GLPÂ
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG, NĂM B
I. Giáo Huấn Phúc Âm
Giáo huấn của các bài đọc
trong Chúa Nhật III Mùa Vọng năm B là ‘hãy vui mừng’
Tiên tri Isaia vui mừng
vì Thiên chúa tuyển chọn ông, xức dầu cho ông và sai ông đem Tin Mừng cho người
nghèo khó, băng bó tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho kẻ lưu đày, phóng
thích cho tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Hãy cầu nguyện luôn để có
niềm vui như Thánh Phaolô khuyên trong bài đọc hai.
Niềm vui làm sứ giả dọn
đường cho Ánh Sáng, cho Đấng Cứu Thế nơi Gioan Tiền Hô và nơi mọi người chúng
ta: chứng nhân cho ánh sáng, cho Đấng Cứu Thế cao trọng.
II. Vấn nạn Phúc Âm
Tiên Tri Isaia: Ông sinh khoảng năm 770 trước Chúa Cứu Thế và
làm tiên tri rất lâu, 64 năm dưới thời các vua Isael: Uzziah, Jotham, Ahaz và
Hezekiah (Is.1.1), vua Giuda. Uzziah làm vua cai trị Israel 52 năm vào khoảng
giữa thế kỷ 8. Người ta đoán Isaia thi hành sứ mạng tiên tri một ít năm trước
khi Uzziah chết, có lẽ năm 740 trước Chúa Giêsu, tức lúc Ông vào khảng 30 tuổi.
Tiên Tri Isaia lấy người vợ được gọi là ‘nữ tiên tri’. Không biết vì bà nầy
thật là tiên tri hay vì chồng bà là tiên tri và bà được ‘ăn có’? Tiên tri Isaia
có hai con trai, một được đặt tên là Shearjashub có nghĩa là “hồi hương” và một
tên là MaherShalal Hash Baz, có nghĩa “cướp phá” Tên gọi người con thứ I nói
lên sứ vụ tiên tri của Isaia như báo tin ân xá cho kẻ lưu đày, phóng thích cho
tù nhân, công bố năm hồng ân… Tên gọi người con Thứ II nói lên thời gian mà
Israel phản bội Chúa, cấu kết với ngoại giáo và nhận chịu hậu quả trừng phạt.
Qua
việc đặt tên cho hai người con nầy, nhiều người có thể thắc mắc tại sao thời đó
mà chỉ có hai con? Hay tại sao chỉ có con trai mà không có con gái. Nêu tên hai
con trai không nói rằng: Isaia chỉ có hai con trai hay không có con gái mà chỉ
có ý nói về vai trò của tiên tri liên quan đến tên hai người con trai nầy.
Nội
dung sách Tiên Tri Isaia: Sách dài 66 chương và được chia ra hai phần lớn như
sau:
Chương
1-35: dân Do Thái gây tội, Đất Do Thái như một vườn hoang, cây cối không có
trái. Nên sẽ bị phạt.
Chương
40-66: Những chương đầy an ủi và vui mừng: Chấm dứt thời lưu đày và dân sẽ được
cứu quay về Giêrusalem và kiến thiết đền thờ Giêrusalem.
Đặc
biệt có những chương 42, 49, 50, 52 và 53 nói về người nô bộc khiêm hạ, đầy tớ
đau khổ của Thiên Chúa. Tất cả đều hướng vể Đấng Messiah sẽ đến trong tương lai
để cứu dân khỏi tội và mang ơn cứu độ cho nhân loại.
Ảnh
hưởng lớn của sách Tiên Tri Isaia: Ngay từ thời sơ khai, Giáo Hội đã dùng Sách
Tiên Tri Isaia rất nhiều nhất là lời hứa về Đấng Emmanuel cũng như hình ảnh đầy
tớ đau khổ mà người ta thấy thể hiện trọn vẹn nơi Chúa Kitô. Nhiều bài đọc
trong mùa vọng và tuần thánh trích từ sách Tiên Tri Isaia.
Một trong sứ mạng của tiên tri là: Công bố năm hồng ân của Thiên
Chúa (Anna Dei gratia – Year of the Lord’s favor) Năm hồng ân của Thiên
Chúa dựa trên Sách Lêvi 25.10-13 được công bố cứ từng 25 năm. Năm hồng ân công
bố rằng: Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá. Đất đai và mọi thứ hiện hữu trên vũ trụ là
do Ngài sáng tạo. Thiên Chúa phân phát những sản nghiệp nầy cho nhân loại là
những người quản lý gia sản của Ngài. Không ai là chủ cả, mà là tá điền thôi.
Nên năm hồng ân cho phép huỷ bỏ mọi thứ cầm cố, vay mượn. Năm hồng ân làm cho
mọi người thoát nợ nần và được tự do.
Hiện tại Giáo Hội Công
Giáo vẫn giữ năm hồng ân, tuy nhiên hướng chiều về điều linh thánh như năm
Thánh 2000 được tuyên bố ban hồng ân Chúa cho nhân loại. Ngoài ra Đức Giáo
Hoàng cũng có thể tuyên bố năm nào đó là năm thánh, thí dụ từ 19/6/2009 đến
11/6/2010 là Holy Year for priest, Năm Thánh Linh Mục. Giáo Hội Việt Nam lấy
năm, 2010 làm Năm Thánh tổ chức Đại Công Nghị cho toàn Giáo Hội. Tất cả chỉ còn
là dịp để canh tân, cầu nguyện và hâm nóng đời sống thiêng liêng, chứ không còn
là chuyện tha nợ nần vật chất gì nữa.
“Thế Ông là ai? Ông nói gì về chính Ông?” Ông nói: Tôi là tiếng
người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ
Isaia đã nói”
Phúc Âm Matcô viết cho
người Kitô hữu ở Rôma thời Giáo Hội Sơ khai. Matcô không là tông đồ, Ông có họ
hàng với Barnabê, Ông theo Phaolô đi truyền giáo và nhất là rất gần với tông đồ
Phêrô. Phêrô giảng chứ không có viết. Giáo đoàn Rôma biết Phêrô nhiều và ngưỡng
mộ Phêrô hơn tất cả. Nên Matcô đóng vai trò ghi lại những gì Phêrô giảng tức
giáo lý Phêrô dạy và làm thành Phúc Âm Matcô sau nầy. Do đó, Phúc Âm Matcô ngắn
gọn và đơn giản như con người bộc trực và ít suy luận của Phêrô.
Vì viết cho những tín hữu
đầu tiên ở Roma với mục đích chứng minh Chúa Giêsu thành Nagiarét là con Thiên
Chúa thật như đã được tiên báo trong các sách tiên tri. Nên Matcô hay dùng
thuật ngữ “ngay tức khắc” để diễn tả Lời Chúa phán có hiệu quả ngay khi chữa
bệnh, hay khi trừ tà. Do đó, chúng ta luôn đọc thấy “ngay tức khắc” cơn sốt
biến khỏi bà nhạc của Phêrô, ngay tức khắc quỉ ra khỏi người nầy, hay ngay tức
khắc họ bỏ chài lưới theo Chúa.
Ông Gioan Tẩy Giả không
phải đột nhiên xuất hiện. Nhưng Tiên Tri Isaia đã tiên báo về “sứ giả của Đấng
Cứu Thế” đến để dọn đường Chúa gần 800 năm trước. Nên khi người ta hỏi Ông là
ai, Gioan đã mạnh dạn trả lời: Tôi không là Đấng CứuThế, nhưng chỉ là tiếng kêu
trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa đến như Isaia loan báo hàng 800 năm trước.
Như vậy, quí Ông thấy tôi đang làm chuyện của Thiên Chúa xếp đặt. Người đang
đến là Con Thiên Chúa thật. Con Thiên Chúa cao trọng đến nỗi tôi không đáng cúi
xuống cởi quai dép Ngài…Tôi phải làm cho người lớn lên còn tôi phải nhỏ lại… đó
là ơn gọi của tôi đã được tiên báo trong Is.40.3.
“Nhưng có một vị đang ở giữa các Ông mà các Ông không biết.
Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cổi quai dép cho Người!”
Tôi xin dùng kiểu diễn tả
tượng hình của người Việt Nam mình để giải thích câu nói về bản tính Thiên Chúa
cao cả nơi Đức Kitô của Gioan Tiền Hô.
Để diễn tả cảnh chen chút
đông người chật chội, người Việt Nam hay nói: đông nghẹt người, hay đông như
nêm hay đông như bánh canh.
Để diễn tả Tỉnh Bặc Liêu
vừa có nhiều cá chốt mà cũng có nhiều người Tàu Triều Châu thì người ta bảo: Dưới
sông cá chốt trên bờ Triều Châu.
Để diễn tả về sang hèn
giữa khách mời và gia chủ thì người ta nói: Cám ơn đã dời gót ngọc đến tệ xá.
Để diễn tả về vẻ đẹp của
một phụ nữ thì người ta bào: sắc đẹp làm chim sa cá lặn hay hoa nhường nguyệt
thẹn hay nghiêng thành đổ nước.
Mới đây, một người bạn
linh mục đã diễn tả xứ đạo khỉ ho có gáy của Cha ấy bằng một diễn tả thật gợi
hình như thấy được. Cha ấy nói: Chỗ tôi muốn mua cục kẹo cũng không có hay chỗ
tôi, lúc chín giờ tối chạy xe tìm người đụng cũng không thầy. Còn chỗ nào vắng
hơn!
“Người đến sau tôi và tôi
không đáng cổi quai dép người” Đây là cách diễn tả của Gioan Tẩy Giả để chứng
mình Thiên Tính nơi Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả được xếp vào hạng tiên tri và
người ta những tưởng Ông là Đấng Messiah, vậy mà so sánh với Chúa Giêsu, ông
không đáng cổi dây dép cho Người. Đấng Cứu Thế đang ở giữa chúng ta là Thiên
chúa, là Con Thiên Chúa, giữa Chúa và con người, dù là tiên tri như Gioan cũng
không thể so sánh. Hoàn toàn khác biệt như chủ nô. Gioan so với Chúa không bằng
tên nô lệ với Ông chủ mình, nô lệ còn có thể cổi dép cho chủ, đàng nầy Gioan
“không đáng cúi xuống cổi dép Ngài”.
Cách diễn tả để tuyên
xưng Thiên Tính cao trọng nơi con người Chúa Giêsu, thành Nagiarét, Ngài là Con
Thiên Chúa, sinh làm người và ở giữa phàm nhân.
III. Thực hành Phúc Âm
Cao ngạo đáng ghét, ai cũng biết! nhưng chúng ta hay tự cao.
Cựu Tổng thống Mỹ George
Bush đến thăm Canada và bị dân chúng Calgary AB., chưởi bới rồi xua duổi phải
tức tốc lên xe về khách sạn và rồi Canada trước dự định. Coi tin tức, tôi thắc
mắc why? Người coi TV chung với tôi giải thích: He is so arrogant! He is so
haughty! Ông ta cao ngạo quá!
Nhưng thú thật cả người
giải thích cho tôi “vì ông ta cao ngạo quá!” cũng không thiếu những kiểu cách
cao ngạo trong cuộc sống. Cả tôi, người được nghe giải thích cũng không được
khiêm tốn. Nên xem chừng cao ngạo thật đáng ghét nhưng trong cuộc sống, còn quá
nhiều đồi núi phải san bằng.
Tính cao ngạo có rất
nhiều ở những bậc tu trì, những người dạy người khác sống khiêm nhường. Khó có
ai tránh khỏi bị các linh mục chỉ trích là thiếu hiểu biết hay ăn học chưa tới.
Ít có một linh mục cao niên hay chức cao quyền trọng mà đến ân cần thăm hỏi một
anh em khác ít tuổi hay kém thế giá hơn mình. Ít có linh mục nào khen anh em
linh mục khác giảng hay. Thường bảo “nghe cũng tàm tạm, nhưng….thế nầy, thế
nọ…” Các linh mục ở ngoại quốc thường ít nhận ra khả năng nói tiếng Anh hay
tiếng Pháp rất giới hạn của mình.
Gia đình ông chủ tịch Hội
Đồng Giáo Xứ đã trở nên lạnh nhạt với một Cha khách vì cha nầy không biết nói
nịnh theo kiểu “thưa Ông Chánh! hay xin trình với Ông chánh thế nầy thế nọ…”
Ông chủ tịch khen lấy khen để Cha Xứ để Cha cho phép xuất hiện trước công chúng
và tuyên bố điều nọ, điều kia.. Cũng có những Ông chủ tịch đã tuyên bố bãi chức
người nầy, ngăn cấm nhiệm vụ của người khác… Dường như tội kiêu ngạo luôn đứng
đầu trong bảy mối tội đầu cũng như chiếm quá nhiều chỗ trong đời sống của chúng
ta. Chúng ta đã thành đáng ghét vì thái độ tự cao, cho mình tài giỏi, vì mặt
mày vênh váo tỏ ra quan trọng hơn người, vì những lời phê bình ác ý trên những
thành công của người khác. Nhiều khi chúng ta sống rất mâu thuẩn ở chỗ: Ai cũng
muốn được người khác thương yêu và kính trọng, nhưng lại cao ngạo và tự phụ là
cái làm cho người ta ghét.
Ông không là ánh sáng, nhưng Ông đến để làm chứng về ánh sáng.
Chủ đề ánh sáng được dùng
rất nhiều lần trong Phúc Âm Thánh Gioan để mô tả Thiên chúa là Ánh sáng trần
gian. Công trình tạo dựng đầu tiên là cho có ánh sáng trong Sách Sáng Thế Ký.
Phúc Âm Thánh Gioan luôn khẳng định Chúa Kitô là ánh sáng trần gian như trong
Gioan 9: 5. Phúc Âm Thánh Matthêô cũng nói chúng ta phải là ánh sáng cho gian
trần và là muối men cho đời (Matt.5.14)
Thiên Chúa là ánh sáng.
Chúng ta là con Chúa, tức con của sự sáng.
Tự bản chất chúng ta
không có ánh sáng nhưng chúng ta nhận ánh sáng từ Chúa cũng như quả đất được
sáng nhờ ánh sáng mặt trời. Ông Gioan đến làm chứng về Chúa Kitô là ánh sáng
trần gian, người ta phải Thấy Chúa Kitô là ánh sáng qua Ông Gioan. Đó là vai
trò chứng nhân cho ánh sáng.
Tất cả chúng ta được sinh
ra làm con Chúa, được rửa tội, được nhận ánh sáng đức tin, chúng ta phải là
chứng nhân cho Thiên Chúa là ánh sáng. Đặc tính của ánh sáng là hiện diện và
soi dẫn. Khi thấy có ánh sáng, dù từ ngọn đèn leo lét, chúng ta cũng biết là có
ai đó hiện diện, Khi thấy có ánh sáng dù yêu ớt như một que diêm, chúng ta cũng
được soi dẫn. Không ai có thể an toàn khi đi trong bóng tối. Hãy là ánh sáng
của hy vọng, của một hướng dẫn soi đường cho người chung quanh bằng đời sống
chịu khó học hỏi và bằng tinh thần phấn khởi, trẻ trung không thất vọng nản chí
trước những khó khăn. Tôi chủ trương: Không bao giờ hết khó khăn cuộc đời và
không để khó khăn giết chết đời mình. Xin Chúa là ánh sáng hy vọng cho đời con.
Lm
Phêrô Trần Thế Tuyên