Tôi là kẻ có tội.
Khi đọc Kinh Cáo Mình, tôi tự thú tôi đã phạm tội nhiều.
Khi đọc Kinh Lạy Cha, tôi tự xưng tôi cần phải xin ơn tha thứ.
Khi đọc Kinh Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, tôi nhận tôi là kẻ có tội.
Khi chịu Bí tích giải tội, tôi tự đặt mình vào hạng người tội lỗi.
Mà thực, tôi đã phạm tội không biết bao nhiêu mà kể trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót.
Không nhận mình là có tội là phạm thêm một tội nói dối. Vì tôi là kẻ có tội, nên tôi mang thân phận con người tội lỗi. Tôi không từ chối thân phận tội lỗi. Vì nó là của tôi!
Mà từ chối sao được, khi tôi và kẻ tội lỗi cùng đồng nghĩa như nhau, khi ngày đêm tôi vẫn ăn năn trên cuộc đời của tôi nhiều tỳ ố!
Không những tôi không từ chối, không trốn tránh, không than trách mà còn muốn giữ mãi thân phận đó như một nơi trú ngụ êm đềm.
Chính nơi đây, tôi đã tìm gặp được bản thân tôi, một bản thân trần trụi và yếu đuối.
Tôi chỉ là thế. Tôi chỉ có thể nhìn nhận chân thành thực trạng đó là tôi đã trở về với tôi. Tôi đã hợp nhất với tôi.
Sự hợp nhất âm thầm này cho tôi một niềm vui ngọt ngào và một bình an sâu thẳm. Như thế, sau cơn mơ tôi lại được gặp chính mình. Như thế, tôi đã tìm được một căn nhà riêng thực sự của tôi, một chỗ ở thích hợp hoàn toàn với tôi.
Trong sự vắng vẻ và hoang vu của thân phận tội lỗi, tôi lắng nghe lòng tôi. Và tôi chỉ thấy duy nhất một lời: Chúa yêu con.
Lời đó là lời Chúa nói với tôi, hay là lời tôi nói với Chúa? Chắc chắn là cả hai.
Tôi không muốn phân tích những lý do tại sao tôi mến Chúa và tại sao Chúa thương tôi.
Tôi chỉ tin và cảm thấy rằng: Tôi thiếu thốn tất cả và Chúa là tất cả cho tôi. Tôi là vực sâu dưới hư vô, nhưng tôi lại được Chúa thương yêu vô cùng. Chỉ có Ngài là trung tín và trung thành tuyệt đối. Ngài thương tôi từ thuở đời đời. Ngài thương tôi hơn chính tôi thương tôi. Ngài cho tôi một niềm tin khi tôi đã mất hết niềm tin ở mọi người.
Niềm tin của tôi là sự gặp gỡ sống động giữa tất cả con người của tôi với ngôi vị Thiên Chúa.
Tôi tin Chúa, không phải chỉ là tin có Chúa, cũng không phải tin lời Chúa, nhưng trước hết và cốt yếu là tin Chúa yêu thương tôi.
Tôi tin Chúa gần tôi, quan tâm đến tôi, thương yêu tôi vô cùng. Ngài là Chúa và là Cha tôi. Ngài có quyền và có lòng thương, thế là đủ cho tôi rồi.
Tôi tin nên tôi yêu. Hay tôi yêu nên tôi tin? Tôi không rõ.
Tôi chỉ biết rằng: niềm tin nâng đỡ tình yêu và tình yêu nâng đỡ niềm tin. Có tin mới yêu cũng như có yêu mới tin.
Nhưng trong thân phận tội lỗi của tôi, tình yêu đó khởi đầu từ một niềm tin cũng như niềm tin đó đã xuất hiện từ sự trở về, nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình.
Càng trở về sâu trong thân phận, tôi càng thấy niềm tin lớn mạnh, để rồi lại càng đốt nóng lên một tình yêu thầm kín.
Và như thế, khi tôi mất tất cả lại là lúc tôi gặp được tất cả. Vì Chúa là tất cả của tôi và tất cả cho tôi.
ĐỂ BIẾT MÌNH
Các người đạo đức bảo tôi rằng: Biết mình là đầu mối khôn ngoan, là điều kiện trước tiên của mọi sự cải tiến.
Đúng lắm, nhưng biết mình không phải dễ. Không ai gần tôi cho bằng tôi. Nhưng chính tôi thường xa lạ với tôi hơn ai hết.
Làm sao để biết mình?
Cách thứ nhất tôi thử dùng là so sánh mình với kẻ khác. Thấy không bằng họ thì coi mình kém. Thấy không thua họ, thì yên trí chẳng sao.
Nhưng có chuyện làm tôi nghi ngờ cách biết mình này: Một ông Pharisiêu và một ông nhân viên thuế vào đền thờ cầu nguyện. Ông Pharisiêu so sánh mình với ông thu thuế thì thấy mình khá quá, thì nói với Chúa rằng: Con không như tên thu thuế kia. Rốt cuộc người thu thuế lại được Chúa thương hơn. (Lc 18, 9 - 14). Thế là ông Pharisiêu đã lầm lớn
Hay là tôi so sánh mình với những người hơn tôi xem sao, nhưng tôi vẫn sợ lầm. Vì thế nào để phân biệt được chắc chắn ai hơn ai kém. Đàng khác, so sánh mình với người khác dễ gì đúng được. Mình thiên vị mình là chuyện thường. Chủ quan mà cứ tưởng khách quan mới thực là nguy.
Không tin vào cách so sánh mình với người khác, tôi thử dùng cách hai để biết mình là dựa vào dư luận. Người ta nói về tôi thế nào thì tôi cũng coi tôi là thế.
Nhưng Phúc âm lại có chuyện dạy tôi phải coi chừng dư luận. Trong lịch sử đạo Công Giáo, lần đầu tiên dư luận đại chúng được phát biểu là vấn đề nên tha Giêsu hay Baraba. Kết quả là tất cả đã lên án Chúa Giêsu. Thật là mỉa mai cho chủ trương lấy ý kiến đại chúng làm tiêu chuẩn để phân biệt lành dữ. Dư luận nhiều khi chỉ là luận dư và vô trách nhiệm.
Thấy dư luận không bảo đảm, tôi lại dùng cách thứ ba để thử mình, đó là căn cứ vào các điều răn để biết mình xem mình có phạm nặng không. Nếu không phạm gì nặng thì chẳng thánh, ít ra cũng chẳng đến nỗi nào.
Nhưng có mấy lời Chúa phán làm tôi phải dè dặt. Thời Chúa Giêsu, những người thu thuế và đĩ điếm đều bị xã hội xếp vào hạnh người tội lỗi quái gỡ. Còn Pharisiêu và các thầy cả thì được dân chúng tôn trọng như các bậc đạo đức mô phạm. Thế mà có lần Chúa nói với các vị này rằng: “Ta nói thật với các ông, những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Thiên đàng trước các ông’’ (MT 23, 27 ). Mà mấy vị đó xem ra có phạm gì nặng nề đâu. Thì ra Chúa biết nhiều quá. Vàc xét đoán khác thiên hạ.
Hay tôi cứ căn cứ vào nếp sống hình thức hằng ngày để biết mình? Hễ tôi thấy mình làm đủ việc luật dạy, năng đi nhà thờ, kinh kệ đàng hoàng, thì là dấu tốt. Bằng không thì là xấu.
Nhưng cách này cũng không làn tôi yên trí. Còn ai giữ luật cặn kẽ bằng ông Pharisiêu! Thế mà Chúa mắng bọn họ là: “Những mồ mả ngoài thì sơn trắng, nhưng trong thì đầy những hôi tanh’’ (Mt 23, 27 ). Nếp sống hình thức chỉ là cái vỏ, chỉ là mặt nạ. Nó không phải là tôi.
Vậy còn một cách sau chót tôi thử dùng để biết mình, là căn cứ vào lương tâm. Hễ lương tâm yên ổn thì dấu tôi tốt. Hễ lương tâm bứt rứt không an, thì dấu tôi có gì trục trặc.
Nhưng cách này cũng không chắc chắn. Lương tâm tôi bình an lắm. Nhưng biết đâu chỉ vì lương tâm tôi đã quen sai lầm, đã ra chai đá? Và dù lương tâm thuộc loại chính xác, thì tình trạng yên ổn của nó cũng có thể rất chủ quan. Chính thánh Phaolô cũng đã nói: “Thực, lương tâm tôi không trách tôi điều gì. Nhưng không vì thế, tôi là người công chính. Chỉ có Chúa là Đấng phán xét tôi’’ (1 Cor 4, 4).
Thì ra năm cách tôi thử dùng để biết mình đều không đảm bảo.
Vậy, phải làm sao bây giờ?
Tôi thấy một trả lời từ Kinh Thánh: Sao-lô từ Damas đi Giêrusalem bị một ánh sáng từ trời đánh ngã. Ngài hỏi: Chúa muốn con làm gì? Rồi Ngài mở mắt. Ba ngày đêm không ăn uống. Chỉ suy nghĩ cầu nguyện. Trong cảnh cô tịch nội tâm đó, Ngài đã để lòng mình đối diện với Chúa và Ngài đã được biết rõ mình. Từ đó Ngài trở lại và đã nên thánh. (Act 9).
Muốn biết rõ mình, tôi cũng hay dùng cách của thánh Phaolô: suy nghĩ và hỏi Chúa trong cõi thinh lặng. Chúa là đàng và là sự thật. Chúa rất thương tôi. Tôi tin chắc chắn khi nhìn vào Chúa, thì tôi sẽ thấy tôi. Sự biết này vừa rõ, vừa cậy trông khiêm tốn. Nó êm đềm chứ không làm tôi kêu căng, sợ hãi hay bối rối. Nó cho biết và đồng thời cũng chữa trị. Vì thật ra, lúc đó Chúa đã ở trong tôi rồi.
Lạy Chúa, con biết tin vào đâu? Con đặt niềm tin trọn vẹn vào Chúa. Sự thật của Chúa bao giờ cũng đầy đủ, dịu dàng, êm đềm, và khích lệ, rất khác với những chỉ giáo của loài người. Xin giúp con năng biết tìm Chúa, hỏi Chúa trong thinh lặng nội tâm, để nhờ đó con biết mình, biết đời và biết Chúa.
ĐGM Bùi Tuần