Lời Chúa cntn 25c _ các bài suy niệm

Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: Am 8, 4-7; 1Tm 2, 1-8; Lc 16, 1-13
MỤC LỤC


 

1.   Tên quản lý khôn khéo
Thánh Luca thường hay dùng câu chuyện để dẫn vào một bài học. Câu chuyện là tuỳ, bài học là chính. Ở đây câu chuyện là sự khéo léo xoay xở của một tên quản lý bất lương. Vì là điều tuỳ, nên thánh Luca đã không quan tâm đến những chi tiết, chúng ta chỉ biết anh ta bị mang tiếng là đã phung phá sản nghiệp của chủ và bị cho nghỉ việc.
Trước cái tin bất ngờ như sét đánh này, anh đã tính toán, giảm bớt số nợ của những người đã vay mượn ông chủ, biến họ trở thành người bạn, những kẻ đồng loã, sau này sẽ giúp đỡ anh. Cư xử như vậy là bát lương đối với chủ, nhưng đó lại là sự khôn ngoan của thế gian. Chúa Giêsu khen ngợi sự khôn ngoan đó vì Ngài thấy con cái thế gian đã khôn khéo hơn con cái sự sáng. Ngài không khen ngợi việc làm của hắn, vì hắn là kẻ bất lương, nhưng Ngài phải nhận rằng hắn là một kẻ khôn khéo và mau lẹ. Ngài đau lòng khi nghĩ tới bình diện Nước Trời, người ta đã không mau lẹ và khôn khéo như vậy. Ngài đã đem ơn cứu độ đến trong lời giảng và gương sáng của Ngài, nhưng sao người ta lại hững hờ và chậm chạp quá vậy. Đó là điều đau lòng và đáng trách. Nhưng nếu muốn mau lẹ và khôn khéo đối với Nước Trời, thì chúng ta phải làm gì?
Và đây là bài học, là phần chủ yếu Chúa muốn gởi đến cho chúng ta. Thánh Luca đã không đưa ra một câu trả lời đầy đủ, vì các công việc phải làm để đón nhận Nước Trời thì nhiều và mỗi lần giảng, Chúa Giêsu lại nêu lên một góc cạnh nào đó. Điều Chúa muốn giáo huấn chúng ta hôm nay đó là vấn đề tiền bạc.
Trước hết Ngài muốn khuyên chúng ta hãy bắt chước óc sáng tạo và sự tích cực của tên quản lý mà lo lắng đến việc Nước Trời. Đồng thời cũng hãy bắt chước hắn trong việc tìm cách bảo đảm cho tương lai của mình. Hắn đã tìm cách bảo đảm tương lai đời này thì chúng ta là con cái sự sáng, cũng phải tìm cách bảo đảm tương lai ở đời sau. Vậy phải làm gì và tiền của đời này có giúp ích được gì chăng?
Dĩ nhiên là có. Hãy dùng nó mà tậu của cho mình một kho tàng ở trên trời, nơi đó không có mối mọt và trộm cướp. Ngược lại nếu chỉ dùng tiền bạc mà làm ăn ở đời này thì khốn cho kẻ ngu ngốc vì khi chết liệu có mang theo được hay không? Nhưng thế nào là dùng tiền bạc để tậu cho mình một kho tàng ở trên trời?
Của cải vật chất được ký thác cho chúng ta không phải để chúng ta giữ làm của riêng và coi đó như thần thượng để tôn thờ, nhưng để chúng ta chia sẻ với anh em, làm cho không ai còn thiếu thốn. Vậy chúng ta phải chọn lựa: Hoặc coi tiền bạc là đối tượng mình phải tìm kiếm chất chứa cho thật nhiều, hoặc coi nó như của ký thác để giúp đỡ lẫn nhau. Quan điểm trên xem tiền bạc thành thần tượng. Còn quan điểm dưới, coi nó chỉ là phương tiện xây dựng hạnh phúc chung cho mọi người.
Như thế qua dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đi từ bình diện trần gian sang bình diện Nước Trời. Ngài nói đến sự khôn khéo của con cái thế gian mà thúc giục con cái sự sáng hãy lanh lẹ hơn đối với công việc thiêng liêng. Chúa không chấp nhận thái độ tham lam tiền bạc, biến tiền bạc nên thần tượng, ngược lại Ngài muốn chúng ta dùng tiền bạc để chia sẻ và giúp đỡ kẻ khác. Thái độ trước coi tiền bạc là một thứ tôn giáo, quan điểm sau nhờ tôn giáo mà chúng ta thấy cần phải chia sẻ mọi sự với mọi người.


2.   Sử dụng tiền bạc
Đoạn Tin Mừng sáng này có vẻ khó hiểu, vì thế tôi xin bắt đầu bằng một câu chuyện:
Có một anh lính ba gai, không bao giờ làm hài lòng về cấp chỉ huy của mình là một ông đại tá. Mỗi lần trình diện thì hoặc là giày còn bẩn, súng chưa lau, hay tới chậm mất mấy phút. Hôm đó anh được xả trại và được tự do đi chơi cho tới 8 giờ tối. Vào lúc 7g45 anh vẫn còn lang thang ngoài phố. Bất ngờ anh trông thấy chiếc xe của ông đại tá. Định rẽ vào một con hẻm nhưng không kịp. Ông đại tá dừng xe trước mặt anh và nói:
- Đúng 8g anh phải trình diện tôi tại bộ chỉ huy, bằng không sẽ bị 3 ngày cấm cố.
Anh lính suy nghĩ thật mau. Chỉ còn 15 phút nữa. Đi bộ thì không kịp, đón xe thì không có. Lập tức anh chạy theo chiếc xe của ông đại tá. May thay chiếc cốp phía sau vẫn còn mở. Thế là anh vội nhảy lên và chui tọt vào trong. Ông đại tá cho xe chạy vòng vòng qua mấy ngã đường rồi trở về doanh trại. Nhưng khi xe vừa dừng lại thì anh lính cũng nhảy xuống và trình diện ông đại tá. Ông đại tá bèn khen:
- Anh đã hành động khôn ngoan, tôi tha phạt cho anh, từ nay trong mọi hoàn cảnh, anh cũng hãy hành động khôn ngoan như thế.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng đã kể lại một câu chuyện tương tự như thế. Tên quản lý thực là là một kẻ trộm cắp. Chúa Giêsu không ca tụng sự gian tham của hắn, nhưng khen ngợi hắn đã hành động một cách khôn ngoan, và rồi Chúa đi đến kết luận: Không phải chỉ con cái thế gian, mà cả con cái sự sáng cũng phải tỏ ra thận trọng và khôn ngoan như vậy. Rồi Chúa cũng chỉ cho chúng ta cách thức để hành động khôn ngoan, đó là hãy dùng tiền bạc vật chất, hãy dùng tất cả những gì chúng ta có để tạo lấy những bạn hữu sẽ giúp chúng ta vào Nước Trời.
Để hiểu được điều đó, tôi xin kể tiếp một mẩu chuyện nữa: Ông chủ vườn chôm chôm giàu có, sáng nọ thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng nhìn vào một cách thèm thuồng. Ông là người yêu trẻ nên cho gọi hai em đến và bảo:
- Hai em cứ việc vô vườn ăn, nhưng không được đem trái nào ra.
Trước khi các em đi về, ông đã khám túi và hài lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào cả. Nhưng ông lấy làm lạ vì thấy hai em đi theo bờ dậu, cúi xuống như lượm một cái gì đó. Đoán được mưu của hai em, ông cho gọi lại và hỏi. Hai em bèn phải thú thực rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi sẽ lượm về cho em. Ông khen hai em đã hành động khôn ngoan và cho phép hai em đem những quả chôm chôm ấy về. Hai em nhỏ là chúng ta. Ông chủ vườn là Thiên Chúa. Thửa vườn là thế gian. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có được như tiền bạc, cơm gạo, áo quần... Những sự ấy chúng ta không thể đem theo khi từ giã cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một cách để hành động, chúng ta có thể ném ra ngoài hàng rào những cái chúng ta đang có, nghĩa là chúng ta chia sẻ phần tiền bạc vật chất cho những kẻ nghèo khó. Điều đó Chúa không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa. Nếu chúng ta hành động khôn ngoan, chúng ta sẽ trở thành bạn hữu của Chúa và chúng ta sẽ tìm thấy ở trên trời tất cả những gì mà trong cuộc sống trần gian chúng ta đã ném qua hàng rào, bằng cách cho đi để phục vụ và giúp đỡ những người chung quanh.
Để kết luận, chúng ta có thể nhớ lại lời Kinh Hoà bình của thánh Phanxico Assie: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

3.    Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.
Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.
Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.
Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.
Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.
Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.
Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.
Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian.
Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.
Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?
2) Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?
3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?
4) Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của Chúa?

4.    Người quản lý trung tín
(Trích dẫn từ Logos)
Tại Trung Hoa vào thời chiến quốc có ông Phùng Huyên giúp việc cho ông Mạnh Thường Quân là tướng của nước Tề.
Một hôm, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên qua đất Tiết để thu các món nợ. Trước khi Phùng Huyên ra đi, Mạnh Thường Quân dặn: “Xem trong nhà còn thiếu gì thì cứ mua về.
Phùng Huyên đến đất Tiết, cho mời tất cả những con nợ của chủ đến và tuyên bố: “Mạnh Thường Quân ra lệnh xoá bỏ tất cả sổ nợ!”. Sau đó, ông ta đốt hết giấy nợ. Những người thiếu nợ và toàn dân đất Tiết vui mừng tung hô vạn tuế Mạnh Thường Quân.
Khi về nhà, Phùng Huyên tường trình công việc với Mạnh Thường Quân: “Khi đi, tướng quân bảo tôi mua những gì trong nhà còn thiếu. Tôi nghĩ trong nhà tướng quân dư thừa của cải, không thiếu vật gì cả, chỉ thiếu “điều nghĩa”, nên tôi trộm lệnh mua điều nghĩa đem về. Mạnh Thường Quân ngạc nhiên hỏi: “Mua điều nghĩa là thế nào?”. Họ Phùng đáp: “Tôi tha cho tất cả các con nợ, đốt các văn khế, dân chúng vui mừng tung hô tướng quân, đó là tôi mua điều nghĩa cho tướng quân vậy”.
Năm sau, vua Tề không dùng Mạnh Thường Quân nữa, ông lui về đất Tiết ở. Toàn dân nghe tin, liền ra đón rước và hoan hô ông nhiệt liệt. Khi ấy, Mạnh Thường Quân quay sang Phùng Huyên nói: “Tiên sinh vì tôi mà mua điều nghĩa, ngày nay tôi mới trông thấy”.
Câu chuyện ông Mạnh Thường Quân mua “điều nghĩa” làm nổi bật lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”.
Chúa kể dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Trung” để giải thích lời dạy đó của Ngài.
Vì thâm lạm tài sản của chủ nên người quản lý đã bị ông chủ cho nghỉ việc. Anh ta đã nghĩ ra cách để có một cuộc sống an nhàn sung sướng sau khi mất việc: anh ta đã lén chủ giảm số nợ của những người mắc nợ để dùng tiền bạc của chủ mà mua lấy ân nghĩa và bạn bè.
Chúa Giêsu khen ngợi người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo. Thật ra, qua dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Trung” Chúa Giêsu có ý dạy hai điều:
a) Hãy dùng tiền bạc trần thế để đầu tư vào hạnh phúc vĩnh cửu.
Trong thời buổi “kinh tế thị trường” hôm nay, người ta rất chú trọng đến việc “đầu tư nghĩa là bỏ vốn để sinh lời. Đồng tiền được “xoay vòng” là đồng tiền sinh lợi nhuận. Đó là định luật của kinh tế. Vì thế, nếu biết tính toán khôn ngoan thì nhờ vốn liếng bỏ ra, người ta có thể trở nên giàu có. Cũng vậy, với “định luật Nước Trời”, người ta có thể dùng của cải trần thế để đầu tư vào hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Nghĩa là, người ta có thể dùng tiền bạc phi nghĩa ở đời này để mua lấy kho tàng hạnh phúc Nước Trời. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể mua được hạnh phúc Nước Trời bằng những “đồng bạc biết cho đi”. Chúa ban cho chúng ta của cải đời này dùng làm phương tiện giúp ta nên thánh và chia sẻ cho tha nhân. Hơn nữa, tiền bạc của cải không phải là cứu cách cuộc đời chúng ta. Chính Thiên Chúa mới là gia nghiệp mà chúng ta hướng tới như cùng đích cuộc đời mình, như lời Chúa dạy: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”.
b) Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn.
Người quản lý trong dụ ngôn hôm nay tỏ ra là người khôn ngoan. Anh ta đã ranh mãnh trong việc dùng tiền bạc của chủ để mua lấy một tương lai an nhàn sung sướng. Thật ra, anh ta “khôn” nhưng không “ngoan”, vì anh ta đã làm một việc gian dối để thu lợi một cách bất chính cho mình. Có lẽ vì anh ta đã “không trung tín trong việc nhỏ nên cũng không trung tín trong việc lớn”, vì vậy anh ta đã bị chủ đuổi việc. Sau này, nếu anh ta cứ sống trong sự gian dối và bất trung, anh ta cũng không thể tìm được hạnh phúc chân thật.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để trở thành người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Chúa đã trao cho chúng ta biết bao ân huệ để chúng ta biết sinh lợi cho phần rỗi đời mình, cũng như làm lợi cho anh em. Nếu chúng ta biết quản lý cuộc đời mình một cách trung thành và xứng đáng, chúng ta sẽ được Thiên Chúa trao cho kho tàng hạnh phúc vĩnh cửu. Nếu chúng ta trở thành một người quản lý bất trung, chúng ta sẽ đánh mất chính mình và anh em. Nhưng “cái mất” lớn nhất là “đánh mất Thiên Chúa” là cội nguồn của niềm hạnh phúc mà ta hằng khát khao.
Trong bài đọc I, tiên tri Amos đã mạnh mẽ lên án tội lỗi của những người giàu: vì mải mê kiếm tiền nên họ bỏ bê những bổn phận đạo đức, gian lận “giảm đấu đong, tăng giá và làm cân giả, thậm chí bóc lột cả người nghèo.
Đó chính là lời nhắc nhở để hôm nay chúng ta biết đồng cảm với những người nghèo khó, chia sẻ tình thương với họ và tránh xa lòng ganh tỵ, oán hờn và tranh chấp, nhưng biết xây dựng hòa bình (bài đọc II, trích thư gửi Timôthêô).
Vào một đêm giông bão, có hai vợ chồng đã lớn tuổi đến một khách sạn ở vùng Philadelphia, nước Mỹ để thuê phòng trọ qua đêm. Nhưng đáng tiếc, khách sạn hết phòng. Cảm thương hai vợ chồng không có chỗ nghỉ đêm trong một đêm mưa gió như thế, người quản lý khách sạn nói:
- Tôi sẽ nhường phòng của tôi cho ông bà.
- Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu?
- Đừng lo cho tôi, tôi có thể kiếm được chỗ.
Sáng hôm sau lúc trả tiền phòng, người chồng nói với viên quản lý:
- Quả thật, anh xứng đáng làm chủ một khách sạn lớn nhất nước Mỹ!
Hai năm sau, người quản lý nhận được một bức thư kèm theo một vé máy bay đi New York và một tấm danh thiếp của ông khách trọ hai năm trước.
Đến New York, người quản lý được ông khách trọ dẫn đến đại lộ số 5, đường 34, chỉ một tòa nhà cao tầng nguy nga đồ sộ mới xây và nói:
- Đây là khách sạn tôi tặng cho anh.
Ông khách trọ đó chính là tỷ phú William Wadorf Astoria. Ông đã thực hiện lời đã hứa trước đó 2 năm.
Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa đặt làm quản lý trong cuộc sống. Nếu chúng ta trung tín gìn giữ cuộc đời mình trong ơn thánh Chúa và biết chia sẻ những ân huệ Chúa ban cho tha nhân, chúng ta sẽ làm giàu cho chính mình trong cuộc sống mai sau.

Truyện kể: Ngày xưa có tên lái buôn gian xảo dùng mạt cưa pha vào cám đem bán. Nhưng có tên bán mướp, còn gian hơn. Hắn lấy mướp đắng, giả làm dưa leo bán giá đắt hơn. Ngày kia, hai gã gặp nhau. Cả hai người tưởng hàng của nhau là thật, liền thỏa thuận đổi cám lấy dưa về dùng. Cả hai người đều hí hửng. Nhưng tới lúc xài mới hay là của giả, rõ ràng gian lại gặp tham
Sự gian manh đã len lỏi đi vào lòng người từ rất xa xưa. Với lòng gian xảo, nhiều người tham lam đã dùng đủ mọi cách để làm lợi cho mình, bất chấp sự thiệt hại của tha nhân. Tiên tri Amos đã nêu ra những thói đời xấu xa: Các ngươi bảo: "Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả (Am 8, 5). Xưa cũng như nay, xã hội nào cũng có những người xấu chuyên môn lường gạt, gian dối, lừa lọc, xảo trá và dùng nhiều thủ đoạn để vun đắp phần lợi về mình. Họ dùng những đồ giả, đồ nhái hay đồ giả mạo che mắt người khác để bán kiếm lợi lộc cách bất công. Làm ít mà muốn hưởng nhiều, của giả mà đòi bán giá thiệt.
Mỗi thời đại đều có những tệ nạn xã hội khác nhau. Nơi đâu cũng có kẻ tốt và người xấu xuất hiện. Người tiểu tâm lại khéo nói và dễ gây cảm tình. Họ dùng rất nhiều mánh khóe để tìm lợi ích cho cuộc sống riêng tư. Họ khéo xử dụng miệng lưỡi để mua chuộc nhân tâm. Amos tố cáo âm mưu của họ. Họ nói: Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát" (Am 8, 6). Đối với họ, đồng tiền là trên hết. Họ có thể dùng tiền bạc đổi chác những gì mà họ ưa thích. Của cải không còn là phương tiện, mà trở thành chủ nhân và cùng đích cuộc đời. Cũng thế, khi say mê của cải phù vân ở đời, chúng ta dễ bị lệ thuộc và làm nô lệ cho của cải. Vì sự tham lam như chiếc túi không đáy. Đã có, lại muốn có thêm. Chúng ta chẳng khi nào cảm thấy đầy đủ.
Qua bài dụ ngôn Người Quản Lý, Chúa Giêsu vạch rõ cách cư xử khôn khéo của người đời. Tin rằng đời sống sẽ không bao giờ bị bế tắc, vì không ra được cửa này và sẽ luồn qua cửa kia. Người quản lý gian tham và bất tín đã tìm ra cách gian dối để cứu vãn đời mình. Đặt lợi ích đời sống của mình trước và bất chấp sự thiệt hại cho người chủ. Anh quản lý đã sửa đổi văn tự, giảm bớt giấy nợ và lấy của chủ cho đi để gây phúc cho mình. Phải nói rằng anh quản lý đã tính toán rất khôn ranh. Lương tâm của anh trở nên chai lì không còn nhậy bén về sự công bằng và ngay thật. Khi học biết sự việc đã xảy ra, ông chủ cũng thầm cảm phục sự khéo tính toán của anh ta: Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng (Lc 16, 8).
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để dạy chúng ta bài học về sự trung tín và ngay thẳng. Dù việc tư hay công, một hành động gian dối nhỏ, cũng sẽ làm thiệt hại lòng tin tưởng. Chúa nói: Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn (Lc 16, 10). Đúng là một sự bất tín, vạn sự chẳng tin. Hình như sự gian dối cứ luẩn quẩn quanh cuộc sống của mỗi người chúng ta. Ở đời có mấy ai thoát khỏi sự dối trá, gian lận to hoặc nhỏ. Nói dối hoặc nói lối cách này hay cách khác để tránh nói sự thật. Có khi nói dối để tránh sự tò mò, vô thưởng vô phạt, không hại mình hay hại người. Người ta thường nói: Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ. Trẻ em thành thật hơn. Chúng ta ghi nhớ Giới răn Chúa dạy: Thứ Tám là chớ làm chứng dối.
Qua câu truyện trong dụ ngôn, Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta dùng tiền bạc cách khôn ngoan: Phần Thầy, Thầy bảo các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời (Lc 16, 9). Tiền bạc gian dối là của cải trần đời. Tiền được lưu truyền qua tay người này tới người khác. Đồng tiền lang thang khắp chốn. Chúng ta chẳng biết tiền sạch hay dơ. Nhờ tín dụng, của cải tiền bạc có giá trị trao đổi. Tờ giấy đồng tiền có giá trị khi chúng ta biết sử dụng đúng nơi đúng chỗ. Chúng ta có thể dùng tiền bạc đời này để sắm sửa gia tài đời sau. Với ý thức, tình yêu và lòng muốn, con người giúp hoán chuyển những giá trị của cải tạm thời hư không trở thành những món qùa vô giá. Những của cải mà chúng ta dâng cúng làm phúc, làm việc bác ái và giúp đỡ kẻ khó nghèo đã trở thành gia sản quí báu ở Nước Trời.
Truyện kể: Ngày kia, một cô hội viên từ thiện chuẩn bị gõ cửa để vào quyền tiền, thì nghe bà chủ nhà cằn nhằn cô tớ gái: Chị lại đốt phí một que diêm rồi đấy. Cô hội viên thầm nghĩ có lẽ mình sẽ quyên được rất ít. Tuy vậy, cô gõ cửa và cánh cửa mở ra. Bà chủ nhà tươi cười nói: Thưa cô, chắc cô vừa nghe tôi cằn nhằn, nhưng nếu tôi không tiết kiệm từng que diêm, thì ngày nay đâu có 500 quan tiền để giúp Hội Từ Thiện.
Tiền bạc của cải gắn liền với chúng ta suốt quãng đời trần thế. Của cải chỉ buông tha khi chúng ta nhắm mắt lìa đời. Biết rằng, cho dù chúng ta có gắng công làm giầu, gom góp và tích trữ của cải thật nhiều nhưng khi ra đi, chỉ có hai bàn tay trắng chẳng mang theo được gì. Khi đó của cải của chúng ta sẽ để lại cho người khác hưởng dùng. Nên biết cuộc đời của con người là một hành trình đi về cùng đích. Khởi đi từ trần thế và lữ hành về cõi sau. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm thời đang hướng về cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không thể dừng lại bám víu vào của cải phù hoa thế trần. Chúng ta cần dứt khoát chọn lựa thái độ sống để hưởng hạnh phúc. Chúa Giêsu nhắc nhở: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được" (Lc 16, 13). Dĩ nhiên, chúng ta chọn làm tôi Thiên Chúa. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, rồi mọi sự Ngài sẽ ban cho. Có Chúa, chúng ta sẽ có tất cả.
Thiên Chúa quan phòng yêu thương mọi loài thụ tạo. Kìa xem hoa qủa đồng nội, Thiên Chúa luôn chăm sóc thiên nhiên cho mưa thuận gió hòa tưới gội. Muông thú nơi rừng xanh và chim trời cá biển chẳng cần phải gieo vãi thu hoặch, Thiên Chúa vẫn nuôi chúng hằng ngày. Sự sống của con người đáng giá hơn chim sẻ bội phần. Chúng ta cần nhận biết sứ mệnh làm người rất là cao cả. Thiên Chúa an bài cho con người cuộc sống an vui đời này và hạnh phúc đời sau. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêo viết: Đó là điều tốt lành và đẹp lòng Đấng Cứu Độ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý (1Tm 2, 3-4). Cùng đích của cuộc đời là lãnh nhân ơn cứu rỗi và chung hưởng hạnh phúc quê trời. Chính Chúa Giêsu đã mở lối dẫn đường. Chúng ta không thể chọn lựa con đường nào khác. Một con đường duy nhất là chọn Thiên Chúa làm chủ và làm gia nghiệp đời chúng ta. Vì chỉ có một Thiên Chúa và một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Đức Giêsu Kitô, cũng là con người (1Tm 2, 5).
Lạy Chúa, rất nhiều khi chúng con đã xả thân tìm kiếm những của cải phù vân. Chúng con bán lương tâm để gom góp những của nợ hay hư nát của trần đời. Xin cho chúng con biết tỉnh ngộ, biết buông bỏ và nhận biết chân lý. Xin Chúa dủ thương dẫn dắt chúng con đến cùng Chúa và chọn Chúa làm gia nghiệp.



6.   Nhìn rộng thấy xa – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Người quản lý trong Tin Mừng hôm nay, khi biết chủ sắp sa thải mình và biết rằng lúc đó thì anh không còn nơi nương tựa, không còn cơm ăn áo mặc như xưa nay, nên anh nghĩ ra một diệu kế: Anh khôn khéo gọi các con nợ của chủ đến, dùng quyền hạn chủ trao cho mình, tha bớt phần nợ cho họ. Khi làm như thế, anh hy vọng mai đây, khi anh bị đuổi việc, những con nợ nầy sẽ đền ơn anh và sẽ đón rước anh vào nhà họ.
Hành động khôn khéo nầy cũng đã được một người khác thực hiện và đã được ghi lại trong sách xưa như sau:
Thời Chiến Quốc, tại Nước Tề có một vị tướng quốc tài hoa lỗi lạc là Mạnh Thường Quân. Ông là người giàu có, lại có lòng nghĩa hiệp, hào phóng với hết mọi người. Trong nhà lúc nào cũng tấp nập khách thập phương thăm viếng, chuyện trò, ăn uống. Danh tiếng Mạnh Thường Quân vang khắp các lân bang thời ấy.
Một hôm, Mạnh Thường Quân sai một người bạn tên là Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi lên đường, Phùng Nguyên hỏi Mạnh Thường Quân rằng : "Ngài có muốn tôi mua thứ gì bên đó về cho ngài không?" Mạnh Thường Quân trả lời : "Ngươi xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua." Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên triệu tập các con nợ của Mạnh Thường Quân lại và yêu cầu họ xuất trình giấy nợ. Sau khi nắm được số liệu giấy tờ, thay vì đòi họ thanh toán hết tiền gốc tiền lãi, Phùng Nguyên nhân danh Mạnh Thường Quân tuyên bố tha hết nợ cho dân và truyền cho các đầy tớ đem tất cả giấy nợ ra đốt sạch.
Thế là trong phút chốc, bao nhiêu nợ nần xưa nay biến tan theo làn khói; tất cả các con nợ thở phào nhẹ nhõm và ghi tâm khắc cốt ân đức của Mạnh Thường Quân.
Mấy hôm sau, thấy Phùng Nguyên trở về tay không, Mạnh Thường Quân hỏi: “Nhà ngươi đã thu được bao nhiêu tiền nợ? Đã mua được thứ gì?” Phùng Nguyên trả lời : "Theo thiển ý của tôi thì trong nhà của ngài chẳng thiếu gì cả, có chăng là thiếu ơn nghĩa dành cho người túng cực mà thôi. Chính vì thế, tôi đã trộm phép ngài để mua ơn nghĩa cho ngài. Tôi hy vọng là ngài sẽ rất hài lòng".
Về sau, Mạnh Thường Quân bị hàm oan và bị bãi quan, phải về nương náu tại đất Tiết. Dân chúng nơi đây nhớ ơn vị đại ân nhân đã tha nợ cho họ năm xưa, rủ nhau ra đón rước thật tưng bừng và thân mật. Mạnh Thường Quân vui sướng quay lại nói với Phùng Nguyên: "Nhà ngươi xem, chắc hẳn đây là cái ơn nghĩa mà trước đây nhà ngươi đã mua giùm cho ta!"                                                       
Dù hôm nay tôi cố hết sức bám trụ vào mặt đất nầy bằng cách củng cố thật vững địa vị của tôi, nắm ghì thật chặt chiếc ghế của tôi, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài sản, ruộng vườn… thì mai đây, tôi cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời nầy như chiếc lá lìa cành trong cơn lốc dữ
Tất cả những gì tôi mua sắm được hôm nay, người khác sẽ sử dụng. Những gì tôi đang sở hữu sẽ thuộc về người khác… Còn lại gì cho tôi?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy phải lấy của cải phù du để đổi lấy tài sản muôn đời và biết tận dụng những gì hiện có để mua sắm cho mình một nơi cư ngụ vĩnh cửu trên thiên quốc. Cụ thể là hãy dùng những ân huệ Chúa ban như sức khoẻ, thời giờ, tài năng, trí tuệ, tiền bạc… để mua nghĩa, mua bè bạn, mua lấy một chỗ ở trong Nước Trời.
Người tôi tớ bất lương trong Tin Mừng hôm nay quả là rất khôn ngoan khi biết lợi dụng tài sản mà anh được người chủ trao cho quản lý tạm thời để mua lấy bạn hữu và mua lấy nơi ăn chốn ở cho mình trong những ngày khốn đốn.
Phùng Nguyên cũng đã rất khôn khéo khi dùng tiền bạc của Mạnh Thường Quân để mua ơn, mua nghĩa cho bạn của mình, nhờ đó mà sau nầy ông cùng Mạnh Thường Quân được hưởng phúc trong lúc sa cơ.
Phúc thay cho những người có tầm nhìn xa. Họ như thuyền trưởng phát hiện được tảng băng từ xa, nên có đủ thời giờ quay mũi tàu thoát hiểm. Họ như người săn tìm ngọc quý, bán đi những gì tầm thường mình có để mua cho bằng được một viên ngọc tuyệt vời.
Lạy Chúa, xin cho Lời khôn ngoan của Chúa đánh thức chúng con khỏi mê đắm những thứ phù phiếm đời nầy và biết khôn ngoan đánh đổi những thứ phù du để thu về những điều vĩnh cửu.

7.   Quản lý trung tín – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Không biết đã từ thuở nào người ta đã coi "đồng tiền là Tiên là Phật". Đồng tiền có thể thay đổi vận mạng của một đời người. Từ hèn ra sang. Từ lính quèn lên quan lớn. Đồng tiền còn có sức mạnh cải tử hoàn sinh. Từ bản án tử hình có thể trắng án vô tội. Đồng tiền còn làm biến chất một con người. Từ hiền ra dữ. Từ ngay thẳng ra lừa dối gian tham. Từ con người nết na thuỳ mỵ, trở thành kẻ sa đoạ, trụy lạc. Xem ra đồng tiền là nguyên do đưa đến những tiêu cực. Xem ra đồng tiền đã làm "hư bột, hư hồ". Xem ra không thể gọi đồng tiền là tiên là phật được, mà phải gọi là ma, là qủy. Tiên, Phật theo dân gian là luôn dạy người ta ăn ngay ở lành. Tiên Phật luôn giúp con người hướng về thiện, luôn gìn giữ, bảo vệ những nét đẹp của con người và thiên nhiên. Tiên Phật đâu đang tâm gây nên những xáo trộn cho nhân thế. Tiên Phật đâu khiến con người gian tham, lừa đảo. Chỉ có ma qủy mới làm biến chất con người. Chỉ có ma qủy mới làm cho con người tha hoá đạo đức. Chỉ có ma qủy mới làm băng hoại những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp cao qúy của biết bao nền văn hoá nơi các dân tộc.
Thực vậy, đồng tiền luôn có một ma lực hấp dẫn con người. Nó làm cho con người "hoa mắt vì tiền". Nó mê hoặc lòng người đến mất cả tính người, và trở thành tay sai cho ma qủy gieo vãi khổ đau cho nhân thế. Thời xưa, tiên tri Amos đã đau lòng khi nhìn thấy con người đang đầy đoạ lẫn nhau chỉ vì tiền. Có quá nhiều kẻ tham lam nên đã dùng quyền để đàn áp và bóc lột người khác. Có quá nhiều kẻ chỉ vì tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Họ coi mạng người chỉ là đồ vật để mua bán trao đổi. Có quá nhiều kẻ vì ham tiền nên đã đang tâm buôn gian bán thiếu để vun quén cho đầy túi tham. Nhà tiên tri đã nói với họ rằng: "Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: 'Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lượng đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu' Và Chúa đã thề rằng: 'Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng". (Am 8,4-7).
Vâng, Thiên Chúa là Đấng công minh chính trực. Chính Ngài sẽ đòi lại công bằng cho những kẻ bị bóc lột và ức hiếp. Từng hành vi của kẻ gian ác đều phải trả lẽ công bằng trước toà án Tối Cao. Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt lệ cho người cùng khốn. Và chính Ngài sẽ trừng phạt những kẻ gian tham vào nơi tối tăm, ở đó chỉ còn tiếng khóc lóc và nghiến răng.
Lời nguyền dành cho kẻ gian ác được đọc lên từ thời rất xa xưa, nhưng nó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay. Bởi vì vẫn còn đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, để cho vay nặng lãi và làm giàu. Vẫn còn đó những kẻ bỏ lễ, bỏ đạo để làm tôi cho ma qủy, mong được hưởng những bổng lộc trần gian mau qua. Vẫn còn đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Và vẫn còn đó những kẻ sợ có thêm một miệng ăn, một gánh nặng cho vợ chồng nên quyết định phá thai, giết người. Vẫn còn đó những kẻ dùng tiền để biến người khác thành hàng hoá, đồ vật để trao đổi và thoả mãn lạc thú. Đồng tiền đã và đang làm cho xã hội điêu đứng, cho tình con người trở thành thứ yếu vì "tiền là trên hết".
Lời Chúa hôm nay, phải là lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng ta: Hỡi những kẻ quản lý của Thiên Chúa. Chúa đã yêu thương và tin tưởng giao cho chúng ta quá nhiều gia sản của Ngài. Ngài trao cho chúng ta quản lý tiền của, thời giờ và tài năng. Tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban. Đó là những nén bạc mà Chúa bảo chúng ta phải sinh lời cho Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa. Là người quản lý, không chỉ có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà còn biết ban phát theo ý Chúa. Chúa tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha nhân được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng của Ngài trải rộng tới muôn nơi. Như vậy, người quản lý phải tuyệt đối trung thành với Chúa. Người quản lý không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi ma qủy. Làm tôi Thiên Chúa thì không thể để cho ma qủy dẫn dắt vào đường gian dối, tham lam và ich kỷ hưởng thụ. Cho dù có được những bổng lộc trần gian nhưng mất linh hồn thì được ích gì.
Ngày xưa, Alexandre Đại đế, một ông vua đầy uy quyền, đã truyền phải treo ở ngoài quan tài một bàn tay khô và trống trơn của ông, để nhắc nhở cho mọi người biết rằng: dù là Đại đế uy quyền, thì cũng chỉ ra đi với hai bàn tay trắng và không thể đem theo bất cứ sự gì. Đó là sự thật. Bên cạnh đó, sự sống con người không dừng lại ở cái chết. Sự sống vẫn tiếp diễn. Có khác chăng là con người không còn làm kẻ quản lý gia sản của Thiên Chúa. Con người chỉ ở một trong hai tình trạng: hưởng hạnh phúc đời đời vì một đời làm quản lý trung tín hay bị đau khổ muôn đời vì những bất trung trong đời sống dương gian. Đau khổ hay hạnh phúc đời đời tuỳ thuộc vào cuộc sống hôm nay. Thế nên, Chúa bảo chúng ta hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu Nước Trời. Hãy can đảm vượt thắng những cám dỗ của tiền tài và lạc thú. Hãy sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để gieo rắc tình yêu và hạnh phúc cho nhân thế ngõ hầu, mai sau, chính họ, những con người đã được chúng ta trao ban giúp đỡ sẽ đón chào chúng ta ở trên quê trời. Giống như Mạnh Thường Quân năm xưa, khi ông còn tại chức, ông đã dùng quyền của mình để xoá nợ cho người nghèo, để giúp đỡ kẻ thấp hèn, đến khi ông thôi chức quan, và trở về quê hương, ông đã trở về giữa muôn tiếng reo hò của vạn dân mà ông đã từng giúp đỡ. Phải chăng đó cũng là cách hay nhất để chúng ta có được một ngày trở về nhà Cha giữa muôn tiếng reo hò của bạn hữu Nước trời? Amen.

8.   Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
(Trích dẫn từ ‘Nút vòng xoay’)
CĂN BỆNH NGUY HIỂM
Tháng 10 năm 1990, ông Nhêbôisa Bôtrêvích, nhà tiên tri nổi tiếng gốc Nam Tư, người đã tiên báo bức tường Bá Linh sụp đổ và nước Đức thống nhất, trong cuộc gặp mặt tại nhà văn hóa Liên Xô, đã buồn rầu thông báo: chẳng bao lâu nữa, trên thế giới sẽ xuất hiện một căn bệnh nguy hiểm được truyền qua những tờ giấy bạc (x. Sáng Tạo số 44, tháng 10 năm 1990).
Nghe lời thông báo ấy, thú thật ban đầu tôi không tin. Ba láp! Nhưng khi tổng hợp những sự kiện nước ngoài: Tỷ phú Max Well chết đột ngột trên du thuyền để lại món nợ bất minh hàng triệu đô la; hàng loạt chính khách Nhật Bản rớt đài vì dính líu làm ăn với những công ty đa quốc gia; quan tòa Ý Falcon bị sát hại, tôi nghĩ có thể có một căn bệnh nguy hiểm truyền qua tiền bạc. Rồi nối kết với một vài sự kiện gần đây trong nước: đường giây sextour Bambi bị đem ra ánh sáng và băng cướp “quý tử bị hầu tòa, tôi nghiệm ra ra thật có một căn bệnh như thế. Để rồi hôm nay tiếp cận với Phúc Âm, khi Thiên Chúa không chấp nhận cho kẻ tin đặt Ngài đứng chung liên danh với tiền bạc, xin được chia sẻ về dấu vết của căn bệnh ấy. Phần gọi tên xin nhường cho cộng đoàn. Chỉ biết rằng một khi mắc phải căn bệnh ấy người ta khinh thường tất cả: phá đổ đạo đức, khai trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và đó là căn bệnh nguy hiểm cho lòng tin tín hữu. Có ba dấu vết:
1. Dấu vết thứ nhất được nhận ra trong thái độ cần tiền.
Tiền bạc vốn lạnh lùng. “lạnh như tiền”. Tiền chẳng quen ai, nhưng ai cũng quen tiền: trẻ khóc đòi dòng sữa mẹ, nhưng được người lớn dỗ dành dúi vào tay một tờ giấy bạc, lâu ngày thành quen, để sau này mỗi lần khóc lại thích nhận lấy tờ giấy bạc thay cho nỗi sầu nhớ mẹ. Một người nhà quê chẳng biết chữ nhưng trong sinh hoạt hằng ngày đố ai thấy bác tính toán sai một đồng.
Tiền chẳng có tình cảm, nhưng không thiếu những tình cảm với tiền: được tiền thì vui cười hỉ hả, mất tiền thì rầu rĩ xót xa. Ngày tết lì xì tiền thay cho phước thọ và ngày cưới, mừng tiền thế cho tình thân. Dù Tết hay Cưới, người ta đều chúc: “Tiền vô như nước sông Đà, tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin”.
Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền: chưa sinh ra đã cần tiền để mẹ tròn con vuông và chết rồi vẫn cần tiền để ma chay tốt đời đẹp đạo. Trẻ cần tiền ăn học, lớn cần tiền để gầy dựng sự nghiệp và già cần tiền để dưỡng thân. Đời cần tiền để phát triển nhưng đạo cũng cần tiền để xây dựng mở mang.
Tiền cần nên tiền quý. Người làm ra tiền là người giỏi, nghề hái ra tiền là nghề trọng, người có nhiều tiền được nể vì. Cứ như thế đồng tiền ung dung đi vào tư tưởng lời nói và việc làm của con người. Tình trạng cần tiền lâu ngày ủ mầm có thể dẫn đến nguy cơ lệch lạc trong cách nhìn con người và sự việc, nhất là lẫn lộn giữa sở hữu và hiện hữu, giữa tài sản và con người. Người ta tay không có thể bình đẳng, nhưng đồng tiền đặt lên ai thì cán cân nghiêng về người ấy. Đáng giá trị rốt cuộc là đấu giá cả. Và nguy hiểm là ở chỗ đó.
Sáng nay quan sát thiếu nhi sinh hoạt, thấy có một đội không chơi, hỏi ra mới biết đội đó không chơi chỉ vì thiếu vắng một em đóng tiền nhiều nhất.
2. Dấu vết thứ hai được nhận ra trong thái độ kiếm tiền.
Đối với nhiều người, kiếm tiền là một trách nhiệm thuộc bậc sống, bởi lẽ có tiền mới trang trải được những nhu cầu cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng vấn đề không phải là kiếm tiền mà là cách kiếm tiền.
Kiếm tiền bằng lao động chân tay trí óc, đó là điều chính đáng, nhưng quá lo lắng đến kiếm tiền để rồi quên đi những trách vụ khác trong đạo làm người và làm con Chúa thì ở đó căn bệnh đã xuất hiện ở dạng cấp tính có nguy cơ gây thiệt hại cho chính bản thân và cho những người lân cận.
Kiếm tiền bằng thù lao phù hợp với công sức bỏ ra thì đó là lương thiện. Nhưng kiếm tiền bằng cách chỉ đuổi theo tiền mà không biết đến giá trị đạo đức nào khác, hoặc tự động chấp nhận “thủ tục đầu tiên”, hay “quà biếu trên mức tình cảm” của một thứ lương đồng nghĩa với sự đút lót hoặc chủ động vi phạm lẽ công bình như làm hàng giả thuốc giả “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi” của một thứ kinh tế mánh mung, thì ở đó căn bệnh đã phát triển ở dạng mãn tính chẳng những gây thiệt hại mà còn chà đạp lên tiếng nói lương tâm khi ăn trên mồ hôi nước mắt kẻ khác. Lúc đó lương tâm nhẹ hơn lương lậu, lương thiện nhỏ hơn lương tiền và lương tri phải nhường cho lương bổng lên ngôi. Thiên Chúa ư? Ngài đi chỗ khác chơi, để yên cho tôi làm giàu!
Kiếm tiền để sống là đẹp, nhưng thật thảm hại khi sống chỉ để kiếm tiền. Đồng tiền ở đấy đã xuất hiện là một căn bệnh nguy hiểm. Thảo nào người ta vẫn bảo “tiền bạc” là đồng tiền đi liền với bạc bẽo.
Ở đây xin nhường lời cho cụ ông trước kia giàu nứt đố đổ vách, giờ gặp cảnh khố rách áo ôm quyền chia sẻ kinh nghiệm: “Khi còn trẻ người ta sẵn sàng phí sức khỏe để kiếm tiền, nhưng khi về già người ta lại sẵn sàng phí tiền để tìm lại sức khỏe”. Mà nào có được đâu! Mời suy nghĩ.
3. Dấu vết thứ ba được nhận ra trong thái độ xài tiền.
Cần tiền – kiếm tiền – xài tiền. Không có gì đáng nói nếu chỉ có thế. Nhưng một khi xem tiền như một phương tiện vạn năng “có tiền mua tiên cũng được” lâu ngày sẽ trở thành di căn. Hoặc trong lối sống ghẻ lạnh với những giá trị đạo đức để rồi hóa giá tất cả: phẩm giá, lẽ phải, tình thương, nhân tính… Lối sống ấy chỉ có câu hỏi “bao nhiêu?”. Ngoài ra chấm hết. Không lạ gì đồng tiền gây nên tệ hại theo kiểu nói “tiền tệ. Hoặc trong niềm tin dẫn tới hậu quả xem thường đạo giáo buôn thần bán thánh và hạ bệ Thiên Chúa, để tôn sùng tiền bạc làm thượng đế của mình như một câu vè truyền miệng đó đây: “Tiền là tiên là Phật, tiền là sức bật con người, tiền là nụ cười tuổi trẻ, tiền là sức khỏe người già, tiền là cái đà danh vọng, tiền là chiếc lọng che thân, tiền là cán công công lý. Hết ý!”
Vẫn biết “đồng tiền đi liền khúc ruột” theo kinh nghiệm của các bậc tiền bối là một lời dạy khôn ngoan rất gần với sự tiết kiệm vốn phải có cho mọi kẻ giữ tiền. Nhưng khi cẩn trọng quá hóa keo kiệt trong những tiêu pha, đến nỗi không dám bỏ ra một đồng cho nhu cầu vật chất hay tinh thần thì xem ra đồng tiền lúc ấy đã “làm phiền” khúc ruột không ít. Hoặc khi cẩn trọng quá hóa bịn rịn trong thái độ đối với tiền như “ra đường chắt bóp tiêu pha, về nhà ngây ngất lăn ra đếm tiền” thì chừng như đã để đồng tiền “xích xiềng” khúc ruột mà không ai biết.
Ngược với thái độ cẩn trọng là một sự hoang phí tiêu xài vung vít. Khi vung vít nhẹ là khi “vung tay quá trán” con nhà lính tính nhà quan làm một xài hai. Khi vung vít nặng là khi “vung tiền qua cửa sổ dấu hiệu của sự vô độ tiêu xài. Rồi khi để cho đồng tiền len lỏi vào trong tính toán hằng ngày và giấc ngủ hằng đêm theo kiểu lên sàn thị trường chứng khoán ngợp choáng thời giờ thì lúc ấy khúc ruột đã nuốt trửng đồng tiền và hậu quả duy nhất chính là đồng tiền “xay nghiền” khúc ruột.
Làm sao tín hữu có thể dung hòa lòng tin với những sinh hoạt vốn liên hệ đến tiền? Thưa dựa trên Phúc Âm chỉ cần một chữ Tín. Nếu giàu, hãy tín trung với Thiên Chúa để biết xài tiền phù hợp với bác ái, vì tiền là một đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu. Nếu nghèo, hãy tín thác nơi Thiên Chúa để từng ngày kiếm tiền mà không vi phạm công bình, vì chỉ để một đồng xu trên mắt thôi cũng đủ bị che chắn hết tầm nhìn hướng thượng. Và dẫu giàu hoặc nghèo, hãy tín nghĩa để gần tiền mà chẳng hôi hám mùi tiền. Tiền bạc như dòng nước, nếu không cẩn thận người ta có thể bị cuốn trôi.
Chữ TÍN ấy là thuốc chủng ngừa căn bệnh nguy hiểm mà Bôtrêvích đã tiên báo.

9.    Giá trị đồng tiền – Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng
ĐỒNG TIỀN ĐẾN
Đề tài về “tiền của” là đề tài dễ “bàn luận” nhất, vì đó là thứ gần gũi nhất đối với con người. Người ta gọi những người thân yêu là “bà con ruột thịt”, đồng thời người ta cũng thường nói “đồng tiền đi liền khúc ruột”, xem thế, ta thấy đồng tiền có quan hệ “máu mủ với con người đến mức nào!
Cái gì người ta càng cần đến, thì cái đó càng quan trọng. Cái gì càng quan trọng thì cái đó càng được nhiều người muốn sở hữu. Cái gì càng có nhiều người muốn sở hữu thì cái đó càng quý. Người nào sở hữu nhiều thứ đồ quý , thì đó là dấu hiệu người đó giàu có. Người đó có sức mạnh. “Miệng người sang có gang có thép”.
Tiền là rất cần. Giới trẻ có những câu định nghĩa “tóm gọn sức mạnh đồng tiền” nghe vui vui, tỉ như: “Tiền là tiên là Phật, là sức bật lò xo, là thước đo lòng người, là nụ cười tuổi trẻ, là sức khỏe tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý, tiền là… hết ý !”.
Tiền là rất cần, nên người ta phải tìm cách có tiền. Không có cách làm ra tiền, thì làm ra tiền bằng mọi cách!
Vấn đề là chính là ở chỗ này! – Làm ra đồng tiền bằng mọi cách, không trừ những cách bất chính!- “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!’” (Lc.16,1-2).
Biết bao người đã vấp ngã vì đồng tiền. Để có được đồng tiền, nhiều người đã đánh đổi cả danh dự, nhân phẩm, và cả niềm tin thiêng liêng nữa.
Họ trở thành nô lệ của Đồng Tiền! Hơn thế nữa, họ thờ Tiền! Họ bị Đồng Tiền trói buộc!
Những cách làm ra tiền bất chính thì rất đa dạng, muôn thứ. Có cái sờ sờ ra trước mắt, như ăn trộm, ăn cướp, mua gian bán lận… nhưng có thứ tinh vi, khó mà biết - nhưng muốn biết cũng không khó - nhiều khi vì lý do này, lý do kia, người ta không muốn biết, hay chưa nên biết, như: tham nhũng, lương lẹo, móc ngoặc, cắt xén công quỹ
Trong Cổ Học Tinh Hoa có kể câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được”. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
 “Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau này tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắn:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!”  (Long Môn Tử).
ĐỒNG TIỀN ĐI
Tích trữ nhiều tiền của thì phải có mục đích. Mục đích phổ thông nhất là “hưởng thụ. Trong Tin Mừng, chúng ta gặp rất nhiều ông Phú hộ sống kiểu “hồn ta hỡi … vui chơi cho đã”. (Lc.12,16-21; 16,19-31).
Trong đời thường, chúng ta càng thấy rõ hơn nữa. Những nơi giàu có, mức độ hưởng thụ “ăn chơi” càng “cao cấp”, càng “sang trọng”, và thú vui chơi thể hiện thiên hình vạn trạng và cực kỳ tốn kém.
Sự hưởng thụ nếu không có ánh sáng Tin Mừng soi dẫn, sẽ đi dần đến mức sa đọa, khi mục đích của nó là thỏa mãn những niềm vui nhất thời và vật chất. Hạnh phúc lúc bấy giờ chỉ giới hạn trong những thứ vui chơi thỏa mãn khuynh hướng tầm thường, và chỉ còn là niềm vui của riêng mình. Sự ích kỷ sẽ đưa con người đến vô trách nhiệm với tha nhân và trở nên độc ác.
Thường tình người ta vẫn nghĩ cuộc sống cần phải vươn lên, và vì thế, người ta có quyền hưởng thụ ở mức độ cao nhất như có thể, miễn là người ta làm ăn chính đáng, không hãm hại ai, không làm thiệt hại ai, không đá động tới ai.
Nhưng chúng ta vẫn nghe trong lòng một cái gì đó rất xót xa, khi có những người mua những chiếc du thuyền, những chiếc xe con, những phương tiện giải trí hàng tỷ đồng, và bên cạnh đó, biết bao người đói ăn, đói học, đói những mái nhà đơn sơ đủ để che mưa che nắng qua ngày! Có người thở dài: biết làm sao, bàn tay có năm ngón ngắn dài khác nhau là vậy! Chuyện ấy thời nào cũng có! Chẳng có ranh giới nào để định mức đâu là trách nhiệm đối với xã hội. Chỉ có tiếng gọi của Tình Thương. Trong Phúc Âm, câu chuyện ông Phú hộ và La-gia-rô là một thí dụ. (Lc.16,19-31).
Có những người tung tiền ra để mưu cầu danh vọng. Có những người tung tiền ra để mua quan bán chức. Có một câu chuyện khoa học giả tưởng về một thành phố của ngàn năm về sau, lúc đó, con người đã chế tạo ra những “người máy” tinh xảo. Đi giữa lòng thành phố, người ta không thể phân biệt được ai là “người máy” ai là người thật! Hay nói một cách khác, ai là người “giả, ai là người “thật”! Ngày nay, nhiều khi cũng khó biết ai là “nhân tài” thật, ai là “nhân tài” giả. Có nơi, người ta rao bán “bằng cấp” trên Internet giống như người ta rao bán chè ở vĩa hè!
Đi xa hơn nữa, sự giàu có dễ quyến rũ người ta say mê thế lực. Cá nhân rồi đến tập thể, Đất Nước. Những Nước giàu có thì chế tạo và mua nhiều vũ khí. Những nước lớn và giàu có bao giờ cũng nói chuyện bằng sức mạnh và quyền lợi của họ trước tiên. “Tiền đẻ ra Tiền”. Làm ăn với tư thế “kẻ mạnh” thì bao giờ cũng có lợi, thậm chí còn bóp chết cả địch thủ cạnh tranh, cho dù là cạnh tranh lành mạnh. Vì rằng “thương trường cũng như chiến trường”, có “chết” và có “sống”. Không có quy luật đạo đức nào cụ thể được áp dụng ở đây. “Mạnh được yếu thua”. “Cá lớn nuốt cá bé”. Ngôn ngữ ngoại giao thì rất đẹp, mà trên thực tế nằm mơ cũng không thấy!
Cứ nơi nào có nhiều mỏ dầu, nhiều tài nguyên thiên nhiên, thì nơi đó có nhiều tranh chấp. Nơi nào có tranh chấp, thì nơi đó thường có những cuộc “tập trận”, phô trương vũ khí, sức mạnh quân sự của những bên liên hệ.
ĐỒNG TIỀN ĐEM LẠI
Đồng tiền giúp chúng ta thể hiện tình thương đối với đồng loại. 
“Tiền của là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu”. Nếu con người nô lệ vào tiền của, thì rõ ràng, con người gặp phải nhiều hậu quả thật tồi tệ cho cá nhân và cộng đồng nhân loại. Nếu con người làm chủ đồng tiền, thì con người sẽ cải thiện thế giới và con người sẽ hạnh phúc hơn.
Con người chỉ có một chủ là Thiên Chúa, và Thiên Chúa dạy con người biết làm chủ Tiền Của bằng Giới Luật Yêu Thương. "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc.16,13).
Mẹ Têrêsa khi nhận giải Nobel, mẹ nghĩ ngay đến xử dụng đồng tiền để giúp đỡ những người bất hạnh. Thánh Phanxicô Assisi đã bỏ cuộc đời giàu có để dành trọn cuộc đời mình lên tiếng nói bênh vực và nâng đỡ người nghèo…
Thật may mắn, trong đời thường vẫn còn đó những trái tim biết chia sẻ một cách chân thành.
Chia sẻ chân thành là chia sẻ những gì mình có. Không phải cách “lương lẹo” của tên quản lý bất lương. Anh ta tỏ ra “nhân từ bằng đồng tiền  của chủ mình với ý đồ được có nơi nương tựa và tìm cơ hội cho tương lai. Thương người kiểu đó là một cách ăn trộm mà vẫn được người ta thấy mình đạo đức. Nó cũng giống như những người cho vay ăn lời cắt cổ thiên hạ, thỉnh thoảng vào ngày rằm, mua năm mười giạ gạo bố thí cho một số người nghèo; hay mấy công ty bốc lột sức lao động công nhân bằng đồng lương chết đói, thỉnh thoảng tặng tiền cho những chương trình thuộc dạng “vòng tay nhân ái” để được vinh danh và quảng cáo thương hiệu của mình trên TV !
Trong Giới Luật Yêu Thương, Chúa Giêsu không hề bảo con người phải sống nghèo nàn, lạc hậu, nhưng là dạy con người biết cách“cho đi”. (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…Mt.25,31-46).
Vì “không ai cho cái mình không có”. Nên trước tiên ta phải có mới cho được. Do đó, làm việc không chỉ là trách nhiệm đối với xã hội, mà hơn thế nữa, còn là bổn phận đối với Thiên Chúa. (Ông giao cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén… Mt. 25,14-29).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện thế này:
Khổng Tử nói rằng: Cho mình là hạng phú quí mà biết hạ mình với người với mọi người, thì người nào mà không tôn trọng mình?
Cho mình là hạng phú quý mà biết yêu người, thì người nào mà không thân với mình?
Nói ra mà không ai trái lại, thì có thể cho là hạng người biết nói vậy.
Nói ra mà mọi người đều hướng theo cả, thì có thể cho là hạng người biết thời vậy.
- Cho nên kẻ giàu có, mà lại biết làm cho người giàu có, thì dẫu có muốn nghèo, cũng không thể nào nghèo được.
- Kẻ sang trọng mà biết làm cho người sang trọng, thì dẫu muốn hèn hạ, cũng không thể hèn hạ được.
- Kẻ phát đạt, mà biết làm cho người phát đạt, thì dẫu có muốn khốn cùng, cũng không thể khốn cùng được.
Đồng tiền giúp chúng ta về đến Nước Trời.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có một quyển sách được nhiều người yêu thích mang tên “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ.
Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy dùng tiền để mua những gì “không hư nát”. Hãy biết dùng tiền để tìm về chốn vĩnh cửu, nơi hạnh phúc vĩnh hằng. "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. (Lc.16,9).
Nếu cuối cùng, ta nằm xuống. Tất cả những gì hưởng thụ qua đi. Tất cả những gì gom góp cũng bỏ lại. Ta nghe văng vẳng bên tai lời chúa từng giảng dạy: “Đồ ngốc! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?” (Lc.12, 20), ta chới với và tiếc rẻ làm sao! Bằng đó những thành đạt cuộc đời không đổi lấy được gì ư?
Có một kim chỉ nam để chúng ta định hướng đời mình. Để suy nghĩ và hành động. Đề gạn lọc và chọn lựa. Để làm phong phú đời mình. Để nuôi sống đời mình. Để đời mình không phải chỉ là một giấc mơ chóng qua và vô nghĩa. Đó là Lời Chúa. Lời Hằng Sống. Lời dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời.
“Cho tôi xin một vé đi Thiên Quốc”.
Để khi tôi nhắm mắt, là bước vào một cuộc hành trình mới. Tuyệt vời và hạnh phúc!
Lạy Chúa, xin cho con biết tận dụng tất cả những gì con có, để sinh lợi và làm giàu cho Chúa, chứ không phải cho riêng con. Vì tất cả là của Chúa. Amen.

(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Cuộc đời này tươi hơn nhờ có người say mê nó.
Các vận động viên chịu khổ luyện để phá một kỷ lục. Các nhà khoa học tận tụy để tìm ra một phát minh. Các văn nghệ sĩ nhọc nhằn cưu mang một tác phẩm. Các nhà kinh doanh bù đầu với chuyện nắm bắt thị trường.
Phía sau một tấm huy chương, một bằng khen, một giải thưởng, có bao là mồ hôi nước mắt.
Say mê cuộc đời này chẳng có gì đáng trách.
Người Kitô hữu cũng sống hết lòng với cuộc đời này, nhưng họ không say mê như thể chỉ có nó.
Đúng ra họ say mê đời này vì họ say mê đời sau.
Đời này chỉ là con đường dẫn đến mục đích tối hậu.
Sau khi kể xong dụ ngôn về người quản gia khôn khéo, Đức Giêsu phàn nàn vì chúng ta, những con cái ánh sáng, lại không khôn bằng những người chỉ biết có đời này.
Người quản gia khôn vì ông dám đối diện với thực tế, đó là chuyện ông bị chủ cho thôi việc.
Ông khôn vì ông biết giới hạn của mình: Không đủ sức cuốc đất, không đủ mặt dầy mặt dạn để đi ăn xin.
Ông khôn vì ông biết xoay sở, tìm ra phương án tốt nhất, biết tận dụng quyền hành còn lại của mình để đem đến cho tương lai bấp bênh một bảo đảm.
Đức Giêsu không dạy ta bất lương như người quản gia. Ngài dạy ta biết khôn khéo như ông khi gầy dựng cho đời mình tương lai vĩnh cửu.
Có vẻ đời sau thì xa xôi, không có sức thu hút, không làm chúng ta say mê và dám đánh đổi tất cả.
Chúng ta thừa sôi nổi để xây dựng tương lai đời này, nhưng lại thiếu táo bạo để xây đắp tương lai đời sau.
Chúng ta biết xoay sở để việc làm ăn khỏi thua lỗ, nhưng chúng ta lại thiếu cương nghị và dứt khoát để đầu tư mọi sự mình có cho Nước Trời.
Cái giằng co của đời sống Kitô hữu nằm ở chỗ vừa say mê cuộc đời này, vừa say mê vĩnh cửu.
Họ say mê cuộc đời này không thua bất kỳ ai, bởi vì giữa cái mau qua, họ gặp được vĩnh cửu.
Kitô hữu làm việc, vui chơi như mọi người, nhưng vẫn có cái gì rất khác nơi họ.
Không phải vì họ dành cho Chúa một thời gian ít ỏi để đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ... nhưng vì họ đã để Chúa đi vào toàn bộ đời mình.
Chúng ta cần giữ một sự thăng bằng trong cuộc sống. Sự thăng bằng này lại nằm ở chỗ chúng ta nghiêng về phía Chúa và để Ngài làm chủ đời mình. Tiền bạc, của cải không phải là điểm tựa, dù ta rất cần tiền và phải kiếm tiền để sống.
Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của, không thể phụng sự hai chủ như nhau, trong cùng một lúc.
Tôi tự hỏi những chủ nào đang thống lĩnh đời tôi.
Ước gì tôi được tự do nhờ biết làm tôi cho Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đồng tiền là tiên, là phật, và cũng có thể là vị chúa đầy hấp dẫn quyền uy. Bạn có kinh nghiệm gì về sức mạnh của đồng tiền? Bạn có thấy ai đánh mất mình vì nô lệ cho tiền bạc không?
Người Kitô hữu cũng dễ mất hút giữa những bon chen của đời thường. Theo ý bạn, nếu sống chân thật lương thiện, người Kitô hữu có hy vọng thành công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, ai trong chúng con cũng thích tự do, nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra. Xin giúp chúng con được tự do thực sự: tự do trước những đòi hỏi của thân xác, tự do trước những đam mê của trái tim, tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ, để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa, để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi, khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe, khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết, vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng, để chúng con được tự do bay cao.



11.                     Nhận lãnh để trao ban – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Có một nhà kia tính mời vài đạo sĩ tới lập đàn giải trừ tai nạn. Một đạo sĩ nọ tham lam, muốn một mình hưởng trọn số tiền chủ nhà trả ông, liền nhận bao thầu hết việc lập đàn cúng bái.
Ông ta chẳng kể ngày đêm. Làm việc luôn tay luôn chân, không hề ngơi nghỉ. Cứ như thế đến ngày thứ ba thì kiệt sức, ngã vật ra đất. Chủ nhà sợ ông ta chết, mang họa, liền thuê người khiêng ông về miếu. Đạo sĩ nghe vậy, cố ngước đầu lên thì thào:
Ông hãy đưa tiền thuê người cho tôi, tôi tự mình lần về miếu cũng được.
Những người coi đồng tiền to lớn hơn mạng sống của mình, rốt cuộc cũng chẳng được gì. Thấu hiểu lòng ham mê tiền bạc của con người. Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Người khen ông quản gia khôn khéo không phải vì hành động bất lương của ông, nhưng vì ông biết lo xa cho tương lai của mình. Ông khôn khéo vì ông biết dùng tiền của tạm bợ để mua lấy bạn hữu.
Nếu “con cái đời này” biết phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để lo liệu cho ngày mai, thì tại sao “con cái sự sáng” lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi của mình ở tương lai?
Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu, sao người tín hữu lại không biết sử dụng của cải phù du, chia sẻ cho người nghèo khó để mua lấy bạn hữu Nước Trời.
Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền của để biết được lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không “trung tín trong việc nhỏ là sử dụng tiền của để bảo đảm cho ta của cải chân thật đời sau?
Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều mình đã trao ban. Tác giả Augier còn viết: “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, chỉ khi nào biết quảng đại trao ban cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý chủ, những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào biết coi tiền của là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự “làm tôi Thiên Chúa”.
Lạy Chúa, trong khi chúng con đang bôn ba tìm kiếm những của cải tạm bợ đời này, xin cho chúng con cũng biết khôn ngoan tích trữ cho mình gia tài vĩnh cửu là hạnh phúc Nước Trời. Amen.



12.                     Không thể làm tôi hai chủ – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Một nhật báo bằng tiếng Pháp đã có một bài bình luận như sau về đời sống của những người Kitô: Phúc âm của các người là một vũ khí mạnh sức hơn triết lý Các-mác của chúng tôi. Tuy nhiên, nếu cứ theo tình trạng này về lâu về dài, chúng tôi sẽ chiến thắng trên các người. Vì làm sao người ta có thể tin vào Phúc âm được, nếu các người không thực sự sống Phúc âm đó. Trong cuộc sống hằng ngày, nếu các người không chịu hy sinh thời giờ, tiền bạc cho chính nghĩa Phúc âm thì làm sao có người tin vào Phúc âm; nếu các người không chịu cực, các người không chịu xắn tay lên hành động cho Phúc âm.
Những nhận xét trên không khỏi đánh động chúng ta và làm chúng ta xét lại chính nếp sống của mình. Dụ ngôn Chúa Giêsu kể về người quản lý bất trung được nhắc lại trong bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay mà chúng ta vừa đọc lại cũng tích chứa cùng một sứ điệp thức tỉnh chúng ta. Chúa Giêsu không khen người quản lý bất trung, không đề cao nếp sống của người quản lý bất trung cho chúng ta noi theo, nhưng Ngài cảnh tỉnh chúng ta phải tránh thói khôn ngoan tinh xảo của người đời.
Nội dung chính của Lời Chúa dạy qua dụ ngôn trên hệ tại ở điểm so sánh. Người quản lý bất trung đã vận dụng những khả năng của anh như trí óc, khôn khéo, chịu khó nghiên cứu kế hoạch để mưu cầu điều lợi cho bản thân anh. Cuộc đời của anh chỉ hướng duy nhất về điều này mà thôi là “sống vì tiền của”. Chịu làm nô lệ cho tiền của, vận dụng mọi khả năng của mình để tôn thờ tiền của, đó là con cái đời này khôn ranh, siêng năng, chịu khó hơn con cái sự sáng. Chúa Giêsu không khen người quản lý khôn ranh, nhưng qua lối so sánh, Chúa Giêsu muốn chúng ta, những người đồ đệ của Ngài, những con cái sự sáng biết tích cực dấn thân phụng sự Chúa với sức hăng say, với sự hy sinh. Hy sinh thời giờ, tiền của với việc kiên trì làm điều tốt để thực thi Phúc âm Chúa.
Chúng ta có Phúc âm, có sự thật được Chúa mạc khải, nhưng nếu chúng ta có thái độ ù lì, không tích cực xắn tay áo lên chịu cực, chịu hy sinh để thi hành Lời Chúa thì chúng ta đáng Chúa trách là thua xa người quản lý bất trung trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay.
Một cách cụ thể hơn, hôm nay tôi muốn nhắc lại nơi đây một điểm trong nội dung của bức thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Bức thư trình bày đường hướng mục vụ trong bối cảnh mới là đối thoại. Yêu thương và phục vụ anh chị em. Một đường hướng rất hay, nhưng đòi hỏi nhiều can đảm dấn thân thi hành thực sự những gì cần được trình bày trong đó. Nói theo ngôn ngữ của tờ báo vừa được trích dẫn trên thì đây là thứ vũ khí mạnh hơn triết lý của Các-mác. Đây là tinh thần Phúc âm cần được mỗi người đồ đệ của Chúa tại Việt Nam trước tiên noi theo. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lưu ý rằng, để thực hiện chương trình đối thoại, yêu thương và phục vụ anh chị em thì mọi thành phần dân Chúa, mỗi người cần phải kiên trì, can đảm đổi mới. Các Giám Mục Việt Nam đã viết như sau: “Đổi mới bản thân là điều căn bản để có thể yêu thương và phục vụ. Ở đây, chúng tôi muốn nói đến đổi mới lòng đạo, nội lực của chúng ta là lòng tin, lòng mến được Thiên Chúa ban cho. Lòng đạo đức thật theo thánh Giacôbê là yêu thương phục vụ người nghèo khổ và giữ mình đừng vướng vào những thói xấu của thời đại. Thánh Phaolô cũng cho thấy ý Chúa là yêu thương, là phục vụ nhau. Lời Chúa, những bí tích và đời sống cầu nguyện là những phương thế hữu hiệu giúp đổi mới bản thân. Chuyên tâm đọc, suy niệm và thực hành Lời Chúa, chuyên cần lãnh nhận các bí tích một cách sốt sắng, cầu nguyện kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa sẽ thanh luyện ta khỏi thói ích kỷ, đem lại cho ta nguồn sức mạnh để quảng đại phục vụ quên mình theo gương Chúa Giêsu Kitô.
Để thực hiện những điều này mà thôi theo lời dạy của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong bức thư chung này chúng ta cần phải cố gắng, cần phải vận dụng hết sức mình lên.
Hôm nay, trong thánh lễ này chúng ta hãy xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta có được nội lực, có được sự khôn ngoan và tích cực dấn thân thực hành Lời Chúa. Xin Chúa giúp mọi người chúng ta trở thành những người quản lý tốt ân sủng mà Chúa ban cho chúng ta. Xin Chúa đồng hành với chúng ta trong giai đoạn mới của lịch sử tại Việt Nam, để chúng ta mỗi ngày một trưởng thành hơn trong đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.

13.                     Không thể thờ hai chủ – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Dụ ngôn viên quản lý bất lương đòi hỏi người đọc đừng nghĩ lan man khi tìm cách giải thích các chi tiết. Chủ ý dụ ngôn cho thấy, trước hết người ta phải quan tâm đến tương lai vĩnh cửu của mình, phải sử dụng hết tâm cơ tài trí ít nhất cũng như trong việc lo toan của cải vật chất. Một lần nữa Đức Giêsu lưu ý các môn đệ về vấn đề thiết yếu vượt trên mọi vấn đề, ai ai cũng phải dốc tất cả nghị lực, sức lực vào vấn đề cơ bản đó. Những vấn đề còn lại là phụ, sẽ giải quyết sau. Vấn đề cơ bản ấy là bổn phận phục vụ Thiên Chúa, nó trùng hợp với hạnh phúc con người. Từ ngữ ‘của bất lương’ phải hiểu theo nghĩa nào?
1) Căn bản sự sở hữu những của cải thế gian luôn luôn chứa đựng một nguy cơ bất công. Tuỳ theo mức giàu có vật chất, một câu hỏi ít hay nhiều nghiêm trọng được đặt ra: Khởi từ lúc nào việc sở hữu kéo theo một sự tước đoạt quyền lợi kẻ khác? Ai cũng biết, bình đẳng tuyệt đối về của cải là một ảo tưởng, và bất bình đẳng mau chóng biến thành bất công. Dưới mắt Đức Giêsu, giàu về vật chất là một hiểm hoạ. Rất nhiều lần Chúa trở lại vấn đề này, lúc thì bài xích, lúc thì thương hại cảnh giác. Qua từ ngữ ‘của bất lương’ chúng ta phải phát giác nguy cơ bất công đàng sau sự sở hữu vật chất.
2) Của bất lương là thứ của cải thế gian nào khiến cho tâm hồn quay ra phía khác chứ không hướng về Thiên Chúa. Tội bất công nặng nhất là tội không thờ kính Thiên Chúa hết lòng như bổn phận phải làm đối với Đấng Thượng Đế. Dồn hết tâm trí vào việc làm giàu mà quên Thiên Chúa là phạm tội biển thủ bởi lẽ để cho của cải thế gian chiếm đoạt tâm hồn đã được tạo dựng cho Thiên Chúa.
3) Người ta băn khoăn: vậy có lối xử trí nào để con người có thể tha thiết với của cải đời này mà không xa lìa Thiên Chúa? Đức Giêsu đáp: không thể cùng một lúc phục vụ hai chủ. Thật vậy, khi lao mình vào phục vụ tiền bạc thì chung quy con người phục vụ ông chủ nào? Trong trường hợp ấy, ông chủ chính là bản thân con người để lộ ra cái chất gì xấu nhất, nó là tư lợi, là lòng ích kỷ. Dung hoà hai sự thờ phụng –tôn thờ bản thân và tôn thờ Thiên Chúa- là việc không thể làm được.
4) Nếu vậy, phải khinh chê tiền bạc ư? Đồng tiền kiếm bằng mồ hôi nước mắt, cần để sinh sống, có thể san sẻ giúp đỡ tha nhân vì lòng thương, đồng tiền ấy không bị Đức Kitô bài xích. Đồng tiền nào nuôi dưỡng lòng ích kỷ, gây thiệt hại cho đức công bằng, khiến cho con người quên mất Thiên Chúa, đồng tiền ấy bị kết án trầm luân.

(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Vào thời điểm này, những đội bóng rổ chuyên nghiệp đang dự định vào vòng cuối của giải thế giới. Đặc biệt là những đội đang bị chia rẽ thì họ đang mong chờ một cuộc trao đổi, chuyển nhượng các cầu thủ, các đội nghĩ rằng vào mùa chuyển đổi cầu thủ này, họ có những gì họ cần và họ có thể đạt được điều đó. Họ sẵn lòng trải qua những cuộc trả giá tiền lương và chuyển nhượng để có được cầu thủ đó. Họ đã có một cùng loại khởi đầu mà Chúa Giêsu đã nhắc nhở trong ngày hôm nay về người quản lý bất lương.
Phúc Âm có vẻ như muốn nói Chúa Giêsu đã minh chứng và trình bày về vẻ bất lương của người quản lý. Một số nhà chú thích cắt nghĩa rằng, người quản lý đã thật sự giao lại công việc của mình và không lừa đảo chủ của mình ngay cả khi anh ta đã làm một việc có vẻ như thiệt hại cho công việc của chủ. Người chủ đã không tỏ một dấu hiệu nào cho thấy là ông ta bị lường gạt. Thật ra, ông đã dự định công việc của mình một cách táo bạo và làm một sự khởi đầu.
Quan điểm của Chúa Giêsu về việc này là: người đàn ông ở đây đã muốn bảo đảm cho tương lai của ông sau khi ông mất việc. Ông ta không ngồi đó than khóc về số phận của mình, ông ta đã làm một điều gì đó để tranh thủ cảm tình với những con nợ của chủ. Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm này thì không có ý nói về sự khởi đầu một việc kinh doanh hay là Ngài có ý nói đến sự chuẩn bị cho chiến thắng của những đội bóng rổ chuyên nghiệp, nhưng Ngài hy vọng rằng chúng ta sẽ để ý tới sự cứu rỗi đời đời của chúng ta. Hơn nữa, Ngài trông đợi chúng ta hãy làm việc khó nhọc cho những giá trị thiêng liêng như một số người đã làm và coi việc đó như là mục đích cuối cùng.
Thánh Kinh ngày hôm nay đề nghị hai điều, mà trong đó chúng ta sẽ tăng trưởng đời sống thiêng liêng. Họ sẽ cầu nguyện cho những người có nhu cầu và đòi sự công bằng cho người nghèo. Điều thứ hai là một sự nối kết thân mật, bài đọc thứ hai ngày hôm nay là một trong những nguồn mạch lời nguyện của chúng ta phải phản ảnh một bản tính rộng lớn của lời cầu nguyện được nhắc nhở trong thư của thánh tông đồ gởi cho Timôthê. Chúng ta cần bao gồm tất cả mọi người trong lời cầu nguyện của chúng ta, và chúng ta cần nhấn mạnh đặc biệt đến những người nghèo, những người bị xã hội ruồng bỏ và khinh khi.
Lời cầu nguyện phải dẫn đến hành động. Đặc biệt là loại hành động cầu bầu như tiên tri Amos, vị tiên tri của công bằng xã hội. Ngài đã kết án những kẻ đã dẫm đạp lên những nhu cầu và hủy diệt người nghèo nơi quê hương. Ngài đã khuyên nhủ những người này hãy nghĩ đến mục đích tối hậu của đời mình. Tiên tri Amos không thích quan điểm của Canvil Coolidge, ông đã nói: Công việc của người Mỹ là công việc”“. Chúng ta thì không như vậy được. Công việc của chúng ta sẽ là chia sẻ với những người khác, những người đang có nhu cầu, những người đang cần lời cầu bầu hơn những phê bình, những người đang sống trong hoạn nạn và nhận biết rằng Thiên Chúa kêu gọi chúng ta chia sẻ những khả năng và ân phúc của chúng ta cho những người khác.
Người Công Giáo phải luôn được nhận biết như là những người sát cánh với người nghèo và những người quảng đại trong việc giúp đỡ họ. Chúng ta được kêu gọi để trở nên một người: “Làm bạn với những người nghèo qua việc chúng ta dùng những hàng hóa, đặc sản của thế giới này”. Chúng ta có quyền trông đợi trở nên những người mà Thiên Chúa có thể tin tưởng để trao phó tài sản, vì chúng ta biết chia sẻ nó cho những người khác.
Trên hết, những người Công Giáo sẽ trình bày sự khởi đầu và táo bạo không chỉ trong lời cầu nguyện cho người có nhu cầu, nhưng cũng vươn đến giúp đỡ họ cách tốt nhất như chúng ta có thể. Đó là điều sẽ bảo đảm rằng chúng ta chỉ có một vị Thầy lớn lao tốt lành, một người cha quảng đại, là Cha của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một người Đức giàu có nọ đến nghỉ mát tại một ngôi làng nhỏ bên cạnh bờ biển, dân chúng đa số là các ngư dân nghèo nàn chất phác. Chiều đến người khách lạ đi vào các hàng quán để đổi tiền hầu mua thức ăn và chi trả các thứ cần thiết. Ông vào một quán nhỏ và nhờ người chủ quán đổi cho một tờ giấy bạc 1.000 Đức mã. Đây là lần đầu tiên người chủ quán nhìn thấy một tờ giấy bạc to như thế. Ông lắc đầu và nói với người khách lạ: “Với tờ giấy bạc nầy ông sẽ không mua được bất cứ cái gì ở đây. Ở đây chúng tôi chỉ trao đổi với nhau bằng những đồng bạc nhỏ mà thôi”.
Nhiều người dân làng bu lại để nhìn tờ giấy bạc 1.000 Đức mã. Họ cười nói với nhau: “Làm gì có giấy bạc 1.000 Đức mã”. Những người đánh cá cũng đứng lại biểu đồng tình. Họ nói rằng đồng bạc lớn nhất mà họ chỉ thấy năm ba lần trong đời là tờ 100 Đức mã. Thế là dân làng bắt đầu nghi ngờ về thành tích bất hảo của người khách lạ. Đêm hôm đó, từ cửa sổ của nhà trọ ông nghe có tiếng bàn tán như sau:
“Hắn ta phải là một tên bịp bợm. Trước hết là phải tìm cách tống hắn đi khỏi làng của chúng ta”.
Sáng hôm sau, trước khi mặt trời lên, người đàn ông giàu có đã vội vã ra khỏi phòng trọ. Ông đi đến một đô thị nhỏ cách đó gần một ngày đàng và đổi giấy bạc 1.000 Đức mã ra những đồng bạc nhỏ. Với hai bao tiền đầy cộm, ông thuê xe trở lại ngôi làng. Lần nầy dân chúng tin rằng ông thực sự có tiền và họ đã tiếp đón ông rất tử tế.
Người khách lạ giàu có đã xoay xở khôn khéo và kịp thời để thoát khỏi sự nghi ngờ niềm nở tiếp đón khi ông đổi tờ giấy bạc 1.000 Đức mã thành những đồng bạc nhỏ. Tờ giấy bạc 1.000 Đức mã của ông nhà giàu chẳng có giá trị gì đối với dân nghèo mà còn trở nên nguy cơ cho chính bản thân ông nhà giàu. Cũng thế, thái độ của chúng ta đối với tiền của chỉ đáng tin cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của bác ái, chia sẻ cho những người nghèo khổ và như thế chúng ta sẽ mua được nhiều bạn hữu.
Hôm nay, khi kể câu chuyện người quản lý biết dùng tiền của để mua chuộc bạn bè, Chúa Giêsu cũng muốn kêu gọi chúng ta hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn bè, để bảo đảm cho tương lai hạnh phúc. Đây là chuyện khéo léo xoay xở của một người quản lý bất lương. Anh đã lợi dụng cơ hội biển thủ tiền của hoa lợi của ông chủ. Ông chủ cho đòi người quản lý tới tính sổ và sau đó sẽ cho anh ta thôi việc. Thât là một tin bất ngờ như sét đánh. Mất việc làm, anh sẽ đi đâu? Sinh sống như thế nào? Cuốc mướn thì không nổi, ăn xin thì xấu hổ. Vậy chỉ còn một cách là tìm được người để nhờ vả. Anh vội vàng gọi các con nợ của chủ đến. Anh làm ơn cho họ để sau nầy họ sẽ giúp đỡ anh. Anh biến họ nên những kẻ đồng lõa. Và thấy lợi trước mắt, họ đã làm theo anh.
Cứ xử như vậy, đối với chủ bất lương. Nhưng đó là khôn ngoan theo kiểu thế gian. Chúa Giêsu khen sự khôn ngoan đó vì Ngài thấy con cái đời nầy khôn khéo hơn con cái sự sáng. Chúa không khen các việc làm của người quản lý kia, vì anh ta lả kẻ bất lương. Nhưng Ngài phải nhận rằng anh ta không khéo và mau lẹ tháo vát, xoay xở. Và Ngài tỏ ra đau lòng khi nghĩ đến phương diện Nước Trời, ở đây người ta không mau lẹ và khôn khéo như vậy: Chúa Giêsu đã đem ơn cứu độ đến qua lời giảng dạy và gương sáng của Ngài, nhưng sao người ta hững hờ và chậm chạp đến như vậy! Người ta không lanh lẹ mau trí xoay xở đối với Nước Trời như người quản lý bất lương kia mau trí lanh lẹ xoay xở đối với việc ở đời nầy. Đó là điều đau lòng và đáng trách!
Nhưng nếu muốn lanh trí, khôn khéo xoay xở đối với Nước Trời thì phải làm gì? Và đây là điểm chủ yếu của Tin Mừng hôm nay.
Phải bắt chước anh quản lý trong việc khôn khéo tìm cách bảo đảm cho tương lai của mình. Anh quản lý tìm bảo đảm tương lai ở đời nầy, còn con cái sự sáng phải tìm bảo đảm tương lai ở đời sau. Vậy phải làm gì? Tiền của đời nầy có giúp ích được gì không? – Có chứ! Hãy dùng tiền của mà mua sắm kho tàng cho mình ở trên trời mai ngày, nơi không có mối mọt đục khoét và không trộm cướp nào lấy mất được (x. Mt 6,19-21). Ngược lại, nếu chỉ dùng tiền mà tích trữ cho riêng mình ở đời nầy, thì như có lần Chúa đã nói: “Khốn cho kẻ ngu ngốc như vậy, vì khi chết y có thể mang theo được ghì không?” (Lc 12.16-21).
Nhưng thế nào là dùng tiền của để mua sắm kho tàng cho mình ở trên trời?
Theo giáo huấn của Chúa và như các kitô hữu tiên khởi đã thi hành, thì của cải vật chất được ký gởi cho chúng ta không phải để chúng ta giữ làm của riêng và coi nó như thần tượng để tôn thờ, nhưng là để chúng ta san sẻ với anh em, làm cho không ai còn thiếu thốn. Tất cả vất đề nằm trong quan điểm nầy. Người ta phải lựa chọn: hoặc là coi tiền của hoặc là coi nó như của ký gởi để san sẻ giúp đỡ nhau. Nói cách khác, hoặc coi tiền của như thần tượng để tôn thờ, hoặc coi tiền cả như phương tiện để xây dựng hạnh phúc chung cho mọi người.
Cũng như ngôn sứ Amos (Bđ.1), Chúa không chấp nhận được thái độ tham lam tiền của, chỉ biết làm giàu cho mình và không sợ bóc lột người khác. Và tham lam như vậy là chứng tỏ đã coi tiền của là thần tượng, là một thứ tôn giáo. Đúng như lời Chúa dạy: “Không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được”.
Tiền của, vàng bạc là những thứ đem lại giàu sang, sung sướng, nhưng cũng là nguyên do của những phản bội, tráo trở, thất nhân thất nghĩa, bôi đen lòng người. Vì thế, người Kitô hữu xác tín có một đời sau, có một kho tàng thực đang chờ đón chúng ta, chúng ta không thể chấp nhận và sống theo tôn giáo thờ Thần Mammon-ngày nay là Thần Đô-la - tôn đồng tiền làm thần tượng, coi đồng tiền là tất cả, là vạn năng.
Chúng ta hãy đặt tiền bạc trở về đúng vị trí của nó là một tên nô lệ chứ không phải là một chủ nhân ông thì mới hy vọng có một thái độ, một cách cứ xử đúng mức đối với tiền của trong tương quan với tha nhân. Với lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu qua dụ ngôn hôm nay, chúng ta hãy kiểm điểm lại thái độ của mình, đồng thời thành khẩn xin Chúa ban cho chúng ta một nghị lực dứt khoát và can đảm để luôn chế ngự được hấp lực của đồng tiền, biết cách sử dụng tiền bạc, của cải trần gian cho tình thương yêu, bác ái và chia sẻ. Như thế là chúng ta gởi vào kho tàng bất diệt trên trời.
Hãy đầu tư tất cả cho cuộc sống mai sau. Hãy hướng tất cả mọi sự vào cùng đích của cuộc sống. Hãy coi trọng con người hơn tiền bạc của cải và trong tình bạn hơn sự giàu sang phú quý. Bởi vì cái gì sẽ tồn tại mãi mãi? Không phải là tiền bạc hay giàu sang mà là tình bạn của con người. Hãy cư xử thế nào để ngày sau luôn có đông đảo bạn hữu chân thành đón rước chúng ta và Cửa Trời hạnh phúc.

Nhiều loài chim có một bản năng quay về nhà rất mạnh mẽ. Những con chim hải âu ở xứ Manx là một ví dụ hay. Người ta bắt một con ở xứ Wales và đeo vòng cho nó, rồi đem nó đến Boston, cách đó ba ngàn dặm và thả nó ra. Hai tuần lễ sau, nó bay trở về xứ Wales tại chính nơi mà nó bị bắt. Bản năng quay về nhà (hướng về quê hương) cũng có nơi con người – không chỉ theo ý nghĩa thể chất. Con người đã biết quay về nhà sau những kinh nghiệm đau thương, không chỉ về ngôi nhà cũ của mình, mà về bản thân khi xưa của mình. Họ quay về để thu nhặt những mảnh vụn của cuộc đời họ trước đây. Bản thân bẩm sinh của họ hầu như bị thương tổn. Dĩ nhiên, có những người trở về khi đã trở nên giàu có.
Nhà văn Ý Primo Levi đã sống qua một năm ở Auschwitz. Ông là một trong ba người trên chuyến tàu trở về so với con số 123 người ra đi. Sau này ông nói: “Nếu tôi không vào một nơi như thế, có lẽ tôi sẽ sung sướng hơn và thanh thản hơn, nhưng tôi không phong phú như thế này”. Dĩ nhiên ông không nói về tiền bạc.
Nói chung bản năng quay về nhà mình là một yếu tố tích cực. Tuy nhiên, nó cũng có thể tiêu cực. Sự thôi thúc quay về nhà mình cắt đứt những cơ hội tốt và khả năng tốt và làm cho việc canh tân đời sống trở nên khó khăn và vất vả. Người ta buộc phải quay về khi muốn giũ bỏ đời sống nông cạn và tầm thường hoặc cả đời sống lỗi lầm và tội ác. Chúng ta thấy một ví dụ nơi người quản gia trong câu chuyện của Đức Giêsu. Khi anh ta bị cho nghỉ việc, lẽ ra đó phải là thời điểm nhục nhã và đau đớn cho anh ta. Nhưng đó cũng là một thời điểm cứu chuộc. Bởi vì nó chỉ cho anh ta thấy thực tại bất lương của cuộc đời anh ta và có thể trở thành một khúc quanh trong cuộc đời anh ta. Nhưng điều gì đã xảy ra? Anh ta vẫn tiếp tục đi theo con đường bất lương trước đây của mình, không hề có một thay đổi nhỏ nào trong tính cách của anh ta.
Hoặc bản năng quay về nhà mình là một sự hỗ trợ hoặc là một trở lực thì nó còn tùy thuộc vào cái nhà chân thực của mình nằm ở đâu. Những người quen sống trong ánh sáng sẽ quay về ánh sáng. Nhưng những người quen sống trong bóng tối thì hầu như quay về với bóng tối.
Một cây có bộ rễ vững chắc và mọc thẳng sẽ trở lại bản chất cũ đứng thẳng của nó sau khi cơn bão đã đi qua, còn một cây có thân vặn vẹo trở lại bản chất vặn vẹo của nó. Khi chúng ta làm tổn thương đến sự chính trực của mình, chúng ta không làm mất nhân tính của mình, nhưng chúng ta đánh mất ý thức về sự nguyên vẹn, ý thức về mình lúc nào cũng là một con người như thế.
Đức Giêsu không lấy người quản gia xấu xa làm một gương mẫu. Người nói rằng con cái của ánh sáng có thể học đôi điều từ con cái của bóng tối. Những người xấu thì khéo léo, theo đuổi một mục đích, sẵn sàng hy sinh để hoàn thành những mục tiêu xấu xa của họ. Những người tốt lành, trái lại thường chỉ ngồi đó không làm gì. Và kẻ xấu sở dĩ thắng thế chỉ vì người tốt không chịu làm gì.

Lòng tham tiền bạc đã đưa nhiều người đến chỗ suy sụp. Hầu như ngày nào trên báo chí chúng ta đều đọc thấy một vài viên chức cấp cao, hoặc một vài nhà điều hành cấp cao bị buộc tội tham nhũng. Một trong những trường hợp nghiêm trọng gần đây là Nicholas Leeson, người đã làm sụp đổ một đế quốc ngân hàng – Ngân hàng Barings ở Luân Đôn.
Là con trai của một người thợ hồ ở vùng Watford ngoại ô Luân Đôn, Leeson chưa từng học đại học. Ông ta làm việc ở ngân hàng Barings như một nhân viên bình thường nhưng nhanh chóng lên chức và được giao phụ trách việc kinh doanh tại Ngân hàng Singapore. Ông ta làm việc vất vả và có rất nhiều tham vọng. Tiền lương hàng năm của ông ta là 350.000 quan cùng với những món tiền thưởng khổng lồ.
Nhưng ông ta vẫn không thỏa mãn. Ông bắt đầu mua bán các nguồn tài chính. Lúc đầu ông ta đem lại cho ngân hàng những khoản lời lớn. Càng ngày ông ta càng trở nên tham lam. Ông lén lút thực hiện những giao dịch tài chính không cho các ông chủ biết. Sau cùng ông đã thực hiện những vụ đầu cơ lớn không có tiền trả nổi và làm cho toàn bộ ngân hàng bị phá sản.
Trong những hoàn cảnh như thế, người ta trả giá cho việc làm sai lầm trong tiền bạc những cái còn quí giá hơn tiền bạc. Họ trả giá bằng sự đánh mất lòng tự trọng, nhân phẩm và niềm hy vọng. Dĩ nhiên, lúc nào cũng có một cơ may được trả tiền bởi việc bán một câu chuyện của mình cho một bài báo. Nhưng ở đây cũng thế, có cái giá phải trả. Bất cứ nhân phẩm nhỏ nhoi nào mà người ta trước đây, sau này người ta cũng sẽ mất hết.
Leeson làm chúng ta nhớ đến đôi điều về dụ ngôn của người quản gia. Xem ra người quản gia giống với Leeson đã bị tiền bạc làm cho hư hỏng. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà tiền bạc được coi là quan trọng nên nó cũng dễ dàng trở thành thần linh của chúng ta. Chúng ta có thể đặt nó đứng trước tính lương thiện, công bằng và trước cả đời sống gia đình. Người ta đã bị tiêm nhiễm bởi não trạng càng có nhiều tiền càng tốt. Một con người bình thường trở nên mù mờ đến nỗi không còn nhìn thấy điều gì thật sự quan trọng nữa.
Ngôn sứ A-mốt đã lên án những người phục vụ Chúa bằng môi miệng trong ngày sa-bát nhưng bóc lột người nghèo những ngày khác trong tuần. Đức Giêsu nói chúng ta không thể phục vụ Thiên Chúa lẫn tiền bạc. Bạn cũng không thể phục vụ những người khác lẫn tiền bạc.
Một lần kia có một người giàu có nhưng keo kiệt đến gặp vị giáo trưởng của ông và xin giáo trưởng ban phép lành cho ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giàu một cách thân thiện và đưa vào phòng khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến cửa sổ nhìn xuống đường phố và nói: “Ông hãy nhìn ra kia và nói cho tôi biết ông thấy gì”.
“Tôi thấy người ta đi qua, đi lại”, ông nhà giàu đáp.
Rồi giáo trưởng đem ông ta ra khỏi cửa sổ, dẫn ông ta đến trước một tấm gương to và nói: “Ông hãy nhìn vào tấm gương này và ông thấy gì”.
“Tôi thấy chính tôi”, ông nhà giàu đáp.
“Thế đấy, ông bạn, hãy để tôi giải thích ý nghĩa điều ấy cho ông. Cửa sổ làm bằng kính cũng giống như tấm gương này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có tráng lên một lớp bạc. Khi ông nhìn qua kính thường, ông thấy người khác. Nhưng khi ông tráng bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông. Khi ông chỉ quan tâm đến tiền bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông”.
Chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn và ý nghĩa cuộc sống trong của cải. Nhưng khi chúng ta sốt sắng phục vụ người khác, điều này đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Cho người khác là điều làm cho chúng ta cảm thấy mình sống mãi.
“Tiền bạc có thể mua vỏ ngoài của các sự vật nhưng không thể mua mua cái cốt lõi của chúng. Nó đem đến cho bạn thức ăn nhưng không đem đến sự ngon miệng; thuốc men nhưng không phải sức khỏe, sự quen biết nhưng không phải bạn bè, tôi tớ nhưng không phải lòng trung tín, những ngày đầy lạc thú nhưng không phải sự bình an và hạnh phúc”. (Henrik Ibsen)

Nghe xong dụ ngôn này chúng ta không khỏi thắc mắc tại sao Chúa Giêsu lại khen ngợi một kẻ xấu xa và bảo chúng ta nên bắt chước cách xử sự của hắn. Và nếu để ý chúng ta sẽ nhận thấy không phải chỉ lần này mà còn trong nhiều lần khác, Chúa Giêsu đã đề cập tới cách thức cư xử của người xấu kẻ ác:
Chẳng hạn như khi so sánh việc phân xử của Thiên Chúa với một ông quan tòa bất chính, hoặc bảo chúng ta phải khôn ngoan như con rắn. Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta noi theo lối sống bất công, hung dữ, xảo trá và lừa đảo, nhưng Chúa chỉ nói tới sự khéo léo của tên quản lý này mà thôi.
Điều chính yếu là bài học mà Ngài nhằm tới: Hãy khéo léo phục vụ nước trời như con cái thế gian phục vụ các công việc của họ. Từ đó Chúa đưa chúng ta sang việc xử dụng tiền của cho phải phép. Tên quản lý được nói tới ở đây là một người quan trọng, giữ chức vụ lớn trong một nông trại, hắn được chủ trao phó cho việc xử dụng gia tài, nhưng hắn phải làm theo ý chủ. Việc phung phá tiền bạc là điều trái với ý chủ và phải được điều chỉnh lại.
Ở đây, chủ không còn tín nhiệm hắn nữa vì hắn bị tố là kẻ bất lương, gian trá, lừa đảo và không đán tin cậy nữa. Trước sự kiện xảy ra, hắn đã suy nghĩ về tương lai và đã đưa ra những tính toán khéo léo. Hắn tỏ ra mình là một kẻ khéo làm, khéo xoay sở cả về phương diện tốt lẫn phương diện xấu. Chính sự khéo léo này lại làm cho hắn thêm bất lương hơn. Hắn giảm số nợ của những người vay mắc ông chủ: một trăm thùng dầu thì chỉ còn phải trả năm mươi thôi. Một trăm giạ lúa thì chỉ còn phải trả tám mươi thôi. Từ lề lối hành động của tên quản lý bất trung, Chúa nhận xét về thái thế nhân tình:
- Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn ngoan hơn con cái sự sáng.
Con cái đời này là những kẻ chỉ biết đến cuộc sống hiện tại và hoạt động nhằm đến những của cải vật chất mà thôi. Trái lại, con cái sự sáng là những người đón nhận tinh thần của Chúa, con cái đời này đã xử dụng mọi cách thức để đạt tới mục tiêu, vậy con cái sự sáng cũng phải biết xử dụng sự vật đời này một cách khôn khéo để chiếm lấy niềm hạnh phúc nước trời.
Một sự vật đời này gần gũi và căn bản nhất, đó là tiền của. Tiền của, nếu không biết xử dụng, nó sẽ trở nên một ông chủ hà khắc, bóp chết những tình cảm kính mến đối với Thiên Chúa và yêu thương đối với tha nhân.
Trái lại, nếu biết xử dụng đúng mực, nó sẽ đem lại nhiều lợi ích, chẳng hạn dùng tiền của để làm phúc bố thí cho kẻ nghèo, để tạo lấy những người bạn chân thành, một mai sẽ bênh vực cho chúng ta trước ngai tòa của Chúa.
Đằng khác, tiền của còn là một vật trắc nghiệm lòng trung tín của các môn đệ đối với Chúa. Căn cứ theo cách thức xử dụng để biết các ông là những người trung tín hay phản bội, chân thành hay gian dối, vì ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn, ai gian dối trong việc nhỏ thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ trao phó của chân thật cho các con…
Nên nhớ rằng, chúng ta chỉ là những người quản lý, còn Chúa mới là chủ. Vậy chúng ta phải biết xử dụng tiền bạc và những phương tiện vật chất cho phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Để kết luận, tôi xin nhắc lại nơi đây một câu danh ngôn Tây phương, như một lời khuyên trong vấn đề xử dụng tiền bạc:
- Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng cũng là một ông chủ hà khắc.

Bài đọc I của Chúa nhật hôm nay được trích từ sách tiên tri Amos và bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta hai mẫu người, hai nếp sống trái ngược nhau. Mẫu sống của con cái thế gian, tức là con cái của sự tối tăm và mẫu người sống của những con cái Thiên Chúa, con cái sự sáng. Nếp sống của con cái thế gian, những kẻ làm nô lệ cho của cải vật chất, tôn thờ tiền tài được nhắc đến nơi bài đọc I. Họ muốn đề cao tiền tài và coi thường tha nhân, chỉ nghĩ đến việc buôn bán kiếm lợi.
Trong ngày nghỉ, ngày dành cho Giavê Thiên Chúa thì họ không nghỉ ngơi mà âm mưu làm sao để khi ra bán hàng họ sẽ kiếm lợi thêm nữa, nên họ dùng thời gian nghỉ lễ, dùng ngày của Chúa để giảm lường đong, tăng giá, làm cân giả. Họ là những con người chỉ nghĩ đến tiền bạc lợi lộc.
Mẫu sống của con cái thế gian còn được làm nổi bật hơn nữa trong bài Phúc âm kể về dụ ngôn người quản lý bất trung, mánh mung, phung phí tài sản của chủ để làm lợi cho bản thân. Trong cuộc đời, họ chỉ nhận điều gì làm lợi cho họ mà thôi, do đó Thiên Chúa không còn trong tư tưởng, trong tâm hồn, trong nếp sống của họ nữa.
Kể lại dụ ngôn về người quản lý bất trung này, Chúa Giêsu không có ý đề cao nếp sống của người quản lý bất trung cho các môn đệ noi theo, nhưng là để cảnh tỉnh các môn đệ qua một lời trách khéo: “Con cái thế gian khôn lanh hơn con cái sự sáng”. Chúa có ý cảnh tỉnh các môn đệ của Ngài không được ù lì làm biếng và thụ động. Con cái thế gian tìm đủ mọi cách để có danh vọng, làm sao giây phút hiện tại có lợi cho tương lai sắp đến, và để đạt đến mục tiêu này họ không ngại dùng những thủ đoạn mánh mung để làm lợi cho mình.
Phần Chúa Giêsu, Ngài nhắc khéo cho các môn đệ như sau: “Chúng con không được làm tôi hai chủ, tức là vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của”. Môn đệ Chúa cần dứt khoát chọn Chúa, sống theo giáo huấn của Ngài với hết sức dấn thân và nhiệt tâm. Cần phải chọn Thiên Chúa trước hết và mọi sự khác như của cải vật chất hoặc ngay cả mạng sống cũng cần phải sử dụng theo mục tiêu là để giúp chiếm đoạt được Chúa, đạt được cùng đích cuối cùng của đời sống con người: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì, người ta lấy gì mà đổi được linh hồn mình”.
Hãy tìm nước Thiên Chúa trước và tìm với hết sức mình, hết sức nhiệt tâm, hết nghị lực và hết tinh thần, không được ù lì thụ động. Phải ước mong Chúa làm khát vọng duy nhất cho cuộc đời mình. Thiên Chúa muốn chúng ta làm người quản lý tốt của cải, dùng hết khả năng Chúa ban để làm sinh lợi những khả năng, những nén bạc Chúa trao cho, sao cho sáng danh Chúa và mưu ích cho anh chị em.
Trong dụ ngôn được Chúa Giêsu kể và ghi lại nơi Phúc âm thánh Luca hôm nay chúng ta nhận thấy rằng, người quản lý xấu dùng tài trí của mình và tiền của của chủ để tạo ra bạn bè mới. Liên kết với của cải trong mục đích hưởng lấy những lợi lộc trần gian, đó là lối hành xử của con cái thế gian. Con cái sự sáng cần phải có lòng hăng say, sử dụng tốt những gì Chúa ban cho để làm cho đời sống con người được cứu rỗi, được nâng cao, xứng đáng với phẩm vị làm con cái Thiên Chúa.
Nếu sống vì tiền bạc, danh vọng, tìm cách lạm dụng và khử trừ người nghèo, tránh xa người nghèo, làm như thế là họ không phải là con người, không phải là con cái Thiên Chúa nữa. Bởi vì, con cái sự sáng không bao giờ được làm như vậy. Ngược lại, họ cần phải sử dụng tài năng Chúa ban, kể cả của cải vật chất để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho anh chị em, phục vụ kẻ nghèo chứ không loại trừ người nghèo.
Người quản lý tốt không lợi dụng cũng không phung phá tài sản của chủ: “Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn”. Trong tất cả mọi sự hãy tìm gặp Chúa trước hết. Chính trong viễn tượng này mà chúng ta nhớ lại lời cầu nguyện sau đây được trích lại trong sách giáo lý mới: “Lạy Chúa, xin ban cho con tất cả những gì giúp con đến gần Chúa. Xin hãy cất khỏi con tất cả những gì làm con xa Chúa. Xin hãy giải thoát con khỏi cái tôi ích kỷ, tham lam tiền của để con biết dâng toàn thân cho Chúa”. Chúng ta hãy cầu nguyện như vậy hằng ngày và xin Chúa giúp chúng ta sống được như vậy để luôn trung thành với đức tin vào Chúa.

Dụ ngôn của bài Tin Mừng khá dí dỏm và linh động, kể chuyện một người quản lý đang đứng trước một tương lai đen tối: sắp bị đuổi việc, nên ông ta đã nghĩ ra một kế hoạch rất khôn khéo, có thể nói là láu cá, mánh mung hay gian xảo để thủ lợi khi thất nghiệp sẽ có người trả ơn mình, giúp đỡ mình. Khi kể dụ ngôn này, Chúa Giêsu không có ý dạy chúng ta gian xảo như người quản lý ấy, nhưng Chúa muốn chúng ta phải nhanh trí khôn, biết ứng phó kịp thời với hoàn cảnh, nhất là tìm được những bảo đảm cho tương lai, mà tương lai quan trọng nhất là cuộc sống đời sau. Vì thế, sau khi kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đưa ra những giáo huấn của Ngài về vấn đề tiền của.
Tất cả những tiền của trần gian chỉ là những thứ vô tri giác, Thiên Chúa ban cho con người hưởng dùng để xây dựng, thăng tiến mức sống, đồng thời phát triển tình người, liên kết yêu thương. Nên tiền của trần gian chỉ là một thứ trung gian, là phương tiện con người phải biết sử dụng cho đúng, hợp tình hợp lý, khôn khéo và hữu ích để được ấm no, hạnh phúc ở đời này và nhất là để đạt tới kho tàng đích thực là Nước Trời.
Tiền của, vàng bạc là những thứ đem lại giàu sang, sung sướng nhưng đồng thời cũng là nguyên do những phản bội, tráo trở, thất nhân, thất đức, bôi đen lòng người, như câu trong sách nho: “Hoàng kim hắc thế tâm”. Nhưng trong thực tế, thường con người lại có những quan điểm trái ngược, đề cao giá trị đồng tiền, coi đồng tiền là tất cả, là vạn năng:
- Có tiền mua tiên cũng được.
- Tiền không chân xa gần đi khắp.
- Có tiền chán vạn người hầu.
- Có bấc có dầu chán vạn người khêu.
- Mạnh vì gạo, bạo vì tiền…
Shakespeare cũng đồng ý rằng: “Tiền đi trước thì mọi con đường đều rộng mở”.
Hoặc như tục ngữ Pháp có câu: “Một người không tiền là một con sói không răng”. Ngày nay người ta nói: “Đồng tiền là tiên là phật. Là sức bật của thanh niên. Là sức khỏe của tuổi già. Là cái đà của danh vọng. Là cái lọng để che thân”.
Tuy nhiên, trên đây chỉ là những nhận định phiến diện về giá trị của đồng tiền. Những quan niệm xuất phát từ những giao tế, những công ăn việc làm do thiếu đồng tiền, cũng có thể do những yếu tố khác, nhưng người ta không nhận ra mà phải đón nhận những tráo trở, thất bại, ê chề. Nhưng còn trường hợp con người sa đọa, tội lỗi, hư hỏng, vì dưa thừa tiền bạc, phủ phê vật chất thì sao? Hoặc những gia đình giàu có nhưng sống ngột ngạt, bất hòa thường xuyên, chúng ta giải thích thế nào? Bởi vì tiền là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng. Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”. Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng: “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm hết gạo, hết ông tôi”.
Cho nên, đầy đủ và trung thực nhất, phải là một nhận định hai chiều: “Tiền bạc chỉ là tên đầy tớ tốt, chứ không thể là ông chủ tốt được”. Và xa hơn, hỏi rằng đau khổ, cái chết, đồng tiền có chiến thắng được không? “Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Vì thế, là những Kitô hữu xác tín có một đời sau, có một kho tàng đích thực đang chờ đón, chúng ta có thể chấp nhận và sống theo châm ngôn: “Đồng tiền là vạn năng”? Cũng bị ràng buộc, nô lệ cho đồng tiền không?
Chúng ta hãy đặt tiền của trở về đúng vị trí, khả năng của nó, chứ đừng phóng đại lên thì mới hy vọng có một thái độ, cách cư xử đúng mức đối với tiền của trong tương quan với tha nhân. Vấn đề vô cùng phức tạp và qui mô. Ở đây, chúng ta thử nêu vài nhận xét, ví dụ nho nhỏ trong phạm vi gia đình. Kinh nghiệm cho thấy trong gia đình, thường xuyên xảy ra những cãi cọ, xích mích chỉ vì mất mát, hư hỏng, những chia sẽ không đều. Vì tiền bạc, vợ chồng xào xáo lẫn nhau. Vì tiền bạc, anh em xa cách nhau do cha mẹ phân biệt đứa này làm nhiều tiền, đứa kia làm ít tiền. Ra đến xã hội, vấn đề còn phức tạp hơn nhiều. Không lạ gì mà người ta cứ quay cuồng lên vì đồng tiền, sẵn sàng làm tất cả vì đồng tiền. Tiền của đã trở thành một cực hút rất mạnh như một khối nam châm khổng lồ, bề thế như một vị chúa tể dõng dạc ngự trị trên trái tim mù quáng của con người. Chính trong bối cảnh như thế mà lời Chúa đã vang lên thức tỉnh lòng người: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”. Phải lựa chọn một trong hai.
Qua lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta hãy kiểm điểm lại thái độ của mình: chúng ta kiếm tiền của như thế nào? Chúng ta chi tiêu tiền bạc như thế nào? Đồng thời thành khẩn cầu xin Chúa ban cho chúng ta một nghị lực dứt khoát và can đảm để luôn chế ngự được hấp lực của đồng tiền, biết cách sử dụng tiền bạc của cải trần gian để đem lại ấm no, hạnh phúc đời này và cả đời sau nữa.

Người quản gia trong câu chuyện của Đức Giêsu không đáng tin cậy và bất lương. Rõ ràng có những lúc anh ta hoàn toàn như thế. Có lẽ bắt đầu là những việc bất lương nhỏ, nhưng dần dần trở thành một cách sống. Anh ta phải biết rằng mình sống trong nguy hiểm. Nhưng anh ta tránh né được sự phán xét của dư luận và của bản thân một thời gian dài. Tuy nhiên, dù có quỷ quyệt, anh ta cũng có lúc bị phát hiện và ông chủ của người quản gia bắt anh ta phải tính sổ.
Đây quả là một thời điểm rất nhọc nhằn và đau đớn cho quản gia. Anh ta không chỉ mất việc làm mà còn mất danh tiếng, anh ta rước lấy xấu hổ và sỉ nhục cho mình và gia đình mình nếu anh có một gia đình. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm của chân lý và sự thật được tiết lộ. Nó cho anh ta một cơ hội để bỏ lại sau lưng mình ảo tưởng và dối trá. Do đó, thời điểm ấy có thể là một khúc quanh trong cuộc đời anh ta.
Nhưng điều gì đã xảy ra? Anh ta không học hỏi được gì từ điều đó. Cả sau khi bị cho thôi việc, anh ta tiếp tục sống theo con đường bất lương trước đây. Không hề có một thay đổi nào dù rất nhỏ trong tính cách của anh ta. Không hề có vết trầy xước nào trên bộ áo giáp của anh ta. Anh ta từ chối nhận lãnh trách nhiệm về loại người mà anh ta đã trở thành.
Thay đổi thói quen của một cuộc đời rất khó. Dostoevsky nói: “Nửa sau của cuộc đời một người thường được tạo thành bởi những thói quen được thủ đắc trong suốt nửa đầu của cuộc đời ấy”. Đây là một tư tưởng hay nhưng đáng sợ.
Dường như đến một lúc nào đó trong cuộc đời chúng ta khi thể chất quí giá mà chúng ta được tạo thành đã trở nên khô cứng và chai đá đến nỗi từ lúc đó trở đi chúng ta không thể đảm nhận một hình thể mới. Con người bất lương vẫn cứ bất lương mãi cho đến cùng. Con người tham lam sẽ cứ tham lam mãi cho đến cùng. Một minh họa.
Một lần kia, một người thánh thiện vừa đi dạo trong rừng vừa giáo huấn các môn đệ. Ông chỉ vào một cây sồi con và yêu cầu một môn đệ nhổ nó lên. Dù với sự giúp đỡ của tất cả các bạn, anh ta cũng không thể nhổ lên được.
Và ông thầy kết luận: “Những đam mê và các thói quen cũng thế. Lúc ban đầu, trước khi chúng đâm rễ sâu xuống, người ta dễ dàng trừ khử chúng. Nhưng nếu chúng ta để cho chúng đâm rễ sâu rồi, thì hầu như chúng ta không thể thoát khỏi chúng”.
Điều đó hầu như đã xảy đến với người quản gia trong câu chuyện của Đức Giêsu. Anh ta đã quá quen với cách sống bất lương đến nỗi không thể thay đổi được. Tuy nhiên, điều gì chúng ta không thể làm được trở thành có thể với sự giúp đỡ của ân sủng Thiên Chúa.
Trong khi câu chuyện cho chúng ta thấy sự nguy hiểm của thói quen xấu nó cũng chỉ ra tầm quan trọng của việc hình thành những thói quen tốt. Bởi lẽ sự bất lương cũng có thể trở thành một cách sống như sự lương thiện. Sự lương thiện có thể trở thành tập quán, tự phát và bản tính thứ hai.
Làm thế nào để một người đạt đến tình trạng hạnh phúc ấy? Nó không thể được hoàn thành trong một sớm, một chiều. Nó phải được học tập và thực hành lâu dài. Nó không hoàn thành bởi một ít công trình vĩ đại nhưng bằng nhiều công việc nhỏ. Phần thưởng thật sự cho một việc làm tốt là nó làm cho việc làm tốt kế tiếp sau đó được dễ dàng hơn. Mỗi hành động nhỏ của ngày thường tạo nên hoặc không tạo nên tính cách.

22.                     Khôn ngoan đích thực - Lm. Phạm Thanh Liêm
Có người khôn “lỏi”. Có người khôn mà không “ngoan”, khôn mà không được người khác thương. Có người ngây thơ như thể là dại, nhưng lại được nhiều người thương. “Ai khôn thời dại, ai dại thời khôn”. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu?
Khôn theo kiểu thế gian
Người quản lý trong dụ ngôn Đức Yêsu kể, thật là khôn theo kiểu thế gian. Anh ta toan tính và cư xử rất khéo và có lợi cho anh ta. Anh ta được lợi ngay trước mắt, sẽ được người ta đón tiếp một khoảng thời gian nào đó; nếu tiếp tục để tồn tại, anh ta phải toan tính làm những điều không lương thiện tương tự, để có thể sống mà không cần phải làm việc. Nhưng, anh ta có thật sự hạnh phúc không? Một người lương thiện có thể coi anh ta là người bạn chân thành không? Nếu tất cả mọi người đều lợi dụng lẫn nhau, và khi không còn lợi cho mình nữa, thì chấm dứt mọi tương quan. Nếu cuộc sống chỉ là vậy, có chi là hạnh phúc!
“Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết gạo hết ông tôi”. Những người khôn kiểu này, người Việt Nam mình gọi là khôn lỏi, khôn mà không ngoan, khôn mà dại. Có nhiều người trong cuộc sống, vẫn chọn và hành xử theo kiểu khôn ngoan này. Họ vẫn chọn tiền bạc, mua bán đổi chác trong mọi chuyện, kể cả tình yêu. Có nhiều bậc cha mẹ vô tình hay hữu ý vẫn khuyến khích con mình khôn ngoan theo kiểu “dại” như vậy.
Khôn ngoan đích thực
Người khôn ngoan đích thực, phải là người thấy được điều lợi không phải ngay lúc này, nhưng còn cả ở tương lai xa nữa. Thứ ba vừa qua khủng bố đã xảy ra ở New York làm chết trên dưới năm ngàn người. Sống trong một nước văn minh, con người làm chủ những luật lệ thiên nhiên, biết thời tiết nắng mưa, nóng lạnh gần như chính xác, thấy được những biến chuyển của những cấu trúc và thiết bị nhân tạo. Con người gần như cảm thấy an toàn, làm chủ tất cả. Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001, làm con người run sợ. Cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Con người run sợ trước sự dữ con người làm cho nhau. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu? Được gì nếu cái chết xảy đến ngay cả khi mình giầu sang quý phái nổi tiếng? Ở trên ngôi nhà cao, nổi tiếng, vẫn là điều làm người ta vinh dự; lúc tai nạn xảy ra, toà nhà nổi tiếng đó trở thành mối hoạ, sống trên đó lại là cái hại khủng khiếp.
Khôn chết, dại chết, biết cũng chết. Sự khôn ngoan đích thực không phải chỉ toan tính cho ở đời này. Nếu chết là hết, toan tính ở đời này là đủ; nhưng chết không phải là hết, mà là khởi đầu một đời sống mới vĩnh cửu, mà nếu không chuẩn bị cho cuộc sống đó, mà chỉ lo cuộc sống đời này, thì quả là dại. Khôn ngoan đích thực, là sống theo luật yêu thương của Đức Yêsu trong cuộc sống thường ngày. Khôn ngoan đích thực, làm con người sống hạnh phúc trong đời sống mai hậu và ngay trong cuộc sống này.
Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ
Thiên Chúa là Đấng muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Thiên Chúa muốn mọi người nhận biết Ngài yêu thương con người, để khi nhận biết Ngài yêu thương con người, con người được tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa không muốn sự dữ, không muốn con người đau khổ.
Đau khổ và sự dữ do con người gây ra cho nhau. Biến cố cướp máy bay và cố tình gây ra thật nhiều cái chết, làm nhiều người đau khổ. Và sự dữ này kéo theo sự dữ khác, chẳng hạn muốn báo thù, muốn hủy diệt sự dữ bằng sự dữ khác.
Khôn ngoan đích thực, là chính thái độ sống yêu thương mà Đức Yêsu đã dạy con người bằng chính cuộc sống của Ngài. Sự khôn ngoan đích thực không phải là bài học lý thuyết con người có thể học được trong vài phút, nhưng là chính cuộc sống của mỗi người. Trên thập giá, Đức Yêsu cầu nguyện: “xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết”. Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá, kiên nhẫn chịu đựng những bất công người ta gây ra cho con mẹ. Cách sống của Đức Yêsu và Đức Mẹ, là cách sống làm con người sống bình an hạnh phúc. Sự dữ kéo theo sự dữ, làm con người luôn sống trong bất bình an. Tha thứ, cầu nguyện cho người ghét mình, làm con người được bình an tận trong lòng, và giúp kẻ làm ác có cơ hội thống hối. Đức Yêsu và những môn đệ của Ngài đã không lấy ác báo ác, nhưng lấy tình thương đáp trả sự dữ. Đây là cách hành xử của những người tuyệt vời. Khôn ngoan đích thực được thể hiện trong cuộc sống với những hành vi cụ thể cho dù nhỏ bé.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Điều gì làm cho bạn khổ nhất? Tại sao vậy?
2. Con người có thể sống hạnh phúc không? Khi nào?
3. Đức Yêsu và Đức Mẹ có hạnh phúc ở đời này không? Xin trình bày quan điểm của bạn cho người khác!

Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn nghĩ gì về một người nghèo được người ta đồng ý cho “đổi giấy lấy tiền” (cứ một tờ giấy thường nhỏ lấy một tờ giấy bạc 10.000đ, hay 50.000đ VN, hoặc lấy tờ 10 hay 50 USD), mà lại không chịu đổi, cứ nhất định khư khư giữ lại những tờ giấy tầm thường cho mình? Bạn có bao giờ nghĩ mình cũng đang làm tương tự như thế trên bình diện tâm linh không?
2. Một người thường tỏ ra bất tín trong chuyện tiền bạc, hay lỗi hẹn, hay thất hứa, v.v… thì bạn có dám giao cho họ một công việc gì lớn không? Tại sao? Bạn có những kinh nghiệm nào cụ thể về việc này?
Suy tư gợi ý:
1. Theo khôn ngoan thế gian, phải biết lo liệu trước tương lai
Ta thử đặt mình vào địa vị tên quản gia bất lương kia để xem mình nên làm gì hầu “sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ”. Nếu không lo liệu trước, thì coi chừng chết đói, vì ngoài chức quản gia ra, anh ta chẳng biết làm gì khác để sinh sống, “cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”. Tốt nhất là nên lợi dụng ngay quyền hạn của chức quản gia mà mình còn giữ được trong thời gian ngắn ngủi một tuần hay một tháng này để lo liệu chuyện đó. Bây giờ cần phải đầu tư tình cảm nơi mọi người. Cách tốt nhất và hữu hiệu nhất để gây tình cảm là lợi dụng chức quản gia để làm ơn cho họ. Anh ta nghĩ: ông chủ có rất nhiều con nợ, mình giảm nợ cho họ tất nhiên họ phải mang ơn mình, có tình cảm với mình, nhờ đó, khi mình thất nghiệp, họ sẽ tôn trọng và giúp đỡ mình. Thế là “anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” (6) Người ấy đáp: “Một trăm thùng dầu ô-liu”. Anh ta bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi”. (7) Rồi anh ta hỏi người khác: “Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: “Một ngàn giạ lúa”. Anh ta bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi”“.
Như thế, anh ta đã dùng những tiền của không phải của mình để làm lợi cho mình: dùng tiền của của người khác do mình tạm thời quản lý để mua lấy tương lai cho mình về sau. Nhân câu chuyện này, Đức Giêsu khuyên chúng ta: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Điều ấy có ý nghĩa gì? Cần phải hiểu câu nói của Đức Giêsu thế nào?
2. Áp dụng sự khôn ngoan ấy vào việc lo hạnh phúc vĩnh cửu
Chúng ta ai nấy đều có một thời gian rất ngắn ngủi ở trần gian này trước khi bước vào đời sống vĩnh cửu đời sau. So với đời sống mai hậu, đời sống này rất là ngắn ngủi trong đó mọi sự đều chóng qua, giả tạm, không bền. Thật vậy, tất cả mọi sự ta đang có trong tay – trí tuệ, khôn ngoan, sức khỏe, cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng vườn, của cải, v.v… – có thể mất đi bất cứ lúc nào. Chỉ một cơn bệnh nặng hay một tai nạn ở đầu có thể làm ta mất hết trí tuệ, sức khỏe, làm ta điên loạn, không còn biết gì. Một cuộc đổi đời có thể làm ta mất hết địa vị, quyền lực và tiền bạc. Như thế tất cả những gì ta đang có trong tay, dù là tinh thần hay vật chất, đều không phải là của ta, mà chỉ để ta quản lý một thời gian thôi. Ta chỉ quản lý nó nhiều lắm là 100 năm ở đời này. 100 năm đó so với sự hiện hữu vĩnh cửu của ta thì cũng tương tự như một phút so với cả cuộc đời trần thế của ta. Tới khi chết, tất cả những của cải ta đang quản lý, dù nhiều tới đâu, cũng đều phải để lại cho người khác quản lý, và ra đi với hai bàn tay trắng. Chỉ những gì ta có được ở đời sau, mới là của ta đích thật, nó sẽ ở với ta mãi mãi.
Tuy nhiên, một điều rất lạ lùng và hết sức đáng mừng là ta có thể dùng những thứ giả tạm chóng qua mà ta đang quản lý ở đời này để tạo nên của cải đích thực và vĩnh cửu cho ta ở đời sau. Vì thế, xét về mặt này, hoàn cảnh của ta giống y hệt hoàn cảnh của viên quản lý trong dụ ngôn của Đức Giêsu. Vậy thì dại gì ta cứ giữ khư khư lấy những của giả tạm đó cho mình, mà không lợi dụng thời gian quản lý quí báu những của cải ấy để mua sắm lấy Nước Trời, tức hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của mình. Vì thế, những kẻ chỉ lo làm giàu ở đời này mà không màng đến việc lo liệu cho hạnh phúc đời sau, thì đúng là bỏ mất những cơ hội hết sức quí báu để “đổi giấy lấy tiền”. Cơ hội này mất đi sẽ không bao giờ trở lại.
Người quản lý trong dụ ngôn đã dùng tiền mà mình đang quản lý để làm ơn làm phúc cho người này người nọ, nhờ đó khi không còn quản lý nữa, ông vẫn được người khác quí trọng, tiếp đón, hậu đãi. Đức Giêsu khuyên chúng ta cũng nên “dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Nghĩa là hãy dùng những của cải tạm bợ – tinh thần cũng như vật chất – mà Chúa trao cho ta quản lý, để sắm lấy những của cải vĩnh viễn trên trời. Bằng cách nào? bằng cách sử dụng những của cải ấy để thực hiện những hành động yêu thương: gây hạnh phúc hay làm lợi cho tha nhân, làng xóm, xứ đạo, quê hương đất nước, xã hội, Giáo Hội… Ta có thể dùng tiền của, tài năng, trí tuệ của mình – vốn giả tạm, chóng qua, nay còn mai mất – để đầu tư cho sự hạnh phúc của tha nhân, sự phát triển của xã hội, sự thánh thiện của Giáo Hội, v.v… Nhờ vậy, tự nhiên ta có một kho tàng vĩnh cửu không thể hư mất ở trên trời. Như thế chẳng phải là ta đã “đổi giấy lấy tiền”, “đổi đồ giả lấy đồ thật” sao? Vậy dại gì mà không đổi?
3. Hãy trung tín trong mọi việc hằng ngày
Đã là người, ai cũng muốn mình trở thành người có giá trị, được mọi người tín nhiệm. Sự tín nhiệm và giá trị của ta một phần nào được đo bằng việc người khác có dám giao cho ta đảm trách những việc lớn lao hay không. Nhưng làm sao người khác có thể dám giao cho ta việc lớn, khi họ thấy ngay cả việc nhỏ ta cũng không chu toàn được? Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn”. Sự khôn ngoan đòi buộc người ta, khi giao việc cho ai mà muốn thành công, thì phải thử xem người ấy có đủ khả năng và đức độ để chu toàn việc ấy không. Đức độ và khả năng là hai yếu tố quan trọng để căn cứ vào đó mà tín nhiệm một người. Nói về việc thử người, trong dân gian có câu: “Lấy lửa thử vàng, lấy vàng thử đàn bà, và lấy đàn bà thử đàn ông”. Tôi nghĩ câu ấy cũng rất chí lý.
Riêng tôi, theo kinh nghiệm cá nhân rất hạn hẹp của tôi thì chỉ nên tín nhiệm những ai tỏ ra trung tín trong việc sử dụng tiền bạc hoặc của cải của người khác. Và đó cũng là điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” Kinh nghiệm hạn hẹp của tôi cho thấy người nào không trung tín trong chuyện tiền bạc, của cải vật chất, thì cũng thường – tôi chỉ dám nói “thường” mặc dù tôi chưa thấy có luật trừ – không trung tín hay không đáng tín nhiệm trong những chuyện khác. Còn ai trung tín trong chuyện tiền bạc, của cải vật chất, thì cũng thường trung tín hay đáng tín nhiệm trong những việc khác. Theo quan niệm của tôi, một người không giữ được sự công bằng – dù về tinh thần hay vật chất – thì cũng khó có thể là một người bác ái đích thật hay một người thánh thiện được.
Vậy, ta không nên sợ rằng mình không được tín nhiệm, mà hãy sợ rằng ta chưa có thái độ đúng đắn trong những việc nhỏ, trong sự công bằng, trong cách sử dụng tiền bạc hay của cải không phải là của mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng mọi sự con có trong tay, dù là tinh thần hay vật chất, không phải là của con mà là của Cha. Cha giao cho con quản lý chứ không phải làm chủ. Con phải sử dụng chúng theo ý Cha chứ không phải theo ý con. Xin cho con biết sử dụng những thứ Cha giao cho con quản lý để tạo nên kho tàng vĩnh viễn cho con ở trên trời. Xin cho con biết trung tín trong mọi việc nhỏ nhặt của đời sống thường ngày, để con đáng được Cha và mọi người tín nhiệm trong những việc lớn lao hơn.

24.                     Biết khôn ngoan tiên liệu – Lm FX Vũ Phan Long
Của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng mà phục vụ anh chị em.
1.- Ngữ cảnh
Với chương 16, Tin Mừng Luca thêm vào những dụ ngôn và những lời nói khác của Đức Giêsu. Tuy nhiên, trong khi đề tài của ch. 15 là niềm vui vì tìm lại được những gì đã mất, trong ch. 16 này, đề tài là thái độ đối với của cải và cách sử dụng chúng. Dù thế, vẫn có thể cho rằng đề tài mới này đã được báo trước ở ch. 15 bằng truyện đứa con thứ phung phí của cải. Bây giờ, chúng ta có hai dụ ngôn, Người quản lý bất lương (cc. 1-8a) và Ông nhà giàu với Ladarô (cc. 19-31), triển khai rõ ràng đề tài mới này. Ta cũng thấy có những lời Đức Giêsu được gắn vào dụ ngôn thứ nhất (cc. 8b-13) và những lời khiển trách người Pharisêu ham tiền (cc. 14-15). Chỉ  có hai lời không liên hệ đến đề tài, đó là lời nói về Lề Luật (cc. 16-17) và lời nói về ly dị (c. 18).
Về bài dụ ngôn Người quản lý bất lương, cho đến nay bài này vẫn là một crux interpretum (“thập giá của các nhà chú giải”). Để hiểu dụ ngôn và các áp dụng, điều chủ yếu phải làm sáng tỏ là bản chất luân lý của hành động của người quản lý liên hệ đến các biên nhận của các con nợ của ông chủ. Ý kiến vẫn được đa số chấp nhận là người quản lý, đã bất lương trong quá khứ, khi làm thất thoát tài sản của chủ, nay làm thêm một hành vi bất lương nữa khi sửa lại các biên nhận, khiến tài sản của chủ càng hao hụt thêm. Nhưng nếu đây là ý nghĩa của bản văn, ta khó mà hiểu được là vì sao ông chủ có thể khen ngợi người quản lý là khôn khéo, và vì sao Đức Giêsu có thể rút từ cách hành động này một kết luận chấp nhận được. Dĩ nhiên, về phương diện luận lý, ta có thể tách sự tiên liệu và khôn khéo ra khỏi những phương diện khác của hành động của người quản lý. Nhưng những phân biệt như thế thì không  dễ nắm bắt đối với những tâm trí không quen kiểu làm việc này, còn đám đông Kitô hữu thì hẳn là vẫn cảm thấy lúng túng khi đọc thấy sự song đối Đức Giêsu thiết lập giữa người quản lý và các môn đệ Người. Không lẽ Đức Giêsu, là người vẫn quen ngỏ lời với các con tim, lại thật sự đề ra một dụ ngôn hàm hồ như thế trong một vấn đề đụng chạm đến sự vô luân, bị mọi người phản đối?
Ngoài ra, cứ cho đi là người quản lý đã giả mạo các biên nhận nợ, thì anh ta chỉ càng làm cho hoàn cảnh của mình thêm trầm trọng, mà cũng chẳng giữ được kín, vì anh sắp phải báo cáo sổ sách, với lại bản văn cho thấy là ông chủ biết rất nhanh chuyện vừa xảy ra. Và cũng khó mà hiểu vì sao anh lại được khen là khôn khéo. Nếu thế, dụ ngôn này nói về một hành động khó có thật.
Chúng ta đừng quên rằng Đức Giêsu không hề đánh giá hành vi của người quản lý về mặt luân lý, mà chỉ nói là anh khôn khéo thôi. Chính câu 8 gọi anh là “bất lương”, nhưng đó là trong quá khứ, trước khi anh ta làm hành động được bài dụ ngôn kể ra, còn hành động này không nhất thiết là bất lương (x. Dụ ngôn ông quan tòa bất chính đã xử công bình cho bà góa: Lc 18,2-8). Xin coi trong phần chú giải.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dụ ngôn Người quản lý bất lương (16,1-8a);
2) Ba áp dụng của Dụ ngôn (16,8b-13):
a) Áp dụng 1 (cc. 8b-9),
b) Áp dụng 2 (cc. 10-12),
c) Áp dụng 3 (c. 13).
3.- Vài điểm chú giải
- một người quản lý (1): Danh từ Hy Lạp oikonomos thường là một người nô lệ sinh ra tại nhà chủ (x. St 15,3: ben bayit, “một người con của nhà”; St 14,14: yelid bayit, “người sinh ra của nhà”), nhưng không nhất thiết là như thế. Tại Paléttina, người quản lý không được trả lương; anh toàn quyền thay mặt chủ để giao dịch làm ăn. Nếu anh ta biển thủ, thì không có một hành vi pháp lý nào có thể giúp chủ thu hồi của cải cả; ông chủ chỉ có thể phạt bằng cách trách mắng, tiết lộ hành vi bất lương của anh ta để làm anh mất tiếng tốt, rồi thải hồi anh thôi. Sau khi đã biết quyết định của chủ, người quản lý phải tính sổ, nhưng vẫn đại diện của chủ. Vì không có lương, người quản lý có thể cho vay lấy lãi. Thật ra Luật Môsê cấm cho vay lấy lãi (x. Xh 22,25; Lc 25,36; Đnl 23,20-21), nhưng người Do Thái có cách xoay sở: người ta bảo là Luật nhắm che chở những người túng cực khỏi bị bóc lột. Do đó, nếu chứng minh được là người vay mượn đã có một phần của cải anh muốn mượn, và như vậy phần vay mượn không là cấp bách, thì có thể lấy lãi. Chẳng hạn dầu và lúa (đó là lý do khiến hai thứ này được đưa ra làm ví dụ ở đây): ai mà chẳng có đủ dầu để đốt một cái đèn? Ai lại không có đủ lúa để làm một cái bánh? (Mishna). Ở đây, anh quản lý tha phần lãi (quá đáng) để trả lại nguyên vốn cho chủ[1].
- tố cáo (1): Động từ Hy Lạp diaballein thường có sắc thái vu khống.
- phung phí của cải (1): Động từ Hy Lạp diaskorpizein cũng được dùng trong dụ ngôn Người con phung phá (15,13) để mô tả một cách sử dụng hoang phí các của cải. Bản văn không nói rõ anh “phung phí của cải” trong những chuyện gì.
- Một trăm thùng dầu ô-liu (6): Danh từ Hy Lạp batos phiên âm từ tiếng Híp-ri bat, “thùng” tương đương với khoảng 45 lít (theo sử gia Gioxép, một batos = 72 xestai Hy Lạp hoặc 72 sextarii Rô-ma).
- viết năm chục (6): Câu này không có nghĩa là anh ta giả mạo số nợ người ta mắc với ông chủ của anh. Điều này có nghĩa là con nợ hiện mắc nợ ông chủ chỉ năm mươi thùng dầu, còn năm mươi thùng kia là hoa hồng của người quản lý. Như thế số lãi là 50%. Bên Cận Đông những món nợ về lương thực thường có lãi cao như thế thật.
- Một trăm bồ lúa (NTT- 7; “Một ngàn giạ lúa”: CGKPV): tức là một trăm kor lúa. Từ Hy Lạp koros phiên âm từ  từ ngữ Híp-ri kor, tương đương với 10 bats, hoặc 450 lít (bên Hy Lạp có đơn vị đo lường medimnos = 1,5 kor).
- viết tám trăm (7): Trong trường hợp này, hoa hồng là 25% (trên tám mươi bồ/giạ lúa). Lãi 1/3 hay 1/4 là chuyện bình thường.
- Và ông chủ khen (8): Ho kyrios có thể hiểu là “Chúa (Đức Giêsu )” hay “ông chủ. Ở đây, ta hiểu là “nhà phú hộ kia” (c. 1) hay “ông chủ (cc. 3.5). Vì các lý do: (1) “Nhà phú hộ rất có thể là một chủ đất thường xuyên đi vắng, nên đã giao việc quản lý công việc làm ăn cho một người quản lý (oikonomos). Anh này không phải chỉ là một người tôi tớ được đặt đứng đầu những tôi tớ khác (như ở 12,42), mà là một nhân viên của ông chủ, được huấn luyện, được tin tưởng và được giao quyền thay chủ. Anh này có thể hành động nhân danh chủ trong những giao dịch: theo cách thông thường, anh này cho những người khác mượn của cải của ông chủ với một phần hoa hồng hoặc lãi được cộng thêm vào biên nhận; trong biên nhận này thường chỉ ghi số nợ, nghĩa là phần vốn cộng với phần lãi. Đây là tập tục rất thông dụng bên vùng đông Địa Trung Hải, Ai-cập dưới thời Hy Lạp và Rô-ma, Paléttina, Xyri, Átxyri, và Babylon.         
Vậy tại sao ông chủ lại khen người quản lý? Tuy không biết số hoa hồng người quản lý có được, chắc chắn ông chủ biết là anh có làm theo thói tục lúc đó. Nhưng nếu người quản lý cố tình giả mạo biên nhận, hẳn là khó mà cho rằng ông chủ lại khen anh. Ở đây, ông chủ khen người quản lý là vì thấy anh khôn khéo, vì thấy anh này chấp nhận loại bỏ phần hoa hồng khỏi những biên nhận trước đây, trong đó có phần cho vay nặng lãi. Như thế, anh đã biến những con nợ của chủ thành người chiu ơn anh, mà không làm thiệt hại gì đến chủ.
- con cái ánh sáng (8): Đây là một cách gọi các môn đệ Kitô hữu (x. 1 Tx 5,5; Ep 5,8; Ga 12,36).
- nơi ở vĩnh cửu (9): dịch sát là “các lều vĩnh cửu”. Có lẽ hình ảnh này lấy từ lễ Lều, vì lễ này được coi như một tiền ảnh của thời đại cứu độ (Dcr 14,16-21).
- Tiền của bất chính (9): Danh từ mamonas là dạng hy-hóa của danh từ Híp-ri mamôn hoặc danh từ A-ram mamôna’. Cách giải thích hợp lý nhất là cho rằng từ này là một dạng của ngữ căn ’mn, và có nghĩa là “điều mà người ta đặt tin tưởng vào”, từ đó chuyển sang nghĩa là “tiền bạc, của cải”. Đây là tiền của thủ đắc hợp pháp, tức theo luật lệ của loài người, nhưng hư hỏng dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ ngôn Người quản lý bất lương (1-8a)
Bản văn dường như mô tả một sự cố đã thật sự xảy ra.  Người quản lý bị tố cáo là bất lương, nhưng chúng ta không được biết đích xác trong chuyện gì. Chúng ta chỉ biết là bây giờ, khi thấy hoàn cảnh của anh đã thành bấp bênh, vì ông chủ đã quyết định sa thải anh, anh biết phản ứng nhanh và dứt khoát.
Người quản lý biết rằng có nhiều người đang nợ chủ anh những món nợ kếch sù. Anh gọi các con nợ đến, rồi hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?” Người ấy đáp: “Một trăm thùng dầu ô-liu”. Người quản lý bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi”. Món nợ đã được giảm từ 4.500 lít dầu ô-liu xuống còn 2.250 lít, tương đương với tiền công nhật một năm.
Anh ta gọi người thứ hai đang mắc nợ một trăm bồ lúa, tức là khoảng 35 tấn (kết quả thu hoạch của hơn 42 mẫu ruộng tốt). Nay món nợ của ông giảm xuống còn 80 bồ thôi, tức là bớt đi khoảng 7 tấn!
“Ông chủ (c. 8), dù là Đức Giêsu hay là ông phú hộ, đã khen ngợi sự khôn khéo và sáng suốt của anh. Người ta vẫn giải thích hành vi anh ta hướng dẫn những người làm biên nhận là một hành vi bất lương: thay vì bảo các con nợ viết đủ số nợ thì lại bảo họ viết bớt đi. Có một cách giải thích khách hợp lý hơn: Vào thời Đức Giêsu, các quản lý không có lương, nên họ được phép lấy hoa hồng từ món nợ (25-50%). Như thế, ở đây, người quản lý không làm thiệt hại cho chủ, nhưng chỉ bớt món hoa hồng lẽ ra anh được hưởng. Anh hy sinh một món lợi nhuận ngắn hạn như thế để mong được người ta tiếp đón lâu dài. Vì thế, anh ta mới được khen là sáng suốt và biết khôn ngoan tiên liệu.
Cho dù chọn cách giải thích nào, các độc giả vẫn phải nhớ điểm nhắm của dụ ngôn là: sự thông minh của một người khi nhìn đến tương lai của mình, hoặc nói bằng ngôn ngữ tôn giáo hơn, các chọn lựa thận trọng khi nhìn đến việc cứu độ bản thân. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải hành động với một sự minh mẫn và khôn ngoan như thế. Đức Giêsu bảo họ rằng họ có thể học được nhiều nơi các con cái thế gian trong việc phân tích kỹ lưỡng hoàn cảnh, suy nghĩ chín chắn và có một cách ứng xử thích hợp.
* Ba áp dụng của Dụ ngôn (8b-13)
Thế rồi Đức Giêsu đã chuyển từ ngôn ngữ kinh tế của dụ ngôn sang ngôn ngữ phù hợp với Do Thái giáo Ba áp dụng chứng tỏ cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã sớm mặc cho dụ ngôn một bộ áo luân lý. Cả ba thuộc về những ngữ cảnh khác nhau
Áp dụng thứ nhất (cc. 8b-9) mang màu sắc Sê-mít rõ ràng, có lẽ có một bối cảnh Paléttina, với những thuật ngữ “con cái thế gian” , “con cái ánh sáng”, “Tiền Của bất chính”, “nơi ở vĩnh cửu”. Áp dụng này đặt con cái thế gian ngang hàng với  người quản lý (c. 8a). Do sự “khôn khéo” của họ, họ hơn các “con cái ánh sáng”, tức các môn đệ của Đức Giêsu, trong cách dàn xếp với thế hệ này. Như thế, các Kitô hữu có thể học được điều gì đó từ sự khôn khéo của họ. Câu 8b là một lời bình tổng quát hóa về kết luận của bài dụ ngôn, nhấn mạnh trên sự khôn khéo trong đời sống Kitô hữu. Câu 9 nêu ra khía cạnh cánh chung của lời khuyên. Các Kitô hữu phải khôn khéo trong cách sử dụng của cải vật chất, bây giờ được gọi là “tiền của bất chính”, để tạo lấy những bạn bè sẽ đón họ vào nơi cư ngụ vĩnh cửu. Như vậy, quyết định khôn khéo của người quản lý (c. 4) được ẩn-dụ-hóa để trở thành một khuyến khích sử dụng khôn khéo của cải vật chất.
Áp dụng thứ hai (cc. 10-12) rút một bài học từ bài dụ ngôn như là một toàn thể và hệ quả về cách quản lý có trách nhiệm. Khía cạnh cánh chung của c. 9 biến mất, để nhường chỗ cho ý tưởng về trách nhiệm và sự trung tín ngày qua ngày. Áp dụng gồm ba câu ở thể song đối đối nghĩa: câu 1 là câu tuyên bố (tương phản giữa trung tín trong việc rất nhỏ và trung tín trong việc lớn) ; câu 2 và 3 ngắn hơn, là câu hỏi (tương phản giữa trung tín trong việc sử dụng những của cải thông thường và những của cải chân thật; tương phản giữa việc sử dụng của cải của người khác và của cải của chính mình). Như thế, cả ba tương phản tóm tắt vai trò của sự trung tín trong đời sống Kitô hữu.
Áp dụng thứ ba (c. 13) được đặt ở đây do từ móc “tiền của” ở cc. 9,11 và 13d. Áp dụng này không liên hệ với bài dụ ngôn, nhưng tóm một thái độ tổng quát đối với của cải. Có thể nói áp dụng này bình luận cc. 10-12 dể đưa ra câu hỏi cho Kitô hữu: Anh em muốn phục vụ ai?
+ Kết luận
Bài dụ ngôn không lưu ý về bản tính độc hại của của cải, cũng không chuẩn nhận cho sự bất lương của người quản lý (cc. 1-2), hoặc chuẩn nhận cho việc anh ta giả mạo các biên nhận khiến gây thiệt hại cho chủ. Câu chuyện nhắm đến sự khôn khéo của ngưởi quản lý biết cách sử dụng phần của cải thuộc về mình để lo cho tương lai. Như thế, “người quản lý bất lương” trở thành điển hình cho các Kitô hữu về sự sáng suốt, khôn khéo. Đứng trước một tình trạng khủng hoảng do sự bất cẩn và những lầm lạc trong phán đoán thuộc quá khứ, anh biết khôn ngoan đánh giá tình hình và xoay sở hợp lý. Các Kitô hữu cũng đang phải đối diện với đòi hỏi của Nước Trời đang đến, nên cũng cần biết sử dụng của cải để có thể ứng phó với hoàn cảnh này.
Với ba áp dụng thêm vào, bài dụ ngôn đưa tới chỗ khuyến cáo các Kitô hữu phải biết sử dụng của cải với tinh thần trách nhiệm và sử dụng để phục vụ hạnh phúc của người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu đã đến như ánh sáng thế gian. Ai theo Người, thì có ánh sáng, với điều kiện phải để cho ánh sáng hướng dẫn. Muốn sống như là “con cái ánh sáng”, các môn đệ Đức Giêsu phải để cho Người hướng dẫn. Các môn đệ Đức Giêsu thỉnh thoảng phải nghĩ đến tương lai của họ, để không bị bắt chợt mà trắng tay. Họ phải quan tâm không những đến tương lai gần, mà cả tương lai ở bên kia cái chết. Đó là nhắm đạt được những “cái lều vĩnh cửu”, túc sống hiệp thông bền vững với Thiên Chúa. Tương lai ấy, người ta đạt được hay bị mất, là do cách hành động trong hiện tại. Tương lai này, Đức Giêsu giúp các con cái ánh sáng đạt được, nhưng họ phải chuẩn bị bản thân bằng một cách sống biết tiên liệu. Chính họ cũng phải biết sử dụng của cải vật chất cách khéo léo và sao cho có thể đảm bảo tương lai, nhờ biết tạo cho mình những bạn hữu. Họ phải chứng tỏ họ là những người quản lý được tin cậy và trung tín trong những điều nhỏ nhất. Họ chỉ đạt được như thế nếu họ phục vụ Thiên Chúa chứ không phải tiền của.
2. Các Kitô hữu sống như “con cái ánh sáng” là có trái tim thuộc về Thiên Chúa. Người phải là Đức Chúa mà họ yêu mến và họ hướng tới. Chỉ khi đã khởi đi từ một quan hệ như thế với  Người, họ mới có thể có một tương quan đúng đắn với của cải trần thế và là tương quan bảo đảm tương lai cho họ. Ai nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa tể thì cũng nhìn nhận Người là Chúa tất cả của cải vạt chất và biết rằng bản thân mình không phải là chủ tuyệt đối các của cải đó, nhưng chỉ là người quản lý.
3. Một người quản lý lệ thuộc chủ mình và chịu trách nhiệm trước mặt chủ. Anh không điều hành một của cải của riêng anh, nhưng một của cải của người khác, của cải được Thiên Chúa ký thác. Anh là người trung tín và đáng tin nếu anh biết đi theo ý muốn của chủ mình, chứ không cư xử theo tính ngẫu hứng. Tất cả các ý tưởng của anh phải nhắm đảm bảo sao cho chủ không bị thiệt hại gì cả, không có gì xảy ra ngược ý muốn của chủ. Qua tương quan với các của cải của chủ, người quản lý chứng tỏ giá trị của tương quan của mình với chủ. Như thế, các của cải trần thế đã được ký thác cho chúng ta là để thử lòng chúng ta. Như những người quản lý, qua các của cải ấy, chúng ta phải chứng tỏ tương quan của chúng ta với Thiên Chúa; chúng ta phải chứng tỏ lòng trung thành và khả tín của mình.
4. Chúng ta chứng tỏ mình biết sử dụng đúng dắn các của cải khi biết dùng của cải mà tạo cho mình những bạn hữu, do dùng của cải mà phục vụ người thân cận. Các của cải không được ban cho chúng ta để chúng ta hưởng thụ cách ích kỷ, nhưng là để chúng ta dùng trong chiều hướng nhắm đến tương lai, thể theo ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói đến của cải vật chất, nhưng điều Ngài nói cũng có giá trị cho mọi thứ của cải trần thế khác, như các khả năng tinh thần, các tài năng, kiến thức, học vấn…
5. Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt và biết tiên liệu. Như thế, không thể phung phí của cải trần thế vào việc hưởng thụ trong hiện tại. Đàng khác, ai cho rằng mình có quyền bố trí các của cải theo ý mình, là sai lầm. Chúng ta được liên kết trước tiên vào Chúa. Chúng ta không phải là chủ nhân tự trị, nhưng chỉ là những quản lý các của cải của chúng ta. Và của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng mà phục vụ anh chị em. Chỉ khi đó, chúng ta mới đảm bảo được tương lai của mình.
-----------------------------------------------
[1] Xem J.D.M. Derrett, Law in the New Testament (London 1970) 48-77; « “Take Thay Bond … and Write Fifty” (Luke xvi,6): The Nature of the Bond » (JTS 23 [1972]) 438-440; P.W. Pestman, “Loans Bearing No Interest”, Journal of Juristic Papyrology, 16-17 (1971) 7-29.

25.                     Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
DỤ NGÔN VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN KHÉO
SUY TƯ VỀ TIỀN BẠC
Ở đây cử toạ khác với cử toạ thù nghịch ở chương trên: Chúa Giêsu nói với các môn đệ, điều mà Ngài đã không làm từ 12,22-53. Lập tức Ngài kể một câu chuyện (16,1-8) và Ngài bổ túc phần giải thích bằng đôi lời ()cc.9-13. Dụ ngôn này có lẽ được gợi lên bởi một vài sự kiện khác nhau, thuộc vào số những dụ ngôn mà người ta hiểu rất sai; lấy làm gai hướng, người ta tự hỏi làm sao Chúa Giêsu có thể tán đồng những hành xử gian dối khi khen tên lừa đảo giả mạo giấy tờ. Chúng ta sẽ thấy đó không phải là cao điểm của câu chuyện, trong đó Chúa Giêsu xác định rõ ràng là tên quản lý bất lương (c.8). Nhưng để tránh mọi sự hiểu lầm như thế mà câu chuyện được tiếp tục bằng một giáo huấn về tiền bạc.
Một nhà phú hộ có một đồn điền rộng lớn nghe được báo cáo bất lợi về người quản gia; ông gọi người này lại, bảo ngưng việc và trình sổ sách. Người quản gia lâm vào tình trạng bế tắc vì ông phải thất nghiệp, mà cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Nhưng ông biết xoay sở để bảo đảm tương lai; ông ta sẽ hành động cách khôn khéo để sẽ có người đón rước mình về nhà họ. Phần đầu này (cc. 1-4) làm ta phải nín thở chờ đợi xem người quản lý sẽ biết làm gì.
Và đây, ông ta gọi các con nợ của chủ đến và đề nghị họ bớt những khoản nợ quan trọng. Khi người ta nợ 3.700 lít dầu mà được giảm 50% thì quá ngon rồi… Vài nhà Kinh Thánh nghĩ rằng: người quản gia chỉ bớt tiền lời, những món tiền hoa hồng, vốn thuộc về anh ta một cách khá hợp pháp; một cách giải thích như thế sẽ đi đến chỗ bào chữa cho cách hành xử của anh ta và luân lý hoá dụ ngôn rồi. Nhưng Luca không nghĩ như vậy: nếu người quản lý bất lương, gian dối (c.8) là vì anh ta tỏ ra hào phóng mà gây thiệt hại cho người thuê mướn anh ta! Và ông chủ khen anh ta, đó có lẽ là Chúa Giêsu chứ không phải người điền chủ đâu: Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Chúa Giêsu chấp nhận việc giả mạo chứng từ; phần cuối của câu 8 nói rõ rằng việc khen ngợi hướng về tính cách khôn khéo trong việc xử trí chứ không khen tính chất bất lương của hành động. Còn về tính cách khôn khéo trong những quan hệ hỗ tương, thì những con cái ánh sáng –các Kitô hữu thích gọi nhau như thế, sau khi đã trở nên rạng sáng nhờ nghe Lời Chúa (?Tx 5,5; x. Lc 11,34tt)- có thể rút kinh nghiệm từ con cái đời này, những kẻ không hề lo nghĩ đến chiều kích siêu việt của cuộc sống con người. Ngay cả khi những kẻ này hành động một cách bất lương, người tín hữu đích thực cũng biết rút ra một vài giá trị có thể hữu ích cho cuộc sống của mình.
Bài học của dụ ngôn ở câu 8 lại được Chúa Giêsu giải thích qua lời kết luận thứ hai ở câu 9. Đó là một lời khuyên cho các môn đệ biết cách sử dùng tiền của một cách khôn khéo trong viễn tuợng Nước Trời. Nếu người quản lý bất công đã biết sử dụng của cải đời này để có bạn hữu và chuẩn bị cho tương lai của mình ở đời này, thì các Kitô hữu càng phải chuẩn bị tương lai vĩnh cửu của họ bằng cách chia sẻ với người nghèo bằng việc bố thí; như thế, các kẻ này sẽ tiếp nhận họ (x.14,14) vào thành đô của Chúa –tại đây những kẻ nghèo như đang ở trong nhà họ, phù hợp với các mối phúc 6,20tt. Như vậy, tỏ ra khôn khéo là xem Tiền bạc như một phương tiện chứ không như mục đích. Tiền bạc là bất công, lường gạt –người quản lý cũng được đánh gía như thế ở câu 8, bởi vì nó có thể trở nên thần tượng và bởi vì, so sánh với của cải Vương Quốc là của đích thực và bất diệt (x.12,33), nó có một giá trị bấp bênh và tạm thời: tất yếu nó sẽ vắng mặt vào ngày mà mỗi người chúng ta phải chết. Vương Quốc của Tiền bạc sẽ chấm dứt.
Là kết luận thứ hai của câu chuyện người quản lý bất lương, câu 9 đưa ra hai áp dụng mới mà liên hệ với dụ ngôn có phần lỏng lẻo hơn. Áp dụng thứ nhất dùng để loại trừ mọi hiểu lầm và một cách dứt khoát ngăn cản người ta coi câu chuyện như một lời mời gọi thực hành thói xảo quyệt (cc.10-12). Trái với sự bất chính của người quản lý và Tiền bạc, áp dụng này đòi hỏi phải có sự trung tín được thực hiện từng ngày để quản lý của cải thiêng liêng cũng như vật chất. Nhờ ba điều tương phản, lời khuyên này có lẽ ưu tiên nói với những người có trách nhiệm trong các cộng đoàn Kitô hữu: sự trung thành phải có nơi những kẻ quản lý của cải vất chất lại càng cần thiết hơn đối với những kẻ có trách nhiệm về tài sản thiêng liêng của anh em mình. Được viết từ một dụ ngôn nhỏ và phần áp dụng (c.13) một giáo huấn cuối cùng còn nói đến những liên hệ với tiền bạc. Ai thờ nó và làm nô lệ nó không thể là con cái ánh sáng được. Từ khi Thiên Chúa đột nhập vào trần gian, con người được đặt trước một chọn lựa triệt để; qua việc sử dụng của cải người Kitô hữu phải tỏ ra mình chỉ thuộc về Thiên Chúa mà thôi.

DỤ NGÔN NGƯỜI QUẢN LÝ
Trong các diễn từ tiếp theo, Chúa Giêsu nói đến việc sở hữu của cải.
1. Người quản lý tinh khôn
Dụ ngôn này thường gây nhiều vấp phạm và người ta đang cố đề phòng gương mù trong khi lại trình bày thái độ của người quản lý tinh khôn như là được phép. Theo luật lệ thời đó, một chủ trại có thể làm gì tuỳ ý. Con cái sự sáng, trong vấn đề này, phải xử sự khéo léo như con cái trần gian: đây là điểm chính đích thực của dụ ngôn.
Người quản lý không làm theo ý của chủ hay phục vụ quyền lợi của chủ, mà làm hại cho chủ. Xét về ích kỷ, thì đường lối người quản lý thật là tinh khôn. Y xử sự một cách quỷ quyệt, dầu hết sức giận dữ vì bị thiệt, người chủ vẫn phải khen hắn.
Người quản lý sắp mất chức, không muốn làm việc tay chân vất vả, cũng không muốn đi hành khất. Cho nên y đành phải dùng mưu: lừa bịp ông chủ và gây thiện cảm với các con nợ. Những người này phải giúp lại hắn, ít là tạm thời, cho đến khi hắn kiếm được một địa vị tương tự. Sự khéo léo có tính toán đó có tính cách quan trọng.
Con người được Thiên Chúa trao của cải vật chất để quản lý chúng. Họ phải sử dụng làm sao để khi gặp khó khăn, sa sút, sẽ có bạn bè trợ giúp. Hoàn cảnh đó chính là lúc chết. Khi đó, con người phải bỏ lại tất cả những gì lúc đó là sống còn đối với họ. Họ sẽ có những bạn hữu, nếu trước đó họ đã dùng của cải vật chất để giúp đỡ, biện hộ cho họ trước mặt Thiên Chúa, để họ được ‘đón tiếp vào chốn an nghỉ đời đời’.
Đường lối sử dụng của cải khéo léo (dám nói được là xảo quyệt) không phải ở chỗ tăng thêm của cải bất cứ cách nào, hay ham lợi lộc, nhưng là thích cho đi hơn là nhận vào, giúp đỡ hơn là cậy nhờ người khác giúp đỡ. Càng sử dụng tốt của cải, người ta càng dùng nó để mưu cầu đời sau.
‘Bố thí’, một từ ngữ mà ngày nay chúng ta không thích và một cách nào đó lại diễn tả đúng sự kiện. Người thợ đòi hỏi công bằng chứ không xin bác ái. Tâm thức xã hội bừng tỉnh thì ý thức xã hội càng tinh tế Người ta đòi phải có thù lao tương xứng với công việc chứ không xin bố thí với mục đích trợ giúp hay do lòng thương xót.
Tuy nhiên, người sở hữu phải dùng của cải để làm việc thiện ngay cả khi họ không bị bắt buộc làm và chẳng mang lại lợi ích cho mình. Theo nghĩa này, thì bố thí cũng có giá trị của nó.
Đức Kitô còn đưa ra một áp dụng khác. Ngài cho biết ai từng trung tín trong việc nhỏ, cũng sẽ trung tín trong việc lớn.
2. Quản lý thanh liêm.
Người ta có thể sai lầm khi kết luận con người có quyền quản lý tài sản không theo ý chủ muốn. Một cách rõ ràng, Đức Kitô khẳng định ngược lại. Sự gì đã nhận lãnh từ nơi Thiên Chúa thì phải sử dụng theo ý Chúa. Cả trong trường hợp nhận ít, lòng tín trung của chúng ta cũng được tưởng thưởng và Ngài sẽ ban thêm cho ta.
Tài sản nhỏ nhoi dành cho con người quản lý là những sự vật ngoại tại và phàm trần: phương tiện sử dụng, sức mạnh thân thể và sức khoẻ, năng lực trí tuệ và các ơn thiêng liêng. Không nên đặt vấn đề: cái gì tôi ưa thích? Ước vọng của tôi thế nào? Tính khí và sở thích sẽ lôi cuốn tôi về đâu? Thiên hạ mong muốn gì, họ làm gì? Mối quan tâm duy nhất của tôi là: ‘điều nào hợp vơí ý Chúa, Đấng đã ban cho tôi những ơn đó để quản lý?’
Nếu biết hành động như vậy, người ta sẽ nhận được những điều cao trọng, siêu nhiên, đạo đức, những kho tàng ân sủng và ơn huệ Thánh Thần.
Tuy nhiên, có ít người biết hướng đời sống và dùng các ơn siêu nhiên cũng như các năng lực để tìm Thánh ý Thiên Chúa! Rất ít người ý thức mình là người quản lý. Họ tưởng mình là chủ nhân, cho nên xử sự theo ý mình. Họ làm theo sở thích. Hành động của họ độc đoán.
Trái lại, thái độ đạo đức phải có là lời chúng ta vốn cầu xin trong kinh Lậy Cha: ‘Ý Cha thể hiện’, đó là quy tắc xử thế của con người. Chỉ có như vậy, cuộc sống mới đổi thay được để nhằm mục tiêu phục vụ Thiên Chúa.
Tiền bạc là một trong những cám dỗ lớn lao đối với con người, nó càng nguy hiểm hơn khi có sự trợ lực của ý muốn tự quyền và tình dục. Đó là lý do Đức Giêsu đòi hỏi một yêu sách bất khả nhượng và không thể châm chước.

Đức Giêsu còn nói với các môn đệ rằng
Dụ ngôn về “người quản gia bất lương” là một trong các câu chuyện gây tai tiếng mà người ta tìm thấy trong Tin Mừng, và các tín hữu chờ đợi với một nụ cười khẩy để biết nhà thuyết giáo làm thế nào để xoay xở với bài học về sự lừa bịp đó.
Nhưng đó là một dụ ngôn, một “mâchâl”, một “câu đố “. Chứ không phải là một câu chuyện xây dựng trong mọi chi tiết của nó. Chúng ta, nhưng người chịu ảnh hưởng của tinh thần duy lý Tây Phương, chúng thích những chứng minh họp luận lý và đơn giản. Đức Giêsu lại hoàn toàn thoải mái sử dụng văn phong điển hình của những người kể chuyện phương Đông. Họ nháy mắt ra hiệu cho cử tọa, để yêu cầu người nghe đừng bỏ mất óc phê bình: “Nào, các bạn sáng suốt nhé! Hãy hiểu sự tinh tế ẩn giấu dưới nghĩa đen! Tôi làm bạn khó chịu, hẳn là thế, nhưng đó là cố ý: Các bạn đã bị nhiễm độc và mê man về đề tài quan trọng mà tôi đề cập đến thế sao...!
Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông
Một quản gia phung phí! Tất cả dụ ngôn sẽ diễn tiến trên ý tưởng “quản lý” này. Trong Luật Rôm, cũng như trong tâm thức thông thường, quyền “sở hữu” là “quyền sử dụng và lợi dụng cái gì thuộc về mình”: “Bởi vì cái đó thuộc về tôi, nên tôi làm gì tùy thích”. Trong quan niệm Kitô giáo, quyền tư hữu tư nhân thì khác hẳn: Chúng ta không thật sự là chủ sở hữu, nhưng chỉ là những “người quản lý” của cải vốn vẫn thuộc về tất cả mọi người? Học thuyết truyền thống này trực tiếp đến từ Đức Giêsu (chứ không phải từ chủ nghĩa cộng sản) và vừa qua đã được Công đồng Vatican II nhắc lại: “Thiên Chúa đã trao trái đất và mọi vật chứa trong đó cho con người sử dụng (Gaudium ét Spes, số 69).
Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!'
Tất cả những gì tôi phải “quản lý”: tài sản, đức tính, sự phong phú tâm linh, trì thục, đạo đức, những khả năng tình cảm của tôi. Người sẽ yêu cầu tôi phúc trình về chúng. Tôi không có quyền “phung phí” những ơn mà Thiên Chúa đã giao cho tôi và chúng vẫn luôn là các công việc “của Người”. Thiên Chúa không thích “sự phung phí”, đó là một sự xúc phạm những người đang thiếu thốn.
Người quản gia liền nghĩ bụng: ‘Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!'
Cuộc độc thoại nội tâm này bộc lộ rõ ràng sự bối rối của người quản gia. Anh ta phải có quyết định mau lẹ: Ngày mai sẽ quá muộn? Có lẽ trong một hoặc hai giờ nữa, anh ta sẽ bị “sa thải”. Phải hành động thật mau lẹ. Chúng ta đoán được đàng sau sự vội vàng ấy là sự khẩn cấp của thời mạt thế mà Đức Giêsu không ngừng nhắc nhở, quấy rầy những người đồng thời với Người. Chúng ta hãy hiểu cơ may của mình khi còn thời gian, nếu không chúng ta sẽ không có thới gian để “lật lại” như người ta vẫn nói, để thú thật bằng công thức lạ lùng là Người ta tiến tới trước nhưng đi ngược lại mục đích thật sự của chúng ta! Chúng ta phải khẩn cấp hoán cải, và quay về.
Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?' Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.' Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.' Rồi anh ta hỏi người khác: ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?' Người ấy đáp: ‘Một ngàn giạ lúa.' Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.'
Sự gian lận này khéo léo đến ba lần: Không mất gì cả không để lại dấu vết, nó là bảo đảm chống lại mọi khám phá đột xuất bởi có thể có những lời đe dọa tố giác. Con người đã chẳng thay đổi kể từ Đức Giêsu.
Về phần hai món nợ: bằng dầu và bằng lúa mì cũng rất điển hình ở Palestine. “Một trăm thùng dầu”, là thu hoạch trung bình của 150 cây ô-liu, tương đương với 365 lít dầu? “Một trăm bao lúa” là thu hoạch của 42 hecta ruộng sa, tương đương với 364 hecto lít lúa mì! Theo các chuyên gia, sự giảm nợ trong cả hai trướng hợp tương đương 500 ngày công trung bình. Ngày nay mỗi người có thể tính ra bằng tiền tổng số tiền gian lận.
Về điểm này của câu chuyện, người nghe hẳn phải chờ đợi một sự kết án một cách mạnh mẽ và thích đáng từ phía Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe tiếp...
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại
Chúng ta ngạc nhiên. Đức Giêsu ngợi khen người quản gia xảo trá ấy. Chốc nữa, chúng ta sẽ thấy lý do tại sao trong lời giải thích mà Người sẽ đưa ra.
Tuy nhiên, chúng ta ghi nhận rang Đức Giêsu không tán thưởng sự lừa bịp của “người quản gia lừa gạt” hoặc người quản gia bất công” như bản văn Hy Lạp đã nói.
Thật vậy, theo Đức Giêsu, anh ta thuộc về thế giới “bóng tối” mà thủ lãnh là Xatan (Ga 12,31) phải phân biệt với các con cái của “ánh sáng” (1 Thêxalônica 5,4-5).
Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu
Tạo lấy bạn bè! phát triển tình bạn! Đấy là lý lo của lời khen ngợi.
Trong công thức này ở trọng tâm của bài dụ ngôn, Đức Giêsu đem lại cho chúng ta một bài học chủ yếu: Cách sử dụng tốt sự giàu có là dùng nó để tạo lấy bạn bè, đặt tình yêu thương vào các mối quan hệ. Đó còn là một quan niệm thật sự cách mạng về tiền bạc.Dùng tiền bạc như một phương tiện để chia sẻ và sống tình bằng hữu. Tiền bạc tự nó không xấu. Nó có thể tạo ra mềm vui cho những người khác, và do đó là niềm vui cho người nào đã góp phần vào niềm vui ấy khi “ban tặng”! Luca trong Tin Mừng của Ngài đã nhấn mạnh đến Đấng Mêsia của những người nghèo, nhiều hơn các thánh sử khác. Nước Thiên Chúa hầu như thuộc về họ đến nỗi những người giàu có chỉ vào được đó nhờ sự bảo trợ và giới thiệu của những người nghèo mà những người giàu có sẽ làm bạn.
Bạn làm gì với tiền bạc của bạn? Câu hỏi đáng ngại. Tại sao không! Nhưng tốt hơn là “Tin Mừng” cho những người giàu có giờ đây biết mình có thể được cứu và bước vào “nơi ở vĩnh cửu” như thế nào, khi mà ở nơi đó tiền bạc của họ không còn nữa”.
Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn, ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn
Để kết luận cho câu chuyện cụ thể này, đây là những châm ngôn về tiền bạc mang tính mạc khải cao cả của tư tưởng Đức Giêsu. Và trước tiên, đối với Đức Giêsu tiền bạc là một “việc nhỏ khi so sánh với “việc lớn” là Nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Chúng ta có chấp nhận quan điểm đó không?
Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?
Trong khẳng định thứ hai này Đức Giêsu nói với chúng ta rằng tiền bạc thì “bất lương”. Đó là một cái bẫy chỉ đem lại sự an toàn giả tạo. Không nên tin vào tiền bạc (I Timôthê 6,17). Tính từ “bất lương” trở đi trở lại năm lần trong trang này. Đức Giêsu đã chới chữ. Người nói về “người quản gia bất lương” rồi giờ đây, Người nói về “tiền bạc' bất lương”. Từ này cũng thường được dịch là “người quản gia bất chính, bất hảo, bất công”... và “tiền bạc bất chính, bất hảo, bất công.. Trong linh hồn và trong ý thức, mỗi người được mời gọi để trả lời về tiền bạc của mình: Có bất hảo, bất công, bất chính không? Tiền bạc rất ích lợi, có thể được sử dụng một cách có lợi để tạo thành bạn bè cho mình, nhưng nó cũng có thể là một quyền lực của sự ác.
Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?
Khẳng định thứ ba này có một cung cách hiện đại rất đáng kinh ngạc. Trước cả Các Mác, Đức Giêsu đã lên án “tha hóa” của con Người: Tiền bạc không phải là điều tốt lành thật sự cho chúng ta. Sự giàu sang không làm cho một người nên tốt lành, thông minh, hạnh phúc. Giá trị thật sự ở chỗ khác. Tiền bạc làm “tha hóa” chúng ta, nếu chúng ta để nó “chiếm đoạt” chúng ta.
Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được
Chữ ‘Tiền Của’ viết với một chữ hoa ở đây để dịch từ ‘Mam-mon’, một từ đáng khinh bỉ để chỉ một thần tượng vì nó mà người ta trở thành nô lệ. Bạn có là tù nhân bị tiền bạc xiềng xích, chiếm đoạt, đánh đòn với những lo âu về công việc. Đối với Đức Giêsu, không thể có bất kỳ thỏa hiệp nào: Hoặc là Thiên Chúa, hoặc là tiền bạc. Chúng ta hãy thú nhận chúng ta thường bị cám dỗ phục vụ luân phiên cả hai ông chủ: Thiên Chúa ngày Chúa nhật, cho phần rỗi của chúng ta và Thiên Chúa của các thương vụ, của hầu bao, lợi lộc sáu ngày còn lại trong tuần.
Trong câu tiếp theo sau, Luca đã viết “Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giêsu Còn tôi? Có phải tôi cũng mặt sang mày sỉa?