NGÀY 19 THÁNG 12
MÙA VỌNG
Tl 13,2-7. 24-25a; Lc 1,5-25
BÀI ĐỌC: Thủ lãnh hay Quan án (Tl/Qa) 13,2-7. 24-25a
2 Hồi ấy, có một người
đàn ông ở Xo-rơ-a, thuộc chi tộc Đan, tên là Ma-nô-ác. Vợ ông son sẻ và không
sinh con. 3 Sứ giả của Đức Chúa hiện ra với người vợ và nói với bà:
"Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh
một con trai. 4 Vậy bây giờ phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có
men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch. 5 Vì này bà sẽ có thai
và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là
một na-dia của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay
người Phi-li-tinh.”6 Bà đi vào và nói với chồng rằng: "Một
người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi; hình dáng của người như hình dáng một sứ
giả của Thiên Chúa, rất đáng sợ. Tôi đã không dám hỏi người từ đâu tới; và danh
tánh người, người cũng không tiết lộ cho tôi. 7 Nhưng người nói với
tôi: "Này bà sẽ có thai và sẽ sinh một con trai; bây giờ bà phải kiêng cữ:
đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch, vì con
trẻ ấy sẽ là một na-dia của Thiên Chúa, từ lòng mẹ cho đến ngày nó chết.”
24 Bà sinh được một con
trai và đặt tên là Sam-sôn. Đứa bé lớn lên, và Đức Chúa chúc lành cho nó. 25a
Thần khí Đức Chúa bắt đầu tác động trên Sam-sôn.
ĐÁP CA: Tv 70
Đ. Miệng chứa chan lời tán tụng Chúa,
suốt ngày con chẳng ngớt tôn vinh Ngài. (x c 8)
suốt ngày con chẳng ngớt tôn vinh Ngài. (x c 8)
3 Lạy Chúa, xin Ngài
nên như núi đá cho con trú ẩn,như thành trì để cứu độ con, núi đá và thành trì
bảo vệ con, chính là Ngài. 4a Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con
khỏi bàn tay kẻ dữ.
5 Vì lạy Chúa, chính
Ngài là Đấng con trông đợi,lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay
từ độ thanh xuân. 6ab Từ thuở sơ sinh, con nương tựa vào Ngài, Ngài
đã kéo con ra khỏi lòng mẹ.
16 Con thuật lại bao
chiến công của Chúa, nhắc nhở rằng: chỉ mình Ngài chính trực công minh. 17
Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa,con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này,
con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Hall-Hall: Lạy Đức Kitô là mầm non từ
gốc tổ Giesê, Ngài chiêu tập muôn dân dưới hiệu kỳ. Xin đến mà giải thoát, đừng
trì hoãn làm chi. Hall.
TIN MỪNG: Lc 1,5-25
5 Thời vua Hê-rô-đê
cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a; vợ
ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. 6 Cả hai ông
bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và
mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. 7 Nhưng họ lại
không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao
niên.
8 Sau đây là chuyện
xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của
nhóm ông:9 Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã
trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10 Trong
giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.
11 Bấy giờ một sứ thần
của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12 Thấy vậy, ông
Da-ca-ri-a bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. 13 Nhưng sứ
thần bảo ông: "Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông
cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải
đặt tên cho con là Gio-an. 14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều
người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. 15 Vì em bé sẽ nên
cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn
trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. 16 Em sẽ đưa nhiều con cái
Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17 Được đầy thần khí
và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha
ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo
chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.”18 Ông
Da-ca-ri-a thưa với sứ thần: "Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi
đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi.”19 Sứ thần đáp: "Tôi là
Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và
loan báo tin mừng ấy cho ông. 20 Và này đây ông sẽ bị câm, không nói
được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là
những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.”21 Dân chúng đợi
ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22
Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy một thị
kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.
23 Khi thời gian phục
vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. 24 Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét
vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25 Bà tự nhủ: "Chúa đã
làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước
mặt người đời.”
CẦU NGUYỆN, BẬT MẦM
SỐNG!
Qua các
Bài đọc trong Thánh Lễ ngày 19 tháng 12, cho chúng ta những xác tín sau:
-
Cầu nguyện, bật lên mầm sống.
-
Chỉ cầu nguyện nhờ,với,trong Chúa Giêsu,mới được phúc lành của
Thiên Chúa.
-
Kẻ nào không tin Chúa là kẻ câm.
-
Phải say sưa Lời Chúa, chứ đừng say rượu, mới trở nên chứng nhân
của Chúa.
&&&
1/
CẦU NGUYỆN, BẬT LÊN MẦM SỐNG.
Chúng ta
biết, tác giả Luca viết Tin Mừng trong bối cảnh cầu nguyện,nói cách khác, ơn
cứu độ Thiên Chúa thực hiện trong Phụng Vụ Chúa Giêsu thiết lập. Bởi thế mở đầu
và kết thúc Tin Mừng của Luca, ông cho chúng ta thấy bóng dáng cầu nguyện của
tư tế Cựu Ước và tư tế Tân Ước:
-
Mở đầu Tin Mừng,vị tư tế thời Cựu
Ước, ông Dacarya vào Đền Thờ cầu nguyện, vợ chồng Dacarya đã cao niên mà chưa
có con, sau buổi cầu nguyện đó ông trở về, thì ông bà có con: mầm sống cứu độ
bật lên (x Lc 1,5t).
-
Kết thúc Tin Mừng, các tư tế thời Tân
Ước là các Tông Đồ, sau khi tiễn Thầy Giêsu về Trời, các ông không đi khắp thế
gian rao giảng Tin Mừng như ông Mátthêu viết (28,19-20), nhưng hằng ngày ở
trong Đền Thờ chúc tụng Thiên Chúa: Ơn cứu độ được bung ra cho muôn dân (x Lc
24,52-53).
Vì việc cầu nguyện cần thiết và đem lại hiệu quả hơn lòng mọi
người mong ước, nên Đức Giêsu dạy chúng ta phải kiên tâm luôn luôn cầu nguyện
(x Lc 18,1), đừng thua kém bà góa đã kiên nhẫn cầu xin với vị thẩm phán bất
lương bênh vực bà, vì ông thẩm phán này thua xa Thiên Chúa là Đấng giàu lòng
thương xót (x Ep 2,4-5), Người mau kíp ban ơn cho ta (x Lc 18,1-8; Ep 3,20).
Đức Giêsu là Thiên Chúa toàn năng mà Ngài còn đặt việc cầu
nguyện đứng hàng đầu mọi sinh hoạt. Phúc Âm Lc 4,31-44 ghi lại thời khóa biểu
sinh hoạt mỗi ngày của Đức Giêsu :
Ngài dứt giảng Lời ở hội đường vào khoảng 9 giờ sáng (theo Luật
Do Thái giáo). Sau đó Ngài về nhà mẹ vợ của ông Phêrô, rất nhiều người mắc đủ
mọi chứng bệnh, dù bị quỷ ám, đều được Ngài chữa lành, mãi đến chiều tà vẫn còn
nhiều bệnh nhân được đưa đến cho Đức Giêsu xin Ngài cứu giúp! Đức Giêsu rất cần
thiết cho mọi nhu cầu của người ta đến thế, vậy mà Ngài lại bỏ họ trốn mất! Ông
Phêrô cùng các bạn đi lùng kiếm Đức Giêsu. Mãi đến sáng, họ gặp thấy Ngài đang
cầu nguyện ở nơi vắng vẻ. Ông Phêrô nói: “Mọi
người đi tìm Thầy!” Nói thế, ông hàm ý trách khéo: Thầy tài năng như vậy,
tại sao Thầy không ở lại cứu giúp người ta cho bớt khổ?! Thế mà Đức Giêsu lại
không bảo: Ai cần tôi điều chi, cứ lại đây, tôi giúp hết…! Mà Ngài lại giục ông
Phêrô: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng xã lân cận để Ta rao giảng ở đó nữa. Bởi chính vì thế mà Ta đã ra đi!”
Như vậy, ngày làm việc của Đức Giêsu ưu tiên theo thứ tự:
CẦU
NGUYỆN – GIẢNG LỜI –
ĐI PHỤC VỤ NHU CẦU THÂN XÁC MỌI NGƯỜI.
ĐI PHỤC VỤ NHU CẦU THÂN XÁC MỌI NGƯỜI.
Còn người đời, kể cả các Kitô hữu chỉ lo tìm “tiền – nhà- cơm-
áo- thuốc men”, chẳng quan tâm đến việc cầu nguyện, chẳng đặt đứng hàng đầu hay
quan trọng nhất, và chẳng khi nào lo việc loan báo Lời Chúa ngay cho những
người sống bên cạnh! “Cùng đích của họ là
diệt vong, họ lấy cái bụng là Chúa, vinh quang đặt nơi điều đáng xấu hổ, họ chỉ
nghĩ đến những điều ở dưới đất!” (Pl 3,19). Sống như thế làm sao họ muốn
đến cùng Đức Giêsu để “Ngài nâng đỡ bổ
sức cho” (x Mt 11,28). Bởi đó, Đức Giêsu trách: “Ta biết các ngươi: Lòng mến Thiên Chúa các ngươi không có nơi mình các
ngươi. Ta đã đến nhân danh Cha Ta, nhưng các ngươi không chịu lấy Ta, thảng
hoặc có ai khác lấy danh mình mà đến, thì các ngươi chịu lấy nó. Mà làm sao các
ngươi có thể tin được, khi các ngươi cầu vinh với nhau, còn vinh quang Thiên
Chúa, là Thiên Chúa duy nhất, các ngươi lại không màng” (Ga 5,42-44).
Đức Giêsu phản đối những người nói: Tôi không có đủ giờ cầu
nguyện. Ngài kể dụ ngôn: “Người kia làm tiệc lớn đãi khách, khi tiệc đã dọn
xong, ông sai đầy tớ đi mời thực khách đã được mời trước đến dự tiệc. Nhưng
người thứ nhất quyết liệt chối từ:
-
“Tôi mới mua một thửa đất, tôi phải đi xem đất, không có giờ đi
dự tiệc. Người đầy tớ lại đi mời người thứ hai, người này cũng chối:
-
“Tôi mới mua được 5 cặp bò, tôi phải đi thử xem nó có khỏe
không, không có giờ đi dự tiệc nào hết!”
Người đầy tớ lại đi mời người thứ ba. Nhưng người này cũng tìm
cách khước từ:
-
“Tôi mới cưới vợ, không có thì giờ đi đâu cả!”
(x Lc
14,15-20)
Thật là vô lý, có ai mua đất mà lại không xem đất trước khi bỏ
tiền mua? Có ai mua bò rồi mới đi thử xem nó khỏe hay yếu? Còn ai đã lấy vợ, đã
ổn định việc hỏi cưới, sao không đưa vợ đi dự tiệc chung, vì tiệc lúc nào cũng
còn trống chỗ, đến nỗi chủ tiệc sai đầy tớ ra đường nài ép bất luận ai vào dự
tiệc!
Vậy:
“Tôi bảo không có giờ làm việc
này, chỉ có nghĩa là giờ tôi dành cho việc mà tôi tự cho là quan trọng. Quan
trọng việc gì, thì có giờ cho việc đó!”
2/
CHỈ CẦU NGUYỆN NHỜ, VỚI, TRONG CHÚA GIÊSU, MỚI ĐƯỢC PHÚC LÀNH CỦA THIÊN CHÚA.
Việc cầu nguyện đạt đỉnh cao nơi Phụng Vụ Chúa Giêsu thiết lập,
đặc biệt là Thánh Lễ, vì Đức Giêsu đã nói: “Chúa
Cha chỉ muốn gặp những người thờ phượng Ngài trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga
4,23-24).
-
Thần Khí là Lời Chúa (x Ga 6,63).
-
Sự Thật là Chúa Giêsu (x Ga 14,6).
Vậy thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, chính là thờ
phượng Người nhờ Hy Tế của Chúa Giêsu. Vì Thần Khí (Lời Chúa) và Sự Thật (Chúa
Giêsu) là hai phần chính của Thánh Lễ.
Thực vậy, mở đầu Tin Mừng của Luca, vị tư tế thời Cựu Ước là ông
Dacarya, sau buổi cầu nguyện, ông trở ra với dân thì ông đã bị câm, ông không
nói được gì với ai, ông chỉ giơ tay quơ quơ làm hiệu, và mọi người hiểu rằng
ông đã gặp sự lạ (x Lc 1,22).
Kết thúc Tin Mừng, Vị Thượng Tế Tối Cao thời Tân Ước chính là
Chúa Giêsu, sau cuộc đời phục vụ đến mất mạng, và Ngài đã từ cõi chết sống lại,
trước khi lìa biệt các môn đệ lên trời, Ngài giơ tay chúc lành cho họ (x Lc
24,50).
Hai sự kiện đối lập trên, thánh sử Luca muốn xác quyết cho chúng
ta rằng:
·
Ông Dacarya là tư tế cuối cùng của Cựu Ước, dù việc ông trúng
thăm vào dâng hương trong cung thánh để cầu nguyện là được Chúa chọn, nên Chúa
đã hứa cho ông sinh con trong tuổi già. Nhưng việc cử hành Phụng Vụ của ông
Dacarya theo thể thức ông Môsê thiết lập từ nay phải cáo chung: Phụng Vụ này
không còn nói gì được cho dân nữa: Ông Dacarya bị câm! Là dấu chỉ Phụng Vụ Do
Thái không thể nói với ai được điều gì có giá trị, vị tư tế có giơ tay lên cũng
chỉ quơ quơ vô ích.
·
Khi Phụng Vụ Cựu Ước đến ngày cáo chung, thì Chúa Giêsu là Vị
Thượng Tế của thời Tân Ước bắt đầu xuất hiện để thi hành ý Cha trên trời, hơn
tư tế Dacarya chỉ làm những động tác theo nghi thức Phụng Vụ của loài người
thiết lập, nên thua xa Chúa Giêsu, Ngài thiết lập Phụng Vụ mới thay thế Phụng
Vụ Do Thái bằng cả một cuộc đời phục vụ theo ý Cha cho đến chết trên thập giá. Rồi
Ngài truyền cho Hội Thánh phải làm hiện tại hóa Hy Lễ đó. Nói như kiểu thánh Gioan:
“Ai nói mình ở trong Chúa Giêsu, thì
Người đi đứng thế nào, kẻ ấy cũng phải như thế” (1Ga 2,6). Chỉ khi nào vị
Tư Tế thời Tân Ước sống như Chúa Giêsu đã sống, khi họ dâng Lễ mới có thể giơ
tay ban phúc lành cho dân, nối dài phúc lành từ bàn tay Chúa Giêsu Phục Sinh
trên các thánh Tông Đồ.
3/
KẺ NÀO KHÔNG TIN CHÚA LÀ KẺ CÂM, ngược lại kẻ không nói về Thiên
Chúa thì thua ma quỷ. Vì “trong hội đường
của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt
chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc
1,23-24).
Trong hai
cuộc Truyền Tin cho ông Dacarya và cho Đức Maria, chúng ta thấy hai câu hỏi của
ông Dacarya và của Đức Maria nội dung tương tự giống nhau:
-
Ông Dacarya khi được Thiên thần báo cho biết sẽ sinh con, thì
ông thắc mắc thưa lại: “Làm sao tôi biết
được, vì tôi đã già và vợ tôi đã cao niên?” (Lc 1,18).
-
Khi Thiên thần báo tin cho Mẹ Maria: “Bà sẽ sinh Con Đấng Tối Cao”,thì Mẹ cũng thắc mắc: “Điều ấy sẽ làm sao, vì việc vợ chồng tôi
không nghĩ tới” (Lc 1,34).
Tại sao
sau câu hỏi của ông Dacarya, liền bị Thiên thần kết án: “Vì ông không tin nên Chúa cho ông một dấu: bị câm!” (x Lc 1,19-20)
Trong khi
đó, bà Elysabeth ca tụng Đức Maria: “Em
thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người sẽ nói với em”
(Lc 1,45).
Sở dĩ ông
Dacarya bị câm. Vì “sứ thần nói:
"Tôi là Gabiel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói
với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói
được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là
những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” (Lc 1,19-20: Tin Mừng). Trong
khi đó ông Dacarya là tư tế, ông am hiểu Kinh Thánh,Thiên Chúa là Đấng toàn
năng và yêu thương, Ngài đã từng làm cho nhiều đôi vợ chồng già sinh con, cụ
thể: vợ chồng Abraham và Sara đã được Chúa cho sinh Isaac (x St 18,11); vợ
chồng Giacob và Rakel, Chúa cho sinh Giuse và Benyamin (x St 30,22-24; 35, 16-19);
vợ chồng Manoah, Chúa cho sinh Samson (x Tl/Qa 13,2); vợ chồng Elqanah và Anna,
Chúa cho sinh Samuel (x 1Sm 1,9t) v. v…
Những đôi
vợ chồng cao niên trên đây Chúa đã cho sinh con,không đủ bằng chứng cho ông
Dacarya tin vào quyền năng và tình thương của Chúa hay sao? Mà ông còn thắc mắc:
Già rồi, sao có thể sinh?
Khác hẳn
Đức Maria, Mẹ thắc mắc vì không ăn ở với người nam làm sao lại có thai? Quả
thật trong lịch sử loài người, chưa hề xảy ra một trường hợp nào như thế, do đó
Đức Maria có quyền xin lời giải thích, và khi Thiên thần đã giải thích cho Đức
Maria là do quyền năng của Chúa Thánh Thần, thì Mẹ mau mắn nói tiếng Xin Vâng
ngay.
Bởi thế,
lời Kinh Thánh nói: “Kẻ nào không tin Thiên Chúa thì vô phương
đẹp lòng Chúa” (Dt 11,6).
4/
PHẢI SAY SƯA LỜI CHÚA, CHỨ ĐỪNG SAY RƯỢU, MỚI TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA.
-
Khi vợ ông Manoah được Chúa cho biết sẽ sinh một con trai đặt
tên là Samson, thì Chúa cấm bà không được động đến chất có men (x Tl/Qa 13,4. 7:
Bài đọc).
-
Khi ông Gioan được chào đời, ông Dacarya cũng nói về con của
ông: Không đụng đến chất có men (x Lc 1,15).
Bởi vì rượu như con dao hai lưỡi: Trong sinh hoạt ăn uống hằng
ngày, nhất là tiệc tùng, không có rượu thì không phải là tiệc. Chính Đức Maria khi
dự tiệc cưới Cana, người ta thiếu rượu, Mẹ đã can thiệp lên tiếng nói với Đức
Giêsu ban cho họ rượu mới ngon hơn rượu cũ (x Ga 2,3t); Đức Giêsu cũng dùng
rượu để lập Bí tích Thánh Thể (x Lc 22,17); thánh Phaolô cũng khuyên đồ đệ
Timôthêu nên uống chút rượu cần cho sức khỏe (x 1Tm 5,23).
Nhưng lạm
dụng rượu đến say xỉn thì vô cùng độc ác, con người mất hết danh dự, mất uy tín.
Chính vì vậy mà Thánh Kinh đã không tiếc lời nguyền rủa những kẻ mê rượu: “Dành cho ai những “thôi rồi”? Dành cho những
“hỡi ôi”? Dành cho ai những gây gổ? Dành cho ai những lời than vãn? Dành cho ai
những vết thương chẳng lý do? Dành cho ai những con mắt đỏ ngầu? Đó là những kẻ
nán lại bên bầu rượu, những kẻ đã nếm đủ thứ rượu ngon! Đừng để mắt ngó rượu,
nó đỏ làm sao, nó óng ánh thế nào trong chén, rồi nó ực xuống cổ! Nhưng cuối
cùng nó cắn như rắn lục, nọc độc hổ mang! Mắt con sẽ thấy những điều lạ lùng,
và miệng con sẽ nói ba hoa bậy bạ” (Cn 23,29-33- Bản dịch NTT).
Ngôn sứ
Habacuc cũng lên án: “Khốn thay kẻ chuốc
rượu cho anh em mình,kẻ pha chất độc làm cho nó say sưa, để thấy nó trần truồng.
Ngươi đã thấm nhục nhã, chứ không phải vinh quang. Đến lượt ngươi, ngươi phải
uống và để lộ của quý ra.” (Habacuc 2,15-16a).
Vì những
kẻ mê rượu để hưởng thụ sự ngây ngất làm mất uy tín của mình, nên dù nó có nói
phải, người ta cũng kết án là rượu nói, chẳng ai muốn nghe. Thánh Phêrô trong
lúc say sưa giảng Lời cho một tập thể từ khắp tứ phương kéo đến, ít nhất có 3. 000
người nghe ông Phêrô giảng đã xin chịu Thánh Tẩy. Những người khác chống đối sự
kiện ấy, thì họ lếu láo kết án ông: “Lão bứ rượu rồi!” Ông Phêrô phải lên
tiếng giải thích: “Bây giờ mới là giờ thứ
ba (9 giờ sáng), chưa đến giờ ăn uống, làm sao nói tôi say”, nhưng họ vẫn
không tin ông! (x Cv 2,13. 15)
Vì vậy
thánh Phaolô khuyên: “Đừng say sưa rượu chè chỉ tổ hư thân, nhưng
hãy làm sao cho được no đầy Thần Khí.” (Ep 5,18).
Vậy chỉ
những ai say sưa Lời Chúa mới xứng đáng được Lời Kinh Thánh xác nhận: “Miệng chứa chan lời tán tụng Chúa,suốt ngày
con chẳng ngớt tôn vinh Ngài” (Tv 71/70,8: Đáp ca).
“Lạy Đức Kitô là mầm non từ gốc tổ Giesê,
Ngài chiêu tập muôn dân dưới hiệu kỳ. Xin đến mà giải thoát, đừng trì hoãn làm
chi” (Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Đừng say sưa rượu chè chỉ tổ hư thân, nhưng hãy làm sao cho được
no đầy Thần Khí. (Ep 5,18).
Kẻ nào không tin Thiên Chúa thì vô phương đẹp lòng Chúa (Dt 11,6).
LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH