THỨ
SÁU SAU CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
NĂM LẺ
St 23, 1-4.19; 24, 1-8.62-67; Mt 9, 9-13
BÀI ĐỌC: St 23, 1-4.19; 24,
1-8.62-67
23 1
Bà Xa-ra sống được một trăm hai mươi bảy tuổi: đó là những năm bà
Xa-ra đã sống. 2 Bà Xa-ra qua đời tại Kia-giát
Ác-ba, tức là Khép-rôn, trong đất Ca-na-an. Ông Áp-ra-ham đến làm lễ chôn cất
bà và than khóc bà.
3 Ông đứng dậy, để người chết đó và nói với con cái ông Khết rằng: 4 “Tôi là ngoại kiều và là người khách ở giữa các
ông. Xin các ông nhượng cho tôi một miếng đất riêng làm phần mộ ở giữa các ông,
để tôi đem người chết của tôi đi chôn.”
19
Sau đó, ông Áp-ra-ham chôn bà Xa-ra, vợ ông, trong hang của cánh đồng
Mác-pê-la, đối diện với Mam-rê, tức là Khép-rôn, tại đất Ca-na-an.
24 Ông
Áp-ra-ham đã già nua tuổi tác, và ĐỨC CHÚA đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham trong
mọi sự. 2 Ông Áp-ra-ham bảo người lão bộc sống
lâu năm nhất trong nhà ông, và cũng là người quản lý mọi tài sản của ông: “Chú
hãy đặt tay dưới đùi tôi, 3 và tôi xin chú
nhân danh ĐỨC CHÚA là Chúa trời đất, mà thề rằng chú sẽ không cưới cho con trai
tôi một người vợ trong số con gái xứ Ca-na-an, nơi tôi đang sống. 4 Nhưng chú sẽ về quê tôi, đến với họ hàng tôi,
mà cưới vợ cho con tôi là I-xa-ác.” 5 Người
lão bộc thưa với ông: “Có thể người đàn bà ấy không chịu đi theo tôi về đất này;
vậy tôi có phải đưa cậu con trai ông về đất mà từ đó ông đã ra đi không?” 6 Ông Áp-ra-ham bảo người ấy: “Coi chừng, đừng có
đưa con trai tôi về đó! 7 ĐỨC CHÚA là Chúa
Trời, Đấng đã đưa tôi ra khỏi nhà cha tôi, khỏi quê hương tôi, Đấng đã phán với
tôi và thề với tôi rằng: ‘Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này’, chính Người sẽ
sai sứ thần Người đi trước mặt chú, để từ nơi đó chú cưới vợ về cho con tôi. 8 Nếu người đàn bà không chịu đi theo chú, thì
chú không còn buộc phải giữ lời thề với tôi nữa. Nhưng dù sao, cũng đừng đưa
con tôi về đó.”
62
Sau một thời gian đầu, cậu I-xa-ác đã bỏ vùng giếng La-khai Rô-i, và
đang ở trong miền Ne-ghép. 63 Cậu I-xa-ác ra
ngoài đồng dạo mát lúc chiều tà. 64 Ngước mắt
lên, cậu thấy một bầy lạc đà đang tiến đến. Ngước mắt lên, cô Rê-bê-ca thấy cậu
I-xa-ác, cô bèn từ trên lưng lạc đà nhảy xuống 65 và
hỏi người lão bộc: “Người đang đi ngoài đồng tiến về phía chúng ta là ai đó?”
Người lão bộc trả lời: “Chủ tôi đấy!” Cô bèn lấy chiếc khăn che mặt.
66 Người lão bộc thưa lại với cậu I-xa-ác tất cả những gì ông đã làm. 67 Cậu I-xa-ác đưa cô Rê-bê-ca vào lều của bà
Xa-ra mẹ cậu; cậu lấy cô làm vợ, cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn
mất mẹ.
ĐÁP CA: Tv 105
Đ. Hãy tạ ơn Chúa vì
Chúa nhân từ. (c 1a)
1 Hãy tạ ơn CHÚA vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. 2 Ai
sẽ tường thuật những chiến công của CHÚA, sẽ công bố mọi câu tán tụng Người?
3 Hạnh phúc thay người giữ đức
công minh và hằng thực thi điều chính trực! 4 Lạy
CHÚA, xin Ngài nhớ đến con bởi lòng thương dân Ngài, xin ngự đến viếng thăm mà
ban ơn cứu độ.
5 Xin cho con được thấy tỏ tường
phần phúc lộc dành cho những người được Chúa chọn, để chúng con được vui niềm
vui dân Chúa và cùng hiên ngang với gia nghiệp của Ngài.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Mt 11, 28
Hall-Hall: Chúa nói: Tất cả những ai đang vất vả mang
gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Hall.
TIN MỪNG: Mt 9, 9-13
9
Hôm ấy, Đức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là
Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi! " Ông
đứng dậy đi theo Người.
10 Khi Đức Giê-su đang dùng
bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với
Người và các môn đệ.11 Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu nói với các
môn đệ Người rằng: "Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân
tội lỗi như vậy? "12 Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói: "Người
khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.13 Hãy về học
cho biết ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi
không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi."
ĐỂ LÀM MÔN
ĐỆ CHÚA GIÊSU
Chúa
Giêsu không chỉ muốn chọn 12 người Do Thái làm môn đệ của Ngài, mà Ngài còn
muốn chọn cả muôn dân. Do đó Chúa Giêsu đã ra lệnh cho Nhóm Mười Một: “Anh
em hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy cho họ nhân danh Chúa Cha và
Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
Nhưng
không tất yếu cứ lãnh Bí tích Thánh Tẩy đương nhiên trở thành môn đệ Chúa
Giêsu, mà phải có tâm nghe và thực hành lời Giáo Huấn Hội Thánh dạy (x. Mt
28,20). Cụ thể phải để tâm tìm hiểu Lời Chúa mà Hội Thánh cho đọc trong Thánh
Lễ hôm nay, dẫn ta đến những xác tín:
-
Tin Chúa biến tội ra ơn.
-
Làm tròn bổn phận: Mến Chúa và
Yêu Người.
-
Chọn việc tốt nhất.
-
Chuyên cần hiệp dâng Thánh Lễ
I- TIN CHÚA BIẾN TỘI RA ƠN.
Ai càng ý thức mình là kẻ tội lỗi mà sám
hối xin Chúa Giêsu thương xót và được theo Ngài, thì càng làm vinh danh Chúa.
Vì thế Đức Giêsu nói: "Tôi không đến
để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." (Mt 9,13b:
Tin Mừng).
Chúa không kêu gọi
người công chính là Ngài không kêu gọi kẻ tự mãn vào việc tuân giữ Luật Môsê mà
khinh dể người khác (x. Lc 18,9), đến nỗi trở nên những kẻ quyết liệt chống đối
Đức Giêsu, và không muốn cho ai theo Ngài (x. Ga 7,47-48).
Trước mặt Thiên Chúa
“không ai là người công chính, dẫu một
người cũng không, chẳng ai có lương tri, chẳng ai kiếm tìm Thiên Chúa, dù đã
làm những gì Luật dạy, Luật chẳng qua chỉ làm cho người ta ý thức về tội”
(Rm 3,10-11.20). Vì “Luật lập ra cho loài
người vô luân, chứ không phải cho người được công chính trong Chúa Kitô”
(1Tm 1,9). Mà “ai đã được công chính
trong Chúa Kitô, thì phải là người ngao ngán cực phiền trước thói phóng đãng
của lũ người phi pháp” (2 Pr 2,7).
“Vi trùng bất lương”
xâm nhập linh hồn mọi người, duy chỉ có “Lương Y Giêsu” mới chữa lành (x. Cv
4,12). Bởi thế khi có kẻ chê trách Đức Giêsu dùng bữa với bọn thu thế và quân
tội lỗi, thì Ngài nói: “Người khỏe không cần thầy thuốc, người đau
ốm mới cần” (Mt 9,12: Tin Mừng).
Sở dĩ người Do Thái
kết án những người thu thuế là kẻ có tội vì ba lý do:
1.
Tội lạm dụng quyền để làm giàu: Người thu thuế dễ lạm dụng
quyền đế quốc Roma cho: Roma không trực tiếp đứng ra thu thuế người Do Thái, mà
trao cho người địa phương thầu. Người thu thuế chỉ cần nộp đủ số tiền thuế Roma
đã quy định, nên họ dễ dựa vào kẽ hở của Luật để làm giàu bằng cách thu cao hơn
mức thuế đã ấn định. Chính ông Giakêu cũng đã thú nhận điều này với Đức Giêsu,
khi ông xin đền gấp bốn đối với những ai ông đã làm thiệt hại (x. Lc 19,8b).
2.
Tội phản quốc: Lấy thuế của dân tộc nộp cho
ngoại xâm là củng cố quyền lực Roma đang đặt ách thống trị đè nặng trên người
đồng chủng! Đó là hành động “rước voi về
giày mồ”.
3.
Tội phản Đạo: Vì người Do Thái chỉ tin cậy
vào Chúa mà cầu nguyện: “Người ta cậy vào
chiến xa pháo mã, còn dân chúng tôi chỉ trông chờ vào danh Chúa mà thôi”
(Tv 20/19,8). Như thế, người lấy thuế của người đồng chủng mà nộp cho ngoại
bang, là một cách trông cậy vào thế lực của kẻ ngoại hơn là trông cậy vào Thiên
Chúa. Nói cách khác: đặt uy danh Chúa dưới quyền lực của đế quốc Roma!
Nhưng ai biết ăn năn
sám hối tội mình, thì đều đáng được Đức Giêsu kêu gọi để nên chứng nhân cho
Ngài, một khi họ cảm nghiệm được “ở đâu
tội lỗi nhiều, ở đó ân sủng Chúa ban càng chan chứa” (Rm 5,20).
Trong lịch sử Cứu Độ,
người nào biết khiêm tốn thú nhận tội lỗi mình trước mặt Chúa, thì được Chúa
đặt làm việc lớn. Đan cử:
-
Trong số 12 môn đệ Đức Giêsu chọn, chỉ ông Phêrô thú nhận với Thầy:
“Xin Thầy xa con, vì con là kẻ có tội”
(Lc 5,8), nên ông đã được Chúa đặt làm Giáo hoàng tiên khởi (x. Mt 16,18), và
trước khi Ngài trao quyền lãnh đạo Hội Thánh cho ông, Ngài đã khéo léo, tế nhị
qua ba lần hỏi: “Con có yêu Thầy không?”
Làm ông gợi nhớ đến ba lần chối Thầy, nên khiêm tốn nói: “Thưa Thầy, Thầy thông hay mọi sự,Thầy biết con yêu mến Thầy” (x. Ga
21,15t).
-
Ông Phaolô tự hào trong Chúa (x. 1Cr 1,31), nên khoe với giáo đoàn
Corinthô: “Thiết tưởng nào tôi thua gì
những Tông Đồ thượng đẳng” (2Cr 11,5). Ông được Chúa ban cho thành công
không thua kém các Tông Đồ Đức Giêsu đã chọn trước Phục Sinh, chỉ vì ông đã
thành thật khiêm tốn thú nhận tội mình với các giáo đoàn, như ông nói:
·
“Chẳng có gì lành cư ngụ trong tôi, sự lành tôi muốn, tôi không
làm, còn sự dữ, tôi không muốn,tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19).
·
“Để mạc khải cao siêu khỏi làm tôi quá tự tôn, thì tôi đã được một
cái dằm đâm vào thân xác, một thần sứ Satan, để nó vả mặt tôi. Về điều ấy, đã
ba lần, tôi nài xin Chúa cho nó rời khỏi tôi. Nhưng Ngài đã phán bảo tôi: Ơn Ta
đủ cho ngươi. Vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2Cr 12,7-9).
Vậy trong loài người không ai được thất
vọng về sự yếu đuối của mình, mà tự ti mặc cảm là kẻ tội lỗi bất xứng, không
đáng được Chúa kêu gọi làm Tông Đồ. Bởi vì cả đến tên trộm lành, suốt cuộc đời
hắn chỉ làm khổ người ta. Khi bị đóng đinh trên thập giá hắn biết sám hối tội,
xin Đức Giêsu thương xót, và xin theo Ngài, anh đã trở nên mẫu người động viên
tất cả những kẻ tội lỗi biết sám hối tội mình mà đến với Chúa Giêsu sẽ được ơn
hơn lòng mong ước (x. Lc 23,43; Ep 3,20).
II- LÀM TRÒN
BỔN PHẬN, MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI.
1.
Mến Chúa, vì Ngài nói: “Ta sẽ gieo đói khát trên xứ này, không phải đói bánh ăn, cũng không
phải khát nước uống, mà là đói khát được nghe Lời Chúa” (Am 8,11). Như thế
chỉ có Chúa mới làm cho con người biết đói khát nghe Lời Ngài, vì bản năng tự
nhiên của loài người rất giống các sinh vật, chỉ tìm của vật chất để nuôi thân,
chẳng mấy ai để tâm nghe và thực hành Lời Chúa dạy: “Hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước và sự công chính của Ngài, còn các
điều khác Ngài sẽ ban thêm cho” (Mt 6,33). Phải biết rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng
còn nhờ Lời Chúa dưỡng nuôi” (Mt 4,4: ĐC năm chẵn). Do đó, biết đói khát
Lời Chúa là một ơn nhưng không Chúa ban. Tuy nhiên chỉ có những người khao khát
sống đời công chính, khao khát sống đời hoàn thiện (x. Tv 119/118,20) mới đón
nhận được ơn này. Thế thì ông Matthêu đang ngồi thu thuế, Đức Giêsu gọi: “Hãy theo tôi”, ông đáp ứng lời mời gọi
ngay, bỏ việc thu thuế đi theo Ngài. Điều này Matthêu đã minh chứng ông hằng
khao khát sống hoàn thiện.
2.
Yêu người, phải sống có nhân bản: Chúa dùng miệng ngôn sứ Amos lên tiếng đòi mọi
người phải tôn trọng người anh em, nhất là quan tâm, đáp ứng nhu cầu người bần
cùng, người thấp cổ bé miệng; chứ đừng chỉ mong ngày Lễ nghỉ theo Luật bao giờ
qua, để bán thóc mọt, lại còn làm cho đấu đong nhỏ lại, chế quả cân thêm nặng
để đánh lừa thiên hạ, miễn sao vơ vét được nhiều tiền. Khi đã dư tiền của thì
mua đứa nô lệ, đem đôi dép đổi lấy kẻ cùng khổ! Sống ác như thế là tham gia vào
việc giết Con Thiên Chúa,như Lời sấm ngôn báo trước: “Mặt trời lặn giữa trưa, khiến cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang
sáng” (Am 8,4-9: Bài đọc năm chẵn). Điều ấy đã xảy ra lúc Đức Giêsu bị treo
trên thập giá (x. Mt 27,45).
III- CHỌN VIỆC TỐT NHẤT.
Việc tốt phải hội đủ
ba yếu tố:
-
Bản chất việc đó tốt.
-
Thuộc bổn phận.
-
Hoàn cảnh bắt buộc phải làm
trước.
Nhưng việc tốt cũng có ba cấp độ:
C Việc tốt thôi: Nếu ông Lêvi thu thuế đúng Luật quy định, để góp
phần điều hành sinh hoạt xã hội.
C Việc tốt hơn: Ông Lêvi đã tổ chức bữa tiệc lớn để quy tụ những
người tội lỗi đến đồng bàn với Đức Giêsu (x. Mt 9,10), là dấu họ được giao hòa
với Thiên Chúa.
C Việc tốt nhất: Tốt nhất là được lợi cả hồn lẫn xác, dù có mất đời
này nhưng đời sau Chúa lại ban trọng hậu. Điều tốt nhất không phải chỉ riêng
cho mình, mà còn cho cả đồng loại. Đan cử ông Lêvi đã bỏ nghề thu thuế, đi theo
Đức Giêsu để thu góp Lời Chúa và loan báo cho muôn dân. Nếu ông nán lại trong nghề
thu thuế, thì ông chỉ phục vụ gia đình và xã hội trong một thời gian nhất định,
với một số người nhất định. Nhưng nhờ ông biết thu góp Lời Chúa để nuôi sống
muôn vàn người qua mọi thế hệ cho đến ngày cánh chung. Trước Công Đồng Vat.II,
Hội Thánh dùng Tin Mừng của ông Matthêu nhiều nhất. Đó cũng là lý do Đức Giêsu
khen cô Maria chăm chú đón nhận Lời là cô đã chọn phần tốt nhất, và không bị ai
giựt mất, hơn cô Matta chỉ lo đến bữa ăn phục vụ khách! (x. Lc 10,38-42).
Là người Tông Đồ
giỏi của Đức Kitô, phải làm cả ba việc tốt trên, tùy lúc, tùy hoàn cảnh cho
phép. Nhưng đừng bao giờ dừng lại việc tốt thôi hay tốt hơn mà bỏ việc tốt
nhất, nên trong mọi hoàn cảnh cuộc sống phải luôn chu toàn nhiệm vụ ngôn sứ đã
được Chúa trao ban trong ngày lãnh Bí tích Thánh Tẩy. Vì thế giáo huấn Công
Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 nhắc nhở cho các con cái mình: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao
quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới, cả lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế”
.
IV- CHUYÊN CẦN HIỆP DÂNG THÁNH LỄ.
Hình ảnh bữa tiệc
Đức Giêsu ngồi chung với những người tội lỗi tại nhà ông Lêvi (x. Mt 9,10: Tin
Mừng), trở thành dấu chỉ bữa tiệc Thánh Thể Chúa mời gọi mọi người tham dự.
Ta biết ai được dự
tiệc với Chúa Giêsu là dấu chỉ người đó được ơn giải phóng, được giao hòa với
Thiên Chúa, được cứu độ. Chân lý này đã được diễn tả qua hình ảnh ông Giơhôgiakhin,
vua Giuđa thất trận, bị vua Babylon
tống ngục. Trong ngày vua Babylon đăng quang,
ông Giơhôgiakhin được ân xá ra khỏi tù, và được vua Babylon
tiếp thân thiện, lại ban cho ông Giơhôgiakhin ngồi trên một ngai cao hơn các
vua có mặt tại Babylon.
Vua Babylon cho ông Giơhôgiakhin thay áo tù và suốt đời ngày ngày được đồng bàn
với vua Babylon,
cùng với cấp dưỡng liên tục (x. 2V 25,27-30).
Thực vậy, Mạc Khải cho
chúng ta biết ơn cứu độ được Chúa ban trọn vẹn cho con người, luôn được diễn tả
bằng bữa tiệc:
-
Ngôn sứ Isaia đã báo trước về ngày Thiên Chúa thực hiện chương
trình cứu độ loài người: Ngài dọn tiệc thiết đãi muôn dân, ai dự tiệc này không
còn tang chế khóc lóc, ngày ấy người ta sẽ nói: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chính Người là Chúa chúng ta từng đợi
trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ”(x. Is 5,6t).
-
Ông Lêvi dọn tiệc để quy tụ những người tội lỗi đến đồng bàn với
Đức Giêsu, là dấu chỉ họ được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (x. Lc 14,15-24).
-
Người đầy tớ trung tín làm trọn nhiệm vụ chủ trao phó, khi chủ về,
ông đặt đầy tớ vào bàn tiệc để hầu hạ (x. Lc 12,35-37).
-
Đứa con hoang đường trở về cũng như người con cả muốn được hưởng
lời cha hứa “mọi sự của cha đều là của
con”, thì phải dự tiệc cha đã dọn (x. Lc 15,11t).
-
Năm cô trinh nữ khôn ngoan được chàng rể dìu vào tiệc cưới (x. Mt
25,1-13)
-
Ngày cánh chung, tất cả những người công chính: người đã thương
giúp đồng loại, trở thành những “kẻ bé nhỏ” – người thuộc về Hội Thánh Chúa
Kitô - thì tất cả được vào dự tiệc hoan lạc trong Nước Thiên Chúa (x. Mt
25,31-46).
Ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa,
người ấy được Chúa Giêsu ở cùng, cuộc đời họ cảm thấy vơi nhẹ nỗi khổ đau, vì
Đức Giêsu đã nói: “Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”
(Mt 11,28: Tung Hô Tin Mừng).
Chúa Giêsu nâng đỡ bổ sức cho những ai
đến với Ngài khác nào chồng nâng đỡ vợ. Thực vậy, bất cứ ai đã được lãnh Bí
tích Thánh Tẩy, đều được trở nên Hiên Thê của Chúa Giêsu, như thánh Phaolô nói:
“Tôi đã đính hôn anh em với một người độc
nhất là Đức Giêsu Kitô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh
khiết” (2Cr 11,2). Chỉ khi nào là Hiền Thê của Đức Kitô, thì người đó mới
được thừa hưởng phúc lành của Chúa đã hứa cho tổ phụ Abraham: “Ta sẽ làm cho dòng giống ngươi nên đông như
sao trên trời, nhiều như cát bãi biển, và dòng giống ngươi sẽ chiếm cửa thành
quân địch, vì ngươi đã vâng nghe tiếng Ta” (St 22,17-18: Bản dịch NTT).
Vì tổ phụ Abraham đã tin vào Lời Chúa
hứa, nên sau khi Sara, vợ ông qua đời, ông đã tậu một mảnh đất tại cánh đồng
Marpêlla, tại Canaan, là đất của con cái ông Khết (vì phần mộ của tổ tiên vốn
là gia sản quan trọng cho con cháu được an nghỉ - x. 1V 13,22), rồi ông Abraham
buộc ông lão là người quản lý tài sản phải thề tìm cho được cô gái trong dòng
họ để giới thiệu cho Isaac, con ông, cưới làm vợ, hầu phúc lành của Chúa đã hứa
cho dòng dõi Abraham, không để cho dân ngoại được hưởng, Ông lão đã khấn với
Chúa xin cho một dấu chỉ cô nào có lòng thương người. Quả nhiên, khi ông gặp
các cô gái trong thành ra giếng kín nước, ông cất lời xin cô Rêbecca: “Vui lòng cho tôi hớp nước đỡ khát”, thế
mà cô Rêbecca lại cho ông lão uống đã khát, và còn múc nước cho đoàn súc vật
của ông lão uống nữa. Ông lão nhận ra đó là dấu Chúa bảo ông “cô Rêbecca sẽ là
vợ của Isaac”, nên ông ngỏ ý với cha mẹ cô, xin dẫn cô về cho Isaac! (x. St
23,1-4.19; 24,1-8.62-67: Bài đọc năm lẻ).
Vợ chồng Isaac và Rêbecca sinh Giacob,
Giacob sinh 12 người con là tiền trưng cho 12 môn đệ của Đức Giêsu, để chính
Nhóm này, Đức Giêsu xây dựng Hội Thánh của Ngài, mà những ai đã thuộc về Hội
Thánh Chúa Kitô, đều phải học tinh thần sống Đạo của ông Lêvi (Matthêu) mới
xứng đáng là Hiền Thê của Chúa Kitô, đi loan báo Tin Mừng sinh con cho Thiên
Chúa, để được lãnh phúc lành Chúa đã hứa cho tổ phụ Abraham, mà Chúa Giêsu
chính là phúc lành Chúa Cha ban tặng cho những người Ngài tuyển chọn, như Chúa
đã chọn ông Matthêu.
Vậy “hãy
tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ” (Tv 106/105,1a: ĐC năm lẻ).
THUỘC LÒNG
Giáo dân có thể và phải có một
hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới, cả lúc họ bận tâm lo lắng
việc trần thế
(Hiến Chế Hội Thánh số 35).
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH