
họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga.1,12).
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”
(Ga.1,14).
Đón tiếp Thiên Chúa Giáng Sinh.
Lễ Giáng Sinh ngày nay tưng bừng đèn hoa ngày hội và gần như cả
cộng đồng nhân loại biết đến. Nhưng phần lớn nhân loại mừng Sinh Nhật Chúa
Giêsu khi chỉ được biết Chúa Giêsu như một nhân vật lịch sử và dừng lại ở sự
kính trọng Ngài như một vĩ nhân. Nhưng, ngày lễ Giáng Sinh chỉ thật sự đúng ý
nghĩa khi con người chào đón Ngài là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ
giữa chúng ta”. Niềm Tin ấy chỉ có được khi con người nhận ra “gốc tích Đức
Giêsu là Thiên Chúa”.
Và, như thế, đón mừng Giáng Sinh, là đón mừng Tình Yêu Thiên
Chúa dành trọn vẹn cho con người với Mầu Nhiệm Nhập Thể.
“Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt.1,23); hay “Ngôi Lời
đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14), đó là hồng ân lớn lao
vô bờ bến mà không một ai trong kiếp nhân sinh đầy khổ ải này lại không mong
mỏi đợi chờ.
Yêu nhau trăm sự chẳng nề. Một trăm chỗ lệch cũng kê cho
bằng. Cao vời nào cao vời như Thiên Chúa, thấp hèn
nào như thấp hèn kiếp bụi tro, nhưng “một trăm chỗ lệch” ấy đã được “kê bằng”
để Thiên Chúa đến với con người, ở giữa con người, sống như con người, chỉ trừ
tội lỗi. Chỉ có Đức Giêsu Kitô với hai bản tính Thiên Chúa và con người, Ngài
mới thật sự là nhịp cầu nối trời và đất. Thiên Chúa cúi xuống với con người để
con người được vươn lên tới Thiên Chúa.
Không có Tình Yêu nào không đòi hỏi sự đồng hành, và sự đồng
hành của Thiên Chúa dành cho con người gần gũi và chia sẻ đến mức không thể hơn
thế được.
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất
quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh
quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.
(Pl.2,6-7).
Quả thực, chỉ có Tình Yêu ngự trị vũ hoàn này, sức sống mới thật
sự hồi sinh, và hạnh phúc mới tìm lại được trong mọi con tim nhân thế.
Vì Chúa đến, không phải đem lại cho con người những cuộc vui
chóng tàn hay những lợi lộc chóng qua, nhưng Ngài đến để đem lại cho con người
những giá trị vĩnh cửu mà nếu không có Ngài, tất cả chỉ là khát vọng.
Lòng chúng ta sẽ trống rỗng nếu chúng ta không tiếp đón Ngài là
Thiên Chúa Nhập Thể trong chính tâm hồn chúng ta. Ngài đến để đi vào mọi ngõ
ngách tâm hồn chúng ta, nơi mà chúng ta chưa bao giờ dám chia sẻ cùng ai, đồng
hành cùng ai. Và điều kỳ diệu sẽ đến với chúng ta khi mỗi bước đi của chúng ta
là mỗi bước an bình và đầy hoan lạc trong ánh sáng Tình Yêu của Ngài. Vì như
thế mới đúng với danh xưng của Ngài: Em-ma-nu-el: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hiểu được Đức Giêsu Kitô là ai, Ngài từ đâu đến, con người mới
biết cách tiếp đón Ngài và đón tiếp Ngài với trọn vẹn niềm Tin Yêu và hạnh phúc.
Lạy Chúa,
Này đây Máng Cỏ lòng con,
xin Ngài ngự đến.
Nghèo hèn và bé nhỏ,
không xứng với Vua Trời Đất,
nhưng con tin rất vừa
với Chúa Tình Thương. Amen.
10. Truyền tin cho ông Giuse
(Trích ‘Sống Lời Chúa’ – Damiano)
Việc Chúa Ngôi Hai đến trong thế gian là một khởi đầu cho một kỷ
nguyên mới. Tuy nhiên cái mới nối tiếp cái cũ chứ không hủy bỏ. Vì Cựu Ước đã
chuẩn bị cho Tân Ước. Sự hiện diện của Giuse là bản lề cho sự nối kết này. Nhờ
Giuse mà Chúa Giêsu được thuộc dòng dõi Đavít: “Đây là gốc tích của Chúa
Giêsu... Đức Kitô con vua Đa-vít, con của Abraham... Giacob sinh Giuse, chồng
Maria, từ nơi bà sinh ra Đức Giêsu, cũng gọi là Đức Kitô...”
Để cắt nghĩa vai trò tế nhị của Giuse: Sở dĩ thánh Giuse nhận là
chồng của bà Maria và cha của Chúa Giêsu cách hợp pháp mà không phải là bất đắc
dĩ là vì ông là người công chính. Công chính là người sống theo thánh ý Thiên
Chúa. Giai đoạn này được coi như một màn kịch: một hoàn cảnh bế tắc: sinh ra mà
không có cha (người mẹ sẽ bị ném đá chết, chương trình Thiên Chúa sẽ bị bế tắc
hay sao ?). Việc Giuse nhận làm cha nuôi theo lời Thiên Thần truyền tin cho ông
, đã gỡ rối cho sự bế tắc nầy (thế là Chúa Giêsu ra đời một cách hợp pháp). Bây
giờ chỉ còn việc thực hiện sứ mạng nữa thôi: Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều
Thiên Chúa truyền: ông rước vợ về nhà mình. Vì thế, trong chương trình của
Thiên Chúa, Giuse có một chỗ đứng rất quan trọng: vừa làm vai trò bản lề giữa
Cựu và Tân Ước, vừa là công tác viên tích cực không thể thiếu được trong chương
trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Nhưng trọng tâm bài Tin Mừng hôm nay không phải là ông Giuse mà
chính Chúa Giêsu gọi là Emmanuel (Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-tôi). Ngài có hai
nguồn gốc: nhờ Giuse và Maria mà Ngài là con Đa-vít cách hợp pháp, nhưng đồng
thời Ngài cũng ra đời bởi phép Chúa Thánh Thần. Qua câu: Đây là nguồn gốc...
Thánh sử Mátthêu muốn cho thấy nơi Đức Giêsu có hai bản tính rõ ràng. Trong Ngài
đất trời đã được nối lại với nhau; Thiên Chúa và con người lại được giao hòa.
Vì thế Chúa Giêsu gọi ông Giuse là cha đồng thời Ngài cũng là con Đấng tối cao.
Giuse là cha nuôi của Chúa Giêsu, điều đó nói gì với chúng ta
hôm nay? nếu Giuse đã săn sóc giữ gìn Chúa Giêsu, thì ngày nay ngài cũng đóng
vai trò trước mặt Thiên Chúa cho chúng ta, vì chúng ta là Kitô hữu, thuộc Nhiệm
Thể Chúa Kitô. Ngài tiếp tục là cộng tác viên của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi
chúng ta. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Giáo Hội, thánh Giuse đã tỏ ra thật
sự là cha tinh thần của rất nhiều con cái, khi họ kêu cầu người.
Thánh Giuse đưa người lầm lạc trở về.
Một cha xứ ở Pháp kể rằng: Từ 17 năm rồi, có một người lạc
đạo đến cư ngụ trong giáo xứ của ngài, và ngài đã lui tới khuyên nhủ, nhưng vô
hiệu.
Sau đó một thời gian anh ấy lâm trọng bệnh. Nghe tin, cha
lại đến khuyên bảo, nhưng cũng vô hiệu. Đến giờ dâng lễ, cha phải trở về. Trước
khi mặc áo lễ, cha ra quỳ trước bàn thờ thánh Giuse, cầu nguyện cho kẻ lầm lạc.
Lễ xong, cha lại trở lại thăm anh ta. Và kỳ lạ thay, lần này, anh ta đã thay
đổi rõ ràng. Cha vừa lên tiếng chào thì anh đã vui vẻ đáp lại và tỏ dấu sám hối
ăn năn thật lòng. Anh đã xin chịu các bí tích cần thiết và sau nửa ngày thì anh
ta qua đời cách bình an.
11. Thiên Chúa ở cùng chúng ta
Bản văn này khơi lên nhiều câu hỏi. Chẳng hạn, chúng ta có thể
thắc mắc tại sao Matthêu, ngược lại với Luca, đã trình bày khuôn mặt của Giuse
chứ không phải của Maria như là người đón nhận tin báo của Thiên Chúa về cuộc
sinh hạ Đấng Cứu Độ Israel. Chúng ta có thể tự hỏi đâu là những động lực thúc
đẩy Giuse muốn lìa bỏ hôn thê của mình (vì bản văn không nêu rõ những động lực
này). Chúng ta một lần nữa có thể đặt vấn đề (rất phổ biến gần đây) về sự trình
bày các chi tiết lịch sử ở đây nhằm mô tả cuộc sinh hạ đồng trinh và về ý nghĩa
của cuộc sinh hạ đó đối với niềm tin của chúng ta. Chúng ta có thể xem xét ý nghĩa
của việc đặt tên và ý nghĩa của cái tên Giêsu -”Chúa Cứu Thế”- chúng ta
cũng có thể đặt vấn đề đâu là ý định ban đầu của vị ngôn sứ qua trích dẫn Isaia
7,14 -một câu trích dẫn mang ý nghĩa rất gây tranh luận ở đây.
Song đó là những vấn đề không thuộc phạm vi mà bài suy niệm ngắn
này muốn đề cập đến.
Ở đây chúng ta dành quan tâm đến cái tên “Emmanuel” -cái
tên công bố rằng “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nơi con người Giêsu này.
Rất đáng đề cập một hàm nghĩa khác nữa của “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta”, một hàm nghĩa không hề vu vơ hay vô căn cứ. Khi chúng ta nói
rằng con người –trong tư cách là một tạo vật- chắc chắn có mối quan hệ với Thiên
Chúa, rằng Thiên Chúa là Chúa và là cùng đích của con người -và nếu gạt Ngài ra
thì cuộc sống của chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa, rằng Ngài là Đấng phù trợ và là
Đấng Cứu Độ của chúng ta- chúng ta ở trong sự quan phòng hồng phúc của Ngài,
rằng Ngài với lòng nhân hậu sẽ thứ tha tội lụy chúng ta, rằng chúng ta phải trả
lời về trách nhiệm của mình trước toà phán xét của Ngài, rằng đối với những ai
tin vào Ngài, trông cậy vào Ngài và yêu mến Ngài, Ngài dọn sẵn cho họ cuộc sống
hạnh phúc vĩnh cửu… Khi nói như thế là chúng ta đã giải thích “Thiên Chúa ở
cùng chúng ta” theo đúng chiều hướng và đã vận dụng sự thực ấy vào các chiều
kích khác nhau. Thật hồng phúc tuyệt vời biết bao nếu tất cả mọi người có thể
nhận ra ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” ấy trong cuộc sống của họ.
Tất cả những giải thích ấy cuối cùng đều được quy hướng –trong niềm hy vọng- về
một mầu nhiệm thâm sâu hơn nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Nhưng không một giải thích nào trong những giải thích nói trên
lột tả được cảm thức tuyệt đối Kitô giáo về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng
ta”. Nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong những ân huệ hữu hạn
của Ngài, chỉ trong việc Ngài đặt chúng ta –là những hữu thể có năng lực sáng
tạo- vào trong thực tại riêng của mình và trong việc Ngài hướng dẫn thực tại ấy
tới sự hoàn thành định mệnh của nó xuyên qua sự thứ tha tội lụy chúng ta và sự
chuẩn nhận chung cuộc tình trạng hiện hữu trưởng thành của chúng ta; nếu cho
rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong mức độ bởi vì tất cả những thực tại
thụ tạo của con người đều xuất phát từ Ngài và quy chiếu về Ngài đồng thời nhắc
nhở chúng ta quy hướng về Ngài trong thái độ nhận hiểu và biết ơn, trong thái
độ cầu nguyện chan hoà cảm mến… nếu chỉ thế thì quả chúng ta đã sai lầm về bản
chất nền tảng của nhận thức Kitô giáo về “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Chính Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở cùng chúng ta bằng
chính bản thân Ngài chứ không chỉ bằng trung gian của những ân sủng hữu hạn ban
cho một tạo vật hữu hạn. Thánh Kinh và Truyền Thống làm chứng cho bản chất rất
độc đáo của huyền nhiệm chung cục của cuộc hiện sinh chúng ta, đó là, Thiên
Chúa thông ban chính bản thân Ngài cho chúng ta trong chính thực tại vô hạn và
bất khả thấu hiểu của Ngài. Ngài trao ban cho ta Thánh Thần của Ngài, Đấng thể
hiện tư tưởng của Thiên Chúa, Đấng chính là sự sống nội tại của Thiên Chúa. Vì
thế Chúa Cha và Chúa Con đến cư ngụ trong chúng ta, như Chúa Con là một với
Chúa Cha từ đời đời. Chúng ta tham dự vào thiên tính, chúng ta không còn chỉ là
tôi tớ nhưng đích thực là con ruột của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhìn thấy và yêu
mến Thiên Chúa –không phải lờ mờ trong gương kiểu như một trung gian tạo vật-
nhưng là một cách trực tiếp diện đối diện. Vì thế, thần học truyền thống –nhằm
bảo vệ cho bản chất nền tảng của giáo huấn Thánh Kinh này khỏi bị giảm trừ dần
về sau- đã nói về “ơn phi tạo” của việc cảm nhận trực tiếp Thiên Chúa
không thông qua trung gian một thực tại thụ tạo. Thần học cổ điển nói về sự cư
ngụ trực tiếp của Thiên Chúa Ba Ngôi trong con người nhân loại và về sự tự
thông truyền của Ngài.
Tất cả những điều này thoạt nghe có vẻ trừu tượng. Song đó là sự
thật cuối cùng về con người chúng ta, dù chúng ta đã đạt đến nó và nhận ra nó
trong cuộc hiện sinh bình dị hằng ngày của mình hay chưa. Là những hữu thể hữu
hạn, khi chúng ta sống đóng kín nơi mình mà thôi, chúng ta dễ hàng phục một xu
hướng bất khả kháng để suy nghĩ một cách thuần tuý hữu hạn về chính mình và về
sự hoàn thành của mình. Chúng ta có khuynh hướng đánh giá sai lầm về tiềm năng
nơi mình và từ đó thoả mãn với những gì mà mình trông thấy và sờ thấy được. Nếu
đây chỉ là vấn đề quan điểm riêng của mình mà thôi thì hẳn chúng ta không có gì
sai trái khi cảm thấy hài lòng với một hạnh phúc hữu hạn. Nhưng mọi tội lỗi trên
trần gian đều có chung một đặc tính là tuyệt đối hoá cái tương đối –do đó cho
thấy sự hài lòng nói trên của chúng ta là một thái độ sai lầm, một sai lầm ta
không dễ gì bứt ra.
Chúng ta không được phép dễ dãi hài lòng như thế, đây không chỉ
bởi một quy luật ngoại giới nào đó không cho phép ta (luật này còn khá xa lạ
với chúng ta), mà còn bởi sự kiện rằng Thiên Chúa –trong bản tính vô hạn của
Ngài và với lòng khoan dung nhân hậu siêu việt của Ngài, đã tự làm cho chính
Ngài trở thành luật nội tại khắc ghi trong bản tính chúng ta, trước khi ta ý
thức về chính mình và sợ hãi không dám gieo mình vào cõi vô hạn bất khả thấu
hiểu ấy- cái vô hạn vốn lấp đầy chúng ta tận trong cốt lõi thâm sâu của hữu thể
mình, rồi chúng ta đi tìm náu ẩn trong những vành đai hữu hạn của cuộc hiện
sinh và cố tìm kiếm hạnh phúc của mình ở đó. Tuyên bố rằng Thiên Chúa ở cùng
chúng ta (như các Kitô hữu nhận thức một cách đầy đủ) là nói rằng chúng ta khao
khát mấy cũng không vừa trong nỗi khát khao mà chính Thiên Chúa đã ban tặng cho
ta, trong khát vọng tự do, hạnh phúc, trong khát vọng gần gũi thân tình, khát
vọng hiểu biết, an bình và khát vọng thành toàn ở chung cuộc. Ngẫm cho kỹ, mọi
sự thái quá mang dấu ấn tội luỵ trong đời ta chung quy chỉ là một tình trạng
thiếu kiểm soát dẫn ta đến chỗ coi một thực tại hữu hạn nào đó là cái không thể
thiếu cho hạnh phúc của mình. Một người như vậy là một người ở trong tội, bởi
vì người ấy không dám thực hiện bước nhảy –bước nhảy của niềm tin, của lòng
trông cậy và của tình yêu- vào trong cõi hạnh phúc đích thực khôn cùng và bất
khả thấu hiểu, là chính Thiên Chúa và chỉ là Ngài mà thôi.
Sự diễn giải có tính trừu tượng như thế về ý nghĩa “Thiên Chúa ở
cùng chúng ta” của bản văn Tin Mừng hôm nay thật ra không xa xăm như ấn tượng
có thể có lúc ban đầu. Sở dĩ ta cảm thấy xa xăm bởi vì ta vốn xa xăm với “siêu
nhiên tính” của chính mình, tức xa xăm với chính Thiên Chúa. Bất cứ khi nào
chúng ta nghe trong chính mình tiếng gào réo bất tận đòi tồn sinh, ta cảm thấy
không chấp nhận điều kiện hay giới hạn nào nữa ngoài một điều rằng ta là cái vô
hạn đang ở chặng khởi đầu chứ chưa phải ở mức hoàn thành; bất cứ khi nào ta
khắc khoải muốn yêu thương vô điều kiện bằng một tình yêu rộng mở hướng về
người khác đến độ dám liều bỏ mình; bất cứ khi nào đứng trước thật gần bóng tối
mịt mù của sự chết và ta vẫn tin rằng chính cái chết cũng chỉ là một cái gì hữu
hạn –còn niềm hy vọng sống vĩnh cửu mới là vô cùng… Trong những cảm nghiệm như
thế về cuộc nhân sinh, ta cảm nghiệm niềm hy vọng và niềm tin rằng chỉ có Thiên
Chúa –chứ không phải bất cứ một thực tại hữu hạn nào- mới là sự lấp đầy cho một
kiếp người hữu hạn.
Đó là ý nghĩa của “ơn phi tạo”. Ân sủng này được thông ban nơi
Đức Giêsu Kitô, tuy nhiên nó vẫn hoạt động xuyên suốt giòng lịch sử thế giới và
lịch sử nhân loại –biểu hiện nơi tiềm năng hiện thực hoá thâm sâu nhất của
chính ân sủng này. Vì thế, nó là cốt lõi nền tảng của mọi cuộc hiện sinh.
Nhưng giáo thuyết về “ơn phi tạo” không đóng khung ở chỗ chỉ nói
lên một niềm phấn khích khôn tả về tương lai loài người. Với ơn sủng này, chúng
ta đạt đến chiều sâu nhất của nhận thức Kitô giáo về con người. Vị “Thiên
Chúa ở cùng chúng ta” không còn chỉ là một mầu nhiệm mông lung, một mầu
nhiệm cứ mãi còn là mầu nhiệm tuyệt đối ngay cả trong nỗ lực trực tiếp nắm bắt
Ngài; và con người chỉ có thể cảm nhận được điều ấy khi chính nhận thức của họ
được đổ tràn tình yêu. Vâng, chỉ tình yêu mới có thể làm cho chúng ta hiểu ra
rằng Thiên Chúa (Đấng là tình yêu) vĩ đại hơn cả cõi lòng mình, một cõi lòng
luôn luôn bỏng cháy niềm khát khao giác ngộ.
Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” này không phải chỉ là
Thiên Chúa của sự tự do tuyệt đối (của những quyết định không còn có thể bị phủ
định, và của những sự sắp đặt tất yếu phải được nhận chịu trong sự hàng phục vô
điều kiện của tình yêu –một tình yêu biết cảm mến sự tự do thần linh này đến
mức đó). Đúng hơn, chính sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là nhân tố đặt nền
tảng căn bản cho nền “luân lý” Kitô giáo. Với số cuộc đổi thay diễn ra trong
lịch sử loài người và trong cuộc đời riêng mỗi người được thấy như là không thích
đáng nếu lấy bản tính của con người và của thế giới hữu hạn này làm thước đo
–vì thế, những đổi thay ấy bị tẩy chay một cách khách quan bởi những nguyên tắc
đạo đức của con người, nhưng chúng không thực sự phá đổ mối tương quan tích cực
cuối cùng với Thiên Chúa là Đấng tự trao ban chính Ngài và –do đó, gần gũi
chúng ta đến mức không ngờ. (Có nhiều tội “khách quan” không bao hàm chút “sai
quấy chủ quan” nào và do đó không gây cản ngại cho ơn cứu độ –thần học kinh
viện đã khẳng định như thế).
Tuy nhiên, sự tự do của con người (là cái tác động đến cơ cấu
những nguyên tắc đạo đức thế trần) không ngừng chống cưỡng lại Thiên Chúa là
Đấng vô cùng gần gũi, cho dù nó không tự đặc tả nó như vậy. Thế là chúng ta có
tội (“tội trọng”) theo nghĩa Kitô giáo. Tội không chỉ là đi ngược lại cơ cấu
khách quan của con người và thế giới và qua đó đi ngược lại các lệnh truyền của
Thiên Chúa là Đấng muốn có những cơ cấu ấy (dĩ nhiên ý muốn của Thiên Chúa
không mâu thuẫn với bản tính hữu hạn và có điều kiện của những cơ cấu này); tội
còn là nói “không” với chính Thiên Chúa, Đấng vô cùng gần gũi chúng ta.
Đó là lời nói “không” của sự tự do của con người, qua đó nó chối từ cuộc
phiêu lưu liều lĩnh của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của chính mình.
Sống trong sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là một cái gì vừa
rất khủng khiếp vừa đầy sức ủi an. Được chính Thiên Chúa yêu thương cũng thế
–đến nỗi quà tặng đầu tiên và cuối cùng mà ta nhận được chính là cái vô cùng
vượt ngoài khả năng thấu hiểu của ta. Nhưng ta đâu còn có sự chọn lựa nào khác.
Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta đây rồi!.
12. Emmanuel: Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta
luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ, chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng
nào?”. Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Nói thực là thầy không biết”. Sau đó
Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận: “Thiên
Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.
Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết được điều
ấy. Vì thế chú lên đường đến các quốc gia và cả những lục địa khác để tìm hỏi,
nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt
sức vì đi quá nhiều nơi. Chú cố tìm một chỗ nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng
tất cả các nơi đều không còn chỗ. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài
trời để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một
cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một
hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào
Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con”.
Chú bé quá sửng sốt: Làm sao bà này biết tên mình? Và chú
càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đi tìm kiếm khắp thế
giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của
con kể như đã đến đích. Đêm nay chính mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng
thứ tiếng nào. Ngài nói bằng “ngôn ngữ của tình yêu” – “Thiên Chúa đã quá yêu
thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài” (Ga 3,16).
Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quỳ gối
xuống trước Hài nhi và mừng rỡ khóc lên. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa
nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc
hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được. Và thế là Emmanuel ở lại đó vài
ngày để giúp đỡ Đức Maria và Thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để
đi loan báo cho mọi người Tin Mừng về ngôn ngữ Chúa dùng: “Thiên Chúa nói bằng
thứ tiếng của tình yêu”.
Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu
tôi muốn kẻ cho mọi người biết Thiên Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính
tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức là ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì
đó chính là thứ tiếng nói duy nhất mà mọi người trên thế giới đều hiểu được”.
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Khi trao ban cho thế
gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ
ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. Chính vì thế mà Ngài đã mang tên gọi là
EMMNUEL, nghĩa là “Thiên -Chúa - ở –cùng – chúng - ta”, tên gọi được báo
trước qua lời Ngôn sứ Isaia cũng như qua lời Thiên Sứ báo tin cho ông Giuse: “Này
đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là
Emmanuel, nghĩa là Thiên- Chúa – ở – cùng – chúng - ta”. Ngài đến ở cùng
chúng ta để làm gì, nếu không phải là để nói cho chúng ta về tình yêu vô biên
của Thiên Chúa bằng cả cuộc sống yêu thương đến tột cùng của Ngài, từ lúc sinh
ra trong hang đá Bêlem đến cái chết treo trên thập giá. Đó là tất cả tiếng nói
của tình yêu Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên đã làm người như chúng ta.
Ngài đã đến tận nơi chúng ta sinh sống, trong nhà, trong làng mạc, trong xứ sở,
trên trái đất của chúng ta, để chung sống, đồng hành, chia sẻ cuộc đời với
chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với nhân loại. Ngài đã
nhập cuộc liên đới với toàn thể nhân loại để đưa cả loài người chúng ta lên với
Thiên Chúa.
Hơn nữa, Ngài còn muốn làm người nghèo giữa những người nghèo
khổ, bị áp bức và bỏ rơi. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày trời đất
giao hoà, để cho Thiên Chúa và loài người gặp gỡ yêu thương, cho hoà bình chớm
nở trên trái đất. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa
lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu của loài người, để kêu gọi loài người hãy
nhận nhau là anh em, là bạn hữu. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày
Đấng giàu sang khôn sánh trở thành người nghèo khó, để cho người nghèo khó nhất
cũng được trở nên ngang hàng với Con Thiên Chúa. Và như vậy để loài người biết
yêu thương và tôn trọng người nghèo, như yêu thương và kính trọng chính Thiên
Chúa.
Vì vậy, thưa anh chị em, vấn đề quan trọng không phải là ăn lễ
Giáng Sinh hay là mừng lễ Giáng Sinh, cho dù là sốt sắng đến đâu đi nữa, mà là
hiểu sống và thực hiện bài học Giáng Sinh: đó là cùng với Chúa nhập cuộc liên
đới với những anh em nghèo hèn trong nhân loại. Và một khi chúng ta biết mở
rộng tâm hồn đón tiếp và yêu thương những ai bé nhỏ, khó hèn, coi họ ngang hàng
với Con Một Thiên Chúa, thì khi ấy, chính tâm hồn chúng ta sẽ trở thành hang đá
Bêlem, và ánh sao Noel sẽ bừng lên trong ánh mắt chúng ta.
Anh chị em thân mến, EMMNUEL, Thiên Chúa đã làm người và ở cùng
chúng ta. Ngài đã nói với loài người chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu và
Ngài muốn dạy cho mọi người nói chung một ngôn ngữ của tình yêu này. Ngài còn
biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu thì những
điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi: các quốc gia sẽ chia sẻ nguồn lợi
và tài nguyên cho nhau, mọi chủng tộc sẽ tôn trọng nhau, mọi gia đình sẽ hoà
thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ xiết chặt tay nhau trong tình thân
hữu. Và như thế, “vinh quang Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho
loài người Chúa yêu”.
13. Chúa Cứu Thế giáng sinh – R. Veritas
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)
Chúa nhật IV Mùa vọng hướng tâm trí chúng ta đến thật gần mầu
nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, mầu nhiệm mà mỗi người con của Giáo Hội được
mời gọi đón nhận với tâm hồn được chuẩn bị kỹ lưỡng trong suốt bốn tuần Mùa
vọng. Tất cả ba bài đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều hướng về sự kiện
căn bản này: “Con Thiên Chúa Nhập Thể và sinh ra bởi Người Nữ Đồng Trinh, nhờ
quyền năng của Chúa Thánh Thần”, theo như lời hứa của Thiên Chúa trong lịch sử
dân Chúa.
Bài tường thuật biến cố Con Thiên Chúa Giáng Sinh nơi Phúc Âm
thánh Luca sẽ được dùng trong Thánh Lễ Giáng Sinh vào Chúa nhật IV Mùa vọng,
Giáo Hội nhắc đến biến cố căn bản qua bài tường thuật của Phúc Âm thánh Mátthêu
(x. Mt 1,18-24). Dĩ nhiên, tác giả Phúc Âm theo thánh Mátthêu không tường thuật
biến cố Nhập Thể và Giáng Sinh của Con Thiên Chúa trong cùng một cách thức như
Phúc Âm thánh Luca. Tác giả Phúc Âm thánh Mátthêu nhắc đến biến cố trong vai
trò của thánh Giuse, thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập
Thể, tức Con Thiên Chúa được sinh ra trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria,
do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse được mạc khải cho biết và đồng
thời mời gọi Ngài tích cực tham dự vào chương trình đó, là người cha nuôi của
Con Thiên Chúa, là Đấng bảo vệ cho Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Qua đó, Thánh Giuse được mạc khải cho biết nguồn gốc thần linh
của Đấng được Mẹ Maria cưu mang. Trong mạc khải đó, Thánh Giuse được nhắc lại
cho biết lời tiên tri được loan báo trong dân Israel và được ghi chép lại trong
sách Isaia nơi chương VII mà bài đọc I Chúa nhật IV Mùa vọng đã nhắc lại, đó là
lời tiên tri được loan báo gần 8 thế kỷ trước khi biến cố thực sự xảy ra. Là
một người Công Chính như thánh Giuse, chắc chắn Ngài đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước
và biết về lời tiên tri này như bao thành phần tốt của dân Israel thời đó. Tuy
nhiên, khi biến cố thực sự xảy đến trước mắt mình và có liên quan đến chính
mình, thì thánh Giuse có phản ứng đầu tiên là không chấp nhận, như Phúc Âm thánh
Mátthêu ghi lại như sau: “Thánh Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo”. Luật
Do Thái phạt nặng nề một người phụ nữ đã đính hôn mà đi ngoại tình với kẻ khác.
Giuse có thể đi tố cáo Mẹ Maria, vì khi thấy Bạn mình chưa về chung sống mà đã
mang thai. Phúc Âm không nói gì, nhưng người ta có thể hiểu là Maria có thể đã
kể cho Giuse biết biến cố thiên thần truyền tin và việc mang thai là do quyền
phép Chúa Thánh Thần như lời thiên thần loan báo, nhưng có thể thánh Giuse
không hiểu, không tin hoặc tin lời Maria nói nhưng lại cảm thấy mình không xứng
đáng, không muốn tham dự vào chương trình cao cả của Thiên Chúa, vì thế mà Ngài
định tâm rút lui.
Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó,
nhưng ông không làm như vậy, Ông muốn trốn đi, vì việc này có thể được mọi
người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha, và trên
bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với
chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ
hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria
về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần
mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng
Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc
đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho
Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận
quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng
phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc
cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài
mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc
chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên
Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm
Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng
được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm
lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu
độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.
Mùa Giáng Sinh sắp đến, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa làm người
được người đồ đệ suy niệm bắt chước, nhưng không dừng lại hưởng niềm vui cứu
rỗi nơi mình, nhưng cần để cho ơn Chúa chiếm lấy nơi mình và dấn thân mang ơn
cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta cầu chúc cho mọi người được ân sủng và bình
an của Thiên Chúa Cha. Amen.
14. Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA
Ngày 17 tháng 12 vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả
Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu sinh bởi dòng dõi vua Đavít. Hôm nay, Phúc Âm
lại trình bày cho ta một gốc tích khác của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức
Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn
khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như thế?
Thánh sử Matthêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai
gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu
là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng
Chúa Giêsu cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con
Một cho loài người. Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền
năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm
thầm. Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc
Đavít. Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia
đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi
của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận
mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người thực là
Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.
Nhờ đâu mà thánh Giuse và Đức Maria được diễm phúc là những
người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Đấng Cứu Thế. Qua bài Phúc Âm
Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy thánh Giuse và Đức Maria có những
đặc điểm sau đây.
1) Các Ngài có tâm hồn khiêm nhường sâu xa.
Đức Maria là một thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế
kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu
nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự
không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà
khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn
thưa: “Này là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Khi
bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương
phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”. Đức Maria nhận ra
sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình,
nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm
ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong
lòng. Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín
đáo.
Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm,
ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn
sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ thuyền. Sự khiêm tốn
ấy đặc biệt thể hiện trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang
thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái
vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của
Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là
người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình. Ngài là người công
chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.
2) Các Ngài mau mắn vâng lời Thiên Chúa.
Các Ngài có chương trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy
nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng
trinh. Thánh Giuse muốn sống âm thầm trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh
ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển
hướng cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất
chấp những đau khổ, khó khăn đang chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù
thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng
đãng mơ hồ.
Vì Chúa, các Ngài đã từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã
thay đổi toàn bộ đời sống. Thay đổi quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau
mắn.
Thái độ của các Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa
Giêsu xuống trần trong một thái độ tự hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người
đã không đòi cho mình quyền được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm
một người bé nhỏ nghèo hèn. Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến
chết trên thập giá.
Đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến
nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý
Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm
hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.
Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một
máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường
trong lòng con, trải trên đó những sợi cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được
hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Ngày càng có nhiều người mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng Lễ
Giáng Sinh đã bị thương mại hóa. Bạn sẽ chuẩn bị Lễ Giáng Sinh thế nào cho phù
hợp với tinh thần của Chúa?
2) Sống khiêm nhường và vâng lời trong xã hội hôm nay có dễ
không?
3) Bạn nghĩ gì về việc Chúa Giêsu tự nguyện xuống thế, làm một
người, làm con trong một gia đình?
15. Giải quyết một vấn đề nhờ đức tin
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Nếu đây không phải là một bài Thánh Kinh, người ta sẽ có thể rút
ra từ bài tường thuật của thánh Matthêu những yếu tố của một thảm kịch lạ lùng.
Song ở Thiên Chúa gọi ta suy nghĩ sâu xa, một suy tư vượt quá óc phân tích,
vượt quá nghệ thuật. Những cõi lòng đơn sơ, nghĩa là những ai không vướng mắc
vào một hệ thống tư tưởng phiền phức, nhận ra trong biến cố tường thuật lại đây
một ‘phát minh’ của tình yêu Thiên Chúa. Một trong những hậu quả lớn lao nhất
của mọi mối tình, và dấu hiệu của nó, là làm cho trí khôn phải sửng sốt. Ở đây
là tình yêu của Thiên Chúa; nó còn làm trí khôn sửng sốt gấp bội. Nó làm cho
trí khôn chưng hửng không phải để hạ thấp trí khôn, song là để nâng cao nó lên
nếu nó biết khiêm tốn.
Tác giả Phúc Âm báo trước Chúa Giêsu sẽ sinh ra bởi một người mẹ
đồng trinh. Sự kiện đó không phải là không gây ra vấn đề cho hai người trong
cuộc, là Maria và Giuse. Thánh Giuse bị đặt ở điểm then chốt của một hoàn cảnh
bi đát. Trước hết, cũng như Maria, Người được Chúa mời giải quyết vấn đề của
mình, từ ‘trên cao’ nghĩa là bởi một hành vi đức tin. Điều đã nói về Maria: bà
có phúc vì đã tin, cũng áp dụng cho Giuse.
Thử rút ra từ đoạn Phúc Âm này hai ý tưởng:
1) Maria đã để cho Thiên Chúa làm việc báo tin cho Giuse
biết tình trạng của Người.
Có những kinh nghiệm tinh thần liên quan tới kẻ khác mà người ta
vẫn không thể nói tới, bởi vì chúng xảy ra ở một bình diện quá sâu xa. Chúng
tôi không nói: Maria và Giuse không hề nói với nhau về việc thụ thai lạ lùng,
chẳng hạn sau khi Thiên Chúa can thiệp với Giuse, nhưng Đức Trinh Nữ phó thác
cho Chúa việc khai triển ‘cái lý’ của biến cố và các phương tiện của biến cố. Ở
những trình độ khiêm tốn hơn nhiều, cũng xảy ra như vậy trong đời sống, nhất là
đời sống giữa vợ chồng Kitô hữu. Mọi Kitô hữu ý thức, đều có những ơn sủng
riêng tư, nhưng không ơn nào chỉ dành cho mình mà thôi; ơn sủng của Chúa, dù
riêng tư nhất, vẫn có một chiều kích hiệp thông huynh đệ. Tuy thế loại ơn này cần
phải được giữ gìn kín đáo. Vừa phải đón nhận nó trọn vẹn, vừa phải phó thác cho
Chúa công việc làm cho kẻ khác hiểu biết, nhìn nhận nó. Người ta có thể mang
trong mình một ơn Chúa làm cho người khác thắc mắc: nếu đó là ơn đích thực,
phải để mặc cho Chúa phương tiện giải đáp thắc mắc ấy, hay nói đúng hơn: hãy
giao cho Chúa trước đã; phần việc ta có thể sẽ tới sau.
2) Ta nên lưu ý tới tình hình rất cao đẹp của thánh Giuse.
Người đã có thể chiều theo luật lệ sơ đẳng của xã hội đương thời
mà tố giác Maria. Một sự ngay thẳng căn bản khiến người hành động cách khác.
Qua hành động này ta thấy một giá trị nhân bản sâu xa, vượt xa mặt chữ của lề
luật. Lúc đó Thiên Chúa can thiệp. Sự kiện này gợi cho ta một câu hỏi: ta có
xác tín rằng các hồng ân cao cả nhất Chúa ban, cái mà ta gọi là các ơn siêu
nhiên, cần được dựa trên nền móng các nhân đức tự nhiên như: tính ngay thẳng,
lương thiện, can đảm, tinh thần phục vụ, tấm lòng cởi mở… hay không? Sau Đức Mẹ, thánh Giuse nêu
cho ta tấm gương đầu tiên trong Hội Thánh về sự thánh thiện được phát triển từ
những nền tảng nhân bản rất cao quý.
16. Mùa Vọng: Mùa trong veo – ĐGM Vũ Duy Thống
Trên chuyến xe xuôi miền lục tỉnh, người ta chuyển đến tôi
một cuốn truyện cũ đã mất bìa để đọc cho quên đường dài. Truyện kể lại mối tình
giữa một chàng trai là con sĩ quan học tập và một cô gái là con cán bộ chức
quyền. Họ thương nhau và muốn kết hôn với nhau, nhưng khi công khai ý định ấy,
họ đã gặp phải những lực cản từ hai phía gia đình. Đã có nhiều nghi ngờ từ phía
cha chàng trai và cũng có lắm nghi ngại từ phía cha cô gái. Giải pháp phải chọn
là chia xa đôi lứa.
Đành lòng làm thế, nhưng họ vẫn âm thầm chờ đợi nhau, cho
đến khi cha chàng trai mãn hạn học tập về nhà và cha cô gái đã đến tuổi về hưu.
Hai người cha có dịp gần gũi cảm thông làm chất keo thân ái cho tình yêu đôi
trẻ có điều kiện gắn hàn. Kết truyện là đám cưới.
Truyện có hậu và có nét hấp dẫn riêng của thể loại, nhưng điều
hấp dẫn hơn hết đối với tôi không phải là cốt truyện cho bằng chính tựa đề
“Tình yêu trong veo”: trong veo giữa hai người cha biết xoá tan ngờ vực để thêm
gần gũi; trong veo giữa hai bạn trẻ biết vượt qua thử thách để giữ vững tình
yêu. Xin mượn tựa đề “Tình yêu trong veo” ấy để gọi tên Mùa Vọng là mùa
trong veo một tình yêu.
1) Bằng tình yêu trong veo, Thiên Chúa trao thân cho con
người.
Trong khi người Do Thái còn đang mải miết với một vì Chúa ở trên
cao và dường như say sưa về một Đấng ở xa con người, đến nỗi trong quan hệ nguyện
cầu, thay vì xin những biểu tỏ gần gũi để dễ dàng nắm bắt, họ lại chỉ dám xin
một dấu lạ điềm thiêng mãi tận trời cao vượt quá tầm nhìn; và trong niềm mong
chờ Đấng Cứu Thế, vốn là mạch sống hy vọng cho cả dân tộc, họ những tưởng nghĩ
rằng Người sẽ đến, nhưng là đến trong cung cách của một vị Chúa oai phong lẫm
liệt, cho muôn dân nếu không phải cúi đầu sợ hãi thì cũng phải bái phục tôn
thờ. Có ngờ đâu, khi Chúa đến, Người lại chọn cho mình một cách đến rất khác lạ.
Người đến thật gần: trong thân phận của một con người để làm
người giữa muôn người trần thế. Người đến thật thấp: thấp đến nỗi chọn cho mình
cách sống của một người cùng khổ dưới đáy xã hội. Người yêu thương con người để
sẵn sàng trao thân cho họ, chấp nhận phải điều đình, chấp nhận được cưu mang,
chấp nhận được sinh hạ, chấp nhận được làm người: “Ngôi Lời đã làm người
và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14)
Phải chăng khi trao thân cho con người như thế, Thiên Chúa sẽ
được thêm vinh quang? Phải chăng nếu không trao thân cho nhân loại, Thiên Chúa
vẫn là Chúa, nhưng là một vị Chúa không được ai biết đến hay là một vị Chúa bị
kết án phải cô đơn? Thưa không phải thế. Chính khi trao thân cho con người
trong mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa không còn úp mở như trong thời Cựu Ước
nữa, Người đã dứt khoát cho thấy mình là Đấng giải cứu con người và sẵn sàng
làm hết cách để thực hiện bằng được chương trình của Người mà không đợi chờ mảy
may vinh quang nào ngoài lợi ích cứu độ cho người trần gian. Để độ thế, Thiên
Chúa đã nhập thể; để cứu người, Thiên Chúa đã làm người.
Chính hai Danh xưng được nêu lên trong phần Phụng Vụ Lời Chúa
hôm nay đã nói lên tất cả. Danh xưng Emmanuel khẳng định “Thiên
Chúa ở cùng chúng ta”, Danh xưng Giêsu bộc lộ “Thiên
Chúa là Đấng Cứu Độ” (Mt 1,23-25). Nối kết hai Danh xưng ấy nơi Đấng
Cứu Thế, ta sẽ thấy một tình yêu trong veo Thiên Chúa dành cho con người: Người
là Thiên Chúa ở cùng ta để cho ta ơn cứu rỗi, và Người là Thiên Chúa cứu độ ta
bằng cách ở cùng ta.
2) Bằng tình yêu trong veo, con người gửi phận cho Thiên
Chúa.
Nếu bằng tình yêu trong veo cứu độ, Thiên Chúa trao thân cho con
người, thì Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng cho thấy những nhân vật gần gũi với mầu
nhiệm Giáng Sinh nhất là Đức Maria và thánh Giuse đã bằng tình yêu trong veo tự
nhiên gửi phận mình cho Thiên Chúa.
Đối với Đức Maria, tình yêu trong veo đã rõ qua
tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà Phụng Vụ hữu ý mừng kính ở đầu Mùa Vọng. Tình
yêu ấy đã rõ trong việc Mẹ dâng mình vào Đền Thánh, nhưng tình yêu ấy còn rõ
ràng hơn khi tiếp cận với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Ngày Truyền
Tin, mới gặp sứ thần, Đức Maria đã bối rối, thứ bối rối của một tình yêu trong
sạch buổi đầu gặp gỡ. Rồi, lúc được đề xuất làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria
đã băn khoăn, thứ băn khoăn của một tình yêu trong sáng muốn được giải
thích đôi câu. Và chính lúc thưa “Xin vâng” (Lc 1,38) là cả một tình yêu
trong veo như chưa bao giờ trong đến thế, Đức Maria đã gửi trọn phận mình vào
tay Thiên Chúa, bất chấp đó là một mạo hiểm chết người: trinh nữ mà lại mang
thai, phải ăn nói ra sao với thánh Giuse? Mới đính hôn thôi mà sắp thành mẹ,
phải dàn xếp thế nào cho hợp luật pháp?
Còn thánh Giuse, con người lặng thầm nhất của Mùa
Vọng, đã được đặt vào một tình huống khó xử đến độ ray rứt, nhất là trong những
ngày trước lúc Đấng Cứu Thế giáng sinh như Phúc Âm hôm nay mô tả. Nhưng chính ở
đây ông đã chứng minh bằng những nét đẹp kín đáo hào hùng về một tình yêu trong
veo từ lâu đã dệt nên đời sống qua những lựa chọn xé lòng. Là người công chính,
dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, ông cũng chẳng dám
nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm
thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất. Nhưng chính lúc
ấy, được tỏ nguồn cơn, ông đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình
bằng một tình yêu trong veo, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy
cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).
Nhìn như thế, tình yêu trong veo đã liên kết Đức Maria và thánh
Giuse, để mái nhà chung sống không chỉ là nơi che nắng trú mưa cho qua ngày
đoạn tháng, mà đã trở thành một mái ấm của những tấm lòng biết mở ra cưu mang
Con Thiên Chúa và sẵn sàng để sinh Người ra cho dương thế, cho dẫu tình yêu
trong veo ấy trên đường cứu độ như một bản trường ca sẽ không thiếu những quãng
nghịch, mà việc khó xử hôm nay trong Phúc Âm mới chỉ là những nốt nhạc mở đầu.
3) Cũng bằng tình yêu trong veo, ta đón mừng lễ Giáng Sinh.
Hiểu như trên, Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng rõ ràng là một tình yêu
hai chiều trao gửi: Thiên Chúa trao thân cho con người để con người biết gửi phận
mình cho Thiên Chúa. Đồng thời cũng là Chúa Nhật trong veo của những tấm lòng
biết gửi trao tấm lòng trong ơn cứu độ.
Trên nền tảng ấy, tình yêu trong veo đã trở nên tinh thần
phải có để đón Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày này, đi ra phố xá, đã nghe
vang lên những bài ca Giáng Sinh quen thuộc; ngang qua nhà thờ, đã thấy trưng
bày những bộ Noel với hang đá, cây thông, đèn sao đẹp mắt; và đi tới chỗ nào
cũng thấy thấp thoáng Giáng Sinh với muôn màu lấp lánh. Nhưng có một màu được
xem là không thể quên hay không bao giờ quên đối với mọi tín hữu mừng lễ Giáng Sinh,
màu đó không ở trên áo quần giầy dép, môi mép tóc tai, hoa cài áo khoác, mà là
ở trong tấm lòng kìa! Đó là màu trong veo của những tâm hồn trinh trong biết
cưu mang ý Chúa và biết sinh hoa kết trái trong cuộc sống công minh chính trực
của mình.
Nếu ngày xưa trong khúc hát quan họ Sion, câu xướng “Ai được
lên Núi Chúa?” đã nhận được lời đáp “Chỉ những người thật thà ngay chính
tay sạch lòng thanh mới được bước tới Thánh Cung” (Tv 23,3-4), thì hôm nay
cũng thế, trong bài ca cuộc sống ai cũng nôn nao xôn xao ồn ào huyên náo tiếp
cận lễ Giáng Sinh cả, kẻ tiếp thị, người tiếp tân; nhưng chỉ có những tấm lòng
trinh trong mới xứng đáng trở nên Hang đá tiếp đón Chúa sinh vào. Chúa chỉ một
lần đến sinh ra trên trần thế là đủ để cứu chuộc muôn người, nhưng giả như
Người có đến sinh ra nhiều lần hơn nữa cũng vẫn thiếu, nếu lòng người chưa sẵn
sàng một tình yêu trong veo mở ra đón nhận. Liệu ta hôm nay đã sẵn có một tâm hồn
như thế trước lễ Giáng Sinh?
Hơn nữa, tình yêu trong veo cũng là tiếng nói cuối cùng của Mùa
Vọng thúc đẩy ta đến với những người xung quanh. Không thể có Mùa Vọng
đầy đủ nếu bỏ quên chiều kích tha nhân trong tình yêu của mình, và cũng chẳng
tiếp đón Chúa cho đủ nếu từ chối tiếp nhận anh chị em gần gũi với mình trong
những sinh hoạt hằng ngày.
Trong Phúc Âm, Giuse biết tiếp nhận ý Chúa “qua giấc mơ”, để rồi
sau đó “tỉnh dậy” ông mau mắn đón Đức Maria nên bạn đường bạn đời của mình, cho
dẫu hậu thế có kẻ điều ong tiếng ve xem ông như kẻ “vô tư”. Nhưng đó lại là
bước đột phá của một tình yêu trong veo biết nhận ra rằng: Thiên Chúa đã ân cần
trao thân cho mình qua mầu nhiệm Nhập Thể, thì mình cũng tín thác gửi phận mình
trong mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Đó là hai chiều gặp gỡ của tình yêu
Giáng Sinh.
Tóm lại, tình yêu trong veo là động lực khiến Chúa đến với con
người và là nguồn lực thúc đẩy con người tiếp đón Chúa, để trong cuộc sống cụ
thể trở thành nỗ lực của mọi tín hữu đón lễ Giáng Sinh. Trong khi còn chuẩn bị
và chưa thực sự được tiếp đón Chúa, hãy bắt đầu bằng cách thực tập tiếp đón
những hình ảnh sống động của Chúa là những người ta gặp hoặc những người gặp ta
bằng một tình yêu trong veo luôn thăng tiến. “Nếu không gặp Ngài trong nghèo
khổ, sẽ chẳng gặp Ngài giữa cao sang. Nếu không gặp Ngài ở dưới đất, sẽ chẳng
gặp Ngài chốn Thiên Đàng” (thơ Xuân Ly Băng).
Đến đây, xin được khép lại những chia sẻ Mùa Vọng năm nay. Xin
cám ơn Mùa Vọng đã đem đến những ý nghĩ đẹp màu. Xin cám ơn cộng đoàn đã vui
lòng lắng nghe. Hy vọng những tâm tình chia sẻ cũng cung cấp chút ý tưởng giúp
mỗi người hình thành được Máng Cỏ tâm hồn. Và cám ơn đứa cháu nhỏ đã tình cờ
viết lộn chữ Mùa Vọng thành chữ “Màu Vọng” để có được bốn sắc màu chia sẻ nơi
đây. Qua xanh đến tím gặp hồng, dìu ta đón Chúa với lòng trong veo.
17. Công chính
Qua phần chia sẻ hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thánh
cả Giuse.
Trước hết thánh cả là người tin tưởng nơi cha mẹ và truyền
thống. Tin mừng giúp chúng ta hiểu sự liên hệ giữa thánh Giuse và Đức
Maria trước khi Chúa Giêsu sinh ra. Theo phong tục Do Thái, đám cưới gồm ba giai
đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là sự cam kết. Sự cam kết được thực hiện bởi
cha mẹ hai bên hay bởi ông bà mai mối. Thường thường cả hai người bạn trẻ đã
không biết nhau trước khi cam kết. Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Thời gian này
kéo dài cả năm để cho đôi trai gái có cơ hội quen biết nhau. Sau khi hứa hôn họ
được coi như vợ chồng, mặc dù không được sống chung với nhau. Nhưng nếu không
muốn tiến tới hôn nhân nữa, họ phải xin ly dị. Giai đoạn thứ ba là đám cưới:
xảy ra vào cuối năm của giai đoạn hứa hôn. Chính trong giai đoạn thứ hai của
đám cưới Do Thái, Giuse biết Maria đã có thai như bài Phúc âm hôm nay tường
thuật.
Tiếp đến, thánh cả Giuse là người tin tưởng bạn mình,
Maria. Trong thời gian hứa hôn, nếu người vợ ngoại tình và bị tố cáo,
sẽ bị xử tội “ném đá”. Sự kiện Maria đã có thai làm Giuse phải đau khổ, bối
rối, nghi ngờ và khó xử lắm! Nhưng với tình yêu, sự khoan dung và lòng nhân từ
Giuse “không muốn tố giác bà”, nhưng chỉ “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Trong
hoàn cảnh khó khăn này, chính tình yêu đã hòa giải sự đối nghịch giữa luật lệ
và con người để khám phá ra sự quan phòng của Thiên Chúa. Tình yêu đã dẫn tới
niềm tin.
Maria đã xác tín rằng, mặc dù nàng đồng trinh, nàng “đã thụ thai
bởi phép Chúa Thánh Thần” như lời thiên thần đã loan báo. Khi được sứ thần báo
trong giấc mơ phù hợp với điều bạn mình đã nói, Giuse liền tin tưởng vào tấm
lòng thành thật của Maria và “nhận Maria về nhà làm vợ mình”. Họ đã thành thật
tin tưởng nhau.
Một trong những điều sợ hãi và kinh khủng nhất của con người là
phải sống trong nghi ngờ và đố kỵ. Đó là hỏa ngục trần gian. Và một trong những
khó khăn nhất của cuộc sống ở mọi thời đại là sự tin tưởng lẫn nhau.
Sau cùng, thánh cả Giuse là người tin tưởng nơi Thiên Chúa.
Người Do Thái quan niệm Chúa Thánh Thần là người mang sự thật đến cho con
người. Chúa Thánh Thần đã dạy cho các tiên tri trong Cựu Ước phải nói gì và làm
gì. Và cũng chính Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn con người nhìn nhận ra sự thật
khi gặp thấy. Bởi Giuse là người công chính, nên đã được Chúa Thánh Thần mang
sự thật đến. Ông đã nhận ra sự thật và tin tưởng vào sự thật được mạc khải đó,
cho dù cách thức mạc khải chỉ là trong giấc mơ.
Một câu ngạn ngữ của người Nigeria nói rằng, “Hãy lắng
nghe, và bạn sẽ nghe được những bước chân của các con kiến”.
Chúng ta cũng được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa
đến trong cuộc đời qua những cách thức không ngờ tới. Chính ở nơi Chúa Thánh
Thần, chúng ta đón nhận được sự thật: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử
động, và hiện hữu”.
Chúng ta ca tụng thánh Giuse là “Đấng công chính” đã nêu cao tấm
gương nhân từ, thánh thiện và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, Giuse là tôi tớ
trung tín. Vì thế trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngài được chọn làm
bạn của Đức Trinh Nữ Maria, và dưới dòng họ của ngài, Con Thiên Chúa đã làm
người thuộc dòng tộc Đavid, đã âu yếm gọi ngài là “Cha”.
Với lòng nhân hậu, thánh Giuse luôn phù trợ cho các con cái của
ngài như thánh Têrêsa Avila đã nói với chúng ta: “Tôi thấy không lần nào xin sự
gì cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các
thánh giúp ta việc này việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thánh Giuse giúp
chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời
tôi hãy thử mà xem”.
18. Thiên Chúa làm gì cho chúng ta?
Trong Thánh Lễ sáng Chúa Nhật, vị linh mục bước lên tòa
giảng và đọc một đoạn trong sách Cựu Ước. Cuốn sách này đã cũ kỹ, nhưng được
cha dùng keo để gián lại. Vì vô tình khi dùng keo để dán, cha đã để lại một
chút keo ở trang đàng sau, và như thế khi cha lật từ trang cha đang đọc sang
trang sau, nó dính vô trang kế tiếp đó, bởi thế nên cha đã đọc đoạn sách thánh
đó như sau: “Vậy khi loài người bắt đầu thêm đông trên mặt đất, và sinh ra
những con gái, thì các con trai Thiên Chúa thấy con gái loài người xinh đẹp;
những cô họ ưng ý thì họ lấy làm vợ... (chỗ này nhà giảng thuyết lật trang sau
để đọc tiếp thì) chiều dài một trăm năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm
thước, chiều cao mười lăm thước...” (Gn 6:1-2,15). Sau một phút bối rối, nhà vị
linh mục nói: “Tôi xin cáo lỗi cùng Quí Vị. Tuy nhiên, theo một khía cạnh, tôi thấy
rằng đoạn Thánh Kinh trên diễn tả vẻ tuyệt diệu về con người chúng ta đã được
Chúa tạo dựng.”
Mỗi một người là một món quà đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng
và tình yêu vô hạn. Ngài không chỉ ban cho chúng ta món quà sự sống nhưng còn
ban tặng chúng ta sự toàn năng và tình yêu vô hạn của Ngài để giúp chúng ta có
một cuộc sống sung mãn. Đó là điểm mà đạo Công Giáo của chúng ta bắt nguồn. Căn
bản của đạo chúng ta không phải là điều chúng ta có thể làm cho Chúa, nhưng là
Thiên Chúa làm gì cho chúng ta.
Đó là tất cả ý nghĩa của Kitô giáo. Đó là Tin Mừng của đức tin
chúng ta. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã sinh ra tại hang Bêlem. Đó là lý do
tại sao Chúa Giêsu đã được nuôi dưỡng trong gia đình thợ mộc nghèo khổ. Đó là
lý do tại sao Chúa Giêsu đi từ làng này sang làng khác rao giảng về sự siêu
việt của Nước Chúa, chữa lành, và bài trừ những người giả hình của phái
Pharisiêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã kiên nhẫn chịu đựng những khổ hình
và chịu đóng đinh vào thánh giá. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã ra khỏi mồ
và phán: “Bình an cho các con.” Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã thổi Thánh
Thần vào thế giới qua các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa Giêsu đã sống, đã
chết, và đã sống lại để làm tất cả mọi sự đổi mới bằng ngọn lửa thanh tẩy của
tình yêu Thiên Chúa. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là chỉ cho chúng ta con đường biết hàng
phục một cách vô điều kiện với sự mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa.
Đối với tình yêu bao la của Chúa, chúng ta chỉ có thể đón nhận,
chứ không phải là kiếm được. Đó là món quà của Chúa ban cho một cách nhưng
không mà không bao giờ chấm dứt; trước sau như một, bền bỉ, mãi mãi. Chúng ta
không thể nào dứt bỏ được. Chúng ta không thể nào làm cho Chúa ngừng yêu thương
chúng ta. Chúng ta không thể nào làm cho tình yêu ấy nhạt đi, biến mất, hoặc
bắt buộc nó phải đi chỗ khác. Tình yêu ấy không câu nệ gì đến việc chúng ta là
ai, đang ở đâu, và là cái gì. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta
có là cái gì đi chăng nữa. Câu hỏi được đặt ra là “Ngay trong giây phút này,
các bạn có trong sạch như Thánh Gioan Tông Đồ hoặc Maria Mađalêna không? Các bạn
có sẵn sàng để đón nhận món quà của lòng từ bi vô biên của Chúa ở tận thâm tâm
của các bạn chưa? Các bạn có sẵn sàng để chấp nhận sự thật đó như là một điều
khẩn thiết cho cuộc lữ hành tiến tới sự sung mãn chưa?”
Không có một tội nào ngăn cản Thiên Chúa không ban cho các bạn
bất cứ điều gì, cả những điều các bạn không tưởng tượng nổi. Không có một phản
nghịch nào có thể làm cho Thiên Chúa thất vọng với các bạn. Không có một buồn
phiền nào có thể ngăn cản Thiên Chúa không tiếp tục dẫn dắt các bạn. Ngài tiếp
tục, trước sau như một, để đi vào cuộc sống của bạn bằng cả ngàn cách thức.
Ngài kiên cố và bền vững trong cách thế đó, từ tình yêu vô bờ cho các bạn và
lòng ao ước mạnh mẽ để đem các bạn tới chỗ sung mãn.
Bài Phúc Âm hôm nay bắt đầu cuộc truyền tin mà thiên thần loan
báo cho Mẹ rằng Mẹ sẽ sinh ra Đấng Cứu Thế. “Này tôi là nữ tỳ của Chúa,” Mẹ
đáp, “Xin hãy thành sự nơi tôi theo như lời ngài truyền.” Chúng ta sẽ không có
Lễ Giáng Sinh nếu Mẹ không mở rộng bàn tay để đón nhận món quà từ tình yêu vô
bờ của Thiên Chúa. Sự ưng thuận của Mẹ là trung tâm điểm của Mầu Nhiệm Nhập
Thể. Sau khi thiên thần từ giã, Mẹ liền vội vã đi thăm bà dì Elisabét. Như là
muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự nhậm lời của Mẹ, bà dì Elisabét đã chào Mẹ
rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói
với em” (Lk 1:45).
Trong Sách ngôn sứ Isaiah, Thiên Chúa phán: “Hãy xem, Ta đã ghi
khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is 49:16). Đó là hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả
thật đúng cách thức Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngài nhìn chúng ta trên bàn
tay của Ngài đã dùng để tạo dựng và ghi khắc. Chúng ta là một phần không thể
tẩy xóa được trong sự sống của Thiên Chúa bởi vì chúng ta được dựng nên bằng
hình ảnh của Ngài. Thánh Kinh cho chúng ta biết Thiên Chúa gần chúng ta như thế
đó. Ngài không ghi khắc chúng ta ở trong bàn tay Ngài như là một phần thưởng.
Chúng ta không giành được cái chỗ vinh dự như thế ở trong sự sống của Thiên
Chúa. Thêm nữa, chúng ta không thể nào thay đổi được. Chúng ta có thể xa cách Ngài
nhưng đối với Ngài thì luôn luôn trao ban cho chúng ta tất cả để chúng ta có
thể đạt được sự sống sung mãn trong tình yêu Ngài.
Thiên Chúa mong muốn chúng ta cảm nghiệm được tình yêu vô biên
của Ngài trong lúc này. Sự hưởng nếm ngọt ngào nhất về tình yêu của Thiên Chúa
đến với chúng ta bằng yêu và được yêu. “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các
con,” Chúa Giêsu đã ra lệnh như thế.
19. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu gặp hoàn cảnh của Giuse, tâm trạng của bạn sẽ thế nào?
Bạn sẽ đối xử thế nào với người yêu mà bạn ngỡ là đã phản bội bạn?
2. Trong trường hợp này Giuse đã hành xử thế nào? Tình yêu của
Giuse đối với Maria là thứ tình yêu nào? vị kỷ hay vị tha? chiếm đoạt hay dâng
hiến?
3. Tại sao Thiên Chúa lại chủ trương Đức Giêsu phải được sinh ra
bởi một người mẹ đồng trinh, nghĩa là không do sự kết hợp với một người nam?
4. Giới răn yêu thương của Đức Giêsu phải được áp dụng ưu tiên
hàng đầu cho những ai? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Tâm trạng của Giuse khi thấy Maria có thai
Theo tục lệ Do Thái, để trở nên vợ chồng thực thụ, đôi nam nữ
phải trải qua ba giai đoạn: (1) Hai gia đình tiếp xúc với nhau, đồng ý cho đôi
nam nữ tiến tới hôn nhân. (2) Đính hôn hay hứa hôn: đôi nam nữ hứa hôn với nhau
trước mặt hai gia đình, bà con, bạn bè và mọi người. Kể từ đây, đôi nam nữ được
coi như vợ chồng, nhưng chưa được sống chung hoặc có quan hệ tính dục với nhau.
Mối liên hệ này chỉ được hủy bỏ khi một trong hai người qua đời, hoặc khi tuyên
bố ly dị. (3) Lễ cưới: đôi nam nữ chính thức là vợ chồng và bắt đầu sống chung
với nhau. Khi Maria thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần và Giuse được sứ thần
báo mộng, thì hai người đang ở giai đoạn thứ hai: đính hôn.
Trước khi được sứ thần báo mộng, Giuse thấy Maria – người bạn đã
đính hôn với mình – có thai. Cứ theo cách cắt nghĩa tự nhiên cũng là duy nhất,
thì rõ ràng Maria đã ngoại tình. Chắc chắn Giuse rất bối rối, buồn phiền, thậm
chí thấy mình bị xúc phạm mãnh liệt. Theo luật dân sự, trong trường hợp này,
Giuse có quyền từ hôn. Chàng có thể tố cáo Maria về vụ việc này, và nhà cầm
quyền Do Thái có thể xử tử nàng bằng cách ném đá cho đến chết, chiếu theo luật
trong Đnl 22,23-24. Nhưng chàng không làm như thế. Mặc dù cảm thấy như bị xúc
phạm và phản bội, chàng chỉ định tâm bỏ nàng cách kín đáo, cho đến khi được sứ
thần báo mộng.
Mặc dù chỉ biết qua giấc mộng – nghĩa là không chắc chắn và rõ
ràng – rằng Maria thụ thai bởi Thánh Thần, Giuse đã chấp nhận đem Maria về nhà
mình, bất chấp dư luận không hay về mình. Vì Giuse làm như thế, dư luận sẽ cho
rằng: hoặc hai người đã quan hệ vợ chồng một cách bất chính trước khi được
phép, điều này chứng tỏ hai người thiếu đạo đức; hoặc Giuse đã chấp nhận cái
nhục «người ta ăn ốc, mình đổ vỏ». Do đó, việc chàng chấp nhận Maria phải nói
là can đảm, hy sinh, và tình yêu của chàng đối với Maria quả là chân thật và
mãnh liệt. Chàng đúng là một người công chính, cao thượng, biết tuân phục thánh
ý Thiên Chúa.
2. Đức Giêsu sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh
Việc Đức Giêsu được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh, không
do ý muốn của người nam, là do ý định khôn ngoan của Thiên Chúa. Điều này rất
quan trọng trong Kitô giáo. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, với sứ mạng giải phóng
con người khỏi tội lỗi, Ngài phải hoàn toàn không bị vướng vào tội lỗi. Nếu
chính Ngài mà còn có tội, còn sống dưới ách tội lỗi, thì Ngài có thể giải phóng
tội lỗi cho ai? Mà mọi người sinh ra bởi người nam, đều vướng tội tổ tông do
Ađam truyền lại. Vì theo quan điểm của xã hội phụ hệ Do Thái, sự kế thừa từ thế
hệ trước sang thế hệ sau hoàn toàn qua người nam. Do đó, nếu Đức Giêsu sinh ra
từ một người nam, Ngài không khỏi kế thừa tội tội tổ tông từ cha mình. Để Ngài không
chịu ảnh hưởng tội tổ tông, Thiên Chúa đã dùng quyền năng Thánh Thần của mình
để Đức Giêsu chỉ được sinh ra duy nhất từ một người nữ – vốn là điều cần thiết
để trở nên một người trần – mà không do sự kết hợp với người nam. Nhờ thế, Ngài
không bị ảnh hưởng của tội tổ tông, lại hoàn toàn và duy nhất là Con của Thiên
Chúa, đồng thời vẫn là một con người trọn vẹn.
3. Tình yêu đích thực trong đời sống vợ chồng
Trong sứ mạng cứu chuộc nhân loại, thì một trong những mục đích
quan trọng của Đức Giêsu là dạy con người sống yêu thương nhau. Ngài đã lập nên
luật mới cho kỷ nguyên của Ngài là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là
anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em» (Ga 13,34). Ngài đã làm gương cho cả nhân loại bằng cách yêu thương đến
tận cùng (x. Ga 13,1), hy sinh cả mạng sống cho nhân loại mà mình thương yêu
(x. Ga 15,13). Nhưng Ngài không sống đời hôn nhân, nên Ngài không thể có một
tấm gương cụ thể của một người chồng yêu thương vợ mình. Nhưng bù lại, cha nuôi
của Ngài là thánh Giuse đã cho nhân loại gương sáng ấy. Bài Tin Mừng cho thấy Giuse
đã yêu Maria bằng một tình yêu đầy tính vị tha và dâng hiến.
Tình yêu trong đời sống vợ chồng có thể phân thành hai loại:
– tình yêu vị kỷ hay chiếm đoạt: Trong thứ tình yêu này, người
ta coi người mình yêu như một phương tiện để thỏa mãn nhu cầu tình cảm của
mình, hay như một đối tượng mà mình phải chiếm đoạt làm của mình. Với tình yêu
vị kỷ, người ta coi người mình yêu phải phục vụ cho hạnh phúc của mình. Và
người ta đặt hạnh phúc của mình lên trên hạnh phúc của người mình yêu. Khi có
sự xung đột giữa hạnh phúc của mình và của người yêu, thì họ sẵn sàng hy sinh
hạnh phúc của người yêu cho hạnh phúc của mình, sẵn sàng chấp nhận để người
mình yêu đau khổ miễn mình được hạnh phúc. Và họ không thể chấp nhận bị người
yêu phản bội. Họ sẵn sàng đày đọa người mình yêu vì sự phản bội ấy. Họ không
thể chấp nhận cho người mình yêu được hạnh phúc với một ai khác ngoài mình.
Thực ra, đây không phải là tình yêu đích thực. Người ta chỉ yêu chính bản thân mình
một cách gián tiếp qua người yêu của mình, chứ không phải yêu thương người ấy
thật sự.
– tình yêu vị tha hay dâng hiến: Với tình yêu này, người ta cảm
thấy có nhu cầu ra khỏi chính mình để hướng về người mình yêu, sẵn sàng hy sinh
để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Người ta sẵn sàng
chấp nhận mình thiệt thòi để người mình yêu được lợi, chấp nhận đau khổ để
người mình yêu hạnh phúc. Với tình yêu này, người ta sẵn sàng thông cảm và tha
thứ cho người mình yêu khi người này lầm lỗi. Đây mới chính là tình yêu đích
thực mà Thiên Chúa muốn mọi cặp vợ chồng phải có đối với nhau. Giuse đã yêu
Maria bằng thứ tình yêu này.
Người yêu bằng tình yêu vị tha hay dâng hiến, gặp trường hợp
tương tự như Giuse – thấy người sắp kết hôn với mình có vẻ như phản bội – thì
chỉ biết đau khổ cho mình, chứ không hề muốn làm một điều gì có hại cho người
mình yêu. Người ấy sẽ nghĩ: nếu người mình yêu cảm thấy sống với người khác sẽ
hạnh phúc hơn sống với mình, thì mình cũng sẽ an tâm và sẵn sàng chấp nhận đau
khổ, hy sinh để người mình yêu được hạnh phúc.
4. Đối tượng phải yêu thương hàng đầu là người trong gia
đình
Giới răn yêu thương của Đức Giêsu cần được áp dụng cho tất cả
mọi người, kể cả kẻ thù hay người làm hại mình (x. Mt 5,44; Rm 12,20). Nhưng
trước hết, nó phải được áp dụng ưu tiên cho những người gần mình nhất, có quan
hệ ruột thịt với mình, cùng sống trong một gia đình hay một nhà với mình: cha
mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, cháu chắt… Trong số đó không ai gần gũi mình
cho bằng vợ hay chồng mình, vì là vợ chồng thì «không còn là hai, nhưng chỉ là
một xương một thịt» (Mt 19,5; x. St 2,24; Ep 5,31). Vì thế, giới răn yêu thương
của Đức Giêsu phải được áp dụng ưu tiên hàng đầu cho vợ hay chồng mình, rồi tới
cha mẹ, con cái mình. Nếu những người ruột thịt này mà ta không yêu thương được
bằng một tình yêu chân thật, vị tha, dâng hiến, thì ta không thể yêu ai khác
bằng tình yêu này được. Mọi thứ tình yêu ta có đối với người khác đều chỉ là
tình yêu vị kỷ, hoặc tệ hơn nữa, tình yêu môi miệng, tình yêu đóng kịch, tình
yêu xây dựng trên sự đổi chác quyền lợi… Đó không phải là tình yêu đích thực.
Thiết tưởng trong việc chuẩn bị đón Chúa đến, không gì thích hợp
và đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng canh tân, đổi mới lại tình yêu trong chính gia
đình của mình. Hãy yêu mọi người trong gia đình mình bằng một tình yêu chân
thật, mãnh liệt, đầy tính vị tha và dâng hiến. Tình yêu đối với gia đình sẽ là
mẫu mực và là căn bản để từ đó ta áp dụng đối với tất cả mọi người.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con có được một tình yêu đích thực, thứ tình
yêu vị tha, dâng hiến, chứ không phải thứ tình yêu mang tính vị kỷ, chiếm đoạt,
hay tình yêu giả hiệu, ngoài môi miệng. Xin cho con biết áp dụng tình yêu đích
thực ấy ngay trong gia đình của con, để từ đó lan tỏa ra với tất cả mọi người.
20. Emmanuel
Đọc lại Cựu Ước, chúng ta thấy được hình ảnh nào của Thiên Chúa?
Theo tôi nghĩ, điều Cựu ước nhấn mạnh cho dân Do thái, đó là một Thiên Chúa duy
nhất đầy quyền uy.
Thực vậy, ngay những trang đầu của sách Sáng thế ký, sau khi
Adong Evà phạm tội, thì buổi chiều Thiên Chúa đã tản bộ đi trong vườn địa đàng
với làn gió nhẹ. Adong Evà đã hoảng sợ và tìm kiếm chỗ ẩn núp, nhưng cũng không
thể nào thoát khỏi cái nhìn của Thiên Chúa, để rồi cuối cùng đã lãnh nhận bản
án của đau khổ, của chết chóc cho hành vi phản bội đầu tiên ấy.
Tiếp theo là việc Thiên Chúa hiện ra và kêu gọi Maisen lên đường
giải phóng dân tộc Do thái, đang sống dưới ách nô lệ, dưới sự kìm kẹp của vương
quốc Ai cập. Lúc bấy giờ Maisen nhìn thấy một bụi gai bừng cháy, ông mon men
tiến tới, thì được Giavê đã phán:
- Chớ lại gần, hãy cởi dép vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh.
Maisen đã phải che mặt vì ông sợ không dám nhìn Thiên Chúa.
Và sau cùng trong cuộc xuất hành trở về miền đất hứa, Đức Giavê
đã tàn sát các con trai đầu lòng Ai cập, đã vùi dập binh đội của Pharaon nơi
lòng biển cả. Và tại đỉnh núi Sinai, Đức Giavê đã trao ban lề luật cho Maisen
trong một cảnh tượng hùng vĩ. Kinh thánh ghi lại rằng: Bấy giờ ngọn núi cuồn
cuộn như bốc khói. Ngay cả sau khi Maisen xuống núi, khuôn mặt ông vẫn còn chói
lọi, đến nỗi dân chúng sợ hãi không dám tiến lại với ông.
Bằng đó những sự kiện chỉ có ý muốn nói lên rằng: Thiên Chúa
trong Cựu ước là Thiên Chúa của uy quyền. Ngài hiện ra trong sấm chớp hãi hùng,
để truyền khiến, để sửa phạt. Đứng trước vị Thiên Chúa toàn năng ấy, con người
nhỏ bé của chúng ta chỉ có một thái độ, đó là run sợ và khiếp hãi.
Thế nhưng, Cựu ước chỉ nắm giữ vai trò chuẩn bị, vai trò sửa
soạn cho Đức kitô xuất hiện. Tất cả Cựu ước đều qui hướng về Đức Kitô và cùng
với Đức Kitô, chúng ta có được một hình ảnh đầy yêu thương của Thiên Chúa. Hình
ảnh này đã được tiên tri Isaia loan báo gần 700 năm về trước:
- Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên
con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Lời loan báo này đã trở thành một sự thật trong Tân ước. Phải,
đúng thế, Tân ước đã làm tròn những hình ảnh được nói đến trong Cựu ước, nhờ đó
chúng ta thấy rõ Đức kitô chính là Thiên Chúa.
Qua bài Phúc âm hôm nay, sứ thần đã nhắc lại cho Giuse trong một
giấc mộng lời nói tiên tri Isaia, để rồi một vài ngày nữa, trong đêm Giáng
sinh, lời hứa về đấng Emmanuel sẽ được thực hiện. Thiên Chúa đã đến ở giữa
chúng ta, không phải trong uy quyền với áng mây cột lửa, nhưng trong yêu thương
với quang cảnh ngèo nàn và đơn sơ của máng cỏ Bêlem.
Từ một Thiên Chúa uy quyền và công bằng, Ngài đã trở nên một
Thiên Chúa yêu thương và tha thứ. Ngài đó, một hài nhi bé bỏng như muôn ngàn
vạn hài nhi khác. Ngài không đến trong sấm chớp, nhưng trong yên lặng của đêm
khuya, trong rét mướt của mùa đông và trong nghèo hèn của chuồng bò. Ngài không
làm cho bụi cây trong sa mạc bốc cháy, nhưng khi trông thấy Ngài các vì sao như
rực sáng long lanh. Ngài không đòi phải có đền thánh huy hoàng, nhưng một nắm
cỏ khô đã đủ cho ngài. Không phải là những biểu ngữ, những cổng chào của đám
đông cuồng nhiệt đã tiếp đón Ngài như một ngày hội lớn, nhưng là nụ cười hiền
dịu của Đức Maria và tấm lòng chân thành của thánh Giuse và các mục đồng, đúng
như lời tiên tri Isaia đã loan báo:
- Ngài sẽ không la to, không nói lớn và người ta sẽ chẳng nghe
thấy tiếng Ngài ngoài phố. Ngài đã không bẻ gẫy cây sậy đã dập và không thổi
tắt ngọn đèn còn leo loét.
Thiên Chúa của chúng ta là như thế đó. Vậy đâu là nguyên nhân,
là động lực thúc đẩy Ngài trở thành một Emmanuel, một Thiên Chúa ở cùng chúng
ta? Tôi xin thưa:
- Đó chính là vì tình yêu.
Thực vậy, người ta thường nói:
- Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Nhìn vào kinh nghiệm thường ngày chúng ta cũng thấy được như
vậy. Chẳng hạn hai anh chị yêu thương nhau, họ luôn mong muốn và làm mọi cách
để có thể gặp nhau, để có thể ngồi tâm sự vui với nhau giờ này qua giờ khác.
Chẳng hạn người chồng phải đi học tập cải tạo tại, nhưng vì yêu
thương, người vợ không bao giờ quản ngại đường sá xa xôi. Mỗi tháng lếch thếch
với đứa con nhỏ và những đồ tiếp tế để đi thăm chồng.
Nếu quả thực là như vậy, thì hẳn tình yêu Thiên Chúa dành cho
chúng ta phải lớn lao, phải vĩ đại biết bao nhiêu. Bởi vì Ngài đã đi con đường
dài nhất, con đường từ trời xuống đất, từ Thiên Chúa toàn năng đến một hài nhi
yếu ớt. Khoảng cách ngàn trùng ấy đã được Chúa Giêsu vượt qua cho đến đời đời,
bởi vì Ngài đã ở lại với chúng ta luôn mãi. Chúng ta có thể nói được rằng:
- Ngài đã kết hôn với bản tính nhân loại chúng ta để ăn mày đến
vô biên.
Điểm đặc sắc của kitô giáo là ở chỗ đó: Thiên Chúa của chúng ta
không phải là một ý niệm trừu tượng, một nhân vật hoang đường, nhưng là một con
người cụ thể đã, đang và sẽ còn sống mãi bên chúng ta suốt những chặng đường
đời, để yêu thương và tha thứ. Một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng
chúng ta.
Thiên Chúa đã đi quãng đường dài nhất để đến với chúng ta, còn
bây giờ chúng ta sẽ phải đi nốt những bước chân còn lại. Ngài đến ở giữa chúng
ta, nhưng có yêu thương và gắn bó với Ngài hay là chúng ta đã lạnh nhạt và xua
đuổi Ngài như hánh Gioan đã viết: Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà đã
chẳng đón nhận.
Nếu như bây giờ Chúa trở lại, liệu Ngài có tìm thấy một nơi trú
ngụ trong tâm hồn chúng ta hay không?
21. Emmanuel- Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
John P., một linh mục Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm
thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, đã phải hoài công vô
vọng. Bao lời khuyên răn cứ như “nước đổ lá môn.”
Một lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ
lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn
trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài
luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ rời thành phố. Ai về nhà nấy.
Trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh
mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo vang phá tan giấc ngủ của cha John.
Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu giây bên kia là giọng nói của chàng
thanh niên năm nào: “Alô, con muốn xưng tội với cha. Con muốn trở về cùng
Giáo hội.”
- “Chuyện gì xảy ra cho anh vậy?” Vị linh mục hỏi lại. Ngài
tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình
ra đi.
Nhưng anh ta trả lời: “Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã
nói với con một lời đánh động lòng con rất nhiều.”
Vị linh mục ngạc nhiên: “Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không
lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để gặp riêng anh?”
- “Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói
với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: “Chúa ở với các con.”
Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa: “Ủa, đã
nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết
phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa?”
Anh thanh niên chậm rãi giải thích: “Thưa cha, vì Mẹ đã nói
câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình.”
Một câu nói không phát ra từ một công thức có sẵn hay do
một thói tục xã giao thông thường thúc đẩy, nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của
một tâm hồn yêu thương mới có khả năng thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt
được ý nghĩa chân thực nhất của danh hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Trong một Thánh lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc:
“Chúa ở cùng anh chị em,” nhưng thử hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì
sung sướng trước sự kiện này? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh
nguyện có cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên
Chúa hiện hữu thật sự trong cuộc đời của mình? Tôi không có, phải chăng vì đã
chưa đọc và nghe với tất cả tâm hồn?
Nếu thấu hiểu được thế nào là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” chắc
chắn sẽ không có một tác nhân gì có thể làm cho con người phải run sợ bất an
hay ưu sầu lo lắng.
Ngày xưa, khi Môisen đang chạy trốn người Aicập, tránh né bàn
tay ác độc của Pharaô, Giavê đã hiện ra và bảo ông trở về đất Ai để giải thoát
dân Israel. Trước một trách nhiệm lớn lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như
thế, Moisen can đảm lên đường, vì Thiên Chúa đã nói với ông: “Ta sẽ ở với
ngươi” (Xh 3:12).
Rồi khi Giêrêmia được Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các
dân tộc, ông đã tìm cách thoái thác: “Tôi đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ
như một đứa trẻ con.” Nhưng Chúa nói: “Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi” (Gr 1:8).
Với lời hứa ấy của Giavê, Giêrêmia lên đường.
Trong Tân ước, khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao
giảng Tin mừng. Sứ mạng chất đầy gian nan, không khác chi như chiên con đi giữa
sói rừng. Ấy thế mà sự bảo đảm lại chỉ là một lời hứa: “Ta sẽ ở cùng các ngươi
mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Vậy rồi các ông ra đi.
Sẽ không lời hứa nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một
con người cho bằng lời hứa “ở cùng người yêu,” và sẽ không có nỗi lòng khát
khao nào mãnh liệt cho bằng được “sống chung với người yêu.” Một chàng thanh
niên có thể hứa với người con gái: “Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương
làm quà Giáng sinh; anh sẽ cố học thành tài để em không phải lam lũ sau
này...,” nhưng nếu không có lời hứa “ở cùng em” thì vô ích hết. Cao điểm hạnh
phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ không phải nơi chiếc áo cưới
soirée lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi chiếc nhẫn cưới hay lời chúc tụng của thân
hữu đôi bên, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước
đó họ hứa “ở cùng nhau suốt đời.”
Một linh mục đã nhận xét: “ở cùng” chính là ngôn ngữ của tình
yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến “ở cùng.”
Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến “ở cùng” con người, mới có
danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau
của con người, và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.
Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Để cứu
thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ không nỗi đợi chờ hay một thoả mãn nào đáng
giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở
cùng.
Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc
tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập
lại trong các Thánh lễ đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn
là lời mời gọi bạn và tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống
thân ái hơn trong tình người.
Như Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn
cách vô biên--giữa Tạo hoá và loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô
hình và hữu hình--chúng ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa
con người với con người, để việc tôi “ở cùng” tha nhân trong an hoà sẽ là một
phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
22. Điều xảy đến bất ngờ - Lm Nguyễn Ngọc Long
Khi sống trong trông mong chờ đợi, mà bỗng dưng xảy đến điều gì
bất ngờ mang lại sự may lành thích thú hơn điều mong đợi. Lúc đó lòng ta tràn
đầy niềm vui hạnh phúc.
Nhưng trái lại, khi điều xảy đến bất ngờ, không những không như
mong đợi mà còn đưa đến điều lo âu suy nghĩ. Lúc đó, ta mang tâm trạng buồn lo
thất vọng. Thánh Giuse sau khi kết hôn với Đức Mẹ Maria, cũng đã trải qua điều
xảy bất ngờ mang lại nhiều suy nghĩ bối rối.
Ông Giuse kết hôn với cô Maria, nhưng ông liền khám phá ra: Cô
Maria đã có thai. Điều này xảy đến thật bất ngờ ngoài điều ông trông chờ... Bao
nhiêu câu hỏi diễn ra trong tâm trí ông và ông không tìm ra câu giải đáp: Tại
sao cô Maria lại mang thai trước khi cưới hỏi, với ai vậy? Phải chăng cô không
trung tín với người chồng của cô, là ta đây? Bây giờ phải làm sao? Cô đã bất
trung với ta, thì ta bỏ cô vậy, mặc cô muốn sống sao như ý cô?
Ông âm thầm suy nghĩ ngày đêm về chuyện này, thì lại một bất ngờ
xảy đến nữa. Thiên thần Chúa hiện đến với ông trong một giấc mơ và báo cho ông
biết: con trẻ trong bào thai cô Maria là Con Thiên Chúa. Cô Maria mang thai là
do quyền năng Chúa Thánh Thần tác động. Con đừng sợ. Đó là chương trình của
Thiên Chúa xuống trần gian làm người!
Ông Giuse tuy là người đạo đức, có lòng yêu mến kính sợ Thiên
Chúa, nhưng làm sao ông có thể hiểu nổi điều xảy đến bất ngờ vượt quá sức tưởng
tượng của một bác thợ mộc chất phác nơi miền thôn quê! Dẫu vậy, lần này thì ông
không hồ nghi. Ông âm thầm chấp nhận cô Maria và những lời Thiên Thần nói cho
ông về Con Thiên Chúa và để bụng suy nghĩ tiếp về chương trình dự định của
Thiên Chúa. Ông tin vào sự quan phòng của Người.
Điều xảy đến bất ngờ lần này mang lại cho ông sự bình an trong
tâm hồn.
Không chỉ Đức Mẹ Maria và ông thánh Giuse sống trải qua những
điều bất ngờ về chương trình của Thiên Chúa, nhưng còn có những người khác nữa:
các mục đồng. Họ là những người quê mùa thất học, suốt đời chỉ sống với súc vật
ngoài cánh đồng cỏ. Bỗng dưng họ cũng nhận được điều xảy đết bất ngờ. Thiên
thần Chúa hiện đến báo tin cho họ: “Các Bạn đừng sợ! Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa
sinh hạ trong chuồng súc vật của các Bạn. Các Bạn hãy đến mà xem!”
Họ ngạc nhiên nhưng trong tâm trạng vui mừng. Vì điều bất ngờ
xảy đến mang lại cho họ nhiều thích thú lạ lùng. Họ đâu có thể ngờ bỗng dưng có
khách cao trọng từ trời cao đến thăm và sống trong nhà mình. Và từ đó làm biến
đổi cuộc sống của họ: từ người chăm sóc thú vật thành người được nhìn thấy
Thiên Thần của Chúa, được đến thăm viếng trò truyện với Con Trẻ Giêsu là Ngôi
Hai Thiên Chúa.
Không chỉ với biến cố Thiên Chúa xuống thế làm người mới có
những điều xảy bất ngờ, nhưng điều xảy ra bất ngờ thường có ngay trong cuộc đời
mỗi người. Điều đó có thể là điều may lành an vui, nhưng cũng có thể là điều
gây ngạc nhiên bỡ ngỡ xa lạ đến độ lo âu suy nghĩ bối rối mất bình an.
Thông thường ai cũng mong điều xảy đến bất ngờ mang lại niềm vui
hạnh phúc hơn điều mang đến sự bất an trong cuộc sống. Như cuộc đời thánh Giuse
đã trải qua, đôi khi những điều xảy ra bất ngờ làm lo âu suy nghĩ bối rối,
không mấy ai muốn chấp nhận, lại là tín hiệu quan trọng mang tin lành bình an
cho con người.
Những đau khổ, bệnh tật, điều gây bối rối, điều trái ý gây khó
chịu là những điều xảy đến bất ngờ và chẳng ai muốn có. Nhưng nếu như thánh
Giuse với một tâm hồn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, mà vui lòng
chấp nhận, điều đó có thể trở nên giá trị tốt đẹp cho đời sống chính mình và
người khác nữa.
Đức Mẹ Maria cũng đã vui lòng chấp nhận sứ điệp Thiên Thần Chúa
mang đến bất ngờ ngoài điều mong muốn cho đời mình, nên Chúa mới giáng sinh
xuống trần gian. Ngài mang ánh sáng tình yêu từ trời cao xuống cho con người.
Và qua biến cố đó, nhân loại mới có ngày lễ mừng trọng đại: Thiên Chúa làm
người, để con người được làm con Thiên Chúa.
23. Chú giải của Noel Quesson
Những “Tin Mừng về tuổi thơ” là những trang Tin Mừng kỳ diệu,
rất khác với các Tin Mừng khác: Matthêu và Luca là những người duy nhất nói cho
chúng ta hay, lại không phải là những chứng nhân trực tiếp. Các ông đã sưu tập
lại những kỷ niệm được lưu giữ trong các môi trường “Do Thái – Kitô” và nhất là
trong gia đinh Đức Giêsu. Và với dữ kiện cơ bản” này, các ông đã xây dựng một
Dẫn nhập thần học, có phần giống như một nhạc sĩ soạn một “Khúc dạo đầu” mà ở
đó nhạc sĩ làm cho người ta nghe thấy những chủ đề chính mà ông muốn khai triển
tiếp theo. Dưới vẻ bề ngoài thô thiển và vụn vặ, đó là những văn bản phong phú những
giáo lý sâu sắc, dĩ nhiên được viết sau khi Đức Giêsu sống lại và cần phải đọc
“trong đức tin”. Điều ấy không có ý nói rằng, “tính nhân bản không có trái lại
là khác”.
Matthêu, khác Luca, không tập trung tuổi thơ của Đức Giêsu và
Đức Maria, nhưng vào Giuse: 1. Giả phả Đức Giêsu, theo dòng dõi Giuse; 2. Loan
báo việc sinh Đức Giêsu cho Giuse, và chấp nhận vai trò của mình: chồng Đức
Maria và cha pháp lý của Đức Giêsu; 3. Việc thờ phụng của các nhà chiêm tinh và
vai trò chủ chốt của Giuse bảo đảm an toàn hài nhi khi trốn sang Ai Cập; 4. Trở
về Na-da-rét, theo lệnh của một thiên thần luôn luôn nói với Giuse (Mt 1,1 -
2,23).
Chúa nhật này trước lễ Giáng sinh. Giáo Hội đề nghị chúng ta
nghe tin loan báo cho Giuse.
Đây là gốc tích (“khởi nguyên”) của Đức Giêsu Kitô.
Nói “khởi nguyên” là nói đến “bắt đầu”. Đó là tiếng trang trọng
lớn lao của khởi đầu thế giới, trong sách đầu tiên của Kinh Thánh.
Đối với người Sê-mít, quan niệm “nhân vị” như một cái toàn thể,
vữa có tính thể xác và linh thiêng, khác với những người Hy Lạp, coi “nhân vị”
trước hết như một linh hồn, thực tại linh thiêng, nhập thể vào trong một thân
xác Đức Giêsu Kitô “bắt đầu” ở chính khoảnh khắc mà người nhập thân vào “lịh sử
con người”, vào biến cố này, vào tình huống mà Đức Gìêsu sinh ra.
Bà Maria, Mẹ Đức Giêsu đã thành hôn với ông Giuse.
A, tất cả mọi người đều tin là biết lịch sử về con người của
Giuse. Một con người trở thành đề tài để giễu cợt trong trại lính và trong
xưởng thợ. Người ta đã đặt thành những bài hát dân gian diễu cợt con người ngây
thơ và nạn nhân này; ông Giuse đáng thương! không phải thế sao? Nhất thế là chế
nhạo Tin Mừng và không biết tí gì về cặp Maria và Giuse. Cặp này chắc chắn là
cặp hạnh phúc nhất trong suốt lịch sử. Người mà, trong tất cả các cặp được
thành hình từ khi tạo thành thế giới, được mang dấu ấn một lịch sử phổ quát!
Cặp này cũng là cặp ‘phong nhiêu nhất trong các cặp’. Ban đầu, tình hình của họ
thế nào: hai thanh niên ở giữa tuổi 15 và 20, đính hôn với nhau, vì cùng có một
dự tính kỳ diệu là thành vợ chồng. Bạn hãy nhớ đến cuộc đính hôn của các bạn!
Cái thời hạnh phúc đó. Hãy, nhìn các bạn trẻ đang lui tới với nhau và xây dựng
ý định lứa đôi.
Nhưng trước khi ông bà về chung sống, Bà đã có thai do
quyền năng của Chúa Thánh Thần, ông Giuse, chồng bà là người công chính là
không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.
Đây là chặng thứ hai: “dự tính tan vỡ”; khủng hoảng chuyện đôi
lứa, khi Giuse thấy người đính hôn của mình mang thai. Tất cả mọi giấc mơ đầu
bị phá tan. Có lẽ ta không thể hiểu được nỗi đau đớn tinh thần dày vò còn bị
che khuất đằng sau đoạn Tin Mừng vắn tắt này? Ở giai đoạn tình huống này, Giuse
quyết định không cưới Maria nữa. Và quyết định này là quyết định của người đàn
ông công chính.”
Người ta đưa ra nhiều cách giải thích về sự công chính này của
Giuse. Thánh Justin nghĩ rằng Giuse công chính bởi vì người muốn áp dụng Luật
(Đnl 22,23). Điều kỳ lạ và có vẻ không đúng là người ta đã có thể nghĩ đến một
sự nghi ngờ tội ngoại tình, mà Luật Môsê đòi phải phạt. Thánh Giêrôm, chính
người lại kết luận rằng Giuse “công chính bởi vì ông muốn bỏ bà Maria một cách
kín đáo”. Nhưng cũng ở chính đó, có phải là điều công chính khi bỏ mặc cho số
phận một người vợ mà người ta nhìn nhận là vô tội ư? Giải pháp thỏa đáng duy
nhất cho vấn đề này chính là điều mà bản văn đã gợi ra. Quả thế, ngay trước lúc
diễn tả cuộc tranh chấp tâm lý của Giuse, thì Matthêu, một cách rất rõ ràng,
giả định là người ta có biết việc “thụ thai mà còn trinh nguyên một con trẻ”;
thụ thai bởi tác động của Thánh Thần.
Do đó có lẽ chính Đức Maria đã tiết lộ tâm sự với người mình
đính hôn (hay đúng hơn, mẹ của Đức Maria theo tập quán Phương Đông). Và Giuse,
sau khi suy nghĩ bằng những phương tiện nhân loại của mình, sau khi đã hiểu
rằng con trẻ này do Chúa, mà đến, ông không muốn đòi hỏi về quyền hành đối với
đứa con không phải là của mình; ông nhận ra ‘quyền làm cha’ của Thiên Chúa. Và
ông nghĩ rằng, chính ông Giuse, không được con như cha của đứa con đó. Thế là
ông quyết định từ khước ý định lứa đôi của mình. Cũng như Abraham, hy sinh cho
Thiên Chúa, Giuse là “người công chính”, ông quyết định hy sinh mình.
Ông đang toan tính như vậy thì kìa sứ thần Chúa hiện đến
báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít. đừng ngại đón bà Maria
vợ ông về...
Như thế chính Thiên Chúa can thiệp để thay đổi dự tính của
Giuse. Để nhấn mạnh đến khía cạnh “tôn giáo”, thần linh”, của quyết định mới mà
Giuse có, Matthêu để cho mạc khải” của mình chảy theo “thể loại văn chương”
thoáng thấy của việc “loan báo theo ngôn ngữ quen thuộc Kinh Thánh, Chúa dựng ở
đây sự can thiệp của “Thiên Thần của Chúa”, và của “giấc chiêm bao” loan tin.
Thường đó là vấn đề về các giấc chiêm bao trong Kinh Thánh và
đặc biệt trong cuộc đời của Giuse (Mt 1,20; 2,13.22).
Giuse, một anh thợ tầm thường, ở đây được gọi lên một cách trang
trọng là “con nhà Đavít”. Chính là với danh nghĩa “dòng dõi của hoàng gia” Do
Thái, mà Thiên Chúa yêu cầu ông thay đổi ý định và nhận Maria làm vợ mình. Ông
đã quyết định' “bỏ” nàng' và như thế khước từ làm cha đứa bé mà Maria mang
thai... Tình hình cũng đúng như đại tổ phụ trong đức tin, Abraham tin điều đó,
khi ông chấp nhận hy sinh con trai Ixaác của mình, thì ông xem con trai mình
như một “của lễ của Thiên Chúa” (St 22). Với Giuse, người vừa khước từ một đứa
con trai, cũng thế. “Thiên Thần của Thiên Chúa đòi ông đón nhận đứa con trai
theo cách khác: Người phải nhận đứa con như một “của lễ”, trong đức tin. Đứa
con mà ông đã khước từ theo xác thịt, thì ông lại nhận đứa con đó như “con của
lời hứa” (Gl 4,2-28).
Chắc chắn người con bà cưu mang là do quyền năng của Chúa
Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên con trẻ.
Câu văn bằng tiếng Hy Lạp được xây dựng trên sự đối lập mà chúng
ta đã nhấn mạnh; bộ phận đầu tiên của câu nói bắt đầu bằng “gar”, có nghĩa là
“quả thế, chắc chắn”. Bộ phận thứ hai của câu nói bắt đầu “dé”, có nghĩa là
“nhưng, tuy nhiên”.
Vì thế thiên thần không báo cho Giuse biết việc thụ thai đứa con
còn trinh nguyên, mà ông đã biết. Nhưng thiên thần yêu cầu ông, mặc dù ông đã
biết, là thay đổi quyết định của ông. Không những Giuse không biết mình đi như
ông tính làm, nhưng trái lại, Thiên Chúa cần ông. Thiên Chúa giao cho Giuse hai
vai trò: 1. nhận lấy Maria về nhà mình; 2. đặt tên cho con trẻ. Trong ngôn ngữ
Kinh Thánh, theo thói quen sêmít, điều ấy có nghĩa rõ ràng là “nhận lấy quyền
làm cha pháp lý” cho đứa con. Người ta hiểu tại sao Giuse đã được chào kính với
danh hiệu: Con Đavít. Chính do dòng họ Giuse mà Đức Giêsu lại trở nên con của Đavít,
để hoàn thành tất cả mọi lời hứa của Thiên Chúa” (Mt 1,1 - 9,27 - 12,28: 20,23
- 21,9).
Đối với ai hiểu văn bản này một cách sâu xa, như đa chép, Giuse
không hề thuộc về thứ nhân vật xanh xao và thụ động mà người ta dã làm biến
dạng một cách sai lầm Đó là một “người công chính” thực sự. Một người can đảm
thực sự đã thay đổi quyết định mà mmh đã có với tất cả lòng thành. Một người
tin tưởng vào người đã đòi mình một “lòng tin”, vào nhịp độ của biến cố khủng
khiếp sắp xảy ra. Và ta hãy thêm, “một người chồng” hoàn toàn hiệp thông với
lòng tin của người vợ mình. Ngày nay, tâm lý học hiện đại nhấn mạnh đến khái
niệm “đôi lứa”, “đồng trách nhiệm”. Bất chấp tất cả những cái bề ngoài hờ hợ mà
người ta có thể dừng lại, than ôi. Maria và Giuse sống, một cách vượt hẳn
thường lệ, một cuộc sống đôi lứa kết hợp một cách phi thường: họ “đối thoại” ở mức
độ sâu xa nhất, bằng cách mỗi người đi tìm ý của Thiên Chúa, và bằng cách chấp
nhận cùng một thái độ; phải vượt qua những cái nhìn nhân loại đơn giản, để có
thể tin tưởng vào một tương lai mà Thiên Chúa mở ra trước mắt họ. Và còn điều
này, bất chấp “cơn khủng hoảng”, một lúc nào đó một chuyện không thể tiên liệu
được đã tạo ra giữa họ. Như vậy trong cuộc sống chúng ta, có thể xảy ra một
tình huống bắt buộc,bất ngờ, mà khi đó dường như Thiên Chúa đến phá vỡ những dự
tính của chúng ta, tức là, trong thực tế, kêu gọi ta tiếp nhận ý chí mới của
Thiên Chúa. Nhưng đó là trong đêm tối đức tin; như trong một giấc chiêm bao ban
đêm.
Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ
cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng
nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Nây đây, Trinh nữ sẽ thụ thai
và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là
Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hai từ này là cả một nền thần học: Thiên Chúa cứu độ Thiên Chúa
ở cùng chúng ta... Giuse, lúc này, chỉ muốn có tên thứ nhất,
“Giêsu-Thiên-Chúa-cứu-độ”. Và chính Đức Giêsu Phục sinh sẽ đảm nhận tên thứ hai
hàm nghĩa Sê-mít ở cuối sách Tin Mừng: “Còn tôi, tôi ở với các ông mọi ngày cho
đến tận thế” (Mt 28,20). Con trẻ mà tôi sắp mừng lễ ngày Giáng sinh, con trẻ ấy
có đúng là Giêsu kia không? Tôi có đón nhận người như Đấng giải thoát tôi khỏi
tội lỗi của tôi không? Tôi có đón nhận dấu chỉ nhiệm tích của người không?
Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dậy và đón vợ
về nhà, ông không ăn ở với bà cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên
cho con trẻ là Giêsu.
Cuối cùng bây giờ, chúng ta tìm thấy lại cái dự tính đôi lứa
muốn hình thành lúc đầu câu truyện (“Maria thuận cưới Giuse”); dự tính này,
trong khoảnh khắc bị tan vỡ do tình huống đã gây ra khủng hoảng, và bây giờ
thành hình (nhưng khác hẳn với dự kiến (“không có quan hệ vợ chồng”), ông ấy
chẳng hề biết bà ấy”). Bản văn có một sự sáng tỏ làm lóa mắt, giống như tất cả
những gì thuộc về thần linh: Giuse. nhờ quyết định của Thiên Chúa được đồng
thuận tự do trong đức tin, đón nhận một chức năng làm cha đích thực mà không có
quan hệ xác thịt. Tôi tưởng tượng thấy điều đó, sung sướng, hồ hởi. Tất cả chuyện
đó là huyền nhiệm, như Thiên Chúa là huyền nhiệm, cũng như “Phục sinh”, như
“Thánh Thể” đều là huyền nhiệm.
24. Chúa ở cùng chúng ta – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, Chúa đã nhập thể làm
người để con người làm con Thiên Chúa. Ðây là một ân huệ cao qúy mà Chúa đã
dành cho loài thụ tạo chúng ta. Ngài chính là Emanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng
ta. Ngài còn tự đồng hoá mình trong những mảnh đời bất hạnh mà chúng ta gặp gỡ
bên đường.
Người ta kể rằng: có một người đạo đức thánh thiện kia, đêm
ngày hằng ao ước được tiếp đón Chúa một lần trong đời. Với ước nguyện chân
thành, Thiên Chúa đã nói với ông qua giấc ngủ: "ngày mai Ta sẽ đến viếng
thăm ông". Thế là ông đã bắt đầu một ngày mới tràn đầy niềm vui vì nỗi
niềm khát khao của mình sắp được toại nguyện. Ông chuẩn bị phòng ốc sạch sẽ,
chuẩn bị tiệc tùng thiết đãi Chúa và ra tận ngoài cổng để đón tiếp Chúa. Thế
rồi khi ánh bình minh xuất hiện ông thấy một lão ăn xin, rách rưới tả tơi đến
xin ông chút cơm bánh lót dạ, ông đã vô tình xua đuổi vì ông đang nóng lòng chờ
đợi vị thượng khách. Rồi tiếp sau là một người lữ hành, nỡ đường nỡ bước đang
cần sự nâng đỡ của ông, nhưng ông vẫn từ chối. Và khi bóng chiều đã ngả sau
lưng đồi ông lại thấy một phụ nữ ốm yếu, bệnh tật đến nương nhờ ông đã làm ngơ trước
lời van xin. Cuối cùng, đêm về ông trách Chúa, tại sao không đến thăm ông như
đúng lời đã hứa. Chúa đã nói với ông: "Hôm nay, Ta đã đến với ngươi ba lần
nhưng đều bị ngươi khước từ".
Vâng, Chúa đã đến và ở giữa nhân loại đã được các tiên tri loan
báo qua mọi thời đại, đến nỗi một nhà thơ đã từng thốt lên: "Giêsu - Giêsu
không bỗng dưng mà có - Cả pho Cựu ước còn đó - Trăn trở bao đời mới sinh hạ
Giêsu". Và khi thời gian đến hồi viên mãn, ngài đã hạ sinh làm người và ở
giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong một cung điện nguy nga, tráng lệ,
nhưng sinh ra giữa đám dân nghèo cùng cực, Ngài ở giữa chúng ta để chia sẻ cảnh
đời tha hương khốn cùng nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư - chết vô địa
táng". Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm
nổi trôi, con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng chính Ngài lại không có nơi
gối đầu". Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu của mình cho những
người bất hạnh vì ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một
tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là những người thu thuế và gái điếm,
vì sứ mệnh của Ngài đến trần gian là để cứu vớt những gì đã mất.
Kính thưa qúy ông bà và anh chị em,
Lời báo mộng của thiên sứ với thánh Giuse dường như vẫn vang
vọng nơi tâm hồn chúng ta, Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, ngài đang
hiện diện nơi những người nghèo đói, tật nguyện, nơi những người bất hạnh, bị
ngược đãi, bị bỏ rơi, Ngài đang cần chúng ta gạt ra ngoài những toan tính trần
thế, những nghi nan, khó khăn để mạnh dạn và quảng đại đón nhận những anh em
hèn yếu, đói khổ đang cần sự trợ giúp của chúng ta. Vâng chính Ngài đã đồng hoá
mình với tất cả những người khốn khó đó, vì chính Ngài đã nói: "Hỡi những
kẻ được Cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho
các người, vì khi xưa Ta đói, Ta khát, Ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược
đãi các ngươi đã cho ăn cho uống và tiếp rước.
Song le, Chúa Giêsu cũng đang cần chúng ta trở nên dấu chỉ cho
sự hiện diện của Chúa giữa thế giới hôm nay. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã cần sự
cộng tác của thánh Giuse để ngài có một vị trí trong xã hội, được sinh ra trong
một gia đình, một dòng tộc vua Davít, thì ngày nay, Ngài cũng cần sự cộng tác
của chúng ta để Ngài lại tiếp tục sinh ra giữa dòng đời hôm nay. Nơi nào có sự
hiện diện của Chúa nơi đó có yêu thương, nơi nào có sự hiện diện của Chúa nơi
đó có an bình hạnh phúc. Thực vậy, con người ngày nay đang cố gắng bon chen để
dành cho mình có lắm của nhiều tiền, có một địa vị cao trong xã hội đến nỗi sẵn
sàng chà đạp lên anh em mình, bất chấp lề luật của Chúa nên chính họ luôn mất
bình an và làm cho cuộc sống chung quanh trở nên nặng nề vì nghi kỵ, ghen tương
và hận thù.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa
được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta, và trong môi trường sống quanh
ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý
Chúa, đừng sợ những nghi nan, những khó khăn khi phải tuân theo thánh ý Chúa,
vì chính Chúa sẽ tháo gỡ những nghi nan và ban ơn bình an cho những ai thành
tâm thiện chí sống theo lời Ngài. Noi gương thánh Giuse, mỗi người chúng ta hãy
biết đón nhận Chúa vào trong cuộc đời mình và qua đời sống tuân hành thánh ý
Chúa, chúng ta gieo vãi niềm vui và sự an bình của Chúa cho anh chị em chung
quanh. Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là
Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chung quanh chúng ta. Xin Chúa
Giêsu là Ðấng Emmanul luôn hiện diện sống động trong cuộc đời của từng người chúng
ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui ân thánh trong ngày mừng Chúa giáng sinh.
Amen.
25. Emmanuel Thiên Chúa ở cùng chúng ta
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Việc đặt tên cho con là việc quan trọng đối với các đôi vợ chồng.
Khi có con sắp chào đời, hai vợ chồng bàn bạc với nhau để chọn cho con mình một
cái tên thật ý nghĩa, thật đẹp, thật hay.
Qua việc đặt tên, cha mẹ gửi gắm ước vọng của mình vào đó. Tỷ
như khi đặt tên cho con là Phúc, Đức, Tài, Lộc… cha mẹ cầu mong cho con mình
sau nầy đạt được những điều tốt đẹp y như tên gọi của các em.
Trích đoạn Tin Mừng theo thánh Matthêu trong Chúa Nhật thứ tư
mùa Vọng nầy đề cập đến tên gọi mà Thiên Chúa Cha đã chọn cho Ngôi Lời nhập thể
trước khi Người đầu thai trong lòng Mẹ Maria. Tên gọi nầy đã được ngôn sứ
I-sai-a tiên báo từ hơn bảy trăm năm trước: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và
sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là
"Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt 18,23)
Đây là một tên gọi thật ý nghĩa; tên gọi nầy nói lên ước vọng
của Thiên Chúa là muốn ở mãi với loài người khắp mọi nơi, suốt mọi thời cho đến
tận cùng thời gian.
Đức cha Gaillot có nhận định rất hay: “Sống rộng lượng là
tốt, nhưng sống-với tốt hơn; công việc từ thiện là cần thiết, nhưng
hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn.”
Đúng thế, dù chúng ta có rộng lượng với người nghèo khổ bao
nhiêu cũng không bằng đến sống-với họ, chia sẻ buồn vui cay đắng với họ. Dù
chúng ta có làm bao nhiêu việc từ thiện để giúp cho người đau khổ cũng không
bằng đến hiện-diện-bên-cạnh họ trong những lúc đau thương.
Vì yêu thương loài người quá đỗi nên Thiên Chúa muốn sống-với
con người, muốn hiện-diện-bên-cạnh con người mọi lúc mọi nơi. Danh hiệu
Em-ma-mu-en gói trọn ước vọng của Thiên Chúa muốn ở mãi với loài người.
Ước vọng nầy cũng được Chúa Giêsu khẳng định lại khi Người sắp
từ giã các môn đệ: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20)
Để thực hiện ước muốn ở với loài người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã
vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất để ở cùng chúng ta, đã
mang thiên tính cao cả của Thiên Chúa hòa chung với nhân tính hèn yếu của con
người, để chia sẻ thân phận đau thương của kiếp người.
Ngay cả khi Chúa Giêsu được Chúa Cha vinh thăng trên các tầng
trời, chấm dứt sự hiện diện hữu hình bị giới hạn bởi không gian và thời gian ở
trên mặt đất, thì Người vẫn tiếp tục hiện diện cách thiêng liêng trong tâm hồn
của các tín hữu và trong Hội Thánh.
- Chúa Giêsu tiếp tục ở với chúng ta qua Lời của Người: chính
Thiên Chúa ngỏ lời với ta khi Giáo Hội công bố Lời Chúa.
- Chúa Giêsu tiếp tục ở với chúng ta khi chúng ta họp nhau nhân
danh Người: “Khi có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở giữa những
người đó.”
Chúa Giêsu cùng với Chúa Cha và Thánh Thần thường xuyên cư ngụ
trong lòng những kẻ yêu mến và tuân giữ Lời Người: "Ai yêu mến Thầy, thì
sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại
với người ấy.” (Ga 14,23)
Thế nhưng bấy nhiêu cũng chưa thoả lòng yêu thương nên Chúa
Giêsu còn lập nên bí tích Thánh Thể, hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu để
cho chúng ta được rước Chúa vào lòng, để chúng ta được trở nên đồng huyết nhục
với Chúa, được sống trong Chúa và Chúa sống trong chúng ta.
Nguyện vọng tha thiết nhất của Thiên Chúa là ở với loài người
mọi ngày cho đến tận thế. Và điều đau lòng nhất của Thiên Chúa là bị nhân loại
từ khước như thánh Gioan nhận định trong Tin Mừng thứ tư. “Người ở giữa thế
gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã
đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1, 10-11)
Mỗi ngày, chúng ta đang giáp mặt với nhiều hạng người, kẻ xa,
người gần, đang đến với chúng ta. Họ là hiện thân của Đức Em-ma-nu-en. Ước gì
chúng ta biết mở rộng trái tim để đón tiếp Người và dành cho Người một chỗ đứng
quan trọng trong lòng chúng ta.
26. Truyền tin cho ông Giuse
(Suy niệm của Lm. Giuse Dương Hữu Tình)
Chúng ta đã bước vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Ở Chúa
nhật này, Giáo hội mong muốn chúng ta thực sự chuẩn bị tâm hồn xứng đáng cho
Đại Lễ Giáng Sinh sắp tới. Bởi thế, Giáo hội đưa ra tấm gương rất tiêu biểu như
là khuôn mẫu cho một tâm hồn được chuẩn bị sẵn cho Con Thiên Chúa giáng trần.
Khác Chúa nhật năm B và C, Giáo hội đưa ra khuôn mẫu là Mẹ Maria. Chúa nhật IV
Mùa Vọng năm A này, Giáo hội muốn chúng ta hướng lòng về một khuôn mặt đặc biệt
khác, đó là Thánh Giuse với biến cố được gọi là “Truyền tin cho ông Giuse”.
Vẻn vẹn chỉ 8 câu Phúc Âm ngắn gọn mà đã toát lên gần như trọn
vẹn khuôn mặt mẫu mực và rất đáng yêu của Thánh Giuse. Chuyện bắt đầu từ việc
Mẹ Maria mang thai mà Thánh Giuse không hay biết gì về nguồn gốc. Thánh Giuse
thấy thế thế định bỏ Mẹ Maria, nhưng Ngài được giải thích qua giấc mộng. Thế là
Thánh Giuse không bỏ Đức Mẹ nữa mà đón Mẹ về nhà mình. Chuyện chỉ có thế thôi
nhưng qua sự kiện này, nhân đức của Thánh Giuse được dịp tỏa sáng. Tỏa sáng như
thế nào? Thánh sử Matthêu đã trả lời cho chúng ta khi ngài nói về Thánh Giuse
một cách rất ngắn gọn: “Ông Giuse, chồng bà, là người công chính”. Nếu không phải
là một người công chính, thì sự việc đã xảy ra khác nhiều. Nếu không phải là
người công chính thì không ai có thể biết số phận con trẻ trong lòng Mẹ Maria
sẽ ra sao? nếu không phải là người công chính thì chương trình cứu độ của Thiên
Chúa làm sao có thể tiếp tục một cách tốt đẹp?
Thánh Giuse là người công chính, nên đã định tâm bỏ Đức Mẹ. Ông
định bỏ Đức Mẹ ít là vì hai lý do này: trước hết vì là người chồng, nên
ngài hiểu vợ mình: “Ông Giuse, chồng bà”. Thánh Giuse hiểu Đức Maria
hơn ai hết, nên ngài tin Đức Mẹ. Ngài biết thai nhi trong lòng mẹ do một quyền
năng siêu nhiên nào đấy can thiệp và dường như càng lúc ngài càng cảm thấy
Quyền năng ấy choáng ngập vợ mình, dành riêng vợ mình cho một sứ mạng lớn lao khác.
Là một người đạo đức, công chính, ông lặng lẽ rút lui.
Lý do thứ hai: chính vì là một người công chính,
Thánh Giuse sớm nhận ra đâu là dấu vết của Thiên Chúa và đâu là dấu vết của tà
thần. Đó là tâm trạng chung của những tâm hồn đạo đức thánh thiện. Càng đạo đức
bao nhiêu thì càng dễ phân biệt đâu là thánh đâu là tà, càng công chính bao
nhiêu thì càng bén nhậy trước thánh ý Thiên Chúa bấy nhiêu. Vì thế, Thánh Giuse
sớm nhận ra bàn tay vô hình của Thiên Chúa đang can thiệp vợ mình. Phản ứng của
ông cũng giống tâm trạng của những người công chính trong Cựu Ước, đó là rút
lui. Ông sợ không dám tiết lộ với ai, cũng không dám nhận một người như thế làm
vợ, ông âm thầm bỏ đi.
Chính lúc đó, Thiên Chúa can thiệp. Ngài cho Thánh Giuse hiểu
rằng Ngài muốn dùng cả bản thân Thánh Giuse cho chương trình vĩ đại của Ngài.
Thánh Giuse quả là một con người vĩ đại. Ngài sớm nhận ra ngay
chương trình của Chúa, ông “làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình”.
Thiên Chúa luôn có sẵn chương trình của Ngài và chương trình nào
cũng vì yêu và làm đẹp cho con người. Đáng tiếc ngày nay người công chính ít
quá, nên công trình của Chúa bị hỏng nhiều.
Lạy Chúa, xin soi cho con biết ý Chúa trong cuộc đời con và
xin cho con đủ sức để mau mắn thi hành.
27. Thiên Chúa ở cùng chúng ta
(Suy niệm của Phanxico Xavie)
Cô đơn là đe dọa lớn nhất đối với hạnh phúc. Người cô đơn không
tìm thấy lời đáp cho các vấn nạn của đời mình. Họ trở thành người bất hạnh,
tuyệt vọng, vì luôn phải đối diện với cái phi lý. Emmanuel, Đấng ở cùng chúng
ta sẽ cứu chúng ta khỏi nỗi niềm cô đơn tuyệt vọng ấy, vì Chúa đến trần gian
này để chia sẻ với chúng ta thân phận làm người. Chính niềm tin ở Chúa, Đấng
đến với chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, sẽ cứu chúng ta khỏi cuộc sống vô nghĩa.
Thiên Chúa sẵn sàng can thiệp khi chúng ta hoang mang trong tăm tối nếu chúng
ta có lòng trông cậy vào Người.
Thời vua Akhaz trị vì Giu-đa cũng vậy, bị tranh chấp trong nội
bộ vương quốc, bị đe dọa bởi các nước láng giềng. Vua Akhaz nghĩ đến việc nhờ
ngoại binh giúp đỡ. Tiên tri Isaia khuyên ông không nên làm thế. Ông tin vào
hòa ước với người Assyri hơn là tin vào Thiên Chúa. Đống thời ông tiếp tục
đường lối tội lỗi, lập nhiều đền thờ tà thần. Nhưng Chúa vẫn đến như lời tiên
tri Isaia đã loan báo. Để bảo đảm lời khuyên của mình, cũng như để củng cố niềm
tin cho nhà vua và dân chúng, một lần nữa nhà tiên tri thúc giục vua Akhaz đặt
niềm tín thác vào Thiên Chúa hơn là dựa vào sức mạnh liên minh quân sự. Đức tin
mà ngôn sứ Isaia đòi hỏi, bao hàm một sự tín nhiệm tuyệt đối vào Thiên Chúa.
Nhưng ông vẫn không nghe và sai sứ ra ngoại quốc xin viện binh. Vì không nghe
theo lời khuyên khôn ngoan của nhà tiên tri, vua Akhaz sẽ bị trừng phạt và
vương quốc của ông bị tàn phá. Nhưng vì lòng thương xót, qua Tiên tri Isaia
Thiên Chúa đã cho ông một dấu chỉ nói lên ý muốn của Người sẽ hiện diện giữa
dân và cứu thoát họ. Đức Chúa ban cho vua Akhaz một dấu hiệu: từ dòng dõi ông,
một người con sẽ chào đời, chính người con này sẽ giúp giải thoát dân. Sự long
trọng của lời sấm cũng như cái tên biểu tượng Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng
ta) đặt cho con trẻ, làm cho người ta thấy trong cuộc sinh hạ này một điều gì
khác hơn nữa. Đó là sự can thiệp của Thiên Chúa để thiết lập hẳn một triều đại
Messia. Người con này là Ezêkia, một vị vua tuyệt vời. Ông là hình ảnh của Đấng
Messia và mẹ ông là hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là những dấu chỉ để
hướng tới việc chuẩn bị chờ đón Chúa Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô - Đấng Emmanuel
đích thực.
Trong trình thuật của bài Tin Mừng Mt 1, 18-24, Matthêu trích
dẫn lời Tiên tri Isaia ngày trước nhằm minh chứng Chúa Giêsu đã nhập thể trong
cung lòng Trinh Nữ Maria để thực hiện lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa qua miệng
Tiên tri Isaia với vua Akhaz. Đoạn Tin Mừng cho thấy vai trò cao trọng của
Thánh Giuse được chọn làm cha Chúa Giêsu theo luật pháp. Đồng thời cho chúng ta
biết, Con Một Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền
năng Chúa Thánh Thần.
Sự công chính của thánh Giuse trong bài Tin Mừng không thể hiểu
đơn giản là sự công chính theo lề luật, mà là sự công chính mang ý nghĩa tôn
giáo, đó là vì Ngài biết tôn trọng công trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và
vâng nghe thánh ý Người. Mặc dù đã âm thầm từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà
Chúa không ủy thác. Nhưng sau khi được Thiên sứ báo mộng, biết ý định của Thiên
Chúa mời gọi tham dự vào chương trình của Ngài. Thánh Giuse không từ chối, mà
trỗi đậy thực hiện lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính hành động này làm cho
thánh Giuse trở thành người cộng tác tích cực trong công trình cứu độ của Thiên
Chúa, và nên người công chính. Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu. Đến lượt mỗi người
chúng ta cũng phải biết lắng nghe và đón Chúa đến trong cuộc đời, trong gia
đình mình.
Thiên Chúa đến ở với chúng ta chính vì yêu thương và ban tặng
hạnh phúc cho nhân loại. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có bình an, hoan lạc và tình
yêu. Nhưng để cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại niềm vui và
hạnh phúc không phải là điều dễ dàng. Cần phải có niềm tin, phải chuyên cần cầu
nguyện và nhất là cần phải gắn bó với Chúa luôn trong Bí tích Thánh Thể.