1. sự tha thứ của Thiên Chúa
Chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay đó là tình thương tha thứ của
Thiên Chúa, nhất là qua hình ảnh người cha nhân hậu.
Thực vậy, đây là hình ảnh của một tình yêu không biên giới và vô
điều kiện của Thiên Chúa. Ngài là Cha và chúng ta là con. Làm con thì có quyền
hưởng gia tài của cha. Thiên Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của chúng ta nhưng
đồng thời mỗi người chúng ta lại phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình
trước mặt Ngài. Vì tôn trọng quyền tự do của con, người cha đã chia gia tài cho
cậu út và để cho cậu ra đi. Nhưng tình yêu của người cha luôn đi theo cậu không
ngơi, luôn mong chờ cậu trở về. Ngày ngày ông những nóng cùng trông. Cho tới
một ngày kia, ông nhìn thấy bóng dáng cậu từ xa thất thểu lê lết từng bước
chân. Thế là ông vội chạy về phía cậu, quên đi tuổi già sức yếu của mình, ông
lại gạt bỏ khỏi lòng mình mọi đau buồn về lầm lỗi thất hiếu của cậu. Ông ráng
chạy, chạy thật nhanh mà ôm lấy người con yêu dấu, đã chết mà nay lại sống. Rồi
ông mở tiệc linh đình để ăn mừng.
Thiên Chúa là thế. Vì là Cha, Ngài luôn trông chờ, sẵn sàng đón
nhận chúng ta trở về. Chỉ cần chúng ta biết nhớ lại tình thương vô bờ bến của
Cha, nhận ra sự dại dột của mình mà ăn năn sám hối. Chúa luôn tha thứ và muốn
chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ, như một trong những ơn cao đẹp nhất của
tình yêu Ngài ban cho con người.
Chúng ta cũng nên dừng lại một chút với thái độ của người anh
cả, nhờ đó mà hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta qua dụ ngôn này. Người anh cả
trong thời Chúa Giêsu, ám chỉ dân Do Thái. Họ tưởng rằng chỉ họ là trung thành
với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, họ khinh bỉ
các dân tộc khác và những kẻ mà lề luật đạo cũ gọi là tội lỗi.
Ngày nay, người công giáo chúng ta cũng nên thật trọng, kẻo lại
có cách nhìn và thái độ của đạo cũ, tự coi mình là nắm hết chân lý, có sự trọn
hảo đạo đức, rồi khinh chê, xa tránh và thậm chí thù ghét những người không
cùng chia sẻ một niềm tin, một lối sống như chúng ta.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với Ngài, mỗi con người là như
một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý chăm sóc đến mỗi người như
chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lần đường lạc lối, Ngài tạo mọi
điều kiện để chúng ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi chúng
ta, đó là tin vào tình thương tha thứ của Ngài, để mà dám trở về. Sự trở về của
con chiên lạc đem lại niềm vui cho mục tử nhiều hơn niềm vui có chín mươi chín
con ở lại trong đàn. Niềm vui tha thứ thật trong lòng là niềm vui của những
người biết và dám sống nội dung của kinh Lạy Cha, lời kinh duy nhất của những
công dân đích thực Nước Trời, đó là: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng
tha kẻ có nợ chúng con.
2. Lòng Chúa xót thương
Qua phần phụng vụ lời Chúa hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài ý
nghĩ đơn sơ về tình yêu của Thiên Chúa.
Trước hết đó là một tình yêu đi bước trước.
Thực vậy, hình ảnh mà tiên tri Ezechiel cũng như nhiều vị tiên
tri khác đã dùng, đó là hình ảnh một mục tử lặn lội đi tìm kiếm con chiên,
không quản ngại đường xa và khó khăn khôn lường.
Chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần khẳng định chân lý ấy: Thiên
Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi có chúng ta. Người đã cứu độ chúng ta
trước khi chúng ta trở về, nghĩa là khi chúng ta còn ở trong tội lỗi. Thái độ
và cách thức cư xử của Chúa Giêsu đối với những kẻ thu thuế và tội lỗi đã là
một lời nói hùng hồn chứng minh cho sự thật trên.
Từ đó chúng ta nhận thấy tình yêu đi trước cũng chính là tình
yêu vô điều kiện và hoàn toàn vô vị lợi, hoàn toàn nhằm tới hạnh phúc của người
được yêu thương. Chỉ mình Thiên Chúa, mới có được thứ tình yêu tinh ròng và cao
cả như vậy, còn chúng ta chúng ta được Chúa mời gọi để sống trọn lành như Ngài,
nghĩa là cũng phải có một tình yêu đi bước trước, một tình yêu không điều kiện,
một tình yêu vô vị lợi đối với những người anh em.
Tiếp đến tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu thiên vị.
Lời xác quyết này có lẽ làm cho chúng ta hơi ngạc nhiên. Đúng
thế, Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, không trừ một ai, không bỏ bất cứ con
người nào, dù người đó xấu xa tội lỗi đến đâu chăng nữa. Tuy nhiên có một điều
cũng hết sức hiển nhiên là trong cung cách sống của Chúa Giêsu, chúng ta thấy
được một tình yêu ưu tiên, một tình yêu thiên vị, dành cho những kẻ sống bên lề
xã hội thời bấy giờ, đó là đàn bà, trẻ em, những người thu thuế, những người
ngoại đạo và những kẻ tội lỗi công khai, như đĩ điếm, trộm cướp... Người Do
Thái đã gán cho Ngài cái biệt hiệu là bạn đồng bàn với phường tội lỗi, và họ đã
nói lên được một sự thật.
Tuy nhiên họ không hiểu được tâm trạng và cõi lòng của Thiên
Chúa như chính Ngài đã diễn tả: Tư tưởng và đường lối của Ta thật khác biệt với
tư tưởng và đường lối của các ngươi. Quả thật, Chúa Giêsu đã gần gũi, đã làm bạn,
đã cứu vớt những kẻ tật nguyền, bệnh hoạn và tội lỗi. Ngài đã khẳng định một
cách rõ ràng và minh bạch: Chỉ có bệnh nhân mới cần đến thầy thuốc, và Ngài
chính là vị thầy thuốc mà các tâm hồn ốm đau đang chờ đón. Hơn thế nữa, Chúa
Giêsu còn xác định mục tiêu Ngài phải theo đuổi, sứ mạng Ngài phải thực hiện
khi đến trong trần gian:
- Con Người tới là để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã hư đi.
Chỉ khi nào chúng ta hiểu được cái thế ưu tiên, cái thế thiên vị
ấy trong cách chọn lựa của Chúa, chúng ta mới nghiệm ra được tại sao nỗi vui
mừng hân hoan của Chúa lại lớn lao đến thế, khi tìm thấy một con chiên lạc, một
đồng bạc bị đánh rơi hay một người con hoang đàng trở về nhà cha. Cả thiên đàng
sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn hơn là 99 người công chính không
cần ăn năn sám hối.
Và như vậy, ước muốn của Thiên Chúa là con người được cứu rỗi và
sống trong tình thương yêu của Ngài, chứ không phải là lặn ngụp trong chốn bùn
nhơ tội lỗi, để rồi cuối cùng sẽ bị kết án đoạ đầy muôn kiếp.
3. Nụ hôn nồng nàn tình thương xót
(Trích dẫn từ ‘Nút Vòng Xoay’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Hôm qua có dịp ra phố ghé ngang một sáp báo, tôi tình cờ
nghe từ quán cà phê đối diện vẳng ra một giọng hát trong trẻo: “Cao cao bên cửa
sổ có hai người hôn nhau”. Bài hát đã nghe dăm lần bảy lượt qua các phương tiện
truyền thông, có chăng chỉ là một cảm nhận về mùa xuân hạnh phúc, thế mà chiều
nay bỗng thấy nôn nao khác lạ. Đó không phải là thứ nôn nao của kẻ độc thân bất
chợt thấy mùa xuân bên cửa sổ, rồi tự nhiên tủi về phận mình như Michel Quoist
đã ghi trong cuốn sách của ông; cũng chẳng phải thứ nôn nao của những kẻ trên
đường phố đang hối hả về nhà dịp nghỉ cuối tuần. Thứ nôn nao rất lạ mà cũng rất
đỗi thân quen.
Đang còn vẩn vơ với cái nôn nao ấy thì cô chủ sạp đã trao
cho tôi tờ báo và vui miệng cô hát theo: “Thành phố ơi hãy im lặng cho hai
người hôn nhau”.
Tới lúc này, tôi mới vỡ lẽ. Thì ra mình nôn nao là vì cái nụ
hôn. Không phải của “anh lính về thăm phố với cô gái vào ca ba” như bài hát kể,
mà là cái nụ hôn của một người cha dành cho đứa con hoang đàng trở về của bài
Phúc Âm. Giai điệu ấy, nụ hôn ấy quyện lấy nhau và tự nhiêm ngấm vào người tôi
trở thành một thứ nôn nao, để hôm nay, xin được trang trải với cộng đoàn như
suy nghĩ về trang Tin Mừng. Đó là nụ hôn của lòng thương xót.
1. Nụ hôn ấy vượt trên lý lẽ của sự công bình.
Nếu để ý, người ta thấy nếp nghĩ của những người con trong dụ
ngôn Tin Mừng là nếp nghĩ vượt trên lẽ công bình. Làm sao người con thứ dám xin
cha mình chia gia tài mà anh gọi là “thuộc về anh” trong khi cha mình sờ sờ còn
sống? Làm sao người con cả lại vùng vằng làm mày làm mặt với cha khi cả đời hầu
hạ mà chẳng có lương? Sẽ là hỗn nếu dựa trên cái tình, nhưng cũng có thể quan
niệm được nếu dựa vào cái lý. Chính nhân danh sự công bình đương nhiên nào đó
mà tư cách của hai người con trong dụ ngôn đã được hình thành.
Nhất là việc người con thứ trở về. Sau những ngày phung phá đến
bước đường cùng, đến độ khánh kiệt gia tài, cạn kiệt sức khỏe, anh vẫn còn đủ
tỉnh táo để hạch toán nẻo lối tìm về. Bởi vì dựa trên công bình, anh đã đốt
cháy quyền làm con nên không thể được gọi là con nữa. Bởi vì dựa trên công
bình, anh đã tự ý bỏ nhà ra đi ôm theo sản nghiệp nên muốn tìm về phải được cha
chấp nhận. Bởi vì dựa trên công bình, anh chỉ dám coi mình như “người cần việc”
tìm đến “việc cần người”. Nếu anh có gặp cảnh then cài khóa ổ xua đuổi chối từ
có lẽ anh cũng phải công bình mà chấp nhận.
Lẽ công bình khó khăn là như thế nhưng nụ hôn của người cha đã
hóa giải tất cả. Nó vượt qua giới hạn của lẽ công bình để rạng rỡ là một
nụ hôn của lòng thương xót. Người cha tha thứ hết. Không khóa trái đời sống
người con thứ vào quá khứ tội lỗi, không niêm phong nhịp đời của anh vào bước
đường phóng đãng, nhưng phục hồi quyền làm con như thuở ban đầu. Người ta không
biết ở đâu lẽ công bình dừng lại và ở đâu lòng thương xót khởi đầu, nhưng chỉ
biết rằng, bằng nụ hôn ấy sự tha thứ đã vượt lên chiếm lĩnh tiếng nói của lẽ
công bình để trở nên nụ hôn của lòng thương xót.
2. Nụ hôn ấy vượt trên khuôn khổ của nền giáo dục.
Vẫn biết rằng khuôn khổ của tình yêu là một tình yêu không theo
một khuôn khổ nào, nhất là tình ấy lại là tình cha, lại là lòng mẹ, cùng lắm
chỉ dám ví von như núi cao biển rộng, tựa lai láng của dòng sông và mênh mông
của đồng lúa. Nhưng trong trọng trách giáo dục, người ta cũng phải mặc nhiên
chấp nhận một thứ khuôn khổ nào đó. Chả thế mà ca dao Việt Nam bảo: “Yêu cho
roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Yêu con không phải là nuông chiều theo ý
của con, nhưng là biết cách cho con roi giọt giáo hóa, và ghét con đâu phải chỉ
là hằn học mắng la mà nhiều khi lại là những ngọt ngào ghẻ lạnh của một tình
thương vắng bóng.
Một trong những châm ngôn nổi tiếng trong bổn phận giáo dục con
cái là câu: “Nếu hôm nay không muốn con khóc vì được dạy dỗ, thì coi chừng sẽ
phải khóc vì con hư đốn mai ngày”. Như trường hợp nóng hổi thời sự tại phiên
tòa, khi người cha nghe con mình, một thành viên trong băng cướp “quý tử”, bị kết án chung thân đã nhỏ lệ thốt
lên: “Tôi đã thiếu trách nhiệm làm cha”. Cũng là tình phụ tử, nhưng quá muộn màng.
Tình phụ tử cũng cần theo một khuôn khổ nào đó. Nhưng tình phụ
tử trong dụ ngôn đã vượt lên tất cả. Không có một lời trách móc, không có một
lời răn đe, cũng chẳng có hình phạt để mà nhớ đời. Chỉ có nụ hôn như một minh
chứng: Với bản lĩnh của lòng thương xót, người ta vẫn có thể đi xa hơn để yêu
con đích thực bằng cách cho ngọt cho ngào.
3. Nụ hôn ấy không dừng lại nơi cá nhân mà còn lây lan đến
cả cộng đoàn.
Đây chính là đỉnh cao của trang Tin Mừng. Nó mở ra một nhãn giới
mới lạ. Nơi nụ hôn ấy là rạng rỡ lên hình ảnh của một Người Cha: chung cho
người con cả và người con thứ, chung hco dân Do Thái và Dân Ngoại, chung cho cả
người đã biết Chúa hay chưa biết Chúa. Nếu “cha chung không ai khóc” theo lẽ
thường tình, thì ở đây lại khác, Cha chung này không cần đến tiếng khóc của ai,
nhưng lại sẵn sàng cúi xuống với bất cứ tiếng khóc sám hối nào để ban tặng nụ
hôn ntha thứ nồng nàn xót thương. Người Cha chung ấy yêu thương hết mọi người
và chẳng bao giờ bỏ quên những trường hợp tội lỗi đáng thưong và bởi đáng thương
nên Ngài cũng thương cho đáng với tấm lòng không vơi cạn của mình.
Qua nụ hôn đầu ngõ, Người Cha ấy biến nỗi buồn sám hối trở thành
niềm vui tha thứ. Ngài ban ơn rộng rãi cho những kẻ tìm về với Ngài, rồi nhanh
chóng gửi họ về lại gia đình cộng đoàn xã hội trong một nhịp sống mới nồng nàn
tình xót thương, để những kẻ được ơn tha thứ hiểu rằng, từ nụ hôn ấy, họ phải
minh chứng bằng cả cuộc đời biết phát triển ơn tha thứ và cũng biết dìu đưa
những kẻ còn sa chìm về với lẽ xót thương. Đó là niềm vui của lòng thương xót,
không dừng lại nhưng triển nở sinh sôi, không khép kín cá nhân nhưng mở ra cho
hết mọi người.
Tóm lại, ba lý do: vượt trên lẽ công bình, vượt trên nền giáo
dục và vượt trên đời sống cá nhân khiến nụ hôn cha – con là nụ hôn của lòng
thương xót. Dẫu có kinh nghiệm về nụ hôn như phần lớn cộng đoàn hay chưa có
kinh nghiệm ấy như một số bạn nhỏ, thiết tưởng nụ hôn xót thương của Tin Mừng
cũng đọng lại trong ta một thứ nôn nao lạ lạ quen quen.
Khi thấy quen quen, là khi ta đồng hóa mình với người con phung
phá tìm về và được tha thứ, trong lời kinh, trong Thánh Lễ, nơi tòa Giải Tội.
tất cả đều là những nụ hôn thương xót. Khi thấy là lạ, là khi ta chợt nhận ra
vẫn còn lẩn khuất đâu đó trong ta một anh con cả vùng vằng: Chúa đã đối xử với
ta bằng tình thương xót còn ta chỉ đối xử với Chúa theo sự công bình, ta không
đi hoang lang thang xa đạo, nhưng cách sống của ta biết đâu còn tệ hơn cả chối
Chúa công khai.
Và khi thấy chen lẫn quen quen lạ lạ ấy chính là khởi đầu cho
một quyết định: bởi tôi đã nhận được ơn tha thứ của Chúa, tới phiên tôi phải
sống ơn tha thứ bằng cách bỏ qua lỗi lầm cho anh em; tôi đã nhận lòng xót
thương của Chúa, tôi phải phát triển lòng thương xót ấy qua cách sống tốt lành
của mình. Hãy quên đi những phần đời không đáng nhớ khi anh em có lỗi với mình,
và hãy nhớ lấy những phần đời không thể quên khi mình đã được Thiên Chúa tha
thứ xót thương.
Làm được như thế cũng là lúc ta có thể hát lên: “Thành phố ơi,
hãy im lặng cho mọi người hôn nhau”
4. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT
Bài Phúc Âm vừa nghe là một trong những trang đẹp nhất của Tin
Mừng. Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương 15 Phúc Âm Luca này
được coi như bản tóm tắt tất cả Phúc Âm. Tin Mừng đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng
thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu
khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu. Những bài sách thánh hôm nay hé mở cho
ta mấy nét của lòng thương xót vô biên đó.
1. Nét thứ nhất của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa
là: sự tha thứ
Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê nồng cháy. Bởi
những đam mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại
đổ vỡ điêu tàn.
Tình yêu đích thực không được đo bằng hy sinh tận cùng. Người ta
có thể hy sinh mạng sống vì của cải, danh vọng. Hy sinh như thế có thể chỉ vì
bản thân mình chứ không phải vì người khác.
Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực
lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả.
Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm
cung nhiệm mầu của tình yêu.
Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa. ta hãy đọc lại lịch
sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng
Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên núi, dân Do Thái đã phản
bội, gom góp vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận muốn phạt họ. Nhưng
khi Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho dân.
Phaolô ghét đạo Chúa, đi tìm bắt những người theo Chúa. Nhưng Chúa
đã thương hoán cải ông. Hơn nữa, Chúa còn chọn ông làm Tông đồ cho Chúa.
Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết tiền của cha, nhưng người
cha già vẫn yêu thương chờ đời, tha thứ hết khi nó trở về.
Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là người tội
lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ây minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với
con người lớn lao biết chừng nào.
2. Nét thứ hai của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Đó là: sự đi tìm.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ
kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có
sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của
Thiên Chúa.
Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên đường lầm lạc, có
sáng kiến làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với Chúa. Chính Chúa là người chăn
chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người ra ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi hoang.
Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi vượt sông, luồn
lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa, bất chấp thú dữ rình rập.
Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi ngóc ngách trong nhà, lùa chổi vào những
khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn moi móc tìm kiếm niềm hy vọng mong manh. Người cha
phải vượt qua những thành kiến xã hội, lòng tự ái bị thương tổn, trái tim đau
đớn vì yêu thương.
Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế, đi tìm là đã tha thứ. Quả
thật Chúa đã yêu thương ta trước. Người yêu thương ta trước khi ta biết Người.
Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi. Người đi tìm ta trước khi ta trở về.
3. Nét thứ ba của lòn thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó
là: Thiên Chúa yêu thương từng người, dù rất bé nhỏ.
Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ
quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên
Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc
đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng
chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa.
Một con chiên lạc có gì so với 99 con chiên còn lại. Giữ 99 con
còn lại vừ nhàn nhã lại vừa có lợi. Đi tìm một con đi lạc vừa mệt nhọc lại vừa
thiệt thòi. Nhưng trong tình yêu làm gì có tình toán thiệt hơn. Một con chiên
nhỏ bé lạc loài đã chiếm hết trái tim của người mục tử nhân từ. Bao lâu chưa tìm
được con chiên nhỏ bé gầy gò, lạc bầy ấy, lòng người mục tử ấy vẫn còn khắc
khoải lo âu.
Đứa con bỏ nhà ra đi, xài phí hết gia sản cha mẹ làm sao sánh
được với đứa con trai ngoan ngoãn ở nhà, biết chăm lo công việc, luôn hiếu thảo
phụng dưỡng mẹ cha. Ấy vậy mà người cha ăn không ngon, ngủ không yên, tắt tiếng
cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con hư hỏng chưa trở về.
Thật kỳ diệu tình thương của Thiên Chúa. chính vì những tâm hồn
bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian
như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”.
Thực là vô biên lòng thương xót của Thiên Chúa. lòng thương xót
ấy lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của
ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng
ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người
xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta.
Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giaù lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người
không tha thứ,không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn
nào Người không an ủi.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Kể ra vài nét của lòng thương xót của Chúa.
2. Tại sao tha thứ là dấu chỉ rõ nhất của tình yêu?
3. Cảm nhận được tình yêu và đáp lại tình yêu của Thiên Chúa.
bạn có coi điều này là hệ trọng nhất trong đời không?
5. Phục hồi phẩm chất cao đẹp
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Chỉ có tội lỗi là nguyên nhân duy nhất tàn phá phẩm chất cao đẹp
của con người.
Cho dù lũ lụt có thể cuốn trôi tất cả nhà cửa ruộng vườn,
biến người ta thành người tay trắng, nhưng không thể cuốn trôi phẩm giá người
ta.
Cho dù hoả hoạn có thiêu rụi nhiều phố xá làng mạc, cướp đi
tất cả tài sản của người dân, nhưng cũng không thể thiêu rụi phẩm giá con
người.
Dù tai ương hoạn nạn có cướp đi một vài chi thể của con
người, khiến người ta trở nên tàn phế, nhưng cũng không thể cướp đi phẩm chất
cao đẹp của người ấy.
Không gì từ bên ngoài có thể làm mất phẩm chất, mất giá trị con
người, nhưng chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể huỷ diệt phẩm
giá cao đẹp của họ. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy: "Vì từ bên
trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người,
ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo,
ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho
con người ra ô uế." (Mc 7, 21-23).
Câu chuyện người con thứ trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ cho
thấy tội lỗi làm băng hoại phẩm giá con người đến mức nào.
Sau khi đòi chia gia tài và phung phí tài sản của mình với bọn
đàng điếm, người con thứ lâm vào cảnh đói khát cùng cực và phải xin làm nghề
chăn heo là nghề ô nhục nhất đối với người Do Thái.
Không có hình ảnh nào diễn tả tình trạng xuống cấp và suy đồi
phẩm giá cho bằng hình ảnh một con người đói rách thảm hại, chen chúc với đàn
heo bẩn thỉu hầu mong được ăn thực phẩm của heo nhưng chẳng ai cho.
Chính tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm cho giá
trị con người bị suy sụp cách thảm hại như thế.
Nhưng cũng qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở ra cho chúng
ta một chân trời hy vọng: những con người bị tội lỗi làm mất giá trị có thể
được phục hồi nhân phẩm cách tuyệt vời.
Phục hồi lại phẩm chất cao đẹp của mình nhờ quay về với Chúa.
Một người giàu có bị phá sản, còn rất lâu mới có cơ may xây
dựng cơ đồ, phục hồi sự nghiệp.
Một người bị mất chức, mất việc... khó lòng kiếm lại được
chức, được việc ngon lành như trước.
Nhưng thật vô cùng may mắn và hạnh phúc cho chúng ta là những
người tội lỗi, một khi lỡ sa ngã phạm tội, đánh mất hết phẩm chất cao đẹp của
mình... thì chỉ cần cố gắng, kiên quyết hoán cải là có thể phục hồi lại được
phẩm chất cao đẹp như trước.
Sau khi người con thứ lâm vào tình trạng đói khát, anh ta hồi
tâm lại và quyết chí trở về nhà cha, để xin làm một người tôi tớ.
Khi thấy con từ đằng xa, người cha mừng rỡ chạy lại ôm lấy đứa
con hoang và hôn nó hồi lâu.
Không để cho đứa con hư nói hết lời hối lỗi, ông truyền sai tôi
tớ mau mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn quý vào tay cậu, mang giày
sang quý vào chân cậu và hãy hạ bò tơ để ăn mừng...
Thế là từ một con người thân tàn ma dại, một thằng chăn heo hèn
hạ đói khát, người con hoang đàng đã trở thành chàng công tử thượng lưu với bao
nhiêu tôi tớ hầu hạ. Thay vì tấm áo rách hôi hám, cậu được mặc vào người tấm áo
đẹp nhất. Thay vì đi chân đất bần cùng, cậu được mang giày dép sang trọng, được
đeo nhẫn quý vào tay như những người quyền quý. Thay vì trước đây khao khát
được ăn chung máng với đàn heo, ăn giữa đàn heo, cậu được ngồi ăn với cha, với
họ hàng, với những bậc tai mắt trong làng xóm, có kẻ hầu người hạ. Thay vì
những đồ cặn bã của heo, nay cậu được ăn thịt bê đã vỗ béo ngon lành. Thật khác
ngày hôm qua một trời một vực. Thật là một sự thay đổi tuyệt vời, nằm mơ không
thấy.
* * *
Chỗi dậy trở về cùng Chúa là từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu,
là kết hợp với Đức Kitô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh
Phao lô dạy trong thư gửi tín hữu Cô-rinh- tô: "Phàm ai kết hợp với Đức
Kitô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi." (2C
5,17).
Cơ hội trở về luôn luôn sẵn có. Lời Chúa và Hội Thánh vẫn liên
tục kêu mời. Điều còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc ở nơi ta. Điều quan trọng là
chúng ta có quyết tâm làm lại cuộc đời, sửa đổi và nâng cấp đời sống mình hay
không.
6. Lòng Chúa xót thương – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Có ai đó đã nói rằng: "con tim có lý lẽ của con
tim". Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, không kiểm chứng
bằng khoa học. Hành động của con tim chỉ có thể hiểu được bằng tình yêu. Thế
nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những việc làm xem
ra thiếu tính toán của tình yêu. Đó cũng là cách hành
xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả
hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi. Vì
không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc. Và
cũng không có ai dại gì bỏ hàng vạn đồng để chiêu đãi bà con lối xóm khi tìm lại
1 đồng bạc bị đánh mất. Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn.Thiên Chúa luôn
hành động vì yêu thương. Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay
để tìm con chiên lạc. Chính trong sự nhẫn nại của tình yêu đã làm cho Ngài tràn
ngập niềm vui sướng khi tìm được đồng tiền đã mất.
Con chiên và đồng tiền đánh mất tựa như cuộc đời của mỗi người
chúng ta. Vì chạy theo danh vọng. Vì chạy theo những đam mê trần gian đã làm
cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là
hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn
nghìn cách để tìm lại chúng ta. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại con người chúng
ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài của lịch sử
ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề. Thiên Chúa thì luôn tín
trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao
giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương
ngàn đời.
Tình yêu của Ngài hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời
mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn
nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người
của mình. Phẩm giá con người lớn hơn những giá trị vật chất. Ngài không đang tâm
đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc
thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho ma qủy lôi kéo vào hố diệt
vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều
đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được
Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội
ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ
chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của
Đavít, Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Ngài đã cho Đavít cơ
hội làm lại cuộc đời. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận
ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn. Đavít đã cảm nhận tình
thương Chúa dành cho ông quá to lớn đến nỗi mà ông phải thốt lên: "Nếu
Chúa chấp tội nào ai rỗi được". Chúa đã không chấp tội Đavít mà "lòng
nhân từ của Chúa còn theo đuổi Đavít suốt cuộc đời".
Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta.
Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng
trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ
mới cho chúng ta hiểu nổi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta,
nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì "Có người mẹ nào
quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ
đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi
bao giờ".
Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ
chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày: "Các ngươi sẽ được
nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an
ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy".
Chúng ta thường nghe hát: "Lòng mẹ bao la như biển Thái
Bình". Còn lòng Chúa thương chúng ta thì không gì sánh được. Tình mẹ đã
khó mà đền đáp cho đủ, còn tình Chúa thì sao? Liệu rằng chúng ta sẽ làm gì để
đền đáp ơn Ngài cho cân xứng?
Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận ra lòng Chúa xót thương
để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh em.
Amen.
7. Suy niệm của ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ba dụ ngôn: - người chăn chiên đi
tìm con chiên lạc. – Người đàn bà tìm đồng tiền mất. – Và người cha nhân hậu
đón nhận đứa con phung phá trở về. Ba dụ ngôn đó nội dung khác nhau nhưng đều
quy về một đề tài là: lòng thương xót bao la của Thiên Chúa đối với con người
có tội.
Ta có thể nói, toàn bộ Thánh Kinh, Cựu ước cũng như Tân Ước
chứng minh rằng: Thiên Chúa hằng đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa nhẫn
nại chờ đợi họ quay về và vui mừng đón nhận khi họ quay trở lại.
Trước hết Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội.
Tất cả lịch sử cứu độ, Cựu ước cũng như Tân ước cho ta thấy:
Thiên Chúa hằng làm mọi cách để đưa con người tội lỗi trở về, bằng sự ngăm đe,
bằng lời hứa hẹn, bằng tiếng kêu gọi, bằng những cử chỉ ưu ái, những phép lạ vĩ
đại, những hình phạt nặng nề, những lần xuất hiện uy linh, bằng sai các vị tiên
tri khuyến cáo, và sau cùng bằng sai chính Con Ngài xuống trần gian chịu chết
trên thập giá để cứu chuộc kẻ có tội.
Trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã đích thân đi tìm con người
lẩn trốn và Ngài đã lên tiếng kêu gọi: “Ngươi ở đâu?”. Đây là tiếng gọi đầu
tiên trong muôn vàn tiếng gọi. Về sau Thiên Chúa thôi thúc con người, kêu gọi
trong oán trách như một người tình bị phụ bạc, kêu gọi trong đau buồn như người
mẹ xót thương con. Những lời kêu gọi đó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần qua
miệng các tiên tri. Thí dụ, qua tiên tri Ô-zê Chúa phán như sau: “Khi Israel
còn niên thiếu, Ta đã yêu thương chúng, và từ nước Ai-cập Ta đã gọi con Ta về.
Nhưng khi kẻ khác gọi chúng, chúng liền bỏ Ta. Chúng đã đốt lễ vật dâng kính
các thần tượng. Dù thế, chính Ta đã tập cho chúng bước đi, Ta đã bồng bế chúng
trên cánh tay Ta, nhưng chúng nào biết rằng mình được chăm sóc. Chúng đã từ
chối không trở lại cùng Ta. Vì thế, lưỡi gươm sẽ vung lên trong thành của chúng
và tiêu diệt đồn luỹ của chúng”.
Lời Thiên Chúa kêu gọi con người tội lỗi ăn năn trở về, lời kêu
gọi đó luôn được nhắc đi nhắc lại trong Cựu ước và đã tiếp tục vang lên một
cách mạnh mẽ trong Tân ước qua những lời giảng dạy, qua cuộc đời của Đức Giêsu
nhất là qua cái chết của Người trên thập giá.
Trong những năm giảng Đạo, Chúa không quản ngại hy sinh thời giờ
sức lực và cả danh dự để đi tìm kẻ có tội, gần gũi họ, ngồi ăn đồng bàn với họ,
tha thứ và cứu giúp họ, thái độ đó đã làm cho người Biệt phái bất bình, phản
đối. Họ gọi Chúa là bạn bè với những người thu thuế và tội lỗi. Nhưng Chúa
cương quyết trả lời: không phải những người khoẻ mạnh cần đến thầy thuốc nhưng
là những người đau yếu. Ta đến không để kêu gọi người công chính, mà kêu gọi
người tội lỗi. Con Người đến tìm và cứu vớt những gì đã hư mất.
Không những Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi người có tội trở về mà
Ngài còn chờ đợi một cách kiên nhẫn không biết mệt mỏi như người cha hằng ngày
ra đứng cửa trông đợi đứa con phung phá trở về. Thánh Augustinô nói: Biết bao
kẻ mê ngủ trong tội lỗi nhiều tháng nhiều năm. Họ còn khoe khoang về những tội
ác của họ, thế mà Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Thánh nhân tiếp: “Lạy Chúa,
chúng con khiêu khích cơn thịnh nộ Chúa, còn Chúa thì lại đưa chúng con tới
lòng thương xót của Người”.
Trong cuộc đời, có khi chúng ta thắc mắc vì thấy người nọ người
kia quá gian ác mà Thiên Chúa không phạt nó chết đi, để nó làm khổ người khác,
làm khổ những người vô tội. Chúng ta thắc mắc như vậy vì không hiểu lòng
Thiên Chúa. Cũng như một ông bố trong gia đình có đứa con hư không ai chịu nổi
muốn tống cổ nó ra khỏi nhà, thế mà ông bố kia vẫn kiên nhẫn chịu đựng chỉ vì
nó là con mình và mình đã sinh ra nó. Thiên Chúa cũng kiên nhẫn chờ đợi kẻ có
tội chỉ vì Ngài là Cha nhân lành đã sinh ra nó, đã cứu chuộc nó bằng giá Máu
cực trọng Con Ngài, có thế thôi.
Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa kiên nhẫn chờ
đợi nó hối cải, hơn nữa Ngài còn vui mừng đón nhận nó khi trở về. Dụ ngôn người
đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc và ông
bố gia đình đón nhận người con phung phá trở về, cả ba dụ ngôn đó chứng minh
như vậy.
Người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, mời chị em bạn bè đến chia
vui. Người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc không hắt hủi đánh đập nó vì đã
làm cho ông mất bao thì giờ, hao tốn sức lực và liều để 99 con khác ở một nơi.
Trái lại,ông vui mừng sung sướng âu yếm vuốt ve nó, ôm nó lên ngực, vác nó trên
vai đem về nhà mời chúng bạn đến chia vui với mình. Cũng thế, người bố trong
gia đình, khi thấy đứa con phung phá trở về, ông không hề xua đuổi trách mắng
vì nó bỏ nhà ra đi, phụ bạc tình cha, phung phí tài sản, ăn chơi truỵ lạc, bôi
nhọ danh dự gia đình… không, ông không hề trách mắng, mà trái lại, khi nó ở
đàng xa ông đã vội vã chạy ra ôm choàng lấy nó mà hôn thật lâu, ông cũng không
cần nghe nó thú tội xin lỗi, ông truyền đầy tớ lấy áo đẹp mặc cho nó, lấy nhẫn
đeo vào tay, lấy giầy xỏ vào chân nó. Hỏi rằng ở trần gian có ông bố nào đối xử
với đứa con phụ bạc một cách lạ lùng như vậy? Ông bố trong dụ ngôn đón nhận đứa
con phung phá chính là Cha trên trời nhận kẻ có tội quay trở về. Thật âu
yếm biết bao! Cảm động biết bao! Lạ lùng biết bao! Nếu Đức Giêsu không tỏ ra
thì ai có thể tin được?
Sau đây, ta rút ra hai bài học thực hành:
* Trong đời ta dù có sa ngã phạm tội, dù tội ta nhiều và nặng
đến đâu cũng cứ vững lòng trông cậy Chúa sẽ khoan hồng tha cho ta như người cha
trong Phúc âm tha thứ cho người con phung phá trở về.
* Theo gương người con đó, ta phải thành khẩn và khiêm tốn nhìn
nhận tình trạng khốn nạn của ta khi phạm tội lìa xa Chúa. Khi bỏ nhà ra đi,
người con đó tưởng mình sẽ được tự do sung sướng, nhưng tự so không thấy, lại
phải làm đầy tớ chăn lợn cho người, sung sướng không thấy lại phải đói khổ cùng
cực muốn ăn cám lợn cũng chẳng ai cho. Khi phạm tội lìa bỏ Thiên Chúa chúng ta
cũng mất địa vị và sự tự do của con cái Thiên Chúa rơi vào ách nô lệ của tà
thần. Sung sướng không thấy lại phải nhiều sự khốn khó đời này và nhất là đời
sau trong hoả ngục, vì tội là nguyên nhân sinh ra mọi sự dữ. Người con phung
phá đã hối hận lên đường trở về. Theo gương người con đó, ta cũng quyết tâm từ
bỏ tội lỗi ăn năn hối cải và nói như anh: “Tôi đi về cùng cha tôi”.
8. Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty
Tôi là ai: ông anh hay cậu em trong dụ ngôn?
Chương 15 của Phúc âm Luca, một chương hoàn toàn nói về lòng thương
xót của Thiên Chúa, có kể ba dụ ngôn. Dụ ngôn thứ ba tường thuật về một nhân
vật mà mà truyền thống gọi là đứa con hoang đàng và coi anh như nhân vật chính
của câu truyện. Ngày nay nhiều tác giả cho rằng người cha nhân hậu mới là nhân
vật chính. Một nhân vật thứ ba được đề cập tới, và chắc chắn chỉ giữ vai phụ là
người anh tuân phục. Khi kể câu chuyện dụ ngôn lừng danh này, ý của Đức Giêsu
về các nhân vật rất rõ ràng: Người cha là Thiên Chúa nhân hậu và thứ tha, người
con hoang đàng phải là những kẻ tội lỗi tiếp nhận Tin Mừng, còn người con cả để
chỉ những người Do Thái, đặc biệt các Pharisêu, đang xầm xì phản đối.
Xét theo diện luân lý thông thường thì người anh tuân phục mới
là diện mạo đáng được đề cao hơn cả. Là con trưởng trong nhà, không khi nào dám
làm trái lệnh cha, hầu hạ cha trong mọi sự, không có gì đáng trách… anh đáng
được thừa hưởng phần lớn gia tài của cha. Trước mặt mọi người xung quanh, anh
thật đáng nể phục và kính trọng, đáng nêu gương cho mọi người. Ai có thể đòi
hỏi nơi anh điều gì hơn nữa?
Còn cậu em thì ngược lại, cậu thật đáng cho mọi người khinh khi.
Bất tuân lệnh cha và làm phật lòng người, chơi bời trác táng, sống mất nhân
phẩm… cậu thật không đáng hưởng bất cứ phần gia tài nào của cha. Như thế cậu em
này chẳng có gì đáng được đề cao để nêu gương cho hậu thế soi chung. Nói trắng
ra anh chàng này chẳng có giá trị gì hết!
Thế nhưng khi kể câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu cho thấy có một
yếu tố mới làm đảo lộn tất cả; yếu tố đó là điểm độc đáo đặc trưng nhất của Tin
Mừng, đó là cảm nhận và sống trong lòng nhân ái của Cha. Cho dầu có hội đủ tất
cả mọi điều được coi là tốt lành nhất, ông anh vẫn còn thiếu một điều gì đó để
biến cuộc sống đúng khuôn phép trong gia đình của anh trở nên hạnh phúc. Còn
cậu em, thì dầu đã đánh mất tất cả mọi điều được luân thường đạo lý cho là cao
đẹp, nhưng may mắn đã khám phá ra được điều sẽ thực sự làm cho mối tương quan
giữa anh với cha già từ đây trở nên sâu đậm, đó là nhận ra lòng nhân ái của
cha. Đức Giêsu hình như muốn gói ghém trong câu chuyện này một điều gì quan
trọng lắm mà Người gọi là Tin Mừng, là rượu mới. Nếu ông anh là hình ảnh của
nhóm Do Thái Pharisêu trung thành thuộc Cựu Uớc thì chính cậu em mới là hiện
thân của Kitô hữu Tân ước qua mọi thời.
Nhận ra điều này tôi mới thấy sững sờ. Hình như chính tôi và
nhiều Kitô hữu đã dành quá nhiều thời giờ và sức lực để xây dựng cho mình, và
cho những người mình được trao phó, hình ảnh một ông anh hơn là cậu em. Chúng
ta đã chẳng dành quan tâm hàng đầu nhấn mạnh phải sống trung thành với luật
Chúa, phải tuân phục cặn kẽ mọi qui tắc luân lý đạo đức… để vào Nước Thiên Chúa
hay được lên thiên đàng… hơn là nhận biết và cảm tạ lòng nhân ái cứu độ của Cha
trên trời hay sao? Chúng ta đã chẳng từng mong đợi được Chúa thưởng công cho sự
công chính đạo đức của mình hơn là phó thác trọn vẹn cho lòng từ bi nhân ái của
Người là gì? Thậm chí đôi lúc có người trong chúng ta còn cảm thấy ganh tị khi
nghĩ rằng các cậu em tội lỗi kia sẽ được Cha nhân ái đối xử ngang bằng với mình
hay hơn cả mình trên thiên quốc. Một người đã trọn đời dâng hiến và phục vụ
trong tư cách là linh mục, tu sĩ, hay giáo dân lành thánh – lẽ ra phải được
Thiên Chúa ưu đãi thưởng công xứng đáng hơn trên thiên đàng mới phải chứ!
Thế đấy, chúng ta, vì chưa xác định được điều gì là độc đáo đặc
trưng nhất của một Kitô hữu (và hơn nữa của linh mục, tu sĩ) nên có thể đã đặt
cuộc sống mình sai trọng tâm chăng? Chính tôi vẫn thường nhắc nhở cho giáo dân:
phải trung thành giữ các lề luật Chúa và Hội Thánh… và dựa vào tiêu chuẩn đó mà
đánh giá giáo dân mình là tốt hay xấu. Vô hình chung tôi đang biến mình thành
con người của Cựu Ước hơn là Tân Ước chăng, có khác chi chỉ là thay tên gọi
Gia-vê thành Thiên Chúa? Câu chuyện dụ ngôn, và nhất là khi so sánh vai diễn
của ông anh và cậu em, cho tôi thấy hiện rõ một chân lý mà từ lâu mình đã lãng
quên: hãy sống triệt để Tin Mừng Tân Ước hơn qua việc đón nhận tình yêu tha thứ
của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi thập giá Đức Kitô, hơn là chỉ chăm chú vun quén
một đời sống tốt lành đạo đức theo kiểu Cựu Ước. Hãy thâm tín sâu hơn nữa câu
khảng định của Đức Giêsu: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13). Giữ luật là quan trọng,
nhưng nhận biết và sống lòng thương xót từ nhân của Thiên Chúa còn quan trọng
hơn rất nhiều. Tóm lại hãy trở thành cậu em hơn là chỉ cố sống như ông anh.
Đừng dừng lại mãi trong Cựu Ước một hãy thẳng tiến ngày càng sâu hơn vào Tân
Ước của Tin Mừng.
Lạy Chúa, xin không chỉ hoán cải con trong một vài chi tiết
tốt xấu luân lý của cuộc sống. Xin cho con được lột xác tận căn và chuyển bước
dứt khoát từ Cựu Ước qua Tân Ước. Xin cho con, nếu đang được sống trong nhà như
ông anh, thì cũng có được tâm tình và cảm nghiệm sâu xa của cậu em khi đi bụi
trở về. Xin cho con biết ngước nhìn lên Thập giá Chúa Kitô để nhận ra Thiên
Chúa không phải là người cha nghiêm nghị bắt phải tuân phục, nhưng trên hết là
người cha đầy lòng nhân ái thứ tha. Xin cho con ơn trọng đại này để được sống
hạnh phúc trong nhà Cha muôn đời. Amen.
9. Tìm về – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
(Trích dẫn từ ‘Suy Gẫm’ – Cánh Đồng Truyền Giáo)
TÌM VỀ CHÍNH MÌNH
Khi con người sai lầm, con người phạm tội, con người “chạy trốn”
chính mình! Khi ấy, con người không muốn nghe tiếng nói lương tâm, tiếng nói từ
sâu thẳm lòng mình.
Nhiều kẻ lún sâu vào sai lầm, vào tội ác, nhưng vẫn sống an
nhiên như người thánh thiện. Họ đã rời xa con người thật của họ. họ sống trong
lớp vỏ bình an giả tạo. Với loại người này, họ không còn con đường về nẻo thiện
lương. Họ đánh mất chính mình. Họ đánh mất nhân tính. Có những vụ án giết
người, mà kẻ tội phạm kể lại tội ác mình làm khi đứng trước vành móng ngựa thật
bình thản đến lạ lùng!
“Sai lầm là thường tình của con người”. Để “nhận ra mình sai
lầm”, cần phải khiêm nhường.
Không khiêm nhường không thể thấy mình sai. Không thấy mình sai
thì cứ cho mình đúng. Cứ cho mình đúng là kiêu ngạo. Mà kiêu ngạo thì đối
nghịch lại khiêm nhường… cái vòng lẫn quẫn ấy cản trở con người bước vào con
đường nội tâm. Không đi vào nội tâm, không thể tìm về chính mình được.
Đi vào nội tâm là lúc con người hồi tâm lại, và nhìn đoạn đường
mình đã đi qua. Để xem mình đang đi về đâu. Có hồi tâm mới có hối hận. Không
giọt nước mắt ăn năn sám hối nào rơi xuống mà con người không nhìn sâu vào tận
đáy lòng mình. Đó chính là lúc tìm về chính mình thật sự.
TÌM VỀ GIA ĐÌNH
“Không ai là một hòn đảo”. Ngay cả những người đã “phủi bụi
trần” để khép mình vào “bốn bức tường” tu viện, vẫn cần có tình người. Tìm về
gia đình - hay đại gia đình - là mở rộng tấm lòng để sống có trách nhiệm với
cha mẹ, anh em, người thân, tha nhân, đoàn thể, cộng đồng…
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, đứa con hoang đàng đã tìm
về không phải vì nhớ thương cha mẹ hay anh em trong nhà, mà vì cái bụng
đói, vì cuộc sống quá gian nan, nhục nhã. Lý do tìm về chỉ nhắm tới lợi ích
riêng mình, còn rất ích kỷ. Khi ra đi với lý do ích kỷ, tìm về cũng với lý do
ích kỷ. Động lực sám hối chưa sâu xa. Chính vì lý do đó mà người anh trong câu
chuyện đã không thể chấp nhận được. “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt
hết của cải của cha với bọn điếm, nay tìm về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”
(Lc 15,30)
Nhưng, cũng chính vì lý do non nớt, trẻ con đó, mà tình cha càng
nổi bật, càng lớn lao. Bất kể là vì lý do gì, miễn là đứa con biết ăn năn sám
hối, biết tìm về gia đình. Người cha không nói rằng đứa con trai lớn đã nghĩ
sai, nhưng chỉ nói lên lý do đứa con lầm lỗi cần được thương xót. Nó đang cần
tình thương. Và dù cho thế nào, nó vẫn là đứa con mà ông hết mực thương yêu. Và
tình yêu đó không có sức mạnh nào lay chuyển. Và người cha muốn đứa con trai
lớn mình phải hiểu và chấp nhận em mình với tấm lòng bao dung cao cả như vậy.
“Yêu thương em mình như tình cha”. Điều này, chúng ta gặp thấy nơi giới luật
yêu thương của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương
chúng con”.
Và đó, chính là ý nghĩa của việc tìm về gia đình. Không có nơi
nào con người nương tựa vững chắc như mái ấm gia đình. Trong sự bảo vệ, đùm bọc
của tình cha nghĩa mẹ. Đó còn là hình ảnh của “gia đình Chúa Giêsu”, của “đại
gia đình nhân loại”. Tình thương anh em phải được nâng cao lên, hơn tầm nhìn
của người anh trong câu chuyện Tin Mừng này. Vì đó là Đại Gia Đình Thiên Chúa.
“Một Đức Tin, một Phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha”.
TÌM VỀ BÊN CHÚA
Trong cuộc đời, có những cuộc tìm về bị chối từ, nhưng với Thiên
Chúa thì không, vòng tay của Ngài luôn rộng mở.
Điều Ngài muốn duy nhất, là con người biết ăn năn, sám hối. Sự
sám hối có khi còn rất nông cạn, còn rất đời thường, còn rất vật chất, còn vì
cái lợi trước mắt. Nhưng căn bản là nhận ra rằng Chúa chính là nơi con người
nương tựa thật sự. Không tìm về nơi đâu khác, mà tìm về chính Thiên Chúa. Và
tin tưởng rằng Chúa vẫn hằng yêu thương tha thứ.
Sự tìm về của Giuđa Ít-ca-ri-ốt là sự tìm về dang dở.
Giuđa biết “tìm về chính mình”. Anh ta đã “nhìn lại mình”
và đau khổ. Anh có sám hối. Đó là một khởi đầu rất tốt. Giuđa thật can đảm. Sự
tìm về với chính mình của Giuđa thật tuyệt vời. Nhưng thật đáng tiếc, những
bước tiếp theo lại thất bại. Thật tội nghiệp cho Giuđa, anh đã không đến được
với Chúa vì anh không hình dung được tình yêu Chúa bao la đến mức có thể tha
thứ tội tày trời của anh!
Có người bảo rằng thật tiếc là kết thúc cuộc đời của Giuđa
“không có hậu”. Nếu Giuđa tin vững vào Tình Yêu của Chúa, không ngã lòng trông
cậy, phần kết luận sẽ khác! Thí dụ như Giuđa không tự tử, Giuđa khóc lóc hối
hận một đời như thánh Phêrô. Rồi Giuđa sau này rao giảng về Chúa phục sinh, lời
lẽ của Giuđa sẽ mạnh mẽ: “Tôi đã từng bán Chúa! Tôi đã chen vào đám đông và
đứng chứng kiến người ta đóng đinh Chúa trên Thập Giá. Trong khoảnh khắc tình
cờ từ trên Thập Giá Chúa đã nhìn thấy tôi. Đôi mắt Ngài nhân từ, đượm buồn
nhưng rất âu yếm…”. Và cuối cùng, Giuđa đã bị treo cổ vì đã rao giảng về Giêsu
đã chết và đã Phục Sinh, chứ không phải tự treo cổ vì tuyệt vọng! Kết thúc được
như vậy cuộc đời Giuđa thật đẹp biết bao!
Có thể sự hối hận của Giuđa quá muộn màng. Cách sống của Giuđa
quá biệt lập trong “gia đình các môn đệ”.
Khi Giuđa biết “tìm về chính mình” và sám hối ăn năn, Giuđa lại cảm thấy lẻ
loi, mang nặng mặc cảm tội lỗi với Chúa và với anh em. “Một trong các môn đệ
của Chúa Giêsu là Giuđa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: ‘Sao lại không
bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo?’ Y nói thế, không phải
vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường
lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga.12.4-6). Bước tiếp theo
“tìm về gia đình”, hòa nhập vào “cộng đoàn môn đệ” là không thể được. Giuđa không thể nào chịu
nổi sự lạc lỏng, cô đơn, có khi là “búa rìu” của “dư luận” ngay trong “gia đình
môn đệ”,
không còn con đường tìm về bên Chúa được nữa, Giuđa đã chọn con đường tự tử.
Giuđa không đủ niềm tin để chỗi dậy.
Hãy thử tưởng tượng đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin
Mừng hôm nay đã “không dám” về gặp thẳng cha mình, mà về gặp anh mình để “thăm
dò” xem cha mình có thể “nhận” mình không, thì người anh sẽ phản ứng ra sao?
Dựa vào phần kết câu chuyện, chắc chúng ta cũng có thể suy ra những câu nói của
người anh đối với em mình thế nào! Những câu nói có thể đại loại như: - “mầy
còn vác mặt mày về đây hả?” – “Mày định về đây chia cái gì nữa đây?” – “ Mày
làm tán gia bại sản chưa hài lòng chắc?” – “Ông già thất vọng về mày”… Và đứa
con trai hoang đàng sẽ rút lui. Sự tìm về của nó thất bại. Nó sẽ lại bước vào
dòng đời gió bụi. Nó sẽ chết ở xó kẹt nào đó, mang theo nỗi lòng đau khổ sám
hối ăn năn mà không còn cơ hội nhận ra được người cha đang yêu thương chờ đợi
nó.
Có rất nhiều vật cản trên “bước đường tìm về”.
Có rất nhiều sương mù làm nhạt nhòa hình ảnh Thiên Chúa là Người Cha Nhân Hậu.
Không phải chỉ ngày xưa, thời Pharisêu, Biệt Phái, mà trong cả thời nay, có khi
ngay cả trong lòng Giáo Hội.
Chuyến tìm về của đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin
Mừng hôm nay thành công, vì anh đã can đảm đến với cha mình. Anh trực tiếp thấy
được dung nhan hiền từ của cha mình ngoài sức tưởng tượng của anh. Không có
cánh tay trừng phạt giáng xuống anh, chỉ có vòng tay êm ái ôm chằm lấy anh.
Không có những lời hạch tội quát mắng, chỉ có những lời ra lệnh mở tiệc ăn
mừng. Không có những lời lên án, chỉ có những lời bênh vực. Không có bờ môi đay
nghiến, chỉ có những nụ hôn. Không có chỗ ở để nhận thêm một đầy tớ, chỉ có chỗ
ở dành cho đứa con bao năm chờ đợi trở về. Anh trực tiếp cảm nghiệm được lòng
yêu thương của cha anh trổi vượt hơn vạn lần anh suy đoán. Anh nhận được ân huệ
của cha anh lớn lao vạn lần hơn những gì anh van xin.
Sự vui mừng của cha anh cho anh lòng tự trọng. Cho anh vững bước
tiến lên để xứng đáng với tình cha. Cha anh tin tưởng anh làm lại cuộc đời mới.
“Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại
sống, đã mất mà nay lại tìm thấy." (Lc.15,32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới trả lời được vì sao “các người thu thuế và
các người tội lỗi đều lui tới với Người”, và vì sao Người lại “đón tiếp phường
tội lỗi và ăn uống với họ”.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người
giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này
đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." (Lc.15,1-32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới diễn tả đúng mức thế nào là Thiên Chúa là
Cha Nhân Từ. và thế nào là Tình Yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại khi vòng tay
của Người dang rộng trên Thập Giá. “Ông Philípphê nói: ‘Thưa Thầy, xin tỏ cho
chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện’. Đức Giêsu trả lời:
‘Thấy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy
Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?”
(Ga.14,8-9).
Lạy Chúa, Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, vâng, lạy Chúa,
xin đừng! nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ, bởi vì Ngài thành tín yêu thương.
(Tv.115,1). Amen.
10. Người cha
Suy Niệm
Khi chiêm ngắm người cha nhân hậu, ta khám phá ra khuôn mặt một
Thiên Chúa yêu thương.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa khiêm tốn.
Như người cha chấp nhận chia gia sản cho con, chấp nhận để con
bỏ nhà ra đi, Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do của con người.
Đấng Toàn Năng đã tự giới hạn quyền năng của mình để chúng ta có
thể hiện hữu một cách tự do. Ngài như thể thu mình lại để nhường chỗ cho thụ
tạo.
Không phải chỉ con người mới cần cởi giày trước Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa cũng cởi giày trước mầu nhiệm con người, vì lòng con người
cũng là phần đất thiêng thánh.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết chờ đợi.
Thiên Chúa vẫn nuôi hy vọng khi con người lìa xa Ngài.
Người Cha vẫn luôn ngóng con từ bên cửa sổ. Lòng Cha luôn hướng
về con. Bởi thế ngay khi con còn ở đàng xa, Cha đã thấy. Cha vẫn nhận ra con,
dù con xanh xao tiều tụy.
Thiên Chúa không thất vọng về con người. Ngài không bắt ép người
ta hoán cải, Ngài chỉ chờ. Ngài chờ vì Ngài tôn trọng tự do của họ.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết tha thứ.
Ngài là Cha yêu con bằng cung lòng người mẹ.
Rõ ràng con thứ thật đáng trách, vì bất hiếu. Nhưng tình thương
của Cha còn lớn hơn tội của anh.
Cha thương anh vì anh đã lỗi phạm.
Tội lỗi tự nó đã đem lại hình phạt rồi.
Người cha có vẻ không cần nghe con mình xin lỗi. Sự trở về của
anh đã là lời thống hối ăn năn.
“Con ta đã chết, nay đang sống; đã mất, nay lại tìm thấy.”
Thiên Chúa không nhớ mãi chuyện đã qua. Điều quan trọng là hiện
tại: con đang sống trong vòng tay Cha.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa luôn chạy ra, như người cha
chạy ra để đón đứa con thứ, như người cha đi ra để năn nỉ đứa con cả.
Thiên Chúa dường như không yên trong hạnh phúc của mình, nếu có
một người con còn đứng ngoài.
Người cha trong dụ ngôn chẳng sợ mất uy nghi, đạo mạo. Ông chạy
đến với con, phá vỡ khoảng cách của quyền uy. Quyền uy của người cha là quyền
uy của tình yêu, mà tình yêu thi có can đảm vượt qua mọi khoảng cách.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết nhảy mừng.
Thiên Chúa đãi tiệc vì một người ăn năn sám hối.
Nhưng Thiên Chúa nhảy mừng cũng là Thiên Chúa từng đau khổ. Ngài
đau nỗi đau của con khi cố tình xa Cha.
Thiên Chúa biết buồn vui với con người và vì con người.
Hãy trở lại và ở lại trong nhà Cha, vì Cha muốn trao cho bạn tất
cả những gì Ngài có. Tiệc đã sẵn, vào với Cha cũng là về với anh em.
Gợi Ý Chia Sẻ
Qua bài Tin Mừng này, bạn hãy cho thấy khuôn mặt khiêm tốn của
người cha. Bạn thấy Thiên Chúa có khi nào khiêm tốn với bạn không?
Đâu là những nét giống nhau giữa người con thứ và người con cả?
Người con cả cần hoán cải về tội gì?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha
như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy
ngoài vòng tay Cha, nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con
thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết
đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha
mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con
đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình
mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy
mình hiền hòa hơn với tha nhân.
11. Tuyệt đỉnh của yêu thương – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới Đức Giám Mục
Anmôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép
lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ
tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi
phải làm gì hơn nữa?
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn
dám tố cáo ai nữa.
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và
các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Đức Giêsu tiếp đón những
hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trả lời
bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, Đồng Bạc Đánh Rơi, và Đức Con Hoang Đàng,
để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối
cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng
hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên
Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”. Con người
là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa mướn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí
giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người
không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi,
như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lạc, đi tìm cho
bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ,
như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi
tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân,
như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui
mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, “lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên
Chúa” (A.Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt
đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và
đớn đau khôn tả, phải chịu kinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha
thiết: “Lạy Cha, xin tha cho họ”.
Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm
lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người
lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người
trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng
sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là
người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là người tội lỗi. Đứa con hoang đàng
được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn
năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc
nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả
trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì
Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông
anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân
phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ
cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị
trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin
Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người đều trở
nên mù loà”.
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên
đàng sẽ trống rỗng, và thế giới này chẳng có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình
nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen.
12. Cây táo và miếng vải trắng
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Richard Pidell có viết một câu chuyện ngắn nhan đề: “Đứa
con trai của một ai đó” (Somebody’s son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên
là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khổ quá, không chịu nổi, cậu bèn viết
một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho
cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thư như sau: “Mẹ kính mến, trong một
vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ
yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng
ta”. Vài ngày sau, David lên tàu hỏa đi về. Trong lúc tàu hỏa lao nhanh đến nhà
thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong trí cậu ta: khi thì trên cây táo có
cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng cột một miếng vải trắng nào.
Tàu hỏa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa
cây táo sẽ hiện ra ở khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ
nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên
cạnh ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào
khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Ông làm ơn cho cháu biết trên
cành cây táo đó có một miếng vải trắng không nhé”.
Khi tàu hỏa rầm rập lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm
về phía trước. Đoạn run run giọng, cậu hỏi người đàn ông: “Thưa ông, có một
miếng vải trắng nào treo ở cành cây táo đó không?” Ông ta sửng sốt trả lời: “Ồ,
nầy cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có một miếng vải trắng cả!”
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội
lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao
giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu
của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Người con hoang
đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng
người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo
mới cho anh và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của
chúng ta. Đối với Chúa, mỗi người chúng ta đều đáng kể, không thể có gì khác
thay thế được. Mỗi con người là như một con chiên trong đàn, phải được chăm sóc
như nhau, không được để thất lạc. Chính mươi chín con chiên yên lành không làm
nguôi lòng thương đối với một con chiên lạc. Thiên Chúa cũng cuống quýt như một
bà già nghèo đánh mất một đồng bạc quý. Phày hì hục moi móc mọi ngóc ngách
trong nhà để tìm cho bằng được. Như người cha già, con mình đã hư quá thể mà trong
lòng vẫn lo lắng không nguôi, vẫn không thôi chờ đợi đến mỏi mòn, cho đến lúc
ôm lại đứa con vào lòng và rạo rực vui sướng không gì kìm hãm được và cả Thiên
đàng cũng vui lây, vui sướng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại hơn cả vui
sướng vì chính mươi chín người lành thánh không cần sám hối ăn năn.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với Ngài, mỗi con người là như
một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý chăm sóc mỗi người như chỉ
có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lạc đường, Ngài tạo mọi điều kiện để
ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi là tin vào tình thương tha
thứ của Cha để mà dám trở về. Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho
người mục tử nhiều hơn niềm vui có chín mươi chính con ở lại trong đàn.
Thưa anh chị em,
Đến đây, đáng lẽ dụ ngôn về người cha nhân hậu đã có thể kết
thúc rất đẹp với nỗi vui mừng của người cha. Nhưng Chúa Giêsu lại nối thêm cái
đoạn cuối về người con cả. Chúng ta cũng nên dừng lại một chút với thái độ của
người con cả để hiểu hết ý Chúa muốn dạy chúng ta qua dụ ngôn nầy.
Người con cả là một người con chí thú làm ăn ở nhà với cha,
nhưng xem ra quan hệ với cha không được thân mật, thẳng thắn. Tuy ở nhà với cha
nhưng lòng vẫn xa cách. Và kết quả là người con cả đã không hiểu và không chấp
nhận nổi cách xử sự của cha đối với đứa em của anh vừa trở về. Do đó, thay vì
nhập tiệc chia vui với cha và với em, người con cả đã dừng lại ở cửa, tự mình
đứng ở thể tách biệt với gia đình sum họp.
Người con cả ở đây tiêu biểu cho nhóm người Biệt phái Pharisêu
trong dân Do Thái. Họ tưởng rằng họ trung thành với Thiên Chúa và đáng được
Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, rồi khinh bỉ các dân ngoại và những hạng
người mà họ cho là tội lỗi. Thì ra, Tin Mừng hôm nay là một Tin Mừng đối với
người tội lỗi sám hối trở về, nhưng đồng thời lại cũng là một lời cảnh cáo đối
với những người “ở trong nhà”, những người tưởng mình đạo đức, tốt lành. Người
con cả, bao nhiêu nămm ai cũng tưởng là ngoan ngoãn tốt lành lắm. Đến ngày em
của anh hồi sinh và trước niềm vui vô bở của người cha, anh đâm ra hậm hực, bực
tức… thì ra bề ngoài anh ngoan, nhưng nội tâm của anh thì cay nghiệt, tù túng,
đầy những ghen tị, sát phạt. Cả anh nữa, anh cũng chẳng hiểu thế nào là lòng
thương xót. Cuối cùng anh không muốn bước vào lòng thương xót đó. Anh chưa gặp
được Thiên Chúa. Anh vẫn ở ngoài ơn cứu độ.
Dụ ngôn cho thấy, người cần trở lại hơn hết chính lạ người con
cả, người con vẫn ở nhà với cha nhưng lòng thì không ở cùng với cha.
Anh chị em thân mến,
Hãy tin vào tình thương yêu vô bờ bến của Thiên Chúa mà trở về
với Ngài, nếu chúng ta lỡ lạc đàng, sa ngã. Và hãy khoan dung tha thứ cho những
người anh chị em, nếu chẳng may có ai trượt chân vấp ngã. Phải tìm đến với
người anh chị em đó để giúp họ trở lại với Chúa là Cha yêu thương. Đừng có thái
độ lên án, loại trừ như thái độ của người con cả trong dụ ngôn. Trái lại, hãy
vui mừng vì đã giúp được một người anh em gặp lại niềm vui cứu độ. Hãy coi thái
độ khoan dung, quảng đại yêu thương tha thứ của người cha trong dụ ngôn là hình
ảnh của lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, để chúng ta biết đối xử với
những người anh em như Chúa đã đối xử với chính chúng ta.
“Lạy Chúa, xin tỏ lòng thương xót con, và lấp đầy trái tim
con tình yêu tha thứ của Chúa.
Con là đứa con thứ đã bỏ nhà ra đi rồi lại trở về. Con cảm
ơn Chúa đã đón nhận lại con.
Và con cũng là người con cả đã từng khư khư không chịu tha
thứ cho anh chị em con như Ngài đã tha thứ cho con. Vậy xin Chúa hãy chạm vào
trái tim con với tình yêu tha thứ của Ngài.
Để rồi sau khi an nghỉ trong cõi chết, con sẽ thức dậy
trước thánh nhan Ngài mãi mãi cùng với anh chị em từng được con tha thứ lỗi
lầm”. Amen.
13. Thương xót – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Có câu chuyện kể rằng, một ngày nọ Abraham mời một lữ hành
vào lều của ông dùng một bữa cơm, sau khi đọc kinh chúc tụng trước khi ăn,
người khách này bắt đầu chửi rủa Thiên Chúa, ông nói rằng, ông không thể chịu
nổi khi nghe gọi tên Thiên Chúa. Phẫn nộ trước thái độ đó Abraham đuổi ngay kẻ
phạm thượng ra khỏi lều. Tối đến, khi Abraham cầu nguyện Chúa nói với ông:
“Abraham, người kia đã chửi rủa Ta từ 50 năm nay và Ta vẫn cứ ban cho ông ta
lương thực hằng ngày. Còn ngươi, ngươi không thể nào cho ông ta chỉ một bữa cơm
sao?”.
Tin Mừng theo thánh Luca của Chúa nhật hôm nay vốn được mệnh
danh là Tin Mừng về “Lòng thương xót của Thiên Chúa”. Và quả thực như vậy, bài
Tin Mừng khá dài nhưng thật cảm động, Chúa Giêsu không chỉ đưa ra một mà tới ba
dụ ngôn để phá đổ thái độ hống hách đạo đức giả của những người thuộc phái
Pharisêu và các kinh sư. Nhưng quan trọng hơn hết là Ngài bày tỏ lòng nhân hậu
đầy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Dụ ngôn đầu tiên, Thiên Chúa như
người mục tử nhân lành quyết tâm đi tìm cho bằng được con chiên bị lạc, dù chỉ
là một trong số một trăm. Khi tìm được rồi, ông vui mừng vác chiên trên vai, về
đến nhà ông mời bà con hàng xóm đến chung vui.
Dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa như
người phụ nữ mất một đồng bạc, có lẽ giá trị của nó chỉ bằng tiền lương của một
ngày công lúc bấy giờ. Nó không lớn đối với nhiều người trong chúng ta, nhưng
nó quan trọng đối với người phụ nữ. Bà đã thắp đèn quét nhà moi móc tìm kiếm
cho bằng được, khi tìm được rồi bà mời bạn bè hàng xóm đến chung vui.
Trong cả hai dụ ngôn này, thái độ vui mừng của người mục tử và
của người phụ nữ có lẽ trong thời buổi thị trường kinh tế chúng ta thấy thật
phi lý, nhưng nó lại là lôgích của tình yêu trong cuộc sống và là bản chất yêu
thương của Thiên Chúa. Rõ ràng giá trị của con chiên bị lạc hay đồng bạc bị mất
không đặt trong sự so sánh cái này với cái khác, cũng không đặt trong tỉ lệ
phần trăm hay phần mười, nhưng giá trị của chính nó trong tương quan của người
tìm kiếm, trong lòng thương xót và trong ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đó là sự vui
mừng của Nước Trời khi có một tội nhân ăn năn sám hối.
Điều này càng nổi bật hơn trong dụ ngôn thứ ba người cha
nhân hậu. Người cha không những đã bày tỏ lòng thương yêu đối với người con
thứ, đứa con đã đòi chia gia tài, rồi sau khi ra đi đã ăn tiêu hoang phí, khi
trở về lúc nó còn đàng xa người cha đã nhận ra và lập tức chạy đến ôm chầm lấy,
hôn lấy hôn để. Ông còn cho mở tiệc ăn mừng, vì điều quan trọng đối với ông là
đứa con đã trở về. Đứa con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm
thấy. Người cha còn bày tỏ lòng nhân hậu với người con cả, đứa con hằng ngày vẫn
ở bên cha mà hình như tâm hồn của nó đã đi hoang từ lâu. Nó kể công, nó phân
bì, nó ghen tị rồi tức tối giận dỗi, nó muốn cắt đứt tình nghĩa huynh đệ không
chấp nhận cho đứa em trở về và nó cũng đang cắt đứt luôn tình nghĩa phụ tử
không chịu vào nhà, vì trong lòng của nó chưa bao giờ có tình thương. Sự chuyên
cần trong công việc hằng ngày của nó xem ra vì thói quen hoặc vì bổn phận hơn
là vì một mối tình. Nhưng người cha vẫn nhân hậu đầy yêu thương năn nỉ: “Này
con, hằng ngày con vẫn ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”.
Thiên Chúa, Ngài đã kiếm tìm chúng ta trước khi chúng ta tìm
kiếm Ngài. Ngài chờ đón chúng ta trước khi chúng ta trở về, và Ngài đã yêu
thương chúng ta khi chúng ta vẫn còn là tội nhân. Trong lòng thương xót của
Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đã trở nên viên ngọc quí mà Ngài là thương gia
bán tất cả gia tài đang có để chuộc lấy viên ngọc quí là chúng ta. Ngài vốn dĩ
là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên
giống phàm nhân, sống như người thế. Người còn tự hạ sống vâng lời cho đến chết
và chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Thiên Chúa nhân hậu và hay thương
xót. Ngài không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không đánh dập tắt tim đèn còn khói.
Ngài vẫn kiên trì, vẫn chờ đợi chúng ta những người con yếu đuối, tội lỗi ăn
năn sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là mục tử nhân lành như thế đó; Thiên
Chúa là người cha nhân hậu như thế đó, và Thiên Chúa đã tìm kiếm chúng ta như
thế đó. Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương
xót của Thiên Chúa.
14. Quan trọng - McCarthy
Người ta có thể nói: Tại sao người mục tử lại quan trọng hóa như
thế với một con chiên đi lạc trong lúc người ấy vẫn còn 99 con khác? Và tại sao
người phụ nữ lại quan trọng hóa như thế với một đồng tiền đánh mất? Bất cứ cái
gì mà chúng ta đánh mất đều có một giá trị thái quá. Ví dụ như bạn đánh mất một
cái chìa khóa. Ngay khi bạn làm mất, cái chìa khóa ấy trở nên quan trọng hơn tổng
số mọi vật mà chúng ta vẫn có. Không bao giờ chúng ta biết giá trị của một vật
chúng ta có cho đến khi chúng ta mất nó.
Một lần kia, có một thanh niên mong ước mình sẽ trở thành
một nhà nhiếp ảnh. Mỗi năm, anh đem một gói các bức ảnh đẹp nhất của mình đến
nhà một nhiếp ảnh gia lão thành và danh tiếng để xin ông này chỉ dẫn và đánh
giá. Nhiếp ảnh gia lão thành nghiên cứu các bức ảnh và chia ra làm hai gói nhỏ,
một gói gồm các bức ảnh đẹp và một gói gồm các bức ảnh xấu, chưa đạt. Năm nào
ông cũng nhận thấy rằng người thanh niên luôn đem đến một bức ảnh chụp phong
cảnh và lần nào cũng bị xếp vào các bức ảnh xấu bị loại. Vì thế, ông mới quay
lại người thanh niên và nói: “Rõ ràng là cậu đánh giá cao bức ảnh này. Tại sao
cậu lại thích nó như thế?”
Người thanh niên đáp: “Bởi vì cháu phải leo lên núi để chụp
nó”.
Một vật trở nên quí giá đối với chúng ta bởi vì chúng ta mất nó.
Nhưng nó cũng có thể trở nên quí giá vì công sức mà chúng ta đã bỏ ra cho nó.
Những hy sinh mà chúng ta đã thực hiện có được hoặc giữ được nó làm tăng thêm
giá trị của nó trong mắt chúng ta.
Có một câu chuyện tuyệt vời kể lại rằng một ngày nọ Đức
Giêsu hiện ra với một người mục tử đang gặp chuyện đau buồn. “Tại sao con buồn
bã thế?” Người hỏi “Bởi vì con đã để mất một trong các con chiên của con”,
người mục tử đáp “và dù con đã tìm kiếm khắp nơi, con đã không tìm thấy nó. Có
lẽ chó sói đã xé xác nó”. Nghe đến đây Đức Giêsu nói: “Con hãy chờ ở đây. Chính
Thầy sẽ đi tìm nó”.
Nói xong, Người biến mất vào trong các đồi. Ít giờ sau,
Người trở lại với con chiên lạc. Đặt con chiên dưới chân người mục tử, Người
nói: “Kể từ ngày hôm nay, con phải yêu thương con chiên này hơn những con chiên
khác trong bầy chiên của con, vì nó đã mất mà nay đã tìm lại được”.
Trong các câu chuyện con chiên lạc và đồng tiền đánh mất Đức
Giêsu nhấn mạnh một điều, đó là: Đối với Thiên Chúa, mỗi người đều quan trọng
và quí giá. Nhất là khi người ấy đã hư mất. Thiên Chúa sẽ yêu thương người ấy
nhiều hơn chứ không ít đi.
Những người Pharisêu tự coi mình là những mẫu mực về đạo đức nên
không liên can gì đến những người tội lỗi. Họ cho rằng Thiên Chúa cũng không
quan tâm đến những người tội lỗi. Tín điều chính yếu trong tôn giáo của họ là:
“Thiên Chúa yêu thương người đạo đức và ghét bỏ kẻ tội lỗi”. Nhưng Đức Giêsu
cho họ thấy có một loại Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn.
Đức Giêsu nhân hậu và yêu thương khi Người tiếp cận với những
người tội lỗi. Người biết rằng sự loại trừ và phán xét không bao giờ giúp cho
một người thay đổi. Vì thế Người dùng sự hiện diện của Người như một cách để
người ta cảm thấy được chấp nhận và yêu thương và trong bầu không khí ấy họ có
thể đáp lại và thay đổi.
Dù từ một quan điểm nhân bản, sự tiếp cận của Người cũng mang
nhiều ý nghĩa. Nếu một đứa bé bị lạnh và đói lả, nó không cần một bài giảng
thuyết; nó cần hơi ấm và lương thực. Jean Vanier cũng nói rất hay: “Con người ở
trong cảnh khốn cùng không cần một cái nhìn xét đoán và chỉ trích, nhưng cần
một sự hiện diện đầy an ủi đem lại bình an, hy vọng và sự sống”.
“Khi một người cha than khóc đứa con của mình đã đi vào những
con đường xấu xa, ông sẽ làm gì? Ông sẽ yêu thương nó nhiều hơn bao giờ hết”
(Beal Shem Tov).
15. Tấm lòng người cha
Dụ ngôn về đứa con hoang đàng, về chàng trai phung phá, hay nói
đúng hơn, câu chuyện về tấm lòng của một người cha là một hình ảnh cảm động
thật nói lên tình thương vô biên của Thiên Chúa. Ngài luôn chờ đời và sẵn sàng
tha thứ cho chúng ta, ngay cả những tội lỗi xấu xa và nặng nề nhất.
Chàng thanh niên, tuổi đời còn ít và kinh nghiệm chẳng được bao
nhiêu, đã đòi người cha phải chia gia tài cho mình, để rồi lên đường đi bụi
đời.
Chàng hăm hở lao mình vào những cuộc ăn chơi đàn đúm, tiêu xài
hoang phí cho đến khi không còn một đồng xu dính túi.
Chính trong giây phút đau khổ và đói khát, chàng mới nhận ra
rằng mình đã hành động sai quấy đối với người cha. Và cũng chính những đau khổ
và đói khát ấy đã làm cho chàng suy nghĩ và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Biết bao nhiêu người ngày hôm cũng thế. Sau những hành động tội
lỗi, thì trong cảnh tĩnh mịch của nhà tù họ mới tìm lại khuôn mặt của Thiên
Chúa mà họ đã quên lãng từ lâu.
Hiểu được sự sai trái của mình, chàng thanh niên đã dứt khoát
trở về nhà cha. Cõi lòng chàng tan nát khiêm cung, cho dù cái lý do thúc đãy
chàng trở về chưa thực sự tốt lành và tinh ròng cho lắm. Chàng sẽ quì xuống để
xin cha tha thứ. Chàng nói:
- Thưa cha, con đã phạm tội nghịch với trời và lỗi với cha, con
không xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha hãy đối xử với con như một
người làm công.
Và thế là chàng lên đường. Khi chàng còn ở đàng xa, thì người
cha đã trông thấy, bởi vì biết bao nhiêu ngày ông đã mòn mỏi đợi chờ.
Nếu là chúng ta, có lẽ chúng ta đã quát tháo:
- Cái thằng trời đánh thánh vật kia ơi. Mày đã làm cho tao đau
khổ biết bao nhiêu. Mày không còn là con tao nữa. Hãy cút xéo khỏi nhà tao.
Nhưng không. Người cha trong câu chuyện đã không nói và làm như
thế. Trái lại, ông đã tha thứ hết. Ông chạy tới, ôm choàng lấy chàng và hôn
chàng hồi lâu.
Không một lời khiển trách, trái lại với tất cả tình yêu thương,
ông đã truyền lấy áo mới cho chàng mặc, lấy nhẫn cho chàng đeo, lấy giày cho
chàng đi, rồi lại còn chuẩn bị tiệc mừng. Ông nói:
- Hãy giết con bê béo làm tiệc ăn mừng vì con ta đã chết nay
được sống, đã mất nay lại tìm thấy.
Câu chuyện trên đây quả thực đã đem lại cho chúng ta, những kẻ
tội lỗi, một niềm an ủi lớn lao. Bởi vì qua câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn tỏ
cho chúng ta thấy lòng nhân từ, khoan dung và thương xót của Thiên Chúa. Ngài
sẵn sàng tha thứ, sẵn sàng xóa bỏ tất cả mọi tội lỗi của chúng ta, miền là
chúng ta biết sám hồn ăn năn và lên đường trở về với Ngài.
Cha Piô là một vị linh mục nổi tiếng thánh thiện. Ngày kia,
ngài tới Rotondo và tình cờ gạp Cesare Festa, một kẻ đứng đầu phái Tam Điểm tại
đây. Khi gặp ngài, ông ta ngạc nhiên và nói:
- Ngài cũng ở đây với chúng tôi, những người theo phái Tam
Điểm hay sao?
Cha Piô đáp lại:
- Phải, thế các anh đã làm gì?
Ông ta trả lời:
- Chúng tôi chống lại Giáo hội.
Cha Piô cầm tay ông ta, nhìn ông ta bằng cặp mắt trìu mến,
rồi kể lại cho ông ta nghe câu chuyện đứa con hoang đàng, hay câu chuyện tấm
lòng của một người cha.
Một giờ sau, ông ta đã quì gối xưng tội. Rồi sau đó, ở mọi
nơi và trong mọi lúc, ông ta sẵn sàng tuyên xưng lòng khoan dung và thương xót
bao la của Thiên Chúa.
Riêng mỗi người chúng ta, hãy sám hối ăn năn trở về cùng Chúa để
được hưởng nhờ ơn tha thứ, bởi vì tâm tình sám hối ăn năn chính là một thứ tiền
để mua lấy ơn tha thứ.
16. Niềm vui san sẻ – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Suy niệm của chúng ta về dụ ngôn đồng bạc đánh mất rồi tìm thấy,
bắt đầu từ ý niệm việc tông đồ của người Kitô hữu phải tỏa rộng niềm vui đã tìm
thấy ơn cứu độ.
Người đàn bà nói trong dụ ngôn rất bực vì đánh mất đồng bạc, món
tiền nhỏ nhưng rất quý đối với mình. Moi móc các nơi trong nhà, tìm được rồi,
bà ấy vui mừng phân phô với hàng xóm. Chúng ta chuyển dụ ngôn sang bình diện
đời sống nhân loại. Kitô hữu là một người đau xót vì thiết mất một vật gì, biết
rõ nó là của mình trước đây, mình đã vô ý đánh mất; mơ hồ cảm thấy tất cả con
người mình khao khát tình thân thiết của Thiên Chúa, nhận thức rằng tai họa do
sự tội đã khiến mình đánh mất tình thân thiết quý báu ấy. Nhưng không cam chịu
mất mát, người ấy tìm tòi trong mình và quanh mình, tự hỏi lòng mình, hỏi cả
người xung quanh. Một ngày kia, gặp thấy ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, lại
tìm thấy ý nghĩa cuộc đời, người ấy vui mừng. Của bị mất nay lại tìm thấy, nó
quý vô cùng, đến nỗi không thể vui riêng một mình, người ấy phải san sẻ với
người xung quanh. Người ấy có giống người đàn bà mất tiền không? Có gọi bạn bè
hàng xóm đến chung vui không? Vấn đề ấy không đặt ra ở đây. Vấn đề khác sâu sắc
hơn là niềm vui phải làm rạng ngời vẻ mặt một kẻ được cứu vớt, vui từ thâm tâm
tỏa ra trên nét mặt, lúc nào cũng sẵn sàng chia sẻ niềm vui giữa anh em mình.
Hai câu hỏi đặt ra cho chúng ta:
1) Chúng ta có cảm biết sâu sắc không, thế nào là đánh mất
rồi tìm lại được?
Có thể rằng chúng ta tự tại trong niềm tin, trong sự giữ đạo đầy
đủ, cho nên không hiểu được thấm thía tai họa to lớn xảy đến cho kẻ không có
đời sống siêu nhiên. Người Kitô hữu rất có thể -nói theo ngôn từ Phúc Âm- lâm
vào tình huống mất tiền mà không biết; vì không biết nên không tìm kiếm; không
tìm kiếm nên không tìm được đồng bạc, không có được niềm vui. Chúng ta thử nghĩ
về bi kịch đời sống kẻ đã mất Thiên Chúa; chúng ta hãy vui lên vì đã tìm lại
được tình thân thiết của Thiên Chúa (hoặc nói đúng hơn, vì tình thân thiết của
Thiên Chúa đã tìm lại được chúng ta- đàng nào kết quả cũng vậy).
2) Chúng ta có san sẻ niềm vui với anh em không?
Ở đây đặt ra vấn đề hoạt động tông đồ theo một đường lối nào đó.
Một số đường lối truyền giáo (nhất là một số buổi họp đoàn thể) ít lan tỏa niềm
vui… Niềm phấn khởi, sức năng động của công việc truyền giáo phải bắt nguồn từ
niềm xác tín sâu sắc và kinh nghiệm sống rằng ‘chúng ta đã tìm thấy’. Bình
thường thì phát hiện ấy phải khiến chúng ta vui mừng, niềm vui của chúng ta
phải tỏa rộng. Chúng ta biết rằng niềm vui thu hút, niềm vui đa dạng. Chúng ta
cũng biết, nụ cười tươi của chiến sĩ truyền giáo thu được nhiều thành quả hơn
mọi kỹ thuật hành động.
17. Người cha sẽ làm bất cứ điều gì cho chúng ta
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Khi những người cha người mẹ yêu con cái của mình họ sẵn lòng
làm bất cứ điều gì cho chúng. Tuy nhiên đã xảy ra là những đứa con ít khi nhận
biết tình yêu sâu nặng của cha mẹ dành cho chúng. Cả hai người con trong dụ
ngôn hôm nay của Chúa Giêsu đã không hiểu được tình yêu của cha mình. Cũng
không thể hiểu được sự dâng hiến của ông dành cho chúng, như là những người con
của ông không hề thay đổi, không hề có vấn đề gì. Người cha không thể nào tưởng
tượng có gì đổi khác trong mối liên hệ với những người con của mình.
Đầu tiên, tôi nghĩ về người con thứ, người con mà chúng
ta hay nhắc tới là người con hoang đàng, người con phung phá hết tất cả tài sản
của mình. Khi anh nhận ra sự điên rồ của mình, anh đã sửa soạn một bài diễn văn
nhỏ để nói với cha của mình. Trong những lời anh đã soạn sẵn đó, anh cũng nhận
ra rằng anh không còn xứng đáng để được gọi là con, và anh mong cha coi anh như
một người làm công thôi. Khi anh trở về nhà và nói lên những lời đã soạn sẵn
của mình, nhưng người cha không hề để ý đến điều ấy. Người cha đã ôm choàng lấy
người con, hôn lấy hôn để và gọi gia nhân làm tiệc mừng. Ông ta nhấn mạnh: “Hãy
xỏ giày vào chân cậu”, một dấu hiệu anh trở về với gia đình như một thành phần
của gia đình chứ không phải là một tôi tớ, bởi vì chỉ những phần tử của gia
đình mới mang giày trong nhà. (Một bài hát thiêng liêng cổ đã hát: ‘Tất cả
những con cái của Thiên Chúa đều được mang giày’).
Người con lớn mà chúng ta cũng
không hề có cảm tình. Anh ta không hề rời xa nhà, anh vẫn tiếp tục chu toàn
công việc bổn phận với người cha. Anh đã từ chối vào dự tiệc mừng đứa em của
mình và lý do anh đưa ra để biện minh cho sự từ chối của mình tiết lộ rằng, anh
ta đã quá thất bại trong mối tương quan của anh với cha của mình. Anh ta minh
chứng: “Bao nhiêu năm con đã làm việc hầu hạ cha như nô lệ, mà cha không hề cho
con một con dê nhỏ để con ăn mừng với chúng bạn”. Người ch của anh đã trở thành
một chủ nô, một người chủ keo kiệt bủn xỉn, đứa con đã nghĩ rằng nó như nô lệ,
vì anh ta chỉ trông đợi một phần thưởng, anh ta đã không phục vụ người cha của
mình với tình yêu. Nhưng người cha đã đáp lại: “Con luôn luôn ở với cha, mọi sự
của cha là của con”. Thật sự điều này đã biểu lộ được cảm xúc của người cha,
thật ra ông ta đã đáp lại sự giận dữ của con trai bằng một sự dịu dàng. Ông ta
không hề khuyên nhủ con mình, ông chỉ nhìn con và nói hai từ: “Con ơi”.
Người Cha trong dụ ngôn là một
người đáng để ý. Khi người con thứ quyết định trở về nhà thì ông đã nồng nhiệt
chạy ra tiếp đón nó: “Khi người con cả từ chối vào dự tiệc, người cha cũng chạy
ra nói anh ta và nài xin anh ta vào”.
Điểm đáng chú ý hơn, Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Để bắt đầu
hiểu và nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải nhớ chúng ta là ai. Chúng ta là con
cái của Thiên Chúa, là những con trai, con gái yêu dấu của Người. Thiên Chúa sẽ
không bao giờ thay đổi tình yêu mà Người luôn luôn qua tâm đến chúng ta ngay cả
khi chúng ta từ bỏ Ngài. Không có vấn đề chúng ta điên rồ thế nào trong cách
sống, không có vấn đề chúng ta xa rời tình yêu của Thiên Chúa thế nào. Thiên
Chúa vươn đến chúng ta bằng ân sủng của Người.
Mỗi ngày Chúa Nhật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến nhà của
Ngài, nhà thờ. Thiên Chúa luôn luôn là Cha của chúng ta. Nhà của Người là ngôi
nhà gia đình của chúng ta. Nơi đây Ngài mời gọi chúng ta cử hành nghi thức gia
đình, một bữa ăn thánh thiện mà tại đó Người Con thần linh của Ngài nói với
chúng ta bằng những lời trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể.
Chúng ta được kêu gọi tới bữa ăn này như là một bữa tiệc vui mừng và một biến
cố hạnh phúc của chúng ta, bởi vì chúng ta nhận biết rằng chúng ta đã chết một
lần trong tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu bằng cái chết đã phục hồi cho chúng ta sự
sống. Chúng ta đã trở nên thành phần của gia đình Thiên Chúa, những con cái yêu
dấu của Người và Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi mối quan hệ đó. Thiên
Chúa đã yêu thương chúng ta và Ngài đã trình bày rằng Ngài sẵn sàng làm bất cứ
điều gì cho chúng ta. Chúng ta có thể điên rồ hoặc là quên lãng được Thiên Chúa
là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người sao?
18. Lạc mất - McCarthy
Không chỉ có chiên cừu và các đồng tiền bị đánh mất. Con
người cũng bị lạc mất. Theo tờ The Tablet (Tháng 12-1996) có khoảng 250.000
người ở Anh Quốc bị mất tích mỗi năm. Đủ mọi loại tuổi và thành phần, từ trẻ em
cho đến người đứng tuổi, bởi mọi loại lý do và không lý do nào giống lý do nào,
và họ bỏ đi mất tích. Những người ở lại, gia đình của họ bị nghi kỵ dày vò, tội
lỗi dằn vặt và lo lắng, người ta vừa sống với niềm hy vọng vừa tuyệt vọng,
không thể chấp nhận điều đã xảy ra hoặc đau buồn vì họ đã chết. Đường dây những
người mất tích của quốc gia được thiết lập ở Anh quốc năm 1992 và mở ra 24 giờ
mỗi ngày, 365 ngày mỗi năm. Đây là một trong những hoạt động từ thiện phát
triển nhanh nhất ở nước Anh.
Vấn đề còn to lớn hơn ở Mỹ. Người ta ước chừng 50.000 trẻ
em xuất tích mỗi năm, trong đó có 5000 em tìm thấy đã chết. Tại sao những em ấy
mất tích? Một số em cha hoặc mẹ đã ly dị bắt đem đi. Một số em là bạn thân của
các tội ác bạo hành. Một số bỏ trốn khỏi những gia đình không hạnh phúc.
Kevin là một cậu bé mười tuổi hay cười. Cậu sống với cha mẹ
cậu và hai người chị ở San Francisco. Một ngày kia, cậu rời khỏi trường sau giờ
thực hành bóng rổ. Người ta không còn nhìn thấy cậu nữa.
Phần lớn các quốc gia không có con số chính xác các trẻ em
mất tích mỗi năm. Hầu hết các lực lượng cảnh sát không hành động theo một báo
cáo có một đứa trẻ mất tích ít nhất trong vòng 24 giờ. Ở Mỹ, cảnh sát liên bang
FBI nói rằng nếu họ phải đi tìm mỗi đứa trẻ mất tích, họ sẽ không có thời gian
để làm những việc khác. Nhiều quốc gia có những chương trình hiện đại để lần
theo dấu vết của các xe cộ bị mất cắp và thẻ tín dụng nhưng không có chương
trình nào cho các trẻ em bị mất tích.
Người ta có thể lạc loài bằng nhiều cách. Có người đã nghiện
rượu hoặc ma túy, có người không thể ổn định cuộc sống, có người không thể giữ
được việc làm hoặc hoàn tất chương trình học, có người không thể duy trì một
tương quan rất khó mà tìm thấy họ. Điều làm cho sự việc thêm trầm trọng là
thông thường họ không bỏ đi. Họ biến mất ở giữa chúng ta, họ lạc loài ngay giữa
gia đình mình.
Dĩ nhiên xem ra không ai có thể đến gần họ. Trong những trường
hợp như thế, nhiệm vụ của người mục tử không tìm kiếm họ cho bằng giúp họ tìm
thấy chính mình.
Và dĩ nhiên, người ta lạc loài về tinh thần và tâm linh. Những
người như thế giống như con thuyền không neo hoặc một thủy thủ không có la bàn.
Trong số họ, có những người lạc loài vì lỗi của họ. Nhưng những người khác lạc
loài vì họ không có người hướng dẫn, không có một ai quan tâm tích cực đến
những người sống lạc loài.
Đức Giêsu bày tỏ mối quan tâm của Người đối với các “con chiên
lạc” – những người thu thuế, những người tội lỗi v.v…là những người đã bị các
mục tử chính thức bỏ rơi. Những mục tử chính thức phẫn nộ đối với việc mà một
mục tử xứng đáng với danh xưng ấy phải làm.
Người mục tử không chờ cho con chiên lạc quay về; người ấy đi
tìm nó. Đức Giêsu cũng thế. Người là vị sứ giả mà Chúa Cha sai đến với chúng
ta. Người không chờ cho những người có tội đến tìm Người. Người ra đi tìm họ.
Và khi người tìm thấy họ, Người đưa họ trở về nhà Cha với niềm hoan hỉ.
Hối cải là trở về với Thiên Chúa, và trở về với Thiên Chúa là
trở về nhà mình.
19. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bình thường, cha mẹ có còn yêu thương con cái khi chúng bất
hiếu hay tệ bạc với mình không? Tại sao? Thái độ của Thiên Chúa thế nào?
2. Giữa hai thái độ: tha thứ và kết án, thái độ nào là thái độ
của bậc cha mẹ? thái độ nào có tác dụng làm người tội lỗi trở lại với đường
ngay nẻo chính hơn? Những người lãnh đạo trong Giáo Hội, trong các hội đoàn nên
có thái độ nào?
Suy tư gợi ý:
1. Thiên Chúa là người Cha đầy tình thương, sẵn sàng thông
cảm và tha thứ cho con cái tất cả mọi lỗi lầm
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng một hình ảnh, một câu
chuyện cụ thể để mô tả chân dung của Thiên Chúa, vừa là Cha chung của toàn thể
nhân loại, vừa là Cha của mỗi người chúng ta. Trong chân dung ấy, có hai đặc
tính nổi bật: tình thương vô hạn và sự tha thứ vô điều kiện.
a/ Tình thương vô hạn của Thiên Chúa: Thiên Chúa được Đức Giêsu
mạc khải là một người Cha (chắc hẳn nếu phải nói về Thiên Chúa trong một nền
văn hóa mẫu hệ thì Ngài sẽ mạc khải Thiên Chúa là một người Mẹ). Cha mẹ nào mà
chẳng thương yêu con cái bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là
bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc
chúng đối xử tệ bạc với mình tới đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động
biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế
thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ thành hành
động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ
rệt nhất của tình thương là: (1) sự tha thứ vô điều kiện, và (2) sẵn sàng chấp
nhận đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối
với con người đã được biểu lộ qua cả hai cách ấy nơi con người Đức Kitô: «Đức
Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng
chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta» (Rm 5,7).
b/ Sự tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa: Trong dụ ngôn bài Tin
Mừng hôm nay, người con hoang đàng đã đối xử thật tệ bạc với cha, đã rời bỏ cha
mẹ mình để đi hoang, không còn biết nghĩ đến nỗi cô đơn, thương nhớ và đau khổ
của cha mẹ khi mình bỏ đi, lại còn tiêu tán hết gia sản cha mẹ dành cho mình.
Thế mà khi đứa con bội bạc ấy trở về, thái độ của người cha là: khi «anh ta còn
ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ
anh ta và hôn lấy hôn để» và ngay tức khắc ra lệnh cho «các đầy tớ: “Mau đem áo
đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi
bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!». Ông làm như đứa
con ấy chưa hề phạm một lỗi nhỏ nào đối với mình. Tội lỗi của đứa con hết sức
to lớn nhưng ông làm như không nhìn thấy, chỉ nhìn thấy nó đã trở lại với mình,
như thể nó «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy». Tình thương,
lòng tha thứ và quảng đại chỉ có thể biểu lộ đến thế là cùng.
Chúng ta đã từng nghe nói có biết bao cha mẹ đã đến thăm nuôi
đứa con tệ bạc và bất hiếu với mình hiện đang bị tù đày, bất chấp xa xôi, hiểm
nguy hay trước đó nó đã làm phiền lòng mình tới đâu. Cho dù cha mẹ đó có là
phường xấu xa trộm cướp, cũng vẫn có thể đối xử tốt với đứa con tệ bạc của mình
như vậy. Có thế mới là bậc cha mẹ! Có nghĩ như thế, ta mới thấy được ý nghĩa vô
cùng sâu xa khi Đức Giêsu mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha Mẹ của chúng
ta. Tình thương đầy khiếm khuyết của cha mẹ trần gian còn như thế, huống gì
tình thương hoàn hảo của Thiên Chúa! Ngài đã được thánh Gioan định nghĩa là
Tình Thương (x. 1 Ga 4,7-8), một tình thương vô hạn của bản tính Thiên Chúa,
nên sự tha thứ của Ngài cũng vô hạn. Đây quả là một thông tin hết sức vui mừng
và vô cùng quí báu cho tất cả mọi con người, vốn yếu đuối và đầy lầm lỗi!
2. Hãy tin tưởng vào tình thương và sự tha thứ vô bờ bến
của Thiên Chúa
Động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình? Chắc chắn
không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu
xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là
thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với «thân tàn ma dại», cha nó cũng biết
nó về vì động lực gì. Nhưng đối với ông, điều ấy không quan trọng. Điều quan
trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay
lại tìm thấy». Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về
hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi
của nó.
Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người con
tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Thiên Chúa và nói lên lời hối
hận: «Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con
cha nữa...», thì lập tức trước mặt Thiên Chúa, họ trở thành người vô tội, trở
thành con cái trong nhà, được yêu thương, bảo vệ, được hưởng mọi quyền lợi của
một người con y như trước. Vì thế, dù ta có phạm một tội tầy đình, nếu ta biết
trở về với Chúa, Ngài sẽ tha thứ tất cả, và coi ta như con cái hiếu thảo trong
nhà.
Mẹ Giáo Hội của chúng ta đã từng có những hành vi như thế. Chẳng
hạn, Âu-Tinh, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa
con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin Mừng. Thế mà khi trở về
với Giáo Hội, Giáo Hội đã mở rộng vòng tay đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn
toàn khi Giáo Hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã
phong chức giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảng đại ấy của Giáo Hội,
Âu-Tinh đã trở nên một vị thánh. Giáo Hội xưa là như thế, Giáo Hội ngày nay thì
sao? Thiết tưởng Giáo Hội không nên quá chú trọng đến vấn đề lý lịch hay quá
khứ của những người muốn trở về với Thiên Chúa và với Giáo Hội. Chúng ta không
nên lấy cớ khôn ngoan để hành xử giống như những thế lực trần gian. Đức Giêsu
đã trao cho Giáo Hội quyền tha và buộc (x. Mt 16,19; 18,18), thiết tưởng Giáo
Hội nên tha nhiều hơn là buộc, nên có thái độ của bậc cha mẹ yêu thương con cái
hơn là thái độ của các quan tòa. Các bậc làm cha mẹ cũng cần có thái độ quảng
đại như thế đối với những đứa con hư hỏng. Đọc Tin Mừng, tôi chỉ thấy Đức Giêsu
kết án có một loại người duy nhất là bọn kinh sư và biệt phái giả hình hoặc các
tiên tri giả mà thôi!
Người con hoang đàng sẽ không dám quay trở về khi đoán rằng cha
mẹ mình sẽ không tha thứ, sẽ ruồng rẫy nó khi nó trở về. Nếu biết như thế thì
trở về làm gì? Vì thế, nếu cha mẹ vẫn luôn luôn tỏ thái độ yêu thương chăm sóc
khi chúng bất hiếu và tệ bạc với mình, thì sẽ khiến chúng trở về với đường ngay
nẻo chính hơn là thái độ bỏ rơi, ruồng rẫy chúng. Thái độ kết án, ruồng rẫy chỉ
làm cho con cái xa lìa và chống lại cha mẹ mà thôi. Lịch sử Giáo Hội cũng như
chuyện đời thường chứng minh điều ấy.
Dụ ngôn người cha và đứa con hoang đàng của Đức Giêsu là một bài
học cho nhiều loại người: không chỉ cho những người tội lỗi cần quay trở về, mà
còn đề nghị với các bậc làm cha mẹ và với cả những người tốt lành ở trong Giáo
Hội cách đối xử với những người con hay anh em đang sống trong lầm lạc tội lỗi.
Không nên có thái độ như người anh kém quảng đại trong bài Tin Mừng chỉ biết
ganh tị với em, mà không hề tỏ một tâm tình yêu thương gì với cha và với em cả.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đã cho con thấy khuôn mặt đầy tình thương và
giàu lòng tha thứ của Cha qua dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng.
Xin cho con luôn ý thức tình yêu thương ấy của Cha để sẵn sàng quay trở về với
Cha ngay khi lầm lỗi, đồng thời cũng luôn luôn bắt chước Cha trong việc quảng
đại tha thứ vô điều kiện cho con cái, cũng như cho tất cả mọi người có lỗi đối
với con. Amen.
20. Một người cha có hai con trai – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Tin Mừng không phải là một đồng bằng, nhưng có những đỉnh cao.
Chúng ta đang đứng trước một trong những đỉnh cao nhất: Luca 15,11-32. Người ta
nói rằng đây là dụ ngôn đứa con hoang đàng, nhưng Chúa Giêsu làm nổi bật ba
nhân vật: một người cha và hai đứa con trai. Đối với người con thứ, những cuộc
phiêu lưu của cậu ta có hề chi, có biết bao cách để phung phí món quà cuộc đời
khi đi sống xa cha mình. Điều phải khám phá chính là Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu.
Tất cả các nhà chú giải và tất cả các nhà linh hướng đều nói điều đó. Chúa
Giêsu đã mặc khải Thiên Chúa chính trong trang Tin Mừng này.
“Khi cậu còn ở xa, cha cậu đã trông thấy cậu”.
Người cha đang chờ đợi. Ông không tự hỏi người con thứ của mình nói gì hoặc làm
gì, ông chỉ nghĩ: “Nếu con ta xuất hiện nhỉ!”. Ngay khi ông thấy cậu, ông ôm
cậu vào lòng, hết sức thương hại và yêu mến. Ông chạy lại (không cần phải làm
đến như thế đâu!), ông hôn cậu tới tấp (nói cha tha thứ cho con không tốt hơn
sao!), ông không lắng nghe những lời xin lỗi, ông quá vội vàng khi làm bùng lên
niềm vui và ngày lễ hội. Nhanh lên, hãy đưa áo quần lại đây! Nhanh lên, hãy làm
thịt bê béo! Con ta đã mất nay lại tìm thấy.
Đây chính là mặc khải đáng ngạc nhiên mà Chúa Giêsu muốn cho
chúng ta biết: chúng ta được yêu thương biết bao! Nhưng dại dột và thậm chí
những tội ác của chúng ta là gì trước nhiệt tình này: “Cậu ấy lại được tìm
thấy”. Nếu chúng ta dám tin điều ấy thì quan hệ tình yêu giữa chúng ta với Chúa
Cha kỳ lạ biết mấy! Tại sao khó mà thấy được Thiên Chúa yêu thương đến thế? Có
phải vì sự khó khăn này mà Chúa Giêsu giới thiệu người con cả với chúng ta
nhiều lần đến thế? Ngài có thể đã nghĩ đến dụ ngôn này sau khi nghe những lời
đả kích của những người công chính trước thái độ của Ngài: “Người này
tiếp đón những kẻ tội lỗi, thậm chí ngồi cùng bàn ăn với họ!”. Đúng y
như lời lẩm bẩm của người con cả! Thay vì vui mừng, anh ta phản đối, anh ta bị
ảnh hưởng xấu. Thật là đứa em làm bực mình.
Than ôi, biết bao lần chúng ta cũng bị dồn vào thế bí, cũng đóng
kín đối với tình yêu. Chúng ta phán xét thay vì mở rộng vòng tay. Nhưng tôi
thấy rõ sự khó khăn: nếu chúng ta chấp nhận tất cả, thì đạo đức dùng để làm gì?
Và Thiên Chúa là ai nếu Ngài chấp nhận tất cả?
Chúng ta đã được đào tạo ghê sợ tội lỗi, lên án sự vô trật tự,
chúng ta không thể trở nên vừa lòng một cách đáng ngờ! Chính Thiên Chúa là Đấng
chúng ta bảo vệ bằng cách bảo vệ luật lệ của Ngài và bằng cách tỏ ra cứng rắn!
Như thế thì làm thế nào mà mở rộng vòng tay được? Làm thế nào
bắt chước người cha trong dụ ngôn theo cách hoàn toàn điên rồ của ông, đó là
tiếp đón đứa con lưu manh trở về vì đói được?
Nhưng cậu ấy trở về! Hành động của người cha trước tiên là tình
yêu thương, chứ không phải trước tiên là những câu hỏi về những thái độ công
chính. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét việc sống trong nề nếp như thế nào. Điều cấp
bách nhất chính là yêu thương.
Chúng ta, những người công chính, muốn là những người công
chính, chúng ta trước hết nghĩ đến việc xét đoán, lưu ý những điều cần thiết,
giới hạn điều xấu xa, xem điều gì có thể chấp nhận được. Khi tất cả đều khá rõ
ràng, được sửa chữa tốt, chúng ta mới có thể yêu thương.
Như thế là hỏng hết 90% rồi. Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó
trong khi quan sát những cố gắng thực sự của những người công chính vào thời
của Ngài, tức những người biệt phái và những luật sĩ: khởi đi từ sự công chính,
họ không đi đến được tình yêu. Họ cố gắng yêu thương, nhưng họ vẫn ở trong
những giới hạn chật hẹp và tất nhiên đặt Thiên Chúa trong cũng những giới hạn
đó: “Dầu sao thì Ngài cũng không thể yêu thương những kẻ tội lỗi!”, họ nghĩ như
thế. Chúng ta, bởi vì Chúa Giêsu đã nói điều ấy, nói chung chúng ta chấp nhận
rằng Thiên Chúa yêu thương những kẻ tội lỗi, điều này thậm chí lại tốt cho
chúng ta hoặc người này người nọ, nhưng không phải cho người kia đâu!, xem nào!
Người kia, “những người kia”, Thiên Chúa không thể yêu thương họ được.
Có chứ! Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng không có ai bị loại bỏ,
rằng Thiên Chúa đúng là người cha trong dụ ngôn của Ngài. Và chúng ta là những
người con của Ngài khi chúng ta trước hết là đặt mình vào trong tình yêu
thương.
Chúng ta không nên chấp nhận tất cả, chúng ta phải chiến đấu
chống lại tội lỗi và chiến đấu vì sự công chính. Nhưng làm những điều đó trong
tình yêu. Tất cả đều nằm ở đó. Chính trong khi yêu thương chúng ta Thiên Chúa
đưa chúng ta ra khỏi tội lỗi, chính Thiên Chúa chiến đấu tội lỗi nơi chúng ta,
không phải bằng cách đè bẹp hoặc loại bỏ chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta quay lại để đạt được suy tư Tin Mừng
trong sáng duy nhất này: luôn luôn đặt mình trong tình yêu. Khi
tôi tự phán xét tôi, hãy nghĩ rằng Chúa Cha yêu thương tôi. Khi tôi phải phán
xét những người khác, trước tiên hãy nghĩ đến việc yêu thương họ như Thiên Chúa
yêu thương họ. Đó là vị Thiên Chúa thật được Chúa Giêsu mặc khải.
Trong ánh sáng tình yêu này tất cả đều có thể trở về lại sự
sống: “Con trai tôi đã chết mà nay vẫn còn sống! Em con đã chết mà nay vẫn còn
sống!”.
21. Nhân lành
Một văn sĩ nọ đã kể lại câu chuyện ngắn về cậu bé David
trong câu chuyện có tựa đề là: “Người Con Của Ai Đó” như sau:
David đã bỏ nhà ra đi, nó viết thư về cho mẹ như sau: Thưa
Mẹ, vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà, con sợ cha lắm, nếu cha tha thứ cho
con thì mẹ hãy xin cha cột một dây vải trắng nơi cây xoài trước nhà, nhìn thấy
dấu hiệu này con biết là cha đã tha thứ và con sẽ về lại.
Vài ngày sau, David lấy vé xe lửa về quê. Đường xe lửa đi
ngang qua trước nhà, cậu nghĩ, nếu cậu thấy được sợi dây vải trắng cột trên cây
xoài thì cậu sẽ xuống trạm xe kế bên và đi về nhà, nếu không thì sẽ đi luôn
sang nơi khác.
Cậu David rất hồi hộp khi xe gần đến nhà, sợ mình có thể
nhìn lầm hay không kịp nhìn, cậu nhờ một người bên cạnh cùng nhìn phụ. Xe chạy
ngay qua địa điểm, không những là cậu mà cả người bạn cũng nhìn thấy, người bạn
hỏi cậu:
- Tại sao cây xoài nhà đó lại đầy những tấm vải trắng treo
trên khắp các cành cây như vậy?
David mỉm cười không trả lời, cậu chỉ giữ lấy ý nghĩa của
dấu hiệu đó cho riêng mình mà thôi và hân hoan xuống trạm xe kế tiếp.
Câu chuyện vui trên giúp chúng ta hiểu thêm sứ điệp Phúc âm mà
Chúa gởi đến chúng ta hôm nay. Như cậu David, chúng ta mang nặng ý thức về
những lỗi lầm của mình và nghi ngờ tình thương tha thứ của Thiên Chúa. David
cần được củng cố vì tình thương của cha sẵn sàng tha thứ. Chúng ta cũng vậy,
Thiên Chúa đã thực hiện nhiều dấu chỉ trong cuộc đời để chỉ cho chúng ta thấy
tình thương của Ngài, và dấu chỉ quan trọng nhất hằng ngày chúng ta thấy, đó là
thập giá Chúa Giêsu Kitô, dấu chỉ đó cho chúng ta thấy tình thương tha thứ của
Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta.
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ ngôn về lòng thương xót của
Thiên Chúa: dụ ngôn con chiên bị mất; dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, nhất là dụ
ngôn người cha nhân hậu.
Qua bài Phúc âm, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta dụ ngôn về tình
thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi. Thái độ của người chăn
chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một đồng tiền và của người
cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thái độ yêu thương tha thứ đó vượt quá mức độ
bình thường con người có thể tưởng tượng được và phản chiếu thái độ của Thiên
Chúa đối với con người.
Theo lệ thường, nếu chúng ta có một trăm con chiên mà lỡ bị mất
một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc cho đến khi gặp được mới
thôi hay không? Chắc chắn là không, vì số chín mươi chín con còn lại không đáng
giá hơn một con bị lạc mất hay sao? Quan niệm của con người chúng ta thường hay
căn cứ vào số lượng, và có thể chúng ta cho rằng hành động của người chăn chiên
là một hành động khác thường, nếu không muốn nói là điên khùng theo mức độ con
người. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không điên khùng, vì Ngài không đặt tương
quan của Ngài trên căn bản con số, chất lượng nhiều hay ít, nhiều người hay ít
người, nhưng trên căn bản tương quan giữa Ngài với từng cá nhân. Mỗi con chiên,
mỗi người đều có giá trị duy nhất đối với Ngài, và do đó nếu bị lạc mất thì
nhất quyết phải tìm cho được mới thôi. Rồi hành động của người đàn bà cũng thế,
theo thường tình thì mất một đồng cũng không sao, vì còn cả chín đồng kia mà.
Nhưng để diễn tả mức độ của Thiên Chúa thì một đồng bị mất kia là hết sức quan
trọng, phải tìm cho được mới thôi.
Người cha của đứa con đi hoang, theo thường tình thì bỏ mặc kệ
nó, nhưng để diễn tả thái độ của Thiên Chúa đối với con người thì người cha kia
hằng ngày đứng trông con mình trở về, và đã nhìn thấy con mình trở về trước khi
nó nhìn thấy ông. Người cha tha thứ cho đứa con ngay cả trước khi nó mở miệng
xin tha, rồi làm tiệc ăn mừng.
Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và mỗi người, Ngài muốn tận
dụng mọi phương thế có thể để ban ơn cứu rỗi cho con người. Vì Ngài yêu thương
con người, yêu thương từng người một cách vô cùng, nhưng con người có chấp nhận
ân sủng và tình thương của Ngài hay không?
Trong bài dụ ngôn về người cha của đứa con hoang đàng, chúng ta
còn quan sát thái độ giữa hai anh em ganh tị với nhau. Người anh cả ở nhà với
cha, thay vì thông cảm và mừng với em mình trở về thì anh lại tỏ ra ganh tị.
Mặt khác, như trong Cựu ước, chúng ta thấy Môisen cầu nguyện
cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội đến Ngài, Môisen đã không xin
Chúa hủy diệt dân mình, nhưng hãy tha thứ cho dân mình. Cũng thế, chúng ta đừng
bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn, đừng ganh tị với anh chị em
được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái độ của Môisen cầu nguyện
cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em và cho cả chính mình nữa.
Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi người chúng ta đều là những kẻ
tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau để trở lại cùng Chúa và trung
thành với đức tin. Nguyện xin Chúa thương tha thứ các tội lỗi và nâng đỡ thành
tâm thiện chí mỗi người chúng ta, giúp mỗi người chúng ta biết trở về cùng
Chúa, sống xứng đáng là con cái Cha trên trời.
22. Thương người
Đề cập đến Tin Mừng nghiêm chỉnh một chút, chúng ta sẽ nhận thấy
rõ điều này: những kẻ cầm quyền đương thời trong đạo Do thái, những người
Pharisêu, những người tự cho mình là công chính… đã khinh thường và tẩy chay Chúa
Giêsu. Trái lại, những người tội lỗi, những kẻ thu thuế… đã trân trọng và nhận biết Ngài. Thử
hỏi: Nếu Chúa Giêsu trở lại giữa chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ thuộc hạng người
nào? Thuộc hạng người “công chính” không cần đến Ngài hay thuộc hạng người tội
lỗi, đối tượng Ngài quan tâm khi đến thế gian? Bài Tin Mừng nêu lên vấn đề ấy.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu yêu thích “những gì đã lạc mất” một cách hết sức ngỡ
ngàng. Ngài đến “tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất”. Những lời nói này
giúp chúng ta đi sâu vào tâm khảm của Chúa. Những lời nói đó đã làm rung lên
một cung nhịp chính yếu của Kitô giáo: cung nhịp của tình thương.
Bài Tin Mừng thánh Luca kể lại một loạt ba dụ ngôn cùng diễn tả
về một chủ đề duy nhất. Dụ ngôn thứ nhất nói về sự lo âu tìm kiếm và mừng rỡ
của người chăn chiên khi tìm lại được con chiên lạc trong số 100 con chiên. Dụ
ngôn thứ hai tương tự như vậy, nói về sự cố công tìm kiếm và vui mừng của người
đàn bà khi tìm lại được đồng bạc rơi trong số 10 đồng. Dụ ngôn thứ ba nói về
tình phụ tử hay thường gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nói
lên tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Cả ba đều cho biết Thiên Chúa vui mừng
biết bao khi một tội nhân ăn năn hối cải. Dụ ngôn con chiên lạc cho thấy: khi
người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc, đã vác nó lên vai, vui sướng trở về
nhà, kêu gọi láng giềng lại và nói với họ: “Các bạn hãy vui mừng với tôi vì tôi
đã tìm được một con chiên đã lạc mất”. Rồi Chúa kết luận: “Tôi bảo thật các
ông: trên trời sẽ vui mừng vì người tội lỗi hối cải hơn 99 người công chính
không cần hối cải”. Cùng một cung giọng, trong dụ ngôn đồng tiền mất, chúng ta
thấy những câu kết còn rõ ràng và vui vẻ tưng bừng hơn: “Tôi nói thật với các
ông: các thiên thần của Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn thống hối”.
Rồi trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, cung giọng càng cảm kích hơn nữa về tình
phụ tử của Chúa đối với người tội lỗi thống hối ăn năn trở về với Chúa: khi đứa
con còn ở xa, người cha đã nhận ra nó, và ông thổn thức trong lòng, chạy lại ôm
cổ con mà hôn.
Qua ba dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai điều: Thứ
nhất, sứ mạng tình thương của Ngài. Thứ hai, bổn phận và thái độ của chúng ta.
Trước hết, chúng ta đều biết: Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian để cứu vớt
những kẻ tội lỗi. Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi thống hối ăn năn, và
để tìm kiếm, cứu vớt những gì đã lạc mất. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi
cho Timôthêô cũng khẳng định: “Chúa Kitô đến thế gian để cứu vớt những kẻ tội
lỗi”. Đó là động lực cần có để kéo Ngài xuống thế gian. Về điểm này, giáo huấn
của mạc khải thật đồng nhất. Không có một đoạn văn nào, không có một chỗ nào
quả quyết rằng: không có kẻ tội lỗi, Ngài cũng vẫn xuống thế gian.
Quả thực, Chúa Giêsu đã đến vì tội nhân. Đó chính là ánh sáng
trong đó mạc khải bày tỏ Chúa Giêsu cho chúng ta và chúng ta phải luôn luôn
ngắm nhìn Ngài trong ánh sáng này. Nói khác đi, vì yêu thương loài người tội
lỗi mà Chúa Giêsu đã bỏ trời xuống thế gian. Chính tên “Giêsu” của Ngài, nghĩa
là “Cứu Thế” cũng đã gắn liền với kẻ có tội. Cứu ai? Người lành đâu cần cứu, mà
cứu là phải cứu người có tội. Do đó, đối với chúng ta, tình thương đã hiển hiện
như một nét nổi bật của Chúa. Tình thương của Chúa không phải là một tình cảm
mờ nhạt, mong manh mà là cả một tâm hồn say mê nóng bỏng. Lòng say mê đó là
tình yêu đã đến cảm mến cảnh cùng khổ của chúng ta và để nâng cảnh cùng khổ đó
lên. Tình thương của một Thiên Chúa làm người khôn lường và da diết. Tình
thương đó không phải là một đức tính phụ thuộc nơi bản thân Người, nhưng là một
nét chính yếu, đặc biệt: chính vì đó mà Ngài đã đến. Tội lỗi của chúng ta nếu
được đưa vào ngọn lửa nóng bỏng yêu thương này sẽ bị thiêu hủy ngay.
Vậy nếu chúng ta có xa cách Ngài thì không phải vì chúng ta khốn
cùng mà chính vì chúng ta đã không dâng lên cho Ngài sự khốn cùng đó. Chúng ta
đã chẳng dâng lên cho Ngài sự khốn cùng hoặc vì chúng ta còn quá ham cái cái
cảnh cùng khốn, hoặc vì chúng ta nghĩ rằng tình thương xót của Ngài quá nhỏ bé
so với tội lỗi tầy trời của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta thực sự dâng lên cho Ngài
sự khốn cùng đó, thì Ngài đã vồ lấy con người tội lỗi chúng ta mau lẹ hơn cả
chim phượng hoàng vồ lấy con mồi. Khi ấy, dầu tội lỗi của chúng ta có thắm đỏ
bao nhiêu, Ngài cũng sẽ biến nó trắng tinh như tuyết.
Chúng ta nghĩ sao đây? Chúng ta sẽ được liệt vào hạng người
Pharisêu, kinh sư hay vào hạng những người tội lỗi, những người thu thuế? Chúng
ta tự nhận mình là người công chính hay người tội lỗi? Chắc chắn không ai dám
cho mình là trong sạch, vô tội trước mặt Chúa, bởi vì từ ngày có trí khôn cho
đến nay, biết bao nhiêu lần chúng ta đã không giữ trọn 10 điều răn của Chúa.
Bao nhiêu lần chúng ta đã chịu thua cám dỗ và sa ngã. Bao nhiêu lần lời ăn
tiếng nói của chúng ta là những lời hành tỏi, xét đoán, gièm pha, kết án hay là
những lời hư từ vô ích. Bao nhiêu lần chúng ta đã ghen ghét, oán thù, tranh
chấp… Có lẽ chúng ta không chịu bới đống rác tội lỗi của chúng ta ra thôi, chứ
thiếu gì những lý do để chúng ta phải ăn năn thống hối. Chúng ta phải thành
thật nhận mình là tội nhân đáng hình phạt như người trộm lành; chúng ta là đứa
con hoang đàng trở về, là Mađalêna thống hối, là Phaolô bị quật ngã, là Âu Tinh
cần đổi mới. Kinh Kính mừng, Thương xót, An năn tội, Chiên Thiên Chúa… dạy cho
chúng ta biết chúng ta chỉ là tội nhân, là kẻ bại trận, chỉ trông hòng vào lòng
Chúa thương xót mà thôi.
Mong sao tự thâm tâm chúng ta luôn vọng lên lời tự thú của người
thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: “Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi”. Và rồi chúng ta
cũng hãy trào ra những giọt lệ sung sướng như Tin Mừng đã kể. Không cần phải có
những giọt lệ trào ra từ khóe mắt, nhưng là những dòng lệ âm thầm chảy tự trong
lòng. Những bước chân trở về và hoán cải thường gọi là niềm ân hận, âm thầm đau
đớn về những lầm lỡ đã qua, đó là con tim tan vỡ, hay nói giản dị hơn, là lòng
ăn năn hối cải. Tấm lòng ăn năn đó đôi khi được bộc lộ bằng những dòng lệ chảy
ra từ khóe mắt, đó là những dòng lệ thấy được từ bên ngoài, nhưng quí hóa hơn,
âm thầm sâu kín hơn vẫn là những dòng lệ đau đớn của con tim. Ước mong đó là
những dòng lệ của chúng ta. Lạy Chúa, xin đừng chê bỏ con, xin nhận lấy tấm
lòng con: tấm lòng tan nát khiêm cung.
23. Nhân hậu
Có một bài hát chúng ta hay hát trong lễ cầu hồn mà tôi rất
thích: “Chúa là Đấng Từ Bi và Nhân Hậu, Người đại lượng và chan chứa tình
thương”. Vâng, tình thương nhân hậu ấy của Thiên Chúa từ ngàn xưa đến nay
vẫn luôn tuôn đổ trên muôn loài Chúa tác thành: trên muôn vật, muôn dân, muôn
người, và đặc biệt trong Phúc âm hôm nay, tình thương ấy còn được tuôn đổ trên
tội nhân khiến “Người không xử với họ như họ đáng tội, và không trả cho họ theo
lỗi của họ”.
Vâng, trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ được chiêm
ngưỡng cách rõ nét và cụ thể lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa, để rồi từ đó ta
được mời gọi sống noi gương Ngài, cư xử nhân ái với anh chị em xung quanh.
Trước hết, điều đáng chú ý trong các bài đọc Lời Chúa hôm nay
là: có một sự tiến triển trong việc mạc khải khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa.
Nói cách khác, từ bài đọc I đến bài Phúc âm, lòng nhân hậu của Thiên Chúa được
khắc họa ngày càng rõ nét hơn.
Thật vậy, nếu như ở bài đọc I, tác giả sách Xuất Hành diễn tả
cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trước tội “thờ bò vàng” của dân Israel, và phải nhờ
lời cầu khẩn của Môsê, cơn thịnh nộ ấy mới nguôi dần, cho thấy khuôn mặt nhân
hậu của Thiên Chúa mới chỉ được phác họa cách mờ nhạt, thì đến bài đọc II,
thánh Phaolô đã diễn tả khuôn mặt ấy ở một chiều kích khác, cụ thể hơn, gần gũi
hơn: Chúa nhân hậu không chỉ cách chung chung với một dân, một nhóm người, mà
Ngài còn nhân hậu với từng người một, như kinh nghiệm chính thánh Phaolô đã
thuật lại khi xác tín: “Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu chuộc những người tội
lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. Với câu nói này, khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa
đã được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến để cứu độ con người.
Tuy nhiên, hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu chỉ thực sự được xuất
hiện cách rõ nét trong bài Phúc âm qua chính hình ảnh của Chúa Giêsu và ba dụ
ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu của Thiên Chúa mà chỉ Phúc âm thánh Luca, một
Phúc âm được mệnh danh là “Phúc âm của lòng nhân hậu Chúa” mới ghi lại, đó là
các dụ ngôn: “Con chiên lạc”, “đồng bạc mất” và “người cha nhân hậu”.
Đi vào bối cảnh của ba dụ ngôn ta sẽ thấy được chủ ý của Chúa
Giêsu khi đưa ra ba dụ ngôn này. Người Biệt phái thấy Đức Giêsu đón tiếp người
tội lỗi thì khó chịu và phiền trách Chúa: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và
ăn uống với chúng”. Trước thái độ ấy, Chúa Giêsu đã cho họ một bài học. Với
giáo huấn của Chúa Giêsu, Thiên Chúa không còn là một Thiên Chúa xa xôi, hay
giận dữ như trong Cựu ước quan niệm nữa, nhưng là một Thiên Chúa rất gần gũi và
giàu lòng nhân hậu đối với những kẻ lỗi lầm.
Lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa được diễn tả qua hai hành động
cụ thể: Đi bước trước đến với tội nhân và hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội
nhân.
Đi bước trước đến với người tội lỗi: các dụ ngôn hôm nay đều
diễn tả điều này. Hình ảnh người chăn chiên không chờ phải nghe tiếng con chiên
lạc kêu cứu mới đi tìm, mà ngay khi phát hiện nó đi lạc, ông đã vội vã đi tìm
ngay; hay người cha nhân hậu chạy ào ra đón con khi thấy nó từ đàng xa, mà
không chờ một lời xin lỗi đã nói lên điều đó. Cũng thế, Thiên Chúa luôn yêu
thương và đi bước trước đến với con người. Ngay khi ta còn là tội nhân, Thiên
Chúa đã sai Con Một đến cứu độ chúng ta. Chính Chúa Giêsu, trong cuộc đời tại
thế cũng vậy, Ngài từng đi bước trước đến với người tội lỗi để cứu chữa họ,
nâng họ dậy. Những cuộc gặp gỡ giữa Ngài và Mađalêna, người phụ nữ bên giếng
Giacop, Giakêu… đã cho thấy điều này. Cảm nghiệm được tình thương ấy của Thiên
Chúa, thánh Gioan đã thốt lên: “Chúa thương ta ngay từ khi ta còn là kẻ có
tội”.
Hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân: dấu chỉ của sự tha
thứ ấy là: phục hồi nguyên trạng cho họ. Hình ảnh người cha sai gia nhân mang
áo, nhẫn, giày mới… cho người con trở về đã nói lên điều đó. Anh ta đã được tha
thứ mọi lỗi lầm và được lại địa vị làm con trong gia đình. Chúa Giêsu cũng từng
phục hồi phẩm giá cho tội nhân khi tha thứ mọi lỗi lầm cho họ: cho Phêrô, cho
người phụ nữ ngoại tình, người trộm lành… và nhất là cái chết của Ngài đã phục
hồi địa vị làm con cho toàn nhân loại tội lỗi.
Chúng ta cũng cảm nhận được điều này khi lãnh nhận Bí tích Giải
tội: được lại những công phúc ta lập đã bị mất đi do tội lỗi gây nên, và nhất
là được lại địa vị làm con Thiên Chúa.
Tóm lại, qua giáo huấn và chính cuộc đời Chúa Giêsu, ta nhận ra
một Thiên Chúa nhân hậu với những hành động thật cụ thể. Tuy nhiên, không dừng
ở lại đó, Ngài còn mời gọi ta hãy noi gương Ngài, cư xử nhân hậu với tha nhân.
Với lời mời gọi: “Hãy chung vui với tôi” và “chúng ta phải vui
mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Chúa đang mời
gọi chúng ta hãy noi gương Ngài cư xử nhân hậu với tha nhân, những anh chị em
của mình, đặc biệt là những người bị coi là tội lỗi.
Tuy nhiên, với bản tính con người ta thấy, thực hiện điều này
không phải là dễ: làm sao tôi có thể đi bước trước để đến với kẻ xúc phạm tôi?
Làm sao tôi có thể tha thứ cho kẻ đã cướp bóc, chà đạp nhân phẩm tôi …? Vậy thì
công bằng ở đâu? Vâng, đó cũng là suy nghĩ của người Biệt phái và người anh cả
hôm nay, thế nên họ không thể tha thứ lỗi lầm cho người khác. Với lẽ tự nhiên
của con người thì không thể được, nhưng thử nhìn lại cuộc đời mình xem: biết
bao lần nếu Chúa cư xử công bằng với ta như ta đáng tội, thì liệu ta có còn tồn
tại như ngày hôm nay không? Thế nên, trong cuộc sống không chỉ có công bằng mà
còn có bác ái, có lòng nhân hậu nữa, nhất là đối với những người con cái Chúa.
Như vậy, lời mời gọi sống nhân hậu của Chúa hôm nay vẫn là lời mời gọi chúng
ta. Dù biết rằng khó, ta vẫn phải cố gắng thực hiện, lý do vì:
Mỗi người đều là tội nhân, đều từng được Chúa cư xử nhân hậu,
nên phải nhân hậu với nhau. Đừng để lời quở trách trên con nợ bất lương xưa kia
giờ lại xuống trên ta: “Sao ngươi không cư xử với anh em ngươi như Ta đã cư xử
với ngươi!”. Hơn nữa, “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, nếu Chúa
là Đấng Nhân hậu thì tại sao là con, ta không sống nhân hậu như Thiên Chúa là
Cha của mình?
Tóm lại, lời Chúa hôm nay trình bày cho ta hình ảnh một Thiên
Chúa từ bi nhân hậu, qua đó mời gọi chúng ta noi gương Ngài trong cư xử với tha
nhân. Để kết luận, xin đưa một vài thực hành cụ thể qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm
nay như sau:
* Đối với Chúa: Ta hãy luôn sống trong tâm tình cảm tạ, vì Chúa
đã đối xử nhân hậu với ta, bằng cách tránh xa tội lỗi; đồng thời, mỗi khi lỡ
phạm tội, hãy tin tưởng vào lòng Chúa xót thương mà chạy đến với Ngài trong Bí
tích Giải tội.
* Đối với tha nhân: Ta hãy noi gương Chúa, luôn thông cảm với
những lỗi lầm của anh em, và tha thứ khi anh em xúc phạm đến mình, không mang
tật xấu của họ ra bàn tán…
Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn giúp sức để chúng ta biết sống
noi gương Ngài, Đấng Từ Bi Nhân hậu, hầu xứng danh là con của Cha trên trời.
24. Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long
BA DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh
bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội
lỗi gây nên?
1.- Ngữ cảnh
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo
nhất của Tin Mừng Luca (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cuộc
hành trình này, có đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu.
Sau khi đã giáo huấn đám đông về những điều kiện để làm môn đệ
Ngươi (14,25-35), bây giờ Đức Giêsu dùng một số dụ ngôn mà ngỏ lời với các
người Pharisêu và các kinh sư, vì họ đã lẩm bẩm trách móc Ngươi khi Ngươi tiếp
đón những người thu thuế và tội lỗi, và cùng ăn uống với những người ấy.
Ba dụ ngôn của chương 15 (con chiên bị lạc mất [cc. 4-7], đồng
bạc bị đánh mất [cc. 8-10], người con hư mất [cc. 11-32]) đã được gọi là “trái
tim của Tin Mừng III” (Romaroson), vì được kết cấu rất nghệ thuật để nêu bật
được đề tài duy nhất là tình yêu của Thiên Chúa và lòng thương xót đối với
những kẻ tội lỗi qua lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải.
Hai dụ ngôn đầu nói về việc tìm được cái đã mất, dụ ngôn thứ ba
cũng triển khai cùng một đề tài, nhưng như một tổng hợp với những hình ảnh được
vận dụng rất tài tình. Trước đây dụ ngôn này vẫn được gọi là “Dụ ngôn đứa con
hoang đàng”, nhưng gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì
dung mạo trung tâm của truyện chính là người cha. Hoặc để tương ứng với hai đầu
đề của hai dụ ngôn trước, thì có thể gọi là “Dụ ngôn người con hư mất”, nhưng
nhớ rằng nhân vật chính là người cha, cũng như trong hai dụ ngôn trước, nhân
vật chính là người mục tử và người phụ nữ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1)
Một dẫn nhập (15,1-3);
2)
Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (15,4-32):
a)
Dụ ngôn Con chiên bị lạc mất và được tìm thấy (cc. 4-7);
b)
Dụ ngôn Đồng bạc bị đánh mất và được tìm thấy (cc. 8-10);
c)
Dụ ngôn Người con hư mất và được tìm thấy (cc. 11-32).
3.- Vài điểm chú giải
- Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi (1):
Đây là những người ở bên lề xã hội Do Thái, những kẻ vô đạo, sống vô luân. Họ
đến nghe Đức Giêsu như đã từng đến nghe Gioan Tẩy Giả (3,12-13). Tác giả Luca
đã nói quá khi dùng từ ngữ “tất cả”,
nhưng mục đích là cho thấy chiều hướng căn bản của sứ điệp và cách xử sự của
Đức Giêsu: Người đến để tìm và cứu những gì đã mất, nghĩa là tất cả.
- lẩm bẩm (2): Cũng như ở 5,30
và sau này ở 19,7, thì vị hồn (imperfect) cho hiểu đây là thái độ thường xuyên
của người Pharisêu và các kinh sư.
- ông này (2): Đại từ chỉ định
houtos có nghĩa xấu: “tên này”.
- Người nào trong các ông có một trăm con chiên
(4): Đây là một mục tử vô danh, được dùng như biểu tượng của Thiên Chúa giàu
lòng từ bi thương xót (xem Cựu Ước: Tv 23,1-3; Ed 34,11-16).
- hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải
sám hối ăn năn (7): Nếu chín mươi chín người này là
các kinh sư và người Pharisêu, thì câu kết này có giọng mỉa mai. Nhưng rất có
thể đây chỉ là cách tác giả Lc phóng đại niềm vui của Thiên Chúa khi có một
người tội lỗi hối cải.
- mười đồng bạc (10): Đồng drachmê là
đồng bạc cổ. Chúng ta khó biết giá trị chính xác của đồng bạc này. Có một thời
người ta có thể dùng một đồng drachmê mà mua được một con chiên, hoặc được nhận
như lương làm việc một ngày. Vào thời hoàng đế Nêrôn, đồng denarius được dùng
đểthay thế đồng drachmê và coi như tương đương.
- Một người kia có hai con trai
(11): Có thể giả thiết đây là một ông chủ trang trại giàu có xứ Paléttina.
- phần tài sản con được hưởng
(12): Theo tập tục xứ Paléttina, một người cha có thể định đoạt về của cải của
ông hoặc bằng một di chúc (HL. diathêkê) được thi hành sau khi ông qua đời (Ds
36,7-9; 27,8-11) hoặc bằng một tặng-dữ ban cho các con trong khi ông còn sống
(HL. dôrêma; x. Hc 33,19-23). Trưởng nam được hưởng “hai phần sản nghiệp”,
nghĩa là gấp đôi phần được ban cho mỗi người con khác (Đnl 21,17). Ở đây, vì
chỉ có hai đứa con, người con cả được nhận hai phần ba và người con thứ nhận
một phần ba. Khi đó, người con có quyền sở hữu, nhưng quyền thu hoa lợi vẫn
thuộc về người cha cho đến khi ông qua đời. Nếu người con bán phần gia sản của
mình, người mua chỉ được nhận lấy sau khi người cha chết. Khi làm như thế,
người con sẽ không còn có quyền đòi hỏi gì về của cải, cả về vốn lẫn lãi.
- sống phóng đãng (13): Trạng
từ asôtôs có nghĩa là “một cách không lành mạnh”. Chúng ta không biết là “không
lành mạnh” cụ thể là thế nào; ở c. 30, người anh cả mô tả là “nuốt hết của cải
với bọn điếm”, nhưng phải chăng anh đã phóng đại?
- chăn heo (15): Theo Lv 11,7
(x. Đnl 14,8), con heo, tuy có chân chẻ làm hai móng, nhưng không là loài nhai
lại, nên bị coi là “ô uế”
đối với người Do Thái. Chi tiết này cho thấy sự sa sút của chàng trai.
- nhưng chẳng ai cho (16): Thế thì
anh ta lấy thức ăn ở đâu, tác giả không nói, bởi vì điều này không quan trọng.
- chạy ra (20): Chi tiết này
diễn tả sáng kiến của người cha, tình yêu bền bỉ của ông đối với đứa con đã bỏ
đi.
- và hôn lấy hôn để (20): Không
phải chỉ là để chào đón, nhưng là bày tỏ sự tha thứ (x. 2 Sm 14,33).
- Thưa cha … con (21): Người con lặp
lại lời thú lỗi đã soạn trước (cc. 18-19), nhưng trước khi anh ta kịp nói ra
lời thỉnh cầu, người cha đã can thiệp rồi.
- áo đẹp nhất (22): dịch sát là
“chiếc áo thứ nhất”, tức là áo hạng nhất. Như thế, người cha không xử với người
con như anh ta yêu cầu (“như người làm công”), nhưng như một người khách được
tôn kính.
- xỏ nhẫn… xỏ dép (22): Nhẫn là
dấu chỉ quyền bính (St 41,42; Et 3,10; 8,2); dép là dấu chỉ một con người tự
do.
- đã mất mà nay lại tìm thấy
(24): Đây là cụm từ móc nối liên kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước.
- con hầu hạ cha (29): Người
con cả dùng động từ douleuein, “phục vụ”,
“hầu hạ”,
hàm ý là anh ta không chỉ tự liệt mình vào hạng người làm công (misthios),
nhưng là hạng nô lệ (doulos): “hầu hạ cha trung thành như một tên nô lệ”.
- chẳng khi nào trái lệnh (29):
Anh ta ý thức về sự trung thành của anh, anh nhấn mạnh đến lòng trung thành
này, tức nêu bật điều nghịch lý ở đây là nhân đức lại được ban thưởng tồi tệ
hơn là tật xấu!
- một con dê con (29): Chi tiết này
cho thấy người con cả không tin tưởng vào cha, anh tính toán, kể công.
- thằng con của cha đó (30):
Người con cả diễn tả mức khinh bỉ cao độ; anh ta không thể chấp nhận nói về
người con thứ như là “em con”. Ở đây thêm một lần nữa, tính từ houtos được dùng
với nghĩa xấu.
- lúc nào con cũng ở với cha
(31): Người cha không trách móc, than thở, không nói rằng người con cả sai; ông
cũng chẳng phê phán thái độ cao ngạo hoặc bình phẩm gì cả. Ông coi mọi chuyện
đó là đúng như thế. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh trên sự liên kết thâm sâu giữa cha
con: “Lúc nào con cũng ở với cha” (= con chưa bao giờ chết; con chưa bao giờ
mất).
- tất cả những gì của cha đều là của con (31):
nghĩa là tất cả của cải (x. c. 12), những gì còn lại sau khi người con thứ đã
lấy đi phần của anh ta; tất cả những thứ này sẽ thuộc về người con cả, sau khi
cha chết.
- em con (32): Câu trả lời của
người cha làm vọng lại công thức của người anh, và là một cách sửa chữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một dẫn nhập (1-3)
Đức Giêsu đã đến để cứu tất cả mọi người; những người thu thuế
và tội lỗi phải đến với Người bởi vì họ không gặp được ở nơi nào khác lời đưa
lại niềm hy vọng và sự tiếp đón ân cần nhưng-không. Cách xử sự này khiến người
Pharisêu và các kinh sư phải lẩm bẩm trách móc. Họ trách Đức Giêsu hai điểm:
đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với họ. Các kinh sư thường nói: “”Chớ có một
ai đi giao du với những kẻ xấu xa, cho dù là thử thuyết phục họ đi theo luật
của Thiên Chúa”. Những người thu thuế và tội lỗi không được thuộc về cộng đoàn,
vì Thiên Chúa đã ngoảnh mặt đi tránh họ; do đó, Israel cũng phải làm như thế.
Vậy mà Đức Giêsu lại đón tiếp họ! Đã thế, Người lại còn ăn uống với họ, tức là
làm một việc đáng trách hơn nữa, vì ăn uống với ai là kết giao, chia sẻ tình
bạn, tình liên đới với người ấy.
Dẫn nhập này đưa lại cho [các] dụ ngôn một đặc tính là biện hộ,
là bào chữa cho cách xử sự của Đức Giêsu đối với người tội lỗi. Qua cách xử sự
này, Đức Giêsu cho thấy là sự hoán cải không là điều kiện tiên quyết người ta
phải có để được Thiên Chúa đón tiếp; trái lại Thiên Chúa đã thực hiện “sự hoán
cải” trước, để người ta có thể lại đi vào quan hệ an bình với Ngài.
* Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (4-32)
Từ dụ ngôn đầu đến dụ ngôn thứ ba của chương 15, tác giả cho
thấy có một sự tiệm tiến: một con chiên trong số một trăm, một đồng bạc trong
số mười đồng, rồi một đứa con trong số hai người. Bản văn càng đi tới càng cho
thấy rằng điều đã mất nay lại tìm thấy càng lúc càng trở nên quí báu hơn.
Người mục tử, người phụ nữ và người cha đều vô danh, bởi vì cả
ba được đề ra như một biểu tượng của Thiên Chúa yêu thương.
Một con chiên có giá trị của nó. Không phải vì còn chín mươi
chín con kia, mà con chiên bị lạc không đáng kể. Người mục tử sẽ kiên nhẫn đi
tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy nó. Chín đồng bạc còn lại vẫn không miễn
cho người phụ nữ khỏi tha thiết đi tìm đồng đã mất. Một người con thì còn đáng
giá hơn muôn vàn con chiên hoặc đồng bạc. Các kinh sư dạy rằng Thiên Chúa vui
mừng khi người công chính sống lại, và kẻ gian ác phải tiêu vong. Đứcd Giêsu
lại nói rằng Thiên Chúa vui mừng khi kẻ gian ác được sống lại, “trên trời cũng
thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín
mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (c. 7). Ở đây không
phải là một lời kêu gọi hãy phạm tội, nhưng là một lời mời gọi hãy nhìn nhận
rằng tất cả chúng ta là những kẻ tội lỗi trước mắt Thiên Chúa. Không có một ai
là “công chính” cả. Vị thần linh ban thưởng tùy theo các công trạng chỉ hiện
hữu trong tâm trí người Pharisêu (xưa và nay). Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu là
một vì Thiên Chúa ban tặng nhưng-không ơn cứu độ cho tất cả chúng ta mặc dù
chúng ta không đáng nhận.
Giờ đây chúng ta suy niệm về truyện người con thứ và người con
cả. Thật ra, cả hai người con được nói tới chỉ là để cho người cha có cơ hội
diễn tả các tâm tình của ông ra.
a) Người con thứ:
Sau khi đã nhận đủ phần gia tài, người con thứ đi đến một xứ xa
xôi, hẳn là một miền đất dân ngoại. Tại đó, anh đã xài hết tiền của. Rơi vào
tình trạng khốn đốn, anh phải chăn heo: đây là sự sa cơ thất thế cùng cực! Anh
ta suy nghĩ. Nhưng không phải là hối hận về lối sống, không phải là tiếc nuối
vì đã làm cho cha đau buồn. Anh ta chỉ tự trách là ngu ngốc chịu đói chịu khát
ở đây trong khi các tôi tớ ở nhà có ăn dư thừa. Thế là để có thể trở về và được
nhạn vào nhà như người làm công, anh chuẩn bị một bài “diễn từ cảm đông” để
mong cha nguôi giạn: các lời lẽ hối tiếc không đi đôi với các tâm tình của anh.
Quả thật hình ảnh này không tôn vinh kẻ tội lỗi chút nào. Đây
đúng là chân dung mà người Pharisêu chờ đợi.
b) Người con cả:
Lúc người con thứ trở về, người con cả đang làm việc ngoài đồng.
Khi trở về, anh nhận ra trong nhà có chuyện lạ. Sau khi hỏi một người đầy tớ,
anh ta hiểu chuyện; anh không thể chấp nhận được, anh nổi giận. Ta thông cảm
với anh. Vì anh không chịu vào nhà, người cha đã ra gặp. Thế là anh cho tuôn ra
hết những gì vẫn chất chứa tận đáy lòng: anh nói với giọng chua cay, nhưng kể
ra đúng các sự việc. Theo anh, đúng là người cha đã xử sự bất công! Những người
Pharisêu và các kinh sư cũng nghĩ rằng họ có lý khi tỏ ra khó chịu với Đức
Giêsu.
Trước tiên người con cả nói về chính mình: “Bao nhiêu năm trời
con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”. Chắc chắn đấy cũng là lý tưởng của
người Pharisêu và các kinh sư: “phục vụ”
Thiên Chúa bền bỉ, và rất chú ý để không bao giờ vi phạm một điều răn nào.
Sau đó, người con cả nói về em với giọng hết sức khinh bỉ. Anh
không gọi là “em con”, nhưng nói là “thằng con của cha đó”. Điều này cũng giống
như người Pharisêu trong dụ ngôn Lc 18,10-14 nói đến “tên thu thuế kia” với
giọng miệt thị.
Như thế, Đức Giêsu đã ngỏ lời với những người vẫn nghĩ rằng mình
là những tôi tớ tốt lành, luôn quan tâm để không bao giờ thiếu sót một điều răn
nhỏ. Khi đó, họ nghĩ họ có nhiều quyền; họ tỏ ra khó chịu, không phải đối với
người tội lỗi, nhưng đối với chính Thiên Chúa vì Ngài đã đối xử với kẻ tội lỗi
như vậy: Nếu như thế, sống đạo đức còn ích lợi gì? Nếu như thế, sống
trung thành và vâng phục Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì nữa?
c) Người cha:
Người cha trông mong người con thứ từng ngày, nên ngay khi anh
còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông vội vã chạy ra đón con, ông cuống quýt
thúc đầy tớ chuẩn bị lễ mừng. Ông chẳng màng đến bài diễn từ bần tiện của anh
ta. Ở nhà có con bê béo, ông quyết định cho giết ngay để ăn mừng. Rõ ràng trong
lòng ông, niềm vui đang bùng nổ. Ông chưa bao giờ thôi thương yêu con. Nó đi
xa, nó đã mất; nay nó lại được tìm thấy. Quá khứ không còn gì đáng kể, Điều
quan trọng là nó đã trở về!
Đã không muốn nghe lời hối lỗi của con thứ, nay người cha lại để
cho người con cả tha hồ nói lên những tâm tình chua chát. Sau đó, ông đã trả
lời với giọng dịu dàng âu yếm. Qua lời ông nói, người con cả chẳng còn lý do gì
mà nói rằng cha xử bất công với mình nữa. Nhưng ông tế nhị điều chỉnh: “vì em
con đây…”. Nếu cha đã sung sướng đến thế khi gặp lại con, lẽ nào người anh lại
không vui sướng khi gặp lại em?
Chúng ta không bao giờ biết được phản ứng sau đó của người con
cả (nghe theo đề nghị của cha? Đi vào nhà và chào em? Đi vào ăn tiệc chung
vui?). Chúng ta cũng không biết người con thứ được sống theo chế độ nào, anh ta
sẽ đáp lại thế nào. Dù sao, toàn chương 15 giống như một bài ca chan hòa niềm
vui được tấu lên để mừng niềm hạnh phúc của người đã tìm lại được điều mà họ đã
mất.
+ Kết luận
Nếu đọc cả ba dụ ngôn, chúng ta sẽ thấy hai dụ ngôn đầu kết “có
hậu”, còn dụ ngôn thứ ba có kết mở: Người con cả có vào nhà theo lời cha mời
chăng? Như thế, hai kết luận tốt đẹp đầu nhằm đưa tới chúng ta một câu hỏi:
Chúng ta có hết lòng chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa mà đón người tội lỗi hối
cải vào Nước Thiên Chúa không? Trong thực tế, chúng ta vẫn được Thiên Chúa vui
lòng đón tiếp, chúng ta cũng hãy sẵn lòng đón lấy người anh em trở về.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Mỗi con người đều có giá trị vô song trước mặt Thiên
Chúa. Ngài đã tạo nên từng con người với tất cả
những phong phú làm nên nhân vị con người ấy. Ngài hỗ trợ cho con người ấy phát
triển đến mức tối đa, để cuộc đời người ấy thành một tuyệt tác cho Ngài và cho
loài người. Khi chúng ta phục vụ anh chị em, chúng ta phục vụ từng con người có
giá trị độc đáo duy nhất, hay là chúng ta chỉ coi như là những con số, những
“con chiên” không tên tuổi, theo nhau lầm lũi trước mặt chúng ta?
2. Thiên Chúa thương tất cả mọi người và muốn cho mọi người
đều được cứu độ. Nhưng “tất cả” không có nghĩa là một khối người tương
đối đông, mà là “từng người”. “Tất cả”
là “từng người” trong thế giới, không bỏ sót một ai. Thiên Chúa chiếu cố đến
từng con người y như chỉ có một mình người ấy trên đời.
3. Chúng ta có thể thấy mình như người con thứ:
không phải là tên ăn cắp, chỉ lấy đúng phần mình; chúng ta cũng còn biết nói
“thưa cha!”, nhưng không hề vui thích được ở với cha, mà chỉ muốn ra đi “ăn
chơi” cho thỏa thích. Và mỗi khi gặp khó khăn, thì chỉ dâng lên Thiên Chúa một
lời cầu nguyện đầy vụ lợi, tính toán. Người con thứ không biết nghĩ rằng xin
làm một “người làm công”, thì sỉ nhục cha quá nặng nề, bởi vì cha vẫn chỉ mong
đón mình về để làm “con”. Nay được cha đón vào nhà rồi, anh có biết đáp lại
tình cha không? Phần này, chính chúng ta sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực
tế của mình.
4. Chúng ta cũng có thể thấy mình như người con cả,
không bao giờ trái lệnh cha, nhưng cũng chẳng thích ở với cha; trái lại chỉ
tính toán, mong có ngay “thoát ly” để đi vui chơi với bạn bè. Đã thế, chúng ta
lại tỏ ra khinh bỉ, miệt thị những kẻ bị coi là “tội lỗi”. Nay đã được cha ra
gặp để tâm sự rồi, anh có vào nhà để chung vui không? Phần này, chính chúng ta
cũng sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
5. Vì không hiểu tình yêu của cha, cả hai người con, đặc
biệt anh cả, không hiểu tiếng gọi kèm theo sự hiểu biết đó:
anh chỉ thực sự là con của cha, khi yêu thương anh em mình. Ta không thể phục
vụ Thiên Chúa như Ngài muốn nếu không yêu mến Ngài và thông chia tình yêu của
Ngài cho anh chị em mình, cho dù họ thế nào. Làm sao có thể tự nhận là môn đệ
của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng
bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
25. Chú giải của R. Gutzwiller
CHIÊN LẠC (15, 1-7)
Trong số những người môn đệ Chúa, có nhiều người thu thuế và tội
lỗi. Các ký lục và biệt phái lấy điều đó là gương mù và ta biết là họ đã tỏ ý
không chấp thuận điều đó, cho nên họ đưa ra những vấn nạn là chuyện đương
nhiên.
1. Vấn nạn
Những người thu thuế là những người làm ăn sinh sống bằng những
nghề khá mập mờ. Thế nên, họ chẳng lưu tâm đến luật lệ của Thiên Chúa trong lý
thuyết lẫn trong thực hành; họ chẳng cần biết đến những giá trị tinh thần,
những cái họ coi là chỉ tổ mất thì giờ và bất lợi. Họ còn có thái độ khinh dể
những nơi thờ phượng nữa.
Còn những người tội lỗi, họ chỉ thấy bình thản khi lãng quên
Thiên Chúa và cố tránh né mọi bận tâm về tôn giáo.
Thế nhưng sao họ đến với Chúa Giêsu thật đông như thế? Chúa
Giêsu không chấp nhận một não trạng duy vật, một cuộc sống xa cách Thiên Chúa,
Ngài cũng chẳng có ý làm cho tôn giáo thành dễ theo hơn. Thế mà sao họ vẫn đến
với Ngài?
Ngược lại, những người biệt phái, đại biểu cho thành phần tôn
giáo ‘đạo gốc’, là những nhà đạo đức chuyên nghiệp, những người sùng đạo nhiệt
thành, những người hoàn toàn không thể trách cứ: tóm lại họ là thành phần đạo
đức ưu hạng.
Các luật sĩ là những nhà chuyên môn, những người thông thạo lề
luật và thực hành về tôn giáo, thông thái về khoa giáo điều, nói những lời đáng
tin về Thiên Chúa. Và hẳn là những hạng người này đã không đến với Đức Kitô, có
chăng là tính cách địch thủ, hầu hại Ngài và làm cho Ngài ‘mất tín nhiệm’.
Những người thu thuế và tội lỗi vẫn là những kẻ bị lên án, còn
luật sĩ và biệt phái là những người ưu tuyển. Dân chúng nghĩ như thế và chắc có
lẽ là Thiên Chúa cũng vậy. Thế mà tại sao lại xẩy ra thế khác?
2. Trả lời
Nhưng Thiên Chúa đã và còn đang xét định cách khác. Tư cách của
những người thu thuế và tội lỗi có xâú thật, tư cách của luật sĩ và biệt phái
có đúng về nhiều điểm thật. Thế nhưng, những ý định bên trong, những động lực
của việc họ làm lại chứng tỏ hoàn toàn khác hẳn.
Những người thu thuế và tội lỗi coi mình như hạng hư mất, xa
cách Thiên Chúa, không còn sùng mộ chi nữa, đúng ra đầy tội lỗi. Do đó họ xác
tín về sự bất lực của họ, không thể tự thoát mà phải chờ mong tất cả từ ân sủng
và lòng nhân lành của Thiên Chúa.
Biệt phái và luật sĩ tự hào là những người công chính, được bảo
đảm an toàn, nơi họ tất cả đều ổn định và ân sủng đầy tràn. Vì tự lực thánh hoá
bản thân, những người như thế đâu cần nhờ nguồn lực thánh hoá độc nhất nữa.
Nhưng Thiên Chúa lại có cái nhìn khác hẳn. Ngài không xét hành
vi bên ngoài, nhưng là những ý định trong lòng.
Linh hồn có ý thức sự yếu đuối của mình, sự hèn hạ, giới hạn và
tội lỗi của mình, khi ấy nó mới tìm kiếm Thiên Chúa nơi thâm sâu của lòng mình,
mới ao ước Ngài, mới có thể đón nhận ân sủng của Ngài và như thế là mở cửa để
đón Ngài.
Nương đồng dẫu có sỏi đá cũng không hề chi: nó đã được cày bừa
và những luống cày sâu sẵn sàng tiếp nhận hạt giống sẽ gieo vào. Tạo vật mang
tật bệnh, vì thế nó cần đến y sĩ; vì thấy mình trống rỗng, nên chỉ có sự viên
mãn của Thiên Chúa mới có thể lấp đầy. Sự viên mãn ấy thấu nhập nơi ngõ hẹp
cuộc đời của nó: vì thế nó sẵn sàng trở về, sẵn sàng hoán cải, nó khẩn khoản
bàn tay cứu nhân độ thế đến cứu thoát mình.
Ngược lại, con người tự hào về sự cao trọng, về sức mạnh của
mình, nghĩ rằng mình không thể phạm tội và vinh vang vì giai cấp được tôn
trọng, tưởng rằng mình hoàn hảo trong đàng đạo đức, thì họ sẽ chẳng lo kiếm tìm
Thiên Chúa, bởi vì họ lấy bản thân làm nơi an nghỉ. Tin tưởng ở mình thì không
còn tin tưởng nơi Thiên Chúa; tình yêu mình sẽ thay thế cho lòng yêu mến Thiên
Chúa.
Người thu thuế có thể hoán cải khi họ nhận thấy thân phận tội
lỗi của mình. Còn biệt phái và luật sĩ không thể hối cải vì họ cứ ngỡ là mình
công chính. Trên trời sẽ vui mừng khi có một người cải tà qui chánh, bởi vì đây
là một sự quay về, một khuôn mặt nhìn lại Chúa, một con người đã hư mất được
cứu thoát. Như thế trên trời sẽ vui mừng mỗi lần có người ‘tội lỗi’ trở về, chứ
không phải mỗi khi có người ‘công chính’ tin rằng mình không cần hoán cải nữa.
Trên trời vui mừng vì người tội lỗi thực sự được Chúa Kitô, Đấng hằng tìm kiếm
những tâm hồn tội lỗi, đến cứu thoát.
Nhưng trên trời không vui vì số phận của những người –và họ là
đa số- không thể được cứu thoát chỉ vì lý do họ nghĩ rằng không cần thiết.
Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là ý tưởng của chúng ta và
đường lối của Người chẳng phải là đường lối của ta. Vì đó, Chúa Kitô đã cho họ
thấy rằng những ý định của Thiên Chúa khác hẳn của con người, xưa cũng như nay,
Ngài đi tìm kiếm những kẻ tội lỗi thực sự, và bỏ qua những người ‘công chính’
giả hiệu.
TÌM KIẾM (15, 8-10)
Liều mất mạng sống vì tình yêu Chúa Kitô, mất mạng sống vì không
có Ngài… Bây giờ là vấn đề được Đức Kitô kiếm tìm và đi tìm kiếm theo gương
Ngài.
1. Được kiếm tìm.
Người đàn bà đánh mất một đồng bạc. Bà tìm kiếm không ngơi cho
đến khi thấy lại đồng bạc đã mất: theo một nghĩa loại suy, dựa theo lời Đức
Kitô, ta có thể nói về việc Thiên Chúa tìm kiếm.
Ân sủng không được ban theo kiêủ buôn bán, dè xẻn, mà Thiên Chúa
cũng chẳng đưa cho con người một bản tổng kết những gì Ngài đã ban cho họ. Ân
sủng của Người tuôn chảy không ngừng, tình Người yêu thương chẳng bao giờ cạn.
Thiên Chúa kiếm tìm tạo vật đã lạc mất bằng những lời khuyên
nhủ, cảnh cáo, khích lệ; đó là bề trong, còn bề ngoài người dùng Giáo Hội, các
linh mục, sách vở, người này người nọ, biến cố này biến cố khác. Nhiều biến cố
có vẻ phũ phàng. Nhưng thực ra đó chỉ là những dấu chân hữu hình của Thiên
Chúa, dõi theo từng người chúng ta.
Bệnh tật giúp người ta mau mắn hồi tâm lại, mất mát của cải sẽ tách
người ta ra khỏi những sự thế trần. Thất vọng sẽ cho thấy không nên quá tin
tưởng vào con người. Thất bại sẽ thanh lọc tính kiêu căng và những lời phê bình
gay gắt sẽ giải thoát ta khỏi tính ích kỷ.
Cả khi con người lang thang phiêu lãng, Thiên Chúa vẫn đuổi
theo. Không có chỗ nào con người ở một mình cả. Chẳng bao giờ con người có thể
tự nhủ Thiên Chúa đã bỏ rơi mình rồi. Một người thợ săn kiên nhẫn, rình chờ con
mồi, một ngư phủ lưới người cũng kiên nhẫn đợi chờ chú cá bé nhỏ dính vào lưới
ân sủng, hoặc là có dẫy dụa đi nữa, thì cũng mắc vào chiếc lưỡi câu. Đấy Thiên
Chúa như thế đấy.
Chỉ có ở thế giới bên kia, tạo vật đã bị chiếm hữu sẽ nhận thấy
rằng Thiên Chúa vẫn luôn theo đuổi, tìm kiếm mình, và tình Ngài yêu thương
không ngừng đưa ra hết cách, và hết thế để dẫn đưa mình trở về. Tất cả mọi
người chúng ta –dầu không nhận thấy- đang sống trong bầu khí yêu thương của
Người.
Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta tỏ ra phong phú –đây là điều khó
có thể tưởng tượng được-. Điều này giải thích niềm vui trên trời khi một người
xa lạc được tìm về.
2. Tìm kiếm
Cũng có thể áp dụng dụ ngôn này cho việc tìm kiếm những người
con đã hư mất. Người mục tử không bao giờ được bằng lòng với những con chiên
sốt sắng ngoan đạo, mà phải biết nghĩ đến những tâm hồn còn đang xa cách, đang
gặp nguy khốn, đã sa ngã, đã lầm đường lạc lối.
Thực là một hiện tượng đáng buồn khi thấy trong tiểu thuyết hiện
đại, thường các vị linh mục được miêu tả như những vị trưởng giả đầy đủ. Rõ
ràng những nguyên tắc bất can thiệp và nhẫn nhục ảnh hưởng nhiều đến đời sống
linh mục. Ngạc nhiên hơn nữa là ngày nay các toà Giám mục, đa số gồm có những
vị trẻ trung, tinh thần cởi mở, đến độ gần như cách mạng trong khoảng thời gian
thế chiến thứ nhất. Kết quả vẫn chán nản biết bao!
Một số lớn các linh mục hiện nay đã tham dự vào thế chiến thứ
hai, và rồi người ta mới thấy điều đó.
Có lẽ người ta cho rằng nhận một trọng trách trong Giáo Hội đã
có quy củ, chắc chắn sẽ làm cho họ mau an phận và làm suy yếu tinh thần tìm
kiếm của họ. Thực sự những người mà Giáo Hội có trách nhiệm, đã tiếp tục lìa xa
Giáo Hội.
Nếu người mục tử tốt lành để lại chín mươi chín con chiên để tìm
kiếm một con thất lạc, và nếu người đàn bà bỏ mọi công chuyện để tìm đồng bạc
đánh mất, thì người mục tử cũng phải tìm ra đường lối và phương pháp để dẫn
những kẻ lầm lạc trở về. Chúng tôi có ý nói đến sứ vụ tông đồ tại các gia đình,
tổ chức thăm viếng tận nhà, tái phối trí những họ đạo lớn, phát huy tinh thần
tìm kiếm trong công tác tông đồ giáo dân, sự chuẩn bị môi trường bằng báo chí,
những nỗ lực bác ái xã hội, những điều kiện ưu tiên cho vùng ‘sỏi đá’. Nói tóm
lại, ta không thể bằng lòng với những gì mình đang có mà phải nghĩ đến những gì
đã mất mát đi.
Làm cho những người vốn đã tốt, trở nên tốt hơn không đủ. Thực
tế rất thường chưa hẳn những người đó đã là những người tốt.
Nhiều khi những người tân tòng, những người ăn năn hối cải lại
khiến cho người ta mừng rỡ hơn bởi vì họ biết mình lầm lạc và đã được tìm kiếm,
họ biết rằng chính bản thân họ đã tìm lại điều đã mất; Họ quí chuộng kho tàng của
họ hơn là những người bao giờ đức tin cũng bình thường, không yếu đuối cũng
chẳng lu mờ.
NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG (15, 11-32)
Xét theo tâm lý, phải là bậc thầy mới hoạ nổi dụ ngôn đứa con
hoang đàng. Thế nhưng đây lại chẳng nhấn mạnh về đứa con hoang đàng, về những
nỗi khốn nạn và sự trở về của chàng ta. Mà lại nhấn mạnh nhiều đến người cha.
Tất cả những đoạn văn Thánh Luca nói về vấn đề hư mất đã kết
thúc một cách ý nghĩa khi đưa chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cứu thoát những gì
đã hư hại và bù đắp dư dật.
1. Người cha để cho đứa con hư hỏng.
Trong dụ ngôn, người cha có thể, hoặc tạm thời từ chối không
chia cho người con phần gia tài của anh ta, hoặc là nói cho thấy hơn thiệt. Bản
văn lại chẳng đả động đến chi tiết. Người cha đã chia gia tài cho anh, và để
anh ra đi. Đối với đứa con, chẳng phải vì xung khắc hay vì sự sa đoạ nào đó
thúc đẩy anh ra đi, nhưng là vì anh khát khao được sống ngoài vòng kềm toả, vì
háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, vì chưa có bản lãnh, vì
tính hung hăng và bản năng thích phiêu lưu mạo hiểm.
Thiên Chúa cũng để cho con người hành động. Người có thể gìn giữ
con người khỏi tội lỗi bằng những đường lối quan phòng của Người hoặc bằng áp
lực của ân sủng mà con người không thể nào cưỡng lại được. Thế nhưng, Người vẫn
tôn trọng tự do của con người: điều này làm chúng ta ngạc nhiên và khó hiểu.
Nhưng thể theo Thánh ý của Người, sau khi con người đã được tạo
dựng một cách tự do và được ban cho quyền tự do, Thiên Chúa đã thực sự để cho
con người làm chủ những quyết định của mình, lại còn ban cho con người sự trợ
giúp tự nhiên để thực hiện những quyết định đó nữa. Bởi chưng mọi chuyện con
người thực hiện –cả khi con người làm điều ác nữa- con người cần phải có sự trợ
lực của Thiên Chúa, nếu không con người hoàn toàn bất lực.
Trong dụ ngôn, đứa con lầm lạc dần dần sa sút, trước tiên là một
sự phung phí dại dột, rồi hắn phung phí gia tài cho bọn đĩ điếm cho đến lúc hắn
hoàn toàn chìm đắm trong tình cảnh khốn nạn và phải đi chăn heo (ta chớ quên
thái độ xa lánh của người Do thái đối với loại thú vật này) rồi suýt chết đói.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài để mặc con người tự do theo con đường
đã chọn lựa, để họ xuống dốc theo ý muốn và ao ước của họ. Ai tưởng mình có thể
định đoạt giá trị sự vật thì Chúa sẽ để họ theo ý riêng mình, cho đến khi họ
hiểu rằng ý muốn tự quyết của họ chỉ là sự sụp đổ bất lực.
Thiên Chúa thường thông cảm với việc con người yếu đuối sa ngã
giữa lúc làm bạn với bầy heo và cơn đói ám ảnh. Tuy nhiên –sẽ có một hiện tượng
kỳ dị- bao lâu mọi sự tốt đẹp thì con người ít nghĩ đến Thiên Chúa. Họ muốn
quán xuyến tất cả và tự mình quyết định. Nhưng khi có trục trặc vì lỗi của họ,
họ vội vàng quy trách cho Thiên Chúa.
2. Người cha đón nhận đứa con hư hỏng
Trong dụ ngôn, người con đã trở về với chính mình. Bị lâm vào
cảnh phiền muộn, nó mới biết đến kinh vực sâu, thú nhận lỗi lầm của mình và dọn
sẵn lời thú tội: ‘Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha’. Nó ý thức
mình không còn quyền lợi nữa và chỉ còn trông cậy vào lòng nhân hậu để được coi
như một kẻ hèn hạ nhất trong đám thợ làm công.
Khi con người có kinh nghiệm sâu sắc và chua cay về thất bại bản
thân, họ dễ ý thức giá trị của ân sủng. Lúc ấy, họ biết không thể tự sức mình
mà được việc, nên phải phó thác vào ân sủng của Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho
con người mất địa vị làm con Thiên Chúa, cho nên, làm tôi tớ đối với nó là một
đặc ân. Con người không còn đến trước Thiên Chúa Cha với tư cách một người con
quấy rầy, nhưng như một kẻ van xin đầy lòng hối hận đứng trước chủ nhân. Và
Thiên Chúa chấp nhận họ.
Trong dụ ngôn, người cha đã chờ đợi rồi ông đã chạy ra đón đứa
con hư, tỏ lòng tha thứ mà không cần đứa con giãi bày lời thú tội. Ông đã dọn
một bàn tiệc, tổ chức một buổi lễ…
Đối với tội nhân hối cải, Thiên Chúa cũng có một thái độ tương tự. Ngài đến gặp
họ. Phán quyết trong nội tâm và lòng hối cải đã là dấu hiệu của ân sủng Thiên
Chúa. Kẻ lầm lạc khi tự phán quyết rồi lại quyết định trở về với Thiên Chúa, đó
cũng là ân sủng.
Thiên Chúa cầu mong lại đón nhận họ. Đó là do lòng nhân hậu của
Ngài. Và, nói một cách sát chữ, Ngài đem lòng yêu thương dạt dào người tội lỗi
đã hối cải, quên đi quá khứ, xoá bỏ ác quả và tội vạ, và hơn nữa, cho họ được
những đặc ân không ngờ, đây là mầu nhiệm khôn dò của ân sủng Người.
Bữa tiệc sẽ minh chứng là Thiên Chúa yêu thương. Người anh khó
tính với cảm nghĩ tầm thường lấy vẻ liêm chính che đậy đầu óc thiển cận, tâm
hồn hẹp hòi của mình. Trái lại, qua hành vi quảng đại của người cha, dụ ngôn
cho chúng ta thấy bản tính thâm sâu của Thiên Chúa, tầm mức vô biên của tình
yêu, nhịp điệu và hài hoà, âm vang trong Thiên Chúa.
Lầm lạc không còn là điều đáng quan tâm. Tăm tối đã biến đi. Ánh
sáng chói chan khắp nơi, mọi sự thấy đẹp hơn bao giờ hết. Tội hồng phúc!... Tội
lỗi là dịp vô cùng hữu ích để chúng ta nhận ra sự cao cả của Thiên Chúa đến nỗi
chính các lỗi lầm của con người lại dẫn đến ơn cứu độ và vinh quang của Thiên
Chúa.
26. Bài học về lòng xót thương – Lm. Anmai
Có người nói rằng, xếp quyển Thánh Kinh lại, chỉ để lại trang
Luca chương 15 mà hôm nay chúng ta được nghe.
Chương 15 của Luca là một trong những chương sách đẹp nhất của
toàn bộ Thánh Kinh Tân Ước. Cả chương sách bừng lên niềm vui chan chứa, niềm
vui của tình yêu mà những ai sống trong quỹ đạo của ích kỷ không cảm nếm được.
Bối cảnh là những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa Giêsu để nghe Người
giảng, làm cho người Pharisêu và các kinh sư khó chịu. Bối cảnh đó làm nổi bật
lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân và là lời cảnh giác cho những
kẻ tự hào mình là người công chính.
Trang Tin Mừng Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ
ngôn đứa con hoang đàng. Với sự quyến định trở về của mình, người con này được
đề cao hơn cả cuộc đời hoang đàng của anh ta. Ngày nay, người ta lại chuyển
hướng và nhìn vào hình ảnh từ bi đại hải của người cha. Nhìn như thế để như là trách
khứ tấm lòng không bao dung, không nhân hậu và miệt thị của người anh cả.
Dẫu sao đi nữa, dụ ngôn ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú
liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai
người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong
câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn có cách sống và cách
xử sự giống như người con cả.
Nét độc đáo nổi bật trong chân dung của Luca về Chúa Giêsu đó là
lòng thương xót. Trong sách Tin Mừng thứ ba, Chúa Giêsu thường xuyên quan tâm
đến người nghèo, các tội nhân, những người bị gạt ra bên lề xã hội. Không phải
các đạo sĩ nhưng chính những người chăn chiên mới là người đến máng cỏ đầu tiên
(2,8-18); Chúa đón tiếp người phụ nữ tội lỗi nhưng có lòng thống hối (7,36-50);
Chúa nói những điều tốt lành về người Samaria (10,30-37); Chúa đến thăm người
thu thuế (19,1-10); Chúa kể những dụ ngôn tuyệt vời về lòng thương xót (chương
15). Các phụ nữ cũng chiếm vị trí đặc biệt trong Tin Mừng Luca. Vào thời đó, phụ
nữ chỉ là công dân hạng hai và bị coi thường, nhưng Chúa Giêsu lại trân trọng
họ (10,38-42), đón nhận sự giúp đỡ của họ (8,1-3), và cho thấy đức tin kiên
cường của các bà trong những giai đoạn thử thách nhất (23,49; 24,1; Cv 1,14).
Tin Mừng Luca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương
xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng
đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ ngôn trong bối cảnh nào,
có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức
Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi
đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pharisêu và các
kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với
chúng.’ 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giêsu
kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến
với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người Pharisêu
và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm
xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những người thu thuế và
tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà chính Đức Giêsu tiếp đón họ
và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giêsu,
Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Về phía họ, họ
đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Dụ ngôn “Tìm chiên lạc” (câu 4-7) mô tả Thiên Chúa như người mục
tử bỏ 99 con chiên lại để đi tìm chiên lạc, và niềm vui tràn bờ khi Ngài tìm
lại được con chiên lạc, đến nỗi vác nó lên vai đem về, và mời mọi người đến
chung vui vì đã tìm lại được con chiên bị mất. Trong mắt của Chúa, mỗi một con
người, bất kể yếu đuối và tội lỗi đến đâu, đều là một nhân vị độc đáo và không
thể thay thế. Vì thế, Ngài chăm sóc từng con chiên và đau đáu đi tìm khi nó lạc
bầy. Chính vì thế, không ai có quyền thất vọng về tình thương của Chúa vì tình
thương ấy dứt khoát lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Điều duy nhất cần thiết là
sám hối ăn năn, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống của mình.
Trong chùm dụ ngôn về lòng thương xót, dụ ngôn “Người con hoang
đàng” vẫn là dụ ngôn nổi tiếng nhất, cả về văn chương lẫn nội dung (15,11-32).
Không phải vô lý mà có tác giả đã đề nghị đặt tên cho dụ ngôn này là “Người cha
phung phí” thay vì “Đứa con hoang đàng”. Bởi lẽ trọng tâm của dụ ngôn không
phải là sự phung phí của cải vật chất của đứa con thứ, mà chính là lòng thương
xót của người cha dành cho cả hai đứa con, lòng thương xót vô bờ đến độ không
thể hiểu nổi… cho nên được gọi là ‘phung phí’ tình yêu.
Con đầu lòng được hưởng gấp đôi phần gia sản theo luật lệ của
người Do thái (Đnl 21,17). Và bởi thế, người con út trong dụ ngôn được chia một
phần ba sản nghiệp. Việc phân chia tài sản phải đợi đến khi người cha qua đời
theo lẽ thường của sự đời . Nếu như việc chia gia tài tiến hành trước thời gian
thì có những khoản về hình phạt đi theo đó. Tuy nhiên điều quan trọng của luật
ở khía cạnh tinh thần chứ không nằm ở khía cạnh lề luật. Người con út đã đoạn
tuyệt với gia đình, không thương tiếc cha mình, anh mình sau khi có tài sản
trong tay. Bất chấp tất cả, anh ta đòi hỏi chia gia tài rồi bỏ nhà đi,. Với
quyết định như thế, anh ta đem mọi sự theo mình và không có hi vọng gì sẽ trở
lại. Dĩ nhiên đây là sự mất mát lớn đối với gia đình, cách riêng với người cha.
Phải chăn heo, đó là kết cục bi tham cho cuộc sống phóng đãng và
phung phí dẫn người con út. Chăn heo, với người Do thái, gợi lên ý tưởng ô uế,
“lạc đạo” và như thế, người con út đã đánh mất tư cách là thành viên trong gia
đình cũng như trong Dân Chúa. Trong dụ ngôn, người con út thậm chí còn tệ hơn
cả heo, vì “ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng nhưng chẳng ai
cho”.
Người con út hồi tâm khi đối diện với nỗi cơ cực đến tột cùng.
Được trở về nhà trong tư cách kẻ làm thuê, đó là ước muốn của anh ta. Để cuộc
trở về được thành công theo ước muốn, anh chuẩn bị kỹ lưỡng những gì phải thưa
thốt với cha mình, và lường trước sẽ bị mọi người tiếp nhận bằng cái nhìn soi
mói và nghi ngờ. Chuyện đặc biệt là dù thế nào đi chăng nữa nhưng cha anh vẫn
thương anh. Ông vẫn ngày đêm trông ngóng, và khi thấy con ở đàng xa, “ông chạy
ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để”
(câu 20) đến độ người con không kịp nói hết bài diễn văn đã soạn sẵn! Cuộc đoàn
tụ này rất giống với cuộc đoàn tụ của Esau và Giacóp (St 33,4). Giacóp nhớ đến
tội ác mình đã phạm chống lại anh, nhưng giống như người cha trong dụ ngôn này,
Esau chỉ nghĩ đến hoà giải. Người cha ra lệnh cho gia nhân chăm sóc mọi sự cho
đứa con của mình, nào là áo, nào là nhẫn, nào là bê béo… tất cả diễn tả sự nhìn
nhận đây là đứa con của chủ nhà chứ không phải tôi tớ. Không có chuyện hỏi tội,
không có chuyện tra khảo, cũng không có chuyện bàn bạc xem thằng con hư hỏng
này có xứng đáng được tha tội không… chỉ có điều quan trọng duy nhất là: “con
ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (câu 24).
Câu chuyện đẹp tưởng chừng đã hạ màn với cảnh đẹp tuyệt vời như
thế, không ngờ lại thêm cảnh khác xen vào. Người con cả đã nổi đóa lên. Anh đã
cố gắng, đã tự nhủ rằng anh đã cố gắng sống công chính đến thế: “Đã bao năm con
hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh” (câu 29), thế mà “chưa bao giờ cha cho
lấy một con dê con để ăn mừng với chúng bạn”. Và nhân danh sự công chính đó,
anh khước từ việc chia sẻ niềm vui với gia đình khi “thằng con của cha” (chứ
không phải đứa em của tôi) trở về. Lại một lần nữa, tình yêu và lòng thương xót
của người cha bừng sáng và xua tan mọi hận thù ghen ghét. Ông đã bước ra đón
đứa con hoang đàng thì ông cũng bước ra đón người con cả, vì ông mong muốn cả
hai đứa con đều được hạnh phúc. Anh con cả chỉ nhìn thấy gia tài và nỗ lực làm
việc của bản thân anh. Người cha không từ chối điều đó, nhưng những điều đó đều
không quan trọng bằng điều này là: một đứa con và một người anh em đã chết nay
sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Vì thế, mọi chuyện khác đều phải dẹp sang
một bên để “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ” (câu 32). Lại một lần nữa, tâm trí ta nhớ đến
câu chuyện Giacóp. Giống như Esau, đến giai đoạn cuối đời, Giacóp khám phá ý
nghĩa và tầm quan trọng của đoàn tụ, nên khi nghe tin Giuse vẫn còn sống, ông
quên hết những tội ác mà chính những anh em trong nhà đã gây ra cho Giuse, và
chỉ nhớ một điều: “Thế là đủ. Giuse con ta vẫn còn sống” (St 45,28).
Thiên Chúa, là Cha giàu lòng thương xót, Ngài mãi mãi xót thương
chúng ta. Chúng ta, có quay về với Chúa như người em và chúng ta có bao dung
cho em chúng ta khi em chúng ta lầm lỗi hay không, vẫn là lời mời gọi lòng bao
dung thương xót của mỗi người chúng ta.
27. Ai là con thực sự? Ai là người làm công?
(Suy niệm của Lm Giuse Lê Minh Thông)
Dụ ngôn người cha nhân hậu và hai người con.
Tìm hiểu Lc 15,1-3.11-32
Nội dung
Dẫn nhập
1.
Đức Giêsu kể dụ ngôn cho ai và để làm gì?
2.
Vị trí của ba dụ ngôn
3.
“Con thứ đi hoang” xin được coi như “người làm công”
4. “Con cả ở nhà” sống như “người làm công”
5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật trong trình thuật
6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả
Kết luận
Dẫn nhập
Đoạn Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa
con hoang đàng. Nhưng bản văn đề cao quyết định quay trở về của người con này
hơn là sự hoang đàng của anh ta. Hiện nay người ta thường gọi là dụ ngôn người
cha nhân hậu, nhưng có lẽ bản văn nhấn mạnh hơn đến sự không nhân hậu của người
con cả, là người đã trách cha và miệt thị em mình. Có thể dụ ngôn trên đây có ý
nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật:
Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh
cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn có
cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Sự phong phú về ý nghĩa của bản văn làm cho việc đặt một tựa đề
thường là rất khó. Một câu chuyện mô tả ba cách nhìn cuộc đời khác nhau của ba
nhân vật thì không thể tóm tắt chỉ trong dăm ba chữ. Có lẽ nên tìm hiểu ý nghĩa
của dụ ngôn này trong bối cảnh văn chương của nó, để từ đó có thể thưởng thức,
lắng nghe và sống với dụ ngôn hơn là loay hoay tìm cách đặt một tựa đề.
1. Đức Giêsu kể dụ ngôn cho ai và để làm gì?
Tin Mừng Lu-ca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương
xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng
đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ ngôn trong bối cảnh nào,
có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức
Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều
lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pharisêu và các kinh sư
bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’
3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giêsu
kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến
với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người
Pharisêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với
chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những
người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà chính Đức
Giêsu tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về
phía Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi.
Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Trong bối cảnh trên, “Đức Giêsu kể cho họ dụ ngôn:…”. “Họ” – thính giả nghe các dụ ngôn trong bản
văn – chính là những người Pharisêu và các kinh sư. Có thể hiểu thêm là có cả
những người thu thuế và những người tội lỗi nữa, vì bản văn nói về họ. Như thế,
mục đích việc Đức Giêsu kể dụ ngôn là để giải thích và trả lời cho câu hỏi đặt
ra: Tại sao Đức Giêsu và những người thu thuế và tội lỗi lại đến với nhau? Đây
là điều mà những người Pharisêu và các kinh sư cho là chướng tai gai mắt, nên
dẫn đến việc xầm xì. Đồng thời, dụ ngôn cũng cho biết thực chất về cách cư xử
của họ.
Ngày nay, nhân vật “họ”
là bất kỳ ai đọc bản văn. Thực vậy, độc giả mới là thính giả đích thực của câu
chuyện, vì bản văn được viết ra cho họ. Độc giả trực tiếp là cộng đoàn Lu-ca
cuối thế kỷ I, tiếp đến là độc giả qua mọi thời đại, với tư cách là người đọc
bản văn. Vậy, dụ ngôn này có ý nghĩa gì cho độc giả? Câu chuyện này nói gì với
độc giả là tất cả chúng ta ngày nay?
2. Vị trí của ba dụ ngôn
Trong Lc 15, Đức Giêsu kể ba dụ ngôn, trong đó, hai dụ ngôn đầu
tiên rất ngắn, nói về con chiên đi lạc (Lc 15,4-7) và đồng bạc bị đánh mất (Lc
15,8-10). Hai dụ ngôn này diễn tả tấm lòng của Thiên Chúa dành cho những người
lạc lối, qua hình ảnh người mục tử đi tìm cho bằng được chiên lạc và người phụ
nữ tìm cho bằng được đồng tiền bị mất. Điều hai dụ ngôn này nhấn mạnh là chính
Thiên Chúa đi bước trước để tìm kiếm những gì đã mất. Áp dụng vào bối cảnh câu
chuyện thì hai dụ ngôn đầu tiên muốn ám chỉ Đức Giêsu, Người đến để tìm kiếm
những con chiên lạc, tìm kiếm những gì đã mất. Cụ thể là Người đến với những người
thu thuế và tội lỗi để dẫn họ trở về với Thiên Chúa.
Dụ ngôn thứ ba, tạm gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, dài hơn
và ý nghĩa phong phú hơn. Dụ ngôn thứ ba này bổ túc thêm những gì hai dụ ngôn
trước chưa diễn tả được. Điểm mới trong dụ ngôn này là chính “con chiên lạc” tự
tìm đường trở về với người mục tử, qua việc đứa con hoang đàng quyết định trở
về với cha của mình, chứ người cha không đi tìm. Như thế, thay vì đi tìm chiên,
đi tìm đồng bạc như trong hai dụ ngôn trước, thì dụ ngôn thứ ba trình bày hoàn
cảnh và tâm tư của những người đi lạc. Đi lạc theo cả hai nghĩa: Bỏ nhà đi
hoang (người con thứ) và đi lạc ngay tại nhà mình (người con cả), anh ta ở nhà
mà sống như người làm công.
Tóm lại, hai dụ ngôn đầu giải thích tại sao Đức Giêsu tiếp đón
và ăn uống với phường tội lỗi, dụ ngôn thứ ba giải thích hành động tích cực của
những người thu thuế và những người tội lỗi: Họ đến với Đức Giêsu và nghe Người
giảng. Dụ ngôn thứ ba còn cho biết thái độ của người cha và đề cao sự tự do của
hai người con trong sự lựa chọn của mình.
3. “Con thứ đi hoang” xin được coi như “người làm công”
Người con thứ tự quyết định ra đi và tự quyết định trở về sau
khi học được bài học quý giá từ cuộc sống. Người cha không ngăn cản con mình ra
đi. Đó là cách tốt để người cha huấn luyện con mình có trách nhiệm với lựa chọn
của mình. Như thế, nhận ra mình đã lạc đường và can đảm quyết định quay trở về
là một bước tiến lớn trong sự trưởng thành nhân cách. Anh ta đã đi một bước dài
trong tiến trình tự đào tạo bản thân. Điều anh ta tự nhủ đáng cho người đọc qua
mọi thời đại học hỏi: “17Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư
gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa
với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19chẳng còn đáng
gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ 20Thế rồi
anh ta đứng lên đi về cùng cha” (15,17-20).
Hoàn cảnh sống và quyết định của người con thứ là lời mời gọi
độc giả hãy học lấy từ cuộc sống, từ những thất bại, những bài học quý giá để
làm cho mình trưởng thành hơn. Nhờ học trường đời mà người con thứ đã can đảm
làm lại cuộc đời và biết lấy quyết định đúng đắn, không mặc cảm tự ti hay tự
tôn, cũng không sợ mất thể diện.
4. “Con cả ở nhà” sống như “người làm công”
Nhân vật phản diện của dụ ngôn người cha nhân hậu là “người con
cả”. Thái độ và cách xử
sự của anh ta ám chỉ thái độ của những người Pharisêu và các kinh sư. Lời xầm
xì giữa họ với nhau được đặt song song với lời người con cả trách cha mình và
nhục mạ em mình: “29Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi
nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn
mừng với bạn bè. 30Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của
cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15,29-30).
Lời trách móc cha (ám chỉ Đức Giêsu trong lời xầm xì ở 15,2) và lời chối bỏ em
mình (ám chỉ những người thu thuế và tội lỗi ở 15,1-2) cho thấy người con cả đã
không sống “tư cách làm con” và “tư cách làm anh” trong gia đình. Những người
Pharisêu và các kinh sư cũng đang xử sự như người con cả.
Không sống và cư xử như một người con, không đứng ở địa vị con
cái, người con cả suy nghĩ và hành động như một đứa ở trong nhà. Từ trước đến
bây giờ anh ta không biết đến điều cha anh nói: “Con à, lúc nào con cũng ở với
cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15,31).
Người con cả cũng không sống tư cách làm anh vì đã không đón
nhận sự trở về của em mình. Anh ta đã phủ nhận tư cách làm anh và hạ thấp em
mình khi nói: “Thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với
bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (15,30). Đó là “thằng
con của cha” chứ không phải là “đứa em của con”, một đứa em đáng quý trọng vì
đã biết ăn năn hối cải trở về.
Điều trớ trêu và châm biếm trong bản văn là tương phản giữa hai
người con: Người con thứ quay trở về chỉ xin được cha xem là “người làm công”,
vì nghĩ rằng mình không xứng đáng “làm con”, thì người con thứ lại được hưởng
trọn vẹn quyền “làm con” qua các biểu tượng: Mặc áo đẹp, đeo nhẫn, đi dép và dự
tiệc mừng (15,22-23). Ngược lại người anh cả tự cho mình là “người con gương
mẫu”, đã có công “hầu hạ”
cha trong nhiều năm, anh ta lại sống và suy nghĩ “như người làm công”, “như
người làm thuê”, “như đứa ở”
chứ không phải là “người con thực sự”.
Tình trạng của người con cả trầm trọng hơn nhiều so với việc bỏ
nhà đi hoang của người con thứ. Bởi vì người con cả ở nhà với cha nhưng không
sống tư cách làm con mà anh ta lại không biết điều ấy, nghĩa là vẫn nghĩ mình
là đứa con ngoan và hiếu thảo.
5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật trong trình thuật
Người con cả tưởng mình là con cái trong nhà, nhưng thực ra là
không phải. Cũng vậy, những người Pharisêu và các kinh sư tưởng mình thuộc về
Thiên Chúa, làm công việc của Thiên Chúa, phục vụ Thiên Chúa, nhưng thực sự
không phải. Họ đang đi ngược lại ý định của Thiên Chúa khi chống lại Đức Giêsu.
Sự tương phản giữa các nhân vật: “con cả – con thứ”, “những người Pharisêu và các kinh sư –
những người thu thuế và những người tội lỗi” song song với nhau. Bên ngoài,
người con cả ở nhà là đứa con ngoan, chăm lo hầu hạ cha nhưng thực chất bên
trong anh ta là đứa ở. Bên ngoài, người con thứ bỏ nhà đi hoang, không nhận ra
lòng thương xót của cha, nhưng tự trong lòng, anh đã biết hối cải quay về. Như
thế người con đi hoang trở về mới là “người con đích thực”. Mạch văn cho phép
hiểu: Những người thu thuế và những người tội lỗi sám hối trở về với Thiên Chúa
mới thực sự là con cái Thiên Chúa. Còn những người Pharisêu và các kinh sư là
những người làm thuê.
Liệu những người Pharisêu có hiểu và có nhận ra sự trớ trêu này
qua dụ ngôn không? Bản văn không cho độc giả biết, vì dụ ngôn kết cách đột ngột
với lời dạy của người cha: “31Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những
gì của cha đều là của con. 32Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em
con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (15,31-32). Dụ
ngôn kết dở dang ở đây để lại nhiều câu hỏi: Người anh cả phản ứng thế nào
trước lời dạy của cha mình? Liệu lời giáo huấn này có làm người con cả thay đổi
lập trường để biến tức giận thành niềm vui và trở lại làm con cái trong nhà hay
không? Liệu người anh có đổi cách suy nghĩ của người nô lệ để sống và ứng xử
với cha với tư cách là con và đón nhận em mình với tư cách là anh hay không?
Khi áp dụng dụ ngôn cho những người Pharisêu và các kinh sư, độc
giả biết câu trả lời cho những câu hỏi trên là “KHÔNG”, bằng chứng là trong
phần tiếp của Tin Mừng, những người Pharisêu và các kinh sư đã đeo đuổi cho đến
cùng việc chống đối Đức Giêsu và họ đã góp phần vào việc giết chết Đức Giêsu
trên thập giá.
6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả
Những điều trên đây là diễn tiến trình thuật trong Tin Mừng,
điều quan trọng mà bản văn nhắm tới là quyết định của độc giả, vì bản văn được
viết ra cho độc giả. Ở đây là độc giả của cộng đoàn Luca cuối thế kỷ I và cũng
độc giả qua mọi thời đại. Độc giả nghĩ gì và quyết định thế nào sau khi đọc
trình thuật. Thiết nghĩ độc giả có thể rút ra ba bài học từ câu chuyện:
1) Bài học nơi người con thứ.
Dám quyết định, dám ra đi, dám sống hết mình, dám nhìn nhận sự thật về mình,
dám nhận trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Đáng phục hơn cả là dám đứng lên,
dám làm lại cuộc đời, dám quay lưng lại với quá khứ, dám hối cải và trở về để
sống trọn vẹn tư cách làm con trong tình yêu thương của cha mình. Trong trình
thuật, việc những người thu thế và tội lỗi “đến với Đức Giêsu và nghe Người
giảng” (15,1) được ví như là người con thứ đã can đảm hối cải trở về. Vậy, độc
giả đang ở giai đoạn nào trong hành trình tìm kiếm của người con thứ?
2) Bài học từ người anh cả.
Có bao giờ chúng ta nghĩ mình là “con cái trong nhà” mà thực sự đang sống như
“người làm công” hay không? Trong tương quan với anh chị em mình, làm thế nào
để đón nhận và cùng chia sẻ trách nhiệm với anh chị em mình chứ không dùng kiểu
nói của người con cả: “Thằng con của cha đó”. Liệu lời dạy của người cha có làm
cho độc giả nhận ra sự thật trong tương quan với Cha trên trời và với anh chị
em mình không?
3) Bài học nơi cách xử sự của người cha.
Có nhiều điều để học hỏi nơi người cha về cách giải quyết những vấn đề phức tạp
và tế nhị trong cuộc sống. Có thể nói, khởi đầu dụ ngôn, người cha có hai
người con, nhưng trong thực tế lại không có đứa con nào cả. Một đứa thì đi
hoang, một đứa thì sống ở nhà với cha nhưng lại sống như một người làm công chứ
không phải là con. Làm thế nào để vừa tôn trọng tự do của đứa con muốn ra đi,
vừa biết chỉ dạy cho đứa con ở lại về cách thức làm con? Bản văn mời gọi các
bậc cha mẹ – cũng như những người có trách nhiệm trên người khác – biết áp dụng
cách giáo dục của người cha: Dùng tình thương để cảm hoá và tôn trọng sự tự do
để giáo dục sự tự do. Nhờ đó con người có khả năng lấy những quyết định đúng
đắn cho mình.
Cả ba bài học trên được trao vào tay người đọc là tất cả chúng
ta. Câu chuyện vẫn chỉ là câu chuyện, dụ ngôn vẫn mãi mãi là dụ ngôn. Bản văn
luôn là những gợi ý, những đề nghị chứ không trả lời thay cho chúng ta.
Kết luận
Trình thuật mở đầu (Lc 15,1-3) và dụ ngôn người cha nhân hậu với
hai người con (Lc 15,11-32) vẽ lên một bức tranh với nhiều màu sắc mạnh mẽ có
khả năng dẫn người đọc đến suy tư và nhận ra chính mình trong các nhân vật ấy.
Phần mở đầu (15,1-3) và phần dụ ngôn (15,11-32) soi sáng cho
nhau và nối kết chặt chẽ với nhau. Đứa con hoang đàng sám hối trở về là hình
ảnh của những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe
Người giảng dạy. Cách xử sự của người con cả là hình ảnh của những người
Pharisêu và các kinh sư. Họ tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa, nhưng khi chống
đối và bách hại Đức Giêsu, họ đã lạc đường và không sống tư cách làm con Thiên
Chúa nữa. Tất cả những tình tiết trong toàn bộ trình thuật được gửi đến độc giả
như một lời mời gọi độc giả đọc ra được ý nghĩa của câu chuyện.
Ước mong độc giả thưởng thức được những chi tiết độc đáo trong
bản văn, với những nét đẹp, nét tương phản, nét châm biếm, cùng với những lời
trách móc và sự hiểu lầm của các nhân vật… Nhờ việc sống với bản văn và suy
niệm dụ ngôn, người đọc sẽ được biến đổi để dần dần sống trọn vẹn tư cách làm
con và xây dựng tình anh em nhờ sự hối cải và trở về với Tình Yêu đích thực của
Cha trên trời.