Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXI Quanh Năm C
I.
Giáo
Huấn P.Â.:
Số người được cứu độ bị
hạn chế bằng:
Cửa hẹp: tức qui luật khắc
khe không phải ai cũng có khả năng đáp ứng dễ dàng nhưng phải chiến đấu để có
thể lọt qua.
Giờ giấc: Con người có
thời gian để chiến đấu, để lập công vào nước Trời. Nếu cứ buông xuôi, thả lõng
hay bê tha thì có lúc không còn kịp vì chủ nhà “đã đứng dậy, khóa cửa” và không
tiếp nhận thêm người, dù người đó có lúc đã từng sốt sắng, đã từng ‘ăn uống
trước mặt Ngài’.
II.
Vấn nạn P.Â.
Có hỏa ngục không? Kinh
Thánh nói gì về hỏa ngục?
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về sự hiện hữu của
hỏa ngục và những ai sẽ bị phạt trong hỏa ngục:
Phúc Âm Matthêô 5:22 "Tôi bảo thật anh
em, bất cứ ai trong anh em giận ghét anh em mình thì đều có tội. Ai mắng anh em
mình ‘đồ vô dụng!’ cũng đáng luận phạt trước tòa án. Còn ai bảo anh em mình
“ngu ngốc!” thì đáng bị phạt trong hỏa ngục.
Phúc Âm Matthêô 10:28 "Đừng sợ
những ai chỉ giết được thân xác mà không làm gì được linh hồn; nhưng hãy sợ
người có thể tiêu diệt cả xác và hồn
Phúc Âm Matcô 9:43-47 "Nếu tay anh em
gây dịp tội cho anh em, hãy chặt bỏ! Tốt hơn nếu chỉ có một tay mà vào nước
thiên đàng còn hơn lành lặn hai tay mà bị phạt trong lửa hỏa ngục không bao giờ
tắt! Nếu chân anh em gây dịp tội, hãy chặt bỏ, thà một chân mà vào nước thiên
đàng còn hơn hai chân mà phải vào hỏa ngục. Nếu mắt gây dịp tội cho anh em, hãy
móc mắt mà quăng, thà có một mắt mà vào nước thiên đàng còn hơn đầy đủ hai mắt mà
vào hỏa ngục…”
Đan cử vài câu chuyện có thật về hỏa ngục
được kể bởi Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt như sau:
Thánh Francesco De Geronimo (1642-1716), hay cũng gọi là ''Di
Girolamo'', một vị thánh nổi tiếng vào thế kỷ 18. Thánh Girolamo là một linh
mục dòng Tên, sinh tại Taranto, nhưng hoạt động tông đồ và qua đời tại Napoli, miền
Nam nước Ý. Mục vụ nổi bật nhất của ngài là giảng các tuần đại phúc. Vào thời
kỳ ấy, các buổi giảng thuyết thường diễn ra nơi các đường phố, tại các công
viên, giữa các quảng trường, hay trong các khu vực có những nhà điếm. Mục đích
của thánh nhân là mời gọi mọi người hồi tâm thống hối, trở về cùng Thiên Chúa
và sống ngay chính.
Một hôm, thánh Gêrônimô giảng trước đám đông, kéo đến nghe ngài nơi
quảng trường thành phố Napoli. Gần đó, trong căn nhà có cửa sổ nhìn xuống quảng
trường, có một phụ nữ trắc nết sinh sống. Với chủ đích quấy phá và lấn át tiếng
nói của vị thánh, bà cất tiếng la hét ầm ĩ và múa máy lung tung. Mọi lời khuyến
cáo bà im đi, đều vô hiệu. Thánh Geronimo đành bỏ dở buổi giảng thuyết hôm ấy.
Ngày hôm sau, thánh nhân trở lại chỗ cũ. Ngạc nhiên vì thấy cửa sổ phòng
bà kia đóng kín mít, thánh nhân hỏi lý do tại sao. Người ta cho ngài biết, bà
ta đã bất ngờ qua đời trong đêm. Thánh nhân liền nói: "Chúng ta hãy đi xem
bà”. Một số đông đi theo ngài và trông thấy xác bà còn nằm sóng soài dưới đất
.. Như được linh hứng, thánh nhân cất tiếng hỏi:
"Hỡi Catarina, nhân danh Chúa, hãy nói cho mọi người đang có mặt đây biết, bà đang ở đâu”.
"Hỡi Catarina, nhân danh Chúa, hãy nói cho mọi người đang có mặt đây biết, bà đang ở đâu”.
Tức khắc, đôi mắt người quá cố hé mở, đôi môi động đậy. Rồi bằng
một giọng khàn khàn, khủng khiếp, bà trả lời: "Ở trong Hỏa Ngục .. Tôi bị
trầm luân trong Hỏa Ngục đời đời kiếp kiếp!” Mọi người hiện diện toát mồ hôi lạnh,
dựng tóc gáy!. Lúc xuống cầu thang, thánh Gêronimo lẩm nhẩm lập lại:
"Trong Hỏa Ngục mãi mãi .. Ôi Thiên Chúa công minh, đáng sợ biết là chừng
nào!”
Đa số những người chứng kiến cảnh tượng hãi hùng đó, không muốn trở
về nhà, trước khi xét mình kỹ lưỡng, thành tâm thống hối và sốt sắng lãnh nhận
bí tích Giải Tội.
Linh mục Francesco De Geronimo được Đức Giáo Hoàng Pio 7 (1800-1823) tôn phong chân phước ngày 2-5-1806 và được Đức Giáo Hoàng Gregorio 16 (1831-1846) nâng lên hàng hiển thánh ngày 26-5-1839. Trong hồ sơ xin phong thánh cho ngài, ghi lại chứng từ của một người như sau: "Con có mặt trong biến cố kinh hoàng ấy. Nhưng con không biết trình bày ra sao, diễn tả như thế nào cho đúng tâm tình của con cũng như của mấy người khác. Con chỉ biết nói rằng, cứ mỗi lần có dịp đi ngang quảng trường và trông thấy cánh cửa sổ ấy, con như còn nghe rõ ràng tiếng nói khàn khàn khủng khiếp: "Trong Hỏa Ngục .. Tôi bị trầm luân đời đời trong Hỏa Ngục!”.
Linh mục Francesco De Geronimo được Đức Giáo Hoàng Pio 7 (1800-1823) tôn phong chân phước ngày 2-5-1806 và được Đức Giáo Hoàng Gregorio 16 (1831-1846) nâng lên hàng hiển thánh ngày 26-5-1839. Trong hồ sơ xin phong thánh cho ngài, ghi lại chứng từ của một người như sau: "Con có mặt trong biến cố kinh hoàng ấy. Nhưng con không biết trình bày ra sao, diễn tả như thế nào cho đúng tâm tình của con cũng như của mấy người khác. Con chỉ biết nói rằng, cứ mỗi lần có dịp đi ngang quảng trường và trông thấy cánh cửa sổ ấy, con như còn nghe rõ ràng tiếng nói khàn khàn khủng khiếp: "Trong Hỏa Ngục .. Tôi bị trầm luân đời đời trong Hỏa Ngục!”.
Câu chuyện khác xảy ra tại Roma, mấy ngày trước lễ Truyền Tin vào năm
1873. Nơi căn nhà của các cô gái làng chơi, tức các cô gái hành nghề mại dâm,
có một cô gái bị thương nơi tay. Vết thương ban đầu tưởng nhẹ, nhưng bỗng trở
nặng cách bất ngờ. Cô gái được đưa vào nhà thương và qua đời ngay đêm hôm ấy.
Trong cùng đêm đó, nơi căn nhà mại dâm, một cô gái khác, không hay biết gì về
điều xảy đến cho bạn mình ở nhà thương. Nhưng cô cất tiếng hét ầm ĩ, gây xáo
trộn trong nhà và làm náo động các căn nhà chung quanh. Không ai làm cho cô im
được. Người ta phải gọi cảnh sát đến can thiệp. Sau cùng, cô kể cho mọi người
nghe như sau. Người bạn gái qua đời ở nhà thương, hiện về với thân mình rực lửa
và nói với cô rằng:
"Tôi bị trầm luân muôn kiếp trong Hỏa Ngục. Vậy nếu cô không muốn bị cùng số phận như tôi, hãy tức khắc rời bỏ cái chốn nhơ nhớp này và trở về cùng Thiên Chúa!”.
Kể xong, cô đứng ngồi không yên và mong cho trời mau sáng, để dọn đồ ra khỏi nhà. Mọi người ngỡ ngàng và càng kinh ngạc hơn nữa, khi sáng sớm hôm sau, nhận tin cô gái bị thương nơi tay, đã qua đời trong đêm ấy tại nhà thương.
"Tôi bị trầm luân muôn kiếp trong Hỏa Ngục. Vậy nếu cô không muốn bị cùng số phận như tôi, hãy tức khắc rời bỏ cái chốn nhơ nhớp này và trở về cùng Thiên Chúa!”.
Kể xong, cô đứng ngồi không yên và mong cho trời mau sáng, để dọn đồ ra khỏi nhà. Mọi người ngỡ ngàng và càng kinh ngạc hơn nữa, khi sáng sớm hôm sau, nhận tin cô gái bị thương nơi tay, đã qua đời trong đêm ấy tại nhà thương.
Về phần bà chủ căn nhà mại dâm, bà kinh hoàng đến độ, lâm trọng
bệnh. Nghĩ tới cuộc hiện về của cô gái khốn khổ bị rơi xuống Hỏa Ngục, bà liền
hồi tâm và ăn năn thống hối. Bà xin rước linh mục đến để nhận lãnh các Bí Tích.
Giáo quyền cử một linh mục thánh thiện. Đó là đức ông Sirolli, cha sở nhà thờ
"San Salvatore in Laura”. Trước sự hiện diện của nhiều nhân chứng, đức ông
Sirolli bắt buộc bệnh nhân phải công khai phản cung các lời bà đã xúc phạm
chống lại Đức Giáo Hoàng. Bà cũng phải long trọng từ bỏ việc điều hành căn nhà
mại dâm nhục nhã này. Bệnh nhân khiêm tốn thi hành mọi đòi buộc của vị linh
mục. Bà sốt sắng nhận lãnh các Bí Tích sau cùng và trút hơi thở trong ơn nghĩa
Chúa. Toàn thể dân thành Roma đều biết và kể cho nhau nghe biến cố có một không
hai ấy.
Chúa dựng nên con người để
cứu độ con người.
Chúa sinh xuống làm người
để cứu độ con người.
Chúa lập Giáo Hội, ban các
bí tích để mang ơn cứu độ cho con người. Tại sao còn có chuyện hỏa ngục để
trừng phạt nhân loại hay cửa hẹp để hạn chế người được cứu độ?
Xin trích dẫn những nghiên
cứu công phu dưới đây từ Catholic Digest để chúng ta có một hiểu biết chính xác
về hỏa ngục: Hỏa ngục, một hiện thực trong các tôn giáo. Vào hỏa ngục hay bị
phạt trong hỏa ngục là sự chọn lựa tự do của con người. Thiên Chúa là Thiên
Chúa cứu độ, Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài không định cho ai xuống hỏa
ngục cả.
Hỏa ngục được tìm thấy
trong các tôn giáo lớn nhỏ khác nhau.
Theo Do thái giáo, ý niệm Hades là nơi dành cho các
vong hồn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ. Nhưng kể từ thế kỷ thứ 19, khi ông Moses
Mendelssohn, một triết gia người Ðức có ảnh hưởng lý luận rằng hình phạt đời
đời là không hợp với lòng thương xót của Thượng Ðế, ý tưởng về hoả ngục theo
nghĩa đen đã bị bác bỏ phần lớn. Ðồng thời một nhà thông thái vào thế kỷ thứ 12
tên là Moses Maimonides dạy rằng việc nhắc đến hoả ngục trong Kinh Thánh phải được
hiểu một cách hình tượng. Ngoại trừ Do thái giáo thuộc ngành Chính thống, niềm
tin vào sự sống đời sau hầu như biến mất khỏi đạo Do thái ngày nay.
Ðối với Hồi giáo, hoả ngục là một hố lửa dưới một cây
cầu hẹp mà mọi linh hồn phải bước qua để vào thiên đàng. Những ai mà Allah
(Thượng Ðế) xét rằng không xứng thì rơi xuống hố lửa và phải chịu hình phạt thể
lý đời đời ở một trong 7 tầng hoả ngục. Kinh Koran sử dụng hình ảnh như Kinh
Thánh để diễn tả về hoả ngục: "hồ lửa," "chiếc giường thiêu đốt
khổ sở" nơi người độc ác và những kẻ vô đạo phải chịu đau khổ không dứt và
chỉ được uống thứ "nước sôi hôi hám."
Theo Ấn Ðộ giáo, linh hồn trên đường đầu thai phải
trải qua một trong 21 hoả ngục để đốt cháy nghiệp báo. Một khi được thanh
luyện, linh hồn đó được luân hồi ở một trạng thái cao hơn ở cuộc sống kế tiếp.
Những linh hồn nào mà nghiệp báo không quá xấu có thể đầu thai trở lại thành
con vật. Chẳng hạn, một người ăn trộm thịt có thể đầu thai thành một con kên
kên, một tên trộm ngũ cốc biến thành con chuột. Những linh hồn nào mà nghiệp
báo quá xấu xa trở thành những loại đồ vật. Người độc ác nhất bị kết án ở hoả
ngục thấp nhất nơi họ có thể bị nấu trong những vạc dầu sôi hay bị quạ xâu xé thịt.
Phật giáo, như Ấn Ðộ giáo, cũng nói về một số hoả ngục như những chặng
dừng trong hành trình của một người tiến về niết bàn. Theo Phật giáo vì con
người không có linh hồn, năng lực nghiệp quả người đó được luân hồi từ cõi sống
này qua cõi sống khác. Theo Phật giáo truyền thống, có 7 loại hoả ngục nóng rực
với những phòng hành hình, một hố lửa, và một bãi lầy chờ đợi những ai làm điều
ác. Theo Phật giáo Tây Tạng, có 8 hoả ngục lạnh lẽo với những hoả ngục ngoài
cùng dành cho những ai ít tội.
Theo Lão giáo, người chết được gửi về một trong những
Phật cảnh, đến núi ở của các vị bất tử, hay đi đến một trong những hoả ngục.
Trong khi một số tôn giáo bộ lạc ở Á châu và Phi châu tin vào án
phạt hoả ngục, đa số các tôn giáo của người dân bản xứ ở Bắc Mỹ không tin vào điều
này. Mặc cho có những sự khác biệt, các tôn giáo cùng chia sẻ niềm tin chung ở
chỗ một số tội ác quá nặng nề không thể trừng phạt thích đáng nơi cõi đời này
và do đó phải có một hình phạt sau cái chết.
Hỏa ngục theo Công Giáo: Mùa hè năm 1999, tạp chí La Civilta Catolica
của Dòng Tên ở Ý mà các bài đăng thường được xem là có sự chuẩn thuận của Toà
Thánh đã có một bài bình luận về đề tài hoả ngục trong đó tác giả cho rằng hoả
ngục không phải là một nơi chốn nhưng là tình trạng của một người chịu đau khổ
vì không có Chúa. Vài ngày sau đó, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô trong một buổi
triếu yết chung tại Vatican đã phát biểu rằng: "Thay vì là một nơi
chốn, hoả ngục chỉ tình trạng những người tự tách rời mình vĩnh viễn ra khỏi
Thiên Chúa trong sự tự do của họ." Ðể diễn tả tình trạng này, Ðức
Thánh Cha nói rằng, Kinh Thánh "dùng ngôn ngữ biểu tượng" minh hoạ
trong biển lửa những ai tự loại trừ chính mình ra khỏi sổ hằng sống và như thế
gặp phải cái chết thứ hai."
Ðức Thánh Cha không có ý loại bỏ nọc độc của hoả ngục. Tuy vậy,
ngày nay khi hình ảnh hoả ngục thường được gợi lên trong các trang tranh vẽ của
trẻ em thay vì được rao trên bục giảng, nhận xét của Ðức Gioan Phaolô II về hoả
ngục nhằm mục đích lấy lại và cập nhật hoá tín lý về hoả ngục mà đã bị lãng
quên từ lâu để từ đó có thể giúp cho người tín hữu sống đạo đức hơn. Theo sử gia
Martin Marty, giáo sư danh dự của Ðại học Thần học Chicago và là một chuyên
viên về lịch sử Giáo hội: "Nếu Ðức Thánh Cha gợi lên hình ảnh hoả ngục với
những ngọn lửa và một con quỷ màu đỏ với cái chĩa ba, người ta sẽ không lấy làm
quan tâm lắm đâu vì giống như là tranh biếm hoạ."
Dù sao đi nữa, quan điểm về hình ảnh hoả ngục mang tính cách biểu
tượng đi đôi với quan điểm của đa số dân chúng ngày nay. Một cuộc thăm dò dư luận
gần đây của Tuần báo U.S. News & World Report cho thấy ngày nay có
nhiều người Mỹ tin vào hoả ngục hơn là trong những năm 1950 hay ngay cả 10 năm
về trước. Nhưng như Ðức Thánh Cha, đa số nghĩ hoả ngục là "tình trạng hiện
hữu thống khổ"hơn là một nơi chốn thật sự.
Hoả ngục ăn sâu trong giáo huấn của Do thái giáo và Kitô giáo.
Trong thời Kinh thánh sơ khởi, các quan niệm về hoả ngục không rõ ràng cho lắm.
Chẳng hạn, bản văn Do thái của các sách Khởi nguyên, Các Vua quyển 1, Thánh
vịnh, và Gióp, đề nghị là tất cả những ai qua đời, cả người công chính lẫn
người độc ác, đều được gửi xuống một thế giới âm u gọi là Sheol một chỗ
như Hades của huyền thoại cổ Hy lạp có nghĩa là "âm phủ," nơi
không có vui cũng không có hình phạt. Ví dụ, trong sách Khởi nguyên, tổ phụ
Giacóp tin rằng Giuse con mình đã chết nên than khóc: "Ta sẽ để tang con
ta mà xuống âm phủ với nó" (St 37:35).
Vào thế kỷ thứ 2 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, khi Kinh Thánh Do
thái được dịch sang tiếng Hy lạp, từ Hades thay thế Sheol trong
Kinh thánh Hy lạp, và trong sự suy nghĩ của dân chúng hai ý niệm này hòa lẫn
với nhau. Sau này, khi một số thành phần trong đạo Do thái bắt đầu tin vào kết
cuộc phục sinh của người chết, Hades không còn là nơi "trung
lập" nhưng trở thành chốn tạm dung của những linh hồn người độc ác mà thôi
(Kn 4:19) còn người công chính về thẳng thiên đàng chờ đợi thân xác phục sinh.
Còn hình phạt của hoả ngục trong thời này được trình bày rất gợi hình qua ý
niệm Gehenna. Chữ Gehenna là tiếng Hy lạp lấy gốc từ tiếng Do
thái Gehinnom để chỉ về Thung lũng hoang vắng Hinnom ở phía nam
Giêrusalem, nơi có những cuộc sát tế con người cho các thần xứ Canaan (2 V
23:10) và sau này dùng để chỉ một nơi lửa không hề tắt và sâu bọ không hề chết
đồng thời cũng là nơi các thây ma phản loạn với Thiên Chúa được những người hành
hương lên Giêrusalem chứng kiến (Is 66:24).
Qua thời Tân Ước, các tác giả Sách Thánh vẫn sử dụng sự hiểu biết
về hoả ngục theo truyền thống đạo Do thái. Từ Gehenna xuất hiện 11 lần
trong Phúc Âm Nhất Lãm. Cách nói và hình ảnh truyền thống về hoả ngục như lửa,
sự tăm tối, giòi bọ, tiếng rống, nghiến răng, v.v... (Mt 3:12; 5:22; 5:29ff;
10:28; 13:42, 50; 18:9; 23:15,33: Mk 9:43ff; Lc 13:28).
Riêng Phúc Âm theo Thánh Gioan mặc dầu không dùng từ Gehenna
vẫn nói về hình phạt bằng sự phán xét và tối tăm. Nhưng trên hết, hình phạt là
bị gạt ra ngoài sự sống viên mãn ban bởi Người Con (Ga 2:19; 8:24; 10:28).
Thánh Phaolô cũng diễn tả ý tưởng hình phạt đời đời nhưng không có
hình ảnh cụ thể như trong các sách khác của Tân Ước. Thánh Phaolô nói về sự hủy
diệt đời đời, bị xua đuổi khỏi mặt Thiên Chúa (2 Tx 1:9; Rm 9:22; Phi 3:19).
Thư gửi giáo đoàn Rôma có nói đến "gian truân, quẫn bách trên mạng mọi
người làm sự dữ" (Rm 2:9).
Trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan hình ảnh về hoả ngục mãnh
liệt hơn. Những ai bị xét là không xứng đáng sẽ bị "quăng vào vũng lửa
diêm sinh, đó là cái chết thứ hai" (Ga 21:8). Còn trong thư thứ hai của
Thánh Phêrô, thế giới u ám tối tăm là phần dành riêng cho người ác độc (2 Pr 2:17).
Thư của Thánh Giuđa sử dụng hình ảnh xiềng xích đời đời, nơi tối tăm, lửa thiêu
đời đời (Gđ 6-7).
Nhiều vị Giáo Phụ tiên khởi trong đó có Thánh Giêrôm cho rằng hoả
ngục là nơi người dữ sẽ chịu phạt hình cảm giác đau đớn. Dẫu vậy, linh mục
Origen ở Alexandria (thế kỷ thứ 3) và Thánh Grêgôry Nyssa (thế kỷ thứ 4) cho rằng
hoả ngục là nơi đau khổ về mặt thiêng liêng hơn là về mặt thể lý, tức là sự dày
vò và xa cách Thiên Chúa. Vào thế kỷ thứ 5, Thánh Âugustinô đưa ra giải pháp
trung dung bằng cách cho rằng đau khổ trong hoả ngục bao gồm cả phần thiêng
liêng lẫn giác quan, một ý niệm vẫn còn phổ biến ngày nay.
Trong khi đa số các Giáo Phụ dạy rằng mục đích của hoả ngục là
trừng phạt người tội lỗi không biết ăn năn hối cải, Origen chủ trương hoả ngục
có tính cứu chữa nghĩa là trong hoả ngục người tội lỗi nhất còn có thể phục hồi
và cuối cùng cũng được về cùng Chúa trên nước thiên đàng. Quan điểm này của
Origen bị Giáo Hội bác bỏ ở Công đồng Constantinople năm 543. Và trong khi một
ít thần học gia thời bấy giờ tin rằng người tội lỗi rồi cũng bị diệt vong, đa
số cho là những hình phạt thống khổ trong hoả ngục không bao giờ dứt.
Vào đầu thế kỷ 14, hình ảnh về hoả ngục với những tầng khác nhau
dưới mặt đất cùng với các cảnh tra tấn rùng rợn đã in sâu vào trí tưởng tượng
của dân chúng qua tác phẩm Divine Comedy ("Tấn hài kịch thần
thánh") của thi sĩ Dante người Ý. Hai trăm năm sau đó, giới lãnh đạo Cải
Cách Tin Lành bác bỏ những lối diễn tả kinh khiếp về hoả ngục trong hội hoạ và
văn chương. Trong khi Martin Luther và Gioan Calvin nhìn đến hoả ngục như là
một nơi chốn thật sự, họ tin rằng những tra tấn khốc liệt chỉ mang tính tượng
hình. Hai người cho rằng, nỗi đớn đau khốn cùng nhất người trong hoả ngục là sự
kinh hoàng và hoàn toàn thất vọng vì phải đời đời xa cách Thiên Chúa.
Tuy nhiên, vào thế kỷ 17 và thế kỷ 18, quan niệm về hoả ngục như là
một nơi mà người dữ phải chịu đau khổ về thể xác và thiêng liêng trở lại trong đầu
óc quần chúng. Nhưng rồi đến thế kỷ 19 và thế kỷ 20, ý tưởng phạt đời đời trong
chốn hoả ngục bị bác bỏ.
Có thể nói rằng thế kỷ 20 gần như sắp chứng kiến cái chết của hoả
ngục khi vị có nhiệm vụ giảng dạy cả trong Công Giáo lẫn Tin Lành thích thú với
những đề tài làm cho tinh thần con người phấn chấn hơn. Vào thập niên 1960, mối
đe doạ hình phạt đời đời trong lửa hoả ngục đối với người không biết ăn năn sau
khi qua đờihầu như không còn nữa. Việc giảng dạy về hoả ngục trong các trường
thần học hầu như không có. Ðồng thời, trong khi đa số những cuộc thăm dò dư
luận cho thấy đa số người Mỹ tin là có hoả ngục, hầu như không có ai nghĩ là
mình sẽ đi đến đó. Một vài năm trước đây, nhà sử học Marty của Ðại học Chicago
có nhận xét rằng "hoả ngục biến mất mà không có ai chú ý cả."
Khi trình bày quan điểm của mình về hoả ngục, Ðức Gioan Phaolô II
làm rõ giáo huấn lâu đời của Hội thánh Công Giáo mặc dầu ít được nhấn mạnh trong
thời đại ngày nay: Hình phạt chính của hoả ngục là vĩnh viễn xa rời Thiên Chúa,
nơi Ðấng mà con người mới có thể tìm thấy sự sống và hạnh phúc (GLCG 1035).
Giáo lý Công Giáo dạy rằng: "Chết trong tội trọng mà không sám hối và
không đón nhận tình thương đầy từ bi của Thiên Chúa, có nghĩa là sẽ mãi mãi lìa
xa Chúa do sự tự do lựa chọn của ta. Và từ ‘hoả ngục’ được dùng để chỉ tình
trạng ly khai cách chung cuộc khỏi mối hiệp thông với Thiên Chúa và các thánh
trên trời" (GLCG 1033). Và trong khi giáo lý ghi lại những đoạn Tân
Ước đề cập đến hình phạt hoả ngục như "lửa đời đời" (GLCG 1034),
Ðức Thánh Cha mô tả những đoạn này như là "hình ảnh" được sử dụng một
cách tượng hình và do đó phải được giải thích một cách đúng đắn.
Hơn nữa, Ðức Gioan Phaolô II còn tuyên bố rằng hoả ngục "không
phải là một hình phạt do Thiên Chúa áp đặt từ bên ngoài" nhưng là hậu quả
đương nhiên do người tội lỗi không ăn năn sám hối chọn lựa sống xa Thiên Chúa. Chúng
ta không nên xem Thiên Chúa như là một ông vua độc tài tàn bạo thích trả thù.
Ngược lại, Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài muốn mọi người được cứu rỗi nhưng
Ngài lại không cưỡng bức ý chí tự do của họ. Có người còn lập luận xa hơn nữa,
cho rằng hoả ngục là hình phạt dành cho người từ chối ân sủng của Thiên Chúa
đến giây phút cuối đời, do đó họ không thể nào có hạnh phúc nếu được cho lên
thiên đàng đi nữa. Lý do, bởi vì chối bỏ và ghét Chúa nên thiên đàng đối với họ
cũng chỉ là hoả ngục mà thôi. Như thế, chúng ta phải tự nhắc nhở rằng chính
chúng ta nếu từ chối ân sủng Chúa, chúng ta sẽ tự ký bản án hoả ngục cho chính
mình. Tuy vậy, theo lời Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chúng ta nên chú ý đến
điều này, đó là: "Ý tưởng hoả ngục không được gây ra nỗi lo âu hay nản
lòng" nhưng là "một sự nhắc nhở cần thiết và lành mạnh về giá trị tự
do."
Trong các bài giảng thuyết ở trường và nhà thờ, Cha Steven Happel,
Khoa trưởng Phân khoa Nghiên cứu Tôn giáo của Ðại học Công Giáo Hoa Kỳ tại thủ
đô Washington D.C., cho hay ngài nói về hoả ngục "qua thực trạng tự cô lập
chính mình và hoàn toàn hướng về bản thân mà không có quan hệ với ai cả. Ðối với
tôi, đây là một ẩn dụ mạnh mẽ về sự tách rời với Thiên Chúa. Là một người rao
giảng, tôi thấy điều này có hiệu quả hơn là nói về những ngọn lửa vật tính."
Cũng theo các học giả, đối với nhiều người Kitô hữu sống ở các thế
kỷ đầu tiên, hình ảnh khủng khiếp về hoả ngục chắc hẳn đã có hiệu lực trong việc
làm cho người ta nhận ra hậu quả kinh hồn do việc chối bỏ Thiên Chúa. Liệu mối
răn đe về hoả ngục có thực sự làm người ta sống đạo đức hơn không? Cha Reese
nhận xét rằng, ở một mức độ phát triển sơ khởi, với trẻ em chẳng hạn, việc
thưởng phạt có thể giúp chúng chọn lựa cho đúng về mặt luân lý, nhưng với thiếu
niên và người lớn thì ít có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, Cha Reese cũng nhìn nhận:
"Có những lúc chúng ta trở lại hành vi sơ khởi khi chúng ta giận dữ muốn
làm hại người nào đó. Nếu lúc đó ý niệm hoả ngục giữ ta khỏi làm điều ác này
thì chúng ta thấy điều đó hẳn là có ích lắm chứ!"
Một điều cũng cần nên biết là mặc dầu Giáo Hội Công Giáo có tuyên
phong các thánh, tin tưởng rằng những vị này đang vui hưởng hạnh phúc đời đời cùng
với Thiên Chúa, Giáo Hội không hề tuyên bố chính thức danh tính một cá nhân nào
đang sống trong cảnh hoả ngục hay không mặc dầu hành vi ác độc của người đó
khiến cho cả thế giới phỉ nhổ. Cho dù đó là một nơi chốn hay là một tình trạng,
hoả ngục để lại dấu ấn lâu dài trong đời sống tôn giáo. Và cho dù có người vẫn
thích giữ hình ảnh lửa lưu huỳnh thiêu đốt dữ dội, hoặc đi tìm kiếm những cách
giải thích mới, hoặc có những người muốn bác bỏ hoả ngục cho đó là sự tưởng
tượng của người thuộc giới bình dân, thì chắc chắn những hình ảnh mạnh mẽ về
hoả ngục vẫn tiếp tục đi suốt lịch sử loài người như là một nhắc nhở quyết liệt
về thực tại tội ác và hậu quả ghê gớm của nó. Ðồng thời, từ đó, con người học
biết sử dụng chính đáng sự tự do Thiên Chúa ban cho để đón nhận thay vì từ chối
ân sủng của Ngài để rồi ra sức hoạt động vinh danh Ngài cũng như phục vụ không
biết mệt mỏi cho tha nhân. (Theo Catholic Digest, Feb. 2001- Phán xét và hỏa
ngục.)
Giải thích thêm: Ai lái xe cũng phải tuân theo luật đi đường:
phải nịt người vào ghế, phải chạy theo tốc độ được qui định, không được uống
rượu và lái xe, tuân hành tuyệt đối luật dừng hoàn toàn khi gặp bản dừng hay
đèn đỏ…. Nhiều người bất tuân luật lệ và bị phạt vì không giữ luật lưu thông?
Tại sao? Tại họ xui hay tại cảnh sát giao thông khó tính hay tại xã hội bày ra
luật lệ lưu thông?
Không! Những người lỗi luật giao thông nầy đã chấp nhận lưu thông,
nhưng không chấp nhận tuân hành luật giao thông nên hậu quả là bị phạt. Hình
phạt nầy là do người lỗi luật chọn. Điều nầy cũng giống như hỏa ngục hay cửa hẹp
trong bài Phúc Âm hôm nay. Cửa hẹp không có nghĩa là Chúa hẹp hòi muốn hạn chế
số người vào nước thiên đàng, nhưng ‘cửa hẹp’ cho thấy là người ta không chịu
khép mình vào những luật lệ Chúa đã ra, thí dụ: chớ giết người, chớ trộm cắp
hay chớ làm chứng gian. “Chủ nhà đứng lên và khóa cửa” cũng chỉ là cách diễn tả
về những giới hạn mà con người phải theo: Thời gian sống là để lập công đền
tội… Nhưng có nhiều người đã phí phạm cả cuộc đời mình trong bê tha trụy lạc.
Đến lúc cuối đời, họ không còn kịp để ăn năn sám hối. Họ đã từ chối nước thiên
đàng.
Nên hỏa ngục là tình trạng tội, tình trạng chối bỏ ân sủng Chúa.
Hỏa ngục là nơi hay tình trạng không có Chúa. Gia đình xào xáo, tranh chấp,
giết hại nhau thì gọi là cảnh hỏa ngục. Không có Chúa, không có tình thương thì
là hỏa ngục. Sống trong tình trạng mất ân thánh sủng, trình trạng có tội trọng
là tình trạng xa Chúa và chọn ma quỉ, chọn hỏa ngục. Không cần phải chết rồi
mới vào hỏa ngục. Phạm tội trọng là đã chọn hỏa ngục. Không tôn thờ Chúa là làm
tôi mà quỉ. Nơi nào có ma quỉ, nơi đó là hỏa ngục.
III.
Thực hành P.Â.:
1) Hãy chiến đấu để qua được
cửa hẹp mà vào!”
Tôi hiểu cửa hẹp là những
giới răn Chúa và những luật lệ Hội Thánh giúp chúng ta kiện toàn bản thân và
đạt được tiêu chuẩn để nhận được ơn cứu độ là hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên
đàng mai sau. Chúng ta phải “chiến đấu” tức phải buộc mình tuân giữ những lề
luật Chúa truyền để có thể dáp ứng tiêu chuẩn được cứu rỗi.
Đời sống luôn đi liền với
cửa hẹp, với những qui luật cuộc sống. Người đàn ông có những qui luật sống của
đàn ông. Người phụ nữ có những qui luật tâm sinh lý của phụ nữ. Người ta cố
gắng sống bất cần qui luật. Người ta cố gắng dẹp những cửa hẹp mà họ cho là hà
khắc và bất nhân. Nhưng không thể được! Muốn sống phải thở, phải hô hấp! Đó là
qui luật. Muốn vào nước trời phải phấn đấu, phải kính Chúa yêu người để
lọt vào cửa hẹp.
2) “Chủ nhà đứng lên và khóa
cửa!”
Quan điểm thần học của
Phúc Âm Thánh Luca hướng về cánh chung khi đề cập đến Cửa hẹp và cửa đã khóa.
Quan điểm thực tế cuộc sống cũng có cửa hẹp, và những qui luật phải theo, cũng
như thời gian để đào luyện bản thân. Quan điểm cánh chung về cửa hẹp hay cửa đã
khóa để nói lên những qui luật để vào nước trời. Cửa hẹp và cửa đã khóa trong
cuộc sống hàng ngày chính là những qui luật sống và làm việc mà tôi buộc phải
tuân theo. Muốn vào nước trời phải qua cửa hẹp. Muốn thành công trong đời
thường cũng phải có những qui luật khách quan và chủ quan mà ai cũng phải chiến
đấu để vượt qua. Phúc âm thực tế biết bao!
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên