Sống đức tin _ cuộc phỏng vấn ĐTC Phanxicô

Cuộc phỏng vấn độc quyền
Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Tháng Tám vừa qua, Linh Mục Antonio Spadaro, Dòng Tên, chủ bút tạp chí La Civiltà Cattolica của Dòng này tại Ý, đã tiến hành cuộc phỏng vấn độc quyền Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại Casa Santa Marta, nơi cư ngụ hiện nay ngài.
Vũ Văn An (americamagazine. org/pope-interview)
Cuộc phỏng vấn này được thực hiện nhân danh tờ La Civiltá Cattolica, tờ America và một số tập san của Dòng Tên khắp thế giới. Ban biên tập của mỗi tạp chí này gửi tới Cha Sparado các câu hỏi của họ. Cha Sparado tổng hợp và sắp xếp các câu hỏi này và tiến hành cuộc phỏng vấn bằng tiếng Ý. Sau khi được chính thức chấp thuận, văn bản cuộc phỏng vấn đã được tạp chí America chuyển qua tiếng Anh. Nội dung bài viết của Vietcatholic dựa trên bản tiếng Anh này.
Cha Sparado khởi đầu bài tường trình cuộc phỏng vấn của ngài bằng cách mô tả nơi Đức Giáo Hoàng hiện đang cư ngụ. Khung cảnh hoàn toàn đơn giản và khắc khổ. Chỗ làm việc của ngài khá nhỏ, chung quanh chiếc bàn giấy. Cha Sparado có ấn tượng mạnh không chỉ vì nét đơn giản của bàn ghế mà cả các vật dụng khác trong căn phòng nữa: chúng rất ít. Bao gồm ảnh Thánh Phanxicô, tượng Đức Mẹ Luján, quan thầy Á Căn Đình, tượng chịu nạn và tượng Thánh Giuse đang an giấc. Nền linh đạo của Jorge Mario Bergoglio không được tạo nên bằng “các năng lực hoà hợp” như ngài quen nói, mà bằng những khuôn mặt người: Chúa Kitô, Thánh Phanxicô, Thánh Giuse, và Đức Mẹ.
Đức Giáo Hoàng nói tới chuyến tông du Ba Tây. Ngài coi đó là một hồng ân thực sự, Ngày Giới Trẻ Thế Giới đối với ngài là một “huyền nhiệm”. Ngài cho hay ngài không quen nói chuyện với nhiều người đến thế: “Tôi có thể nhìn những con người cá thể, từng người một, để tiếp xúc một cách bản vị với người ở trước mặt tôi. Tôi không quen với đám đông”. Đức Giáo Hoàng nói thế. Ngài cũng nói tới thời điểm trong cơ mật viện bầu giáo hoàng khi ngài bỗng hiểu ra ngài có thể được bầu làm giáo hoàng. Giờ ăn trưa vào thứ Tư, 13 tháng Ba, ngài cảm thấy một niềm thanh thản và an ủi nội tâm sâu xa và khó giải thích tràn ngập tâm hồn ngài, nhưng đồng thời cũng là một bóng tối trùm phủ. Các cảm nhận này cứ theo đuổi ngài hoài cho tận lúc ngài được bầu vào chiều hôm đó.
Trước đó, ngài cho biết khó khăn lớn của ngài trong việc chấp nhận phỏng vấn. Ngài nói rằng ngài thích suy nghĩ hơn là đưa ra câu trả lời tại chỗ ngay trong các cuộc phỏng vấn. Trong cuộc phỏng vấn này, nhiều lần Đức Giáo Hoàng tạm ngưng điều ngài đang trả lời một câu hỏi để thêm một điều gì đó vào câu trả lời trước đó. Việc ghi chép lời của ngài, vì thế, mang lại cho Cha Sparado cảm giác khó chịu vì cứ phải cố gắng hãm dẹp nguồn cảm hứng đối thoại.
Jorge Mario Bergoglio là ai?
Cha Sparado đặt câu hỏi huỵch toẹt với Đức Phanxicô: “Jorge Mario Bergoglio là ai?” Ngài im lặng nhìn trừng trừng vào cha. Cha hỏi ngài xem cha có thể hỏi câu hỏi đó hay không. Ngài gật đầu và trả lời: “Tôi không biết đâu mới là câu mô tả xứng hợp nhất. . . Tôi là kẻ tội lỗi. Đây là định nghĩa chính xác nhất. Không phải là văn vẻ hoa mỹ, văn chương. Tôi là kẻ tội lỗi”.
Đức Giáo Hoàng tiếp tục suy nghĩ và tập trung, như thể ngài không chờ câu hỏi này, như thể ngài buộc phải suy nghĩ thêm. “Đúng, có lẽ tôi có thể nói thế này tôi có hơi lanh trí một chút, tôi có thể thích ứng với hoàn cảnh, nhưng cũng đúng là tôi có hơi ngây thơ. Đúng, nhưng điều tóm tắt hay hơn cả, điều phát xuất từ bên trong hơn cả, và là điều tôi cảm thấy đúng hơn cả là: tôi là kẻ tội lỗi mà Chúa đã đoái nhìn”. Rồi ngài nhắc lại: “Tôi là kẻ được Chúa đoái nhìn. Tôi luôn cảm nhận khẩu hiệu của tôi Miserando atque Eligendo [xót thương và tuyển chọn], thật chân thực đối với tôi”.
Khẩu hiệu này lấy từ Các Bài Giảng của Thánh Bede Đáng Kính, người đã viết như thế trong bài chú giải câu truyện Chúa chọn Mátthêu trong Tin Mừng: “Chúa Giêsu thấy người thu thuế, và vì Người nhìn ông với những tâm tình yêu thương và quyết định chọn ông, nên Người nói với ông, ‘hãy theo Ta’”. Đức Giáo Hoàng nói thêm: “tôi nghĩ thể danh động từ (gerund) miserando của La Tinh khó có thể dịch qua cả tiếng Ý lẫn tiếng Tây Ban Nha. Tôi thích dịch chữ này bằng một danh động từ khác vốn không có là misericordiando [“tỏ dạ xót thương”].
"Việc Kêu Gọi Thánh Mátthêu" của Caravaggio
Đức Giáo Hoàng Phanxicô tiếp tục các suy nghĩ của ngài rồi nói bằng cách nhẩy qua chủ đề khác: “tôi không biết Rôma bao nhiêu. Tôi biết ít điều lắm. Trong những điều này có Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả; tôi thường luôn tới đó. Hiện nay, tôi biết Nhà Thờ Đức Bà Cả, Nhà Thờ Thánh Phêrô. . . nhưng trước đây, khi phải tới Rôma, tôi luôn cư ngụ ở [khu] Via della Scrof. Từ khu đó, tôi thường đi viếng Nhà Thờ Thánh Louis Vua Nước Pháp, và tôi tới đó để chiêm ngưỡng bức tranh ‘Việc Kêu Gọi Thánh Mátthêu’ của Caravaggio.
“Ngón tay Chúa Giêsu đó chỉ thẳng vào Mátthêu. Chính là tôi. Tôi cảm thấy giống ngài. Giống Mátthêu”. Lúc này, Đức Giáo Hoàng trở nên cương quyết hẳn ra, như thể cuối cùng ngài đã tìm được hình ảnh hằng mong chờ: “Chính cử chỉ của Mátthêu làm tôi chú ý: ngài giữ chặt lấy túi tiền, như thể muốn nói: ‘Không, không phải con! Không, tiền này mới là của con’. Đó, tôi đó, một kẻ tội lỗi mà Chúa đã ghé mắt trông đến. Và đó là điều tôi đã nói ra khi người ta hỏi xem tôi có chấp nhận việc bầu tôi làm giáo hoàng hay không”. Rồi Đức Giáo Hoàng thủ thỉ bằng tiếng La Tinh: “tôi là kẻ có tội, nhưng tôi tin tưởng vào lòng thương xót và nhẫn nại vô hạn của Chúa Giêsu Kitô, và tôi chấp nhận trong tinh thần sám hối”.
Tại sao trở thành tu sĩ Dòng Tên?
Cha Sparado tiếp tục: “Thưa Đức Thánh Cha, điều gì khiến ngài quyết định gia nhập Dòng Chúa Giêsu? Điều gì khiến ngài chú ý tới Dòng Tên?”.
“Tôi muốn một điều gì đó hơn nữa. Nhưng không biết nó là điều gì. Tôi nhập chủng viện của giáo phận. Tôi thích Dòng Đa Minh và có khá nhiều bạn bè Đa Minh. Nhưng rồi, tôi chọn Dòng Chúa Giêsu, mà tôi biết khá rõ vì chủng viện vốn được trao phó cho Dòng Tên. Có ba điều đặc biệt khiến tôi lưu ý tới Dòng này: tinh thần truyền giáo, cộng đoàn và kỷ luật. Và điều đó thật lạ, bởi vì tôi thực sự, vâng, thực sự là một người vô kỷ luật. Nhưng kỷ luật của họ, cách họ xử lý thời gian, những điều này làm tôi lưu ý rất nhiều.
“Và rồi điều này mới thực sự quan trọng đối với tôi: cộng đoàn. Tôi luôn luôn tìm kiếm một cộng đoàn. Tôi không coi tôi như một linh mục ‘tự mình ên’. Tôi cần một cộng đoàn. Và cha có thể biết điều này do sự kiện tôi ở đây, ở Santa Marta này. Trong thời gian cơ mật viện bầu giáo hoàng, tôi ở Phòng 207. (Các phòng được bốc thăm). Căn phòng hiện chúng ta đang ngồi vốn là phòng dành cho khách. Tôi chọn sống ở đây, ở Phòng 201, vì khi tôi nhận căn hộ vốn dành cho giáo hoàng, tôi nghe mồn một tiếng “không” phát lên tự trong mình. Căn hộ dành cho giáo hoàng trong Tông Điện không sang trọng gì. Nó rất cũ, tuy trang trí đẹp đẽ và rộng rãi, nhưng không xa xỉ chi. Nhưng xét cho cùng, nó giống như chiếc phễu lộn ngược. Tuy rộng và khoảng khoát, nhưng lối vào lại hết sức hẹp. Người ta chỉ có thể vào đó một cách nhỏ giọt, mà tôi thì lại không thể sống thiếu người ta. Tôi cần sống cuộc sống của mình với người khác.
Có ý nghĩa gì khi một tu sĩ Dòng Tên làm Giám Mục Rôma?
Cha Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng Phanxicô về sự kiện ngài là tu sĩ Dòng Tên đầu tiên được bầu làm Giám Mục Rôma: “Đức Thánh Cha hiểu như thế nào về vai trò phục vụ Giáo Hội hoàn vũ, mà ngài được mời gọi thủ diễn, dưới ánh sáng linh đạo Inhã? Có ý nghĩa gì khi một tu sĩ Dòng Tên được bầu làm giáo hoàng? Yếu tố nào trong linh đạo Inhã giúp ngài chu toàn thừa tác vụ của mình?”
Đức Giáo Hoàng trả lời: “Biện phân. Biện phân là một trong những điều thành công của Thánh Inhã. Đối với ngài, nó là khí cụ chiến đấu để nhận biết Chúa và theo chân Người sát nút. Tôi luôn thán phục câu nói vốn mô tả được viễn kiến của Thánh Inhã: non coerceri a maximo, sed contineri a minimo divinum est (“không bị giới hạn bởi điều lớn nhất, nhưng lại bị nén lại trong điều nhỏ nhất, đó là thần linh”). Tôi suy nghĩ nhiều về câu nói này liên quan tới vấn đề các vai trò khác nhau trong việc cai quản Giáo Hội, liên quan tới việc trở thành bề trên của người khác: điều quan trọng là không bị hạn chế bởi không gian lớn hơn, và quan trọng là có khả năng sống trong các không gian nhỏ hẹp. Nhân đức lớn nhỏ này chính là lòng hào hiệp (magnanimity). Nhờ lòng hào hiệp, ta luôn thấy được chân trời từ chỗ mình đứng. Nghĩa là có khả năng làm những điều nhỏ bé hằng ngày với một trái tim to lớn mở sẵn cho Thiên Chúa và người khác. Nghĩa là có khả năng quí chuộng những điều nhỏ nhặt ngay bên trong những chân trời bao la, những chân trời của Nước Thiên Chúa.
Đức Giáo Hoàng nói tiếp “Khẩu hiệu này giúp ta các thông số để chọn được một chủ trương đúng cho biện phân, hòng nghe được những điều thuộc về Chúa từ chính ‘quan điểm” của Người. Theo Thánh Inhã, các nguyên tắc lớn phải được hội nhập vào hoàn cảnh không gian, thời gian và con người. Đức Gioan XXIII, theo cung cách riêng, đã thích ứng thái độ của ngài đối với việc cai quản Giáo Hội, khi nhắc lại khẩu hiệu, ‘Nhìn mọi sự; phớt lờ phần lớn; sửa sai chút đỉnh’. Đức Gioan XXIII đã thấy đủ điều, đó là chiều kích tối đa, nhưng ngài quyết định sửa sai chút đỉnh, đây là chiều kích tối thiểu. Cha có thể có những dự án lớn lao và thi hành các dự án này nhờ dùng một ít những điều bé nhỏ nhất. Hoặc cha có thể dùng những phương tiện yếu nhưng lại hữu hiệu hơn những phương tiện mạnh, như chính Thánh Phaolô đã nói trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô.
 “Việc biện phân này cần thời gian. Thí dụ, nhiều người nghĩ rằng thay đổi và cải tổ có thể diễn ra trong đoản kỳ. Tôi tin rằng ta luôn cần thời gian để đặt nền cho một thay đổi có thực chất, có hiệu quả. Và đây là thời gian để biện phân. Đôi khi biện phân lại thúc đẩy ta làm điều mà thoạt đầu ta nghĩ mình sẽ làm sau này. Và đó là điều đã xẩy ra với tôi trong những tháng vừa qua. Biện phân luôn được thực hiện trước mặt Chúa, bằng cách nhìn các dấu chỉ, lắng nghe những điều xẩy tới, cảm nhận của người ta, nhất là người nghèo. Các quyết định của tôi, trong đó, có các quyết định liên quan tới các khía cạnh thường nhật của cuộc sống, như việc sử dụng chiếc xe khiêm tốn, đều liên quan tới việc biện phân thiêng liêng nhằm đáp ứng một nhu cầu phát sinh từ việc quan sát sự việc, quan sát người và từ việc đọc các dấu chỉ thời đại. Biện phân trong Chúa hướng dẫn tôi trong cách thế cai quản.
“Nhưng tôi luôn lo lắng trước các quyết định vội vàng. Tôi luôn lo lắng trước các quyết định lần đầu, nghĩa là những việc đầu tiên xuất hiện trong trí óc tôi khi tôi phải đưa ra quyết định. Thông thường điều ấy hay sai lầm lắm. Tôi phải chờ đợi và lượng giá, nhìn sâu vào mình hơn, phải có thời gian cần thiết. Sự khôn ngoan của biện phân luôn cứu vớt ta trong cảnh hàm hồ tất yếu của cuộc sống và giúp ta tìm được phương thế thích đáng nhất, là những phương thế không luôn trùng hợp với những chuyện xem ra lớn lao và mạnh mẽ”.
Dòng Chúa Giêsu
Bởi thế, biện phân là cột trụ trong linh đạo của Đức Phanxicô. Nó đặc biệt nói lên bản sắc Inhã của ngài. Cha Sparado, sau đó, hỏi ngài xem Dòng Chúa Giêsu có thể phục vụ Giáo Hội ngày nay cách nào, đâu là các đặc điểm, nhưng cũng là các thách thức có thể có đối với Dòng Chúa Giêsu.
Đức Thánh Cha trả lời: “Dòng Chúa Giêsu là một định chế đang gặp căng thẳng, xét về căn bản, luôn luôn căng thẳng. Tu sĩ Dòng Tên là người không tập chú vào chính mình. Dòng luôn tìm tâm điểm ở bên ngoài mình; tâm điểm của Dòng là Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Do đó, nếu Dòng lấy Chúa Kitô và Giáo Hội Người làm trung tâm, thì nó có hai điểm qui chiếu nền tảng để giữ được cân bằng và có khả năng sống ở bên lề, ở tuyến đầu. Nếu nó quá lưu ý tới chính mình, tự đặt mình vào trung tâm như một cơ cấu kiên cố, ‘trang bị’ cùng mình, thì nguy cơ là nó sẽ cảm thấy an ổn và tự mãn. Lúc nào, Dòng cũng phải nhớ câu này Deus semper maior, Thiên Chúa luôn cao cả hơn, phải mưu tìm vinh quang mỗi ngày mỗi cao cả hơn của Thiên Chúa, phải coi Giáo Hội như hiền thê đích thực của Chúa Kitô, Chúa chúng ta, phải coi Người là vua, Đấng đã chinh phục ta và là Đấng ta hiến trọn con người ta và trọn lao công của ta, dù ta chỉ là bình đất, bất xứng. Sức căng này liên tục đẩy ta ra khỏi mình. Như thế, khí cụ làm cho Dòng Chúa Giêsu không lấy mình làm trung tâm, thực sự mạnh mẽ, chính là việc trình bày lương tâm, một việc vừa có tính phụ thân vừa có tính huynh đệ, vì nó giúp Dòng chu toàn được sứ mệnh của mình cách tốt đẹp hơn”.
Đức Phanxicô có ý nhắc tới đòi hỏi trong Hiến Pháp Dòng Tên buộc tu sĩ Dòng phải “bộc bạch lương tâm”, nghĩa là, tình trạng thiêng liêng bên trong của mình, để bề trên ý thức và hiểu biết nhiều hơn khi gửi một người đi thi hành sứ mệnh.
Ngài nói tiếp: “Nhưng khó có thể nói về Dòng. Nói nhiều quá, cha sẽ liều mình bị hiểu sai. Chỉ có thể mô tả Dòng Chúa Giêsu bằng hình thức thuật truyệt. Chỉ bằng hình thức kể truyện này, cha mới có thể biện phân, chứ không phải qua lối giải thích triết lý hay thần học, một lối giúp cha thảo luận thì đúng hơn. Phong cách Dòng Tên không được lên khuôn nhờ thảo luận, mà nhờ biện phân, dĩ nhiên biện phân này giả thiết trước đó phải có thảo luận như một phần của diễn trình. Chiều kích huyền nhiệm của biện phân không bao giờ định ra góc cạnh cho nó và không kết thúc tư duy. Tu sĩ Dòng Tên phải là một người mà tư duy luôn luôn chưa hoàn tất, theo nghĩa một tư duy vẫn mở cửa. Trong Dòng, đã từng có những thời kỳ trong đó tu sĩ Dòng Tên sống trong một môi trường tư duy khép kín và cứng ngắc, nặng về khổ tu dạy dỗ hơn là huyền nhiệm: việc bóp méo cuộc sống Dòng Tên như thế đã phát sinh ra Epitome Instituti”.
Đức Giáo Hoàng có ý nói tới cuốn tóm lược, viết ra vì các mục đích thực tiễn, có lúc được coi như để thay thế Hiến Pháp của Dòng. Trong một thời gian, việc huấn luyện các tu sĩ Dòng Tên đã được hướng dẫn bởi bản văn này, đến độ, một số tu sĩ không bao giờ đọc chính Hiến Pháp của Dòng. Theo Đức Giáo Hoàng, trong thời kỳ này, các qui luật có nguy cơ trấn áp tinh thần, và Dòng Tên rơi vào cơn cám dỗ muốn giải thích và định tính đặc sủng của mình một cách quá hẹp hòi.
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Không, tu sĩ Dòng Tên luôn luôn suy nghĩ, suy nghĩ đi suy nghĩ lại, nhìn vào chân trời họ phải đi tới, lấy Chúa Kitô làm trung tâm. Đó mới là sức mạnh thực sự của họ. Và điều này thúc đẩy Dòng tìm kiếm, có óc sáng tạo và đại lượng. Bởi thế, ngày nay, hơn bao giờ hết, Dòng Chúa Giêsu phải chiêm niệm ngay trong hành động, phải sống thật gần gũi sâu sắc với toàn thể Giáo Hội, hiểu cả như ‘dân Chúa’ lẫn như ‘mẹ thánh Giáo Hội phẩm trật’. Điều này đòi hỏi nhiều khiêm nhường, hy sinh và can đảm, nhất là khi cha bị hiểu lầm hay khi cha là nạn nhân của hiểu lầm và vu khống, nhưng đó là thái độ sinh nhiều kết quả nhất. Ta hãy nghĩ tới các căng thẳng trong lịch sử quá khứ, trong các thế kỷ trước, về cuộc tranh chấp nghi lễ Trung Hoa, nghi lễ Malabar và phong trào Reductions tại Paraguay.
“Tôi là nhân chứng của nhiều hiểu lầm và nan đề mà Dòng phải trải nghiệm gần đây. Trong số đó, có những thời điểm gay cấn, nhất là đụng tới vấn đề thêm lời khấn thứ tư cho mọi tu sĩ Dòng Tên liên quan tới việc vâng lời Đức Giáo Hoàng. Thời Cha Arrupe (bề trên cả Dòng Tên trong các năm từ 1965 tới 1983), điều làm tôi tin tưởng là sự kiện ngài là người của cầu nguyện, một người dành nhiều thì giờ cho việc cầu nguyện. Tôi nhớ lúc cầu nguyện, ngài hay ngồi trên đất theo kiểu Nhật Bản. Nhờ thế, ngài có được thái độ đúng đắn và đã đưa ra được các quyết định đúng đắn”.
Khuôn mẫu Peter Faber, ‘vị linh mục cải cách’
Cha Sparado tự hỏi liệu có nhân vật nào trong hàng ngũ tu sĩ Dòng Tên, từ buổi đầu của Dòng cho tới nay, đã ảnh hưởng trên ngài một cách riêng chăng, nên cha đã hỏi ngài những người đó là ai và tại sao.
Ngài bắt đầu bằng việc nhắc tới Thánh Inhã thành Loyola [đấng sáng lập Dòng Tên] và Thánh Phanxicô Xaviê, nhưng sau đó, đã tập chú vào một nhân vật rất ít được công chúng biết đến, đó là Peter Faber (1506-46), quê ở Savoy. Ngài là một trong các bạn đồng hành đầu tiên của Thánh Inhã, đúng ra là người bạn đầu hết, người mà Thánh Inhã từng chung phòng lúc cả hai còn là sinh viên tại Đại Học Paris. Người chung phòng thứ ba mới là Phanxicô Xaviê. Đức Piô IX phong chân phúc cho Faber ngày 5 tháng Chín, năm 1872 và án phong thánh cho ngài vẫn còn để ngỏ.
Đức Giáo Hoàng trưng dẫn việc xuất bản các tác phẩm của Faber, việc mà ngài trao cho hai học giả Dòng Tên là Miguel A. Fiorito và Jaime H. Amadeo lo biên tập và xuất bản lúc còn là giám tỉnh Dòng Tên tại Á Căn Đình. Ấn bản ngài rất ưa thích là ấn bản Michel de Certeau. Cha Sparado hỏi Đức Phanxicô lý do tại sao ngài có ấn tượng như thế về Faber.
Đức Giáo Hoàng trả lời: “Ngài đối thoại với mọi người, cả những người xa xôi nhất và cả những thù địch của mình; lòng đạo của ngài thật đơn sơ, có lẽ hơi chút ngây thơ, con người của ngài sẵn sàng ngay tức khắc, ngài biện phân thận trọng trong nội tâm, ngài thực là một con người có khả năng đưa ra các quyết định lớn và mạnh nhưng cũng có khả năng hiền hậu và yêu thương”.
Michel de Certeau vốn coi Faber đơn thuần như “vị linh mục cải cách”; đối vị linh mục này, kinh nghiệm nội tâm, phát biểu tín lý và cải cách cơ cấu không thể tách biệt khỏi nhau. Sau đó, Đức Giáo Hoàng mới tiếp tục các suy nghĩ của ngài về gương mặt thực sự của đấng sáng lập Dòng Tên.
Ngài nói: “Thánh Inhã là một nhà huyền học, không phải là một nhà khổ tu. Tôi rất khó chịu khi nghe người ta bảo Linh Thao chỉ ‘Inhã’ nhờ được thực hiện trong im lặng. Thực ra, Linh Thao cũng vẫn hoàn toàn Inhã ngay trong cuộc sống hàng ngày và chẳng cần im lặng chút nào. Lối giải thích Linh Thao nào nhấn mạnh tới khổ hạnh, tới im lặng và đền tội đều là lối giải thích méo mó, có lúc khá phổ biến trong Dòng Tên, nhất là Dòng Tên Tây Ban Nha. Tôi thì tôi gần gũi hơn với phong trào huyền học, tức phong trào của Louis Lallement và Jean-Joseph Surin. Và Faber cũng là một nhà huyền học. ”
Kinh nghiệm cai quản trong Giáo Hội
Loại kinh nghiệm cai quản nào trong Giáo Hội, lúc còn làm bề trên rồi bề trên giám tỉnh Dòng Tên, đã giúp đào luyện Cha Bergoglio một cách trọn vẹn? Phong cách cai quản của Dòng Tên hệ ở việc bề trên phải đưa ra quyết định, sau khi đã tham khảo rộng rãi các cố vấn chính thức của mình. Bởi thế, Cha Sparado hỏi Đức Thánh Cha: “Đức Thánh Cha có nghĩ rằng kinh nghiệm cai quản của ngài trong quá khứ có thể giúp ngài trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ hay không?”. Nghĩ một hồi, Đức Phanxicô trả lời:
“Thành thực mà nói, trong kinh nghiệm làm bề trên Dòng của mình, tôi không luôn luôn hành xử kiểu đó, nghĩa là không luôn luôn thực hiện việc tham khảo cần thiết. Và đó là điều không tốt. Phong cách cai quản của tôi trong tư cách tu sĩ Dòng Tên, ngay từ đầu, đã mắc nhiều lầm lỗi. Đó là thời điểm khá khó khăn đối với Dòng: trọn cả một thế hệ Dòng Tên đã biến mất. Vì tình thế này, tôi trở thành giám tỉnh lúc còn rất trẻ. Lúc ấy tôi mới 36 tuổi đầu. Quả là khùng. Tôi phải đương đầu với nhiều tình huống khó khăn, trong đó phải đưa ra các quyết định chớp nhoáng và tự một mình mình. Đúng thế, nhưng tôi phải thêm điều này: khi ủy thác cho ai điều gì, tôi hoàn toàn tin tưởng người ấy. Người ấy phải mắc một lầm lỗi thực sự lớn lao mới khiến tôi quở trách họ. Nhưng dù như thế, cuối cùng người ta cũng chán nản với lối độc quyền.
"Lối độc quyền và chớp nhoáng đưa ra quyết định đã dẫn tôi tới nhiều nan đề trầm trọng và bị kết án là siêu bảo thủ. Tôi sống vào lúc có cuộc khủng hoảng lớn trong nội bộ khi tôi ở Cordova. Điều chắc, tôi không bao giờ giống như ‘Quan Âm’ [tạm dịch Blessed Imelda, kiểu nói của người Á Căn Đỉnh, chỉ người cái gì cũng tốt, goody-goody], nhưng tôi cũng không bao giờ là người cánh hữu cả. Chính cái lối độc quyền đưa ra quyết định đã tạo ra đủ thứ nan đề.
“Tôi nói những điều này từ kinh nghiệm sống của tôi và vì tôi muốn làm sáng tỏ điều gì gây nguy hiểm. Với thời gian, tôi học được nhiều điều. Chúa đã giúp tôi lớn lên trong sự hiểu biết việc cai quản nhờ các lầm lẫn và tội lỗi của tôi. Nhờ thế, lúc làm Tổng Giám Mục Buenos Aires, tôi đều họp với 6 giám mục phụ tá mỗi hai tuần một lần và nhiều lần khác với hội đồng linh mục. Họ hỏi nhiều câu hỏi và chúng tôi thả dàn tranh luận. Điều này giúp tôi rất nhiều trong việc đưa ra các quyết định tốt nhất. Nhưng nay, tôi nghe một số người cho tôi hay: ‘Đừng tham khảo nhiều quá, cứ tự mình quyết định đi’. Nhưng thay vào đó, tôi tin rằng tham khảo là điều hết sức quan trọng.
 “Các cơ mật viện (Hồng Y), các thượng hội đồng (giám mục), chẳng hạn, đều là những chỗ quan yếu để thực hiện việc tham khảo thực sự và tích cực này. Tuy nhiên, ta phải đem lại cho nó một hình thức cứng rắn hơn. Tôi không muốn tham khảo cho có lệ, nhưng là tham khảo thực sự. Nhóm tham vấn gồm 8 Hồng Y, tức nhóm tham vấn ‘từ bên ngoài’ này, không phải chỉ do quyết định của riêng tôi, mà là kết quả do ý muốn của các Hồng Y, được phát biểu trong các phiên họp toàn thể trước mật nghị bầu giáo hoàng. Và tôi muốn được thấy đây là tham khảo thực sự, chứ không phải tham khảo cho có nghi thức”.
Suy nghĩ với Giáo Hội
Cha Sparado hỏi Đức Phanxicô: đối với ngài, ý nghĩa chính xác của thuật ngữ “suy nghĩ với Giáo Hội” là gì, một thuật ngữ từng được Thánh Inhã nói tới trong Linh Thao. Dùng một hình ảnh, Đức Phanxicô trả lời như sau:
“Hình ảnh về Giáo Hội mà tôi rất thích là hình ảnh dân thánh và trung thành của Thiên Chúa. Đây là định nghĩa mà tôi thường hay dùng, và rồi còn có hình ảnh khác trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II nữa (số 12). Thuộc về một dân tộc có giá trị mạnh về thần học. Trong lịch sử cứu rỗi, Thiên Chúa đã cứu rỗi một dân tộc. Sẽ không có căn tính nào đầy đủ nếu không thuộc về một dân tộc. Không ai được cứu thoát một mình, như một cá nhân đơn độc, nhưng Thiên Chúa lôi kéo ta vào cuộc tìm kiếm một hệ thống tương quan phức hợp diễn ra trong cộng đồng nhân bản. Chính Thiên Chúa cũng đã bước vào mối hiệp thông năng động của mạng lưới tương quan nhân bản này.
“Chính dân tộc tạo nên một chủ thể. Và Giáo Hội là dân tộc của Thiên Chúa trong cuộc hành trình xuyên qua lịch sử, với đủ mọi vui buồn của nó. Bởi thế, suy nghĩ với Giáo Hội là cách để tôi trở nên thành phần của dân tộc này. Và mọi tín hữu, xét như một toàn bộ, đều là vô ngộ trong các vấn đề thuộc đức tin, và dân Chúa biểu lộ tính vô ngộ này trong lúc tin (infallibilitas in credendo) qua cảm thức siêu nhiên nơi đức tin của một dân tộc đang cùng nhau tiến bước. Đó là điều mà ngày nay tôi hiểu việc ‘suy nghĩ với Giáo Hội’, điều vốn được Thánh Inhã nói tới. Khi cuộc đối thoại giữa dân với các giám mục và Đức Giáo Hoàng đi theo đường này và chân thực, thì nó được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Do đó, việc suy nghĩ với Giáo Hội này không phải chỉ liên quan tới các thần học gia mà thôi.
 “Với Đức Mẹ cũng thế: nếu muốn biết ngài là ai, cha nên hỏi các thần học gia; nếu muốn biết phải yêu mến ngài ra sao, cha nên hỏi dân chúng. Ngược lại, Đức Mẹ yêu mến Chúa Giêsu bằng trái tim người dân như ta đã đọc trong Kinh Magnificat. Cho nên, ta không nên nghĩ rằng ‘suy nghĩ với Giáo Hội’ chỉ có nghĩa là suy nghĩ với phẩm trật của Giáo Hội”.
Dừng lại ít giây, Đức Phanxicô nhấn mạnh tới điểm sau, để tránh hiểu lầm: “Và, dĩ nhiên, ta phải hết sức thận trọng để đừng nghĩ rằng tính vô ngộ của mọi tín hữu mà tôi nói tới, dưới ánh sáng Vatican II, là một hình thức của chủ nghĩa dân túy (populism). Không phải thế; nó là trải nghiệm của ‘mẹ thánh Giáo Hội phẩm trật’ như chính Thánh Inhã đã gọi thế, một Giáo Hội hiểu như dân Chúa, với mục tử và dân chúng với nhau”.
“Tôi thấy sự thánh thiện của dân Chúa, sự thánh thiện hàng ngày”
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Có một ‘giai cấp trung lưu thánh thiện’, mà tất cả chúng ta đều là thành phần, sự thánh thiện mà Malègue từng viết về”. Đức Giáo Hoàng có ý nói tới Joseph Malègue, một nhà văn Pháp (1876–1940), nhất là tới bộ sách ba cuốn còn dở dang của ông tựa là Những Hòn Đá Đen: Các Giai Cấp Trung Lưu Của Cứu Rỗi (Black Stones: The Middle Classes of Salvation).
Ngài nói tiếp: “Tôi thấy tính thánh thiện trong niềm kiên nhẫn của dân Chúa: người đàn bà nuôi dưỡng con cái, người đàn ông lao nhọc đem cơm bánh về cho gia đình, các linh mục bệnh hoạn, già nua tuy đầy thương tích nhưng vẫn nở nụ cười trên gương mặt vì được phục vụ Chúa, các nữ tu đang lao nhọc và sống trong thánh thiện ẩn dật. Đối với tôi, đó là sự thánh thiện chung. Tôi thường liên kết thánh thiện với kiên nhẫn: không chỉ kiên nhẫn hiểu như hypomoné [chữ trong Tân Ước Hy Lạp], tức làm chủ các biến cố và các hoàn cảnh trong đời, mà còn hiểu như kiên trì đi tới, ngày lại qua ngày. Đó là sự thánh thiện của Giáo Hội chiến đấu được Thánh Inhã nói tới. Đó là sự thánh thiện của cha mẹ tôi: bố tôi, má tôi, bà Rosa của tôi đã yêu thương tôi xiết bao. Trong cuốn sách nguyện của mình, tôi vẫn giữ chúc thư của bà Rosa tôi, và tôi thường đọc lại chúc thư ấy. Đối với tôi, nó giống như lời kinh cầu. Bà là bà thánh từng chịu nhiều đau khổ, cả thiêng liêng nữa, ấy thế nhưng vẫn can đảm tiến lên phía trước.
“Giáo Hội này, Giáo Hội mà ta nên suy nghĩ với, vốn là nhà của mọi người, không phải là ngôi nhà nguyện nhỏ bé chỉ chứa một nhóm người nhỏ gồm những người được tuyển chọn. Ta đừng thu gọn lòng của Giáo Hội hoàn vũ này thành một cái tổ để bảo vệ tính tầm thường của mình. Và Giáo Hội là Mẹ; Giáo Hội sẵn sàng sinh hoa trái. Phải như thế. Cha thấy đấy, khi biết được tác phong tiêu cực nơi các thừa tác viên của Giáo Hội hay nơi các tu sĩ nam nữ, điều đầu tiên nẩy ra trong tâm trí là ‘lại một chàng độc thân vô ích’ hay ‘lại một nàng gái già’. Họ không phải là những người cha hay những người mẹ theo nghĩa: họ không có khả năng đem lại sự sống thiêng liêng. Thay vào đó, khi đọc tiểu sử các nhà truyền giáo Salêdiêng tại Patagonia, chẳng hạn, tôi thấy tiểu sử ấy đầy sự sống viên mãn, đầy hoa đầy trái.
“Một điển hình khác diễn ra mấy ngày gần đây thôi, một điển hình tôi thấy báo chí rất lưu ý tới: tức cú điện thoại tôi gọi cho một thanh niên từng viết thư cho tôi. Tôi gọi cho anh vì lá thư ấy đẹp lắm, đơn sơ lắm. Đối với tôi, người thanh niên này đúng là một hành vi đầy tính sinh sản. Tôi hiểu ra rằng anh là một thanh niên đang lớn lên, anh coi tôi như người cha, và lá thư đó kể một điều gì đó về đời anh cho người cha này. Người cha này không thể nói ‘tao bất cần’. Vì loại hoa trái này quá tốt đối với tôi”.
Các Giáo Hội trẻ trung và các Giáo Hội cổ xưa
Tiếp tục chủ đề về Giáo Hội, Cha Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng một câu dưới ánh sáng Ngày Giới Trẻ Thế Giới vừa qua. Biến cố vĩ đại này đã hướng chú ý vào giới trẻ, nhưng cũng làm ta chú ý tới “các lá phổi thiêng liêng” tức các Giáo Hội Công Giáo vừa được thành lập trong lịch sử gần đây. Cha hỏi: “Đức Thánh Cha hy vọng những gì cho Giáo Hội hoàn vũ từ các Giáo Hội này?”
Đức Thánh Cha trả lời: “Các Giáo Hội Công Giáo trẻ trung, càng lớn lên, càng khai triển được một tổng hợp về đức tin, văn hóa và đời sống, và như thế là một tổng hợp khác với tổng hợp từng được các Giáo Hội cổ xưa khai triển. Đối với tôi, tương quan giữa các Giáo Hội Công Giáo cổ xưa và các Giáo Hội trẻ trung giống như tương quan giữa người trẻ và người già trong xã hội. Tất cả đều xây dựng tương lai, người trẻ xây dựng bằng sức lực của họ, người già xây dựng bằng khôn ngoan của mình. Dĩ nhiên, cha luôn gặp một số nguy cơ nào đó. Các Giáo Hội trẻ trung dễ cảm thấy mình tự mãn; các Giáo Hội cổ xưa dễ muốn áp đặt lên các Giáo Hội trẻ trung các mô thức văn hóa của mình. Nhưng ta đang xây dựng tương lai với nhau mà”.
Giáo Hội như một bệnh viện dã chiến
Khi tuyên bố từ chức, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI nói rằng thế giới hiện thời đang kinh qua nhiều thay đổi nhanh chóng và đang vật lộn với các vấn đề có tầm quan trọng lớn đối với đời sống đức tin. Đức Bênêđíctô cho rằng muốn đương đầu với các vấn đề này, ta cần cả sức mạnh thể lý lẫn sức mạnh tinh thần. Bởi vậy, Cha Sparado hỏi Đức Phanxicô: “Trong thời buổi lịch sử này, Giáo Hội cần điều gì hơn cả? Chúng ta có cần cải tổ không? Đức Thánh Cha muốn những gì cho Giáo Hội trong những năm sắp tới? Đức Thánh Cha mơ ước loại Giáo Hội nào?”
Đức Phanxicô bắt đầu bằng việc tỏ lòng âu yếm lớn lao và tôn kính mênh mông đối với vị tiền nhiệm: “Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô đã làm một hành vi thánh thiện, cao cả, và khiêm nhường. Ngài là người của Thiên Chúa.
Đức Giáo Hoàng nói tiếp: “Tôi thấy rõ: điều Giáo Hội ngày nay cần hơn cả là khả năng chữa lành các vết thương và sưởi ấm tâm hồn các tín hữu. Giáo Hội cần sự gần gũi, cận kề. Tôi coi Giáo Hội như một bệnh viện dã chiến sau một trận đánh. Quả vô ích khi hỏi người bị thương nặng có cao mỡ hay không hay độ đường trong máu là bao nhiêu! Cha phải chữa lành ngay vết thương của họ đã. Rồi mới nói tới những chuyện khác. Chữa lành các vết thương, chữa lành các vết thương... và cha phải bắt đầu từ đất đi lên.
“Giáo Hội đôi khi tự khóa mình vào những điều nhỏ nhặt, vào các qui định hẹp hòi. Điều quan trọng hơn cả là lời tuyên xưng đầu hết: Chúa Giêsu Kitô đã cứu rỗi cha. Và các thừa tác viên của Giáo Hội, trước nhất, phải là các thừa tác viên của lòng thương xót. Thí dụ, vị giải tội luôn có nguy cơ quá khắt khe hay quá lỏng lẻo. Cả hai thái độ ấy đều không phải là thương xót, vì chẳng thái độ nào thực sự chịu trách nhiệm đối với hối nhân. Người khắt khe rửa tay để nhường việc đó cho giới răn. Người lỏng lẻo rửa tay bằng cách bảo: ‘đây không phải là tội’ hay một điều gì đó tương tự như thế. Trong thừa tác mục vụ, ta phải đồng hành với người ta, và chữa lành các vết thương của họ.
“Ta phải cư xử với dân Chúa ra sao? Tôi mơ một Giáo Hội làm mẹ và làm mục tử. Các thừa tác viên của Giáo Hội phải nhân hậu, biết thương xót, chịu trách nhiệm đối với dân và đồng hành với họ như người Samaria nhân hậu, người chịu rửa ráy, lau chùi và nâng người hàng xóm dậy. Đó là Tin Mừng tinh ròng. Thiên Chúa cao cả hơn tội lỗi. Các cải tổ cơ cấu và tổ chức chỉ đứng hàng thứ hai, nghĩa là đến sau. Cải tổ đầu tiên phải là cải tổ thái độ. Các thừa tác viên của Tin Mừng phải là những người có khả năng sưởi ấm tâm hồn người ta, cùng bước trong đêm tối với họ, biết cách đối thoại và để mình rơi xuống đêm thâu của họ, xuống thẳm đen của họ mà không lạc lối. Dân Chúa muốn các mục tử, chứ không muốn các giáo sĩ hành xử như những người cạo giấy hay viên chức chính phủ. Cách riêng, các giám mục phải có khả năng hỗ trợ các chuyển vần của Thiên Chúa giữa dân chúng của họ một cách kiên nhẫn, để không một ai bị rơi rớt ở đàng sau. Nhưng họ cũng phải có khả năng đồng hành với đoàn chiên để họ “hửi ra” những nẻo đường mới.
“Thay vì chỉ là một Giáo Hội biết chào đón và tiếp rước bằng cách để cửa mở, ta hãy cố gắng là một Giáo Hội biết tìm ra những con đường mới, có khả năng bước ra khỏi mình và đi tới những người không tham dự Thánh Lễ, tới những ai đã bỏ cuộc hay dửng dưng. Những người bỏ cuộc đôi khi làm thế vì những lý do mà nếu hiểu và lượng giá đúng, có thể dẫn họ trờ về. Nhưng điều này đòi nhiều mạnh dạn và can đảm”.
Cha Sparado gợi ý với Đức Thánh Cha rằng có những Kitô hữu sống trong các tình huống không hợp qui đối với Giáo Hội hay trong các tình huống phức tạp biểu tượng cho các vết thương công khai. Như các cặp đã ly dị và tái hôn, các cặp đồng tính luyến ái và nhiều tình huống khó khăn khác. Ta có thể thực hành loại mục vụ nào trong các trường hợp này? Ta có thể sử dụng những loại phương tiện nào?
Đức Giáo Hoàng cho hay: “Ta cần công bố Tin Mừng ở mọi ngõ ngách phố phường, rao giảng tin vui Nước Chúa và việc chữa lành, ngay trong lời giảng của ta, mọi loại bệnh tật và vết thương. Ở Buenos Aires, tôi hay nhận được những lá thư từ những người đồng tính luyến ái vốn là ‘những người bị thương về phương diện xã hội’ vì họ nói với tôi rằng họ cảm thấy như Giáo Hội luôn luôn kết án họ. Nhưng nào Giáo Hội có muốn làm việc đó. Trong chuyến bay trở về từ Rio de Janeiro, tôi nói rằng nếu một người đồng tính có thiện chí và đi tìm Thiên Chúa, tôi không phải là người để kết án. Nói thế, tôi chỉ nói điều sách giáo lý vốn nói. Tôn giáo có quyền phát biểu ý kiến để phục vụ người ta, nhưng Thiên Chúa, trong lúc tạo dựng, đã cho ta được tự do: ta không thể can thiệp một cách thiêng liêng vào đời sống người khác.
“Có người đã hỏi tôi một cách khiêu khích, xem tôi có chấp nhận việc đồng tính luyến ái không. Tôi trả lời bằng một câu hỏi khác: ‘xin cho tôi biết: khi thấy một người đồng tính, Thiên Chúa chấp nhận sự hiện hữu của họ một cách yêu thương hay bác bỏ và lên án người này?’ Ta phải luôn xét tới con người. Ở đây, ta bước vào mầu nhiệm của hữu thể nhân bản. Trong cuộc sống, Thiên Chúa luôn đồng hành với người ta, và ta cũng thế, ta phải đồng hành với họ, bắt đầu từ trạng huống của họ. Điều cần là đồng hành với họ trong xót thương. Khi điều này xẩy ra, Chúa Thánh Thần sẽ linh hứng để vị linh mục nói điều đúng.
“Đây cũng là ơn phúc lớn lao của bí tích giải tội: lượng giá từng trường hợp và biện phân điều tốt nhất một người tìm kiếm Thiên Chúa và ơn thánh cần làm. Tòa giải tội không phải là phòng tra tấn, nhưng là nơi dạ thương xót của Thiên Chúa khuyến khích ta sống tốt hơn. Tôi cũng đã xem xét tình huống của một phụ nữ, trong quá khứ, từng thất bại trong hôn nhân và còn phá thai nữa. Rồi người phụ nữ này tái hôn và nay rất hạnh phúc, có tới 5 đứa con. Vụ phá thai lúc trước đè nặng lên lương tâm chị và chị thành thực hối hận về việc đó. Chị muốn tiến về phía trước trong cuộc sống Kitô hữu của mình. Vị linh mục phải làm gì?
“Ta không thể chỉ nhấn mạnh tới các vấn đề liên hệ tới phá thai, hôn nhân đồng tính và việc sử dụng các phương pháp ngừa thai. Điều này không thể được. Tôi vốn không nói nhiều tới các điều này, và từng bị chỉ trích vì thế. Nhưng khi nói về những điều này, ta phải nói về chúng trong ngữ cảnh. Trong vấn đề này, giáo huấn của Giáo Hội đã quá rõ và tôi vốn là con cái Giáo Hội, nhưng ta không cần phải nói về các vấn đề này bất cứ lúc nào.
 “Giáo huấn tín lý và luân lý của Giáo Hội tất cả không có cùng một giá trị. Thừa tác mục vụ của Giáo Hội không thể bị ám ảnh bởi việc thông truyền số đông các tín điều rời rạc (disjointed) để chúng được áp đặt một cách khư khư. Trong phong cách truyền giáo, việc công bố chỉ tập chú vào những điều cốt yếu, cần thiết: những điều phấn khích, lôi cuốn, những điều làm tâm hồn bừng cháy, như các môn đệ trên đường Emmau xưa. Ta phải tìm cho ra một quân bình mới; nếu không, ngay tòa nhà luân lý của Giáo Hội cũng sẽ tan rã như tòa nhà bằng quân bài, mất hết nét tươi mát và hương thơm của Tin Mừng. Đề xuất của Tin Mừng phải đơn giản hơn, sâu sắc hơn và tỏa sáng hơn. Chính từ lối đề xuất này, các hệ quả luân lý sẽ phát sinh ra.
“Tôi nói điều trên trong khi cũng nghĩ tới việc rao giảng và nội dung rao giảng của ta. Một bài giảng lễ hay, một bài giảng thuyết đích thực, phải bắt đầu bằng việc công bố đầu hết, tức công bố ơn cứu rỗi. Không có điều gì vững chãi và chắc chắn hơn việc công bố này. Rồi cha còn phải đương đầu với giáo lý nữa. Sau đó, cha có thể rút tỉa các hệ quả luân lý. Nhưng việc công bố tình yêu cứu rỗi của Thiên Chúa phải đến trước các mệnh lệnh luân lý và tôn giáo. Ngày nay, hình như, đôi lúc, việc đảo lộn thứ tự này đang thắng thế. Bài giảng lễ là viên đá thử vàng để đo sự gần gũi của mục tử và khả năng gặp gỡ người ta của vị mục tử này, vì các vị giảng thuyết phải biết nhận ra trái tim của cộng đoàn mình và phải có khả năng nhìn ra nơi ước muốn được thấy Thiên Chúa sống động và nồng nhiệt nhất. Do đó, sứ điệp Tin Mừng không thể bị giản lược vào một số khía cạnh, dù có liên quan, nhưng tự chúng không cho thấy tâm điểm sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô”.
Một giáo hoàng tu sĩ
Đức Phanxicô là vị giáo hoàng thuộc dòng tu đầu tiên kể từ Đức Grêgôriô XVI, một đan sĩ thuộc Dòng Camaldoli, lên ngôi năm 1831. Nên Cha Sparado hỏi ngài: “đâu là vị trí chuyên biệt của tu sĩ nam nữ trong Giáo Hội ngày nay?”
Đức Giáo Hoàng cho biết: “Tu sĩ nam nữ là các tiên tri. Họ là những người đã quyết định theo Chúa Giêsu bằng cách mô phỏng cuộc sống của Người trong vâng lời Chúa Cha, nghèo khó, cuộc sống cộng đoàn và khiết tịnh. Trong chiều hướng này, các lời khấn không thể kết cục như các biếm họa; nếu không, đời sống cộng đoàn, chẳng hạn, sẽ trở thành hỏa ngục, và khiết tịnh sẽ trở thành lối sống của những anh chàng độc thân khô cằn. Lời khấn khiết tịnh phải là lời khấn sinh hoa kết trái. Trong Giáo Hội, tu sĩ được kêu gọi làm tiên tri, đặc biệt bằng cách chứng tỏ Chúa Giêsu đã sống trên trần gian ra sao, và công bố Nước Thiên Chúa sẽ như thế nào lúc thành toàn. Tu sĩ không bao giờ được từ bỏ việc nói tiên tri. Điều này không có nghĩa đi ngược lại phẩm trật Giáo Hội, dù chức năng tiên tri và cơ cấu phẩm trật không trùng hợp với nhau. Tôi đang nói tới một đề xuất luôn tích cực nhưng không nên gây ra nhút nhát. Ta hãy nghĩ tới công trình của biết bao vị thánh vĩ đại, các đan sĩ và tu sĩ nam nữ, từ Thánh Antôn viện tu trở về sau. Là tiên tri đôi khi gây nên sóng gió. Tôi không biết nên nói thế nào. . . Nói tiên tri quả có gây ồn ào, náo động, nhiều người còn cho là “xáo trộn” (a mess) nữa. Nhưng trên thực tế, đặc sủng của tu sĩ giống như men bột: nói tiên tri là thông báo tinh thần của Tin Mừng”.
Giáo triều Rôma
Cha Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng xem ngài nghĩ gì về các bộ sở của Giáo Triều Rôma, các cơ quan khác nhau đang trợ giúp Đức Giáo Hoàng trong sứ mệnh của ngài.
Ngài cho hay “Các bộ sở trong Giáo Triều Rôma là để phục vụ Đức Giáo Hoàng và các giám mục. Chúng phải trợ giúp cả các Giáo Hội địa phương lẫn các hội đồng giám mục. Chúng là các dụng cụ trợ giúp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, vì không hành xử đúng chức năng, chúng có nguy cơ trở thành các định chế kiểm duyệt. Thật đáng ngạc nhiên khi thấy các tố cáo thiếu chính thống được đưa tới Rôma. Tôi nghĩ những trường hợp này nên được các hội đồng giám mục địa phương điều tra; các hội đồng này có thể được Rôma hỗ trợ một cách đáng kể. Thực thế, các trường hợp này được xử lý tốt hơn tại địa phương. Các bộ sở tại Rôma chỉ là các trung gian; chúng không phải là mối lái hay cơ quan quản trị”.
Ngày 29 tháng Sáu, trong buổi lễ chúc lành và trao dây pallium cho 34 tổng giám mục các giáo tỉnh, Đức Phanxicô nói tới “con đường hợp đoàn” như là con đường dẫn Giáo Hội “lớn lên trong sự hòa hợp với việc phục vụ của quyền tối thượng”. Bởi thế, Cha Sparado hỏi ngài “Ta có thể giao hòa ra sao quyền tối thượng của Phêrô và tính hợp đoàn? Những con đường nào khả thi cả trong viễn tượng đại kết nữa?”
Đức Phanxicô trả lời: “Ta phải cùng sánh bước với nhau: giáo dân, giám mục và giáo hoàng. Tính công đồng phải được sống trên nhiều bình diện khác nhau. Có lẽ nay là lúc phải thay đổi các phương pháp của Thượng Hội Đồng Giám Mục, vì đối với tôi, hình như phương pháp hiện thời không được năng động lắm. Việc này cũng sẽ có giá trị đại kết nữa, nhất là với các anh em Chính Thống Giáo của ta. Ta có thể học được từ họ nhiều điều hơn về ý nghĩa của tình hợp đoàn giám mục và truyền thống công đồng. Các cố gắng suy tư chung, về việc phải cai quản Giáo Hội ra sao trong các thế kỷ đầu tiên, trước khi có sự chia cách Đông Tây, sẽ đem lại hoa trái đúng lúc. Trong các liên hệ đại kết, điều quan trọng không những là phải biết nhau tốt hơn mà còn phải nhìn nhận những gì Chúa Thánh Thần từng gieo vãi nơi người khác như là hồng phúc đối với ta. Tôi muốn tiếp tục cuộc thảo luận vốn đã bắt đầu vào năm 2007 của ủy ban hỗn hợp [giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo] về vấn đề phải thi hành quyền tối thượng của Phêrô ra sao, một cuộc thảo luận đã đưa tới việc ký kết Văn Kiện Ravenna. Ta phải tiếp tục đi con đường này”.
Cha Sparado hỏi xem Đức Phanxicô dự phóng ra sao việc hợp nhất Giáo Hội trong tương lai dưới ánh sáng câu trả lời của ngài, thì ngài cho biết: “Ta phải tiến bước bằng cách hợp nhất trong dị biệt: không có đường nào khác để trở nên một cả. Đó là con đường của Chúa Giêsu”.
Phụ nữ trong đời sống Giáo Hội
Và đâu là vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội? Đức Phanxicô từng nhiều lần đề cập tới vấn đề này. Ngài nhắc đến nó trong chuyến bay trở về từ Rio de Janeiro, khi cho rằng Giáo Hội vẫn còn thiếu một nền thần học sâu sắc về phụ nữ. Nên Cha Sparado hỏi ngài: “Vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội phải nên như thế nào? Ta phải làm vai trò của họ trở nên hiển hiện ra sao trong lúc này?”
Ngài trả lời: “Ta phải tìm hiểu hơn nữa vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội. Tôi lo lắng trước giải pháp muốn giản lược nó vào một thứ chủ nghĩa cao ngạo nữ giới (female machismo), vì phụ nữ có một thể trạng (make-up) khác với nam giới. Nhưng điều tôi nghe về vai trò của phụ nữ thường được gợi hứng từ ý thức hệ cao ngạo. Phụ nữ đang đặt ra các câu hỏi sâu sắc cần được trả lời. Giáo Hội không thể là chính mình nếu không có phụ nữ và vai trò của họ. Phụ nữ rất chủ yếu đối với Giáo Hội. Đức Maria, một phụ nữ, vốn quan yếu hơn các giám mục. Tôi nói điều này vì ta không nên lẫn lộn chức năng với phẩm giá. Cho nên ta phải tìm hiểu hơn nữa vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội. Ta phải cố gắng hơn nữa để khai triển ra một nền thần học sâu sắc về phụ nữ. Thiên tài phụ nữ được cần tới ở bất cứ nơi nào ta đưa ra các quyết định quan trọng. Thách thức hiện nay là: suy nghĩ về chỗ đứng chuyên biệt của phụ nữ cả ở những nơi thẩm quyền của Giáo Hội được thi hành trong các phạm vi khác nhau của Giáo Hội.”
Công Đồng Vatican II
Cha Sparado hỏi Đức Thánh Cha: “Công Đồng Vatican II thực hiện được những gì?” Ngài đáp: “Vatican II là một cuộc đọc lại Tin Mừng dưới ánh sáng văn hóa đương thời. Nó tạo ra một phong trào canh tân đơn thuần phát khởi từ cùng một Tin Mừng này. Hoa trái của nó thật lớn lao. Chỉ cần nhắc tới phụng vụ. Công trình canh tân mục vụ là nhằm giúp tín hữu đọc lại Tin Mừng từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đúng là có những nền giải thích liên tục và gián đoạn, nhưng điều rõ ràng là: tính năng động của việc đọc Tin Mừng, hiện thực hóa sứ điệp của nó vào hôm nay, một công việc hết sức đặc trưng của Vatican II, là điều tuyệt đối không thể nào đảo ngược được. Rồi còn có các vấn đề đặc biệt như phụng vụ theo Vetus Ordo (lễ qui cũ). Tôi nghĩ quyết định của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô [tức quyết định ngày 7 tháng Bẩy, 2007 cho phép việc sử dụng rộng rãi hơn Thánh Lễ theo Công Đồng Triđentinô] là một quyết định khôn ngoan và được thúc đẩy bởi ý muốn giúp những người vốn nhạy cảm về khía cạnh này. Dù, điều khiến người ta ưu tư là nguy cơ biến Vetus Ordo thành một ý thức hệ, để khai thác nó”.
Kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự
Tại Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Rio de Janeiro, Đức Phanxicô nhiều lần tuyên bố rằng: “Thiên Chúa có thật. Người tự mạc khải Người ra hôm nay. Người ở khắp nơi”. Những mệnh đề này khiến ta nhớ tới kiểu nói của Thánh Inhã “kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự”. Dựa vào câu này, Cha Sparado hỏi Đức Thánh Cha: “Đức Thánh Cha kiếm và tìm thây Thiên Chúa trong mọi sự ra sao?”.
Ngài trả lời: “Điều tôi nói tại Rio có ý nói tới thời điểm ta đang đi kiếm Thiên Chúa. Thực vậy, ta vốn bị cám dỗ đi kiếm Thiên Chúa ở dĩ vãng hay ở một tương lai khả hữu nào đó. Thiên Chúa quả có ở trong quá khứ thật vì ta có thể nhìn ra dấu chân của Người. Và Thiên Chúa cũng ở trong tương lai như một hứa hẹn. Nhưng Thiên Chúa ‘cụ thể’, có thể nói như thế, thì đang ở đây hôm nay. Chính vì vậy, than vãn không bao giờ giúp ta kiếm Thiên Chúa. Các than vãn ngày nay về việc thế giới hiện đại ‘man rợ’ biết chừng nào, những than vãn này đôi khi chỉ kết thúc bằng việc cho ra đời, trong lòng Giáo Hội, các ước muốn thiết lập trật tự theo nghĩa bảo tồn đơn thuần, như một thứ phòng ngự. Không, Thiên Chúa cần được gặp gỡ trong thế giới ngày nay.
“Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong mạc khải lịch sử, trong lịch sử. Thời gian khởi diễn các diễn trình, và không gian kết tinh chúng. Thiên Chúa ở trong lịch sử, ở trong các diễn trình.
“Ta không nên tập chú vào việc chiếm hữu các không gian để thi hành quyền lực, mà đúng hơn nên khởi diễn các diễn trình lịch sử lâu dài. Ta phải khởi diễn các diễn trình hơn là chiếm hữu các không gian. Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thời gian và đang hiện diện trong các diễn trình của lịch sử. Điều này dành ưu tiên cho các hành động nào biết phát sinh ra những năng động tính lịch sử mới mẻ. Và việc này đòi phải kiên nhẫn, chờ đợi.
“Tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự không phải là một phát kiến thực nghiệm (‘empirical eureka’). Khi muốn gặp gỡ Thiên Chúa, ta thường hay tìm cách chứng thực về Người ngay tức khắc bằng phương pháp thực nghiệm. Nhưng cha không thể gặp Thiên Chúa cách đó. Thiên Chúa được tìm thấy trong cơn gió nhẹ như Elijah từng thấy. Các giác quan tìm ra Thiên Chúa là các giác quan được Thánh Inhã gọi là giác quan thiêng liêng. Thánh Inhã yêu cầu ta mở rộng sự nhạy cảm thiêng liêng để gặp gỡ Thiên Chúa quá bên kia phương thức hoàn toàn thực nghiệm. Điều cần phải có là thái độ chiêm niệm: cảm nhận được rằng cha đang chuyển động trên con đường hiểu biết và qúy mến đúng, hướng tới các sự việc và hoàn cảnh. Bình an sâu xa, an ủi thiêng liêng, yêu Chúa và yêu mọi sự trong Chúa, đó chính là các dấu hiệu cho thấy cha đang đi trên con đường đúng này”.
Chắc chắn và sai lầm
Cha Sparado hỏi thêm: “Như thế, nếu cuộc gặp gỡ Thiên Chúa không phải là một phát kiến thực nghiệm và nếu nó là một hành trình nhìn bằng con mắt lịch sử, thì ta cũng có thể mắc nhiều sai lầm?”
Đức Phanxicô trả lời: “Đúng, trong cố gắng kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự này, vẫn có một phạm vi không chắc chắn. Nhất định như thế. Nếu ai đó bảo họ gặp Thiên Chúa một cách hoàn toàn chắc chắn và không bị khuấy động bởi bất cứ biên tế không chắc chắn nào, thì điều này không đúng. Đối với tôi, điều này là chìa khóa quan trọng. Nếu ai đó có câu trả lời cho mọi câu hỏi, thì rõ ràng đây là bằng chứng Thiên Chúa không ở trong họ. Nó chỉ có nghĩa họ là một tiên tri giả, chuyên lợi dụng tôn giáo cho riêng mình. Các nhà lãnh đạo vĩ đại của dân Chúa, như Môsê chẳng hạn, luôn dành chỗ cho hoài nghi. Cha phải dành chỗ cho Chúa, chứ không dành chỗ cho các điều chắc chắn của ta; ta phải khiêm nhường. Trong mọi biện phân, sự không chắc chắn giúp ta mở lòng ra đi tìm xác nhận trong ủi an thiêng liêng.
“Như thế, nguy cơ trong việc kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự là quyết tâm giải thích quá nhiều, là nói với sự chắc chắn và cao ngạo của con người: ‘Thiên Chúa đang ở đây nè’. Ta sẽ chỉ thấy một Thiên Chúa phù hợp với kích thước của ta mà thôi. Thái độ đúng là thái độ của Thánh Augustinô: kiếm Thiên Chúa để tìm thấy Người, và tìm thấy Thiên Chúa để tiếp tục kiếm tìm Người mãi mãi. Ta phải kiếm tìm như thể là những người mù, như thường thấy trong Thánh Kinh. Và đây là kinh nghiệm của các cha ông vĩ đại của ta trong đức tin; họ vốn là mẫu mực của ta. Ta cần đọc lại Thư gửi tín hữu Do Thái, chương 11. Ápraham bỏ quê hương mà không biết mình đi đâu, chỉ cậy vào niềm tin. Các tổ tiên trong đức tin của ta đều đã chết sau khi thoáng thấy sự thiện từng được hứa cho mình, nhưng chỉ thấy từ xa... Đời ta được ban cho ta không phải như một opera libretto (bản nhạc kịch), trong đó, mọi điều đều được viết ra; mà như một ra đi, tiến bước, làm, tìm kiếm, thấy... Ta phải bước vào cuộc phiêu lưu đi tìm gặp Thiên Chúa; ta phải để Thiên Chúa tìm và gặp ta.
“Vì Thiên Chúa là thứ nhất; Thiên Chúa luôn là thứ nhất và đi bước thứ nhất. Antoniô ạ, Thiên Chúa giống như bông hoa hạnh đào xứ Sicily của cha vậy, luôn nở đầu tiên. Ta đọc được điều này trong các tiên tri. Thiên Chúa được gặp gỡ trong lúc đang đi, đang ở trên đường. Về phương diện này, ai đó dám cho rằng đây là chủ nghĩa duy tương đối. Phải duy tương đối không? Đúng, nếu hiểu nó như một thứ đa thần thuyết lộn xộn. Nhưng đó không phải là duy tương đối nếu hiểu nó theo nghĩa Thánh Kinh: Thiên Chúa luôn là một ngạc nhiên, thành thử cha không bao giờ biết cha sẽ tìm thấy Người ở đâu và bằng cách nào. Cha không định được thời gian và không gian cho cuộc gặp gỡ Người. Trái lại, cha phải biện phân được cuộc gặp gỡ này. Biện phân là điều chủ yếu.
“Nếu Kitô hữu theo thuyết phục nguyên (restorationism), theo thuyết duy luật lệ, nếu họ muốn mọi sự phải rõ ràng và an toàn, thì họ sẽ chẳng tìm thấy chi. Truyền thống và ký ức quá khứ phải giúp ta can đảm mở ra các phạm vi mới mẻ cho Thiên Chúa. Những ai ngày nay cứ luôn đi tìm các giải pháp có tính kỷ luật, những ai cứ luôn mong mỏi sự ‘an toàn’ tín lý quá trớn, những ai cứ luôn khư khư tìm cách khôi phục một quá khứ không còn hiện hữu nữa, tất cả đều có cái nhìn tĩnh tụ và hướng nội về sự vật. Theo lối này, đức tin trở thành một ý thức hệ giống như mọi ý thức hệ khác. Tôi có sự chắc chắn đúng tín lý sau: Thiên Chúa ở trong đời sống mọi con người. Thiên Chúa ở trong đời sống mọi người. Dù cho đời sống của người ta gặp thảm họa, dù cho đời ấy bị thói xấu, ma túy hay bất cứ điều gì khác phá hủy, Thiên Chúa vẫn ở trong đời sống họ. Cha có thể, cha phải cố gắng kiếm tìm Thiên Chúa trong mọi cuộc sống nhân linh. Dù đời sống một ai đó đầy gai nhọn và cỏ dại, nó vẫn luôn có chỗ để hạt giống tốt nẩy mầm. Cha phải tin tưởng vào Thiên Chúa”.
Ta có nên lạc quan không?
Lời Đức Giáo Hoàng khiến Cha Sparado nhớ lại một số suy tư trong quá khứ của ngài, trong đó, lúc còn là một Hồng Y, ngài viết rằng Thiên Chúa đã đang sống trong chốn đô hội rồi, giữa mọi người và kết hợp với từng người. Theo ý kiến Cha Sparado, đây là cách nói khác của điều chính Thánh Inhã đã viết trong Linh Thao, tức việc Thiên Chúa “lao nhọc và làm việc” trong thế giới của ta. Bởi thế, Cha đã hỏi Đức Giáo Hoàng: “Ta có nên lạc quan hay không? Đâu là các dấu hy vọng trong thế giới ngày nay? Con làm sao lạc quan được trong một thế giới đang khủng hoảng?”
Đức Giáo Hoàng cho hay: “Tôi không thích dùng chữ lạc quan vì lạc quan đề cập tới một thái độ tâm lý. Thay vào đó, tôi thích dùng chữ hy vọng, theo điều ta đọc được trong Thư gửi tín hữu Do Thái, chương 11, mà tôi đã nhắc đến ở trên. Các cha ông ta trong đức tin tiếp tục tiến bước, sẵn sàng đương đầu với khó khăn. Và hy vọng đã không làm họ nản lòng, như ta đọc thấy trong Thư gửi tín hữu Rôma. Thay vào đó, cha nên nghĩ tới các câu đố đầu tiên trong vở ‘Turandot’ của Puccini”.
Ngay lúc ấy, cha Sparado thoáng nhớ lại trong lòng các câu thơ đố nói về vị công chúa trong vở kịch đó, mà giải đáp là hy vọng:
“Trong đêm ảm đạm này,
một bóng ma lấp lánh bay.  
Nó lên cao rồi tung cánh
trên nhân loại đen bất tận.
Toàn thế giới khẩn cầu
và toàn thế giới nài nỉ nó.
Nhưng bóng ma biến mất với rạng đông
để tái sinh trong tâm hồn.
Và mỗi đêm mỗi sinh ra
và mỗi ngày mỗi chết đi!”
Đức Phanxicô bảo: “Thấy không, niềm hy vọng Kitô Giáo không phải là bóng ma và nó không lừa dối ai. Nó là một nhân đức đối thần và do đó, xét cho cùng, là một ơn phúc của Thiên Chúa mà ta không được giản lược vào chủ nghĩa lạc quan, một chủ nghĩa chỉ có tính nhân bản. Thiên Chúa không hướng dẫn sai về hy vọng; Thiên Chúa không thể tự bác bỏ chính mình. Thiên Chúa hứa hẹn mọi sự.”
Nghệ thuật và óc sáng tạo
Cha Sparado rất ngạc nhiên lúc Đức Phanxicô nhắt tới vở “Turandot” của Puccini khi nói đến mầu nhiệm hy vọng. Cha muốn hiểu hơn các tham chiếu của ngài về nghệ thuật và văn chương. Nên đã nhắc lại việc năm 2006 ngài có nói rằng các họa sĩ biết cách trình bày các thực tại bi đát và đau thương của đời người một cách đẹp đẽ. Và cha đã hỏi Đức Giáo Hoàng xem những ai là các nghệ sĩ và văn sĩ được ngài ưa thích, và liệu họ có gì chung không.
Ngài trả lời: Tôi thực sự yêu thích một loạt các tác giả khác nhau. Tôi rất yêu Dostoevsky và Hölderlin. Tôi nhớ Hölderlin vì bài thơ ông viết nhân dịp sinh nhật của bà ông, một bài thơ rất hay và rất phong phú về thiêng liêng đối với tôi. Bài thơ kết thúc bằng câu thơ sau: ‘Ước chi người đàn ông giữ vững điều đứa nhỏ đã hứa’. Tôi có ấn tượng sâu xa vì tôi yêu bà Rosa của tôi, và vì bài thơ của Hölderlin đã so sánh người bà của ông với Đức Trinh Nữ Maria, đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu, người bạn của trần thế vốn không coi ai là người xa lạ.
“Tôi đã đọc cuốn The Betrothed (Người Đính Hôn) của Alessandro Manzoni, đến ba lần, và hiện tôi đang để nó trên bàn vì muốn đọc lại lần nữa. Manzoni mang lại cho tôi rất nhiều. Khi còn bé, bà tôi dạy tôi thuộc lòng đoạn đầu của cuốn The Betrothed: ‘nhánh Hồ Como rẽ về hướng nam giữa hai dẫy núi điệp trùng. . . ’. Tôi cũng rất thích (thi sĩ) Gerard Manley Hopkins (của Dòng Tên).
“Trong số các họa sĩ trứ danh, tôi thán phục Caravaggio; các bức tranh của ông như nói với tôi. Nhưng cả Chagall nữa, với bức ‘Đóng Đinh Trắng’. Trong số các nhạc sĩ, tôi yêu Mozart do Clara Haskil trình bày. Mozart tràn ngập tôi. Nhưng tôi không thể suy nghĩ về âm nhạc của ông; tôi phải lắng nghe thôi. Tôi thích lắng nghe Beethoven, nhưng theo cung cách sáng tạo (Promethean way), và người giải thích sáng tạo nhất đối với tôi là Furtwängler. Và còn Khổ Nạn của Bach nữa. Tác phẩm của Bach được tôi thích nhất là ‘Erbarme Dich’, nước mắt Phêrô trong ‘Khổ Nạn Theo Thánh Mátthêu’. Quả là tuyệt diệu. Rồi tôi yêu cả Wagner nữa, trên một bình diện khác, không hẳn thân thiết như thế. Tôi thích lắng nghe ông, nhưng không phải bất cứ lúc nào. Buổi biểu diễn tác phẩm ‘Ring’ của Wagner do Furtwängler trình bày tại La Scala ở Milan năm 1950, đối với tôi, là tuyệt diệu hơn cả. Nhưng cả tác phẩm ‘Parsifal’ của Knappertsbusch năm 1962 nữa.
“Ta cũng nên nói về phim ảnh. ‘La Strada’ của Fellini là cuốn phim có lẽ tôi thích nhất. Tôi đồng nhất với cuốn phim, theo nghĩa: cùng mặc nhiên nhắc tới Thánh Phanxicô. Tôi cũng tin rằng tôi đã xem hết mọi cuốn phim của Ý cùng với Anna Magnani và Aldo Fabrizi trong các năm từ lúc tôi 10 tuổi tới lúc lên 12. Một cuốn phim khác được tôi yêu thích là cuốn Rôma, Kinh Thành Mở Cửa’ (Rome, Open City). Tôi có được nền văn hóa phim ảnh là nhờ cha mẹ tôi, các vị thường dẫn chúng tôi đi xem phim rất nhiều lần.
“Dù sao, nói chung, tôi yêu các nghệ sĩ bi đát, nhất là các nghệ sĩ cổ điển. Có một câu rất hay được Cervantes đặt lên môi chàng độc thân Carrasco để khen câu truyện Don Quixote: ‘Trẻ em có nó trong tay, thiếu niên đọc nó, người lớn hiểu nó, người già ca ngợi nó’. Đối với tôi, câu này là câu định nghĩa hay về các tác giả cổ điển”.
Hỏi Đức Giáo Hoàng về việc dạy văn chương cho các học sinh trung học của ngài
Ngài cho hay: “Hơi nguy hiểm một chút. Tôi phải nắm chắc các học sinh của tôi chịu đọc El Cid. Nhưng chúng không chịu. Chúng muốn đọc Garcia Lorca. Thành thử tôi quyết định chúng sẽ đọc El Cid tại nhà, còn ở trong lớp tôi sẽ dạy chúng các tác giả chúng thích hơn cả. Dĩ nhiên, người trẻ muốn đọc các tác phẩm văn chương hơi ‘sỗ’ (racy) một chút, như cuốn La Casada Infiel lúc đó hay các tác phẩm cổ điển như La Celestina của Fernando de Rojas. Nhưng nhờ đọc những truyện này, chúng thủ đắc được một khiếu thưởng ngoạn văn chương, thi ca, và cứ thế chúng tôi tiến qua các tác giả khác. Và đối với tôi đó là một kinh nghiệm lớn lao. Tôi hoàn tất chương trình, nhưng một cách không có cấu trúc, nghĩa là không theo thứ tự mà chúng tôi đã dự tính lúc ban đầu, mà là theo một thứ tự đến rất tự nhiên nhờ đọc các tác giả này. Và cung cách này rất hợp với tôi: tôi không thích có một lịch trình cứng ngắc, nhưng đúng hơn, tôi muốn biết nơi phải đến với những sách đọc này, với một cảm thức đại cương về điểm mình đang đi tới. Sau đó, tôi bắt đầu bắt chúng phải viết. Cuối cùng, tôi quyết định gửi tới Borges hai cuốn truyện do các học sinh của tôi sáng tác. Tôi biết người thư ký của ông ta; người này vốn là thầy dạy dương cầm của tôi. Borges rất thích hai cuốn truyện này. Và thế là ông ta viết lời giới thiệu cho bộ truyện này”.
Cha Sparado hỏi thêm: “Như thế, thưa Đức Thánh Cha, tính sáng tạo là điều quan trọng đối với đời sống người ta hay sao?”. Ngài cười và trả lời: “đối với một tu sĩ Dòng Tên, nó cực kỳ quan trọng! Tu sĩ Dòng Tên phải có óc sáng tạo”.
Các biên cương và phòng thí nghiệm
Trong một cuộc viếng thăm của các cha và nhân viên tờ La Civiltà Cattolica, Đức Giáo Hoàng có nói tới sự quan trọng của bộ ba “đối thoại, biện phân, biên cương”. Và ngài đặc biệt nhấn mạnh tới điểm cuối cùng, qua việc trưng dẫn Đức Phaolô VI, và điều ngài nói trước đó trong một bài diễn văn về các tu sĩ Dòng Tên: “Bất cứ nơi nào trong Giáo Hội, dù là trong các môi trường khó khăn nhất và cùng cực nhất, trong các ngã ba ý thức hệ, trong các giao thông hào xã hội, bất cứ nơi nào từng có và hiện có cuộc thảo luận giữa khát vọng sâu xa nhất của con người nhân bản và sứ điệp muôn đời của Tin Mừng, thì tu sĩ Dòng Tên đều đã có mặt và hiện có mặt ở đó cả”. Nên cha Sparado hỏi Đức Giáo Hoàng xem đâu là các ưu tiên đối với các tập san do Dòng Tên xuất bản.
Ngài cho hay: “Ba chữ chủ yếu tôi ủy nhiệm cho La Civiltà Cattolica có thể được mở rộng cho mọi tập san của Dòng, có lẽ với những nhấn mạnh khác nhau tùy theo bản chất và mục tiêu của chúng. Khi tôi nhấn mạnh tới chữ biên cương, tôi muốn nói cách riêng tới nhu cầu của những ai đang làm việc trong thế giới văn hóa, họ cần hội nhập vào ngữ cảnh trong đó họ đang hoạt động và đang suy nghĩ về. Luôn có mối nguy hiểm rình rập của việc sống trong phòng thí nghiệm. Các ưu tiên của ta không phải là ‘phòng thí nghiệm đức tin’, nhưng là ‘hành trình đức tin’, một đức tin lịch sử. Thiên Chúa vốn tự mặc khải như là lịch sử, chứ không như là bản tóm lược các chân lý trừu tượng. Tôi rất sợ các phòng thí nghiệm vì trong phòng thí nghiệm, cha lấy các vấn đề rồi đem chúng về nhà để khuất phục chúng, tô vẽ chúng, bên ngoài ngữ cảnh. Trong khi biên cương, cha làm sao mang về nhà được, cha phải sống trên biên giới chứ, phải gan dạ chứ”.
Xin Đức Giáo Hoàng các điển hình của kinh nghiệm bản thân
Đức Phanxicô cho biết: “Khi đụng tới các vấn đề xã hội, thì tổ chức một cuộc họp để nghiên cứu vấn đề ma túy tại một khu ổ chuột là một chuyện, mà đi tới đó, sống ở đó và hiểu vấn đề từ bên trong và nghiên cứu nó lại là một chuyện khác hẳn. Có một lá thư tuyệt vời do Cha Arrupe gửi cho Các Trung Tâm Nghiên Cứu và Hành Động Xã Hội về nghèo đói, trong đó, ngài nói rõ ràng rằng người ta không thể nói về nghèo đói nếu không trải nghiệm chính sự nghèo đói, qua việc nối kết trực tiếp với những nơi nghèo đói. Chữ hội nhập (insertion) khá nguy hiểm vì một số tu sĩ coi nó như một thứ thời thượng (fad), và nhiều tai họa đã xẩy ra chỉ vì thiếu biện phân. Nhưng điều đó mới quan trọng thực sự.
“Biên cương thì có rất nhiều. Ta hãy nghĩ tới các nữ tu đang sống tại các bệnh viện. Họ quả đang sống ở biên cương. Tôi sống sót là nhờ một trong số họ. Lúc tôi kinh qua bệnh phổi tại bệnh viện, bác sĩ chích penicillin và streptomycin theo một liều lượng nào đó. Nữ tu trực hôm đó tăng gấp ba liều lượng cho tôi vì bà nhanh trí một cách mạnh dạn; bà biết phải làm gì vì bà sống với người bệnh suốt ngày. Bác sĩ, tuy là người tốt, nhưng sống tại phòng thí nghiệm; nữ tu mới là người sống ở biên cương và đối thoại với biên cương hàng ngày. Thuần hóa biên cương có nghĩa chỉ biết lấy từ một nơi xa xăm, giam mình vào một phòng thí nghiệm. Phòng thí nghiệm hữu ích, nhưng với ta, suy nghĩ luôn phải bắt đầu từ kinh nghiệm”.
Việc con người hiểu mình
Cha Sparado hỏi Đức Phanxicô về các thay đổi lớn lao đang xẩy ra trong xã hội và cách thế con người nhân bản đang tự tái giải thích mình. Đến lúc này, ngài bỗng đứng dậy, đi lấy cuốn sách nguyện để trên bàn. Cuốn sách này bằng tiếng La Tinh và đã cũ mòn vì sử dụng. Ngài mở tới phần Kinh Phụng Vụ Thứ Sáu tuần 27 của Mùa Thường Niên, rồi đọc cho tôi nghe một đoạn trong bài Commonitorium Primum của Thánh Vincent thành Lerins: “Ngay các tín điều của Kitô Giáo cũng phải tuân theo các luật này, củng cố trong nhiều năm, khai tiển với thời gian, thâm hậu với thời gian”
Đức Giáo Hoàng nhận định rằng: “Thánh Vincent thành Lerins đưa ra so sánh giữa việc phát triển về sinh học của con người và việc chuyển giao kho tàng đức tin từ thời kỳ này qua thời kỳ nọ, một kho tàng vốn tăng trưởng và được củng cố với thời gian. Ở đây, việc con người tự hiểu về mình thay đổi theo thời gian và ý thức con người cũng thâm hậu cách đó. Ta hãy nghĩ tới thời kỳ khi nạn nô lệ còn được chấp nhận và án tử hình còn được phép thi hành không bị ai chất vấn. Bởi thế, ta quả lớn lên trong việc hiểu biết chân lý. Các nhà chú giải và các nhà thần học giúp Giáo Hội trưởng thành trong các phê phán của mình. Ngay các khoa học khác và các khai triển của chúng cũng giúp Giáo Hội tiến bộ trong cái hiểu của mình. Có những qui luật và giới điều của Giáo Hội hữu hiệu lúc ấy, nhưng nay đã mất giá trị hoặc ý nghĩa. Quan điểm coi giáo huấn của Giáo Hội như một nguyên khối (monolith) cần phải bảo vệ bất chấp sắc thái hay các hiểu biết khác nhau là quan điểm sai lầm.
“Dù sao, trong mọi thời kỳ lịch sử, con người nhân bản đều cố gắng tự hiểu biết và phát biểu mình tốt hơn. Nhờ thế, với thời gian, con người nhân bản thay đổi cách mình nhìn mình. Có cách riêng để tự phát biểu đối với người tạc bức ‘Thần Chiến Thắng Có Cánh Của Samothrace’, lại có cách khác đối với Caravaggio, Chagall và lại cách khác nữa đối với Dalí. Ngay các hình thức phát biểu chân lý cũng muôn hình muôn vẻ, và điều này quả là cần thiết đối với việc loan truyền Tin Mừng trong ý nghĩa vượt thời gian của nó.
“Con người nhân bản luôn tự đi tìm mình, và dĩ nhiên, trong cuộc đi tìm này, họ có thể phạm nhiều lầm lỗi. Giáo Hội đã trải nghiệm nhiều thời kỳ chói sáng, như thời Thánh Tôma Aquinô. Nhưng Giáo Hội cũng đã sống nhiều thời kỳ sa sút trong khả năng suy nghĩ của mình. Thí dụ, ta không được lẫn lộn thiên tài Tôma Aquinô với thời kỳ sa sút của các chú giải có tính duy Tôma (thomist). Bất hạnh thay, tôi từng phải học triết lý từ các sách giáo khoa phát xuất từ chủ nghĩa duy Tôma sa sút và phần lớn băng hoại này. Cho nên, khi suy nghĩ về con người nhân bản, Giáo Hội phải cố vươn tới thiên tài, chứ không sa sút.
“Khi nào thì việc lên công thức cho tư tưởng hết còn giá trị? Khi nó không còn nhìn ra nét nhân bản và ngay cả lúc nó sợ điều nhân bản hoặc bị lừa đảo về nó. Có thể ví tư tưởng bị lừa như Ulysses gặp bài ca Nhân Ngư, hay như Tannhäuser trong cơn truy hoan vây quanh bởi những kẻ cuồng dâm và chè chén, hay như Parsifal, trong màn hai của kịch bản Wagner tại lâu đài Klingsor. Việc suy nghĩ của Giáo Hội phải phục hồi được nét thiên tài và hiểu tốt hơn cách con người nhân bản tự hiểu về chính mình hiện nay, để có thể khai triển và thâm hậu hóa được giáo huấn của Giáo Hội”.
Việc cầu nguyện
Cha Sparado hỏi Đức Phanxicô về cách cầu nguyện ưa thích hơn của ngài. Ngài cho hay: “Tôi đọc sách nguyện mỗi buổi sáng. Tôi thích cầu nguyện bằng thánh vịnh. Rồi, trễ hơn, tôi cử hành Thánh Lễ. Đọc Kinh Mân Côi. Điều tôi thực sự ưa thích là thờ lạy vào buổi tối, ngay cả lúc đang chia trí và suy nghĩ nhiều việc khác, thậm chí còn ngủ gật lúc cầu nguyện. Như thế, vào buổi tối, giữa khoảng từ 7 tới 8 giờ, tôi qùy trước Mình Thánh một giờ để thờ lạy. Nhưng tôi luôn cầu nguyện trong trí ngay cả khi đang chờ gặp nha sĩ hay bất cứ lúc nào khác trong ngày.
“Với tôi, cầu nguyện luôn là cầu nguyện với trọn trí nhớ, hồi tâm, ngay cả nhớ tới dĩ vãng của mình hay điều Chúa làm trong Giáo Hội hay trong một giáo xứ đặc thù nào đó. Với tôi, đó là trí nhớ những điều Thánh Inhã nói tới trong Tuần Đầu Linh Thao tức cuộc gặp gỡ Chúa Kitô từ nhân chịu đóng đinh. Và tôi tự hỏi: ‘Tôi đã làm gì cho Chúa Kitô? Tôi đang làm gì cho Người? Tôi nên làm gì cho Chúa Kitô?’. Đó là trí nhớ những điều Thánh Inhã nói ở phần ‘Chiêm Niệm để Cảm Nghiệm Tình Yêu Thiên Chúa’ khi ngài yêu cầu ta nhớ lại các ơn phúc ta đã nhận được. Nhưng trên hết, tôi cũng biết rằng Chúa nhớ đến tôi. Tôi có thể quên Người, nhưng tôi biết Người không bao giờ, không khi nào quên tôi. Trí nhớ có vai trò nền tảng đối với trái tim tu sĩ Dòng Tên: nhớ tới ơn thánh, một trí nhớ được Đệ Nhị Luật nhắc đến, nhớ đến các kỳ công của Thiên Chúa làm căn bản cho giao ước giữa Người và dân riêng. Chính trí nhớ này làm tôi trở thành người con của Người, và nó cũng làm tôi thành người cha nữa”.
Vũ Văn An
(americamagazine. org/pope-interview)

Thời sự Giáo Hội