Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN - C
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN - C
1. Cửa hẹp
Phải chăng chỉ có một ít người được cứu thoát?
Thắc mắc này hẳn đã xuất phát từ lời giảng dạy của Chúa Giêsu về những điều
kiện và những thái độ phải có để được vào Nước Trời. Thế nhưng qua câu trả lời,
chúng ta nhận thấy điều quan trọng đối với Chúa Giêsu và cũng là điều Ngài muốn
nói với những kẻ đã nêu lên câu hỏi, đó là người ta phải cố gắng, phải chiến
đấu mới mong được vào Nước Trời, bởi vì một mặt cửa vào Nước Trời thì nhỏ hẹp,
mặt khác, thời gian dành để cho người ta vào Nước Trời thì vắn vỏi.
Trong cuộc chiến đấu để được vào Nước Trời sẽ không có ưu tiên
dành cho những người có lý lịch tốt, hay đúng hơn, có gốc gác tốt. Ở đây Chúa
Giêsu muốn nhắm đến những người Do Thái cứng lòng tin. Họ suy luận rằng: Tước
hiệu dân riêng của Chúa, tước hiệu con cháu của Abraham, là một bảo đảm chắc
chắn, là một tấm giấy ưu tiên để được vào Nước Trời. Thế nhưng tiên tri Isaia
đã từng loan báo về cách xử sự của Thiên Chúa trong thời cứu chuộc, trong ngày
phán xét: Ngài sẽ quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, Ngài sẽ dẫn đưa mọi người
từ các dân nước mà đến. Sự phân biệt giữa người được vào bàn tiệc và kẻ ở
ngoài, giữa người được ở trong bàn tiệc với Abraham, Isaac và Giacob, với kẻ bị
đuổi ra chốn tối tăm, ở đó chỉ có khóc lóc và nghiến răng, giữa người được cứu
chuộc và kẻ bị hư đi, lý do là ở chỗ họ có chiến đấu đủ và đúng thời đúng buổi
để đi ngang qua khung cửa hẹp hay không?
Tất cả mọi người từ phương đông, phương tây, phương bắc, phương
nam đều được đặt trong một điều kiện bình đẳng để được vào Nước Trời. Chính
trong điều kiện này mà người sau hết có thể trở nên trước hết và những kẻ trước
hết có thể tụt xuống sau hết. Nhu chúng ta đã thấy, điều quan trọng Chúa muốn
nói đến đó là phải qua cửa hẹp, thế nhưng qua cửa hẹp là gì?
Tôi xin thưa qua cử hẹp là thi hành ý Chúa, là từ bỏ mình
vác thập giá mình mà theo Chúa, là dám bán tất cả những gì mình có để làm phúc
bố thí cho những kẻ nghèo túng, là liều mất mạng sống mình vì người khác. Nói
tóm lại là đi con đường Chúa Giêsu đã đi.
Thiên Chúa không theo chủ nghĩa lý lịch. Trước toà phán xét Ngài
không hỏi chúng ta: Đã chịu phép Rửa tội chưa? Có phải là người công giáo hay
không? Điều Ngài đặc biệt quan tâm và xét hỏi đó là chúng ta có làm và sống như
Chúa đã dạy hay chưa.
2. Cứu rỗi
Ngày nay, nhiều người bi quan khi nhìn vào những bản thống kê về
tôn giáo, chẳng hạn số người đi tham dự thánh lễ quá ít, số ơn gọi linh mục tu
sĩ giảm sút. Nhiều nơi nhà thờ, nhà dòng đã được hiến cho những tổ chức hoặc
cho những tư nhân để sử dụng vào việc khác. Từ đó họ kết luận: Sẽ đến một lúc
không còn đức tin trên cõi đời ô trọc này nữa.
Đừng quá bi quan như vậy, vì đó là việc của Chúa. Trái lại, hãy
lo cho mình biết tin vào Chúa. Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng đã nêu lên một thắc
mắc: Phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu rỗi? Chúa Giêsu không trả lời
nhiều hay ít, nhưng Ngài chỉ nói: Hãy cố gắng mà vào qua khung cửa hẹp. Hãy lo
cho đúng cái lo, chứ đừng lo ít lo nhiều chi cả. Hãy lo cho mình được cứu rỗi
trước đi.
Về vấn đề này, chúng ta ghi nhận hai thái cực. Thái cực thứ nhất
của những người bi quan. Họ thường trình bày một Thiên Chúa nghiêm khắc, hay
rình rập để bắt lỗi, rồi tống tất cả xuống hoả ngục. Tôi còn nhớ có một vị
giảng thuyết đã bảo muốn biết tỷ lệ những người được lên thiên đàng là bao
nhiêu, thì cứ thọc một ngón tay vào hũ gạo, hốt lên được bao nhiêu hột thì đó
là số người được lên thiên đàng. Nếu làm theo kiểu này thì có lẽ kết quả sẽ là
100% bị xuống hoả ngục. Có vị còn bảo từ tạo thiên lập địa cho đến bây giờ,
ngoài Đức Mẹ, thì chỉ có một người chắc chắn được lên thiên đàng, đó là ông
thánh trộm lành, vì chỉ mình ông mới được nghe Chúa phán: Hôm nay ngươi sẽ được
ở nơi vinh hiển cùng Ta. Hơn thế nữa, các bức tranh giáo lý thường vẽ đường lên
thiên đàng thì nhỏ hẹp, chông gai, ít người dám lai vãng, nên vắng vẻ buồn
tênh. Trong khi đó đường xuống hoả ngục thì thênh thang vui sướng, bao nhiêu
người chen lấn, vừa đi vừa ăn uống, cười nói, ca hát, hôn hít. Nếu bây giờ nhìn
vào bức tranh đó, dám có bạn trẻ sẽ bảo: Tới đâu hay tới đó, cứ vui đi đã, rồi
hạ hồi phân giải.
Thái cực thứ hai của những người lạc quan. Họ bảo Thiên Chúa
nhân từ và hay thương xót, chắc chắn Ngài sẽ không để cho bất kỳ một ai phải
xuống hoả ngục, trái lại Ngài sẽ cứu chuộc tất cả. Là Đấng giàu tình thương,
Ngài sẽ không để cho con cái Ngài phải hư mất. Là Đấng quyền năng, Ngài sẽ
không để cho chương trình cứu độ của Ngài bị thất bại.
Thế nhưng cả hai lập trường thái quá trên đây đều sai, bởi vì
Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, nghĩa là có lý trí, có tự
do, có tình yêu nên cũng có trách nhiệm về việc mình làm, chứ không phải như những
hình nộm múa may quay cuồng theo sự giật dây được sắp đặt trước. Và khi con
người vận dụng khả năng cộng tác vào ơn Chúa để thực hiện ơn cứu rỗi nơi mình,
cũng chính là lúc con người sống theo lời chỉ dạy của Chúa, bước qua khung cửa
hẹp để vào Nước Trời.
Trong chương trình cứu rỗi, Chúa để cho chúng ta được tự do. Khi
chúng ta không chọn Chúa đó là lúc chúng ta tự kết án mình. Thiên đàng là đời
sống trường cửu với Chúa, còn hoả ngục là đời sống mãi mãi xa lìa Chúa.
3. Vào khung cửa hẹp – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Trong mùa thi vào đại học vừa qua, có nhiều bạn học sinh đã
bị chứng suy dinh dưỡng, mất ngủ, thậm chí bị tâm thần. Lý do là các bạn phải
học rất nhiều, phải phấn đấu để được vào đại học. Đại học hiện tại là một khung
cửa hẹp. Trường lớp có ít mà số lượng sinh viên mỗi năm mỗi tăng. Thế nên các
học sinh phải hết sức phấn đấu mới được vào.
Cảnh các thí sinh chen chúc trước các cổng trường đại học làm
tôi nhớ đến bài Tin Mừng hôm nay. Ai muốn vào Nước Trời cũng phải đi qua khung
cửa hẹp.
Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh
mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào
được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để
tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước
Trời phải phấn đấu.
Trước hết phải phấn đấu hạ mình xuống.
Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp phấn đấu để
được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người phải phục vụ
phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Nhưng trong Nước Trời thì ngược lại.
Phải phấn đấu để đi xuống. Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất. Phải phấn
đấu để phục vụ anh em. Như lời Chúa dậy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai
hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Lc 14,11). “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ
cuối”(Lc 14,10). “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi
nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ”(Lc 22,26). “Ai không đón nhận Nước
Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”(Mc 10,15).
Sau đó phải phấn đấu để bé nhỏ lại.
Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra. Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có nhà
lớn hơn. Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng thêm. Ai
cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp hơn, có nhiều đặc
quyền đặc lợi hơn. Trái lại, người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên
bé nhỏ. Phải phấn đấu để trở nên nghèo. Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi.
“Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng
trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”(Mt 19, 21). “Phúc thay ai có tinh thần nghèo
khó, vì Nước Trời là của họ”(Mt
5,3).
Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Chúa Giêsu.
Cửa này thấp vì Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu.
Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự
nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thày, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục
vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một đại tội phạm. Người
đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.
Cửa này bé vì Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ.
Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Người đã bị bóc lột hết,
không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.
Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có
con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác
ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương
Người phấn đấu hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua
được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết “từ bỏ mình, vác thập giá
mình”mà theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Cửa Nước Trời rất hẹp. Bạn có thấy mình còn cồng kềnh không?
2) Bạn thấy mình cần phải từ bỏ những gì để có thể gọn nhẹ tiến
qua cửa hẹp?
3) Tuần này bạn sẽ phấn đấu làm gì để từ bỏ mình?
4) Chúa Giêsu đã làm thế nào để đi vào khung cửa hẹp?
4. Cửa nào Chúa đã đi qua – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một buổi sáng náo nhiệt, người đàn bà sang trọng đi chiếc
xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa thiên đàng. Nghe tiếng còi
điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào. Khi vị thánh giữ cửa thiên
đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm:
“Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Còn tôi chắc phải
được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào”. Và bà ta xoa tay vui
sướng.
Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp
lều lụp xụp ở góc vườn và nói:
- Đó là nhà của bà.
Người nhà giàu hoảng hốt, choáng váng đầu óc:
- Nhà của tôi đó thật sao? Không, tôi không thể nào sống
trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được!
Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy
mắt.
- Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi
chỉ làm được có ngần ấy thôi
“Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu
sẽ xuống hàng chót”(Lc 13,30). Đó là bất ngờ đau đớn cho “những kẻ đứng đầu”.
Họ là những người được Chúa ban cho giàu có, nhưng lại sống trong ích kỷ, chỉ
biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ trao ban như
luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng víu nên không thể qua
“cửa hẹp”mà vào được Nước Trời.
“Những kẻ đứng đầu”có thể là những ai được Chúa ban cho
địa vị, chức quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang tự đắc. Thay
vì dùng ơn lành Chúa ban để nâng đỡ anh em, phục vụ cộng đoàn, họ lại nuôi
dưỡng tham vọng cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm họ vướng víu nên không
thể qua “cửa hẹp”mà vào được Nước Trời.
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24).
Nếu Chúa đã bảo hãy “chiến đấu”tức là phải nỗ lực cố gắng thật nhiều, phải vất
vả gian nan thật lâu, thì mới vượt qua được cửa “hẹp”. Nếu Chúa đã nhắc đến
“cửa hẹp”thì phải hiểu là chỉ có những trẻ thơ mới được vào được dễ dàng. Chúa
phán: “Ai không tiếp nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không được vào”(Lc
18,17).
“Cửa hẹp dẫn đến sự sống”(Mt 7,14), “cửa hẹp”đưa
vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở. Sẽ đến giờ “chủ
nhà đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13,25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để
cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ
mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng;
những kẻ cậy dựa vào đạo giòng, vào các việc lành đã làm, vào tài đức đã đắc
thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để dâng hiến và để
yêu mến Người với tất cả trái tim.
Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang;
cửa tiền tài, sắc dục, hư danh; cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà
cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói: “Ta không biết các anh từ đâu
đến”(Lc 13,27).
Lạy Chúa, cửa hẹp thường rất khó vào, nên chẳng mấy người
muốn bước qua; nhưng cửa hẹp lại là cửa Chúa đã đi qua, và chỉ qua đó chúng con
mới tìm được Chúa.
Xin cho chúng con biết luôn cố gắng, quyết tâm bước vào cửa
hẹp, cho dù phải rướm máu hy sinh, cho dù phải bỏ lại những gì mình ưa thích,
vì chỉ có Thiên Chúa mới là phần thưởng và là niềm hạnh phúc của chúng con.
Amen.
5. Cửa hẹp
Suy Niệm
Cuộc đời thật ra gồm nhiều cửa hẹp. Cửa hẹp khi thi vào đại học.
Cửa hẹp khi đi xin việc làm. Cửa hẹp khi muốn đưa trái banh vào lưới.
Sống là phấn đấu bước qua nhiều cửa hẹp.
Cửa càng hẹp, càng phải cố gắng nhiều. Cửa hẹp mà vào được mới
quý.
Nếu thiên đàng có cửa, thì hẳn vào cửa thiên đàng chẳng phải như
dạo chơi.
“Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp”(Lc 13,24), vì “cửa hẹp dẫn
đến sự sống”(Mt 7,14).
Chiến đấu ở đây là chiến đấu với chính mình, với cái tôi cồng
kềnh của mình, nặng nề vì những vun vén cá nhân, phình to vì tự hào và tham
vọng.
Thật ra cửa vào sự sống không hẹp nhưng hẹp vì cái tôi của tôi
to quá. Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại, khiêm hạ trước Thiên
Chúa, cởi mở trước anh em.
Cần có một cái tôi như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Mt 18,3).
Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng nhờ thu
tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức,
chức vụ, cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và khép lại.
Để “người lớn”trở nên hồn hậu như trẻ thơ, cần phải biến đổi và
tự hạ (x. Mt 18,3-4).
Đây thật là một cuộc chiến với chính mình. Khi hủy mình ra
không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp.
Nhiều người Do Thái đến chậm, khi cửa đã đóng. Họ gõ cửa và đòi
vào. Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc, bởi lẽ mình đã từng
ngồi đồng bàn với Đức Giêsu, và đã nhiều lần nghe Ngài giảng dạy. Tiếc thay,
tương quan đó lại quá hời hợt đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ: “Ta không
biết các anh từ đâu đến!”
Chúa cũng có thể nói với chúng ta như vậy, dù chúng ta đã dự lễ,
rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm... Chúa vẫn không quen biết chúng ta vì chúng ta
chẳng để cho Ngài đi vào đời mình. Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt
Chúa.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục. Chiến đấu để
qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ. Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại.
Cứu độ là một ơn Chúa ban, nhưng ta phải nỗ lực mới dám đưa tay
đón nhận.
Ước gì chúng ta đừng tự hào vì đã biết Chúa, nhưng phải làm sao
để Chúa biết ta và reo lên: “Đây là đầy tớ tốt lành và trung tín.”
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn thấy để sống đời Kitô hữu xứng đáng, dễ hay khó? Có khi nào
bạn thấy khó đến độ không thực hiện nổi không?
Nước Thiên Chúa được ví như một bữa tiệc vui, trong đó có muôn
người từ khắp nơi trên thế giới đến dự. Bạn có hình ảnh nào khác để gợi mở về
Thiên Đàng không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi
hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại
hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo
Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt
thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm
máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
6. Cửa hẹp đưa con người đến đâu?
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Khi có người hỏi: "Thưa Ngài, có ít người được cứu thoát
thôi, phải không?" Chúa Giêsu không trả lời có nhiều hay ít. Nhiều hay ít
là tuỳ vào sự chọn lựa của con người. Nhưng nhân cơ hội nầy, Chúa Giêsu muốn
dạy cho chúng ta biết phải đi vào cửa hẹp mới được cứu độ. Ngài nói: "Hãy
chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều
người sẽ tìm cách vào mà không thể được".
Vậy, vào cửa hẹp nghĩa là gì?
Là sống theo lề luật Chúa.
Lề luật Chúa xem ra gò bó, trói buộc chúng ta, ép chúng ta vào
khuôn khổ, bắt chúng ta đi theo đường hẹp, không để cho chúng ta sống buông thả
như bao nhiêu người khác... Thế nên có nhiều người bực mình, có người nổi loạn,
có người muốn bức phá hết những ràng buộc của luật lệ.
Vậy thì cửa hẹp đưa con người đến đâu?
Thiên Chúa đã dựng nên trái đất và Ngài quy định cho nó phải
quay quanh mặt trời theo một lộ trình nhất định, đó là quỹ đạo trái đất. Phải
mất 365 ngày và 6 giờ, trái đất mới quay hết một vòng quanh mặt trời, và cứ thế
suốt niên đại nầy sang niên đại khác. Quả là gò bó, trói buộc, là đường hẹp
triền miên.
Thế nhưng bao lâu trái đất còn đi theo đúng quỹ đạo, tức con
đường hẹp mà Thiên Chúa ấn định cho nó, thì mọi sự sẽ diễn tiến tốt đẹp, cuộc
sống sẽ ổn định điều hoà. Nếu một ngày nào đó, trái đất 'cảm thấy' đi theo quỹ
đạo là gò bó, là đường hẹp, để rồi đi trệch ra ngoài cho thong dong thoải
mái... chỉ một chút xíu thôi mà!... thì đó là ngày cùng tận của vũ trụ và thế
giới!
Chiếc tàu nghĩ rằng tại sao tôi cứ phải bị gò bó bởi hai
đường sắt? Tại sao tôi không chạy nhảy như hươu nai, băng qua đồi núi, băng qua
cánh đồng như bao nhiêu muông thú. Thế rồi nó thoát ra khỏi hai đường sắt gò
bó, để được tự do tung hoành... Hậu quả của sự chọn lựa 'khôn ngoan' nầy sẽ vô
cùng bi thảm. Nhưng nếu nó chấp nhận đi theo hai đường rây chật hẹp, nó về đến
ga chót thật an toàn.
Trong gia đình, người vợ nghĩ rằng: thật uổng phí cuộc đời
nếu ngày nào cũng nấu ăn, rửa chén, dọn nhà, quét sân... để sống cho chồng và
cho con. Tại sao tôi không tự giải thoát mình khỏi vòng cương toả của gia đình?
Tại sao lại phải chọn cửa hẹp, lại phải đi đường hẹp? Tại sao tôi không thể bay
nhảy như những cô gái trong các hộp đêm?
Thế rồi cô đã chắp cánh bay, và kết cục là gia đình đổ vỡ,
cuộc đời của cô lụi tàn trong đau thương và tủi nhục.
Nếu mỗi người chúng ta hôm nay cứ sống buông thả theo bản năng
của mình mà không đi theo đường hẹp Chúa vạch ra cho chúng ta, tức là tuân giữ
các giới răn, thì số phận chúng ta cũng như con tàu đi trật đường rầy, chúng ta
sẽ lãnh lấy thảm họa. Mai đây, chúng ta có van nài với Chúa rằng: 'Thưa Ngài,
xin mở cho chúng tôi vào!', thì Chúa sẽ bảo: 'Ta không biết các anh từ đâu đến.
Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!' và
"Bấy giờ chúng ta sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Isaac
và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị
đuổi ra ngoài."
Trái lại, nếu chúng ta chấp nhận đi đường hẹp, tức đi đúng theo
đường lối Chúa như tàu đi đúng đường rầy, như trái đất quay đúng theo quỹ
đạo... chúng ta sẽ được sống an bình hoan lạc ở đời nầy và được hưởng hạnh phúc
muôn đời với Chúa đời sau.
Vậy thì bước qua cửa hẹp là giá phải trả (có gì mà không phải
trả giá!) cho hạnh phúc đời nầy và hoan lạc vĩnh cửu mai sau.
7. Hãy đi vào cửa hẹp – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Đọc những thông tin trên mạng và qua các báo chí chúng ta thấy
một tình trạng đáng lo ngại cho nền đạo đức Việt Nam. Nền đạo đức bốn ngàn năm
văn hiến đang trong tình trạng suy đồi, băng hoại thật trầm trọng. Điển hình
như các vụ việc gần đây nhất như sau:
"Hiệu trưởng mua dâm học sinh và Chủ tịch tỉnh bị cáo
buộc mua dâm ở Hà Giang. Hai vợ chồng bị kết án 20 năm tù mỗi người vì hành hạ
một bé trai tại Cà Mau. Một nữ sinh cứa cổ người tình. Một thanh niên chặt đầu
người yêu cũ. Bên cạnh đó là tệ trạng hàng ngàn phụ nữ và trẻ em bị buôn lậu
với giá nhiều khi chỉ một triệu đồng Việt Nam (tương đương khoảng 50 MK) một
người..."
Đó là hậu quả của một lối sống dễ dãi, ẩu thả của xã hội Việt
Nam hôm nay. Họ thích tìm sự dễ dãi cho mình đến mức độ bất tuân luật pháp. Họ
đề cao tự do, tự lập đến nỗi không cần tôn giáo, và tệ hơn nữa là loại trừ tôn
giáo. Họ hành xử theo cách nghĩ của mình, bất chấp luật pháp, bất chấp đạo lý
truyền thống của cha ông. Chúng ta biết rằng không có tôn giáo thì con người sẽ
tự do hành động theo ý mình nên chẳng sợ "trời có mắt" để mà
"làm điều lành tránh điều dữ" hay lời khuyên của tiền nhân "ở
hiền gặp lành". Không có tôn giáo con người không có sự sống thần linh
hướng dẫn dễ lầm đường lạc lối và điều chắc chắn là chẳng ai nghe ai. Nhìn
chung, ai cũng biết rằng cuộc sống dễ dãi sẽ đi tới chỗ diệt vong. Ai cũng biết
rằng sự suy đồi của họ sẽ làm nghèo đất nước, làm khổ gia đình, và giết chết
bản thân. Nhưng tính hưởng thụ đã đẩy họ vào con đường truỵ lạc để tranh thủ
hưởng thụ theo kiểu mà Nguyễn Công Trứ bảo rằng:
Chơi Xuân kẻo hết Xuân đi,
Xuân tàn hoa rụng còn gì vui Xuân
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi vào con đường hẹp. Con đường
của hy sinh vì phải bỏ lại những thú vui mau qua, những đam mê tội lỗi để sống
đúng với phẩm giá con người là "nhân linh ư vạn vật". Con đường với
lối đi thanh thoát, nhẹ nhàng khỏi những tham lam bất chính, những quyến luyến
phù phiếm mau qua. Chúa mời gọi chúng ta cần phải sống tỉnh thức kẻo sẽ ân hận
ngày mai, khi mà mọi người từ đông sang tây đều đến dự tiệc cưới còn mình bị
tống ra ngoài. Chúa nhắc nhở chúng ta còn có một sự sống hạnh phúc viên mãn là
thiên đàng, là hạnh phúc viên mãn bên Chúa. Đó chính là mùa xuân vĩnh viễn, là
hạnh phúc ngàn đời. Đó chính là hạnh phúc mà mỗi người chúng ta phải nỗ lực tìm
kiếm và chiếm hữu cho dù phải hy sinh những danh lợi thú trần gian, có khi bằng
cả mạng sống ở đời này. Sự sống và hạnh phúc vĩnh viễn đó chỉ đạt được khi
chúng ta biết sống hy sinh, biết tự chủ bản thân theo đường lối Chúa, biết sống
cao thượng, biết tránh xa những thói đời xấu xa.
Nhưng tiếc thay, nhân loại hôm nay luôn ham sướng sợ khổ. Thích
tìm sự dễ dãi hơn là những hy sinh từ bỏ. Có những bạn trẻ thích hưởng thụ
nhưng không muốn làm, chỉ lêu lổng dẫn đến trở thành một gánh nặng cho gia đình
và xã hội. Có những bạn trẻ tìm sự dễ dãi trong quan hệ nam nữ mà đánh mất lòng
tự trọng, sự trong sạch tâm hồn. Có những người luôn tìm sự dễ dãi cho bản
thân, nuông chiều theo tính xác thịt dẫn đến ngoại tình, dâm ô, trộm cắp...; Có
những người đang mang trong mình những căn bệnh thời đại là hậu quả của lối
sống dễ dãi, thiếu tự chủ bản năng.
Người ta vẫn nói: "Hãy dừng lại trước khi qua muộn".
Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm sự dễ dãi đến mức độ nuông chiều theo
bản năng. Hãy tự chủ. Hãy tỉnh thức. Hãy canh tân sửa đổi để trau dồi nhân đức
cho bản thân hầu diệt trừ những tính hư nết xấu. Hãy sống cho cao thượng đúng
với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiện". Hãy sống công
bình bác ái và yêu thương để khỏi bị luận phạt ở đời sau. Hãy sống đời này cho
nghiêm túc để đời sau chúng ta được hạnh phúc muôn đời. Hãy vì sự sống vĩnh cửu
mà can đảm từ bỏ những lối đường tội lỗi hôm nay.
Nguyện xin Chúa là Đường là Sự Thật và là Sự Sống dẫn dắt
chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Amen.
8. Đường vào Nước Trời – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Có nhiều hay ít người được cứu độ? Những ai được cứu độ? Phải
làm gì để được cứu độ? Đây là những câu hỏi rất quan trọng. Sở dĩ người Do thái
đặt câu hỏi nhiều hay ít người được cứu độ, vì họ tin là chỉ có người Do thái,
chỉ có dân tộc Do thái là dân riêng mới được cứu, còn dân ngoại thì Thiên Chúa
tiêu diệt hết. Nơi Cựu ước chúng ta cũng có thể thấy quan niệm này nơi tiên tri
Giona, ông không vâng lời Chúa, trốn đi để khỏi phải rao giảng lời Chúa cho
Israel và dân ngoại, mà dân ngoại thì Chúa đâu có cứu cho nên giảng làm gì.
Người biệt phái thì họ càng tin chắc hơn quan điểm này. Quan điểm này sau đó
nhiễm luôn cả giám mục Jancénius, có muốn nên thánh mà Chúa không cho thì cũng
hư đi thôi, hậu quả là người ta sống buông thả, hưởng thụ, không được đời sau
thì phải bám lấy cái đời này thôi.
Thật sự tìm hiểu kỹ Thánh Kinh thì không phải như thế, mà Chúa cứu
cả dân ngoại. Lịch sử cứu độ Cựu ước, sau thời kỳ Babylon Chúa đã làm cho dân
ngoại qui về Thiên Chúa, đến nỗi cả đế quốc Ba Tư là dân ngoại cũng yểm trợ cho
dân Israel trở về tái thiết quê hương.
Isaia nơi bài đọc I cho thấy Chúa tập họp các dân nước đến và
cho thấy vinh quang Chúa. Isaia trình bày cho chúng ta rất rõ ý muốn và tình
yêu của Giavê Thiên Chúa qui tụ mọi dân tộc, biến họ thành một dân duy nhất.
Dân Israel trở về quê hương đầy phấn khởi và hy vọng sau một thời kỳ dài làm nô
lệ bi đát, ghê tởm. Khi trở về rồi thì họ phải đương đầu với thực tế khó khăn
ghê gớm. Vì tế, Isaia cố gắng đem lại cho họ nghị lực đã bị suy giảm và có thể
rơi vào tuyệt vọng bằng cách là diễn tả một tương lai sáng chói cho một dân
được tuyển chọn, dân đó chính Chúa chọn lựa làm dấu chỉ cho sự hiệp nhất mọi
dân nước, mà dân nước này cũng được tiếp nhận cùng với dân riêng thuộc về Thiên
Chúa, tôn thờ Thiên Chúa. Đó chính là sự hướng dẫn tuyệt diệu trong Hội thánh do
Đức Kitô thiết lập cho cả nhân loại, cho cả thế giới ở mọi thời và mọi nơi.
Với ý chí ham hiểu biết, với tính tò mò, chúng ta muốn hỏi nhiều
hoặc ít người được cứu độ như người Do thái đã hỏi Chúa Giêsu. Nơi đoạn Tin
Mừng chúng ta đọc lại hôm nay, Chúa Giêsu đã không trả lời thẳng câu hỏi nhiều
hay ít. Nếu Ngài trả lời nhiều người được cứu độ thì người ta sẽ sống buông
thả. Nếu Ngài trả lời ít người được cứu độ thì người ta sẽ thất vọng buông
xuôi, hoặc sẽ rơi vào tâm trạng của người Do thái bấy giờ là tự đắc, tự mãn, vênh
váo là chỉ có Chúa cứu dân tộc Do thái thôi.
Tuy nhiên, trong Phúc âm có lời Chúa châm biếm họ: “Không phải
những kẻ nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành
thánh ý Chúa. Trong ngày phán xét nhiều kẻ nói chính tôi nhân danh Chúa làm
được cái này, làm cái kia, nhân danh Chúa trừ quỉ, nói tiên tri, làm phép lạ… Bấy giờ chủ tuyên bố: Ta không biết các
ngươi là ai, hãy xéo đi khỏi mặt Ta hỡi những phường tác quái”.
Vì thế, lẽ ra người ta phải đặt câu hỏi: Làm sao để được cứu độ?
Làm gì để được cứu độ? Cho nên Chúa trả lời các người hỏi là: “Hãy chiến
đấu để qua cửa hẹp mà vào Nước Trời”, chứ Ngài không trả lời là nhiều
hay ít người được cứu. Như thế, đường vào Nước Trời hẳn không phải là thênh
thang mà là cửa hẹp, cho nên phải chiến đấu. Mà nói đến chiến đấu thì chúng ta
còn nhớ bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước và được tiếp nối qua bài Tin Mừng hôm
nay thì cuộc đời Giáo Hội lữ hành là một cuộc đời dân Chúa chiến đấu. Có nhiều
lãnh vực phải chiến đấu quá đi, nhưng chiến đấu với chính mình là quan
trọng. Chiến đấu với cái tôi rất là khó, vì cái tôi cồng kềnh của tự
kiêu, phô trương; cái tôi nặng nề của vun vén cá nhân; cái tôi phình to vì tự hào,
tham danh vọng… Có lẽ cửa trời là một cửa không hẹp, nhưng chỉ có cái tôi cồng
kềnh, cái tôi nặng nề, cái tôi phình to, to quá mức cái cửa cho nên không vào
được.
Lucife đã phình to, Ađam Eva đã phình to, vì thế Chúa nói hãy
chiến đấu, chiến đấu cho cái tôi nhỏ lại trước anh em, chiến đấu cho cái tôi
khiêm hạ trước Thiên Chúa rất cần thiết. Ai trong chúng ta cũng cảm thấy rằng,
có những lúc trong mình cái tôi có khuynh hướng muốn bành trướng để thu tích.
Thu tích trí thức, thu tích đạo đức, thu tích chức vụ, thu tích sự tín nhiệm và
có khuynh hướng muốn vượt lên trên người khác. Do đó nó làm cho lòng chúng ta
sơ cứng, khép lại trong mức độ khác nhau tùy mỗi người. Vì thế, Chúa muốn chúng
ta chiến đấu vào của hẹp, một cuộc chiến đấu vào của hẹp là không phải tự mình đặt
vào mà chính Chúa dẫn đem chúng ta vào.
Thánh Phaolô trong thơ gởi tín hữu Do thái hôm nay trình bày cho
chúng ta thấy chiến đấu là phải trải qua những đau khổ thử thách. Tất nhiên
chiến đấu là phải can trường; tất nhiên chiến đấu là gặp những thử thách, gặp
những thương tích, gặp những đau khổ. Nhưng Thiên Chúa như một người Cha vừa
nhân hậu xót thương, vừa tài trí khôn ngoan, Ngài quan tâm, Ngài sửa dạy, Ngài
bổ sức, nâng đỡ, vì thế thánh Phaolô khích lệ chúng ta nơi bài đọc II: “Đừng để
mình vấp phạm trước nghịch cảnh, nhưng hãy can đảm và kiên trì”.
Bước đường xem ra càng khó khăn, chúng ta càng cần phải hy vọng,
tin tưởng để chiến đấu. Chúng ta cần tin Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn lấy tình
phụ tử chăm sóc và nâng đỡ. Ngài chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc, được sự
lành, dù Ngài có sửa dạy, có quở trách, có đánh đòn là chỉ vì Ngài đã chọn
chúng ta làm con riêng của Ngài. Chúng ta cần tin vào Ngài để chiến đấu và chắc
chắn chúng ta sẽ vào được cửa trời, cửa xem ra rất hẹp.
Qua kinh tin kính mà chúng ta sẽ tuyên xưng, cậy nhờ Mẹ Maria
giúp chúng ta tin mạnh mẽ hơn, đồng thời cũng xin Mẹ giúp chúng ta quảng đại,
can đảm để chiến đấu thật lực.
9. Cửa Hẹp – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước
thang thanh luyện và lối hẹp tiến lên.
Thiên Chúa đã chọn dân Do-thái làm dân riêng để chuẩn bị đón
nhận ơn cứu độ. Thiên Chúa đã từng bước dẫn dắt lịch sử của Dân riêng qua nhiều
giai đoạn thăng trầm. Qua dân này, Thiên Chúa đã mạc khải về chính mình, về vũ
trụ và con người. Được chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế là một ưu quyền. Tuy
nhiên, Ơn Cứu Độ lại phổ quát ban cho hết mọi người. Không người nào hay dân
tộc nào có đặc quyền sở hữu ơn cứu độ. Để nhận lãnh ơn cứu độ, mỗi cá nhân phải
biết mở rộng tâm hồn đón nhận. Nước Trời được mở ra cho mọi người tiến vào.
Không một ai là ưu tuyển được tự động bước vào Nước Trời. Tiên tri Isaia đã
trình bày: Đây Chúa phán: "Ta đã biết các việc làm và tư tưởng của chúng;
Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: Chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang
của Ta (Is 66, 18). Chúa sẽ qui tụ mọi dân từ khắp nơi, không phân biệt màu da,
chủng tộc, ngôn ngữ hay bất cứ sự khác biệt nào. Ai muốn tham dự Nước Chúa, hãy
bước vào qua cửa hẹp.
Isaia đã nói tiên tri về một trời mới và đất mới. Một dòng dõi
trường tồn. Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi người tin về một mối: Vì chưng lời Chúa rằng:
Cũng như Ta tạo thành trời mới, đất mới đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì
dòng dõi ngươi và danh tánh các ngươi sẽ vững bền như vậy" (Is 66, 22).
Một viễn tượng cao vời và một niềm hy vọng tuyệt đối vào chương trình cứu độ
của Thiên Chúa. Đã hơn hai ngàn năm trăm năm từ khi tiên tri Isaia xuất hiện,
cuộc lữ hành đức tin tiếp tục diễn tiến từ đời này qua đời kia. Niềm hy vọng
trời mới và đất mới là cùng đích của mọi loài thụ tạo. Thiên Chúa hiện hữu tự
đời đời. Các thế hệ con người nối tiếp và hành trình sống niềm tin vẫn luôn
tiến tới. Mỗi người chúng ta được mời gọi bước vào chương trình cứu độ và chung
kết sẽ được diện kiến vinh quang Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng cửa Nước Trời rộng mở nhưng không phải tất cả
mọi người đều vào được. Trong khi Chúa giảng: Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy
Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Chúa Giêsu không trả
lời nhiều hay ít người được cứu độ, nhưng Chúa đã mở ra một lối vào. Không ai
có vé đặc biệt hay ưu quyền dành riêng. Mọi người đều bình đẳng trên con đường
tiến về quê trời. Chúa Giêsu phán rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa
hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được (Lc 13,
24). Cửa rộng rãi thênh thang sẽ dẫn vào nơi hoan lạc của trần thế hưởng thụ và
tiêu xài. Cửa rộng rãi tự do sẽ dẫn chúng ta vào con đường cụt. Chúa Giêsu nhập
thế qua cửa hẹp. Cửa hẹp là lối đi lên. Cửa hẹp đòi hỏi phải từ bỏ, hy sinh và
tiết chế. Cửa hẹp dẫn lối vào Nước Trời. Đúng thế, không mấy người thích đi vào
cửa hẹp. Vì qua cửa hẹp đòi hỏi phải sống khiêm hạ, trau dồi nhân đức và sống
khổ hạnh. Sống khoan dung độ lượng tha thứ bỏ qua những vướng bận cuộc đời.
Chúa Giêsu ví Ngài như là cửa chuồng chiên, ai qua cửa mà vào sẽ
tìm được nơi an nghỉ thỏa thuê. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Ngài qua
lối cửa hẹp. Ngài không thường hiện diện ở những nơi nhà cao cửa rộng hoặc nơi
biệt thự khang trang, mà là nơi sườn núi, ngoài cánh đồng, nơi hoang mạc, chỗ
nghèo hèn, bên bãi biển và nơi cung đường. Chúa mở lối vào qua cửa hẹp bằng Tám
Mối phúc thật và luật yêu thương bác ái. Cửa hẹp là cửa an lạc, thanh thản và
thánh thiện. Con đường hẹp cũng là con đường đi lên núi sọ. Con đường Chúa đã
đi qua là con đường thánh giá, đau khổ và từ bỏ. Mọi tín hữu, dù sống trong bậc
tu trì hay bậc sống gia đình đều được mời gọi đi vào con đường hẹp. Con đường
hy sinh và từ bỏ ý riêng, để cùng nhau sánh bước trên con đường trọn lành. Bước
theo Chúa vào con đường hẹp sẽ dẫn tới hạnh phúc Nước Trời.
Đi theo Chúa vào con đường hẹp thì không dễ. Không phải mọi
người đều hưởng ứng chấp thuận. Thực tế, chúng ta rất ngại phải từ bỏ hay buông
bỏ những sự lỉnh kỉnh ở đời như những thói hư tật xấu gắn liền với con người
trong đời sống hằng ngày. Bỏ đi những thói xấu hay tội lỗi, chúng ta tiếc xót
lắm. Chúng ta than van rằng đã vất vả làm việc cả tuần, cuối tuần phải hưởng
thụ nhậu nhẹt chơi bời chút đỉnh cho vui cuộc đời. Vào cuối tuần mới có giờ
rảnh rang, chúng ta phải đi giải trí Casino đôi chút chứ. Cửa rộng hay cửa hẹp
có khác gì. Nghĩ rằng cuộc sống có là bao, hưởng thụ đi kẻo muộn. Có tiền bạc
rủng rỉnh, nên tiêu xài mua sắm cho thỏa lòng ước mong. Chúng ta không muốn bị
gò bó trong những luật lệ bị cấm đoán. Cùng thi đua với chúng bạn, chúng ta cứ thong
dong hưởng phước cuộc đời. Tin là đời chúng ta còn dài, không cần phải lo lắng
chi nhiều. Thế là chúng ta đang chuyển bước sang con đường rộng rãi thênh thang
với hoa thơm cỏ lạ.
Đôi khi nghĩ thầm rằng chúng ta là những tín hữu ngoan đạo rồi.
Chúng ta đã lãnh nhận các Bí Tích đầy đủ, tham dự các ngày lễ Chúa Nhật và lễ
Trọng, xưng tội một năm một lần và đọc kinh sáng tối mỗi ngày. Hơn nữa, chúng
ta yên trí mình là đạo gốc nhiều đời đã có ông bà, cha mẹ và bà con lối xóm gia
hộ để có vé vào cửa Nước Trời. Chúng ta cũng đã cố gắng gia nhập các Hội Đoàn
để sống đạo. Chúng ta cũng không muốn ai can thiệp vào đời sống riêng tư. Chúng
ta không muốn bị nghe lời cảnh tỉnh và sửa dậy qua lời Chúa hằng tuần nơi tòa
giảng. Thích nghe (tiếng ngoại quốc) mà không hiểu thì vẫn vui hơn, vì không bị
lương tâm cắn rứt. Chúng ta an vui với cách sống riêng của mình và thù ghét
những ai chắn đường cản lối bước ta đi. Đôi khi nghĩ rằng chúng ta độc lập tự
do quyết định đường đời của mình, không cần ai nhắc nhở sửa dậy. Hãy biết lắng
nghe!
Thánh Phaolô tha thiết mời gọi thái độ khiêm hạ: Anh em thân
mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con
rằng: "Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí
khi Người quở trách con (Dt 12, 5). Chúa đánh động tâm hồn chúng ta qua nhiều
cách. Có rất nhiều khi chúng ta đang xa lạc vào đường lầm nhưng không nhận ra.
Như Vua Đavít chỉ nhận ra lỗi lầm khi tiên tri Nathan gợi ý và sửa dạy. Những
thói quen cuộc sống tạo thành tính tình cỗ hữu sai lầm, có người nói rằng tính
tôi là vậy đó, ai chịu được thì chịu. Cần có những ánh sáng dọi chiếu để nhận
diện ra chính mình. Chúa thương chúng ta nên Chúa sửa dạy: Vì Chúa sửa dạy ai
là kẻ Người yêu mến và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con (Dt 12, 6). Lửa thử vàng,
gian nan thử đức. Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước
thang thanh luyện và lối hẹp tiến lên.
Không phải cứ mang danh Kitô hữu là chúng ta bảo đảm được dự
phần phúc thiên đàng. Không chỉ thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà chúng ta được vào
Nước Trời, mà là dành cho những ai làm theo thánh ý Chúa. Việc sống và thực
hành lời của Chúa phải sinh hoa kết qủa tốt. Đức tin phải có hành động tốt mới
phát triển. Chúng ta đặt niềm tin nơi Chúa như thánh Phaolô đã dậy rằng hãy
chạy đến cùng đường và giữ vững đức tin. Đừng để công lao cuộc sống đạo của
chúng ta ra vô ích. Chúng ta phải chiến đấu tới cùng để đạt triều thiên sự
sống. Chung hưởng hạnh phúc với các tổ phụ cha ông, đừng để bị gạt ra ngoài như
kẻ gian ác: Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri
ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc
lóc nghiến răng (Lc 13, 28).
Lạy Chúa, cửa Nước Trời luôn rộng mở. Ngõ vào cửa Nước Trời
là ngõ hẹp. Xin cho chúng con biết trút bỏ những tham sân si và bận vướng cuộc
đời để thanh thản bước theo Chúa. Xin Chúa dẫn dắt chúng con đi vào đường ngay
nẻo chính. Amen.
10. Cửa hẹp – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Thánh Luca nhắc nhở chúng ta rằng “chúng ta đang tiến bước về
Giêrusalem”. Chúa Giêsu “rao giảng và lên đường” tiến về sự thử thách, các bài
học tỏ ra cấp bách. Thánh Luca đặt ra một câu hỏi thuần túy tò mò:
- Có nhiều người được cứu rỗi hay không?
- Ngươi hãy chiến đấu để được cứu rỗi! Hãy gắng sức mà vào
cửa hẹp.
Hãy chiến đấu, hãy gắng sức! Luca thích ý tưởng chiến đấu được
lấy lại từ người thầy Phaolô của ông. Chúng ta có thể làm cả một tuyên bố với
những lời Phaolô kêu gọi chiến đấu:
“Tôi chiến đấu với sức mạnh của Chúa Kitô vốn tác động mạnh mẽ
nơi tôi” (Cl 1,29); “Êphaphô chăm lo cầu nguyện” (Cl 4,12); “Hãy chiến đấu lành
mạnh cho đức tin, giật lấy sự sống vĩnh cửu” (1Tm 6,12)
Đây là cuộc chiến đấu thực hành các lời khuyên đã nhận lãnh. Đã
thấy Chúa Giêsu, đã lắng nghe và thậm chí đã ngồi trước mặt ngài vẫn chưa đủ để
mở cửa Thiên Chúa.
- Ta chẳng hiểu các ngươi nói gì và từ đâu đến!
Chúng ta không thể trở thành Kitô hữu bằng việc đọc sách thánh
và mơ mộng. Cần phải thực hành. Một thứ lo âu đi ngang qua các trang Tin Mừng:
điều mà các bạn đang khám phá, các bạn có thực hành hay không?
Ý tưởng “thực hành”đã bị quá hạn hẹp trong việc thực hành bí
tích. Người ta nói: “Tôi là người lãnh đạo”. Hành đạo như thế nào? Chúng ta có
thể đi lễ hằng ngày và vẫn bị đuổi ra khỏi cửa trời nếu chúng ta không thực sự
sống theo Tin Mừng: “Ta không biết ngươi từ đâu đến!”
May thay lời kêu gọi say mê thực hành được soi sáng, cửa hẹp
được nới ra thật rộng: “Người ta sẽ đến từ Đông, Tây, Nam, Bắc”. Đây cũng là
bài ca chiến thắng của sách Khải Huyền, được lấy lại trong lễ Các Thánh: “Tôi
thấy một đám đông không thể đếm được…” (Kh 7,9).
Nhưng lời cuối cùng của bài suy niệm này báo động cho chúng ta:
“Có những người rốt hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ trở
nên rốt hết”. Chúng ta sẽ thấy lại sự đạo ngược mà thánh Luca thường làm chúng
ta hình dung, trong khi nhắc đến ở đây với mức độ vừa phải. Không phải tất cả
những người đầu tiên sẽ trở nên rốt hết, người ta nói với chúng ta chỉ một số
mà thôi, những người hạng nhất khi đó là những người học hiểu đạo và những
người rốt hết khi phải thực hành đạo, cũng phải sắp hàng để đến Nước Trời.
11. Hy vọng và cầu nguyện – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Tách rời bài đọc hôm nay khỏi bối cảnh toàn bộ Phúc Âm, người
đọc dễ sinh nản chí. Trong bài chỉ thấy nói đến cửa hẹp nhiều kẻ sẽ không qua
được, đến sự khai trừ khỏi Nước Trời v.v… Chúa nhân lành trong bài giảng trên
núi, từng nói đến Cha với niềm âu yếm, tại sao ở đây lại có thể nói những lời
nghiêm khắc đến thế? Chúng ta cần nhớ rằng Phúc Âm là một pho sách nhất phiến,
mạch lạc chặt chẽ, đoạn này soi sáng giải thích đoạn kia. Vì thế không nên hiểu
tình âu yếm của Cha như một thái độ nhu nhược, không nên giải thích sự đòi hỏi
gắt gao của Người như một chủ trương nghiêm khắc. Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta
về sự cần thiết phải từ bỏ và bổn phận phải theo đúng chân truyền.
1) Phải từ bỏ.
Không lọt qua được cửa hẹp là những kẻ không muốn từ bỏ những
hành trang bề bộn. Về mặt trí thức, họ khư khư bảo vệ những thành kiến, những
hệ thống tư tưởng, những chủ nghĩa, những ý kiến của họ. Về mặt luân lý, họ
không từ bỏ những thói quen ích kỷ, thái độ tự tại trong vật chất, những lợi
nhuận bất công, những hưởng thụ xác thịt. Một số lớn không từ bỏ những thứ cồng
kềnh đó nhưng vẫn muốn xưng mình là Kitô hữu, muốn vượt qua cánh cửa Phúc Âm,
tuy nhiên trước con mắt Thiên Chúa họ không qua được. Chính ở điểm này chúng ta
không được để cho niềm cậy trông của mình bị dập tắt. Đối với Thiên Chúa, không
có điều gì Người không làm được. Vả lại Thiên Chúa luôn luôn giúp đỡ kẻ có thiện
chí. Nếu ngay tức khắc chưa thể vượt qua cửa hẹp, chúng ta có thể với sự trợ
giúp của Thiên Chúa, loại đi một vài thứ lỉnh kỉnh nói trên. Nếu ngay tức khắc
chưa thể tuân giữ tất cả những điều giảng dạy của Phúc Âm, chúng ta có thể với
sự trợ giúp do Đức Kitô bảo đảm, bắt đầu tuân giữ một vài điều. Chúa không bao
giờ từ chối giúp đỡ kẻ thành tâm thiện chí. Mỗi ngày thêm cố gắng, phấn khởi vì
chắc tâm được Chúa giúp đỡ, chúng ta hy vọng vượt qua được cửa hẹp, là điều mà
bình thường với sức riêng không ai dám mơ tưởng.
2) Phải theo đúng chân truyền.
Một số nào đó có thể dám tự hào được Đức Kitô nhìn nhận là môn
đệ nhưng thật ra Đức Kitô không nhận họ là người của Chúa. Đó là những kẻ uốn
nắn Phúc Âm theo ý riêng mình. Ngày nay có những kẻ giả mạo Phúc Âm, những kẻ
xuyên qua lời phán của Chúa, muốn đưa ra mớ triết lý, những quyền lợi, những
chọn lựa lập trường thế tục của họ. Thay vì quy tư tưởng theo Phúc Âm, những kẻ
ấy quy Phúc Âm theo tầm cỡ và tiêu chuẩn tư tưởng của họ. Ngỡ rằng Chúa bỏ đi,
Chúa khoá cửa rồi, họ gõ cửa xin vào. Nhưng Chúa từ chối, Chúa bỏ mặc họ với
thế gian của họ, vì họ không đón nhận Phúc Âm chân truyền bằng một tinh thần
tôn trọng sự thật. Chúng ta lấy ví dụ trường hợp một số hành động chính trị nào
đó. Hành động chính trị của các Kitô hữu trong quá khứ và nhất là trong hiện
tại luôn luôn bị cám dỗ muốn đem Đức Kitô vào đời sống công cộng, muốn viện dẫn
Đức Kitô làm hậu thuẫn cho một hoạt động đảng phái; thật ra ai cũng biết, hoạt
động đảng phái làm cho Phúc Âm mất đi tính chất chân truyền. Đối với xu hướng
ấy, đối với những kẻ có chủ trương ấy, Đức Kitô đóng cửa lại. Chúa mở cửa cho
hầu hết mọi chủ trương, đường lối, ngoại trừ sự giả dối.
12. Qua cửa hẹp mà vào – Charles E. Miller
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)
Có khó để vào nước thiên đàng không? Chúa Giêsu nói như thế khi
Ngài cảnh cáo: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Lời cảnh cáo của Ngài có một điều
gì đó làm bối rối, từ Ngài nói rằng: “Mọi người sẽ đến từ Đông sang Tây, từ Bắc
chí Nam nhiều người sẽ đến chỗ của mình nơi bữa tiệc trong nước Thiên Chúa”.
Lời tiên tri của Isaia hôm nay đã nói về cùng một điều này. Nói cách khác sẽ có
nhiều dân tộc ở trong vương quốc. Vậy tất cả những người đó họ làm thế nào để
đi qua cửa hẹp được?
Tôi nghĩ điều gì xảy ra trên xa lộ “siêu tốc” khi có một
tai nạn tệ hại xảy ra. Cảnh sát liền đóng cửa ba ‘len’ chỉ cho một ‘len’ duy
nhất còn lại để chạy giống như một cửa hẹp vậy, tất cả phương tiện giao thông
đều phải giảm tốc độ và lần lượt đi qua một cái chốt hẹp. Khi đó tôi nghĩ về
cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã ám chỉ tới, tôi thấy mọi người đều phải xếp hàng giống
như những chiếc xe hơi trên xa lộ, di chuyển một cách chầm chậm xếp hàng qua
một ‘len’ mở duy nhất. Những tài xế đều bực bội, họ ồn ào giận dữ và trao đổi
với nhau những cử chỉ tục tĩu. Những chiếc xe hơi và khí hậu thì quá nóng. Nơi
chốt đóng thì chật ních các xe. Tội lỗi cũng giống như tai nạn xảy ra trên xa
lộ, là nguyên nhân của mọi sự phiền phức.
Đây không phải là một cảnh mời mọc, hình ảnh này có nghĩa là
chúng ta phải vào thiên đàng. Nhưng khi tôi nghĩ rõ ràng hơn về hình ảnh cái
cửa hẹp, tôi nhận thấy rằng thật sự chỉ có một người có thể đi qua cửa ấy. Con
người đó là Chúa Giêsu. Khi Người đi qua cửa đó mà tới thiên đàng Ngài đã đi
vào trong mầu nhiệm Vượt Qua là sự chết và sự sống lại của Người. Chúng ta cũng
phải buộc chính chúng ta đi qua cửa hẹp. Tất cả chúng ta đều cần làm điều đó,
để bảo đảm rằng chúng ta được hiệp nhất với Chúa Giêsu. Nhiều người đã không đi
qua cánh cửa độc nhất đó là thân mình của Đức Kitô, Thân Mình mầu nhiệm của Đức
Kitô là Giáo Hội.
Tuy nhiên Chúa Giêsu đã cảnh cáo một lần thứ hai, Chúa Giêsu nói
với mọi người sẽ phải minh chứng với chủ nhà: “Chúng tôi đã ăn uống trước mặt
Ngài, và Ngài đã dạy dỗ trên đường phố của chúng tôi”. Nhưng ông chủ sẽ trả
lời: “Tôi không biết các anh từ đâu đến, hãy xéo ra khỏi mặt Ta hỡi phường bị
chúc dữ”.
Đây là sự phiền muộn bởi vì chúng ta đã ăn và uống trước sự hiện
diện của Chúa tại Thánh Lễ chúng ta đã tham dự và thông dự vào Thân Mình và Máu
Người. Dĩ nhiên là tham dự cách thụ động trong Thánh Lễ thì không đủ. Lãnh nhận
Thánh Thể mà không có một sự sốt sắng thúc giúc thì làm sao Chúa Giêsu biến đổi
chúng ta thành những giá trị thiêng liêng được. Những gì mà chúng ta đã thực
hiện nơi Thánh Lễ, đặc biệt là khi lãnh nhận Thánh Thể phải ảnh hưởng tới cung
cách sống của chúng ta. Chúa Giêsu không dạy chúng ta trong những đường phố,
nhưng Ngài đã dạy dỗ trong nhà thờ của chúng ta trong phần phụng vụ lời Chúa. Đó
là lý do vì sao chúng ta phải để tâm lắng nghe những bài học trong Thánh Kinh,
ví dụ như trong thư gởi tín hữu Do Thái ngày hôm nay: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời
Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa
dạy kẻ ấy và có nhận ai làm con cái thì Người mới cho roi cho vọt”.
Với tất cả những điều như thế thì đòi hỏi không thể thiếu được
là chúng ta phải trở nên một dân trung thành, chúng ta vẫn phải hợp nhất với
Chúa Kitô trong thân thể mầu nhiệm của Người là Giáo Hội. Đó là phương cách để
bảo đảm rằng chúng ta sẽ phải đi qua tất cả sự ồn ào chán nản của thế gian này
mà vào vương quốc đời đời.
13. Trước cửa thiên đàng
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ở trang trong của một nhật báo xuất bản tại Manila, người
ta đã đọc được câu chuyện vui sau đây:
Trước cửa Thiên đàng, linh hồn một nông dân xuất hiện xin
Thánh Phêrô cho vào hưởng nhan Thiên Chúa. Thánh Phêrô nghiêm nghị hỏi:
- “Con đã sống như thế nào trên trần gian mà giờ đây con
muốn vào Thiên đàng?”
Linh hồn người nông dân trả lời với hết lòng chân thật:
- “Dạ, thưa Thánh Phêrô, 70 năm qua trên trần gian con đã
cần cù làm ăn, tuân giữ mọi điều luật Chúa dạy, không bao giờ phạm tội làm mất
lòng Chúa. Con muốn vào Thiên đàng để được hưởng nhan thánh Chúa đời đời”.
Thánh Phêrô nghiêm nghị trả lời:
- “Con đợi ta xem lại các bản phúc trình mà thiên thần bản
mệnh của con đã gởi về”.
Trong giây phút im lặng, với vẻ mặt nghiêm nghị, Thánh Phêrô lần mở ra kiểm
soát thật kỹ những phúc trình về cuộc đời của người nông dân. Quả thực, đúng
như lời ông khai báo. Thánh Phêrô không tìm thấy bất cứ sai lỗi nào trong các
bản phúc trình ấy cả. Sau giây phút suy nghĩ thêm, thánh nhân nghiêm nghị thêm,
thánh nhân nghiêm nghị trả lời cho linh hồn người nông dân:
- “Con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng”. Thánh Phêrô
ôn tồn giải thích lý do: “Con có biết không, trên Thiên đàng nầy, kể cả chính
bản thân ta đây nữa, tất cả mọi linh hồn vào đây đều là những linh hồn tội lỗi,
đã làm phiền lòng Chúa Giêsu rất nhiều, nhưng đã sám hối ăn năn, được Chúa thứ
tha, rồi mới vào đây được. Còn con thì thật là khác thường. Con suốt đời không
phạm tội gì cả. Vậy con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng. Ta cho con trở
lại trần gian sống thêm ít năm nữa xem sao để con có điều kiện mà trở lại đây
vào Thiên đàng”.
Thưa anh chị em,
Đây là một câu chuyện vui có thể giúp chúng ta nhìn vào cuộc đời
quá khứ của mình dướci ánh sáng của Lời Chúa hôm nay. Nước Trời là của những
tâm hồn tội lỗi nhưng đã sám hối ăn năn trở về cùng Chúa. Nào ai dám tự phụ cho
mình đã không bao giờ lầm lỗi, không bao giờ làm phiền lòng Thiên Chúa và xúc
phạm đến anh chị em xung chung quanh. Chúng ta không nên có thái độ giả hình,
tự phụ, cho mình là trong sạch, tốt lành hơn kẻ khác, xứng đáng được vào Nước
Trời. Đừng tưởng như những người Do Thái, cứ tưởng là Dâng riêng của Chúa, là
con cháu của Abraham là đương nhiên được bảo đảm chắc chắn được vào Nước Trời.
Vì không phải bất cứ ai thưa: “Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời”, cũng
không phải tất cả những ai đã được diễm phúc đồng bàn ăn uống với Chúa Giêsu, được
nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, đều là những người có đủ tiêu
chuẩn bảo đảm cho một tấm vé vào cửa Thiên đàng!
Vấn đề là phải phấn đấu “vào qua cửa hẹp”, “phải dùng sức mạnh”
mới lọt được cửa hẹp dẫn tới bàn tiệc Nước Trời. Bởi vì, trước cửa Nước Trời,
mọi người đều bình đẳng để vào, không có ưu tiên dành cho những người có lý
lịch tốt, hay có gốc gác bự, có ô dù… Cũng không có chuyện dành chỗ trước, cũng
chẳng có chuyện chạy chọt đút lót, cậy quyền cậy thế, hoặc dựa vào thành tích
quá khứ để đòi hỏi cho mình quyền ưu tiên. Vả lại, cũng đừng quan niệm bàn tiệc
Nước Trời như một tiệc chiêu đãi có tính cách phô trương trình diễn. Trái lại,
đây phải là một bàn tiệc của những người chiến thắng, mà chỉ có những người đã
từng chiến đấu, đã chia sẻ những nỗi gian khổ, đã thông phần vào cuộc khổ nạn
của Chúa Kitô mới xứng đáng dự phần.
Điều trớ trêu là không phải con cái trong nhà sẽ là những kẻ
nhanh chân nhất và được vào bàn ăn. Trái lại, chính những kẻ ở xa, những kẻ lặn
lội từ bốn phương trời mà đến. Đối với những người Do Thái đang nghe Chúa Giêsu
thì những kẻ từ Đông Tây Nam Bắc mà đến chính là các dân ngoại. Họ sẽ được vào
đồng bàn với các Tổ phụ và các Ngôn sứ, trong khi chính những người Do Thái là
con cái trong nhà, những kẻ hãnh diện từng ăn uống thường ngày với Chúa, từng
được nghe Ngài giảng dạy, lại phải đứng ngoài gõ cửa tuyệt vọng. Vì vậy có sự
đảo ngược thứ tự vào Nước Trời: “Những người trước hết sẽ trở nên cuối hết, còn
những người cuối hết sẽ trở nên trước hết”.
Anh chị em thân mến, Thiên Chúa không theo chủ nghĩa lý lịch.
Trước cửa Nước Trời, Ngài không hỏi mọi người: Có chịu phép rửa tội, có theo
kitô giáo, có phải là người Công giáo hay không? Có phải là Tu sĩ, Linh mục,
Giám mục, Hồng y hay Giáo Hoàng? Điều Ngài đặc biệt quan tâm và xét hỏi, đó là
đã có làm và sống như Chúa Giêsu đã làm, đã sống, đã dạy hay không? Vì thế,
đừng làm tưởng rằng: hễ có tên là Kitô hữu, là người Công giáo, là đạo gốc, là
đương nhiên được bảo đảm vào Nước Trời, để rồi tự đắc đứng trên nhìn xuống
thương hại hay loại trừ những người anh em ngoại giáo, những người không chia
sẻ một tôn giáo, một niềm tin với chúng ta. Bàn tiệc Nước Trời đón nhận tất cả
mọi thành tâm thiện chí. Nếu chúng ta không thực thi Lời Chúa, không đi theo con
đường hẹp của Chúa, thì có thể những người anh em ngoại giáo sẽ vào Nước Trời
trước chúng ta, đang khi chúng ta, những người được mời gọi trước lại sẽ bị
Chúa từ chối, vì chỉ mang cái nhãn hiệu Kitô hữu mà không có một đời sống đức
tin, một đời sống Kitô hữu đích thực.
Thưa anh chị em,
Nếu Chúa Giêsu mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Thiên Chúa
thì chính là để diễn tả sự chia sẻ niềm vui, chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa
và với anh em. Bởi thế, Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Rôma: “Nước Thiên Chúa
không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong
Thánh Thần” (Rm 14,17).
Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay phải là dấu chỉ cụ thể của bàn tiệc
Nước Trời, nên những gì chúng ta chia sẻ trên bàn thờ, tức là Mình Máu Thánh
Chúa, phải được chia sẻ rộng rãi trong cuộc sống. Nói khác đi, chúng ta không
thể bẻ Bánh Thánh với nhau mà không biết chia cơm sẻ áo cho nhau, nghĩa là cho
anh em trong cộng đoàn mà thôi, nhưng còn là cho mọi người anh em đang cần được
chúng ta chia sẻ. Thực hiện sự chia sẻ cụ thể đó, chính là phấn đấu đi qua cửa
hẹp để dự Bàn Tiệc Nước Trời vậy.
14. Cửa hẹp – McCarthy
(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. HOÁN CẢI ĐỂ VÀO
VƯƠNG QUỐC
Vương Quốc không phải là một câu lạc bộ tư nhân.
Một người đã đến gặp Đức Giêsu và nói: “Thưa Ngài, những người
được cứu thoát thì ít, có phải không?”.
Điều này nhắc chúng ta nhớ đến câu chuyện một người đã chết và
lên thẳng thiên đàng. Thánh Phêrô gặp người ấy ở cổng đưa vào bên trong và
dẫn ông ta đi dạo một vòng quảng trường. Được một lúc, họ đến một khu đất có
tường cao bao bọc. Khi đi ngang qua đó, thánh Phêrô nói: “Ông hãy giữ im lặng
khi đi qua chỗ này”.
“Tại sao?” người đàn ông hỏi.
“Sợ làm phiền những người ở trong đó”, Phêrô đáp.
“Ai ở trong đó?”. Ông ta hỏi.
“Những người Công giáo. Ông biết đấy, họ nghĩ chỉ có họ là
những người được vào Thiên đàng. Nếu họ biết có những người khác được vào Thiên
đàng, họ sẽ thất vọng. Thật vậy, một số người trong đó có lẽ sẽ đòi tiền lại”.
Người đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát
thì ít có phải không?” rõ ràng đã nghĩ rằng Thiên đàng là một câu lạc bộ có
chọn lọc mà chỉ có những thành viên mới được thừa nhận. Người ấy là một người
Do Thái. Vì thế ông ta đã tin rằng chỉ có những người Do Thái mới được vào Nước
Thiên Đàng. Những dân ngoại không có hy vọng được vào. Về phần những kẻ tội lỗi,
hãy quên điều đó! Ý tưởng về một dân tộc được chọn là một ý tưởng nguy hiểm.
Nếu Thiên Chúa có chọn một dân tộc thì Người chọn họ không phải để loại trừ các
dân tộc khác mà để phục vụ những dân tộc khác đó.
Nếu có lúc người đàn ông nghiền ngẫm câu đáp của Đức Giêsu, có
lẽ ông phải hối tiếc vì đã hỏi câu hỏi ấy trước tiên. Bởi vì Đức Giêsu đã đập
vỡ tính ngạo mạn của ông ta thành những mảnh vụn. Người đảo ngược mọi thứ.
Người nói: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ
xuống hàng chót”. Đó là một tuyên ngôn cách mạng làm những người Pharisêu bị
tổn thương và xúc phạm. Người không dừng lại ở đó mà còn đối xử tốt với những
người tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề. Người Pharisêu coi đó là sự phản
bội lại dân tộc đức hạnh như họ. Nhưng Đức Giêsu tuyên bố rằng Người đã đến để
tìm kiếm và cứu chữa những người như thế.
Thế giới này có đầy dẫy những câu lạc bộ độc quyền với những
kiểu cách màu mè, những đặc quyền và ưu đãi v.v… Chúng ta không mong Đức Giêsu
đi theo điều đó. Người cũng không mong như thế. Người đã loan báo Tin Mừng về
Nước Thiên Chúa đang đến. Đối với những người Do Thái tưởng rằng họ đường nhiên
có thể vào nước Thiên Chúa, Người nói: “Các ông hãy sinh trái cây thống hối,
nếu không địa vị ưu đãi của các ông sẽ chẳng có ích gì”.
Đức Giêsu nói rằng sự hoán cải là một phương thế cần thiết để
được vào Vương Quốc. Và Người tiếp tục đem sự hoán cải đến với phần lớn những
người không có gì hứa hẹn. Nhiều người tội lỗi đã chú ý đến lời kêu gọi hoán
cải của Người và họ đã lên đường tiến đến Vương Quốc. Trong khi nhiều người có
đạo đã ngoan cố chống lại lời kêu gọi hoán cải của Người và do đó tự loại mình
ra khỏi Vương Quốc.
Chúng ta không có quyền quyết định ai sẽ được vào Thiên đàng.
Tốt hơn hãy trả lại điều ấy cho sự khôn ngoan và lòng thương xót của Thiên
Chúa. Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa làm công việc của Người. Đến lúc cuối đời,
sự cứu chuộc không phải là một điều gì đó mà chúng ta có thể kiếm được. Nó là
một ơn của Thiên Chúa. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không nên cố
gắng làm cho mình xứng đáng với ơn ấy. Qua phép Thánh tẩy, chúng ta là những
thành viên của dân được chọn mới. Chúng ta là những người “bên trong”. Nhưng
chúng ta không nên chỉ dựa vào một sự kiện ấy. Chúng ta phải nỗ lực trổ sinh
hoa trái cho Nước Thiên Chúa, tức là hoa trái của sự thiện hảo, đời sống ngay
lành và chân lý.
Suy Niệm 2. ĐAU KHỔ GÓP PHẦN
RÈN LUYỆN CHÚNG TA.
Trước đây, phương pháp dùng để giáo dục thanh niên dựa trên
nền tảng là sức chịu đựng: một đứa trẻ càng vượt qua được những thử thách tàn
bạo, thì nó càng được chuẩn bị tốt hơn để đối phó với những mối nguy của tuổi
trưởng thành. Chúng ta nhìn thấy một ví dụ tốt về điều ấy trong nghi thức khai
tâm của các bộ lạc người da đó. Nghi thức đó được chỉ định để giúp thanh niên
có được vị trí của chúng trong thế giới của người lớn.
Trong một nghi thức như thế, lúc trời tối người cha dẫn đứa
con tuổi thanh niên vào một khu rừng thưa. Ông nói với nó phải qua đêm ở đó một
mình và chỉ được trang bị bằng một cây giáo. Kế đó, người cha rút lui. Khi đứa
con ra khỏi khu rừng về lại nhà thì nó không còn là một đứa trẻ nữa.
Người thanh niên đối diện với một thách đố đầy đe doạ. Có
một bóng đêm không dò thấu và vô số âm thanh, phần lớn vô hại nhưng rất ghê
rợn. Người ta có cảm tưởng một vài con thú đang ẩn náu gần đó, chờ đợi để vồ
mồi, một cảm giác làm người ta lạnh toát mồ hôi và rã rời thân thể. Chỉ cần có
một người bạn bên cạnh, sự việc sẽ khác biết bao. Nhưng anh ta chỉ dựa vào sức
của riêng mình.
Thời gian trôi qua chậm biết bao, mỗi phút như bằng một
giờ. Nhưng dù sao, đêm đã đi qua. Và sau cùng bình minh ló dạng ở bầu trời. Khi
bóng tối rút lui, nỗi sợ hãi của người thanh niên mới chấm dứt và anh ta bắt
đầu thở đều. Rồi từ rừng rậm một bóng người xuất hiện. Đó là cha anh ta.
Người thanh niên chạy đến cha anh, gieo mình vào đôi tay
của người cha và kêu lên “Ôi cám ơn Thiên Chúa, cha đã đến!”. Rồi đến lượt
người cha ôm lấy con mình. Vừa ôm con, ông vừa nói: “Con ơi, cha tự hào về con.
Con đã xử sự như một người lớn thật sự”. Điều mà người thanh niên không biết là
cha anh đã ngồi nơi kín đáo suốt đêm, đưa mắt dõi theo anh. Mỗi người muốn
trưởng thành phải đối diện với “khu rừng đen tối” dưới một hình thức nào đó.
Tác giả của thư gởi tín hữu Do Thái nói về cách sửa dạy và rèn
luyện mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta được rèn luyện trong trường học
của đau khổ. Tuy nhiên, ở đây không đề cập đến khía cạnh tình cảm của đau khổ.
Người ta có thể bị tổn thương đến nỗi trở nên cay cú và không chấp nhận sự cứu
giúp.
Tuy nhiên đau khổ có thể là một cơ hội tốt. Giá trị của đau khổ
không nằm trong chính nỗi đau mà trong thái độ người chịu đau khổ đối với nỗi
đau. Đau khổ có thể thanh luyện linh hồn và biến đổi tính cách của một con
người. Đau khổ có thể đem lại hoa quả. Nó là một phần cần thiết giúp chúng ta
trở thành một con người chân chính tức là một con người có sự trưởng thành,
chiều sâu và lòng trắc ẩn. Như Van Gogh đã nói: “Người ta phải chịu gian lao để
nên chín chắn”.
Đau khổ là một thành phần cần thiết để xây dựng một con người
Kitô hữu trưởng thành. Chúng ta không nên coi đau khổ là một sự trừng phạt của
Thiên Chúa. Thiên Chúa không trừng phạt một ai. Đau khổ là một phần của thân
phận con người. Thiên Chúa để cho chúng ta đau khổ. Đúng, nhưng chỉ vì đau khổ
có thể đem lại điều tốt lành. Đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa
hơn. Trong đau khổ, chúng ta cảm nghiệm quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Có những chân lý mà chỉ có sự đau buồn mới có thể chỉ dạy. Một trong những chân
lý ấy là lòng thương xót đối với người đồng loại đau khổ. Không thể học được
lòng thương xót mà không có đau khổ.
15. Khung cửa hẹp
Trong một buổi chia sẻ lời Chúa,bác công nhân đã phát biểu
như sau:
Đã ba mươi hai năm nay, tôi làm việc cho một công ty. Nhiều
lần tôi được đề bạt thăng chức, nhưng tôi đều từ chối, bởi vì nếu chấp nhận,
thì tôi sẽ không có đủ thời giờ để chăm sóc cho vợ và bốn đứa con trai của tôi.
Tình yêu tôi dành cho vợ con thì quí giá hơn số tiền lương được tăng thêm.
Cách đây hai năm, tôi lại được đề bạt một lần nữa. Và lần
này thì tôi chấp nhận, bởi vì các con tôi đều đã khôn lớn và vợ tôi thì lại
không thể đi làm được.
Và thế là tôi phải theo một khóa bồi dưỡng. Rất tiếc là
trong thời gian này, bà chị ruột của tôi qua đời, nên tôi không thể chú tâm vào
học hành. Vì thế, tôi bị rớt trong kỳ thi cuối khóa.
Trở về công ty, tôi đã bị ông giám đốc mạt sát một cách
thậm tệ. Tôi cảm thấy ê chề và nhục nhã. Mọi sự bỗng trở nên vô nghĩa, ngay cả
quyết tâm phụng sự Chúa cũng tiêu tan như mây khói. Tại sao lại xảy ra như thế?
Hay là Chúa đã bỏ rơi tôi? Tất cả dường như đã sụp đổ.
Ngày kia, tôi đã phải thú thực với vợ tôi:
- Anh không thể sống nhục nhã như thế này.
Vợ tôi khuyên tôi cầu nguyện và rồi sự cầu nguyện đã gíup
tôi nhận biết phải chọn lựa bước theo Đức Kitô bị đóng đinh và bị bỏ rơi. Từ
đó, tôi tìm lại sự bình an. Tôi xin lỗi ông giám đốc. Và cũng từ đó, công việc
làm ăn của tôi mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Câu chuyện vừa nghe, quả thật đã gợi lên trong chúng ta hình ảnh
về khung cửa hẹp mà đoạn Tin mừng hôm nay đề cập đến. Thực vậy, Chúa Giêsu đã
khuyên nhủ chúng ta:
- Hãy chiến đấu để vào qua khung cửa hẹp.
Vậy khung cửa hẹp ấy là gì?
Tôi xin thưa:
- Khung cửa hẹp ấy không gì khác hơn là chính bản thân của Ngài.
Có nghĩa là Ngài đòi hỏi chúng ta phải nhìn thẳng vào con người
của Ngài để nhận biết Ngài. Không gì có thể thay thế được cái biết nội tâm ấy.
Cho nên, ngay cả những người sống gắn bó với Ngài, ăn uống trước mặt Ngài, được
nhe những lời giảng dạy đầy khôn ngoan của Ngài, cũng như được chứng kiến những
việc làm đầy kỳ diệu của Ngài, nếu thực sự họ không nhận biết Ngài, thì rồi họ
cũng sẽ bị khai trừ, bị loại bỏ ra ngoài.
Và như vậy, Ngài chính là cửa, như lời Ngài đã nói với dân Do
Thái:
- Ta là cửa. Ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi.
Khung cửa được thánh Luca đề cập tới chỉ có thể là chính bản
thân Ngài, chứ không thể là bất kỳ một ai khác. Đây cũng là điều Ngài đã từng
xác quyết trong Tin mừng của thánh Gioan:
- Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với
Cha mà không qua Thầy.
Hay như thánh Phêrô đã công bố trong bài giảng đầu tiên vào ngày
lễ Ngũ Tuần, tức là lễ Hiện Xuống:
- Chúa Giêsu bị anh em treo lên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Ngài
làm Chúa và làm Đức Kitô. Dưới bầu trời này, không có một danh nào khác đã được
ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ.
Hãy bước theo Đức Kitô. Hãy trở nên giống Ngài bằng cách chấp
nhận những khổ đau, những thập giá. Vì đó chính là khung cửa hẹp, chúng ta cần
phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh cửu, để chiếm lấy vinh quang phục sinh.
16. Gắng sức
Chúng ta vừa đọc lại bài Phúc âm của Chúa nhật XXI Mùa thường
năm C; không những chỉ trong bài Phúc âm mà cả ba bài đọc đều như muốn nhắc
chúng ta nhớ lại hai chiều kích của ơn cứu rỗi.
Chiều kích thứ nhất là chiều kích phổ quát,
đó là ơn cứu rỗi của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người, mọi dân tộc. Chiều
kích phổ quát này được loan báo nơi sách tiên tri Isaia mà chúng ta đọc trong
bài đọc I, và được nhắc lại nơi đoạn Phúc âm hôm nay là thiên hạ sẽ từ Đông sang
Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Chiều kích phổ quát này
dường như nhấn mạnh đến số lượng nhiều hơn, và có thể làm chúng ta hiểu lầm là
mọi người tự động được vào Nước Thiên Chúa, nhưng không phải như vậy.
Chiều kích thứ hai của ơn cứu rỗi là chiều kích cá nhân,
nhấn mạnh đến phẩm chất, đến mối tương quan giữa mỗi tín hữu với Chúa Kitô, với
Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi. Chiều kích thứ hai này nhắm đến phẩm chất của mối
tương quan giữa mỗi người với Thiên Chúa và được thể hiện nơi bài đọc II trong
thơ Do thái: “Thiên Chúa yêu thương ai thì Ngài càng thanh luyện, càng uốn nắn
người đó nhiều hơn nữa qua những thử thách để người đó mang lại nhiều hoa trái”.
Thiên Chúa thanh luyện để làm cho con người được lớn lên trong
tình yêu của Ngài. Chúng ta nhớ lại dụ ngôn về cây nho, ngành nho được nhắc lại
nơi Phúc âm thánh Gioan: “Thầy là cây nho thật, Cha Thầy là người trồng nho. Hễ
ngành nào thuộc về Thầy mà không sinh quả thì Cha Thầy sẽ chặt đi. Còn nếu
ngành nào sinh quả thì Cha Thầy sẽ cắt tỉa để nó sinh nhiều hoa quả hơn”.
Việc Thiên Chúa cắt tỉa con người được hiểu như là việc Thiên
Chúa thanh luyện con người. Nơi bài đọc II của Chúa nhật XXI Mùa thường năm C
nói là: “Thiên Chúa sửa dạy con người như người cha sửa dạy con cái trong nhà.
Thiên Chúa yêu thương ai thì Người muốn thanh luyện người đó nhiều hơn nữa để
mang lại nhiều hoa trái”. Đây là điều mà bài Phúc âm hôm nay thường gọi là bước
vào qua cửa hẹp.
Hai chiều kích phổ quát nhắc về số lượng và cá nhân, nhắm về
phẩm chất của mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa luôn luôn đi đôi với
nhau được nhắc lại trong bài Phúc âm chúng ta vừa đọc lại ở phần đầu, khi Chúa
Giêsu phán: “Bất cứ ai muốn vào Nước Chúa thì phải đi qua con đường hẹp, phải
cố gắng và từ bỏ những gì cản trở con người bước vào Nước Trời”. Thiên Chúa
cảnh tỉnh các đồ đệ của Ngài đừng ỷ lại vào những công việc giả tạo của mình.
Trong hai chiều kích này của ơn cứu rỗi, dĩ nhiên chiều kích
phẩm chất nhắc đến mối tương quan cá nhân với Thiên Chúa là điều quan trọng.
Càng yêu mến Chúa thì ta càng làm cho nhiều người nhận biết Chúa. Trường hợp
các vị thánh là một thí dụ điển hình, các ngài càng yêu mến Chúa thì càng được
thanh luyện chính mình, hay đúng hơn càng được Thiên Chúa thanh luyện để có sức
ảnh hưởng mạnh và dẫn đưa nhiều người đến với Chúa. Các thánh càng đào sâu
chiều kích cá nhân thì càng đến gần Chúa, do đó tâm hồn của các ngài càng mở
rộng đến mức độ đại đồng để đón nhận tất cả mọi anh chị em và đưa anh chị em
đến với Chúa. Ap dụng cho đời sống mình, càng kết hiệp với Chúa thì ta càng quảng
đại với anh chị em; nếu xa lìa Chúa thì ta càng hẹp hòi với anh chị em.
17. Cửa hẹp
Nếu một người nào đó hỏi chúng ta: “Phải chăng chỉ có những
người theo đạo Chúa mới được cứu độ?” hay “Có phải chỉ có một số ít người được
vào nước trời?”. Chúng ta sẽ trả lời thế nào? Câu hỏi này xưa kia có người đã
hỏi Chúa Giêsu. Sở dĩ ông ta hỏi như vậy vì hồi đó có nhiều quan niệm và chủ
trương khác nhau. Giáo lý của nhóm Pharisêu thịnh hành lúc ấy cho rằng: thế
giới hạnh phúc mai hậu chỉ dành cho một số ít thôi, còn đa số sẽ phải khốn khổ.
Còn những người phái khắc khổ Ét-sê-niên thì khẳng định ngon lành rằng: chỉ
những thành viên của họ mới được cứu độ. Có lẽ vì có những chủ trương khác nhau
như vậy, nên người này đến hỏi Chúa Giêsu cho biết rõ sự thực như thế nào.
Chúa Giêsu đã trả lời. Câu trả lời của Chúa vừa là bài học cho
chúng ta vừa là giải đáp để chúng ta có thể trả lời cho những người khác. Chúa
Giêsu đã khẳng định rằng: tất cả mọi người đều được cứu độ. Đó là giáo lý trước
sau như một của Chúa. Bởi vì “Thiên Chúa là Cha, Đấng mong muốn mọi người được
cứu thoát”, “Đấng không muốn bất cứ ai phải hư đi”, “Đấng không muốn một trong
những kẻ bé mọn phải hư mất”. Bàn tiệc của Thiên Chúa là bàn tiệc mở ra cho
muôn dân, nghĩa là nước trời được mở ra đón nhận mọi người. Chúa đến trần gian,
chịu nạn chịu chết cho mọi người, cứu chuộc mọi người, chứ không phải chỉ một
số người nào thôi.
Như vậy, Chúa cứu chuộc mọi người là một điều rõ ràng và dứt
khoát rồi. Nhưng được cứu độ hay không là hoàn toàn do mỗi người. Vì thế, Chúa
Giêsu muốn mọi người đừng bao giờ còn đặt vấn đề một cách sai lầm và tiêu cực
rằng: phải chăng chỉ có ít người được cứu độ? Hay tôi có được cứu độ không?
Trái lại, phải nói rằng: tôi có muốn được cứu độ không? Bởi vì ơn cứu độ Chúa
Giêsu đã lập là phổ quát chung cho mọi người, ơn cứu độ luôn chờ sẵn ngoài cửa
mỗi tâm hồn. Và muốn được cứu độ thì phải áp dụng các phương pháp và phương thế
đó chính Chúa Giêsu cũng đã đề nghị và chỉ dạy cho chúng ta, đó là cố gắng vào
cửa hẹp.
Cửa hẹp không phải vì Thiên Chúa hà tiện, hẹp hòi, khắt khe mà
vì con người chúng ta không đủ nhỏ để dễ dàng đi vào. Nói khác đi, cửa nước
trời không hẹp mà chính vì chúng ta quá cồng kềnh. Đó là sự cồng kềnh của những
hành lý chúng ta đang mang nặng trên vai như tiền bạc, của cải, tình duyên,
danh vọng, thú vui, hưởng thụ…
Khiến chúng ta bị vướng ngoài cửa. Đó là sự cồng kềnh của cái tôi: cái tôi nặng
nề của đam mê, xác thịt. Cái tôi cứng cỏi vì lòng ích kỷ. Cái tôi hèn nhát vì
sợ hãi không dám dấn thân… Như thế đó, cánh cửa nước trời mà nhiều người thiện
chí đã vào được dễ dàng, thì đã trở thành khung cửa hẹp đối với những người
khác, vì cái tôi, vì hành lý của họ quá cồng kềnh. Cho nên, chúng ta vào được
nước trời hay không là do chúng ta chứ không phải do Chúa. Thánh Âu Tinh đã
nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng
để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”. Do đó, vấn đề
không phải là đòi Thiên Chúa nới rộng cửa, nhưng là chính chúng ta phải biết trở
thành bé nhỏ. Nói theo ngôn ngữ đạo đức quen thuộc, là chúng ta phải từ bỏ
chính mình, tức là phải từ bỏ những gì chúng ta thích, chúng ta muốn, nhưng
không đẹp lòng Chúa.
Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy xét lại đời sống của mình, kiểm
điểm lại thái độ sống của mình xem: những gì đang là những cái cồng kềnh cản
trở chúng ta vào nước trời. Chúng ta hãy lục soát kỹ lương tâm xem: có phải
chúng ta đang là nô lệ của rất nhiều ông chủ không? Có những ông chủ rõ ràng
như tiền bạc, danh vọng, bia ôm, cà phê đèn mờ, đua đòi, chưng diện, thú vui
không lành mạnh… Có những ông chủ khác như ích kỷ, thói quen xấu, giữ đạo vụ
hình thức, định kiến, thành kiến đối với người này người khác… Nhiều lắm, mỗi
người đều có những ông chủ khác nhau. Đó chính là những cái cồng kềnh khiến
chúng ta bị vướng ngoài cửa hẹp, và giả như Chúa gọi chúng ta hôm nay, chúng ta
có chắc mình được cứu độ không?
Hơn nữa, bản tính con người hay thay đổi, thích mới nới cũ, ưa
chuộng hào nhoáng, chạy theo thị hiếu, mà dễ quên mục đích tối hậu của mình:
Một đàng thì bị thế gian cám dỗ, luôn luôn đánh bóng lên những thứ trái cấm như
tranh ảnh, sách vở, báo chí, thời trang, hình tượng, phim ảnh, nghệ thuật… càng
là trái cấm càng quyến rũ mãnh liệt. Đàng khác, con người lại có tật xấu là mau
nản, dễ đầu hàng: một lần thất bại là chúng ta mang mặc cảm và không muốn chỗi
dậy nữa, buông xuôi.
Tóm lại, thật nhiều và rất nhiều hình thức lôi kéo, thúc đẩy,
xúi giục chúng ta tìm con đường thênh thang, dễ dãi, ngại khó, sợ khổ, tránh
con đường hẹp. Vì thế, chúng ta phải luôn nhớ bài học của Tin Mừng hôm nay:
phải đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào cửa hẹp. Cũng như tất
cả chúng ta đều biết bài học: “Nước chảy đá mòn”, “Kiến tha lâu đầy tổ”, “Có công mài sắt có ngày nên kim”, thì
trên phạm vi siêu nhiên cũng thế, Chúa đã nói: “Ai muốn theo Tôi, hãy vác thập
giá mình hàng ngày mà theo”. “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”. Cũng vậy,
nếu ở đời “Có khó mới có miếng ăn”. “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một
cách dễ dàng”, thì hạnh phúc nước trời đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới
chiếm được. Xin Chúa cho chúng ta nhớ bài học hôm nay và thực hiện mỗi ngày
suốt đời chúng ta.
18. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
THIÊN CHÚA CỦA MỌI NGƯỜI
Có thời người ta tưởng rằng Thiên Chúa chỉ cứu độ những người Do
Thái và những ki-tô hữu. Với thời gian và mặc khải, người ta hiểu hơn về Thiên
Chúa. Thiên Chúa yêu thương và cứu độ tất cả mọi người.
Thiên Chúa đâu của riêng ai
Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất trích sách tiên tri Isaya cho
thấy hình ảnh mọi dân tộc thuộc mọi ngôn ngữ được thấy vinh quang của Thiên
Chúa. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn sai một số người thuộc những dân tộc này
tới những dân tộc xa hơn để rao giảng loan truyền về Thiên Chúa. Ngài còn chọn
những người thuộc những dân tộc này làm tư tế cho Ngài.
Dân Do Thái không là dân tộc duy nhất được Thiên Chúa thương
yêu. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi dân tộc thuộc mọi ngôn ngữ ở mọi thời
đại. Tư tưởng trong sách tiên tri Isaya tuy dù có từ thời xa xưa, nhưng rất
tiến bộ và vượt xa nhiều tư tưởng của thời gần đây. Ngay ngày nay, vẫn còn
nhiều người tưởng rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương và cứu độ những người Công
Giáo hoặc ki-tô hữu. Đúng là nếu ai cố tình từ chối Thiên Chúa và Đức Yêsu khi
họ biết rõ, thì người đó bị loại khỏi Nước Thiên Chúa; còn những ai vì không
biết hay lầm lẫn mà không trở thành người Công giáo hoặc ki-tô hữu, thì vẫn
được cứu độ cho dù họ không theo một tôn giáo nào (Hiến chế Giáo Hội, số 16).
Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, cho dù người đó chưa nhận biết
Ngài.
Hãy đọc ý nghĩa những gì xảy ra cho mình
Thiên Chúa yêu thương con người. Tuy nhiên không vì thế mà Thiên
Chúa làm tất cả những gì con người ao ước. Những gì không tốt cho con người,
Thiên Chúa sẽ không làm cho họ. Tuy nhiên, nếu có gì tốt mà thậm chí trái ý con
người, Thiên Chúa vẫn làm cho con người.
Những trái ý và thập giá xảy tới cho con người, có thể được coi
như những thử thách và bài học Thiên Chúa dạy dỗ con người. Hãy cố gắng để nhận
ra điều Ngài muốn nói với mỗi người qua những gì xảy tới cho mình trong cuộc
đời. Thử thách và trái ý, có giá trị riêng của nó. Hãy cố gắng tận dụng, để
triển nở và hạnh phúc hơn.
Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp
Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ mọi người (1Tm.2, 4). Tuy
vậy, được cứu độ hay không, cũng tuỳ thuộc con người. Hãy vào qua cửa hẹp. Nếu
một người chọn thế gian và những xa hoa, không thể vào Nước Trời được.
Nếu không sống theo đường lối của Thiên Chúa hôm nay, lấy gì bảo
đảm sẽ sống theo Chúa vào những giây phút cuối đời mình? Hiện tại là quan
trọng. Thời gian của đời dương thế này rất quan trọng và không gì có thể thay
thế được. Qua hành vi của con người trên dương thế này, người ta có thể giúp
những người khác khi họ không còn làm gì được cho họ, như trường hợp những
người bị thiểu năng, hoặc các linh hồn nơi luyện tội. Qua hành vi tại dương thế
này, con người làm mình trở thành vĩnh cửu, làm mình trở thành thần, trở thành
thánh.
Hãy vào qua cửa hẹp, là cách nói khuyến khích con người hãy sống
theo lý trí, lương tâm, luật Chúa cũng như những gì là tốt lành. Đừng sống chỉ
theo bản năng hoặc xúc cảm của mình. Hãy vào qua cửa hẹp, đòi người ta phải hy
sinh và sống cho tha nhân, yêu thương tha nhân như Thiên Chúa yêu thương con
người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Nếu không theo Công giáo cũng được cứu độ, vậy tại sao còn
cần phải là người Công giáo?
2. Trở thành ki-tô hữu, có gì hơn người không theo một tôn giáo
nào?
3. Đâu là lý chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi
người?
19. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu Kinh Thánh “Hãy đi đường hẹp… Đừng đi đường rộng” có thể
áp dụng cho “những con đường nên thánh” không? Áp dụng thế nào?
2. Nên thánh bằng con đường rộng, và bằng con đường hẹp là gì?
Suy tư gợi ý:
1. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”
Thông thường, ai cũng thích đi vào những con đường rộng rãi, cao
cấp, vì tại đó có thể đi bằng những loại xe lớn, mắc tiền, tốc độ cao, có thể
phóng xe thoải mái, đỡ mệt trí. Không mấy ai thích đi đường hẹp, nhỏ, vì chỉ có
thể đi bằng xe nhỏ hay đi bộ, vừa mệt lại vừa chậm chạp.
Cũng vậy, để đạt tới sự thánh thiện, theo tâm lý tự nhiên, ai
cũng thích đi con đường rộng, vừa làm những việc lớn lao, tiếng tăm lừng lẫy,
được mọi người coi là vĩ đại, tôn là thần thánh, vừa đỡ phải hy sinh, đỡ chịu
thiệt thòi, vừa có danh, lợi, quyền, nhờ đó được hưởng biết bao ưu đãi, đặc
quyền đặc lợi mà thế gian dành cho… Biết bao người muốn nên thánh bằng con
đường “siêu xa lộ”này. Người chủ trương nên thánh kiểu này chủ trương rằng phải
nên thánh làm sao để được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Quả là một
tính toán hết sức khôn ngoan… kiểu trần gian! Chẳng mấy ai muốn nên thánh bằng
con đường hẹp, nhỏ, là con đường làm những việc nhỏ bé, tầm thường, âm thầm,
vừa phải hy sinh nhiều mà chẳng được ai biết đến, lại chẳng được chút ưu đãi gì
của trần gian. Quả là thiệt thòi nhiều chuyện!
Nhưng Đức Giêsu dạy chúng ta, đương nhiên ngay cả trong việc nên
thánh, rằng hãy đi con đường nhỏ hẹp, khiêm nhu, ít người thích đi. Điều hết
sức nghịch lý nhưng lại rất chí lý là con đường nhỏ hẹp ấy đem lại nhiều kết
quả cho việc nên thánh đích thực hơn là con đường rộng rãi thênh thang. Vì đặc
trưng của việc nên thánh là như vậy. Muốn nên thánh mà lại muốn đi vào đường
lớn, muốn làm những việc to tát để ai cũng biết tiếng, để có được những thứ mà
người trần gian thường ao ước! Coi chừng kẻo mình đang làm mọi sự vì mình, vì
vinh danh mình, vì lòng kiêu ngạo, để làm phình to bản ngã, chứ không phải vì
vinh danh Chúa hay vì yêu mến Chúa và vì lợi ích của tha nhân. Mang tiếng là vì
Chúa, cho Chúa, nhưng thực ra là vì mình tất cả! Chúa chỉ là phương tiện phục
vụ cho những mục đích của mình! Chính vì thế, con đường thênh thang rộng rãi
đầy “mầu mè thánh thiện” này nhiều khi lại dẫn đến đổ vỡ trước mặt Thiên Chúa.
Sự đổ vỡ ấy được đề cập đến ngay trong bài Tin Mừng này.
2. Một sự đảo ngược không ngờ
Những người muốn nên thánh kiểu “khôn ngoan”kia thường nghĩ
rằng: đời này mình được thần thánh hóa, được mọi người tôn vinh, nể trọng, kính
phục, ắt đời sau mình cũng là một nhân vật đáng kể ở trên trời. Nhưng bài Tin
Mừng hôm nay cho thấy vào “ngày ấy”, có một sự đảo lộn không ngờ được: “Và kìa
có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng
chót”. Đứng chót cũng còn đỡ, bài Tin Mừng còn cho thấy một viễn ảnh đen tối
hơn: “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham,
I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn
mình lại bị đuổi ra ngoài”. Đương nhiên sẽ có biết bao người lấy làm lạ, vì
thấy mình đã làm cho Chúa biết bao nhiêu điều to tát ở trần gian. Họ hỏi Chúa:
“Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên
các đường phố của chúng tôi”. Hoặc “Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa
mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ
đó sao?”(Mt 7,22). Nhưng câu trả lời của Chúa thật như tát vào mặt họ một cách
bất ngờ: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả
những quân làm điều bất chính!” Thật ít ai hiểu được tại sao những người mà
trần gian tưởng rằng đầy công nghiệp trước mặt Chúa lại bị Chúa trả lời phũ
phàng và “vô ơn” đến như vậy!
3. Muốn nên thánh, hãy chọn con đường nhỏ hẹp mà đi
Bài Tin Mừng trên quả thật đáng làm cho chúng ta ngạc nhiên và
suy nghĩ, nhất là những người Ki-tô hữu đang theo lý tưởng nên thánh. Liệu sự
đảo lộn ấy có áp dụng ngay trên chính bản thân ta không? Điều quan trọng là
chúng ta cần xác định xem mình đang đi trên con đường loại nào để nên thánh?
Đường nhỏ hay đường lớn? Đường mòn hay xa lộ? Nếu chúng ta thật sự muốn thành
công trong việc nên thánh, hãy cẩn thận, đừng ham con đường rộng rãi, “vì cửa
rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua
đó”(Mt 7,13). Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì “cửa hẹp và đường chật thì đưa đến
sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”(Mt 7,14). Nhưng thế nào là nên thánh
bằng con đường rộng? Và thế nào là nên thánh bằng con đường hẹp?
Ta đang đi trên đường rộng, nếu ta vừa muốn nên thánh, mà lại
vừa muốn và tìm cách dùng sự nên thánh ấy để hưởng được ít nhiều những thứ mà
mọi người thế tục mong ước: quyền lực, tiếng tăm, địa vị, tiền bạc, được ca
tụng, tôn vinh, quí trọng, được thần thánh hóa, được mọi người coi là đạo đức
thánh thiện, được ưu đãi trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội bất chấp tài đức
hèn mọn của mình, được ăn ngon mặc đẹp, và những thú vui trần tục khác. Những
người nên thánh kiểu này có thể làm rất nhiều việc được coi là đạo đức, tốt
đẹp, thậm chí dạy mọi người nên thánh nữa. Họ thường có vẻ bên ngoài rất thánh
thiện, đạo mạo. Đức Giêsu nói về họ: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có (…)
những kẻ bây giờ đang được no nê (…) những kẻ bây giờ đang được vui cười (…)
được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử
như thế” (Lc 6,24-26). Các nhà tu đức thường nói về họ: “sanctus videtur sed
non est”(có vẻ thánh mà thực ra không phải). Vì họ phải như thế thì mới được
mọi người nghĩ họ là thánh! Đặc tính không dấu được của những người này là để
lộ ra “cái tôi” rất lớn của mình! Họ khó có thể chấp nhận có ai xúc phạm đến
họ. Và họ không bao giờ dám dấn thân vào những gì nguy hiểm đến sự sống còn,
đến địa vị hay nồi cơm của họ, khi lý tưởng “vì Chúa vì tha nhân”và tư cách
“thánh thiện” của họ đòi hỏi!
Ta đang đi trên đường hẹp, nếu ta muốn nên thánh mà không ham
được ai biết đến, cũng không tìm cách dùng cái “vẻ thánh thiện” của mình để
hưởng được những thứ “hấp dẫn” trần tục ấy. Đặc tính dễ nhận ra của những người
này là họ coi “cái tôi” của họ rất nhỏ! Không cảm thấy có vấn đề gì lớn khi bị
ai xúc phạm, hiểu lầm. Họ không thích làm ra vẻ thánh thiện, đạo mạo. Và họ
cũng sẵn sàng hy sinh khi lý tưởng vì Chúa vì tha nhân đòi hỏi. Các nhà tu đức
thường nói về họ: “sanctus non videtur sed est”(không có vẻ thánh nhưng lại là
thánh).
4. Hãy tự xét mình để đừng ảo tưởng về mình
Quả thật, nhiều khi chúng ta tưởng mình rất tốt lành trước mặt
Thiên Chúa, chỉ vì ta đã làm được biết bao việc tốt lành, nhiều hơn biết bao
người khác! Vì những việc tốt đẹp ấy, biết bao người đã nể phục, kính trọng ta,
khen ta là thánh thiện, tốt lành, đạo đức. Nhưng có bao giờ ta tự hỏi: trước
con mắt của Thiên Chúa, ta cũng được đánh giá tốt lành như người chung quanh ta
đánh giá không? Ta làm được biết bao việc tốt lành, nhưng động lực gì thúc đẩy
ta làm những việc ấy? Vì yêu Chúa thương người khác được bao nhiêu phần trăm?
Hoặc làm để được tiếng khen, để tạo uy tín, để được kính nể, để nhờ đó ta được
bề trên và nhiều người tín nhiệm hơn, được lên chức, được nắm nhiều quyền hơn,
vì sự khôn ngoan trần gian đòi buộc như thế…
bao nhiêu phần trăm? Nếu thành thực với lòng mình, nhiều khi ta thấy mình vì
Chúa, vì người khác rất ít, mà vì mình thì rất nhiều. Hãy coi chừng kẻo ta đang
muốn nên thánh bằng con đường rộng rãi thêng thang, tuy được người trần gian ca
tụng là thánh thiện, được thế gian tôn trọng ưu đãi, nhưng trước mặt Chúa lại
là con số không to tướng! Cần luôn tỉnh thức và hồi tâm xét lại những động cơ
của mình!
Cầu nguyện
Lạy Cha, thế lực xấu ở ngay trong bản thân con thật tài
tình! Nó có thể đánh lừa chính con ngay cả trong việc cao cả nhất là việc nên
thánh. Nó làm con tưởng rằng mình đang tiến bộ rất nhanh trên con đường nên
thánh, vì làm được biết bao việc tốt lành cho Chúa và tha nhân! Nhưng thực ra
con đang xây dựng cho vinh quang của con trước mặt người đời. Con đã ăn cắp
vinh quang của Cha để hưởng cho con. Xin cho con biết phản tỉnh sâu xa để nhận
ra tình trạng tệ hại ấy, và trở lại với con đường nên thánh nhỏ bé mà Cha muốn
con đi. Amen.
20. Hành trình đi tới niềm vui.
(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)
Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không
thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ khi ý thức và mỗi ngày, chúng ta phải
lên đường tiến về với Thiên Chúa.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này bắt đầu phần thứ hai (Lc 13,22–17,10) trong hành
trình lên Giêrusalem Tin Mừng Luca tường thuật (Lc 9,51–19,28), trong đó có
những lời Đức Giêsu tuyên bố về ơn cứu độ và về việc được nhận hay không được
nhận vào Nước Thiên Chúa. Riêng bản văn 13,22-30 có sự thống nhất bên trong nhờ
những tuyên bố của Đức Giêsu; những tuyên bố này liên hệ rất chặt chẽ với hai
dụ ngôn liên hệ đến Nước Thiên Chúa kết thúc phần thứ nhất (dụ ngôn Hạt cải,
13,18-19; dụ ngôn Men trong bột: 13,20-21).
Riêng về hình thức, dường như bản văn này đa tạp, quy tụ nhiều
đoạn không cùng chiều hướng. Chẳng hạn, “cửa hẹp” (Lc 13,24) có ở Mt 7,13-14
(Bài Giảng trên núi); “cửa đóng” (Lc 13,25) kết thúc dụ ngôn mười người trinh
nữ trong Mt (25,10-12). Câu trả lời của những người bị loại (Lc 13,26-27) lại
đưa chúng ta về với Mt 7,22-23 (Bài Giảng trên núi). Còn chi tiết nói về bữa
tiệc quy tụ mọi người (Lc 13,28-29) lại chính là cao điểm của truyện chữa lành
người đầy tớ của viên sĩ quan có đức tin rất lớn (Mt 8,11-12).
Nhưng dù thế nào, khi đưa vào tác phẩm của mình, tác giả Luca đã
làm cho các đoạn văn rời rạc ấy thành một khối có ý nghĩa (chi tiết “cánh cửa
đã đóng” trở thành một dụ ngôn, và tất cả bản văn trở thành bài trình bày các
đòi hỏi phải đáp ứng để được cứu độ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (13,22-23);
2) Những lời đe dọa (13,24-29): Các ý tưởng được liên kết với
nhau bằng từ móc “cửa” (cửa hẹp/cửa khóa):
- cửa hẹp (c. 24),
- cửa khóa (cc. 25-27),
- số phận của những kẻ làm điều gian ác (cc. 28-29),
- câu tục ngữ kết thúc (c. 30).
3.- Vài điểm chú giải
- Hãy phấn đấu để qua được cửa hẹp mà vào
(24): “Qua được cửa hẹp” nghĩa là qua được cái cửa duy nhất của Nước Thiên
Chúa. Đức Giêsu dùng ngôn ngữ của cuộc tranh tài (agôn) hoặc chiến đấu để nhấn
mạnh rằng cần phải cố gắng để vào được Nước Thiên Chúa. Chúng ta ghi nhận rằng
ở Lc 13,3.5, Đức Giêsu kêu gọi hoán cải đúng lúc, còn ở đây Người lại diễn tả
điều ấy bằng việc đi qua cửa hẹp.
- Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại
(25): Dường như khung cửa hẹp lại còn bị chủ nhà kiểm soát. Đức Giêsu đã lưu ý
về cửa hẹp, nay lại lưu ý là đừng để đến giờ chót. Ở đây, không rõ chủ nhà là
Thiên Chúa hay là Đức Giêsu.
- Ta không biết các anh từ đâu đến
(25) = Ta không biết các anh là ai.
- Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài
cũng đã từng giảng dạy (26): nghĩa là chúng tôi là những người
quen biết và cùng thời với Ngài.
- đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa
(29): Đức Giêsu giới thiệu Nước Thiên Chúa theo kiểu Do Thái: Nước Thiên Chúa
giống như bữa tiệc (x. Is 25,6), tại đó những người được chọn quy tụ chung
quanh các tổ phụ và các ngôn sứ. Tuy nhiên, so sánh với Mt, ta thấy trong khi
Mt gửi lời răn đe này đến toàn thể người Do Thái (Mt 8,12), Lc lại chỉ nhắm đến
các thính giả cứng lòng tin mà thôi.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đứng về phương diện phê bình (quan điểm lịch đại), chúng ta thấy
bản văn gồm những ý tưởng thuộc nhiều ngữ cảnh được liên kết với nhau một cách
giả tạo. Tuy nhiên, về phương diện đồng đại, chúng ta vẫn có thể coi đây là một
đoạn gồm những lời răn đe của Đức Giêsu.
* Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng
(22-23)
Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu vẫn rất lô-gích và cương quyết.
Người vẫn đang thi hành nhiệm vụ và đi tới định mệnh của Người. Người loan báo
sứ điệp từ làng này sang làng khác, đồng thời Người đến gần Giêrusalem, là nơi
định mệnh đang chờ Người (x. Lc 13,33). Người không để mình bị lạc hướng trước
những đe dọa của vua Hêrôđê (13,31-33). Người trả lời chắc nịch cho những cầu
hỏi được đặt ra. Người nói lên cả những sự thật khó nghe. Người không hề muốn
lừa dối hoặc đẩy ai vào ảo tưởng.
Câu hỏi “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải
không?” chạm thẳng vào tư cách của Người là Đấng Cứu thế (x. 2,11). Vậy có bao
nhiêu người sẽ đạt được mục tiêu nhờ trung gian của Người? Đức Giêsu không trả
lời trực tiếp vào câu hỏi, Người không nêu ra con số những người được cứu độ.
Người muốn đưa cái nhìn của các thính giả về những gì cần phải làm. Người bảo
cho chúng ta biết cách đi vào Nước Thiên Chúa, tức là lúc này phải trở thành
môn đệ.
* Những lời đe dọa (24-29)
Chỉ có một cách duy nhất: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà
vào, vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể
được” (c. 24). Khi nói về cửa hẹp, Đức Giêsu không có ý nói rằng tại “cửa ra
vào” đời sống vĩnh cửu, có một đám đông huyên náo, và người ta đang chen lấn
nhau. Người muốn nói rằng người ta phải cố gắng nhiều, phải chiến đấu. Không
phải chỉ có ý muốn là đủ. Chắc chắn chúng ta không thể tự cứu mình bằng sức
riêng, nhưng kết quả này không xảy đến nếu không có phần đóng góp của chúng ta,
nếu chúng ta chỉ có một thái độ thụ động. Bởi vì làm thế nào để đi qua một cửa
hẹp, nếu không phải bằng cách làm cho mình nhỏ lại? Một người to lớn không thể
đi qua một cửa hẹp. Đức Giêsu đang bảo chúng ta rằng chúng ta không thể trở thành
môn đệ của Người nếu chúng ta không buông ra cao vọng muốn thống trị kẻ khác.
Nếu chúng ta không trở thành tôi tới mọi người, chúng ta sẽ không bao giờ vào
được, cho dù chúng ta có cầu nguyện nhiều.
Rồi Đức Giêsu cho chúng ta một dụ ngôn. Một người tổ chức moat
bữa tiệc và mời mọi người, với điều kiện họ phải đi qua khung cửa hẹp. Mọi
người cố gắng đi vào, có người thì lọt, có người thì không. Đến một lúc nào đó,
chủ nhà cho đóng cửa. Dựa vào Isaia (Is25,6), có thể hiểu chủ nhà là Thiên
Chúa. Khi nói về cái cửa đã đóng kín, Đức Giêsu muốn nói rằng chúng ta phải cố
gắng đúng lúc. Chúng ta phải ý thức rằng thời gian của chúng ta có giới hạn.
Chậm nhất là với cái chết, cánh cửa sẽ được đóng lại và số phận chúng ta sẽ
được quyết định. Lúc đó, có muốn vào, có gọi, có gõ cửa, cũng đã muộn rồi.
Ở bên ngoài, có những người muốn được vào, họ nói: “Chúng tôi đã
từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường
phố của chúng tôi” (c. 26). Ông chủ đã gọi họ là “những quân làm điều bất
chính”. Trong thực tế, họ biết Đức Giêsu, họ đã nghe Người giảng, đã ăn uống
với Người. Họ không phải là những người ngoại giáo. Như vậy, chúng ta hiểu là
chỉ mang tên “môn đệ”
Đức Giêsu mà thôi thì không đủ; chúng ta còn cần có những hành vi tốt lành. Chỉ
hiệp thông với Thiên Chúa ở bề ngoài mà thôi, thì không đủ. Chỉ đã biết Ngài,
nghe các giáo huấn của Ngài, thì không đủ. Hiệp thông với Ngài trước tiên là
hiệp thông với ý muốn của Ngài.
Sau đó, Đức Giêsu không nói đến con số những người được cứu,
nhưng phác cho biết cộng đoàn những người được cứu độ thì như thế nào. Thuộc về
cộng đoàn này là các tổ phụ Israel (Abraham, Isaác và Giacóp), các sứ giả của
Thiên Chúa (các ngôn sứ) và những người đến từ bốn phương trời, từ mọi dân tộc.
Các tổ phụ và các ngôn sứ tượng trưng tất cả những gì Thiên Chúa đã ban cho Dân
được tuyển chọn (Israel); “thiên hạ từ đông tây nam bắc đến” tượng trưng Dân
ngoại. Như vậy, trong Nước Thiên Chúa, có sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên
Chúa, thì cũng thể hiện sự hiệp thông với mọi người. Hình ảnh “ngồi đồng bàn”
(= dự tiệc) gợi ý đến tính cách vui tươi lễ mừng của sự hiệp thông này. Hiệp
thông với Thiên Chúa và hiệp thông với loài người trong một bầu khí vui tươi và
lễ hội là những đặc điểm của ơn cứu độ trong Nước Thiên Chúa.
Ai không cố gắng đúng lúc với hành động công chính, thì tự loại
mình, không nhận được ơn cứu độ. Hậu quả là phải “khóc lóc nghiến răng” (c.
28): khi nhận ra những gì mình đã mất, người ấy sẽ cảm thấy đau đớn khôn nguôi
và giận dữ khủng khiếp.
+ Kết luận
Tin Mừng của Đức Giêsu không nói với chúng ta những điều làm cho
chúng ta vui lòng, cũng không hứa với chúng ta một cuộc sống dễ dàng, không cần
cố gắng. Tin Mừng ấy có hàm chứa một số chân lý gây phiền toái. Nhưng chính bởi
vì Tin Mừng này không giấu giếm chúng ta điều gì cả, chính bởi vì Tin Mừng này
trình bày chân lý trọn vẹn, Tin Mừng này mới chỉ cho chúng ta con đường thật
đưa tới niềm vui. Cũng chính vì thế mà Tin Mừng này là Tin Mừng và chúng ta chỉ
có thể đón nhận với lòng biết ơn và ngoan ngoãn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tuy Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, nhưng Ngài coi trọng
chúng ta là những nhân vị có tự do, có trách nhiệm. Do đó, chúng ta phải cố
gắng, phải chiến đấu: Thiên Chúa cứu chúng ta, nhưng Ngài muốn rằng chúng ta
cũng muốn chinh phục sự hiệp thông với Ngài. Chúng ta cố gắng có nghĩa là chúng
ta ý thức và cương quyết đến gần Ngài, thắng vượt các trở ngại và để tất cả mọi
sự khác sang một bên.
2. Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta
không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ đầu, chúng ta phải lên đường
tiến về với Thiên Chúa. Chúng ta không thể sống một cuộc đời theo sở thích
riêng, rồi chờ đến tuổi già mới lo cho việc cứu độ linh hồn. Bởi vì không phải
chúng ta là người đóng cửa, mà là Thiên Chúa; do đó phải luôn luôn sẵn sàng.
3. “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất
chính!”. Đây là lý do khiến chủ nhà không muốn liên hệ gì nữa với những người ở
ngoài. Sự cố gắng, định hướng đúng thời đúng buổi về Thiên Chúa phải được diễn
tả ra bằng hành động, bằng việc thi hành ý muốn của Ngài. Ai không quy hướng về
ý muốn của Thiên Chúa bằng cách hành động thực thụ, ai từ chối hiệp thông lúc
này với Ngài, thì đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, khỏi sự hiệp thông vĩnh
cửu với Ngài, dù họ thuộc về cộng đồng tín hữu, đã nghe công bố Tin Mừng và
chia sẻ bí tích Thánh Thể. Họ quên mất một điều, là đã không làm cho mình nên
nhỏ bé đủ để đi qua cửa hẹp!
4. Trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên
Chúa, sự hiệp thông trọn vẹn với loài người cũng được thể hiện. Cuộc sống nhân
loại viên mãn và phong phú của chúng ta hệ tại những tương quan viên mãn và sâu
sắc của chúng ta với anh chị em loài người. Niềm vinh phúc của cuộc sống trong
Nước Thiên Chúa hệ tại cả ở sự kiện các tương quan với loài người không bị cắt
xén đi, nhưng lại được mở rộng và đưa đến chỗ thành toàn. Muốn thế, đang khi
còn sống tại trần gian này, chúng ta cần nỗ lực. Buông trôi cuộc đời không chút
cố gắng là con đường đưa tới tuyệt vọng sau này.
21. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
NHỮNG NGƯỜI DO THÁI BỊ LOẠI BỎ VÀ DÂN NGOẠI ĐƯỢC KÊU MỜI
Điệp khúc mở vào giai đoạn hai của cuộc hành trình (c.22) không
chỉ nhắc tới đích điểm địa lý của cuộc hành trình này; nó còn loan báo một thông
tri quan trọng sẽ được cung cấp trong cảnh tiếp theo (13,31-35).
Trình thuật này được dẫn nhập bằng câu 23. Một người lạ mặt hỏi:
Phải tin ai? Phải tin các Kinh sư, là những người khẳng định rằng: Mọi người
Israel đều tham dự vào thế giới tương lai (Misnha, Sanhedrin X, 1) hay tin
những kẻ khác, đối với những người này những kẻ bị hư đi thì nhiều hơn những kẻ
sẽ được cứu thoát (Edras quyển thứ tư IX, 15)? Cách thế mà Chúa Giêsu dùng để
nói về tính cách cấp bách của việc hoán cải (13,3-5) phải chăng không xếp Ngài
vào nhóm thứ hai?
Nhưng Chúa Giêsu lại không quan tâm đến vấn nạn kiểu kinh viện
này. Trước khi trả lời, Ngài đóng khung nó bằng cách nói với tất cả các người
xung quanh (cùng một cảnh như ở 12,13-14) và nhấn mạnh đến sự cố gắng:”Hãy
chiến đấu để vào phòng tiệc qua được cửa hẹp” (c. 24). Thực vậy, điều quan
trọng là mỗi người phải thay đổi cách sống. Chính vì thế, lời đáp của Chúa
Giêsu không xác định về số ít người được cứu thoát nhưng về tính cách nghiêm
trọng của cuộc sống hiện tại của con người. Nhiều người sẽ chen chúc vào cửa
hẹp mà không vào được. Ngoài việc cửa hẹp dẫn đến niềm vui của bàn tiệc, thực
ra còn phải nói đến một yếu tố thứ hai: thời gian gấp rút vì cửa sắp đóng. Tìm
cách vào, giữa đám đông hỗn độn, ở phút chót là chuốc lấy thất bại.
Khi nói đến thời điểm mà cửa sẽ đóng, lời cảnh cáo trở thành đe
doạ: Việc đóng cửa lại do lệnh của một nhân vật chủ chốt, ông chủ nhà, mà không
ai khác hơn là những kẻ đối thoại với Ngài mới xin mở cửa cho họ và do đó, họ
phải nhắc đến việc trước đây họ cùng ăn uống với Ngài (x. 7,36; 11,37; 14,1) và
đã có nghe Ngài giảng dạy. Nhưng lời đáp nhắc tới hai lần”Ta không biết các anh
từ đâu đến” –điều này, trong ngôn ngữ Kinh Thánh (x. Am 3,2) có nghĩa là:”Ta
không chọn các ngươi, các ngươi không thuộc về những kẻ được chọn”. Ở đây không
hề có việc tuỳ tiện theo ý ông chủ: bằng cách gián tiếp trích Thánh vịnh 6,9.
Chúa Giêsu nói rằng họ bị loại bỏ bởi vì họ làm điều xấu. Có những liên hệ – hời
hợt với vị Sứ Giả cũng chẳng ích lợi gì khi mà người ta không chịu hoán cải.
Chẳng ai tự động mà được cứu rỗi. Việc thuộc về dân mà Thiên Chúa đã ký Giao
Ước với Sinai, và là dân đầu tiên được nghe giảng Tin Mừng nơi công cộng và
trong các hội đường, cũng chẳng cho người ta được tấm vé vào Nước Thiên Chúa
đâu. Điều cần thiết phải làm là hoán cải và đón nhận lời rao giảng ấy.
Từ đó, Chúa Giêsu đi đến hai xác quyết (cc. 28-29). Trước hết,
việc loại ra khỏi Vương Quốc đến liền sao phổ quát ở câu 27 sẽ gây ra khóc lóc
và nghiến răng, giận dữ và hối hận cay đắng nơi kẻ đối thoại với Ngài. Bực bội,
họ sẽ thấy những tín hữu Israel đích thực, đại diện bởi các tổ phụ và tất cả
các ngôn sứ, hưởng hạnh phúc và bình an, đặc điểm của Vương Quốc trong khi
chính họ phải ở lại bên Ngài. Thay chỗ của họ – xác quyết thứ hai: - thiên hạ
sẽ đến từ bốn phương trời: đó là những dân tộc ngoại giáo sẽ vào tham dự ơn cứu
độ vĩnh hằng. Khi dùng đề tài Kinh Thánh nói về các dân tộc hành hương về
Giêrusalem để dâng lễ vật tôn thờ Thiên Chúa (x. Is 60,3tt), Chúa Giêsu để ý
không nói đến tên của thành; vì vậy, thành này không còn là địa điểm nơi mà
Thiên Chúa muốn người ta tôn thờ Ngài nữa: Vương Quốc là một thực tại siêu việt.
Với hình ảnh được thanh lọc khỏi mọi tính cách quốc gia chủ nghĩa đó, Chúa
Giêsu thêm một hình ảnh ở Is 25,6. Bữa tiệc trong Thế giới mới diễn tả một hiệp
thông trọn vẹn giữa con người với Đấng cứu thoát họ:”Thiên Chúa sẽ dẫn đưa
những kẻ được tuyển chọn vào tình thân mật với Ngài và biến họ thành những
người nhà của Ngài” (J.Schlosser).
Phần kết luận (c.30) làm ta nhớ đến sấm ngôn của ông Simêon khi
ông nói về sứ vụ của Chúa Giêsu như duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp
ngã hay được chỗi dậy (2,34) và nhắc lại rằng Vương Quốc sẽ kéo theo sự đảo
ngược các tình trạng của con người (x. những mối phúc và hoạ ở 6,20-26). Giữa
những kẻ đến sau cùng có nhiều kẻ sẽ vượt lên truớc những kẻ kỳ cựu, mặc dù
những người này đã được các ngôn sứ loan báo từ lâu về việc Vương Quốc ngự đến.
Tuy nhiên đây cũng không phải là luật tổng quát: câu kết luận hiểu ngầm rằng
những kẻ kỳ cựu đến trước nhất sẽ chia sẻ chỗ nhất với những kẻ mới đến từ khắp
thế giới. Ở Luca, lời Chúa Giêsu nói đây rõ ràng thuận lợi cho Israel hơn là ở
những đoạn song song của Marcô và Matthêu.
Lời cảnh cáo có tính cách ngăn đe trước hết được nói với các
thính giả Do Thái ở Giuđê – Galilê vào những năm 28-30; dưới cái nhìn của Luca,
chỉ một số ít trong họ đã hoán cải, như nhóm Mười Hai và các môn đệ khác, và có
thể vào được Nước Trời. Trong các thính giả này đặc biệt được nhắc tới, cũng là
số ít thôi, những kẻ dám làm điều bất chính tột độ cộng tác vào việc hành quyết
Chúa Giêsu (xcc. 31-35). Nhưng đừng quên rằng những lời Tin Mừng này vẫn còn
tính thời sự và là tiếng mời gọi hoán cải. Sẽ càng không có việc cứu rỗi tự
động cho các Kitô hữu cứ khất lần đến ngày mai. Việc canh tân đời sống luôn
luôn cần được lặp lại không ngừng. Đối với mọi người, cửa đều hẹp cả: những ai
trong họ làm điều bất chính không có thể nại vào sự thân thiết hời hợt với Chúa
Kitô để xin mở cửa sau khi cửa đã đóng rồi.
22. Chú giải của Noel Quesson
Trang Tin Mừng của Luca mà chúng ta đọc hôm nay là một bức tranh
ghép gồm những bản văn:
Câu 24, khung cửa hẹp (Mt 7,13) trong bài giảng trên núi.
Câu 25, “thưa ngài, mở cửa cho chúng tôi với” (Mt 25,11) là kết
luận của dụ ngôn mười cô trinh nữ khôn ngoan và rồ dại.
Câu 26, “Ta không hề biết các ngươi” (Mt 7,22) là một giáo huấn
về sự cầu nguyện.
Câu 28, “từ phương đông sang phương tây, nhiều người sẽ đến dự
tiệc” là kết luận của việc chữa lành người đầy tớ của ông đại đội trưởng dân
ngoại (Mt 8,11).
Câu 30, “những người sau rốt trở thành những người đầu tiên” (Mt
19,30 và 20,16).
Vậy Luca liên kết những lời mà Đức Giêsu đã nói trong những
trường hợp khác nhau. Tuy nhiên chúng ta có một bản văn mang tính nhất quán
cao: Khi trả lời câu hỏi về con số người được chọn. Đức Giêsu khẳng định hai
chân lý có vẻ trái ngược nhau. Cánh cửa Thiên đàng thì hẹp, nhưng những dân
ngoại sẽ đến đông đủ, tiến vào bàn tiệc của Đấng Mêsia, còn những người đầu
tiên được mời ở lại bên ngoài.
Trang sách này của Luca mà chúng ta đọc hôm nay là kết quả của
sự cầu nguyện, của việc dạy giáo lý thờ phụng của các cộng đoàn Kitô hữu tiên
khởi. Trong một chừng mực, chúng ta thấy xuất hiện một dụ ngôn mới gồm toàn
những câu của Đức Giêsu, mặc dù không trực tiếp là dụ ngôn của Người Thay vì
ngạc nhiên về sự khám phá này, tại sao chúng ta lại không vui mừng. Đức Giêsu
đã không “biết” gì cả, cũng không làm “xơ cứng” điều gì. Hiển nhiên, đây là một
điều có chú ý. Người đã thật sự trao Lời cho Giáo Hội Ngay để Giáo Hội nói Lời
ấy và thích nghi Lời với các nhu cầu của mỗi thời kỳ lịch sử. Vì danh nghĩa gấp
đôi ấy, lòng Tin Mừng của Luca là của Đức Giêsu: Do miệng Chúa nói ra trong những
lúc khác nhau... đồng thời cũng là công việc của Đức Giêsu sống động trong Giáo
Hội là Nhiệm Thể của Người... “Ai nghe anh em là nghe Thầy”. Một cách đọc Tin
Mừng có khoa học thay vì mâu thuẫn với một cách đọc ngây thơ hơn và làm cho
chúng ta hoài nghi tính chính thống hẳn phải đến chúng ta đến chỗ chấp nhận
thái độ của Luca: Trung tín với suối nguồn... tự do trong Thần Khí... để việc
giải thích Lời Chúa luôn luôn sống động và có thể soi sáng những vấn đề của
chúng ta hôm nay.
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành
thị và làng mạc mà giảng dạy.
Luca trở lại việc Đức Giêsu đang trên đường lên Thành thánh ở đó
chúng ta biết điều gì sắp xảy ra. Đức Giêsu “du hành”. Người không xơ cứng.
Người bước đi! Luca, bạn thông hành của Phao lô, nhà “du hành cao cả” đã dùng từ đó tám mươi tám lần. Đời
sống Kitô hữu cũng là một cuộc lữ hành, tiến lên phía trước. Phần tôi, tôi có
xơ cứng, dừng lại bất động không? Lịch sử với sự tiến hóa của nó là một phần
của kế hoạch Thiên Chúa. “Thời gian” là tạo vật của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã
hội nhập trong thời gian. Người không làm thời gian ngừng lại. “Thầy ở với các
con mỗi ngày cho đến tận thế”.
Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì
ít, có phải không?”
Một câu hỏi nóng bỏng, luôn luôn hiện thực. Một câu hòi rất nhân
bản, căng phồng máu của những quan hệ tình cảm của chúng ta: Làm sao tôi có thể
hưởng hạnh phúc trên trời nếu những Người thân không có ở đó? Một câu hỏi rất
tự nhiên: “Bạn chớ đến dự tiệc Nước Trời một mình; trên những nẻo đường bạn đi,
bạn hãy cao rao Tin Mừng: Lời Chúa hứa là bánh được ban cho để chia sẻ”. Bất kỳ người nào không ước ao “tất cả” đều được cứu, chính người ấy không thể
được cứu, bởi lẽ người ấy không hoàn thành luật của Nước Thiên Chúa là tình yêu
phố quát… “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4).
Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì
tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”
Một lần nữa, Đức Giêsu không trả lời trực tiếp. Người không nói
những người được cứu sẽ nhiều hay ít. Người làm như thể câu hỏi lý thuyết ấy
không làm Người quan tâm và ngay sau đó, Người đưa các thính giả trở về với
tránh nhiệm của họ. “Thay vì tranh luận một cách trí thức, bạn hãy làm gì cụ
thể để “bước vào” sự sống đời đời... vấn đề là phải vào được!” Sự tò mò về con
số người được cứu thoát bộc lộ sự tìm kiếm điều an toàn là điều có thể thiếu
lành mạnh: Nếu mọi người đều lên trời, cần gì phải lo lắng? Nếu rất ít người
được lên trời, tại sao lại phải tốn bao công sức mà chắc gì đã được? Vì thế,
Đức Giêsu đã không xác định con số nhưng trả mỗi Người về với quyết định mà mỗi
người phải có đồng thời khẳng định rằng như thế mới là nghiêm túc. Đức Giêsu không
muốn “trấn an”, Người muốn người ta sống có trách nhiệm. Từ đây, Người dùng một
hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Kinh thánh: Nước Chúa như một phòng tiệc.
Nhưng Người thêm: người ta xô đẩy nhau trước cửa vì cửa phòng “hẹp”. Từ Hy Lạp
mà chúng ta dịch là chiến đấu là một động từ mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là
“đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối) trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy
từ động từ Hy Lạp: Cuộc chiến đấu cuối cùng của sự sống. Để đem lại ơn cứu độ
cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến đấu, ở vườn Ghet-sê-ma-ni
và đồi Gôn-gô-tha.
Người không cho chúng ta lời khuyên nào mà trước hết chính Người
đã không sống nó. Trong một đoạn văn khác, Người đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh
sức mới chiếm được Nước Trời” (Mt 11,12; Lc 16,16).
Để chiếm được Nước Trời, cuộc chiến đấu của tôi là gì? Tôi phải
chiến đấu ở điểm chính xác nào, trong hoàn cảnh của tôi, với tính khí của riêng
tôi, khi vượt qua những điều kiện giới hạn là những bó buộc đang đè nặng trên
cuộc đời tôi?
Thánh Phaolô cũng dùng từ “ngôn” “cuộc chiến đấu” để nói đời
sống Kitô hữu là gì.. “Tôi tìm thấy niềm vui trong những đau khổ mà tôi phải
chịu, để loan báo Đức Kitô: Đó là công việc và cuộc chiến đấu của tôi” (Côlôxê
1,29; 1 Côrintô 9,25; Côlôxê 4,12; 1 Timôthê 4,lo). “Tôi đã đấu trong cuộc thi
đấu cao đẹp, đã chạy hết công đường, đã giữ vững niềm tin”. (2 Timôthê 4,7).
Làm thế nào chúng ta lại có ảo tưởng “vào” nước trời mà không phải nỗ lực? Đời
sống Kitô hữu không phải là một cái ghế bành. Dĩ nhiên đó là một ơn không mất
tiền, ban cho cả những người tội lỗi. Còn phải chấp nhận ơn đó... mà không hoàn
toàn khép kín lại trên ơn đó.
“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn
đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: `Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’,
thì ông sẽ bảo anh em: `Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!’
Dụ ngôn mạnh mẽ tiếp tục: Cánh cửa vốn đã hẹp giờ đây đóng kín.
Lời mời gọi bước vào trở nên cấp bách: Thời gian gấp lắm, ngày mai sẽ quá trễ.
Ngay hôm nay phải “bước vào trong Nước Trời”. Vâng, đối với tôi, thêm một ngày
cũng là quá trễ. Tôi còn lại bao nhiêu thời gian? Chúng ta phải sống mỗi ngày
như thể đó là ngày sau rốt.
Bấy giờ anh em mới nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống
trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng
tôi.’ Nhưng ông sẽ đáp lại: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất
mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’
Dân Israel, ý thức về giá trị của Giao ước khó mà chấp nhận
những người dân ngoại bước vào trong Nước Thiên Chúa. Giáo trưởng Méir viết:
“Để trở nên một con cái của đời sau, phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói
tiếng Do Thái là ngôn ngữ thánh và sáng chiều đọc kinh Shema Israel”. Trái lại,
đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc này không đáng kể. Lời cảnh cáo
nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho những người đã từng được ăn
uống trước mặt Người, và những người đã từng nghe Người “giảng dạy” giờ đây áp
dụng cho chính chúng ta, những người chia sẻ bàn tiệc thánh thể. Một giờ ngắn
ngủi sống với Đức Giêsu ngày Chúa nhật không thể bù đắp tất cả những giờ khác trong
tuần mà chúng ta dùng làm điều ác xa cách Người.
“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên
Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự
tiệc trong Nước Thiên Chúa. “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và
có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”
Cách nói này có thể cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có
thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước Trời bị loại trừ một cách độc đoán bởi
quyết định độc tài của một ông chủ không có lòng thương xót. Hẳn đó là một bức
ảnh biếm họa về Thiên Chúa. Thiên Chúa không tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai
không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ chính mình. Quả thật, ngay cả dân
ngoại, bởi một thái độ quay ngược lại (kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu!) sẽ đến từ
mọi phương trời. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy,
thật ra đó là sự nghiêm trọng của vĩnh cửu, trở thành một cánh cửa mở rộng cho
mọi người không phân biệt.
Số phận bi thảm của Israel, được mời gọi đầu tiên, đã bị các dân
tộc khắp nơi vượt qua phải thức tỉnh sự mê ngủ của chúng ta. Người ta không thể
vào Nước Trời như thế, nghĩa là không nhận thức điều vừa nói. Phải ao ước có
Phải chiến đấu vì nó. Phải chọn Đức Giêsu. Thuộc về một nhóm người, một chủng
tộc, một gia đình, hoặc thực hành một vài nghi thức không thể đem lại cho chúng
ta một sự an toàn nào, có chăng chỉ là ảo tưởng... Điều chủ yếu là sự dấn thân
bằng tất cả con người chúng ta trong mọi lúc, theo Đức Giêsu. Và nhất là, chúng
ta chớ phán xét những người khác. Chúng ta biết được hai điều: 1% về phía Thiên
Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu chuộc mọi người... 2% về phía con người, chỉ
cần có sự nghiêm túc của tự do, tự do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho
và tự do này là một cuộc chiến đấu... ở trần gian này, chúng ta không bao giờ
biết được có phải tự do ấy no anh em chúng ta đã nói tiếng nói sau cùng. Sự gặp
gỡ sau cùng với Thiên Chúa vào lúc chết phải là hồi chung cuộc. Mọi người đều
đã hiểu rằng tiền đặt cuộc siêu nhiên ấy chỉ có thể trở thành “cứu độ” với Thiên Chúa: Chớ đến dự tiệc Nước
Tròi một mình. Trên những nẻo đường bạn hãy loan báo Tin Mừng: Lời Chúa hứa là
bánh được ban cho để chia sẻ: Thiên Chúa thúc giục các bạn bước vào nơi ở duy
nhất và quy tụ các bạn trong tình yêu. Lạy Đức Giêsu, niềm hy vọng của con
người, xin làm cho chúng con trỏ thành những chứng nhân ơn cứu chuộc của Ngài.