“ĐẠO YÊU
NHAU”
Sống đạo đúng mức cũng là chấp nhận lội
ngược dòng. Sống đạo thẳng thắn cũng là chấp nhận phải thua thiệt so với những
người khác. Sống đạo trọn vẹn cũng là một cách nào đó tử đạo hằng ngày.
Một thiền sư nổi tiếng đã kể giai thoại sau đây về cuộc đối thoại dí dỏm
giữa Đức Phật và ác thần Mara:
Ngày nọ, Đức Phật đang bận việc dưới hầm, còn Ananda, đệ tử thân tín của
Ngài đứng ngoài cửa. Thình lình Ananda thấy Mara xuất hiện, Ananda cứ tưởng rằng
Mara bị lạc lối. Nhưng Mara tiến lại gần Ananda và yêu cầu cho được gặp Đức Phật,
Ananda ngạc nhiên trước yêu cầu của Mara nên hỏi lại:
-
Ngươi
còn đứng đây để làm gì? Ngươi không nhớ là Đức Phật đã nhiều lần đánh bại ngươi
dưới gốc cây bồ đề rồi sao? Ngươi còn vác mặt tới đây làm gì? Ngươi không biết
xấu hổ sao? Cút đi, Đức Phật không muốn thấy mặt ngươi nữa đâu, ngươi là đồ ác,
ngươi là kẻ thù của Ngài.
Nghe thế, Mara liền cười ngất: Sao, ngươi bảo là sư phụ ngươi cũng có kẻ
thù ư?
Ananda cảm thấy bối rối, anh biết Đức Phật chưa bao giờ nói rằng ngài có
kẻ thù. Đuối lý, Ananda liền xuống hầm báo tin cho Đức Phật biết Mara xin được
gặp Ngài. Anh hy vọng Đức Phật sẽ sai anh lên nói với Mara rằng: Ngài đang bận,
không thể tiếp hắn được. Nhưng trái với những dự đoán của Ananda, Đức Phật rất
vui mừng khi nghe tin có Mara muốn gặp, cứ như thể hắn là một người bạn chí
thân của Ngài, và Ngài liền thân hành đến gặp Mara. Ananda hết sức thất vọng
khi thấy Đức Phật đến trước mặt Mara cung kính bái chào hắn, rồi nhiệt tình bắt
tay hắn. Ngài niềm nở:
-
Chào
ông bạn, ông bạn có khoẻ không? Mọi việc đều tốt đẹp cả chứ?
Nhưng Mara im lặng, không trả lời. Đức Phật mời hắn xuống hầm và sai
Ananda pha trà. Ananda bực bội lắm, anh nghĩ trong bụng: ta có thể pha trà cho
sư phụ mỗi ngày một trăm lần cũng được, nhưng pha trà cho Mara, thì ta thấy
không vui chút nào, nhưng vì đó là lệnh của Đức Phật thì làm sao có thể từ chối
được. Trong câu chuyện nghe lỏm giữa Đức Phật và Mara, Ananda nghe Mara thú nhận
một cách chản nản như sau:
-
Mọi
việc diễn ra không tốt đẹp chút nào, tôi quá mệt mỏi vì phải làm Mara, tôi muốn
được làm một cái gì khác cơ. Ngài biết đấy, đóng vai Mara không phải là chuyện
dễ, có nói thì nói gian nói dối, cón có làm thì làm điều dữ điều ác. Tôi mệt mỏi
lắm rồi. Nhưng điều làm cho tôi khó chịu hơn cả chính là các môn sinh của tôi.
Ngày nay, cứ mỗi lần mở miệng ra thì họ nói tới công bình xã hội, hoà bình,
bình đẳng, giải phóng, bất bạo động. Tôi nghe quá nhàm tai rồi, tôi nghĩ đến đã
đến lúc tôi xin bàn giao chúng lại cho Ngài, tôi chỉ muốn làm một cái gì khác
thôi.
Đức Phật lắng nghe với tất cả chú ý và cảm thông. Cuối cùng Ngài nói:
-
Bộ
anh tưởng rằng làm Phật thì dễ hơn sao? Anh không thấy những gì các môn sinh của
tôi làm cho tôi sao? Họ đặt trên miệng tôi những lời mà tôi chưa bao giờ thốt
ra, họ xây chùa chiền cho tôi, tạc tượng tôi và đặt tôi lên bàn thờ để thu nhặt
cam chuối, tiền bạc cho riêng họ. Tôi và giáo huấn của tôi đã trở thành đối tượng
để đổi chác. Này ông bạn Mara, nếu ông biết được thế nào là làm Phật, tôi tin
chắc ông chẳng muốn làm Phật chút nào đâu.
Giai thoại trên cho thấy một nghịch lý trớ trêu nhưng lại là một thực tế
bi thảm: môn đệ của ác thần thì toàn nói chuyện nhân nghĩa, còn đệ tử của Đức
Phật lại chỉ mãi mê nghĩ đến chuyện khấn vái và cúng tế để thu nhặt cam chuối
và tiền bạc thay vì chuyên tâm tự giác giác tha. Sự thiếu nhất quán và óc thực
dụng này đã bóp méo và làm biến chất không biết bao nhiêu giáo huấn tôn giáo
cao siêu! (x. Nguyễn Thái Hợp, Chút này làm tin, Dấn Thân, Houston,2003,tr
203.)
Câu chuyện trên đây gợi lên hình ảnh hai môn đệ của Đức Giêsu qua trang
Tin mừng Chúa nhật hôm nay. Gioan và Giacôbê đã nổi giận đùng đùng đòi sai lửa
từ trời xuống thiêu rụi cả làng Samaria chỉ vì dân làng không tiếp đón Thầy của
mình.
Thầy trò Đức Giêsu lên Giêrusalem ngang qua Samaria. Dân Samaria lại thù
ghét người Do Thái. Mối hận thù đã có từ lâu đời, hai dân tộc luôn đối nghịch
nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc thảm sát dã man đẫm máu. Vì thế, những
đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Giócđan, tới tận
Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu trở về thủ đô. Ngài muốn đi qua xứ Samaria. Ngài đã sai sứ giả
Gioan và Giacôbê đi trước để chuẩn bị với hy vọng dân làng sẽ đón tiếp Thầy
trò. Thế nhưng, hai môn đệ trở về, lòng đầy căm tức thốt lên lời giận dữ:Thưa
Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống thiêu hủy chúng nó không? Phải
áp dụng cho họ một hình phạt nặng nề nhất mà tiên tri Êlia ngày xưa đã dùng đến,
đó là sai lửa trời xuống thiêu hủy họ (2 V 1,10-12). Chúa đã nặng lời khiển
trách, rồi Thầy trò sang làng khác. Không kết án những người Samaria, Chúa
Giêsu đi tới một làng khác, thực hiện đúng như lời đã dạy: nếu người ta từ chối
không tiếp đón và nghe lời các con, thì các con hãy ra khỏi nhà của họ, rồi phủi
bụi dưới chân các con. Hai môn đệ “con cái của thiên lôi” quá đổi ngỡ ngàng về
thái độ của Thầy trước sự “vô lễ” của dân Samaria. Họ càng kinh ngạc hơn khi
Chúa tuyên bố: anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào,vì Con Người đến
không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu sống.
Trong não trạng của các môn đệ cũng như nỗi khát khao hàng thế kỷ của
dân Do thái là mong đợi một Đấng Messia giải phóng dân tộc, phục hồi sức mạnh
trần thế của Israel. Chúa Giêsu thận trọng để không bao giờ đồng hoá với hình ảnh
một Đấng Thiên sai đã bị “chính trị hoá”. Chúa khai mở một con đường cứu độ bằng
yêu thương, khổ đau, hy sinh, nhẫn nhục…
Sự kiện Chúa chống lại cám dỗ Satan trong sa mạc là khởi đầu một cuộc đấu
tranh cam go và kiên trì kéo dài trong suốt hành trình dương thế. Chúa đã qưở
trách Phêrô khi ông đóng vai trò Satan dụng tâm cám dỗ Ngài bỏ con đường cứu độ
theo chương trình của Thiên Chúa: “Satan,
xéo đi! vì tâm tư ý nghĩ của ngươi không phải là của Thiên Chúa, mà là của loài
người” (Mt 8,32). Chúa đã bỏ trốn lên núi một mình khi dân chúng tôn Ngài
lên làm vua sau phép lạ hoá bánh (Ga 6,5-15). Nhiều lần Chúa từ chối lời yêu cầu
một dấu lạ nhãn tiền vì người ta muốn thử tài Ngài (Mt 12,38; Mc 8,11) hay để
thoả mãn óc hiếu kỳ của người đời (Lc 23,8). Chúa chẳng bao giờ chấp nhận việc
dùng phép lạ để hù doạ hay trừng phạt dân chúng. Ngay cả giây phút bi đát nhất
bị quân binh vây bắt, một môn đệ vung kiếm chém đứt tai tên đầy tớ thượng tế,
Chúa liền truyền lệnh: “Hãy xỏ gươm vào vỏ,
vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể
kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy mười hai đạo binh thiên thần!
Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được?” (Mt 26,52-54).
Đạo của Chúa là đạo tình thương, bao dung, nhân ái. Tin mừng cứu độ được
gửi đến mọi người, đặc biệt là những người nghèo và tội lỗi. Hình ảnh người Mục
tử tuyệt đẹp, bỏ lại 99 con chiên để vất vả ngược xuôi đi tìm con chiên lạc và
khi tìm được thì vui mừng vác chiên lên vai, hân hoan mời mọi người chia sẻ niềm
vui (Lc 15, 4-7). Con đường Chúa chọn là con đường yêu thương của vị Mục tử
nhân lành, dám hy sinh cuộc đời và tính mạng cho đàn chiên (Ga 10,11). Nơi
Ngài, sứ vụ Messia và thân phận đau thương của Người Tôi Tớ Giavê đã quyện lẫn
với nhau, như Isaia đã diễn tả trong “Bài
ca về Người Tôi Tớ” (Is 52,13-53,12). Ngài là người Tôi tớ trung tín của
Giavê “bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì
tội lỗi của dân, Ngài bị đánh phạt”(Is 53,8); “Ngài cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng hề mở miệng”(Is 53,7) và tuyệt
đối từ chối mọi hình thức sử dụng bạo lực.
Xuyên suốt dòng lịch sử, người Công Giáo Việt Nam sống Tin Mừng Chúa
Giêsu bằng gương sáng bác ái đến nỗi đã giới thiệu được hình ảnh Đạo Công Giáo
như “Đạo Yêu Nhau” cho những người đồng thời. Sống đạo là dựa vào sức mạnh của
Thánh Thể và Lời Chúa, và thể hiện ra bên ngoài bằng những hành động bác ái yêu
thương, khiêm nhường hy sinh. Sống đạo đúng mức cũng là chấp nhận lội ngược
dòng. Sống đạo thẳng thắn cũng là chấp nhận phải thua thiệt so với những người
khác. Sống đạo trọn vẹn cũng là một cách nào đó tử đạo hằng ngày.
Hình ảnh Đấng Thiên Sai đau khổ nơi Đức Giêsu diễn tả một cách thật hùng
hồn điểm độc sáng của Kitô giáo: Thiên Chúa của Đức Giêsu không hù doạ hay ép
buộc một ai. Ngài mời gọi con người sám hối, nhưng luôn tôn trọng phẩm giá và tự
do chọn lựa của họ. Ngài tình nguyện đồng hành với anh em nhân loại trong cảnh
ngộ của cuộc sống trần thế, kể cả thất bại, khổ đau và cái chết (x.sđd tr 217).
Chúa Giêsu không muốn sử dụng phép lạ quyền uy để thu phục nhân tâm.
Ngài dùng tình thương để cảm hoá lòng người. Chúa Giêsu không xây dựng giáo
thuyết trên quyền bính trần thế mà là ở sự từ bỏ và con đường thập giá. Chúa
Giêsu đã chết để giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lỗi. Ngài đã phục
sinh để đem lại cho nhân loại cuộc sống viên mãn, nâng con người lên địa vị cao
quý làm con Thiên Chúa.
Bước theo Chúa Giêsu, người tín hữu tìm được lẽ sống, ý nghĩa và cùng
đích cho cuộc đời mình. Đó là một cuộc sống tràn đầy yêu thương hướng đến trọn
lành.
Giữa một xã hội đang chạy theo nền kinh tế thị trường, khuynh hướng cá
nhân và hưởng thụ duy vật chất, chúng ta sống Đạo Yêu Nhau với lòng bao dung,
nhân hậu, thắp sáng lửa Tin Mừng để trở nên ánh sáng, nên muối nên men cho cuộc
đời.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An