MỘT CHÚT SUY TƯ

HẬU QUẢ CỦA TÍNH THAM LAM
Hoàng đế Harun An-Rasít, một đêm nọ cùng tể tướng Giafa hóa trang, mặc bộ đồ lái buôn, tới bờ sông Euphrat, qua đò mà không một ai biết, rồi vào kinh thành để quan sát sinh hoạt và mức sống của quần chúng. Qua một chiếc cầu, hai người gặp một lão hành khất. Hoàng đế đặt vào tay lão một đồng tiền vàng. Nhưng lão lại nắm chặt tay hoàng đế và thưa:
“Ngài đã vì Thượng Đế làm phúc, xin ngài thương tát vào má tôi, vì tội tôi đáng trừng phạt như vậy”.
Hoàng đế nói: “Lão già ạ, ta không thể làm theo lời thỉnh cầu của lão, vì ta làm phúc, mà lại tát lão, thì còn gì là công phúc”. Nhưng lão hành khất vội túm lấy áo nhà vua và nói: “Thưa ngài, xin tha thứ cho tôi vì tôi đã cả gan làm phiền ngài. Xin ngài hãy cho tôi một cái tát tai, hoặc lấy lại đồng tiền ngài cho, vì tôi chỉ nhận của bố thí với điều kiện bị khinh bỉ”.
Hoàng đế không muốn để chậm trễ, liền tát nhẹ lão một cái rồi bỏ đi. Nhưng rồi bảo tể tướng Giafa: “Ngươi phải quay lại bảo cho lão biết ta là ai và bảo lão ngày mai có mặt tại hoàng cung sau buổi kinh cầu trưa. Ta muốn hỏi lão hành khất này, tại sao lại hành động kỳ dị như vậy?”.
Ngày hôm sau lão hành khất mù vào hoàng cung và đã tâu trình với vua Harun An-Rasít như sau:
Tâu đức vua, tôi tên là Baba Apđanla sinh ra tại Bátđa. Tuy cha mẹ tôi nghèo, không để lại gì, nhưng tôi đã siêng năng, chịu đựng mọi vất vả và tôi đã có tới 80 con lạc đà, chuyển chở hàng cho các lái buôn: do đó tôi đã thu được những khoản tiền lớn. Nhưng tôi vẫn luôn luôn tham của, ước muốn mỗi ngày một giàu có hơn. Một hôm từ Banxôra trở về, lạc đà đi không, sau khi đã chở xong hàng cho các lái buôn. Gặp một bãi cỏ non, khá xa nơi dân cư, tôi cho đoàn lạc đà nghỉ lại gặm cỏ.
Chợt có một tu sĩ đi bộ đến Banxôra, tu sĩ này đến gần tôi, nghỉ chân và nói chuyện. Chúng tôi bỏ đồ ăn ra ăn chung; tu sĩ bảo tôi là gần đây có một kho tàng của cải nhiều tới nỗi 80 con lạc đà có chở đầy vàng bạc châu báu, lấy ở kho tàng này, thì kho tàng cũng có vẻ như chưa ai động tới; tu sĩ này lại nói là sẽ giúp tôi tới được kho tàng này, tự do lấy của cải bao nhiêu tùy sở thích, miễn là phải chia cho tu sĩ nửa số lạc đà của tôi.
Nhận thấy có cơ hội trở nên giàu có mau chóng, tôi đồng ý và rồi chúng tôi lên đường đi tới một thung lũng khá rộng, lối vào thì rất hẹp, vừa đủ cho từng con lạc đà qua. Nhưng rồi bên trong rộng dần, cả đoàn có thể đứng không vướng nhau. Hai quả núi lớn đứng sừng sững khép lại thành hình cánh cung tạo nên thung lũng đó. Tu sĩ bảo: “Hãy cho lạc đà của anh dừng lại, bắt chúng nằm xuống, để chúng ta dễ chất của cải lên, tôi sẽ bắt đầu mở kho tàng”. Rồi tu sĩ đọc thần chú. Bỗng một tảng đá dựng đứng thật cao tách ra thành một cửa rộng, có hai cánh bằng đá. Qua cửa này tôi nhìn thấy bên trong có một tòa lâu đài tráng lệ, chứa đầy tiền vàng và ngọc quý. Tôi mừng rỡ và đi thẳng vào đống tiền vàng hốt vào các túi đem theo. Tu sĩ cũng làm theo tôi, nhưng ông chỉ chú ý lấy ngọc, nên tôi cũng theo ông dồn ngọc vào một số túi. Cuối cùng chúng tôi lấy đầy các túi xếp lên lưng lạc đà.
Trước khi ra đi, tôi thấy tu sĩ vào bên trong, ở đấy có nhiều lọ lớn bằng vàng, ông cho tay vào một cái lọ lấy ra một cái hộp con làm bằng thứ gỗ quý. Sau khi cho tôi xem bên trong đựng một loại cao, tu sĩ cất vào trong người. Khi đã phù phép đóng cửa lại, chúng tôi cho lạc đà đứng lên tách ra làm hai đoàn: tôi dành cho tu sĩ 40 con và tôi dắt 40 con chở đầy vàng và ngọc quý. Chúng tôi mừng rỡ chia tay nhau. Tu sĩ đi về phía Banxôra còn tôi trở lại Bátđa. Nhưng vừa đi lòng tham của tôi nổi dậy, tôi đuổi theo tu sĩ và nói: “Tu sĩ ạ, việc chăm nuôi 40 con lạc đà rất khó khăn, tu sĩ nhường lại bớt cho tôi 10 con, vì tôi quen việc chăm sóc”.
Tu sĩ đáp: “Anh nói có lý, vậy anh chọn lấy 10 con anh thích, tôi chỉ lấy 30 con thôi”.
Khi đã được thêm 10 con, tôi lại tham lam đuổi theo tu sĩ và nói: “Tu sĩ ạ, tu sĩ là người tu hành mà phải chăm sóc 30 con, theo kinh nghiệm của tôi, còn rất vất vả và khó khăn, vậy tu sĩ nên nhường bớt cho tôi 20 con nữa, tu sĩ chăm sóc 10 con là đủ”.
Tu sĩ cũng bằng lòng ngay, cho thêm tôi 20 con nữa và bảo tôi: “Người anh em ạ, thượng đế cho ta của cải, thì ngài có thể lấy lại những của cải ấy, nếu chúng ta không biết dùng nó, để giúp đỡ những người ngèo khó. Trời sinh ra những người nghèo khó là để những người giàu, qua việc làm phúc giúp đỡ, sẽ được phần thưởng lớn lao hơn khi trở về thế giới bên kia…”.
Tôi cảm ơn tu sĩ, vui mừng vì đã có 70 con lạc đà chở đầy vàng ngọc, tôi đã trở thành con người giàu có nhất đời. Nhưng rồi lòng tham vô đáy, tôi chợt nghĩ tới hộp cao, hẳn là vật gì quý báu lắm, nên tôi nói: “Tu sĩ ạ, tu sĩ giữ làm gì lọ cao nhỏ, xin tu sĩ làm quà cho tôi”. Tu sĩ lấy chiếc hộp ra, đưa cho tôi một cách nhã nhặn và nói: “Xin tặng anh, để anh vui lòng. Tác dụng của nó thật kỳ diệu: Nếu bôi cao này vào mắt bên trái. Anh sẽ nhìn thấu suốt được mọi kho tàng giấu sâu trên trái đất, còn nếu bôi lên mắt phải, anh sẽ bị mù”. Tôi muốn thí nghiệm nên xin tu sĩ bôi cao vào mắt trái cho tôi.
Quả thực, thật kỳ diệu, tôi nhìn thấy biết bao kho tàng  trên thế giới. Nhưng tôi lại dại dột nghĩ rằng chắc bôi lên mắt phải sẽ thấy những điều kỳ dị khác, chứ có đâu bị mù, nên tôi lại xin tu sĩ bôi cao vào mắt phải cho tôi. Tu sĩ từ chối và nói là ông nói rất thật, nếu bôi lên mắt phải thì bị mù ngay. Vì quá tham lam và tò mò, tôi cứ cho là tu sĩ nói dối và nằng nặc đòi cho bằng được xin ông bôi vào mắt phải cho tôi. Vì tôi cứ nài nỉ hoài, nên ông ta đành lấy cao bôi vào mắt phải tôi.
Than ôi! Vừa bôi cao vào mắt phải: khi mở mắt ra, thì tôi chỉ thấy có bóng đen dày đặc, tôi trở thành con người mù lòa, như đức vua thấy đây. Tôi liền la rầy tu sĩ và xin ông chữa tôi khỏi mù. Nhưng tu sĩ lạnh lùng đáp: “Mày là đứa tham lam, xứng đáng chịu hình phạt mù lòa này, đúng là ta biết được nhiều điều huyền bí, nhưng ta vẫn chưa biết cách làm cho mắt của mày sáng trở lại. Hãy cầu xin Thượng Đế và thống hối tội lỗi tham lam của mày”. Nói rồi ông ta để tôi lại một mình và lùa 80 con lạc đà đi theo ông…
Tôi đã được một đoàn lữ hành từ Banxôra, rủ lòng thương nhận đưa tôi về Bátđa. Tôi nhận ra tội lỗi của tôi, thành thực thống hối, cầu xin Thượng Đế tha thứ.
Chúa thương Dân Chúa bị mù lòa:
“Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm." (Is 42,6-7)
“Ta dẫn người mù tối qua những lối chưa tường, trên nẻo đường mới lạ, sẽ dìu họ bước đi. Ta biến đổi bóng tối thành ánh sáng soi họ, và uốn khúc gập ghềnh thành quan lộ thẳng băng. Những điều ấy, Ta sẽ thực hiện, không bỏ sót điều nào”. (Is 42,16)
Tại sao lại mù lòa? Trong các căn nguyên, lòng tham đứng đầu, vì nó gây ra căn bệnh mù rất nặng từ trong tâm hồn, làm cho người ta không thấy được vì không muốn thấy:  
“Người điếc, hãy nghe! Kẻ mù, hãy nhìn cho thấy! Ai mù, nếu không phải là tôi tớ Ta? Ai điếc như người được Ta sai đi làm sứ giả? Ai mù như người được Ta quý chuộng? Ai điếc như người tôi tớ của Đức Chúa? Ngươi đã thấy nhiều mà vẫn chẳng lưu tâm, đã mở tai mà vẫn không nghe gì. (Is 42,18-20)