Giáo dân xứ Ars nói với nhau: “Cha xứ
của chúng tôi luôn làm những điều ngài nói và thực hiện những điều ngài giảng.
Không bao giờ thấy ngài nghỉ ngơi thoải mái”.
Hồi
thiếu niên, tôi được biết Thánh LM Gioan Maria Vianney qua các tập truyện Hạnh Các
Thánh, và tôi đã rất “ấn tượng” với vị thánh “không giống ai” này. Việc Chúa
làm quá kỳ lạ! Quả thật, “điều gì là không thể với loài người thì vẫn có thể đối
với Thiên Chúa” (x. Mt 19:26). Ngài bị rủa là “con lừa”, nhưng “con lừa”
Vianney đã làm nên trò trống đáng kể!
Có
lẽ không người Công giáo nào lại không nghe danh của Thánh Linh mục Gioan
Baotixita Maria Vianney (Jean Baptiste Marie Vianney, John Baptist Mary Vianney
– lễ nhớ vào ngày 4-8 hằng năm), gọi tắt là Gioan Vianney, và thường gọi là
Curé d’Ars (cha sở xứ Ars). Tại sao? Vì ngài quá nổi tiếng, nổi tiếng cả về sự
học dốt, cả về nhân đức khiêm nhường và lòng đạo đức thánh thiện.
Cha
mẹ ngài là ông Matthêu Vianney và bà Maria Beluze, cả hai là người Pháp. Gia
đình có 6 anh chị em, Thánh Gioan Vianney là con thứ tư. Gia đình Vianney nhân
hậu, hay giúp người nghèo, và đã từng đón tiếp Thánh Bênêđictô Giuse Labre (bổn
mạng những người đi bộ) khi thánh nhân đi qua xứ Dardilly trên đường tới Rôma.
Mẹ
của Thánh Gioan Vianney là một phụ nữ rất sùng đạo, bà cho con trai biết đạo rất
sớm. Thánh Gioan Vianney nói: “Tôi mắc nợ
mẹ tôi, các nhân đức của mẹ tôi dễ dàng đi vào lòng con cái, và con cái sẵn
sàng làm những gì được nhìn thấy”. Ngài có bản chất tốt, với đôi mắt xanh
và tóc nâu. Về sau, ngài nói: “Khi tôi
còn nhỏ, tôi không biết điều xấu. Tôi quen như thế nơi tòa cáo giải, từ miệng của
các hối nhân”.
Thánh
Gioan Vianney là người có cách nhìn xuyên suốt mọi trở ngại và có những hành vi
tưởng chừng như không thể có. Ngài khao khát làm linh mục nhưng lại không đủ điều
kiện vào chủng viện, vì sức học quá yếu kém nên ngài đã phải cố gắng hết sức để
có thể vượt qua chính mình.
Thời
đó, La ngữ là ngôn ngữ chính của Giáo hội, vì thế mà chủng viện được gọi là Trường
La-tinh. Nhưng ngài không học nổi La ngữ nên buộc ngài phải dừng bước. Nhưng mơ
ước làm linh mục trong ngài vẫn cháy bỏng khiến ngài tự tìm thầy dạy riêng. Sau
thời gian dài vật lộn với sách vở, ngài được thụ phong linh mục. Thánh Ý Chúa
thật kỳ diệu!
Ngài
muốn dâng hiến vì vinh danh Thiên Chúa và cứu các linh hồn. Ngài quyết tâm phải
thánh thiện từ nhỏ, và điều đó đã hoàn tất nơi ngài. Mọi lời ngài nói ra đều được
nói bằng tâm tình sùng kính và yêu mến Chúa. Thành công của ngài khó ai có thể
bắt chước. Ảnh hưởng của ngài không thể bỏ qua, và kết quả không thể tranh luận.
Lúc
20 tuổi, ngài rất khó khăn để học làm linh mục. Sau nhiều gian truân lắm, thầy
Gioan Vianney mới được chấp nhận trở thành linh mục. Thầy Mathias Loras, có thể
là người thông minh nhất của ngài trong chủng viện, được phân công giúp ngài học,
và cũng rất nóng tính. Một hôm, hết chịu nổi khả năng của Gioan Vianney,
Mathias Loras (12 tuổi) đã bạt tai Gioan Vianney trước mặt các chủng sinh khác.
Mathias Loras thấy nóng mặt, nhưng cậu vẫn quỳ xuống trước mặt Gioan Vianney để
xin lỗi. Mathias Loras có một trái tim vàng. Gioan Vianney cảm thấy buồn và bật
khóc, rồi ôm lấy Mathias Loras đang quỳ dưới chân mình. Việc này bắt đầu một
tình bạn khăng khít. Mathias Loras về sau làm nhà truyền giáo tại Hoa Kỳ, rồi
làm giám mục giáo phận Dubuque, nhưng không bao giờ quên kỷ niệm xưa.
Một
ngày kia, một giáo sư thần học thừa lệnh giám mục đến khảo sát Gioan Vianney
xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục hay không. Tuy đã cố hết sức
học hành, nhưng thầy Gioan Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi
chảy. Bực mình và nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: “Gioan Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo
hội hy vọng làm nên trò trống gì chứ?”. Nếu ở Việt Nam, chắc hẳn Gioan
Vianney bị rủa là “dốt đặc cán mai” hoặc “đầu bã đậu”.
Tuy
nhiên, Gioan Vianney vẫn khiêm tốn và bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại
3.000 quân Philitinh. Vậy với cả con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì
sao?”. Quá tuyệt vời! Tuy học lực kém cỏi, chẳng bằng ai, nhưng ngài lại có
cách trả lời rất thông minh. Đúng là Chúa Thánh Thần tác động nơi ngài!
Và
rồi “con lừa” Gioan Vianney đã làm nên trò trống là làm rạng danh Thiên Chúa và
mưu ích cho Giáo hội rất nhiều. Cùng với Catherine Lassagne và Benedicta
Lardet, ngài đã lập Nhà La Providence (Chúa Quan Phòng), một nhà dành cho các
cô gái “sa cơ, lỡ vận”. Ngài tin rằng Thiên Chúa sẽ ban các điều cần cho tinh
thần và thể lý của những người coi Nhà Chúa Quan Phòng là nhà của mình.
Những
việc “bất khả thi” luôn ám ảnh ngài. Tài mọn, trí hèn, học kém, nhưng ngài vẫn
được “đặc cách” thụ phong linh mục vào năm 1815, lúc ngài 29 tuổi. Sau 3 năm ở
xứ Ecully, ngài được bổ nhiệm về xứ Ars – một giáo xứ nhỏ và “hoang vu” tại
Pháp quốc. Khi vừa đặt chân đến xứ Ars, ngài đã quỳ xuống hôn mảnh đất này.
Hành động đặc biệt này đã được Chân phước GH Gioan Phaolô II noi gương mỗi khi
ngài đến nơi nào đó.
Trong
thời gian quản nhiệm xứ Ars, một xứ nhỏ nhưng “rắc rối” đủ chuyện, ngài gặp nhiều
giáo dân sống lạnh nhạt và sống khá “thoải mái”. Ngài muốn giúp họ ăn chay
nghiêm ngặt và ngủ ít vào ban đêm, vì có một số quỷ chỉ có thể bị xua đuổi bằng
việc cầu nguyện và ăn chay.
Lm
Gioan Vianney cố gắng đạt được điều mà nhiều linh mục ước muốn, nhưng đó là điều
khó. Không thể làm trong một sớm một chiều, mà phải kiên nhẫn thay đổi từng
chút. Ngài nhận định: “Nếu một linh mục
không muốn mất linh hồn, thì ngay khi giáo xứ gặp rắc rối, linh mục đó phải vượt
qua mọi toan tính của con người, không sợ bị khinh thường và bị thù ghét. Linh
mục đó không cần phải biện hộ, dù bị sát hại. Mục tử muốn làm sứ vụ thì luôn phải
cầm gươm trong tay. Chính Thánh Phaolô đã nói với giáo đoàn Corintô: Phần tôi,
tôi rất vui lòng tiêu phí tiền của, và tiêu phí cả sức lực lẫn con người của tôi
vì linh hồn anh em. Phải chăng vì yêu mến anh em nhiều hơn mà tôi được yêu mến
ít hơn?”. (*)
Trong
các bài giảng đầu tiên, Thánh Gioan Vianney đã phản đối các thói hư tật xấu của
dân xứ Ars: Báng bổ, nguyền rủa, không coi trọng ngày Chúa nhật, chỉ ưa tụ tập
ăn nhậu và múa hát ở các quán xá, hát những bài ca trơ trẽn và ăn nói tục tĩu.
Ngài nói: “Quán xá là cửa hàng của ma quỷ,
là trường học của hỏa ngục, là thị trường buôn bán các linh hồn, là nơi làm tan
vỡ các gia đình, là nơi làm cho sức khỏe bị hao mòn, là nơi xảy ra các cuộc cãi
vã và giết người”.
Thánh
Gioan Vianney không bao giờ nghĩ xứ Ars sẽ thay đổi cho đến khi có 200 người sống
theo Mười Điều Răn của Chúa, Sáu Điều Răn của Giáo hội và hoàn tất nhiệm vụ
trong cuộc sống. Điều này có đòi hỏi quá nhiều để đổi lấy Nước Trời? Chúa Giêsu
nói: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải
thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống
mình?” (Mt 16:26; Mc 8:34; Lc 9:22). Nếu chúng ta hỏi họ làm gì trong ngày
Chúa nhật, có thể họ sẽ trả lời: “Tôi bán
linh hồn cho ma quỷ và đóng đinh Chúa Giêsu… Tôi đã được tiền định xuống hỏa ngục…”.
Đó có thể là lời được nói ra hoặc chỉ được nói thầm trong lòng!
Thánh
Gioan Vianney phải mất 10 năm mới có thể thay đổi dân xứ Ars. Không còn làm việc
ngày Chúa nhật, nhà thờ càng ngày càng đông người, không còn say xỉn. Cuối
cùng, các quán rượu đóng cửa vì không có khách, và các cuộc cãi vã trong gia
đình cũng hết. Lòng chân thật trở nên tính cách chung. Thánh Gioan Vianney viết:
“Xứ Ars không còn là xứ Ars xưa nữa”,
vì cả xứ đã thay đổi tận gốc rễ. Cả xứ Ars trở nên một cộng đoàn đạo hạnh. Ngài
vui mừng dạy giáo lý cho trẻ em và dạy chúng làm bổn phận.
Thánh
Gioan Vianney thánh hóa mình trong công việc và luôn sống trong thế giới siêu
nhiên, nhưng vẫn hoàn thành nhiệm vụ của một con người và một linh mục. Ngài
nói: “Thật tốt đẹp biết bao khi làm mọi việc đều kết hiệp với Thiên Chúa nhân
lành! Hồn tôi ơi, hãy can đảm! Nếu ngươi làm việc với Thiên Chúa, ngươi sẽ thực
sự làm việc, và Ngài sẽ chúc lành cho công việc. Ngươi sẽ bước đi và Ngài sẽ
chúc lành cho những bước chân. Mọi thứ đều được ghi công. Hãy dâng mọi đau khổ
nhỏ lên cho Chúa. Tốt đẹp biết bao nếu biết dâng mình, dâng ngày, dâng mọi sự
cho Chúa!”.
Trong
thư an ủi người anh em họ là Lm Chalovet, Thánh Gioan Vianney viết: “Tôi vội viết những dòng này để nói anh đừng
bỏ đi, dù có những thử thách mà Chúa muốn anh chịu đựng. Hãy can đảm! Nước Trời
đủ để làm phần thưởng cho anh. Hãy nhớ rằng ma quỷ trong thế giới này muốn
giành lấy các Kitô hữu tốt lành. Anh đang trong hành trình tử đạo. Nhưng phúc
thay nếu anh là người tử đạo vì bác ái! Đừng để mất triều thiên vinh hiển đó.
Chính Chúa Giêsu đã nói: ‘Phúc cho ai chịu bách hại vì Ta’. Xin chào tạm biệt.
Hãy kiên trì và chúng ta sẽ gặp lại nhau trên Nước Trời… Hãy can đảm lên, hỡi
người anh em! Chúng ta sẽ sớm thấy Thiên đàng vinh quang. Sẽ không còn thập giá
cho chúng ta! Thật là thiên phúc! Chúa Giêsu đã yêu chúng ta quá nhiều và Ngài
sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc!”.
Từ
nhỏ, Thánh Gioan Vianney đã yêu mến Đức Mẹ. Khi là linh mục, ngài luôn cố gắng
truyền bá lòng sùng kính Đức Mẹ. Các gia đình trong xứ Ars đều có tượng Đức Mẹ
trước nhà, và trong nhà nào cũng có ảnh Đức Mẹ với chữ ký “M. le Curé” (Cha sở
Maria, tức là Lm Gioan Maria Vianney). Năm 1814, ngài cho dựng tượng Đức Mẹ Vô
Nhiễm tại nhà thờ xứ. Tám năm trước đó, ngày 1-5-1836, ngài đã dâng xứ Ars cho
Đức Mẹ Vô Nhiễm. Những ngày lễ Đức Mẹ, giáo dân rước lễ rất đông, và nhà thờ
không bao giờ vắng người. Chiều các ngày lễ Đức Mẹ, không ai muốn bỏ lỡ các bài
giảng của ngài về Đức Mẹ. Người nghe rất phấn khởi khi nghe ngài nói về sự
thánh thiện, sức mạnh và tình yêu của Đức Mẹ.
Giáo
dân xứ Ars nói với nhau: “Cha xứ của
chúng tôi luôn làm những điều ngài nói và thực hiện những điều ngài giảng.
Không bao giờ thấy ngài nghỉ ngơi thoải mái”. Ngài ăn chay nghiêm ngặt, đến
nỗi chỉ còn da bọc xương. Ngài ngủ ít, mà chỉ nằm trên chiếc chiếu giản dị, và
việc ăn uống của ngài cũng rất sơ sài, có khi chỉ là mấy củ khoai. Thánh Gioan
Vianney đọc sách nhiều, và thường đọc hạnh các thánh. Ngài ấn tượng với cách sống
thánh thiện của các thánh, ngài muốn chính ngài và người khác cũng noi theo những
tấm gương đạo đức đó. Cách sống của ngài khiến chúng ta phải thẳng thắn tự xét
mình rất nhiều! Đúng là “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”.
Ngài
nói: “Nếu chúng ta không là thánh bây giờ,
thật bất hạnh cho chúng ta, vì thế mà chúng ta phải nên thánh ngay bây giờ.
Trong lòng chúng ta không có tình yêu thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể làm
thánh”.
Từ
năm 1827, bắt đầu có nhiều người đổ về xứ Ars. Khách hành hương đến từ Pháp, Bỉ,
Anh và từ Mỹ châu. Động lực chính của khách hành hương là muốn xưng tội với vị
thánh sống và nghe lời khuyên của cha sở thánh thiện của xứ Ars. Tất cả là hồng
ân Chúa, việc Chúa làm, chứ ngài không bao giờ xía vào chuyện riêng của người
khác. Ngài hoàn toàn không tò mò, thọc mạch, hoặc chỉ trích giáo dân. Cũng như
Thánh Giám mục Phanxicô Salê, ngài có biệt tài “thấy những cái mà người khác không thấy”. Khi giải tội, ngài thực
sự thương yêu các hối nhân, đến nỗi ngài thường khóc ngay tòa giải tội. Người
ta hỏi sao ngài khóc thì ngài trả lời: “Tôi
khóc vì bạn không khóc”.
Người
ta nói rằng “phép lạ vĩ đại của cha sở xứ Ars là tòa cáo giải”, vì ngài giải tội
suốt ngày suốt đêm. Cũng có người nói rằng “phép
lạ vĩ đại nhất của cha sở xứ Ars là hoán cải tội nhân”. Một hôm, có người tới
xưng tội, người này chỉ đến nhà thờ vào ngày lễ Giáng sinh và Phục sinh. Thánh
Gioan Vianney hỏi: “Ông xưng tội bao lâu
rồi?”. Người này trả lời: “Bốn mươi
năm rồi”. Ngài ngạc nhiên: “Bốn mươi
năm thật sao?”. Người này nói: “Dạ,
đúng là bốn mươi năm”. Và rồi người đàn ông này đã trở lại và chết tốt
lành.
Ngày
nay, mỗi năm có hơn 500.000 lượt người đến thăm giáo xứ nhỏ bé Ars để kính viếng
thi-hài-không-hư-nát của một Đại thánh nhân của Giáo hội Công giáo. Cuộc đời
Thánh Gioan Vianney là câu chuyện dài về sự thánh thiện và đức khiêm nhường,
ngài có trí thông minh kém cỏi nhưng rất thông minh về Thiên Chúa. Ngài chỉ
thành công khi trở thành linh mục, ngài đã hoán cải cuộc đời rất nhiều tội nhân
và ảnh hưởng mọi lớp người.
Suốt
đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn mọi tội nhân được
giải hòa với Thiên Chúa. Từ năm 1827, Lm Gioan Vianney trở nên nổi như cồn khắp
thế giới, người từ khắp nơi bắt đầu tuôn đến xứ Ars để được gặp “thánh sống” và
xin ngài linh hướng. Năm 1855, số khách hành hương lên tới 20.000 lượt người mỗi
năm. Do đó, có những ngày ngài giải tội 11 giờ hoặc 12 giờ vào mùa Đông, và thậm
chí là 16 giờ vào mùa Hè. Ngài không hề nghĩ tới việc nghỉ hưu. Khi nhiều người
biết đến ngài, ngài dành thêm thời gian để phục vụ Thiên Chúa, thậm chí ngài có
rất ít thời gian để ngủ vì ngài thường xuyên bị ma quỷ “quấy rầy”.
Ngài
không hề nghĩ tới việc nghỉ hưu. Khi nhiều người biết đến ngài, ngài dành thêm
thời gian để phục vụ Thiên Chúa, thậm chí ngài có ít thời gian để ngủ vì thường
xuyên bị ma quỷ “quấy rầy”. Ăn ít và ngủ ít, khuôn mặt ngài rất khắc khổ, má
hóp, da nhăn, tóc hóa “bạch kim” vì hết mình làm công việc mục vụ đến nỗi quên
cả chăm sóc bản thân và hành xác theo quan niệm ngày xưa. Ngài rất sùng kính Đức
Mẹ và Thánh Philomena – Trinh nữ Tử đạo, vì chính ngài đã cầu xin Thánh nữ chữa
khỏi bệnh cho ngài.
Thánh
Gioan Vianney sinh sinh ngày 8-5-1786 tại TP Dardilly (Pháp quốc). Ngày
4-8-1859, Lm Gioan Vianney trút hơi thở cuối cùng để về với Chúa tại xứ Ars
(Pháp quốc), làm cha sở xứ Ars được 41 năm. Ngài được ĐGH Piô X tôn phong chân
phước, và được ĐGH Piô XI tôn phong hiển thánh năm 1925. Ngài còn được tôn
phong là bổn mạng các linh mục, thế nhưng có những linh mục vẫn chưa thực sự
noi gương ngài để trở thành khí cụ hiệu quả của Thiên Chúa!
Cuộc
đời Thánh Gioan Maria Vianney là mục tử đích thực, vì ngài đã thực sự hoàn tất
theo Thánh Ý Chúa, đúng như lời Thầy Chí Thánh Giêsu đã xác định: “Con Người đến
không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm
giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45).
Trong
phòng áo lễ của tu viện, Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta treo tấm bảng ghi: “Xin
linh mục của Chúa dâng lễ này như Thánh lễ mở tay, như Thánh lễ sau cùng, như
Thánh lễ chỉ dâng duy nhất một lần trong đời mà thôi”. Một nữ tu mà có ý tưởng
sâu sắc, đầy chất thần học, và ý hướng thánh thiện quá, vì cử hành thánh lễ là
cử hành bí tích, nhiệm vụ rất quan trọng!
Có
quy-trình-trao-đổi thế này: Nếu linh mục là vị Thánh, giáo dân sẽ thánh thiện;
nếu linh mục thánh thiện, giáo dân sẽ tốt lành; nếu linh mục tốt lành, giáo dân
sẽ tử tế; nếu linh mục tử tế, giáo dân sẽ vô tín ngưỡng. Thánh Gioan Vianney đã
và đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm! Hãy tự đấm ngực chứ đừng vỗ ngực, tự
nhận lỗi mình, đừng biện hộ bằng những cái NẾU, VÌ, BỞI, TẠI, GIÁ MÀ,…
Lúc
sinh thời, Thánh Giáo hoàng Piô X (1835-1914) đã xác định: “Tôi sinh ra nghèo hèn, tôi sống nghèo hèn, tôi sẽ chết nghèo hèn”.
Ngài đã tỏ ra lúng túng vì một số nghi thức long trọng dành cho ngài trong lễ
đăng quang giáo hoàng. Ngài nói trong nước mắt: “Nhìn kìa! Người ta cho tôi mặc đẹp biết bao!”. Rồi ngài nói thêm: “Phải chấp nhận như thế là việc đền tội. Họ
dẫn tôi đi với lính tráng vây quanh như Chúa Giêsu khi Ngài bị bắt trong vườn Gếtsimani
vậy”. Hay quá! Tuyệt quá! Nhân đức quá!
Hình
ảnh vị Giáo hoàng Phanxicô đang cho chúng ta thấy rõ nét chân dung Đức Kitô:
Nghèo khó, khiêm nhường, giản dị, hòa nhã, tươi cười,…
Ngày
9-7-2013, trong khu vườn Vương Cung Thánh Đường Buenos Aires, nơi trước đây ĐHY
Jorge Mario Bergoglio đã cai quản trước khi trở thành vị Giáo hoàng của Mỹ Châu
Latin đầu tiên trên thế giới, bỗng dưng xuất hiện bức tượng chân dung ĐGH
Phanxicô. Bức tượng chân dung này do nghệ sĩ Fernando Pugliese thiết kế, và họ
cũng chỉ muốn tỏ lòng quý mến ngài thôi. Nhưng khi hay tin như vậy, ngài đã gọi
điện thoại cho những người hữu trách phải gỡ bỏ ngay lập tức bức tượng tạc ngài
ra khỏi khu vườn đó. Độc đáo lắm!
Và
rồi ngày 22-7-2013, khi đáp trực thăng tới Rio de Janeiro để tham dự Ngày Giới
trẻ Thế giới, ĐGH Phanxicô đã đích thân xách cặp chứ không để cho ai xách dùm.
Ngài muốn đến gần các bạn trẻ nhưng không ai cho ngài tới vì lý do an ninh,
ngài bảo: “Tôi như bị nhốt trong lồng vậy”.
Chúng ta phải suy nghĩ nhiều mà chấn chỉnh cách sống và lề thói làm việc. Vì
chúng ta còn rất quan liêu, mỗi cấp mỗi “định dạng” và “mặc định” khác nhau.
Hãy “sờ gáy” mình trước, đừng vội trách ai!
Lạy
Thánh Gioan Vianney, xin cho chúng con biết noi gương thánh thiện của ngài, và
xin nguyện giúp cầu thay cho chúng con để chúng con có thể mau mắn hoán cải và
sống theo lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Hãy
nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
TRẦM
THIÊN THU