LỜI CHÚA SAU BÁT NHẬT GIÁNG SINH
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
NGÀY 02/01 - GIOAN LÀM CHỨNG
VỀ CHÚA GIÊSU
NGÀY 03/01 - ÐẤNG XÓA TỘI TRẦN GIAN
NGÀY 05/01 - GẶP CHÚA và SAY MÊ GIỚI THIỆU
NGÀY 06/01 - CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
LỄ HIỂN LINH – ÁNH SÁNG TRONG ĐÊM TỐI
NGÀY 02/01 - GIOAN LÀM CHỨNG VỀ CHÚA GIÊSU
Lời Chúa: Ga 1,19-28
Ðây là chứng của Gioan, khi những người Do thái
từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các Thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?"
Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên
xưng rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô." Họ liền hỏi: "Như vậy
là thế nào? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải
là Elia." "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp: "Không
phải." Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những
người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?" Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu
trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan
báo." Và những người đã được sai đến đều thuộc nhóm biệt phái.
Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Ðức
Kitô, cũng không là Elia, hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?"
Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng
mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước
tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người." Việc này xảy ra tại
Betania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
TRUYỆN KỂ
1. Khiêm tốn khi làm chứng nhân cho Chúa
Có một linh mục đã cao niên nổi tiếng là đạo đức.
Trong một dịp nọ, ngài bị một bà nói xấu, bôi nhọ đến danh thơm tiếng tốt của
ngài. Bà ta vu khống những chuyện xấu xa mà trong cuộc đời của ngài chưa hề có!
Khi chuyện đến tai ngài, ngài chỉ nhắm mắt lại và âm thầm trong lời cầu nguyện,
đồng thời ngài vẫn tỏ vẻ vui tươi và hăng say trong mọi công việc.
Đến một hôm, chính người nói xấu đến để xin lỗi
ngài, ngài chỉ tươi cười và nói: “Tôi không biết bà là người nói những điều đó
cho tôi, nhưng kể từ khi tôi biết chuyện đến giờ, tôi không bao giờ quên cầu
nguyện cho người đã nói những điều đó và tôi hy vọng người đó được bình an. Hôm
nay, lời cầu nguyện của tôi được thành hiện thực, tôi rất vui mừng và tạ ơn
Chúa, xin Chúa tiếp tục chúc lành cho bà."
Sau cuộc gặp gỡ đó, người phụ nữ đã một thời
buông ra những lời độc địa không thương tiếc đến người đã sinh thành và nuôi dưỡng
mình trong đời sống đức tin, nay nhờ tấm lòng bao dung, đại lượng, nhân hậu của
ngài, bà ta đã sám hối và thay đổi đời sống, siêng năng cầu nguyện và hy sinh
hơn trước nhiều.
2. Sứ mạng tiền hô
Viện Phụ Gioan Côlôbos nói với người anh em:
“Tôi muốn sống ổn định như các Thiên Thần, không làm việc và được phục vụ Chúa
không ngừng." Ngài từ bỏ những gì mình có và đi vào sa mạc sống ở đó với
mong ước tu đắc đạo trở nên như các Thiên Thần.
Một tuần sau, ngài trở lại thăm. Ngài gõ cửa,
người anh em hỏi: “Ai đó?”, “Tôi là Gioan." Người anh em trả lời: “Gioan
đã trở thành Thiên Thần, Gioan đâu còn ở chung với loài người." Gioan tiếp
tục gõ cửa và nói: “Chính tôi." Nhưng người anh em vẫn từ chối cho ngài
vào và để ngài chờ đợi. Cuối cùng anh vừa mở cửa vừa nói: “Nếu anh là một người
thật, anh bắt đầu làm việc lại để sống. Nhưng nếu anh là Thiên Thần sao anh trở
lại…."
Nghe vậy, Gioan nhận biết ra mình đã sai lầm và
kêu lên: “Xin tha thứ cho tôi vì tôi là kẻ có tội."
3. Hãy nhìn mặt trăng
Vào một đêm trăng, Thích Ca ngồi giữa các đệ tử.
Ngài lấy ngón tay chỉ mặt trăng và nói: “Kìa là mặt trăng. Cứ ngó theo ngón tay
Ta thì thấy, nhưng đừng tưởng ngón tay của Ta là mặt trăng."
Tin mừng hôm nay cũng đề cập đến một cuộc đối
thoại tương tự giữa Gioan Tẩy Giả và những biệt phái... Họ đặt ra ba hình ảnh về
Gioan: Ông có phải là Đức Kitô không? Ông có phải là Êlia không? Ông có phải là
tiên tri không? Gioan cho mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc “Hãy dọn đường
Chúa." Gioan đã làm chứng cho Chúa trong sự khiêm tốn.
Người Kitô hữu cũng phải làm chứng cho Chúa về
nhiều pương diện: không những giơ ngón tay chỉ Chúa Giêsu cho người khác mà còn
phải là chứng nhân bằng chính cuộc sống nữa.
4. Hàng giả
Một vị vua Ba-Tư mong ước có một người cố vấn
trung thực, luôn biết nói cho mình nghe sự thật. Nghe nói trong vùng có một ông
lão tên là Elaim viết sách rất trung thực, không hề bao giờ xuyên tạc bóp méo sự
thật, vua liền cho mời ông đến, đồng thời cũng cho gọi 9 vị cận thần cùng vào
chầu. Nhà vua phán:
- Các khanh hãy trả lời thành thật, các khanh
nghĩ thế nào về vinh quang của ta?
Mọi người còn đang bỡ ngỡ thì vua sai đem ra 10
chiếc nhẫn quý và hứa sẽ ban thưởng cho ai nói đúng sự thật. Thế là cả 9 vị cận
thần tranh nhau ca ngợi nhà vua nào là đạo đức, nhân ái, nào là hùng mạnh và
giàu có nhất thiên hạ. Vua có vẻ hài lòng, ban cho mỗi người 1 chiếc nhẫn.
Riêng cụ già Elaim vẫn lặng thinh. Nhà vua mới ngạc nhiên hỏi. Cụ từ tốn trả lời:
- Người ta có thể mua được những lời nịnh hót,
nhưng không thể nào mua được sự thật. Sự thật không thể đem rao bán, và cũng chẳng
có ai đem bán sự thật!
Nhà vua liền gặng hỏi về mình, Elaim trầm ngâm rồi
nói: “Đây chính là suy nghĩ thật của tôi. Bệ hạ là chủ và là vua của tôi, tuy vậy,
bệ hạ cũng chỉ là một tạo vật do Thượng Đế dựng nên nhằm gây dựng hạnh phúc ấm
no cho thần dân trong nước của bệ hạ mà thôi!" Nghe những lời ấy, nhà vua
hớn hở vui mừng, không trao chiếc nhẫn làm quà, mà lại ngỏ lời muốn chọn ông
lão làm cố vấn bên cạnh mình hằng ngày để có thể luôn được nghe những lời
khuyên trung thực.
Hôm sau, vua lại cho gọi 9 vị cận thần vào hỏi:
- Các ngươi có thích những chiếc nhẫn ta đã ban
cho hôm qua không?
Cả 9 người đều cùng xum xoe thưa bẩm:
- Muôn tâu bệ hạ, hạ thần còn quý những chiếc nhẫn
ấy hơn cả mạng sống của mình nữa, bởi vì đó là báu vật bệ hạ đã ban tặng. Thế
nhưng, hạ thần cũng xin vô phép mà bẩm rằng: có lẽ bệ hạ đã bị tên bán nhẫn nào
đó nó lừa gạt, vì hạ thần đã kiểm lại thì hóa ra cả 9 chiếc nhẫn đều là đồ giả ạ!
Đến đây nhà vua mới bật cười:
- Ha ha ha, các ngươi lại ngỡ rằng, ta không biết
điều đó hay sao? Các ngươi đã nói với ta những lời tung hô giả dối thì ta cũng
chỉ ban cho các ngươi những chiếc nhẫn giả, thế là công bằng rồi còn gì?
5. Khiêm nhường và bình an
Đức cố Giáo Hoàng Gioan 23 kể lại một kinh nghiệm
độc đáo của đời mình như sau: “Lúc tôi mới được bầu làm Giáo hoàng để lãnh đạo
Giáo Hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng và sợ hãi trước một trách nhiệm quá lớn lao
và nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ chập chờn không yên, tôi nghe có
một tiếng nói phán bảo tôi: “Kìa Gioan, đừng tự xem mình là quan trọng!”
Tôi choàng tỉnh dậy, ngẫm nghĩ thấm thía về ý
nghĩa giấc chiêm bao. Và kể từ dạo ấy, tôi đã cố gắng áp dụng câu nói này trong
đời tôi, trong mọi công việc của Giáo Hội mà tôi phải giải quyết mỗi ngày. Đừng
tự xem mình là quan trọng! Và thật sự, tôi đã ăn ngon ngủ yên như trước khi được
chọn làm Giáo hoàng.
Vâng! mọi bất ổn trong cuộc sống của chúng ta
thường phát xuất từ nguyên nhân đó: Vì luôn coi mình là quan trọng, nên chúng
ta mới tranh giành địa vị thứ bậc, chúng ta mới khó chấp nhận những người khác,
chúng ta mới khó cộng tác với người khác v.v
Kinh Thánh nói: ”Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu
ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Lc 4.6).
6. Số zero có giá trị
Một thiếu nữ đến xin cha linh hướng góp ý kiến để
chọn bạn trăm năm:
- Xin cha cho con ý kiến, con quen anh này đã
lâu, con biết rõ về tông tích, cũng như lý lịch về đời sống riêng tư của bạn
trai con.
- Gốc gác bạn con thế nào?
- Thưa anh ấy là con nhà trí thức, có địa vị lớn
trong xã hội: ba anh là chủ tịch thành phố này, mẹ anh là bác sĩ, gia đình rất
giàu có.
- Zérô (0).
- Anh mới lấy bằng Tiến sĩ Kinh Tế hạng ưu.
- Zéro(0).
- Anh rất đẹp trai, phông tướng, hiền lành.
- Zéro (0).
- Anh ta rất đạo đức, đi dự Lễ mỗi ngày, rất thuộc
Lời Chúa, tham gia nhiều sinh hoạt Nhà Thờ, được nhiều người thương mến và khen
ngợi.
- Hoan hô số 1. Vì bạn con mỗi lần hiệp dâng
Thánh Lễ là được trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng dạy, như tác giả thư Do Thái
viết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua các
ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh
Tử” (Dt 1, 1-2: Tung Hô Tin Mừng). Vì Chúa Giêsu là số 1.
Cô nàng hớn hở:
- Thưa cha, cha đã bảo bạn con là ba số 0, và được
Chúa Giêsu là số 1 ở với anh hằng ngày, vậy bạn trai của con là số 1. 000?
- Đúng thế, may mắn cho con, cha cầu chúc cho
con đi đến hôn nhân với anh ấy, và gia đình con phải là Thánh Gia Nazareth thứ
hai.
Thế là cô nàng nhảy lên:
- “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, Ngài đã thực
hiện bao kỳ công… Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng
ta. Mừng vui lên reo hò đàn hát” (Tv 98/97, 3-4: Đáp ca).
7. Tự hào được liên kết với Chúa
Đang được mọi người tín nhiệm và chạy đến để được
nhận phép rửa sám hối do mình thực hiện. Đáng lý ra khi được hỏi “Ông là ai?”
thì Gioan phải trả lời làm sao cho thế giá mình càng được nâng cao hơn nữa.
Nhưng Gioan Tẩy Giả trả lời “Tôi là tiếng hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho
thẳng để Đức Chúa đi…” thật là một sự khiêm nhường thẳm sâu. Muốn có sự khiêm
nhường này đòi hỏi phải có sự chân nhận mình là gì trước mặt Thiên Chúa. Là thụ
tạo đứng trước Tạo Hoá.
Như thế phẩm giá thật của con người không phải
do tự mình mà có nhưng là do chính Thiên Chúa ban cho. Khi nhận Thiên Chúa là
Chúa của mình, thì ta cũng hãnh diện vì được làm con cái Chúa.
Luôn hãnh diện vì được làm con cái Chúa. Khi ca
tụng Thiên Chúa thì phẩm giá con người được nâng cao.
8. Chứng nhân của Chúa
Vào tháng 8 năm 1941, tại trại tập trung Đức Quốc
Xã, có một người đã đứng ra nhận chết thay cho một bạn tù, vì anh này còn mẹ
già và con thơ cần được chăm sóc. Ngạc nhiên về hành động can đảm này, viên cai
ngục thắc mắc tại sao, Mac-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê bình thản trả lời: “Vì tôi là một
linh mục Công Giáo.” Không cần nói về Đức Ki-tô, nhưng cha Kôn-bê đã làm chứng
về Ngài. Và chắc chắn những việc tử tế của chúng ta, cũng là cơ hội tốt để làm
chứng về Đức Ki-tô như vậy.
Sự gian dối đang là một quốc nạn tràn lan. Ngược
lại sống chân thật lại là một chứng tá đầy ngạc nhiên và ấn tượng. Đừng để mất
cơ hội tốt để làm chứng cho Đức Ki-tô.
9. Nối mạng với Chúa
Một dụ ngôn Hasidic mô tả một cậu bé đói lả cùng
với người cha băng qua một khu rừng. Bất ngờ, cậu bé phát hiện ra một vạt dâu
và bắt đầu ăn. Dù trời đã tối, nhưng vì quá đói, cậu bé tiếp tục ăn. Người cha
nói: “Cha đi trước, con có thể ở lại lâu hơn một chút. Nhưng để khỏi lạc nhau,
con hãy luôn gọi: Cha ơi! Cha ơi! Và cha sẽ trả lời. Khi giọng cha xa dần, con
phải chạy thật nhanh lên,”
Người Hasidic dùng dụ ngôn này để dạy chúng ta
điều cần thiết để giữ mối liên hệ với Thiên Chúa.
Tôi sẽ dùng gì để biết được mình có mất liên hệ
với Thiên Chúa hay không?
Nếu một người không vươn lên để trở thành thiên
thần, người đó sẽ lún sâu và trở thành ma quỷ (Samuel Taylor Coleridge)
10. Sám hối đi trước, thần khí theo sau
Phép rửa của Gioan hoàn toàn khác với phép rửa của
Chúa Giêsu. Gioan giải thích sự khác biệt thế này: “Tôi làm phép rửa của các
anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế
hơn tôi, Ngài sẽ làm phép rửa cho các anh trong thánh thần. (Mt 3,11) Phép rửa
của Gioan chỉ là dấu của sự sám hối, phép rửa của Chúa Giêsu là bí tích của sự
tái sinh. Phép rửa của Gioan cho thấy sự khước từ đời sống cũ tội lỗi, phép rửa
của Chúa Giêsu cho thấy sự đón nhận đời sống mới của ân sủng, đời sống của Chúa
Kitô phục sinh.
Tôi đang nuôi dưỡng đời sống mới của tôi như thế
nào?
Khi Gíao Hội rửa tội cho một đứa trẻ, điều đó có
liên quan đến tôi. Bởi vì, đứa trẻ được liên kết với cái là đầu của tôi, và gia
nhập thân thể mà tôi là thành phần. (John Donne)
11. Chúa sống trong tôi
Ở “mục đố vui” của một tờ báo, người ta thấy một
bức vẽ quang cảnh ngoài trời, bên dưới là câu hỏi: “Bạn có thể tìm thấy cô gái
trong bức vẽ không?”
Nếu quan sát kỹ bức vẽ, người ta sẽ thấy đôi mắt
và lông mày của cô gái ẩn dấu trong một cành cây. Một cành cây khác che miệng
và mũi nàng. Một đám mây để lộ mái tóc của nàng. Một khi bạn đã nhìn ra cô gái,
thì bức vẽ kia chẳng giống như trước nữa.
Đối với Chúa Giêsu cũng thế, Ngài hiện hữu trong
cuộc đời của chúng ta và chờ đợi được tìm thấy. Chỉ cần gặp Ngài, cuộc đời
chúng ta sẽ thay đổi. Điều này gợi lên câu hỏi: Tại sao tôi cảm thấy khó tìm gặp
Chúa Giêsu trong cuộc đời tôi?
Một ngày kia Ngài sẽ đến. Một lần trong tĩnh lặng…
bạn sẽ biết… không phải từ sách vở hoặc do ai mách bảo, nhưng qua chính Ngài.
(Romano Guardini)
12. Khám phá Thiên Chúa
Con Thiên Chúa làm người số phận thật hẩm hiu!
Phúc Âm Gioan xót xa nhận định: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng
chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Ngày chào đời, quán trọ không còn chỗ, phải sinh
ra nơi hang bò lừa. Rồi 30 năm dài đằng đẵng Ngài sống mai danh ẩn tích ở
Nadarét. Trong cuộc sống công khai, không phải ai cũng tin vào Tin Mừng Ngài
rao giảng. Thánh Gioan Tẩy Giả phải kêu lên: “Có một Đấng ở giữa anh em mà anh
em không biết."
Thật đáng tiếc cho bạn, cho tôi, cho cả nhân loại
khi Đấng là Ánh Sáng, là NIỀM VUI, là con Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, là
Bánh Hằng Sống, là Mục tử nhân lành, là vị Thầy có những Lời mang lại sự sống đời
đời, là Người Bạn gần gũi thân thiết nhất, là tất cả mọi sự cho mọi người, Ngài
đang ở giữa mọi người mà lại không được nhận biết, không được đón tiếp!
Hãy tái khám phá ra khuôn mặt, chân tướng của Đức
Giêsu. Có NIỀM VUI rất lớn ở giữa bạn mà bạn không biết, hèn gì bạn cứ mãi cảm
thấy buồn sầu và âu lo trong cuộc đời!
13. Trở nên cao cả
“Điều hấp dẫn đối với tôi là cảm thấy mình tự
làm chủ số phận. Nhưng cảm giác đó là sự thiếu trung thực căn bản, lừa dối bản
thân nghiêm trọng. Niềm tự hào của tôi là sự tôn thờ thần tượng của chính mình.
Đó chính là quốc giáo của địa ngục!” - Howard Butt.
Tin Mừng hôm nay cho thấy Gioan Tẩy Giả không
theo “quốc giáo của địa ngục” nhưng theo ‘quốc giáo của thiên đàng’, khiêm nhượng!
Việc Gioan thừa nhận mình không xứng đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu là bằng
chứng. Nhưng trớ trêu thay, chính sự thừa nhận này lại làm cho Gioan ‘trở nên
cao cả!’
Bạn có muốn ‘trở nên cao cả’ không? Trong sâu thẳm,
tất cả chúng ta đều muốn như vậy. Ước muốn này đi đôi với khát khao hạnh phúc bẩm
sinh của mỗi người. Chúng ta muốn cuộc sống mình có ý nghĩa, có mục đích và tạo
ra một sự khác biệt. Vấn đề là “Làm thế nào?” Làm thế nào để bạn và tôi có thể
‘trở nên cao cả’, cao cả thực sự!
NGÀY 03/01 - ÐẤNG XÓA TỘI TRẦN GIAN
Lời Chúa: Ga 1,29-34
Ngày hôm sau, Gioan thấy Chúa Giêsu đến với mình
thì nói: Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian. Ðây chính là Ðấng mà
tôi đã nói rằng: Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, vì Người vốn có
trước tôi. Phần tôi, trước tôi không biết Người, nhưng tôi đã đến làm phép rửa
bằng nước, để Người được tỏ mình ra trong Israel.
Và Gioan đã làm chứng rằng: Tôi đã thấy Thánh Thần
như con chim bồ câu từ trời xuống ngự trên Người. Và trước tôi không biết Người,
nhưng Ðấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự
xuống trên ai, thì chính người đó là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã
thấy và làm chứng rằng: Người là Con Thiên Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Tôi đã thấy
Biết một người là đi vào một mầu nhiệm. Chúng ta
quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, hai lần
Gioan khẳng định: “Tôi đã không biết Người” (cc 31-33).
Cho đến khi làm phép rửa cho Ðức Giêsu, Gioan
thú nhận mình vẫn chưa biết Ngài là Mêsia. Dù Ðức Giêsu là bà con họ hàng của
ông (x. Lc 1,36), dù hẳn ông đã có một số thông tin về Ngài. và dù ông biết
Ngài cao trọng hơn mình (x. Mt 3,14), nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết
thật sự.
Ðược Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ.
Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá Ðấng sẽ làm phép rửa trong
Thánh Thần.
Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là
Mêsia. Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Ðức Giêsu lúc Ngài được ông ban phép rửa.
Bây giờ có thể nói ông đã biết Ðức Giêsu. Ông đã
biết sau khi ông đã thấy. Từ cái biết nhờ thấy, do ơn Thiên Chúa ban, Gioan đã
trở nên người làm chứng trung tín.
2. Tình yêu bị ruồng bỏ
Vào một buổi tối năm 1741, người ta thấy người
nhạc sĩ giả Hallmen lang thang trong một phố nghèo lênh đênh bên Anh Quốc. Người
nhạc sĩ già như đang nuốt từng nỗi đắng cay mà triều đình đã dành cho ông. Từ
hơn 40 năm qua, ông đã đem tất cả tài năng và sự hăng say của mình để phục vụ
triều đình. Thế nhưng, giờ đây ông cảm thấy mình giống như một trái chanh đã vắt
hết nước.
Bốn năm trước đó, ông đã bị chứng xuất huyết não
làm cho ông bị bại hẳn một bên, khiến ông không còn đi đứng bình thường và sáng
tác được. Nhưng dần dần nhờ ý chí sắt đá, ông đã thu hồi được khả năng đi lại
và bắt đầu sáng tác lại. Nhưng giờ đây với cái tuổi 60 và với khí trời lạnh như
cắt của nước Anh, ông cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Tình cờ, khi đi qua một
ngôi Thánh Ðường, ông bỗng nghe vọng lên trong tâm hồn ông chính tiếng kêu của
Chúa Giêsu: Lạy Chúa con, lạy Chúa trời con. Sao Chúa bỏ con."
Như có một sự thôi thúc lạ lùng, người nhạc sĩ
quay về nhà, trong đám giấy vứt ngổn ngang trên bàn làm việc, ông đọc được câu
Kinh Thánh như sau: "Người đã bị khinh bỉ và bị mọi người phế bỏ."
Nguồn cảm hứng tưởng đã cạn nay lại trải cuộn trên từng trang giấy, hết trang
này đến trang khác, những nốt nhạc cứ thế mà tuôn trào. Sau hai mươi bốn ngày
làm việc liên lỉ, nhạc sĩ Hallmen đã hoàn thành tác phẩm để đời tựa đề là:
"Ðấng Cứu Thế." Từ đó, cứ mỗi dạo Giáng Sinh và Phục Sinh người ta lại
có dịp nghe được tác phẩm tuyệt trác để đời.
3. Đây Chiên Thiên Chúa.
Emilio, một điêu khắc gia nổi tiếng của Hoa kỳ
là người thích tạc vẽ ảnh tượng đạo đức và khuôn mặt được ông tạc tượng nhiều
nhất là Chúa Giêsu. Trong vòng 10 năm, từ 1960 đến 1970, ông đã hoàn thành khoảng
700 tượng Chúa với những hình dạng khác nhau và ông cho biết: “Điều tôi mong ước
nhất, đó là giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác."
Giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác, đó cũng là
sứ mệnh của Gioan Tẩy giả và của người môn đệ Chúa. Thật vậy, Gioan là người
chuẩn bị đường nẻo cho Chúa đến. Ông đã chu toàn sứ mệnh này bằng đời sống đạo
đức, khắc khổ, và đã rao giảng thanh tẩy thống hối để được tha thứ tội khiên.
Ông còn thâu nhận môn đệ để rồi trao họ lại cho Chúa Giêsu. Tin Mừng hôm nay
thuật lại khi Gioan thấy Chúa Giêsu đến với mình, ông đã giới thiệu Ngài với
các môn đệ và dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây đấng xóa tội trần gian."
4. Tất cả để vinh danh Chúa hơn
Có một câu chuyện kể về bản di chúc của một người
sắp quá cố, trong đó có đoạn viết: “Khi tôi chết, xin đừng ghi tên tuổi, chức
nghiệp của tôi qua tấm bia nơi phần mộ, nhưng hãy ghi rằng: ‘Những gì tôi đang
có, xin trả lại cho đời. Những gì thuộc về tôi nay không còn nữa. Những gì tôi
cho đi, từ nay thuộc về tôi’." Thật tuyệt vời khi không nghĩ gì cho mình,
mà chỉ còn nghĩ đến người khác, ngay cả lúc chết!
Hôm nay, thánh Gioan Tẩy Giả sau khi đã trả lời
cho các Tư tế và thầy Lêvi về thân thế, vai trò của mình, ông đã lợi dụng cơ hội
này để giới thiệu cho họ biết về Đấng Kitô mà muôn dân đang mong đợi.
5. Con chiên cứu mạng
Trên mái một nhà thờ ở Werden - Đức Quốc, người
ta có thể nhìn thấy một tảng đá chạm trổ một con chiên (cừu non). Đây là câu
chuyện về tảng đá đó:
Một công nhân đang làm trên mái nhà thờ này thì
dây thừng an toàn bị đứt, anh công nhân bị rớt xuống sân nhà thờ, mà sân thì xếp
đầy những đống đá lớn. Thế nhưng anh công nhân không bị thương nặng. Có một con
chiên đang gặm cỏ giữa hai khối đá lớn. Anh công nhân rớt xuống trên con chiên
và đè nó chết, làm tiêu tan điều được coi là cú rơi định mệnh…
Để nhớ ơn, anh công nhân đã chạm trổ một con
chiên bằng đá và đặt trên mái nhà thờ. Đó là một cách tốt đẹp bày tỏ lòng biết
ơn của anh ta đối với một con vật đần độn, đã cứu mạng anh mà nó không biết
(Arthur Tonne).
6. ”Đây Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,29).
Mỗi ngày trong Thánh Lễ, Linh mục nâng Mình
Thánh lên và lặp lại lời của thánh Gioan Tiền Hô nói trong bài Tin Mừng hôm
nay: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian...” Lời này gợi lại cho
chúng ta hình ảnh con chiên bị sát tế trong đêm vượt qua xưa, khi Chúa cứu
Israel khỏi cảnh nô lệ Ai Cập và vượt qua Biển Đỏ, thịt chiên làm của ăn lễ vượt
qua, máu chiên bôi lên khung cửa để thoát thần tru diệt hại dân. Hôm nay, Chúa
Giêsu được ví như Con Chiên chịu sát tế để giải phóng nhân loại khỏi cảnh nô lệ
tội lỗi, vượt qua biển trần gian từ cõi chết vào cõi sống. Đặc biệt, Thịt Máu
Chúa Giêsu nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta và rửa sạch chúng ta hết
mọi tội khiên.
7. Con chiên gánh tội
Trong đạo do thái người ta cần có những con
chiên gánh tội. Khi người ta có tội, người ta đem một con chiên đến Đền thờ, đặt
tay trên đầu nó, tỏ ý trút hết tội của mình xuống nó, rồi giết chết nó hoặc đuổi
nó vào sa mạc. Kể như nó đã mang hết tội của người ta và chịu phạt tội thay cho
người ta. Chúa Giêsu đã tình nguyện làm con chiên gánh tội trần gian. Ngài cũng
muốn các kitô hữu làm con chiên gánh tội thay cho những người của thời đại mình.
Có người so sánh một cách thi vị rằng Linh mục
và tu sĩ là những chiếc đò đưa khách sang sông. Con thuyền phải đưa khách sang
sông chứ không giữ khách lại mãi trong thuyền, vì nếu thế thì nó không phải là
chiếc đò nữa.
8. Thấy và nói
Chuyện kể rằng một nhà bác học vô thần kia gặp một
người nông dân đi đến nhà thờ, liền hỏi:
- Ông đi đâu đó?
Người nông dân đáp:
- Tôi đến nhà thờ để gặp Chúa.
Người vô thần cười cách hóm hỉnh, hỏi lại:
- Chúa ông có to không?
Người nông dân cũng cười và trả lời:
- To lắm chứ, to đến nỗi cả trời đất không chứa
hết, và cũng rất nhỏ, nhỏ đến nỗi ngài có thể ở trong trái tim tôi.
Người nông dân đã giới thiệu Chúa bằng đức tin
đơn sơ nhưng vững chắc của mình. Sau này nhà bác học vô thần kia đã phải thú nhận
rằng, câu trả lời của người nông dân kia đã làm ông phải suy nghĩ nhiều hơn là
những pho sách của các nhà bác học.
Câu chuyện trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng,
người ta có thể thấy Chúa bằng đức tin và giới thiệu Chúa bằng đức ái, bằng
trái tim của mình trong đó có Chúa ngự.
Ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền
nói: Đây là con Chiên Thiên Chúa. Gioan đã thấy Chúa Giêsu nên mới giới thiệu.
Ngày nay người Kitô hữu muốn giới thiệu Chúa cho kẻ khác thì điều kiện tiên quyết
cũng phải là thấy Chúa. Nhưng cách sống đạo đã giúp chúng ta thấy Chúa chưa,
hay đạo của chúng ta mới chỉ là một mớ kiến thức về Chúa mà thôi? Thấy Chúa bằng
đức tin là một điều tối quan trọng trong đời sống người Kitô hữu.
9. Giới thiệu bằng cuộc sống
Một ngày Chủ nhật nọ, có một người đàn ông đã từng
sống một đời sống vô cùng lạnh nhạt, khô khan về việc đạo. Tình cờ ông đi ngang
qua nhà thờ giáo xứ Churning, ông gặp một cô bé đang vào nhà thờ với các em nhỏ
khác. Ông dừng lại quan sát thái độ tử tế khác lạ của cô và ông đã theo cô vào
nhà thờ lúc nào không hay. Trong nhà nguyện chật chội và nghèo nàn đó, ông thấy
cô ngoan ngoãn quì xuống đất, chắp tay ngước mắt nhìn Chúa Giêsu trong Nhà Tạm
với tất cả lòng tin yêu cung kính như khi ta đến trước mặt người có chức tước
đáng quí trọng. Tới lúc vị linh mục dâng thánh lễ, ông cũng quì gối để dễ bề
quan sát thái độ của cô. Ông cảm động khi thấy gương mặt của cô tươi đẹp như
người xuất thần với đức tin mạnh mẽ vào sự hiện diện của Chúa trong phép Thánh
Thể. Cảm động, ông trở về nhà và từ đó ông ăn năn trở lại sống đời giáo hữu thật
sốt sắng.
Cô bé đó chính là Laura Diconia, có lẽ cô không
nhận ra hiệu lực của lòng sốt sắng nơi mình, nhưng chính hành vi và lẽ sống của
cô đã là một chứng tá cho đức tin và tình yêu Chúa. Thái độ bên ngoài của cô
tuy rất tầm thường và đơn sơ nhưng chính sự trịnh trong của tâm hồn và tình yêu
sâu đậm của con tim đã mặc cho những cử chỉ bên ngoài đó một vẻ sâu xa khác thường
khiến cho người ta cảm thấy ngay sự hiện diện của Chúa.
Vào thời Giáo Hội mới được khai sinh, các tín hữu
đã có một đời sống rất gương mẫu làm cho dân ngọai phải ngạc nhiên. Sách Công vụ
Tông đồ ghi lại: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, để mọi sự làm của
chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu.
Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại
tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn
dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”
(Cv 2, 44-47).
Phải nói đây là cách giới thiệu Chúa hay nhất:
Giới thiệu bằng cuộc sống. “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên
hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em,
Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 16).
10. Con vua
Nước Công hòa Trung Phi được Pháp trao trả độc lập
vào ngày 13/8/1960. Đây là một nước nghèo, đất rộng người thưa, tài nguyên
thiên nhiên chủ yếu là các mỏ, quặng kim cương, coban, sắt… với diện tích khoảng
662. 984 km2. Từ khi được Pháp trao trả độc lập, Cộng hòa Trung Phi do Tổng thống
D. Đacô lãnh đạo. Năm 1966, trung tá Jean Beldel Bokassa đứng đầu một binh
đoàn, dẫn quân về lật đổ Tổng thống D. Đacô để nắm quyền lãnh đạo Cộng hòa
Trung Phi, tự phong đại tá rồi vọt lên… đại tướng chỉ trong vòng có mấy ngày và
lên cầm quyền. Trước khi làm Tổng thống, rồi Hoàng đế nước Trung Phi, Jean
Beldel Bokassa đi lính cho Pháp. Trong chiến tranh Thế giới lần thứ II, Bokassa
theo đội quân lê dương đi đánh thuê nhiều nước như Ma rốc, Algierie và vào năm
1953 có mặt ở miền Nam Việt Nam. Lúc bấy giờ Bokassa mang cấp bậc trung sĩ nhất,
đóng quân tại Chánh Hưng, Sài Gòn.
Thời gian ở Việt Nam, Bokassa có yêu và làm đám
cưới với cô Nguyễn Thị Huệ. Việc lấy được một người lính lê dương làm chồng đã
giúp bà Huệ có một cuộc sống khá thoải mái. Tuy nhiên, khi Pháp thua trận tại
Điện Biên Phủ, phải ký hiệp định đình chiến ngày 20/7/1954, rồi rút quân đội về
nước, thì Bokassa lúc này cũng phải theo đoàn quân thua trận của Pháp lên tàu về
nước, để lại cái thai trong bụng bà Huệ, không biết là gái hay trai!
Sau khi chồng về nước, bà Huệ phải một thân một
mình tự bươn chải, sống một cuộc sống nghèo khổ. Martine lớn lên cũng chỉ biết
mặt bố mình qua một số bức ảnh kỷ niệm mà bà Huệ còn giữ lại. Vào thời điểm
ngay trước khi có thông tin Tổng thống Bokassa đi tìm người con rơi ở Sài Gòn
thì Martine đang làm… bốc vác cho nhà máy xi măng Hà Tiên, gần Thủ Đức. Những
lúc rảnh thì lại đi làm… phu thợ hồ để kiếm thêm thu nhập!
Khi lên làm Hoàng đế Bokassa của nước Trung Phi,
và bằng con đường ngoại giao ông nhờ tìm đứa con lạc loài, đã thể hiện tinh thần
trách nhiệm, một người đàn ông có đạo đức, khiến cho mọi người xúc động, cảm
kích. Lúc ấy, có rất nhiều bà dẫn con đến tòa Đại sứ Trung Phi nhận là vợ - con
ông Bokassa. Nhưng nhờ khoa học người ta đã xác định ai là con thật của vị
Hoàng đế này. Đó là bà Huệ và cô con gái Martine ở Tân Thuận Đông. Thế là mẹ
con bà từ kiếp sống bần cùng, xã hội không ai quan tâm, nghiễm nhiên trở thành
hoàng hậu và công chúa. Khi cô Maritne được đón sang Trung Phi, thời gian sau
được người giàu có đến cầu hôn, trong đám cưới ấy, Việt Nam phải cử đại diện
sang chúc mừng.
Vậy hết thảy những ai dìm mình trong nước Thánh
Tẩy là họ cùng được mai táng với Đức Giêsu, thì họ cùng được chia phần vinh hiển
với Ngài. Nghĩa là trong nước Thánh Tẩy, người Kitô hữu được trở nên đồng hình
đồng dạng với Đức Kitô trong sự chết và Phục Sinh (x. Rm 6, 3-11).
11. Con Chúa phải sống yêu thương
Kalashnikov, cha đẻ của khẩu tiểu liên AK-47 nổi
tiếng, mới qua đời ngày 23/12/2013, ở tuổi 94. Ông đã được Liên Xô coi là anh
hùng quốc gia và là biểu tượng cho quá khứ hào hùng của nước này.
Khẩu súng AK-47 do ông sáng chế được sử dụng hết
sức phổ biến trên cả thế giới. Thế nhưng thay vì tự hào, sáng chế đó đã trở nên
một nỗi đau lòng cho ông. Tờ Izvestia dẫn lời ông viết trong thư gửi đức Thượng
phụ Kirill hồi tháng 4/2013: "Tôi không thể chịu đựng nổi nỗi đau tinh thần.
Tôi không ngừng dằn vặt bản thân rằng khẩu súng mà tôi sáng chế đã tước đi sinh
mạng nhiều người thì liệu bản thân tôi, một tín đồ Kitô và Chính thống giáo, có
phải chịu trách nhiệm hay không."
Vâng, Chúa dựng nên chúng ta theo hình ảnh Chúa,
với tình yêu là sự sống cho tâm hồn. Sự tôn thờ Chúa mong muốn là hãy để cho
tình yêu điều khiển cuộc sống chúng ta. Với dân bị lưu đầy vì nghịch chống lại
Chúa, Chúa vẫn yêu thương gửi đến lời hứa bình an: “Ta sẽ đưa chúng về lại nơi
này và cho chúng được an cư.”
Sự sống hạnh phúc được bắt đầu khi chúng ta để
Chúa điều khiển cuộc sống mình, khi chúng ta tôn thờ Chúa với sự tôn thờ đích
thực là đời sống yêu thương: “Bấy giờ chúng sẽ là dân Ta, và Ta, Ta sẽ là Thiên
Chúa của chúng. Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và một con đường hành động, để
chúng kính sợ Ta mãi mãi, nhờ đó chúng và con cháu sau này được hạnh phúc.” (Gr
32,37-39)
Chúa là tình yêu, đặc tính của tình yêu là luôn
đi bước trước, vì thế mà “Ngôi Lời đã trở nên người phàm, và cư ngụ giữa chúng
ta; những ai đón nhận Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.”
(Ga 1,14a.12a). Tất cả là vì hạnh phúc cho chúng ta.
12. Chiên Thiên Chúa của Gioan Tẩy Giả
Trong sách Samuel quyển hai, tiên tri Nathan có
kể cho Vua Ðavit nghe câu chuyện sau: Hai người nọ là công dân trong cùng một
thành phố. Một người thì giàu có và thế lực, người kia thì nghèo xơ, cô thân cô
thế. Gã giàu nọ có một đàn chiên đông đến nỗi gã đếm không xuể, đang khi anh
nghèo nọ chỉ có một chú chiên chỏ xíu.
Tuy nhiên, những đứa con của anh nghèo nọ rất
thương con chiên ấy và chơi đùa với nó suốt ngày. Chúng mang nó đến cả bàn ăn
và chia cho nó phần thức ân ít ỏi của mình. Nathan kể rằng lũ trẻ còn dạy cho
con chiên uống nước trong tách nữa và chú chiên ta thật chả khác nào một thành
viên trong gia đình.
Một ngày nọ, anh chàng giàu phải tiếp đãi một vị
khách quan trọng đến thăm hắn. Hắn chẳng muốn giết bất cứ con chiên nào của
mình để đãi khách cả. Vì thế hắn truyền cho đám tôi tớ chạy qua nhà anh chàng
nghèo nọ, bắt con chiên của anh ta đem giết để đãi khách.
Câu chuyện gây xúc động về sự độc ác của gã giàu
nọ đó là một trong những hình ảnh của Gioan Tẩy Giả mường tượng trong tâm trí
khi ngài đưa ngón tay xương xẩu chỉ vào Chúa Giêsu và nói với các đệ tử của mình:
"Ðó là Chiên Thiên Chúa" (Ga 1: 29).
13. Chiên thế mạng
Theo sách Đại Việt thông sử, cuối tháng 4 năm
1418, Lê Lợi bị thua trận chạy về Chí Linh, quân Minh đuổi theo vây chặt các lối
hiểm yếu. Trong tình thế nguy cấp, Lê Lợi họp các tướng lại hỏi:
- Nay thế trận hiểm nguy, có ai dám khoác
hoàng bào mà hi sinh vì ta không?
Các tướng đều ngồi yên không ai dám thưa. Lê Lai
đứng dậy nói:
- Thần nay nguyện được liều thân vì chúa công.
Lê Lợi trao cẩm bào cho Lê Lai, lại ban cho
hai thớt voi và 500 quân. Lê Lai đưa quân ra khiêu chiến và hô to:
- Ta là chúa Lam Sơn đây!
Quân Minh ngỡ là Lê Lợi nên bao vây quyết bắt
sống. Lê Lai và quân lính theo ông xung trận hết lòng giết giặc, nhưng
địch quân vừa mạnh và đông nên ông bị bắt và đem đi hành hình. Người
đời sau vẫn ca tụng: Lê Lai liều thân cứu chúa.
Trong đêm ra khỏi đất nô lệ Ai Cập, theo
lời dạy của Maisen, tất cả các gia đình thuộc dòng dõi tổ phụ
Giacob đều giết chiên và lấy máu ghi trên cửa nhà làm dấu, nhờ vậy
con cháu và loài vật của họ được an toàn; đang khi con đầu lòng của
người và vật trong các gia đình người Ai Cập đều bị giết chết. Từ
khi vào được đất hứa, hằng năm người Do Thái cử hành lễ Vượt Qua
với nghi lễ giết chiên, để nhắc lại biến cố này mà ca tụng ơn cứu
thoát của Giavê Thiên Chúa. Vì thế, khi giới thiệu Đức Giêsu với dân
chúng, thánh Gioan đã nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ
tội trần gian.” (Ga 1, 29)
14. Không hay mà sung sướng
Trong tác phẩm “Thức tỉnh”, cha Ant. de Mello đã
kể một câu truyện được đảm bảo là có thật, nhưng cũng có thể được xem như một
ngụ ngôn hay. Chuyện xảy ra ở một thị trấn nhỏ bên Mỹ nơi có những người đêm
đêm tụ tập lại chơi nhạc. Họ có một tay kèn sắcxô, một tay trống và một tay vĩ
cầm. Tất cả đều là những cụ già tụ họp lại với nhau vì thích chơi nhạc dù không
phải là những nhạc công điêu luyện. Họ hài lòng và thú vị… cho đến ngày họ mời
được một nhạc trưởng mới tham gia.
Đó là một người có năng lực và nhiều tham vọng.
Ông nói với mọi người: “Chúng ta phải tổ chức một buổi hoà nhạc, chúng ta phải
trình diễn một buổi ra mắt dân chúng thị trấn này.”
Thế rồi ông loại dần những nhạc công chơi không
khá lắm, mướn thêm một số nhạc sĩ chuyên nghiệp để xây dựng thành một dàn nhạc
có quy củ. Chẳng bao lâu, họ trở thành một dàn nhạc nổi tiếng được báo chí nhắc
đến. Một vài thành viên đã bắt đầu nghĩ đến công diễn ở thành phố lớn.
Nhưng nhớ lại những ngày bắt đầu, có mấy cụ già
nói với giọng tiếc nuối: “Thật tiếc cho cái thời huy hoàng xưa ấy, cái thời mà
chúng mình chơi không hay nhưng lại rất được sung sướng.”
Chơi không hay nhưng lại rất được sung sướng! Một
câu nói đơn sơ mà lại cho thấy cái hạnh phúc thật của đời người không chịu lệ
thuộc vào mọi đánh giá trần gian, mọi quy ước nằm ngoài con người.
Đâu mới thực là nguồn mạch cho hạnh phúc con người?
15. Con là ai?
John Newton là thuyền trưởng một tàu buôn nô lệ.
Ngày 10.5.1748, tàu ông gặp một cơn bão rất lớn trên đường về. Cơn bão làm cho
ông cảm nghiệm được bàn tay giải cứu kỳ diệu của Chúa, và sau đó thúc đẩy ông
viết bài thánh ca nổi tiếng “Amazing Grace” (Ân sủng kỳ diệu) lấy cảm hứng từ lời
tạ ơn của Đavít: “Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa, con là ai và nhà của con là gì,
mà Ngài đã đưa con tới địa vị này” (1Sb 17,16)
Bài hát đó được phổ biến rộng rãi giữa những người
đấu tranh cho tự do và nhân quyền. Nhiều người cho rằng bài ca đó cũng được dụng
để chống nạn buôn bán nô lệ vì Newton trước đó cũng từng buôn nô lệ. Đặc biệt đối
với người da đỏ thuộc bộ tộc Cherokee, bài hát đó được coi như là quốc ca của họ,
vì họ đã tìm thấy nơi đó niềm an ủi khi nhớ lại những người gục chết trên đường
tập trung vào những khu định cư dành cho người da đỏ.
Một lời nguyện của Đavít và giáo lý của Giáo hội
đã cho tôi thấy rõ tôi đã là gì, đang là gì, và sẽ là gì trong mầu nhiệm cứu độ
đầy tình yêu Chúa.
16. Tình yêu
- Anh bạn tôi đã không trở về sau cuộc chiến,
thưa ngài. Hãy cho phép tôi ra ngoài kiếm anh ta, một người lính hỏi viên sĩ
quan.
- Không được, viên sĩ quan trả lời, tôi không muốn
anh bỏ mạng vì một người có lẽ đã chết rồi.
Thế nhưng anh lính vẫn đi. Một giờ sau, anh trở
về, trên mình đầy những vết thương nặng nề, với thi hài của người bạn trên vai.
- Tôi đã bảo là anh ta chết rồi. Bây giờ tôi lại
sắp mất một chiến sĩ. Anh thấy có đáng phải ra ngoài đó để lôi về một cái xác không?
- Đáng chứ, thưa ngài. Lúc tôi tìm thấy, anh ấy
vẫn còn sống, và anh ấy nói với tôi: “Jack, tôi biết chắc thế nào anh cũng đến."
‘Đáng hay không đáng làm’ là một câu hỏi lớn vì
nó giúp chúng ta định hình cho cả cuộc đời. Câu hỏi thì lớn nhưng câu trả lời lại
nằm nơi từng quyết định nhỏ bé, mà câu trả lời tối hảo là câu trả lời đến từ
tình yêu, dù đôi lúc nó đi ngược với những suy tính tự nhiên.
17. Tình yêu quên mình
Gale Sayers là hậu vệ nổi tiếng vào thập niên
1960 của đội banh bầu dục Chicago Bears. Lúc nào anh cũng đeo một miếng mề đay
bằng vàng kích cỡ bằng nửa đồng đôla, trên đó ghi hàng chữ ‘Tôi là thứ ba."
Khi được hỏi ý nghĩa của tấm mề đay đó, anh cho
biết rằng đó là khẩu hiệu của huấn luyện viên Bill Easton của anh. Ông thường đặt
hàng chữ này trong một cái khung nhỏ trên bàn làm việc của ông.
Khi Gale tò mò hỏi ông ý nghĩa của hàng chữ đó,
thì Easton giải thích: “Chúa là thứ nhất, các bạn tôi thứ nhì, và tôi là thứ
ba."
Từ đó, anh lấy hàng chữ trên làm châm ngôn sống
cho đời mình và đặt làm một tấm mề đay với hàng chữ đó để đeo luôn trên cổ.
Trong quyển tự thuật, Gale nói: “Không hẳn lúc nào tôi cũng thành công trong việc
này, nhưng dù sao việc mang câu ấy quanh cổ cũng giúp tôi khỏi đi trệch đường
quá xa."
Để tình yêu cứu độ thực sự sinh được hoa trái là
ân sủng và bình an, tôi cũng được mời gọi đáp trả bằng một tình yêu quên mình
như tình yêu của Đức Kitô.
18. Nelson Mandela
Ngày 05/12/2013 ông Nelson Mandela, cựu tổng thống
Nam Phi, từ trần được cả thế giới ngưỡng mộ, tiếc thương, không phải chỉ vì
trong năm năm ngắn ngủi lãnh đạo quốc gia này, ông đã dẫn dắt đất nước thoát khỏi
chế độ kỳ thị chủng tộc và mà nhất là vì ông đã trải qua 27 năm đằng đẵng trong
chốn ngục tù để đem lại kết quả đó.
Tổng thống Mỹ, Barack Obama đã nhận định cách
chí lý: Ông đã “hy sinh cả tự do của mình để giành lại tự do cho người khác.”
Sự hy sinh của Đức Giêsu còn lớn lao hơn vô
cùng: hy sinh địa vị làm Con Thiên Chúa để sinh ra và sống thân phận con người
với con người; hy sinh mạng sống mình để muôn người được giải thoát khỏi nô lệ
tội lỗi và sự chết để được sống muôn đời.
Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Chúa Kitô thật chính
xác: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian.”
19. Đấng xóa tội trần gian
Gioan Tẩy giả đã chạm đến trái tim con người vì
hai lý do: ông giúp họ nhận ra họ là tội nhân cần đến Đấng Cứu Tinh, ông cũng
giúp họ mở tâm hồn đón nhận Chúa Giêsu, Đấng đến để cứu vớt họ.
Điều này gợi cho tôi hai câu hỏi: Tôi nhận ra
mình là tội nhân cần đến Đấng Cứu Tinh ở mức độ nào? Tôi đã thực sự mở rộng tâm
hồn cho Chúa Giêsu, Đấng đến cứu độ tôi chưa?
Nhiều người không nhận ra Chúa Kitô, vì họ không
nhận ra chính họ là tội nhân. Nếu tôi không phải là tội nhân, tôi không cần
Chúa. Tôi cũng chẳng cử hành mầu nhiệm Chúa Kitô với niềm vui, nếu tôi không buồn
phiền nhận ra mình là tội nhân cần đến Đấng Cứu Tinh. Tuy nhiên, điều chính yếu
không phải là tội lỗi, mà là Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ. (Kallian McDonnell)
20. Chiên Thiên Chúa được hạ sinh đúng mùa
Mặc dù chúng ta mừng sinh nhật của Chúa Giêsu,
“Chiên Thiên Chúa”, vào tháng 12, nhưng một số học sinh giả cho rằng Ngài được
sinh vào mùa xuân, mùa “chiên cứu sinh sản,” Họ nghĩ như vậy là vì thánh Luca
thuật lại rằng vào đêm Chúa Giêsu giáng sinh, các mục đồng tụ họp cừu thành bầy
ở cánh đồng. Thông thường, cừu được lùa vào hang vào ban đêm, ngoại trừ mùa cừu
sinh sản. (Hang động khống tốt cho việc cừu sinh sản) Điều này giải thích tại
sao thánh Giuse và Đức Maria đi tìm môt nơi trú ẩn ở trong hang đá. (Hang đá
thì trống trong mùa cừu sinh sản) Điều này phù hợp với việc Chúa Giêsu sinh hạ
vào dịp những con cừu sinh ra sẽ được dành cho việc tế lễ trong Đền thờ
Giêrusalem. Bởi vì chính Chúa Giêsu cũng được dành làm “Chiên Thiên Chúa” được
hiến tế.
Đau khổ hy sinh chiếm vị trí nào trong cuộc đời
tôi?Tôi phản ứng ra sao trước đau khổ hy sinh?
Chúa Giêsu không đến để khử trừ đau khổ, nhưng để
đổ đầy nó bằng sự hiện diện của Ngài. (Paul Claudel)
NGÀY 04/01 - GẶP ÐẤNG CỨU THẾ
Lời Chúa: Ga 1,35-42
Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm
môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: Ðây là Chiên Thiên Chúa.
Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Chúa Giêsu,
Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: "Các
ngươi tìm gì?"
Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là thưa Thầy,
Thầy ở đâu?"
Người đáp: "Hãy đến mà xem."
Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người
ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.
Anrê, em ông Simon Phêrô, một trong hai người đã
nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và
nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô." Và
ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là
Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Ðá."
TRUYỆN KỂ
1. Truyền giáo bằng đời sống
Có một hôm, cha bề trên của một hội dòng muốn
cho các đệ tử của mình sống đức khó nghèo! Tuy nhiên, thao thức của ngài, ngài
không chỉ nói, mà hôm ấy, ngài đã dẫn một nhóm đi đến thăm một cha xứ tại một họ
đạo ngay tại trung tâm thành phố.
Khi đến nơi, nhóm đệ tử không khỏi ngạc nhiên về
lối sống giản dị, nghèo khó của cha xứ ấy! Phòng của ngài chỉ vỏn vẹn có khoảng
6 mét vuông, trong đó, sách vở và những vật dụng cần thiết khác đã chiếm hết chỗ
ngủ của ngài. Trong phòng chỉ còn có một lối đi nhỏ bé chừng 40cm. Đêm về, ngài
thường thu gọn sách vở lại và ngủ ngay trên lối đi.
Sau cuộc gặp gỡ đó, khi trở về, các đệ tử đã
không dám đòi hỏi điều gì nữa, ngược lại, sẵn sàng vui vẻ sống khó nghèo, bởi
vì những gì đang có thì đã hơn hẳn cha xứ của một họ đạo rồi!
2. Ở lại với Chúa
Cha Anthony De Mello mở đầu tập sách “Một phút
khôn ngoan” có kể một câu chuyện dẫn nhập:
Môn sinh hỏi thầy:
- Có thể nào có sự khôn ngoan chỉ trong một phút?
- Chắc chắn có chứ, vị thầy trả lời.
- Nhưng chỉ một phút, có quá ngắn không?
- Năm mươi chín giây đủ rồi đó.
Về sau, vị thầy nói với các đồ đệ:
- Cần bao nhiêu thời giờ để thoáng thấy mặt
trăng? Và vì sao phải cần bao nhiêu năm tháng dài để học sống đời sống thiêng
liêng.
Có thể mất tất cả để mở mắt. Hay chỉ cần một
tích tắc.
Vâng, chỉ cần một tích tắc với lòng khao khát
khám phá sẽ gặp được sự khôn ngoan cho cả cuộc sống…
Một giây phút quyết định đến xem thầy và “Họ đã
lưu lại với Người." Lưu lại bên Thầy, gắn bó say mê, các ông đã sống những
giây phút triển nở trong sự hiệp thông sâu xa nhất: lưu lại trao đổi và thân
thiết bên Thầy, như Thầy kêu mời: “Hãy lưu lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,
9). Lưu lại trong Thầy như cành nho sống được nhờ liên kết với cây, và cành nho
không thể tự sinh trái nếu không lưu lại trong thân nho (x. Ga 15, 4) vì dòng
nhựa sống lan tỏa toàn thân, đã nuôi sống và làm nho kết trái.
3. Chúa tin tưởng nơi con người.
Có một câu truyện ngụ ngôn rất hay về vấn đề giới
thiệu Chúa cho người khác.
Chuyện kể rằng: sau khi chịu nạn chịu chết trên
thập giá, Chúa Giêsu đã phục sinh trở về Thiên đàng trong uy nghi hiển vinh. Dầu
đã được vinh quang nhưng tay chân Ngài vẫn còn mang thương tích. Các thiên sứ
hân hoan đón chào Chúa. Quang cảnh đang nhộn nhịp vui tươi bỗng có một thiên sứ
đặt vấn đề:
- Chắc là Chúa đã phải chịu thống khổ vô cùng vì
loài người dưới đó?
Chúa đáp:
- Đúng vậy.
Thiên sứ hỏi tiếp:
- Có phải tất cả mọi người đều đã biết những gì
Chúa làm cho họ không?
Chúa Giêsu trả lời:
- Chưa, chỉ mới có một số ít người biết mà thôi.
Thiên sứ hỏi tiếp:
- Thế thì Chúa làm gì để giúp cho mọi người được
biết?
Chúa Giêsu đáp:
- Ta đã trao cho Phêrô, Giacôbê, Gioan và các đồ
đệ của Ta trách nhiệm đi nói với những người khác, rồi những người khác lại nói
cho những người khác nữa, rồi cho những người này lại nói cho những người kia,
cho đến lúc những người ở nơi xa xôi nhất trên địa cầu cũng đều được nghe.
Thiên sứ nhìn Chúa với vẻ nghi ngờ. Vị này đã
quá hiểu rõ lòng dạ con người như thế nào nên nói tiếp:
- Vâng, nhưng nếu như Phêrô, Giacôbê, Gioan và
các môn đệ của Chúa quên đi thì sao? Hoặc nếu họ mệt mỏi không còn tha thiết gì
đến việc loan báo nữa thì sao? Hay như những người ở thế kỷ 21 này không chịu
thực hiện trọng trách việc thuật lại câu chuyện tình yêu của Chúa cho những người
khác nữa thì sao? Liệu Ngài có lập một chương trình nào khác không
Chúa Giêsu trả lời:
- Không! Ta không sắp đặt một chương trình nào
khác. Ta đặt tin tưởng nơi họ.
4. Tác giả của Ben Hur
Lần kia, đại tướng Lew Wallace và đại tá Robert
Ingersoll, hai người vô thần đang nói chuyện với nhau về những người Công Giáo
mê tín, tin vào ông Giêsu nào đó, kẻ bất lực, bị người ta kết án trên thập giá!
Và này cuốn lịch sử về hắn mà bọn Công Giáo gọi là Thánh Kinh, nhưng chúng vẫn
mù quáng mà đọc!
Lew Wallace thề với Robert Ingersoll là sẽ vạch
ra cho những kẻ cuồng tín ấy thấy những điều lếu láo trong Thánh Kinh. Robert
chúc cho Lew thành công trong ý định này. Lew bỏ ra 5 năm nghiên cứu Thánh
Kinh, kết quả ngược lại: thay vì ông tìm thấy những điều mê tín trong đó để
khích bác kẻ có Đạo, thì ông lại nhận thấy ơn cứu độ phát xuất từ thập giá Đức
Kitô tuôn xuống, cứu bao kẻ tuyệt vọng. Ông đã viết lên tác phẩm Benhur và sau
người ta đóng thành phim rất nổi tiếng.
Lew Wallace nhờ lưu lại trong Lời Chúa, ông đã
được Ngài cho trở nên chứng nhân Tin Mừng.
5. Tôi muốn theo đạo tới đâu?
Cách đây mấy năm, có một ông lão được nhận vào bệnh
viện để điều trị bệnh. Sau khi ông cụ được dễ chịu, cô y tá hỏi ông lão vài câu
hỏi theo thông lệ, vì cô phải điền vào một trong các giấy tờ thủ tục nhập bệnh
viện. Một trong những câu cô hỏi ông lão là: “Tôn giáo ông quí chuộng hơn cả là
tôn giáo nào?” Cụ già nhìn cô y tá và nói: “Tôi rất vui sướng được cô hỏi câu ấy,
tôi luôn luôn muốn là một người công giáo, nhưng trước đây chưa có ai hỏi tôi
như vậy. Chính cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy.”
Câu chuyện có thực trên đặt cho chúng ta một vấn
đề gây bối rối: Tại sao trong chúng ta có nhiều người do dự khi phải chia sẻ đức
tin của mình với kẻ khác? hoặc chúng ta có thể đặt lại câu hỏi này như sau: Nếu
chúng ta tin rằng Phúc Âm thực sự là Tin Mừng, thì tại sao chúng ta lại không chia
sẻ nó với kẻ khác? hoặc nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho tàng vĩ đại nhất mà
chúng ta có thể chiếm hữu được, thì tại sao chúng ta không chia sẻ với người
khác đức tin của mình nơi Đức Kitô?
6. Cầu nguyện là việc quan trọng
Vài năm trước, một giáo viên trung học ở Chicago
đã yêu cầu mỗi học viên trong lớp phỏng vấn ba người về vấn đề cầu nguyện. Các
học viên phải đặt cho họ 5 câu hỏi:
- Anh (chị) có cầu nguyện không?
- Anh (chị) cầu nguyện hằng ngày hay chỉ thỉnh
thoảng?
- Tai sao anh (chị) cầu nguyện?
- Khi cầu nguyện, anh (chị) cầu nguyện như thế
nào?
- Ai đã dạy anh (chị) cầu nguyện?
Cuộc phỏng vấn của các học viên đem lại ba điều
ngạc nhiên:
Thứ nhất, các học viên ngạc nhiên vì không ngờ
người ta lại sẵn lòng bàn luận đến vấn đề cầu nguyện như thế.
Thứ hai, họ ngạc nhiên khi thấy có nhiều người cầu
nguyện hằng ngày.
Và thứ ba, họ ngạc nhiên vì có nhiều bạn bè thân
thiết của mình có cầu nguyện, thế mà trước đó họ chưa hề bao giờ bàn luận với
nhau vấn đề ấy.
Một sinh viên nói về cuộc phỏng vấn:
“Tôi cứ tưởng các bạn tôi sẽ chế nhạo cuộc phỏng
vấn, thế mà hoàn toàn khác hẳn, họ đã kính cẩn trả lời. Một trong các bạn tôi
nói rằng anh thực vui mừng khi bàn về một điều thực sự có ý nghĩa như thế.”
Một cô gái kết luận: “Điều tôi thu lượm được từ
dự án phỏng vấn nói trên chính là: Người ta đã thực sự quan tâm đến vấn đề cầu
nguyện”
7. Điểm cốt yếu cho ơn gọi
Vào năm 1905, đang lúc Đức Piô X lo lắng gìn giữ
Giáo Hội khỏi bị ô nhiễm bởi học thuyết duy tân (Modernisme), thì dòng các sư
huynh (Frères des écoles Xtiennes), một trong những dòng có số tu sỹ đông đảo
vào bậc nhất thời đó, và là một tu hội chuyên lo việc dậy học, giáo dục thanh
thiếu niên, dự định tổ chức đại hội, nhằm mục đích cải tổ hiến pháp. Đức Thánh
Cha Piô X nghe tin có một số sư huynh dự định tổ chức đại hội, nhằm mục đích cải
tổ hiến pháp. Đức Thánh Cha Piô X nghe tin có một số sư huynh dự định đưa việc
giáo dục thanh thiếu niên lên hàng đầu của mục đích tu hội. Lập tức Đức Thánh
Cha Piô X, ngày 23 tháng 4 namw 1905, gửi cho sư huynh tổng quyền ngọc thư,
nhan đề “Quum propediem” gồm 6 điểm.
Điểm 4 và 6 Đức Thánh Cha viết: “Cha nghe có một
ý kiến trong tu hội, và theo ý kiến này, thi vì tinh thần và nhu cầu ngày nay,
chúng con sẽ đặt việc giáo dục lên hàng đầu. Cha tuyệt đối không muốn cho ý kiến
này được ai ủng hộ, dù trong dòng chúng con hay ở trong dòng khác. Đã hẳn rằng
phải hết sức cấp cứu những vết thương trầm trọng, đang làm cho xã hội phải đau
khổ, nhưng dầu sao cũng không được xuống dốc tới nỗi làm tổn thương đến các luật
lệ thánh, và một trật vi phạm luôn cả đến di sản thánh của chính giáo lý.”
Đặt việc tông đồ, việc giáo dục thanh thiếu niên
lên hàng đầu, mà Đức Thánh Cha coi là xuống dốc, là làm tổn thương đến các luật
thánh, là vi phạm di sản thánh: thử hỏi ý Đức Thánh Cha muốn nói gì? Thưa, ngài
muốn trong mọi thời đại, mọi dân tộc, căn bản và mục đích chính yếu của mọi
dòng tu luôn luôn phải là: “Noi gương Chúa Kitô, tận hiến mình cho Thiên Chúa
Cha qua việc khấn và giữ trọn vẹn ba nhân đức vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh.”
8. Khấn dòng so với tử đạo
Một tu sỹ sau khi dã suy nghĩ, cân nhắc, và tự
nguyện công khai khấn giữ những lời khuyên Phúc Âm, tức là:
- Họ đã tự nguyện bỏ chính bản thân họ qua lời
khấn sống khiết trinh;
- Họ đã tự nguyện hỏ tất cả những gì họ có, qua
lời khấn sống khó nghèo;
- Họ đã tự nguyện đặt mọi hành vi họ, dưới quyền
bính của một người thay mặt Chúa, qua lời khấn sống vâng lời.
· Đức trong sạch giúp họ từ bỏ chính con người họ.
· Đức vâng lời giúp họ từ bỏ mọi hành động theo
ý riêng của họ.
· Đức khó nghèo giúp họ từ bỏ mọi cái liên quan
rằng buộc con người họ.
Sự tự nguyện từ bỏ một cách ý thức này, chính là
sự lựa chọn tốt nhất mà Chúa Giêsu đã nhắc cho Martha ở Betania trong gia đình
Lazarô, khi họ tiếp đón Chúa. (Luc. 10,42)
Cũng do đó mà các nhà thần học thời danh như
thánh Tôma, như Suarez đểu ca tụng việc khấn dòng như là một cuộc tử đạo.
9. Được gọi để đi gọi
Trong cuốn “Trên Đường Lữ Hành”, Đức Cố Hồng Y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã kể câu truyện “Được Gọi để Gọi.” Câu truyện
viết về một chị nữ tu tên Céline, giữ nhiệm vụ coi nhà khách và trực khách tại
tu viện.
Trong suốt 40 năm trường, chị nữ tu ấy chỉ làm một
việc duy nhất: đi gọi người khác để gặp khách. Chị thường nói đùa: “Tôi chỉ được
Chúa gọi một lần duy nhất và từ dạo ấy, tôi luôn luôn gọi người khác. Tôi được
gọi để gọi.”
Một ngày của chị bị cắt vụn thành từng miếng.
Công việc của chị bị chẻ thành từng mảnh. Việc làm của chị luôn bị gián đoạn để
tạo nên sự liên lạc cho những người khác. Mọi người đều “lấy cắp” thời giờ của
chị, nhưng chị vẫn vui tươi trong nhiệm vụ.
Thế rồi, một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người
khác, chị Céline đã ngã qụy trên hành lang nhà dòng. Chị bị thổ huyết vì chứng
lao phổi, chị thều thào trong hơi thở cuối: “Chúa đến gọi tôi lần thứ hai và
cũng là lần cuối cùng.” Sau đó, chị đã bình an ra đi theo tiếng Chúa gọi.
10. Chúa cần
Tháng 3/1998, Đức Cha J.B. Phạm Minh Mẫn, Giám mục
phó Giáo phận Mỹ Tho, được Tòa thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục tổng Giáo phận
Sài Gòn. Từ Lyon nước Pháp, một chị nữ tu tên là Marie Claude Faure (cựu tổng
quyền dòng Chúa quan phòng Portieux) đã gửi đến Đức Cha J.B. những lời khích lệ
sau:
Chúa cần một người cha cho dân Ngài. Ngài đã chọn
một ông cụ già, thế là Abraham đứng lên…
Chúa cần một người phát ngôn. Ngài đã chọn một kẻ
nhút nhát, nói năng ngọng nghịu. Thế là Môisen đứng lên…
Chúa cần một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài. Ngài đã
chọn kẻ nhỏ nhất, yếu nhất. Thế là Đavit đứng lên…
Chúa cần một tảng đá để đặt nền cho tòa nhà.
Ngài đã chọn một kẻ chối thầy. Thế là Phêrô đứng lên…
Ngài cần một gương mặt để nói cho người ta biết
tình thương của Ngài. Ngài đã chọn một cô gái điếm. Đó là Maria Mađalêna.
Ngài cần một nhân chứng để hô to sứ điệp của
Ngài. Ngài đã chọn một kẻ bách hại đạo. Đó là Phaolô thành Tarsô.
Ngài cần ai đó để tập họp dân Ngài, và để Ngài đến
với kẻ khác. Ngài đã chọn Đức Cha: dù Đức Cha run sợ, Đức Cha có thể không đứng
lên sao?
Thật là một lời khích lệ sâu sắc biết bao! Phải
chăng đó cũng là lời khích lệ dành cho chúng ta hôm nay, để chúng ta cũng biết
can đảm đứng lên, sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa: lên đường thi hành ý
Chúa và chu toàn ơn gọi đời mình.
11. Các anh tìm gì thế?
Nước Tống có người được hòn ngọc, đem biếu quan
Tư thành là Tử Hãn. Tử Hãn không nhận, người biếu ngọc thưa rằng:
Ngọc này tôi đã cho thợ ngọc xem, quả là một thứ
ngọc rất báu nên mới dám dâng quan lớn. Xin quan lớn nhận cho tôi vui lòng.
- Ngươi cho ngọc là của báu, ta cho tính không
tham là của báu. Ngươi đem ngọc cho ta, nếu ta nhận thì hai bên cùng mất cả của
báu. Âu là ngươi cứ đem về. Ai giữ lấy vật báu của người ấy, như thế vật báu của
hai người còn cả. Thế chẳng hơn ư?
Người biếu ngọc cúi đầu thưa:
- Chúng tôi là thường dân mà lại có ngọc quí
này, chỉ sợ bị trộm cướp mà có khi hại đến thân.
Tử Hãn thấy thế, lưu người ấy lại, gọi thợ ngọc
đến giũa ngọc, bán được tiền rồi, bèn đưa cho người ấy để làm giàu.
Sống niềm tin vào Đức Kitô không nhất thiết là
thông hiểu giáo lý, mà cốt yếu ở tại biết mình tìm điều gì, và phải làm gì.
12. Đến mà xem
Có hai người bạn thân thiết cùng quyết chí lên
đường tìm cho kỳ được điều quý giá nhất trên đời. Mỗi người đi một ngả và hẹn sẽ
gặp lại nhau khi đã đạt được ước nguyện.
Người thứ nhất lặn lội đi tìm viên ngọc mà ông
cho là quý giá nhất. Ông băng rừng vượt biển, đi đến bất cứ nơi đâu nghe nói có
bán đá quý. Cuối cùng, ông đã thỏa mãn vì tìm mua được một viên ngọc tuyệt hảo.
Trở lại quê hương, ông có ý chờ đợi người bạn thân, vừa để khoe viên ngọc của
mình, vừa tò mò muốn biết điều quý giá của bạn mình là gì.
Nhiều năm trôi qua mà người bạn vẫn bặt vô âm
tín. Ông đi khắp nơi để mong thụ giáo với các bậc hiền nhân để hỏi xem: “Muốn
tìm gặp được Thiên Chúa thì phải làm gì?" Ông cũng tìm đọc các sách đạo đức,
nghiền ngẫm suy tư, nhưng rồi ông vẫn chưa gặp được Thiên Chúa... Một ngày kia,
đang thơ thẩn đi dọc theo một con lạch nhỏ, ông bỗng thấy một con vịt mẹ và một
đàn vịt con đang bơi lội. Ðàn vịt con cứ muốn tách ra đi riêng để mò tôm tép,
vì thế, vịt mẹ cứ phải kiên nhẫn lặn lội tìm hết đứa con này đến đứa con kia,
muốn chúng phải quay về với đàn. Ngẫm nghĩ một lúc, ông chợt mỉm cười rạng rỡ
và vội vã lên đường trở về quê hương với hai bàn tay trắng.
Vừa gặp lại nhau, người bạn tìm được ngọc quý đã
buột miệng hỏi: "Nào, anh hãy cho tôi xem món đồ quý giá nhất mà anh đã
tìm được. Tôi nghĩ đó phải là một cái gì tuyệt diệu, bởi vì trông anh thật hạnh
phúc mãn nguyện!"
Người bạn trở về với hai bàn tay trắng nhưng tâm
hồn thì tràn ngập hân hoan liền cất tiếng trả lời: "Tôi đã đi tìm Thiên
Chúa, và cuối cùng tôi mới hiểu ra rằng: chính Thiên Chúa, Người đã đi tìm gặp
tôi!"
13. Chúa ở đâu trong lòng tôi?
Hỏi rằng người ta ơ đâu khi tổng thống John
Kennedy bị ám sát, nhiều người không chỉ nhớ chính xác thời giờ, mà cả địa điểm.
Cũng vậy, hai môn đệ đầu tiên nhớ rõ lần đầu tiên họ đã gặp Chúa Giêsu ở đâu. Một
trong hai môn đệ này là Anrê, còn người kia thì vô danh. Tuy nhiên, nhiều người
vẫn cho đó là Gioan, vì ông cho biết chính xác thời gian và địa điểm của cuộc gặp
gỡ: lúc bốn giờ chiều ở bờ sông Giođan.
Tôi có thể nhớ lại giây phút đáng nhớ trong mối
quan hệ của tôi với Chúa Giêsu không?
Chúa Giêsu là con nguời vĩ đại. Tôi đã biết Ngài
từ lâu trước khi người say mê nhạc rock làm cho Ngài trở thành siêu sao. (TV’s
Aechie Bunker)
14. Giáo hội cần chúng ta
Phúc âm Gioan đề cập đến Anrê ba lần. Mỗi lần lại
mô tả Anrê dẫn một ai đó đến Chúa Giêsu. Trong Bài Tin Mừng hôm nay, người đó
là Simon Phêrô. Lần khác là cậu bé có năm ổ bánh và hai con cá. Lần sau cùng là
một vài người Hy Lạp.
Việc Anrê giới thiệu người ta với Chúa Giêsu mời
gọi tôi: Tôi đã chia sẻ niềm tin của tôi vào Chúa Giêsu cho người khác, đặc biệt
cho gia đình và bạn bè tôi như thế nào?Tôi có thể làm cách nào để ngày càng ý
thức hơn điều tôi đã làm?
Một ký giả hỏi mẹ Têrêsa: “Đâu là sự thiếu sót của
giáo hội hôm nay?” Mẹ Têrêsa trả lời: “Ông và tôi, chúng ta là sự thiếu sót ấy,
vì chính chúng ta là Giáo Hội”
15. Tôi theo ai?
Một truyền thuyết xưa kể về một ông vua có một
chiếc nhẫn thần. Bất cứ ai đeo nhẫn này đều sống tử tế đến độ được mọi người
yêu mến. Trước khi chết, nhà vua trao bốn chiếc nhẫn giống hệt nhau cho bốn người
con. Chúng tự hỏi: “Không biết trong bốn chiếc nhẫn này, đâu là chiếc nhẫn thật?”
Để tìm câu trả lời, chúng hỏi ý kiến của một nhà hiền triết. Người này nói: “Thời
gian sẽ cho các anh biết đâu là chiếc nhẫn thật. Cuộc đời các anh sẽ trả lời
câu hỏi đó,”
Câu chuyện về chiếc nhẫn và lời thư Gioan trong
bài đọc hôm nay mời gọi tôi tự hỏi: cuộc đời tôi trả lời thế nào cho câu hỏi
này: tôi là con Thiên Chúa hay con ma quỷ?
Hoa không sinh ra rễ, nhưng rễ lại sinh ra hoa.
Hoa là bằng chứng cho thấy tầm quan trọng của rễ (Woodrou Wilson)
16. Chọn Chúa
Một thương gia người Mỹ, lúc chết đã làm chúc
thư để lại gia tài đồ sộ cho các con. Người con gái của ông tên Grace lúc đó 23
tuổi, đang tu ở tu viện Đaminh Nữu Ước. Ông để cho cô này một triệu đô la, với
điều kiện là cô phải rời tu viện và tuyên bố bỏ đạo Công giáo. Cuối cùng nữ tu
Grace dứt khoát không rời tu viện, cũng không bỏ đạo. Vì thế cô đã mất cả phần
tài sản to lớn đó.
NGÀY 05/01 - GẶP CHÚA và SAY MÊ GIỚI THIỆU
Lời Chúa: Ga 1, 43-51
Khi ấy, Chúa Giêsu định đi Galilêa. Người gặp
Philipphê và nói với ông: "Hãy theo Ta."
Philipphê là người thành Bétsaiđa, quê quán của
Anrê và Phêrô. Philipphê gặp Nathanaen và nói với ông: "Ðấng đã được
Moisen ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu
con ông Giuse, người thành Nazarét."
Nathanaen đáp: "Bởi Nazarét nào có cái chi
hay?" Philipphê nói: "Hãy đến mà xem."
Chúa Giêsu thấy Nathanaen đi tới mình, thì nói về
ông: "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối."
Nathanaen đáp: "Sao Ngài biết tôi?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi
Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi."
Nathanaen thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua
Israel." Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: ta đã thấy
ngươi dưới gốc cây vả, nên ngươi tin, ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa."
Và Người nói với ông: "Quả thật, quả thật,
Ta nói với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên
xuống trên Con Người."
TRUYỆN KỂ
1. Vượt qua thành kiến để tin theo Chúa
Có một bạn trẻ Công Giáo rủ một người bạn bên đạo
Phật đi lễ của người Công Giáo. Bạn bên đạo Phật nói rằng: “Mình có theo đạo
Công Giáo đâu mà đi lễ?”; bạn bên Công Giáo trả lời: “Thì đi với tớ một hôm cho
vui!”, nể quá nên bạn trẻ bên đạo Phật đã đi lễ cùng.
Đến nơi, thánh lễ chuẩn bị bắt đầu, hai bạn đi
vào nhà thờ cách cung kính, nghiêm trang. Trong phần giảng lễ hôm đó, vị linh mục
đã quảng diễn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cách hùng hồn và đầy hấp dẫn
qua dụ ngôn: “Người Cha nhân hậu”! Không ngờ, bài giảng ấy đã đánh động mạnh
nơi lương tâm người bạn kia, bởi bạn đó thấy được một Đức Giêsu dễ thương, gần
gũi và nhất là không hề chấp nhất tội lỗi của con người. Ngài luôn tìm mọi dịp
thuận tiện để tha thứ. Sau đó, bạn đó đã tình nguyện xin đi học giáo lý và gia
nhập đạo Công Giáo.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại việc sau khi
Đức Giêsu gọi ông Philiphê, ông đã giới thiệu ông Nathanaen đến với Ngài. Tuy
nhiên, Nathanaen đã hồ nghi và thốt lên: “Từ Nadarét làm sao có cái gì hay được?"
Nhưng khi ông đến và gặp Đức Giêsu, Ngài đã nói về ông như sau: “Đây đích thực
là một người Ítraen, lòng dạ không có gì gian dối." Ngay sau đó, Ngài đã
cho ông biết về đời sống của ông cách nhiệm mầu, vì thế, ông đã sẵn sàng từ bỏ
mọi sự để đi theo Đức Giêsu.
2. Thành kiến
Có một gánh xiếc nọ bị hoả hoạn, ông chủ gánh xiếc
sai anh hề chạy đi kêu dân chúng trong làng đến tiếp tay chữa cháy, chẳng vậy lửa
bốc to có thể lan sang khu vực họ đang ở. Anh hề vội vàng chạy đi. Nhưng anh
càng gào thét, múa máy bao nhiêu, dân chúng lại càng cười lớn bấy nhiêu vì họ
nghĩ rằng anh hề đang diễn một màn hài hước.
Thấy không ai tin mình, anh hề giật râu, giật
tóc và bậc khóc khiến khuôn mặt đầy phấn sáp của anh càng lọ lem hơn và càng
làm cho dân chúng cười lớn hơn. Gào thét hết cả hơi sức, nhưng chẳng có ai tin
anh.
Cuối cùng ngọn lửa cháy lớn lan tới thiêu huỷ cả
làng ấy ra tro.
3. Cứ đến mà xem
Đa số các bạn học của tôi đều theo đạo “thờ Ông
Bà." Có lần chúng bảo tôi:
- Theo đạo thì được cái gì?
- Đi nhà thờ chỉ được cái mất thì giờ thôi!
Tôi trả lời không thỏa đáng, nên chúng bạn cười
chê. Thế là mỗi đứa đi một ngã, chẳng thèm nhìn mặt nhau nữa.
Khi Nathanael khiêu khích, Philíp chỉ trả lời “Cứ
đến mà xem." Tại sao tôi cứ mãi đôi co mà không dịu dàng mời gọi các bạn ấy
như Philíp “Cứ đến mà xem." Vâng, cứ đến mà xem, rồi các bạn sẽ thấy Chúa
tuyệt vời thế nào!
Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa nhiều hơn và nói
về Chúa cách hiền hòa cùng với sự kính trọng tha nhân.
4. Tagore làm thơ
Một hôm cậu bé Tagore làm thơ và đưa lên cho cha
cậu xem. Ông thân chinh chê lời:
- Dở lắm!
Hôm sau, cậu bé lại đem cho cha một sáng tác mới.
Ông thân sinh cũng bĩu môi:
-Thơ này là thơ thẩn!
Tagore mới nghĩ ra một mưu. Cậu đem bài thơ của
mình mới làm, chép lại thật kỹ và ghi xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ.
Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận. Lần này ông thân sinh đọc
xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: Tuyệt! Tuyệt! - rồi đem khoe tíu tít với
con trai lớn của ông hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học: “Ba đã đọc rất
nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này!”
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong, cũng hết mình đồng
ý, xoa tay khen ngợi là hay đáo để và muốn trích đăng lên mặt tờ báo của ông...
Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia đối
chiếu chứng minh và cũng dễ bề ghi xuất xứ khi đăng.
Đến đây câu chuyện mới vỡ lẽ ra: Có ai ngờ trên
đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore. Ông thân sinh giận sôi
máu lên. Nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái
độ mâu thuẫn của mình xưa kia!
Vâng! Thành kiến nhiều khi trở thành một rào cản
không cho chúng ta nhìn thấy hết sự thật.
5. Chúa thấy và biết
Nathanael đang làm gì dưới gốc cây vả khi Chúa
Giêsu thấy ông ta.? Một số người nghĩ rằng ông ta đang cầu nguyện. Cây vả rợp
bóng rất thích hợp để ngồi và cầu nguyện. Cũng có thể Nathanael đang suy ngẫm lời
tiên tri về Đấng Mêsia. Cũng có thể ông đang hỏi Thiên Chúa liệu ông có thể gặp
Đấng Mêsia trước khi ông chết không.
Tôi tin tưởng Thiên Chúa thấy và nghe tôi cầu
nguyện ra sao? Làm thế nào có thể khắc sâu được niềm tin này?
Chúa Giêsu thấy điều ta không thấy và nghe điều
ta không nghe được. Ngài ở trái đất, nhưng lại thuộc về trời cao. Và chỉ trong
đơn độc, ta mới có thể viếng thăm thế giới đơn độc của Ngài được. (Kahlil
Gibran)
6. Tin là chọn lựa của từng người
Thomas Huxley, một nhà sinh vật học người Anh nổi
tiếng, hỏi một người đàn ông: “Chúa Giêsu có ý nghĩa gì đối với anh?” Người đàn
ông do dự rồi nói: “Ông là người có học thức cao và ông có thể tranh cãi bất cứ
điều gì mà tôi nói ra.” Nhưng Huxley trấn an rằng ông không đi đến tranh cãi.
Sau khi nghe người đàn ông giải thích Chúa Giêsu có ý nghĩa gì đối với anh,
Huxley nói: “Tôi ủng hộ niềm tin của anh vào Chúa Giêsu.”
Câu chuyện trên đây cho thấy điều này: không ai
có thể tin vào Chúa Giêsu thay cho chúng ta. Chính chúng ta “phải đến mà xem.”
Niềm tin cũng như tình yêu, nó không thể bị ép
buộc. (Arthur Schopenhauer)
7. Người bạn tốt nhất
Vua xe hơi Henry Ford nhận định: “Người bạn tốt
nhất của tôi là người khơi dậy những điều tốt nhất trong tôi.” Phi-líp-phê quả
là người đứng hàng đầu trong số những bạn như thế: Ngay khi vừa được Chúa
Giê-su kêu gọi Phi-líp-phê đã nhanh chóng chạy đến nói với bạn. Ông muốn trao
cho bạn món quà quý giá nhất mà ông vừa có. Rồi khi bạn chần chừ, ông đã mời bạn
đến với Chúa Giê-su. Na-tha-na-en đã đến, và đã gặp Chúa Giê-su; và nhờ cuộc gặp
gỡ đó, Na-tha-na-en được mở rộng tầm nhìn để thấy được những mầu nhiệm cao cả.
Hai người bạn cùng trở thành môn đệ của Chúa, cùng chia sẻ sứ mạng tông đồ, tiếp
tục dẫn dắt người khác đến với Đấng Ki-tô.
Xưa cũng như nay, tình bạn là tình cảm cao quý
nhất và là tài sản vô giá của con người. Tình bạn càng linh thiêng hơn khi nó dẫn
tới tình bạn với Thiên Chúa.
NGÀY 06/01 - CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Lời Chúa: Mc 1, 6b-11
Khi ấy Gioan rao giảng rằng: "Có Ðấng đến
sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho
Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em
trong Thánh Thần.
Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu
từ Nazarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan.
Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở
ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời:
Con là con yêu quí của Cha, con đẹp lòng Cha mọi đàng.
TRUYỆN KỂ
1. Là con Thiên Chúa
Ngày kia, có một ông vua đi săn trong rừng, bỗng
dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ. Ông đi tới và thầm nghĩ: - Chắc hẳn
em nhỏ bất hạnh này bị cha mẹ bỏ rơi.
Ông ẵm đứa nhỏ lên, đem về hoàng cung, tắm rửa
và mặc cho những bộ quần áo đẹp.
Khi em bé lớn lên, ông đã nói với em: - Kể từ
nay, ta sẽ gọi ngươi là con của ta và ngươi sẽ gọi ta là ba của con.
Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót của
ông vua, nhưng nếu suy nghĩ về bí tích Rửa tội, chúng ta còn phải ngạc nhiên
hơn nữa.
Thực vậy, em nhỏ mặc dù được gọi nhà vua là cha,
nhưng trong huyết quản em vẫn không có lấy được một giọt máu của hoàng tộc. Thực
tế em vẫn chỉ là con của một kẻ nghèo túng.
Nhưng đối với chúng ta thì khác, nhờ dòng nước rửa
tội, chúng ta được tẩy sạch khỏi mọi vết nhơ tội lỗi đã đành, mà hơn thế nữa
chúng ta còn được mặc lấy tấm áo ơn sủng. Thiên Chúa thông ban cho chúng ta sự
sống của Ngài, để khi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, thì đó không còn là một
danh từ trống rỗng và vô nghĩa, nhưng là một sự thật: - Thiên Chúa là Cha chúng
ta và chúng ta là con của Ngài.
2. Người con yêu quý
Vào thế kỷ thứ IV, Ario truyền bá một lạc thuyết
vô cùng nguy hại. Ario chủ trương rằng Đức Kitô không thực sự là Con Thiên
Chúa. Hoàng đế Theôđôsiô đỡ đầu cho lạc thuyết này.
Cũng vào lúc ấy hoàng đế phong cho hoàng tử mới
16 tuổi của ông được cùng trị vì trên ngai vàng với ông. Trong những khách được
mời đến dự buổi lễ phong vương, có Đức Giám mục Amphilôcô. Đức Giám mục chỉ nói
vài lời chúc mừng rồi chuẩn bị ra về.
Hoàng đế giận dữ hỏi: Ngài không quan tâm đến
hoàng tử sao? Ngài không biết rằng ta phong cho hoàng tử cùng trị vì với ta hay
sao?
Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: Tâu hoàng thượng,
hoàng thượng phật ý trước sự giả bộ thờ ơ của tôi đối với hoàng tử, vì tôi đã tỏ
ra không tôn kính hoàng tử như bệ hạ mong muốn. Vậy Thiên Chúa sẽ nghĩ sao về
hoàng thượng, khi hoàng thượng giáng cấp Người Con ngang hàng và cùng hiện hữu
với Ngài dưới danh hiệu Con Thiên Chúa.
Ngày nay có nhiều người, kể cả một số người mệnh
danh là Kitô hữu, đã chối bỏ hoặc nghi ngờ thiên tính của Đức Kitô. Thiết tưởng
những người ấy hãy lắng nghe lời Chúa Cha tuyên phong trong đoạn Tin Mừng sáng
hôm nay: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
3. Phép rửa
Có hai anh bạn đi mua đồ phế thải. Sau khi xem
xét một hồi, anh thứ nhất nói: - Toàn là đồ “năm vố” không à.
Còn anh kia thì nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ
đã han dỉ và nói: - Thật là khó mà tin được, tôi đã tìm thấy một món đồ quý.
Cây thánh giá này được làm bằng chất bạc ngày xưa.
Anh ta mang cây thánh giá về nhà, lau chùi, rồi
đưa cho đứa con mới đi học giáo lý về. Nó kính cẩn cầm trong tay, ngắm nghía một
hồi rồi bật khóc. Thấy vậy anh liền hỏi: - Tại sao con khóc.
Nó trả lời: - Con không thể cầm lòng được khi
nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Và như thế, cả ba người đều nhìn vào cây thập
giá, thế mà người thứ nhất chỉ thấy đó là đồ ve chai mủ bể, người thứ hai thì
thấy đó là một đồ vật có giá trị. Còn người thứ ba thì nhận ra Chúa Giêsu trên
đó. Cách nhìn cây thập giá trên cũng tương tự như cách chúng ta nhìn Phúc âm.
4. Hạ mình xuống mới qua được
Một chiếc xe tải không thể qua cầu được vì nóc
xe cao quá nên chạm vào mái che của chiếc cầu. Chẳng ai nghĩ ra được cách nào cả.
Khi đó một cậu bé đưa ý kiến: hãy xì bớt hơi các bánh xe của nó. Người ta đã
làm theo, và xe đã qua được cầu.
Cả hai vai chính trong chuyện này đều là những
nhân vật khiêm tốn: Gioan khiêm tốn tự hạ mình để đề cao Chúa Giêsu; Chúa Giêsu
khiêm tốn xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Người khiêm tốn là người chỉ nghĩ đến việc chu
toàn nhiệm vụ chứ không quan tâm đến vinh dự cá nhân.
Lúc còn trẻ, Franklin là một người rất cao ngạo,
đi ra ngoài lúc nào cũng nghênh ngang. Có một lần, anh ta đến thăm một vị giáo
sư, không ngờ cửa nhà ông ấy có một thanh chắn ngang rất thấp.
Do bất cẩn Franklin đụng đầu phải, cậu ta trừng
mắt tức giận.
Lúc này vị giáo sư đi ra đón, nhìn thấy vậy thì
cười và nói:
- Chàng trai, có đau lắm không? Nếu cậu hiểu cuộc
sống thì cậu nên cúi thấp đầu, có như thế thì hôm nay cậu đã không phải nhận hậu
quả như vậy.
Tiếp đó, vị giáo sư lại nói một câu hàm ý: “Sự
cao ngạo được thấy rất nhiều ở những người trẻ tuổi, vì họ đánh giá mình quá
cao, nhưng đến lúc nào đó đụng vào ngạch cửa rồi thì mới bắt đầu suy nghĩ về việc
mình phải nỗ lực khom lưng để đi qua."
5. Cha hài lòng về con
Khi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm thêm
22 Hồng Y mới thuộc 14 quốc gia vào Hồng Y đoàn trong đó có: 8 vị Ý, 2 vị Mỹ,
12 thuộc 12 nước khác thì một trong hai vị của Hoa Kỳ là tân Hồng Y Roger
Mahony Tổng Giám mục Los Angeles cho biết: “Chúng ta cần nhớ rằng, việc bổ nhiệm
Hồng Y không phải là một phần thưởng vì những thành tích quá khứ, nhưng là một
lời mời gọi gia tăng hoạt động mục vụ trong tương lai." Đức Hồng Y nhắc lại
thân thế khiêm hạ của Ngài: “Hồi nhỏ tôi phải đi chăn gà vịt và quét dọn chuồng
gà, chứ không phải xuất thân từ một gia đình sang trọng." Đức Hồng y tiếp:
“Trong Tin Mừng, Chúa đã chọn những người tầm thường để thực hiện công việc của
Ngài."
Chúa Giêsu là Đấng khiêm tốn. Chính vì Chúa
Giêsu khiêm tốn nên Ngài được Chúa Cha hài lòng và tôn vinh: “Con là Con yêu dấu
của Cha. Cha hài lòng về con”
6. Con lừa được chọn
Khi Đức Maria và thánh Giuse đang trên đường đến
Bêlem, thiên thần hiện ra với đàn súc vật để chọn lấy một con có thể giúp đỡ
thánh gia. Sư tử tình nguyện trước. Nó nói: “Chỉ có tôi là chúa sơn lâm đáng phục
vụ người cai trị thế giới. Tôi sẽ xé xác kẻ nào đến gần Hài nhi."
Thiên thần nói: “Bạn hùng hổ quá."
Cáo tinh khôn theo dõi và với vẻ mặt vô hại, nó
nói:
‘‘Tôi sẽ hết sức cung phụng trẻ Giêsu, mỗi sáng
tôi sẽ bắt một con gà cho Mẹ Ngài."
Thiên thần nói với cáo: “Bạn xảo quyệt quá."
Rồi con công đến khoe màu sắc tuyệt vời của cái
đuôi. Nó nói: “Tôi sẽ trang hoàng ngôi nhà nhỏ bé này đẹp hơn cả Đền thờ
Salômon."
Thiên thần nói: “Bạn hão huyền quá."
Nhiều con khác đến và cũng muốn giúp đỡ nhưng
không con nào được chọn. Sau cùng thiên thần rảo mắt nhìn quanh và thấy một con
lừa và một con bò đang làm việc với một bác nông dân. Thiên thần gọi chúng lại
và hỏi: Các bạn có gì giúp đỡ Thánh Gia không?
Lừa cụp tai xuống trả lời: “Không có gì. Chúng
tôi chả được học hành, càng cố học càng dốt, nhưng chúng tôi khiêm tốn và kiên
nhẫn." Còn bò ngượng ngùng tiếp lời: “Vâng, có lẽ chúng tôi chỉ có thể làm
được một vài việc nhỏ như lấy đuôi đuổi ruồi thôi."
Thiên thần nói: “Được lắm, tôi cần hai bạn.”
Những ai muốn làm môn đệ của Chúa cũng phải sống
tinh thần khiêm tốn. Họ phải tuyệt đối tránh sự tự kiêu, tự đại vì thành công của
mình và cũng như để khỏi thất vọng mỗi khi thất bại, không thành công.
7. Lớn lên không ngừng
Ingres là một họa sĩ lừng danh vào đầu thế kỷ
19, những bức họa của ông có giá trị nghệ thuật mà không một họa sĩ nào đương
thời có thể sánh bằng. Thế mà đến năm 85 tuổi, người họa sĩ kỳ tài ấy lại bắt đầu
sao chép lại những bức họa của các họa sĩ khác.
Các bạn bè khi thấy ông làm điều ấy thì hết sức
ngạc nhiên nên đã hỏi tại sao ông lại làm như thế? Ông điềm nhiên trả lời:
- Tôi làm thế để học?
Một con người vĩ đại với những tác phẩm nghệ thuật
lừng danh ngay khi còn trẻ, vậy mà lại nhận rằng mình chưa hiểu đủ, thấy đủ và
nhất là chưa học đủ, quả là một con người hiếu học và khiêm nhường.
Khiêm nhường là con đường cao cả nhất, vì “Thiên
Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Ga 4, 6).
8. Tình yêu luôn hy vọng
Trận động đất và sóng thần ngày 11.3.2011 tại Nhật
Bản được coi như là một thảm họa lớn nhất trong 100 năm qua. Con số người thiệt
mạng và mất tích lên đến trên 16.600 người.
Biết bao cảnh tang thương làm cả thế giới phải đổ
lệ, như cảnh 30 em bé Nhật ngồi yên lặng trong một lớp học chờ cha mẹ đến đón về,
không hề nghĩ đến chuyện chẳng còn ai đến đón các em về.
Còn ở Kamaishi, người ta thấy một người đàn ông
tóc hoa râm lảo đảo bước ra khỏi đống đổ nát, hầu như kiệt lực. Đó là Kenichi
Suzuki, một lính cứu hỏa tình nguyện, người đã xông pha liên tục suốt những
ngày sau khi thảm họa xảy ra - để rồi khi quay về nhà, ông bàng hoàng nhận ra cả
gia đình mình đã thiệt mạng.
Suzuki cho biết ông đã không có tin tức từ gia
đình ngay sau khi thảm họa xảy ra. Công việc sửa chữa đê sóng thần đã không cho
phép ông có thời gian quay về tìm tin tức người thân.
“Tôi không còn nghĩ được gì nữa”, Suzuki
nói trong nước mắt, “Vợ tôi, vợ chồng con trai tôi và bốn đứa cháu - tất cả đều
đã ra đi.”
Đối với ông, chẳng còn mất mát nào lớn lao hơn!
Ông gần như ngã gục vì tuyệt vọng trước sự mất
mát lớn lao đó.
Không hy vọng, sự sống chẳng còn là gì ngoài một
cái chết kéo dài. Ai có thể mang lại cho họ một tia hy vọng mong manh về sự sống?
Đó chỉ có thể là công việc của tình yêu Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu, ở đó còn
hy vọng. Thiên Chúa nhân hậu đã không bỏ mặc con người.
9. Ba Ngôi nên một
Tại một nhà thời ở ngoại ô Trung Quốc, ngay khi
thánh lễ sắp sửa bắt đầu, thì một quân sĩ có vũ trang đi vào. Cộng đoàn tín hữu
cảm thấy lo sợ. Nhận thấy điều đó, người lính đã trấn an họ bằng cách làm dấu
thánh giá, một dấu chỉ niềm tin vào Chúa Ba Ngôi: “Nhân danh Cha , và Con, và
Thánh Thần."
Bài đọc hôm nay chứa đựng một trong những dẫn chứng
ấn tượng nhất vào Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng từ trời, Chúa Con ra khỏi nước,
và Chúa Thánh Thần qua chim bồ câu đậu trên Chúa Giêsu.
Tôi đã bày tỏ niềm tin nơi Chúa Ba Ngôi như thế
nào?
Cũng như có ba nốt nhạc, nhưng chỉ có một âm;
cũng vậy, có ba ngôi vị, nhưng chỉ có một Chúa. (Thánh Ignatiô)
10. Tình yêu cứu thế
Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự.
Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy
có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt
chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc thấy vậy phá lên cười.
Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết
định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi
đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té
ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi
người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan lớn cầm tay ông cụ
đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ.
Chỉ có hành động cố tình té ngã của vị quan lớn
kia, mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc.
Con Thiên Chúa trên tầng trời cao thẳm, lại hạ
mình xuống làm kiếp phàm nhân.
11. Ta hài lòng về con
Geoge Wasinhton là vị tướng tài ba và là vị tổng
thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Thế nhưng, rất ít người biết ông còn là một tấm
gương sống động về lòng hiếu thảo đối với người mẹ của mình.
Sau những trận chiến cam go nhất, cũng như giữa
những công việc bề bộn và nặng nề nhất của một vị nguyên thủ quốc gia, ông vẫn
dành thời giờ về thăm hỏi và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già. Một hôm mẹ đã
hỏi ông như sau: Tại sao con dành nhiều thời giờ thăm nom mẹ như vậy? Ông liền
trả lời: Thưa mẹ, ngồi bên mẹ để lắng nghe mẹ nói thực không phải là việc mất
giờ. Chính sự bình thản và lòng tốt của mẹ dạy con muốn tiếp tục sống.
Đoạn Tin Mừng hôm nay, cho chúng ta thấy mối
liên hệ giữa Đức Kitô với Chúa Cha, cũng như giữa chúng ta với Thiên Chúa. Trước
hết là mối liên hệ giữa Đức Kitô và Chúa Cha.
Như chúng ta đã biết Đức Kitô chính là người con
duy nhất của Chúa Cha. Vì vâng phục Ngài đã xuống thế làm người để cứu độ chúng
ta. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, nỗi ưu tư số một của Ngài là chu toàn thánh ý
Chúa Cha, đến nỗi thánh Phaolô đã phải viết: Ngài đã vâng phục cho đến chết và
chết trên thập giá.
Chính vì thái độ vâng phục vô điều kiện này, mà
hôm nay bên bờ sông Giođan, cũng như mấy năm sau trên đỉnh Taborê, chính Chúa
Cha đã tuyên phong Ngài: Này là con Ta yêu dấu. Ta hài lòng về con. Hãy vâng lời
Ngài.
12. Ơn gọi Kitô hữu
Lần kia, Đức Hồng Y Newman đã hỏi cộng đoàn của
ngài “Việc trở thành một người Kitô hữu tạo ra sự khác biệt gì trong lối sống hằng
ngày của chúng ta?" Câu kết luận là “Tôi e rằng hầu hết chúng ta cứ tiếp tục
làm những gì chúng ta đã làm, nếu chúng ta cho rằng đạo Công giáo không hơn gì
một câu chuyện ngụ ngôn."
Ơn gọi làm người Kitô hữu bao gồm cái gì? Theo
những lời trong Tin Mừng, thì ơn gọi làm người Kitô hữu là một tiếng gọi trở
nên “muối đất, ánh sáng thế gian." Đạo Công giáo nói về lối sống như thế
nào, chứ không chỉ nói về lòng tin vào điều gì. Không nên có sự phân biệt giữa
sinh hoạt tôn giáo và những hoạt động thường ngày. Lòng tin phải được chuyển
thành hành động. “Đừng ngại loan báo điều mà bạn tin tưởng, trừ phi bạn hành động
một cách phù hợp” (Catherine de Hueck Doberty).
13. Tôi mới có hai tuổi
Có một cụ già, mãi tới khi 80 tuổi mới lãnh nhận
phép rửa tội. Bắt đầu từ đó cụ sống một đời rất gương mẫu. Hai năm sau, cụ hấp
hối. Có người muốn biết cụ bao nhiêu tuổi. Cụ dõng dạc trả lời: ”Tôi mới có hai
tuổi. Tám mươi năm trước khi rửa tội là những năm chết. Tôi mới bắt đầu sống thật
khi tôi chịu phép rửa tội." Thật là chí lý.
14. Thay đổi chính mình
Linh mục Anthony de Mello kể lại tâm sự của một
nhà hiền triết như sau:
Nhìn lại cuộc sống đã qua, nhà hiền triết thú nhận:
Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ tôi thường
xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi trái đất này trở nên tốt hơn. Khi được nửa đời
người, tôi ý thức là mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người
nào. Tôi lại đổi lời cầu nguyện cho thiết thực hơn: ”Lạy Chúa, giờ đây con chỉ
xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những người con tiếp xúc hằng
ngày thôi."
Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết tôi thấy rằng
mình quá cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời cầu nguyện như sau: ”Lạy
Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con." Nếu từ tuổi thanh
xuân tôi đã cầu nguyện như thế, thì có lẽ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một
đời sống vô ích.
15. Vừa thì đứng
Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước
Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng nghiêng, ngài hỏi, thì người giữ miếu cho biết:
- Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua
hằng để bên ngai vàng hầu làm gương.
Ngài nói:
- Ta vốn nghe đồn nhà vua có một bảo vật, bỏ
không thì nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng thẳng, mà đổ đầy thì lại ngã.
Có lẽ là vật này chăng?
Rồi ngài bảo học trò múc nước thí nghiệm thì quả
nhiên đúng như thế.
Bấy giờ ngài mới trịnh trọng giảng giải:
- Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu muội.
Có công to trong thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung. Sức khỏe hơn người nên
giữ bằng cách nhút nhát. Giầu có bốn biển nên giữ bằng cách bố thí và thái độ
nhún nhường. Đó là lối san sẻ bớt đi để khỏi đầy tràn mà sụp đổ vậy."
16. Tên con là Phlilippe.
Một hôm, người ta đem đến trình vua Philippe một
thanh niên bị bắt quả tang ăn trộm. Vua nhìn thẳng vào mặt hắn và hỏi:
- Tên mày là gì?
Anh ta rụt rè thưa:
- Thưa tên con là Philippe ạ.
Vua trợn mắt nói tiếp:
-Mày là Philippe trùng với tên tao mà mày lại đi
ăn trộm à. Mày làm ô danh tao. Vậy mày phải làm một trong hai việc: một là phải
đổi tên đi, hai là phải thay đổi cách sống...
Chúng ta đã lãnh nhận bí tích rửa tội và đã được
trở thành con Thiên Chúa. Được làm con Thiên Chúa là một tước hiệu vô cùng cao
quí, một hồng ân lớn lao Chúa ban cho con người. Nhưng chúng ta đã sống thế nào
với hồng ân cao qúi ấy? Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không? Khi Chúa
Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha đã phán: ”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài
lòng về Con." Vậy Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không? Chúng ta
đã trở thành con Chúa và được mang danh hiệu là Kitô hữu, vì vậy, nỗ lực của
cúng ta là phải luôn cố gắng sống xứng đáng với danh hiệu ấy để được Chúa hài
lòng với chúng ta.
Ngày 07/01 -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
LỄ HIỂN LINH – ÁNH SÁNG TRONG ĐÊM TỐI
Lời Chúa : Mt 2, 1-12
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa,
trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giêrusalem. Các
ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận
thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người."
Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả
Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật
sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ.
Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ
Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất
Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự
nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của
Ta."
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới,
cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem
và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp
thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người." Nghe
nhà vua nói, họ lên đường.
Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại
đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi
sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà
Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ
đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với
Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.
TRUYỆN KỂ
1. Thần tượng tuyệt vời
Ngày 01-10-1977, trên một sân vận động tại
NewYork, trước 80 ngàn khán giả hâm mộ bóng đá, cầu thủ lừng danh Pélé đã ghi
cho mình bàn thắng thứ 1.278. Sau đó anh đã tuyên bố giã từ đời cầu thủ chuyên
nghiệp. Một phóng viên hỏi anh: “Pélé, anh đang là thần tượng của hàng triệu bạn
trẻ, vậy trong cuộc đời của anh, anh có thần tượng nào không?” Pélé chỉ vào cây
Thánh Giá đeo trước ngực và trả lời: “Có chứ, thần tượng của tôi là chính Đức
Giêsu Kitô."
Để làm người, để bắt đầu một cuộc sống hạnh
phúc, mỗi người cần có một mục đích đừng quá xa với khả năng của mình, cũng đừng
quá tầm thường đến nỗi không cần một chút cố gắng nào.
Thần tượng của Pélé là Đức Kitô. Đó là một thần
tượng tuyệt vời vì Đức Kitô là Thiên Chúa, nhưng đó có phải là một đích nhắm
quá cao xa không? Không, vì Đức Kitô là Thiên Chúa làm người.
2. Ánh sáng đức tin
Arthur Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh
được huấn luyện trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu
tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định: “Có nên quì gối đọc kinh như thói
quen ở nhà không?" Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ:
“Chẳng lẽ mình phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao?”
Anh liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói
quen. Khi vừa làm dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người mới biết anh là người
Công giáo. Hơn nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy
nhiên, anh vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc
tranh cãi hàng giờ.
Cuối khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt
nhất đâu. Có thể tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.
Ánh sáng Đức Tin của người lính đã tỏa sáng
trong trại huấn luyện của không lực hoàn gia. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói:
“Các con là ánh sáng thế gian” (x. Mt 5,14-16). Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn
đường cho các đạo sĩ, ngôi sao Tin Mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn
tăm tối của chúng ta. Để từ đây, ánh sáng đức tin luôn tỏa rạng ngời.
3. Hãy tỏa sáng
Hôm ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho
gần 500 tín hữu trong một hội trường rộng lớn về đề tài “Hãy làm gương sáng”,
thì điện bị cúp trong toàn khu vực (cúp điện theo chiến thuật!). Cả hội trường
chìm trong bóng tối.
Bấy giờ ngài bật lên một que diêm, giơ cao
lên và cất tiếng hỏi: “Anh chị em có thấy ánh sáng từ que diêm nầy không?”
Mọi người trong hội trường đáp lại: “Thưa
có”
Vị linh mục tiếp: “Dù bóng tối phủ dày
nhưng chỉ cần ánh sáng của một que diêm thôi cũng đủ cho nhiều người chung
quanh nhìn thấy. Như thế, ánh sáng của việc tốt, dù nhỏ bé thôi, cũng có thể tỏa
ra trước mắt nhiều người trong một xã hội dẫy đầy bóng tối.”
Sau đó, ngài mời gọi những ai mang theo hộp
quẹt trong túi, hãy bật cho lửa sáng lên. Nhiều người hưởng ứng. Thế là bóng tối
bị đẩy lùi, cả hội trường sáng lên bởi rất nhiều ánh lửa nhỏ từ các hộp quẹt của
những người hiện diện.
Bấy giờ vị linh mục tiếp: “Nếu mỗi người
chúng ta cố gắng thực hiện một việc tốt mỗi ngày thì cuộc đời chúng ta sẽ tỏa
sáng như những đốm lửa trên tay chúng ta đây. Nhờ đó bóng tối của thói hư tật xấu
và của tệ nạn đang bao trùm thôn xóm sẽ dần dần bị đẩy lùi.” (Phỏng theo một cốt
truyện trên internet)
Hôm xưa, nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ rực sáng
lên ở phương đông, các nhà chiêm tinh mới lần theo ánh sao, tìm đến thờ lạy
Chúa Hài Nhi. Hôm nay, mỗi người tín hữu theo Chúa Kitô phải trở thành những
ánh sao mới để dẫn lối cho bao người tìm về với Chúa.
4. Herode ganh ghét và thù địch
Vua nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và
cho con cháu sau này. Nên khi nghe nói có một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất
nhiên vua nào cũng lo lắng. Nhưng, đối với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng
càng dữ dội hơn nữa, vì cá tính đầy tham vọng của ông.
Lịch sử cho biết ông là một người đa nghi. Về điểm
này, ông rất giống Tào Tháo. Sẵn sàng giết chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại
đến quyền hành của ông. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra.
Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander, Aristobulus cũng bị ông
sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôdê
còn an toàn hơn làm con trai ông ta."
Một con người đầy tham vọng như vậy làm sao có
thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua Tình Thương.
Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.
5. Thuợng tế và kinh sư dửng dưng
Thái độ Dửng Dưng như không hay biết gì của các
thượng tế và kinh sư.
“Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và
kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời:
Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi
Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi
là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt. 2,4-6).
Các thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần Kinh
Thánh, nhưng rõ ràng thái độ của họ xem những gì nói đến trong Kinh Thánh như
những chuyện huyền thoại xa xưa không dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi, có
hay không có Giêsu cũng không thành vấn đề gì đối với họ.
Họ đang no đầy những lợi lộc và cả quyền lực. Họ
không thể thay đổi con đường của họ đang đi. Họ bằng lòng với những gì đang có,
cuộc sống của người khác mặc họ. Một Đấng Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải
quan tâm đến.
6. Herode thời nay
Ở quê tôi, tôi quen biết một anh công giáo rất tốt.
Anh thường xuyên đi lễ ngày thường, và giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975,
anh không đến nhà thờ nữa. Một ngày kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh
dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà. Bước
vào nhà anh, không còn dấu vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn năm làm việc,
rồi anh cũng đã quay về, dựng lại bàn thờ xưa. Đường công danh thấy cũng không
đến đâu.
Ở quê tôi, có một anh cũng có một chức vụ quan
trọng. Anh này không chỉ xoá dấu vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng định mình
đã đoạn tuyệt với Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh ta đã
kích Đạo dữ lắm. Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và ngồi
cùng bàn với anh ta, và được một người giới thiệu danh tánh và chức vụ của anh.
Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh mì và nói: “Này là mình ta…”, rồi anh cầm
lấy ly rượu, nói tiếp: “Này là máu ta…." Vị linh mục và tôi bước ra khỏi
bàn …Sau này, anh mất chức. Nghe nói có một người có chức vụ lớn đã nói về anh
ta: “Là một người Công Giáo được dạy dỗ từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm
đến thế, thì có thể tin anh sẽ là người trung thành khi anh là một người mới
gia nhập vào một tổ chức nào đó không?"
Đã hơn hai ngàn năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta
vẫn mời gọi con người đến với Ngài sau khi Ngài đi bước trước là “đã đến với
nhân loại." Tình yêu không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con
người cần có thành tâm thiện chí để đến với Ngài.
7. Ánh mắt chữa lành
Câu chuyện kể về một mối tình thật đẹp của một
đôi nam nữ. Nhưng một bà phù thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên ương ấy,
bà hô lên lời nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê rợn và chỉ
trở lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn thẳng vào
đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy để giải lời
nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài thú hoang dã, không
còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm lánh xa cô gái. Cô gái không
hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu bổng dưng bỏ cô đi đâu biền
biệt.
Một bà tiên hiền lành đã thương tình muốn cứu
chàng trai và trả lại tình yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và trao cho cô
một “viên ngọc dẫn đường” để cô đi tìm người yêu. Cô đặt viên ngọc trước mặt,
nó lăn đi qua muôn nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái đáng thương cứ bám theo
viên ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc hành trình không có điểm
hẹn, không có giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có lúc tưởng như
cô không còn đủ sức đứng lên.
Cuối cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp một dòng
suối, cô cố gắng cúi xuống uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động bên bờ suối.
Tiếng muôn thú trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội nghiệp không
hay biết gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Cô tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót líu lo hòa
vang khúc nhạc ngày mới. Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những sợi tơ vàng
óng ánh quanh cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng nỗi sầu trong
lòng cô vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô không biết phải
đi đâu nữa.
Chợt cô nghe tiếng vỡ gẫy của những nhành cây cỏ
dại. Cô quay nhìn lại, phía sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một bóng hình đen
đúa như ma quái. Một con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô không còn sức
nữa, cô ngã xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy nữa, rồi lại
té xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy sợ hãi. Con vật vẫn
còn đó. Nó đứng im.
Cuối cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn về con quái
vật. Lúc này, cô thấy rõ đó là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có vẻ gì hung
dữ. Nó không có vẻ gì đang muốn hãm hại cô.
Con dã nhân tiến lại gần cô. Những ngày tháng đi
theo “viên ngọc dẫn đường”, cùng với những giây phút sự sợ hãi hôm nay đã làm
cô kiệt sức. Cô đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã nhân đang tiến lại
mỗi lúc một gần cô hơn. Gần hơn... rất gần. Mắt cô nhìn thẳng và đôi mắt nó.
Trong khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô ngỡ ngàng
nhận ra một ánh mắt thật quen không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào khác. Cũng
trong khoảnh khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang đứng trước mặt.
Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe sáng lên và
biến mất.
Nếu Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn
đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến Hang Đá thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao
Thánh Giá dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ Thiên Chúa
và xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ.
8. Đạo sĩ thứ tư
Cũng như 3 vị vua kia, Artaban cũng thấy ngôi
sao lạ. Sau khi chuẩn bị lễ vật gồm một viên bích ngọc, một viên hồng ngọc và một
viên ngọc trai, Ông lên đường tiến đến điểm hẹn với 3 vị vua kia. Tuy nhiên dọc
đường ông gặp một người bị thương nặng đang nằm bên vệ đường, ông phải dừng lại
đưa người đó đến một lữ quán nhờ chăm sóc. Vì thế khi đến điểm hẹn thì 3 vị kia
đã đi mất rồi.
Cần có một con lạc đà để có thể đi băng qua sa mạc,
ông bán viên bích ngọc đi để mua lạc đà. Nhưng khi tới Bêlem thì lại trễ, vì
Thánh Giuse và Đức Maria đã đem Chúa Hài đồng lánh nạn sang Ai cập.
Artaban đành tìm một quán trọ để nghỉ đêm. Trong
quán ông gặp một người đàn bà bế một đứa trẻ mới 1 tuổi đang sợ hãi trốn tránh
cuộc lùng bắt của đám lính Hêrôđê. Dù vậy, cuối cùng đám lính cũng tìm tới.
Artaban ra cửa gặp chúng và đưa viên hồng ngọc để chúng khỏi vào lữ quán. Ông rất
buồn vì giờ đây lễ vật ông định dâng Chúa Hài Đồng chỉ còn có mỗi một viên ngọc
trai.
Ông lại lên đường tìm Chúa Hài Đồng. Nhưng ông
luôn bị trễ: nghe tin Đức Giêsu đang ở đâu ông đều tìm đến nhưng khi đến nơi
thì Ngài đã đi nơi khác. Khoảng 30 năm sau, ông đến Giêrusalem. Ông hốt hoảng
khi nghe tin người ta sắp đem Đức Giêsu đi đóng đinh trên đồi Golgotha. Ông vội
vã tìm đến, hy vọng là với viên ngọc trai còn lại, ông có thể cứu sống Ngài.
Tuy nhiên trên đường đến Golgotha, ông gặp một cô gái đang bị quân lính rượt bắt.
Cha của cô thiếu nợ quá nhiều nên người ta định bắt cô để bán làm nô lệ trừ nợ.
Artaban đưa viên ngọc trai ra, và quân lính để cô gái được tự do. Giờ đây
Artaban chỉ còn đôi bàn tay trắng.
Chiều hôm ấy, khi mặt trời bắt đầu lặn, một cơn
động đất khiến các nhà cửa đều rung rinh, ngói nhà bay tứ tung. Một viên ngói
rơi trúng đầu ông. Thế là ông chết trước khi đến được ngọn đồi Golgotha.
Artaban không gặp được Đức Vua mà bao nhiêu năm qua ông đã khổ cực tìm kiếm.
Tuy nhiên, nhìn theo một phương diện khác thì
Artaban đã thực sự gặp được Đức Vua của lòng ông, bởi vì bao nhiêu năm nay Ngài
đã ngự trị trong lòng ông. Ngài đã làm cho lòng ông thành quảng đại, dạy ông
làm những việc bác ái và luôn duy trì niềm hy vọng trong suốt cuộc hành trình của
ông.
Ai đang đi tìm Chúa với trọn niềm tin yêu hy vọng
thì đã gặp được Chúa rồi.
9. Ngôi sao gia đình
Augustinô là một chàng trai chơi bời trác táng,
thế nhưng nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của bà mẹ là thánh nữ Monica, cuối
cùng Augustinô đã trở lại cùng Chúa và trở nên một vị giám mục thánh thiện và
khôn ngoan,
Tiếp đến vợ chồng cũng phải trở nên một thứ ánh
sao cho nhau, có nghĩa là vợ chồng phải biết giúp nhau tìm đến cùng Chúa bằng lời
nói và việc làm của mình. Tôi xin đưa ra một thí dụ: Người chồng là một tân
tòng, nếu không được gương sáng của người vợ thúc đẩy, thì đức tin vừa mới nảy
mầm, chẳng bao lâu cũng sẽ bị thui chột.
Có một ông bố rượu chè cờ bạc, thường bỏ nhà để
đàn đúm ăn nhậu với bè bạn. Ngày kia, khi ông trở về thì trời đã khuya, nhìn
vào nhà ông thấy vẫn còn ánh đèn, lại có cả những tiếng thì thầm. Tiếng thì thầm
ấy chính là tiếng người vợ đang dạy cho đứa con cầu nguyện cho ông. Như được một
luồng ánh sáng chiếu soi, ông bừng tỉnh, từ bỏ con đường tội lỗi để trở về cùng
Chúa.
Một khi mọi người trong mái ấm thân yêu có được
một đời sống gương mẫu, thì chắc chắn gia đình của chúng ta sẽ trở nên như một
ánh sao lạ, qua đó người khác sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên
Chúa.
10. Tại sao Chúa làm người
Có anh chàng trai chẳng hề tin hay nghĩ tưởng gì
đến Chúa. Chàng cũng làm ngơ các thánh lễ hằng tuần. Vợ chàng trái lại rất sùng
đạo. Nàng cố gắng nuôi dạy con cái thấm nhuần lòng tin vào Chúa, mặc kệ những lời
xỏ xiên của người chồng cứng lòng.
Đêm vọng Giáng Sinh, khi nghe vợ con ngỏ ý mời
mình đi dự lễ đêm, chàng càu nhàu: “Vô nghĩa! Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ
mình đến nỗi trở thành phàm nhân sống đời khổ sở như thế! Nghe như chuyện khôi
hài!”
Vợ con đi rồi, chàng ở nhà một mình. Qua khung cửa
sổ, chàng thấy những mảng tuyết đang đổ xuống theo từng đợt gió giật. Nhìn ra
khoảnh sân, chàng thấy cả một bầy ngỗng trời ở đâu kéo tới. Chắc hẳn, trên đường
xuôi nam, bọn ngỗng gặp bão thành ra lưu lạc chốn này. Chúng như mất hướng, bay
lòng vòng quanh quẩn, chắc đang tìm thức ăn và chỗ nào đó kín khuất để tá túc.
Chàng bỗng động lòng, nghĩ đến dãy trại sau nhà, nơi được coi là ấm cúng và yên
ổn cho chúng tạm trú qua đêm chờ cơn bão tan. Nghĩ thế, chàng mò ra phía sau nhà,
đến đầu dãy trại, mở toang cánh cửa lớn ra như để đón chào đàn ngỗng lưu lạc.
Thế nhưng, dường như mắt chúng ra như mù loà, không hề nhìn thấy cánh cửa trại
đã mở toang hoác, càng không hề biết đến hảo ý của chàng. Chúng cứ tiếp tục bay
nhảy vô định, lại chạm vào khung kính, và đụng vào hàng giậu thưa. Càng cố làm
cho chúng chú ý đến mình, thì chúng lại càng tỏ ra hoảng sợ chàng, và tản ra xa
hơn. Càng cố lùa chúng hướng về phía cửa trại thì chúng lại càng đi sang hướng
khác. Thì ra chúng vẫn sợ chàng, vẫn không dám theo chàng, bởi vì chàng đâu phải
đồng loại của chúng đâu. Nghĩ thế rồi, chàng bước vào trại, ôm lấy một con ngỗng
đang nuôi trong trại, mang ra nhử nhử rồi thả chung với đàn ngỗng trời. Con ngỗng
của chàng đã quen thuộc với đường đi lối về, liền lăm lăm đi trở vào cổng trại
để trốn giá lạnh mùa đông. Thế là từng con ngỗng trời nối đuôi theo nó, đi dần
vào bên trong trại, ấm áp và an toàn.
Như chợt nhận ra điều gì đó, chàng suy nghĩ về lời
mình đã càu nhàu với vợ: “Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ mình đến nỗi trở thành
phàm nhân sống đời khổ sở như thế!" Rồi chàng bỗng thấy đây không còn là
chuyện khôi hài nữa. Lần đầu tiên trong đời, chàng hiểu ý nghĩa của ngày Lễ
Giáng Sinh.
Ngoài trời, bão tuyết đã ngừng, và gió đã lặng.
Trong tâm tư chàng, cơn bão hoài nghi cũng biến tan. Có một chút yên lành len lỏi
vào tâm hồn chàng. Bỗng dưng, chàng quỳ gối xuống, chắp đôi tay lại. Lời kinh từ
thuở tấm bé mà chàng đã được học bỗng nhiên khe khẽ rung trên bờ môi: “Con cám
ơn Đức Chúa Trời… đã cho Ngôi Hai xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết vì
con…."
11. Gặp Chúa nơi nhau
Một cậu bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp bằng được
Thiên Chúa. Cậu biết rằng chuyến đi sẽ dài và vất vả lắm nên xếp vào túi xách
bánh và thức uống.
Khi đã đi qua ba dãy phố, cậu bé gặp một bà lão.
Bà ngồi trong công viên, đôi mắt dừng lại ở những chú chim bồ câu. Cậu bé đến
ngồi cạnh bà và mở túi xách của mình. Hình như bà lão đang đói, cậu bé nhận ra
điều này và mời bà một chiếc bánh. Bà lão cười với cậu. Nụ cười dịu dàng đến nỗi
cậu bé muốn nhìn thấy nó hiện ra một lần nữa. Cậu lại mời bà thức uống. Nụ cười
lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu của bà làm cậu cảm nhận được sự ấm áp. Họ ngồi
suốt buổi chiều ăn uống và không nói một lời.
Mãi đến khi trời sụp tối cậu bé mới rời chỗ. Rồi
bất ngờ cậu quay lại, chạy đến chỗ bà lão và ôm lấy bà từ biệt. Món quà mà bà
lão đã tặng cho cậu là nụ cười đẹp và rộng mở nhất của mình.
Khi cậu bé mở cửa vào nhà, người mẹ vô cùng ngạc
nhiên vì nét rạng rỡ còn ngập tràn trong ánh mắt cậu: - Điều gì hôm nay đã làm
con hạnh phúc vậy?
Cậu bé đáp:
- Con đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết không, Chúa
có nụ cười tuyệt đẹp trên đời!
Trong khi đó bà lão cũng bừng tỉnh với niềm vui
và trở về nhà. Đứa con trai nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ và hỏi:
- Điều gì hôm nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão đáp:
- Mẹ đã ăn bánh cùng với Chúa bên cạnh những chú
chim bồ câu. Con biết không, Chúa trẻ trung hơn chúng ta ngỡ rất nhiều.
12. Chúa da đen
Một linh mục thừa sai Pháp tên là Henri, đi truyền
giáo ở Gabon, Phi Châu. Nhân dịp lễ Giáng sinh, cha Henri về nghỉ ở nhà người
chị ruột thuộc gia đình Delvart. Ngài đem theo một đứa bé da đen mồ côi được
ngài nuôi từ nhỏ và rửa tội với tên thánh là Giacôbê. Trong gia đình chị của
ngài cũng có đứa con trai tên là Giacôbê, đồng trang lứa với cậu bé Giacôbê da
đen. Hai đứa trẻ quen nhau dễ dàng và người lớn chỉ còn phân biệt chúng qua hai
màu da: Giacôbê đen và Giacôbê trắng. Đứng bên hang đá, Giacôbê trắng cố gắng
giải thích cho bạn Giacôbê đen của mình hiểu được vẻ đẹp của mầu nhiệm Giáng
sinh, từ Bêlem cho đến chuồng bò, máng cỏ chiên lừa, đến cả giấc mộng của Thánh
Giuse, rồi kết thúc với hình ảnh Mẹ Maria, Mẹ của hết mọi người.
Giacôbê đen nghe Giacôbê trắng một cách chăm chỉ.
Nhưng cậu bé da màu sầm mặt xuống, thoáng lộ vẻ buồn. Cậu hỏi như than thở với
bạn:
- Bạn trắng ơi! Bạn thật may mắn.
- Sao vậy?
- Bạn có Chúa Giêsu da trắng, có một người mẹ ở
nhà đây rồi lại có thêm một người mẹ ở trên Thiên đàng nữa.
- Nhưng ăn thua gì, bạn trắng đáp lại. Chúa
Giêsu là Chúa của hết mọi người và Mẹ Maria cũng là Mẹ của hết mọi người kia
mà. Nhất là Mẹ của những đứa con thơ ấu côi cút như bạn.
Nhưng Giacôbê đen không yên tâm. Cậu bé vừa đưa
tay chỉ tượng Đức Mẹ vừa buồn rầu nói: Đức Mẹ trắng tinh, còn mình thì đen thui!
- Bạn trắng nói: Có hề gì, Đức Mẹ đâu có căn cứ
vào màu da.
- Chứ còn gì nữa, bạn đen cãi lại. Người mẹ trắng
thì làm sao có đứa con đen.
Thế rồi sáng ngày 24 tháng 12 người ta thấy
Giacôbê trắng một mình từ dưới kho đi lên, tay cầm một cái lon nhỏ và một cây cọ,
tiến về phía nhà thờ. Cậu bước ngay tới máng cỏ, tại đây với lon sơn đen, cậu
biến tượng Chúa Hài Đồng da trắng thành một Chúa Hài Đồng da đen, y như màu da
của bạn Giacôbê đen vậy.
Giáng Sinh năm ấy, cả họ đạo vừa ngạc nhiên
thích thú, vừa vui vẻ sốt sắng đón mừng Chúa Giáng Sinh có sắc da màu. Còn
Giacôbê đen không ngớt nở nụ cười để lộ hai hàm răng trắng toát. Em sung sướng
nghĩ rằng: với Chúa Hài Đồng da màu, em cũng có được một bà mẹ da màu trên
Thiên đàng
13. Dân ngoại gặp Chúa
Năm 1996, có một cuộc triển lãm mỹ thuật với chủ
đề: “Đức Giêsu Kitô trong hội họa” tại Tòa Giám Mục thành phố Hồ Chí Minh từ đầu
Mùa Vọng là một cuộc giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người.
Đã có hàng vạn lượt người đến xem, kể cả người
ngoài Công Giáo và các tôn giáo bạn, đặc biệt là các bạn trẻ. Nhiều bạn đã ghi
lại những dòng cảm tưởng chất chứa nhiều cảm xúc, chẳng hạn: “Tôi là một con
chiên lạc của Chúa. Trong chiều nay sau một cơn mưa, tôi đã được tĩnh lặng để
ngắm nhìn những tác phẩm hội họa về Đức Giêsu với những cảm xúc lắng đọng nhất.
Tôi yêu con người Giêsu và Đức Chúa Giêsu” (Tường Tường, 5.12.96, trang 45).
Một bạn sinh viên khác đã viết: “Con không biết
gọi Người là gì, không biết Người là ai vì con không phải là đạo Thiên Chúa.
Nhưng hôm nay con tin là có Người, có Người từng hiện hữu trong thế giới này,
và có Người trong tâm hồn con ngày hôm nay và mãi về sau. Con xin cám ơn tất cả
những điều con được biết ngày hôm nay, cám ơn tất cả, con cám ơn Người cho con
lòng tin." (Hồ Thị Phương Nga, SV năm 3 ĐH. kiến trúc TPHCM. 10.12.96
trang 87) v.v…
Cuộc triển lãm đã đem lại nhiều kết quả thầm kín
bất ngờ.
14. Ý nghĩa thật của ngôi sao lạ
Nhiều người vẫn nghĩ rằng ngày xưa có một ngôi
sao lạ xuất hiện trên vùng trời Phương Đông để dẫn đường các đạo sĩ. Sao đi
trên trời, người đi dưới đất, và khi đến Bêlem thì ngôi sao dừng lại, chiếu một
luồng ánh sáng xuống đúng nơi mà Chúa Hài Đồng đang ở. Thế là các đạo sĩ vào
nhà, quỳ xuống thờ lạy Đức Giêsu và dâng lễ vật cho Ngài.
Những người biết khoa học chút ít đều coi đây là
chuyện hoang đường: làm sao bước chân con người có thể theo kịp tốc độ di chuyển
của tinh tú!?
Sự thật hay là hoang đường?
Xin thưa, đây là một cách viết, khai thác một
hình ảnh để diễn đạt một chân lý. Theo cách viết của Thánh Matthêu, lý do thúc
dục các đạo sĩ lên đường là vì "Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài xuất
hiện bên Phương Đông." Matthêu không hề viết là ngôi sao cùng sánh bước với
các đạo sĩ trên khắp những đoạn đường từ Phương Đông đến Giêrusalem. Bởi đó họ
phải đi tìm, và khi đến Giêrusalem họ phải hỏi người khác nữa. Câu trả lời giúp
họ biết hướng để tiếp tục cuộc hành trình chính là một câu Sách Thánh. Mãi khi
đến gần Bêlem thì Ngôi Sao mới xuất hiện lại để dẫn họ đến chỗ Hài Nhi đang ở.
Tóm lại, Ngôi Sao là một dấu chỉ thôi thúc lên
đường. Nhưng cuộc hành trình đòi hỏi phải cố gắng, kiếm tìm, dò hỏi nhiều nơi,
nhiều người, nhất là Sách Thánh. Và cuối cuộc hành trình, dấu chỉ lại rực sáng
như để xác nhận rằng cuộc hành trình đã đạt đến điểm tới.
15. Phải dâng Chúa của lễ nào?
G.K. Chesterton, tác giả nổi tiếng người Anh, đã
viết một câu chuyện thú vị về ba nhà thông thái hiện đại. Họ đã nghe biết rằng
có một thành phố hòa bình, một thành phố mà chưa bao giờ có chiến tranh, loạn lạc,
giặc giã và khổ đau. Họ cũng nghe biết rằng, phải mang theo những lễ vật đến để
chứng tỏ họ là những con người của hòa bình, và đóng góp vào việc duy trì hòa
bình trong thành phố này. Do đấy họ lên đường đi tới thành Bêlem mới này với những
lễ vật họ tin chắc rằng sẽ bảo đảm giữ được hòa bình và cho phép họ ở lại trong
thành phố đó.
Khi đến cổng thành họ gặp thánh Giuse đứng kiểm
soát những lễ vật của họ. Nhà thông thái hiện đại thứ nhất mang vàng đến. Ông
giải thích rằng vàng có thể mua được mọi thứ khoái lạc trên trần gian. Hưởng
khoái lạc rồi người ta không còn muốn chiến tranh nữa. Nhà thông thái hiện đại
thứ hai đã không mang nhũ hương, mà mang hóa chất đến. Ông mang khoa học hiện đại
vào thành phố. Với khoa học kỹ thuật ông có thể làm cho tâm trí con người ngủ
mê trong hạnh phúc trần gian. Ông có thể chế ra những hạt giống nhân tạo phát
sinh hoa trái và kiểm soát dân số trên mặt đất. Lúc đó dân chúng có thể thỏa
mãn được tất cả nhu cầu cần thiết, và như vậy họ không phải đánh nhau nữa. Nhà
thông thái hiện đại thứ ba mang một phân tử hạch nhân đến để chế bom nguyên tử,
một thứ mộc dược mới, một biểu tượng mới của sự chết. Ông lập luận cứng rắn rằng
bất cứ ai chống đối lại con đường hòa bình sẽ phải chết.
Sau khi khám xét lễ vật, thánh Giuse đã khước từ
không cho bất cứ người nào vào cả. Họ lao nhao lên phản đối rằng: “Chúng tôi đã
mang theo tất cả những phương tiện để cung cấp sự giàu có, kiểm soát thiên
nhiên, và tiêu diệt kẻ thù. Chúng tôi còn phải mang thêm cái gì đến nữa để chứng
tỏ rằng chúng tôi là những con người của hòa bình?” Thánh Giuse bèn kề vào tai
mỗi người rồi thì thầm một lúc. Sau đó họ lặng lẽ bỏ ra đi trong buồn bã. Bạn
có biết thánh Giuse nói gì với họ không? Ngài nói rằng họ đã quên mất chính Hài
Nhi Giêsu!
Đó cũng là lời khuyên của Công đồng Vatican II
cho thế giới văn minh khoa học ngày nay: “Chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử của
hòa bình, đã dùng thập giá của Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa. Người
đã tái lập sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể."
16. Gia đình liên hiệp quốc
Trước đệ nhị thế chiến, có một cô gái người
Pháp, trẻ đẹp, hát hay và khiêu vũ rất giỏi. Nhờ thế cô rất nổi tiếng dưới ánh
đèn sân khấu trong các vũ trường ở thủ đô Paris. Đúng lúc đó thế chiến thứ hai
bùng nổ, nước Pháp lâm nguy nên mọi người ra sức bảo vệ tổ quốc. Cô gái tài sắc
đó đã trở thành y tá cứu thương trên chiến trường. Chẳng may cô bị thương và rủi
hơn nữa chính vết thương này đã khiến cô không còn khả năng sinh sản. Với lòng
ước ao mạnh mẽ để được làm mẹ và trước những đau khổ mất mát của tha nhân, cô
đã không buông xuôi thất vọng, trái lại cô còn có một quyết tâm khác thường.
Thay vì làm mẹ ruột, cô làm mẹ nuôi của các trẻ
mồ côi bị bỏ rơi. Để có điều kiện thực hiện ý định đó, cô trở lại làm nghề vũ nữ
và ra sức lao động cật lực. Cùng lúc cô đi tìm kiếm các trẻ mồ côi đủ mọi quốc
tịch, màu da để nuôi nấng yêu thương. Đứa bé cuối cùng cô nhặt được trong một
thùng rác ở thủ đô Paris vào đêm Noel 1983 là một em bé người Pháp. Bây giờ cô
trở thành người mẹ nuôi của 12 em, 12 quốc tịch và màu da khác nhau. Với 12 miệng
ăn cô không đủ tiền chi phí nên phải bán đồ đạc trong nhà để sống thêm được một
thời gian. Sau đó, mẹ con dắt nhau đi lang thang ăn xin. Biết được tình cảnh
đáng thương đó, công chúa Monaco đã cho mẹ con cô tá túc trong lâu đài của
mình. Hai năm sau cô qua đời và báo chí đã đặt tên cho gia đình cô là một “gia
đình Liên Hiệp Quốc."
Lễ Hiển Linh nhắc nhở chúng ta rằng Ngôi Hai
Thiên Chúa đến viếng thăm tất cả mọi người có lòng ao ước tìm kiếm và đến thờ lạy
Ngài. Không một ai bị loại trừ ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Thật “Vui mừng cho
những tâm hồn tìm kiếm Thiên Chúa” (Tv 105, 3).
17. Những đạo sĩ hôm nay
Các nhà đạo sĩ phương đông là những người ít được
chuẩn bị, ít được hiểu biết về Kinh Thánh, nhưng lại có một tấm lòng quảng đại,
sẵn sàng đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Các ông đã lên đường, dấn thân vào một
cuộc phiêu lưu hoàn toàn bấp bênh, để rồi cuối cùng các ông đã có được diễm
phúc gặp gỡ Chúa nơi máng cỏ Bêlem dưới vóc dáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo
túng và tầm thường.
Đúng thế, ngày hôm nay vẫn có những nhà đạo sĩ
tìm gặp Chúa nơi những người anh em khổ đau và cùng khốn.
Có những người như Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vừa
mới được phong lên hàng chân phước, hằng ngày không ngần ngại đi lượm từng hình
hài sắp chết, từng con trẻ bị bỏ rơi… rồi mang về chăm sóc.
Có những người như Cha Prado bên Pháp, đã sang tận
Ấn độ để đem lại sức sống mới cho một cộng đoàn nghèo, hết lẽ sống và cũng hết
muốn sống.
Có những người như những tu sĩ đã biến nhà mình
thành nơi cư trú cho những trẻ em bị bại liệt, hay những thanh thiếu niên bụi đời,
lang thang nơi đầu đường xó chợ.
Có những người như Đức Cha Casaldaliga, đã lập
tòa giám mục của mình trên một chiếc thuyền độc mộc để ngày ngày, tay chèo tay
chống, đi đấu tranh với các công ti tư bản cũng như với quân độ Brasil, vì quyền
lợi của đám dân da đỏ mà Chúa đã trao ban như là những con chiên của Ngài.
Họ là những nữ tu trong bệnh viện. Họ là những
thày cô công giáo trong các trường học. Họ là những công nhân có đạo trong các
xưởng thợ. Họ là những y tá, những bác sĩ kitô hữu đã dành thời giờ mình được
quyền nghỉ ngơi cho những người phong cùi, cũng như cho những bệnh nhân ở những
vùng xa xôi hẻo lánh, thiếu thốn những tiện nghi vật chất.
Họ không phải chỉ làm những công việc này vì
lòng đạo đức và tình bác ái, mà hơn thế nữa, vì họ đã nhận ra nơi những kẻ
nghèo túng va bất hạnh mà họ đang phục vụ khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Đúng như lời Đức Giám mục Bossuet đã nói:
- Người nghèo ở đâu thì Nước Trời ở đó. Người
nghèo chính là một bí tích, một dấu chỉ của Đức Kitô.
Thế nhưng, liệu chúng ta có dám lên đường tìm gặp
Chúa nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau hay không?
18. Tôi đi tìm Thiên Chúa
Một ngày kia, có một vị Hoàng Đế cùng với đoàn cận
vệ vào rừng săn nai.
Đang lúc hứng thú rượt theo con mồi, thì bỗng
nhiên nghe tiếng hát từ đâu vọng lại, tiếng hát thật véo von thánh thót làm say
mê đoàn người săn bắn, đến nỗi khiến họ quên cả con mồi, để rồi cùng nhau đi
tìm gặp cho được vị danh ca nào đó đang náu ẩn đâu đây.
Sau một hồi lâu kiếm tìm, họ đã gặp, nhưng không
phải một danh ca như họ thường lầm tưởng, mà trái lại, một người thanh niên có
thân mình tiều tụy xanh xao gầy còm, áo quần rách rưới nghèo nàn đang ngây ngất,
sốt sắng như một Thiên Thần, dâng lời ca tiếng hát ngợi khen Thiên Chúa trong một
túp lều tranh xiêu vẹo.
Một điều làm cho đoàn người săn bắn phải sửng sốt,
là thấy người thanh niên có thân xác đau thương đó, lại luôn tỏ ra lòng đầy
hoan lạc hạnh phúc. Vì quá bỡ ngỡ, vị Hoàng Đế cất tiếng hỏi: "Ông tới đây
làm gì?" Vị Ẩn Sĩ không trực tiếp trả lời, nhưng hỏi lại: "Vậy thưa
ngài, ngài tới đây làm gì?" Vị Hoàng Đế đáp lại: "Trẫm tới đây để săn
thú vật."
Bấy giờ vị Ẩn Sĩ mới tỏ ra sung sướng đáp lời:
"Thưa ngài, còn tôi, tôi đến đây tìm kiếm Thiên Chúa!"
19. Ba món lễ vật dâng Chúa của mỗi người
Các nhà bác học đã dâng tiến cho Chúa Hài Nhi
vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ hương để chỉ
Hài Nhi Giêsu là Chúa và mộc dược để chỉ đến cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu
sau này… Thế nhưng những lễ vật này có ý nghĩa gì đối với chúng ta.
Trước hết là vàng. Vàng nói lên lòng yêu mến của
chúng ta, một lòng yêu mến tinh ròng, cao cả và mãnh liệt như lời Ngài đã xác định:
- Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí
khôn và hết sức lực ngươi.
Vàng còn nói lên sự trung kiên của chúng ta,
không vì một lý do, một hoàn cảnh nào mà bị chao đảo, mà bị lung lay để rồi đi
đến chỗ phản bội.
Sau hết, vàng còn nói nói lên sự chân thật của
chúng ta. Thực vậy, chúng ta có thể lừa dối kẽ khác chứ chẳng thể nào lừa dối
được Thiên Chúa.
Tiếp đến là nhũ hương. Nhũ hương nói lên tâm
tình thờ lạy của chúng ta đối với Đức Kitô. Thực vậy, trong những nghi thức phụng
vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi chầu
Thánh Thể.
Nhũ hương còn là tượng trưng cho tâm tình kinh nguyện,
như thánh vịnh đã viết:
- Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương
thơm bay lên tôn nhan Chúa.
Sau cùng là mộc dược. Mộc dược là niềm tin tưởng
vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ được tái diễn qua lễ dâng trên bàn thờ,
Tiếp đến, mộc dược còn nói lên những hy sinh
trong cuộc sống. Hãy chấp nhận những khổ đau vì lòng yêu mến Chúa và hãy dâng
tiến Chúa như một lễ vật nhỏ mọn, bấy giờ những đau khổ của chúng ta sẽ trở nên
là một góp phần vào những đau khổ của Đức Kitô, là những giọt máu tử đạo chúng
ta có thể đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và tự hỏi: Chúng
ta đã dâng gì để làm lễ vật cho Chúa Hài Nhi hay chưa?
20. Ngôi sao hy vọng
Tại nước Camơrun ở Phi Châu, có một vùng đất tên
là Fontem, dân số khoảng 20 ngàn người, là một bộ lạc bị đe dọa tuyệt chủng vì
nhiều thứ bệnh, nhất là bệnh ngủ và bệnh giun chỉ.
Tộc trưởng của bộ lạc Fontem đã đi cầu cứu nhiều
nước và nhiều tôn giáo nhưng không kết quả. Cuối cùng, ông đã đến với Đức cha
Peters thuộc giáo phận Buca ở Camơrun, đặt vào tay ngài một số tiền và nói: “Bộ
lạc chúng tôi chẳng tốt lành gì để đáng được Chúa thương nhận lời, vậy chúng
tôi xin Đức cha và các tín hữu của ngài cầu cùng Chúa cho chúng tôi. Hy vọng
Chúa sẽ nhận lời."
Đức Cha Peeters và giáo dân của người không chỉ
cầu nguyện mà còn hành động. Họ chung tay góp sức làm cho bộ lạc Fontem ngày
càng tốt đẹp hơn. Khởi đầu là 2 bác sĩ, 1 bác sĩ thú y, cùng với 3 phụ nữ thuộc
phong trào Giáo dân Hoạt động cho thế giới được Hiệp nhất trong Yêu thương.
Ngày nay, bộ lạc Fontem đã hoàn toàn đổi mới.
Xưa kia là rừng thiêng nước độc thì nay là phố xá đô hội. Điều bất ngờ là chính
thành phố này lại là chiếc nôi của một phong trào Giáo dân Thiện nguyện tới phục
vụ ở rất nhiều nước tại Phi Châu. Số người xin học đạo và gia nhập Giáo hội nhiều
vô kể.
Ngôn sứ Isaia đã nói: “Dân đang lần bước giữa tối
tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được
ánh sáng bừng lên chiếu rọi."
Ánh sáng bừng lên chiếu rọi, chính là Đức Giêsu
Kitô, Ngôi Sao Hy Vọng của muôn dân. Kể từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào
quang của địa đàng vụt tắt, nhân loại mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ
mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian.
21. Món quà của các Đạo Sĩ
Những tặng phẩm là nhũ hương, mộc dược và vàng
ám chỉ thần tính, nhân tính và vương quyền của Đức Giêsu.
William Sydney Porter, một nhà văn Mỹ chuyên viết
chuyện ngắn sống vào giữa thế kỷ này. Ông rất nổi tiếng qua bút hiệu O. Henry của
ông. Ông được độc giả nhớ đặc biệt là do ông luôn luôn kết thúc các câu chuyện
của ông bằng cách gây ngạc nhiên hứng thú. Một trong những câu chuyện nổi tiếng
của ông lấy tựa đề từ ý nghĩa của đại lễ hôm nay. Câu chuyện đó nhan đề “Món
quà của vị đạo sĩ." Nói về một cặp vợ chồng trẻ tên Jim và Dela. Họ nghèo
tiền của nhưng rất giàu tình thương đối với nhau.
Giáng sinh sắp tới, Dela tự hỏi phải làm quà
Giáng Sinh cho Jim bằng món gì đây. Nàng muốn tặng chàng, nhưng nàng không có đủ
tiền để mua. Vì thế nàng nẩy sinh một sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp.
Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc của nàng và đem bán để mua cho Jim sợi giây đồng
hồ.
Hôm áp lễ giáng sinh, nàng từ phố về, trên tay
mang một chiếc hộp rất đẹp, trong đó có sợi giây đeo đồng hồ làm bằng vàng, mà
nàng vừa đổi bằng mái tóc của nàng. Bỗng nhiên, Dela chợt cảm thấy lo lắng nàng
tự hỏi Jim rất yêu quí mái tóc dài của nàng, và nàng tự hỏi không hiểu chàng có
buồn phiền vì nàng cắt và bán nó đi không. Chỉ có thời gian mới trả lời nàng
thôi.
Dela leo nốt đợt cầu thang cuối cùng dẫn đến căn
hộ nhỏ của hai đứa nàng. Nàng mở cửa và thấy Jim đang đợi nàng. Trong tay chàng
có một cái hộp gói lại thật đẹp đựng món quà chàng mua cho nàng. Khi Jim nhìn
thấy mái tóc ngắn của Dela, chàng bắt đầu rươm rướm nước mắt. Nhưng chàng không
nói gì cả. Chàng cố cầm những giọt lệ của mình và tặng nàng chiếc hộp. Khi Dela
mở hộp ra, nàng không thể tin vào mắt mình được. Trong hộp có một bộ lược rất đẹp
để nàng chải mái tóc thướt tha của nàng. Và khi Jim mở món quà của mình ra,
chàng cũng khó mà tin được đôi mắt của chàng. Trong hộp có một sợi giây đồng hồ
rất đẹp dùng cho chiếc đồng hồ bằng vàng của chàng. Chỉ lúc đó Dela mới nhận ra
rằng Jim đã bán chiếc đồng hồ bằng vàng để mua cho nàng những cái lược để nàng
chải tóc.
Có những người nghĩ rằng kết thúc của câu chuyện
tuy gây ngạc nhiên nhưng bi thảm quá. Còn đa số cho rằng kết thúc như thế rất đẹp.
điều làm cho kết thúc đó đẹp không phải là những món quà mà là tình yêu được những
món quà đó biểu tượng và nói lên.
22. Giêsu là Chúa Cứu Thế
Một người bị rơi xuống một thung lũng sâu tối
tăm. Ông ta cố gắng tìm cách để trèo lên nhưng quá khó khăn không thể tự mình
trèo lên để ra khỏi cái hang tối tăm đó. Khổng Tử đi ngang qua nhìn thấy người
đó ở dưới thung lũng bèn nói, "Thật đáng tiếc, giá nó nghe lời giáo huấn
khôn ngoan của ta thì nó đâu có phải rơi xuống cái thung lũng tối tăm đó!"
Và rồi đức Khổng Tử tiếp tục lên đường.
Sau đó thì Đức Phật đi ngang qua và cũng trông
thấy người đó dưới thung lũng bóng tối. Đức Phật liền nói, "Thật tội nghiệp
giá hắn ta lên được trên này có thể ta sẽ giúp đỡ hắn." Và sau đó thì Đức
Phật cũng tiếp tục lên đường.
Sau cùng thì Đức Giêsu đi ngang qua. Ngài nhìn
thấy người đàn ông cố gắng trong vô vọng và bất lực dưới thung lũng tối tăm.
Ngài thương cảm và liền nhẩy xuống để cứu ông ta lên. (Jack Mcardle
"Incarnation", 150 More Stories for Preachers and Teachers # 98).
23. Ánh sáng và bóng tối
Các đạo sĩ đã đi trong bóng tối nhờ tia sáng của
một ánh sao dẫn đường. Các ông đã tìm được Chúa vì không sợ bóng tối nhờ tin
vào ánh sáng.
Thực ra, ta chỉ thấy được ánh sáng của ngôi sao
khi trời tối, Trời càng tối thì sao càng sáng.
Tất cả chúng ta cũng là những khách lữ hành đi
trong đêm tối. Nhưng chúng ta đừng sợ vì Đức Kitô là ánh sáng đã đến trần gian:
- Ánh sáng bừng lên trong đêm tối
- Ánh sáng xóa tan tăm tối
- Ánh sáng mà không sự tối tăm nào dập tắt được.
24. Vì con người
Chúa Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng
đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận. Đó là trận đấu gay cấn giữa
những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu
reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng
reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi.
Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi: "Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên
nào?"
Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu,
Ngài trả lời: "Tôi hả? Ồ, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức
trận đấu."
Anh quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười:
"Hừ, kẻ vô thần."
Trên đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết
về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay: "Chúa ạ, thật buồn cười
về những người trong các tôn giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về
phía họ và chống lại những người khác."
Chúa Giêsu đồng ý: "Đó là lý do tại sao Ta
không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn
giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát."
Một trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng:
"Ngài phải thận trọng. Ngài biết, Ngài đã một lần bị đóng đinh vì nói như
thế."
25. Các “đạo sĩ” là ai?
Người ta cho rằng các “đạo sĩ” (magi) là
những nhà trí thức ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine. Có người lại cho rằng
“đạo sĩ” là tên gọi các Tư tế Ba tư, nhưng thời kỳ bị Hy lạp đô hộ, đạo sĩ là
tên gọi những người Đông phương hiểu biết khoa chiêm tinh. Dựa theo lễ vật, người
ta đoán có ba đạo sĩ đến gặp Hài nhi Giêsu.
Đối với chúng ta, dường như việc các đạo
sĩ từ Đông phương lên đường đi tìm vua là một việc khác thường. Nhưng thật lạ
lùng, ngay lúc Chúa Giêsu Giáng sinh, trong thế giới bấy giờ cũng có những sự
ngưỡng vọng kỳ lạ về một vị vua sẽ đến. Về điều này sự gia Suetonus của La mã
đã viết: ”Khắp Đông phương có một niềm tin phổ thông rằng vào thời đó, nhất định
có người từ Giuđa đến cai trị thế gian."
Còn Josephus, sử gia Do thái viết: ”Chúng
ta không nên nghĩ rằng câu chuyện các Magi đến nơi máng cỏ chỉ là một huyền thoại
dễ thương, nhưng chính đó đã là biến cố đã xẩy ra trong thế giới cổ. Khi Chúa
Giêsu đến thì thế gian đang tha thiết trông đợi. Loài người thật đang trông chờ
Thiên Chúa, sự khát khao Thiên Chúa nung nấu lòng người. Họ đã khám phá ra rằng
mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu
đã ngự đến một thế gian đang khắc khoải mong đợi và khi Ngài đến, con người từ
những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu
tượng đầu tiên chinh phục thế giới của Chúa Giêsu."
26. Lễ vật dâng Chúa Hài nhi.
Khi ngôi sao dừng lại trên nhà Hài nhi
“các ông vào nhà, thấy Hài nhi với Thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lậy
Người. Rồi họ mở bao tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”(Mt
2,11-12). Những lễ vật này đều có ý nghĩa tượng trưng.
a) Vàng: Ông Seneca cho biết chẳng ai vào
chầu vua mà không có lễ vật. Ngày xưa người ta coi vàng là vua của mọi thứ kim
loại xứng hợp với lễ vật con người dâng cho vua. Cũng vậy, Chúa Giêsu là người
“sinh ra để làm vua”, nhưng không phải cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu
và phục vụ.
b) Nhũ hương: Ngày xưa, người ta dùng nhũ
hương trong việc phụng tự và trong việc dâng lễ vật. Hương thơm và làn khói bay
lên trời cao, khiến họ liên tưởng đến thần linh, đến Thiên Chúa. Vì thế, món
quà bằng nhũ hương tượng trưng cho thần tính của Đức Giêsu. Chức vụ tư tế sẽ là
mở đường cho loài người đến với Thiên Chúa.
c) Mộc dược: ngày xưa, người ta dùng mộc
dược để ướp xác người chết trước khi đem đi mai táng. Vì thế, món quà bằng mộc
dược tượng trưng cho nhân tính của Đức Giêsu. Nó nói với chúng ta rằng Đức
Giêsu cũng có những yếu đuối, mỏng dòn, dễ bị thương tổn vì Ngài là người như
chúng ta.
27. Vị đạo sĩ thứ tư.
Văn sĩ Koergensen, người Đan mạch, đã nghĩ
ra một câu chuyện minh hoạ cho thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị đạo
sĩ thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu Hài đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa, nhưng
ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường, ông
đem theo ba viên ngọc qúi giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông tặng
viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm nhục
một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô gái.
Cuối cùng, khi đến Belem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để tàn
sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta từ bỏ
hành động gian ác.
Đến khi gặp Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai
bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng,
Chúa Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói với ông: ”Con đã dâng cho Ta món quà
qúi giá nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những
nghĩa cử đối với tha nhân."
28. Hãy là ánh sáng
Truyện cổ của người Phi châu có một câu chuyện rất
hay:
Một cụ già nọ có ba người con trai, ông
yêu thương tất cả các con như nhau. Tuy không xuất thân từ gia đình giầu có
nhưng với sự khôn ngoan và cần cù làm việc, ông đã tậu được những mảnh đất rất
phì nhiêu. Khi đã về già, biết mình đã gần đất xa trời, ông muốn để phần gia
tài cho người con nào thông minh và khôn ngoan.
Một hôm, đang trên giường bệnh, ông nghĩ
ra một cách thử xem ai là người thông minh và khôn ngoan nhất. Ông gọi ba người
con đến trao cho mỗi người 5 đồng và bảo họ đi mua bất cứ cái gì có thể làm đầy
trong phòng khách gần như trống rỗng. Mỗi người nhận tiền rồi ra đi.
Người con trưởng nghĩ là việc quá dễ dàng
nên ra chợ mua ngay một bó rơm với già 5 đồng. Người con thứ hai sau một lúc
suy nghĩ liền vào tiệm mua một túi lông gà với những mầu sắc trông rất đẹp mắt.
Còn người con út chậm rải đi khắp các cửa tiệm vừa đi vừa suy nghĩ đắn đo. Một
lúc sau mắt cậu sáng lên, cậu đã tìm ra vật vừa rẻ tiền lại vừa đẹp ý cha mình.
Cậu bước vào một tiệm nhỏ bé và hỏi mua một cây nến với một bao diêm. Cậu sung
sướng trở về nhà, trong lòng phân vân không biết hai anh đã mua những gì rồi.
Ngày hôm sau, cả ba người con đến bên giường
của cha, mỗi người đem theo những gì đã mua được với 5 đồng. Người con cả đem
bó rơm trải trên sàn nhà, nhưng chỉ đủ phủ kín một góc phòng mà thôi. Người con
thứ mở túi lông gà nhiều mầu sắc, nhưng cũng chỉ đủ rải rác qua loa. Người cha
nhìn hai người con lớn với nét mặt buồn buồn, rồi ông quay sang hỏi người con
út xem đã mua được cái gì khá hơn chăng? Cậu bé rút ra cây nến với bao diêm. Bật
diêm lên đốt, vừa đốt cây nến lên lập tức ánh sáng phủ đầy khắp căn phòng.
Cha với hai anh mỉm cười nhìn cậu sung sướng,
cha cậu rất hài lòng với sự lựa chọn của cậu út. Ông chia phần gia tài lớn nhất
cho cậu, bởi vì ông hiểu rằng cậu là người thông minh hơn cả, sẽ biết tận dụng
gia tài để lại cho cậu.
Câu chuyện cổ của người Phi châu này giúp
ta chúng ta nghĩ đến vai trò của ánh sáng. Chúa Giêsu là ánh sáng của chân lý,
của sự thật để soi sáng những ai còn ngồi trong bóng tối u mê, của ngờ vực và của
kém lòng tin. Đã là ánh sáng thì phải lan tỏa khắp nơi. Người tín hữu Kitô phải
đem ánh sáng của chân lý, của sự thật để soi sáng những ai còn ngồi trong bóng
tối u mê, của ngờ vực và của kém lòng tin. Hãy thắp lên một tia sáng tình
thương đầy hy vọng cho những người chung quanh chúng ta.
29. Một ngọn nến nhỏ.
Vào một đêm mưa rào, ngọn đèn hải đăng bị
mất điện tắt ngúm. Người phụ trách hải đăng vội vã đốt lên một cây nến nhỏ và cầm
cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy giờ cây nến
mới lên tiếng hỏi người phụ trách rằng:
- Ông đem tôi đi đâu vậy?
Ông ta trả lời:
- Ta mang nhà ngươi lên sân thượng để chiếu
sáng giúp tầu bè từ ngoài khơi biết đường trở về và cập bến an toàn.
Cây nến lại nói:
- Nhưng tôi chỉ là cây nến nhỏ bé thế này
thì tầu bè ở tận ngoài khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng của tôi đdược?
Người phụ trách trả lời:
- Bây giờ ta chỉ cần nhà ngươi đừng bị gió
thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta lo liệu.
Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ
trách đã dùng cây nến châm lửa và trong giây lát ánh sáng từ cây đèn lồng rực
lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có
thể sử dụng thay bóng đèn điện. Ánh sáng của nó có sức chiếu ra tận ngoài khơi,
hầu giúp tầu bè dễ dàng định hướng để quay về cập bến an tòan.
Mỗi người chúng ta cũng là một cây nến nhỏ
trong bàn tay Chúa quan phòng. Bổn phận của chúng ta là phải làm hết khả năng
Chúa ban và phó thác kết quả vào trong tay Chúa định liệu.
Để kết thúc, chúng ta hãy suy nghĩ về câu
nói của L. Éliot:
Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu không thể là ánh lửa non cao
Xin hãy làm ánh nến toả sáng trong gia đình.
Đức Gioan Phaolô II trong giáo lý năm
thánh 2000 có viết: ”Việc giáo dân tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng
Kitô hữu, cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến
chúng ta có lý mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thú ba, sẽ
có một cuộc hiển linh trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân."
30. Kẻ thấy người không
Đứng trước cùng một sự kiện mà có kẻ thấy người
không, kẻ tìm ra ý nghĩa người không. Vậy thì làm sao mà cắt nghĩa được sự khác
biệt đó?
Nguyên nhân gây ra khác biệt là do một bên nhìn
bằng con mắt thường một bên nhìn bằng đức tin. Bên nhìn bằng con mắt thường thì
chỉ thấy những việc thông thường, còn bên nhìn bằng con mắt đức tin thì nhờ đức
tin mà khám phá ra được thực chất và ý nghĩa ở bên trong.
Một buổi trưa hè nóng bức, thánh Phanxicô
Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái.
Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong
lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá.
Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm
nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng
mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.
Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều
mà người phàm không bao giờ thấy được.
31. Đèn của tâm hồn
Trong một chuyến đến thăm ngôi trường khiếm thị
duy nhất của thành phố, tôi chạnh lòng nhìn cảnh một số em quơ quạng với chiếc
gậy trên tay, có em lại bám vào vai bạn và cả hai cùng lần bước. Còn đến khi
vào lớp, các em lại cần mẫn dùng những ngón tay nhỏ bé gầy guộc để đọc từng
giòng chữ Braine trên trang giấy nổi
Bất chợt, ánh mắt tôi dừng lại ở một em bé có
đeo một mẫu ảnh thánh giá nho nhỏ trên ngực áo. Tiến lại gần, tôi làm quen với
em và được biết... Em kể rằng:
Trước khi vào trường này, mẹ em đã đeo cây
Thánh Giá này cho em và bảo: Đèn của thân thể người ta là đôi mắt, còn với con,
thì Thánh Giá sẽ là cây đèn cho con đấy!
Tôi ân cần hỏi em
- Thế em có thấy vui không?
Em bé ngước nhìn lên với đôi mắt đục mờ, trả lời
ngay:
- Có chứ anh, em đã mất đôi mắt của thân
thể, nhưng thật sự thì đôi mắt của tâm hồn em vẫn sáng!
Nghe câu trả lời quả quyết ấy, tôi giật mình tự
nhủ: con mắt của tâm hồn mình có còn sáng hay đã tắt ngủm rồi nhỉ?
THỨ HAI SAU LỄ HIỂN LINH -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ BA SAU LỄ HIỂN LINH -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ TƯ SAU LỄ HIỂN LINH -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ NĂM SAU LỄ HIỂN LINH -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ SÁU SAU LỄ HIỂN LINH -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ BẢY SAU LỄ HIỂN LINH -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.