Lời Chúa tuần Bát nhật Giáng Sinh _ câu truyện minh họa

LỜI CHÚA TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

GIÁNG SINH LỄ VỌNG

GIÁNG SINH LỄ ĐÊM

GIÁNG SINH LỄ RẠNG ĐÔNG

GIÁNG SINH LỄ BAN NGÀY

LỄ KÍNH THÁNH STEPHANO – VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI

LỄ KÍNH THÁNH GIOAN - MÔN ĐỆ CHÚA YÊU

LỄ CÁC THÁNH ANH HÀI - HÀI NHI CHẾT VÌ CHÚA

NGÀY 29/12 - CỤ GIÀ SI-MÊ-ON CHỜ ĐỢI

NGÀY 30/12 - BÀ TIÊN TRI ANNA

NGÀY 31/12 - NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI 

NGÀY 01/01 - ĐỨC MARIA MẸ THIÊN CHÚA

Lễ Thánh Gia (năm A)

Lễ Thánh Gia (năm B)

Lễ Thánh Gia (năm C)

 

GIÁNG SINH LỄ VỌNG

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

GIÁNG SINH LỄ ĐÊM

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

GIÁNG SINH LỄ RẠNG ĐÔNG

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

GIÁNG SINH LỄ BAN NGÀY

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

LỄ KÍNH THÁNH STEPHANO – VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI

Lời Chúa: Mt 10,17-22

Ngày ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng:

"Chúng con hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp chúng con cho công nghị, họ sẽ đánh đòn chúng con nơi hội đường. Vì Ta, chúng con sẽ bị điệu đến trước vua quan, để làm chứng trước mặt họ và các dân.

Nhưng khi người ta nộp chúng con, chúng con chớ lo lắng phải nói sao và nói gì, vì không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha chúng con sẽ nói thay cho.

Anh sẽ nộp em cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái chống đối cha mẹ và làm cha mẹ phải chết.

Vì Ta, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu rỗi.

TRUYỆN KỂ

1. Vị tử đạo đầu tiên

Hôm nay lễ kính thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội. Giữa bầu khí an bình hân hoan của Mùa Giáng Sinh mà mừng kính một vị tử đạo thì xem ra không bình thường, vì sự tử đạo thường gợi lên máu đào và chết chóc. Nhưng chắc chắn Giáo Hội đã có một lý do rất đặc biệt để mừng lễ của vị tử đạo tiên khởi này vào ngay sau Lễ Giáng Sinh.

Trong lá thư gởi cho các thiếu nhi khắp thế giới được ký vào ngày 3/10/1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II xem ra muốn giải thích cho chúng ta cái lý do sâu xa ấy. Ngài viết cho các em thiếu nhi như sau: "Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là đến ngày lễ theo truyền thống của Cựu Ước, tám ngày sau đó Hài Nhi đã được đặt tên, tên của Ngài là Giêsu."

Sau bốn mươi ngày chúng ta tưởng niệm việc Ngài được dâng hiến trong đền thờ giống như bất cứ đứa con trai đầu lòng nào của Israel. Trong dịp này, một cuộc gặp gỡ phi thường đã diễn ra, vừa cùng với Hài Nhi đến trong đền thờ, Mẹ Maria đã gặp cụ già Simêon. Cụ đã bồng Hài Nhi Giêsu trên tay và tiên báo như sau: "Lạy Chúa, giờ đây xin để tôi tớ Chúa được ra đi bình an theo như lời Chúa hứa, vì chính tôi tớ Chúa đã thấy ơn cứu độ mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt muôn dân. Ðó là ánh sáng soi cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài." Sau đó ông nói với Mẹ Maria: "Con Trẻ này sẽ là duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy, Con Trẻ là dấu hiệu bị người đời chống đối, và chính là một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà. Ngõ hầu những ý nghĩ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra."

Mầu nhiệm Giáng Sinh gắn liền với mầu nhiệm Tử Nạn Thập Giá của Ngài. Hài Nhi nằm trong máng cỏ nghèo hèn, cuộc tử nạn đã được báo trước, có lẽ đó là lý do tại sao ngay ngày thứ nhất của tuần bát nhật Giáng Sinh, Giáo Hội mừng kính vị thánh Tử Ðạo tiên khởi là thánh Stêphanô.

2. Sói Phaolo và chiên Stephano

Stêphanô vừa thấy Phaolô tới cửa Thiên Đàng, ông Stêphanô lên tiếng thưa với Chúa:

- Lạy Chúa, tên này xưa kia động viên người ta ném đá con, nay hắn lại vào đây, chắc rồi hắn sẽ lại kích động cả các thần thánh ném đá Chúa không chừng?

Ông Phaolô cũng không vừa, ông kêu cầu tới Chúa:

- Lạy Chúa, Ngài dạy phải tha thứ cho kẻ thù mình tới 70 lần 7 mỗi ngày, thế mà anh Stêphanô này được vào Thiên Đàng trước con mà tâm hồn vẫn còn chấp nhất tìm cách trả thù kẻ đã hại mình kìa.

Lúc ấy, hẳn Chúa Giêsu lên tiếng can thiệp:

- Thôi mà hai anh em con đừng chọc ghẹo nhau nữa.

Thế là hai ông ôm nhau khóc bởi qua vui mừng: Nhờ Stêphanô đã cầu nguyện cho Saulô mà Chúa xuất hiện đón lấy hồn Stêphanô; còn Saulô được Stêphanô cầu nguyện mà ông trở nên Tông Đồ xuất sắc không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5), nay cùng nhau được sum họp trên Thiên Đàng hưởng phúc vinh với Chúa.

Vậy hai ông Stêphanô và Phaolô đã minh họa “sói – chiên” sống chung với nhau trong bình an vô tận với Chúa.

3. Tình yêu thắng hận thù.

Một binh sĩ người Anh đã viết cho một người mẹ Đức như sau: “Là một quân nhân của một lực lượng được chỉ định tấn công vào một ngôi làng ở Pháp, phận sự trong quân ngũ đã khiến tôi giết chết con bà. Tôi là một tín hữu Kitô giáo, và vì lẽ đó, tôi thành khẩn xin bà hãy tha thứ cho tôi. Tôi hy vọng là một ngày kia, khi chiến tranh chấm dứt, tôi có thể đích thân đến gặp bà."

Mấy tháng sau, khi bà mẹ người lính Đức hay tin con bà tử trận, bà mới nhận được bức thư trên đây, và bà đã trả lời như sau cho người lính Anh:

 “Tận thâm tâm, tôi đã tha thứ cho anh, mặc dù anh đã giết chết người con yêu dấu của tôi. Tôi tha thứ cho anh, bởi vì cũng như anh, tôi là một tín hữu Kitô. Nếu anh và tôi đều sống sót sau cuộc chiến, tôi hy vọng anh có thể sang Đức để thăm tôi, và mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, anh có thể thế chỗ cho con tôi, đứa con mà anh đã giết chết."

Điểm đáng chú ý nhất trong hai bức thư trên, là lời tuyên xưng: “Tôi là một tín hữu Kitô”, và với niềm tin cả anh lính người Anh và bà mẹ người Đức đã để cho Lời Chúa tách họ ra khỏi vòng luẩn quẩn của bạo lực: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, và đưa họ vào con đường yêu thương.

4. Thánh là ai?

Ngày kia một em bé theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai mẹ con đi qua một thánh đường nguy nga. Em bé ngước nhìn thánh đường rồi đưa tay chỉ mẹ và nói: “Mẹ xem kìa, những cửa kính màu bám đầy bụi, trông chả đẹp tí nào. ”

Bà mẹ không nói gì, nhưng lại nắm tay con dẫn vào bên trong thánh đường. Từ bên trong thánh đường nhìn ra, những cửa kính dơ bẩn xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc tuyệt đẹp. Em bé ngạc nhiên mở to mắt nhìn. Em thích thú đặc biệt khi ngắm nhìn 4 vị thánh trên cửa kính sau bàn thờ đang rực rỡ chói lòa nhờ ánh mặt trời chiếu thẳng qua.

Vài ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ cô giáo hỏi: “Các em có biết vị thánh là ai không?” Trước câu hỏi bất ngờ, cả lớp đều thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào nhà thờ hôm trước giơ tay xin trả lời. Em nói: “Thưa cô, vị thánh là người được ánh sáng mặt trời chiếu qua. ”

Stêphanô là một vị thánh vì ngài đã phản ánh Chúa Giêsu, nhất là qua cái chết của ngài. Bài đọc I (Cv 6,8-10 7,54-60) tường thuật ngài chết giống Chúa Giêsu: cũng phó linh hồn trong tay Chúa (c. 59) và cũng cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ hại mình (c. 60).

5. Tử đạo là chết vì tình yêu

Lá thư thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh gửi các chủng sinh chủng viện Kẻ Vĩnh năm 1843, giúp chúng ta biết đôi chút về cảnh ngục tù: “Ngục thất này quả là một hình ảnh sống động của hoả ngục đời đời: ngoài gông cùm, xiềng xích, dây thừng, lại còn thêm sự nóng giận, oán thù, nguyền rủa, những lời tục tĩu, những sự gây gỗ, những hành vi xấu xa, những lời thề gian, nói hành, và cả nỗi chán nản, buồn phiền, cả ruồi muỗi rận rệp.”

Dẫu trong hoàn cảnh như thế, thánh nhân vẫn cao rao tình thương của Thiên Chúa, đồng thời mời gọi các chủng sinh lấy lòng tin tưởng và yêu mến mà hợp với ngài dâng lời ngợi khen Đấng có thể làm được mọi sự cho những ai có lòng tin: “Tôi muốn nói cho anh em biết những gian truân tôi đang chịu hằng ngày, để anh em được cháy lửa yêu mến Chúa mà hợp với tôi dâng lời ca ngợi Thiên Chúa: Chúa yêu thương ta đến muôn đời.”

Chỉ những ai có một trái tim đầy ắp niềm tin và tình mến mới có thể ca ngợi Thiên Chúa trong hoàn cảnh như thế.

6. Sức hút của thánh giá

Bạn chỉ có thể ngạc nhiên về sự trung thực của Chúa Giêsu trong đoạn Tin mừng hôm nay mà thôi. Ngài không đưa ra những điều hào nhoáng bên ngoài để thu hút bạn, một khi bạn theo Ngài. Sự khôn ngoan thế gian thì nói: “Người ta sẽ làm bạn choáng ngợp và ca tụng bạn.” Còn Chúa Giêsu thì nói: “Người ta sẽ đánh đập và thù ghét bạn.” Tuy nhiên, như William Barlay nhắc nhở chúng ta là lịch sử chứng minh lời Chúa Giêsu nói thật chí lý. Tận thâm tâm, người ta phản ứng đối với những thách thức và những gì đòi dũng cảm hơn là những gì ngược lại.

Tôi có suy nghĩ gì khi đọc Bài Tin Mừng hôm nay?

Có lẽ Gíao Hội cần phải học biết rằng con đường dễ dãi không thu hút người ta, trái lại, những gì đòi hỏi sự dũng cảm rốt cuộc sẽ có sức thuyết phục hơn (William Barlay)

7. Cái chết đáng sợ nhất

Trên báo Tiền Phong, nhà báo Ngọc Bích đã viết về HIV/AIDS và nạn nhân của nó, những chàng trai trẻ:..." Hầu như số này đều đã có ít nhiều hiểu biết về HIV/AIDS, nhưng không kiềm chế được mình khi sa vào các “ổ nhện” là các quán bar, caphê đèn mờ, karaoke ôm, bia ôm và đã có quan hệ tình dục với tiếp viên nhà hàng, bị lây truyền bệnh lúc nào không rõ!

Đã có những chàng trai nhiễm HIV cưới vợ, có con, khi phát bệnh, cả gia đình đi xét nghiệm mới đau đớn nhận ra cả nhà nhiễm HIV. Người chồng đã uống thuốc tự vẫn, để lại người vợ trẻ và đứa con nhỏ nhiễm HIV không nơi nương tựa...”

Người chồng đã chết, một cái chết đáng thương! Cái chết đó bắt đầu từ sự chết trong tâm hồn. Đó là cái chết đáng thương của người hiện đại.

8. Không sợ chết mà chẳng ngại sống

Stêphanô Nguyễn văn Vinh là một tân tòng đang học đạo. Anh sinh năm 1813. Anh là một tá điền khoẻ mạnh, sống độc thân và rất nghèo, tính tình đơn sơ, chất phác. Vì kế sinh nhai anh đã theo di dân lên tỉnh Bắc, đến lập nghiệp tại làng Đức Trai, giáo xứ Kẻ Mốt.

Anh và hai người bạn cùng trang lứa cùng bị bắt với hai thầy giảng là thầy Úy và thầy Mậu. Dù mới chỉ là một dự tòng nhưng khi bị bắt anh đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin. Khi quan bắt anh đạp lên Thánh giá, anh trả lời: “Tôi thà chết chứ không làm điều đó, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật.” Rồi anh được cha Tự rửa tội trong tù.

Ngày 19.8.1839, năm người đứng trước quan tòa. Một bên là Thánh giá, một bên là những dụng cụ tra tấn, quan vừa đe doạ, vừa dụ dỗ các ngài bỏ đạo, nhưng Thầy Mậu trả lời: “Chúng tôi đã quyết một điều là trung thành với Chúa chúng tôi thờ. Nếu quan biểu chặt đầu chúng tôi, hay chúng tôi phải chết cách nào khác, chúng tôi đã sẵn sàng.”

Cuối cùng quan thất vọng cho dẫn các ngài về ngục, nói rằng: “Bọn này không thể tha được, mà thật chúng cũng chẳng thèm được tha.”

Quan thất vọng, nhưng các tù nhân chịu án tử hình lại sống trong hy vọng. Khi có cho mình một lẽ sống thì người ta có thể nói như thánh giám mục Martin thành Tours về lẽ sống-chết, là “không sợ chết, mà cũng chẳng ngại sống”, còn khi không có được một lẽ sống thì "đời là bể khổ", sống là chịu khốn cực để rồi chết không hy vọng!

9. Mua xe tải được tặng súng

Một cửa hàng bán xe cũ ở bang florida, mỹ tặng kèm một súng AK-47 cho bất cứ ai mua xe. Nick Ginetta, trưởng phòng kinh doanh của đại lý xe cũ Nations Trucks, cho biết doanh số của họ tăng gấp đôi từ khi hình thức khuyến mãi được áp dụng tuần trước.

Trang web đăng quảng cáo khuyến mãi "mua xe, nhận súng AK" của Nations Trucks. Ảnh: EPA.

Tấm áp phích "Súng AK-47" được dán bên ngoài cửa sổ văn phòng Nations, bên dưới là đoạn miêu tả về khẩu súng huyền thoại của Liên Xô, loại súng trường bán chạy nhất trong mọi thời đại.

Thay vì nhận súng trực tiếp, khách hàng mua xe sẽ được đưa một biên lai 400 USD để đổi lấy AK-47 ở một cửa hàng vũ khí. Tất cả khách hàng được kiểm tra căn cước để đảm bảo sở hữu súng đúng luật.

Ginetta cho biết công việc phát đạt đến nỗi anh không thể trả lời hết các câu hỏi của báo chí về hình thức khuyến mãi. "Có hàng dài người đang chờ mua xe", Telegraph dẫn lời Ginetta nói. Khuyến mãi "mua xe, tặng AK" sẽ kéo dài đến cuối tháng này.

Một khách hàng cho biết hình thức khuyến mãi của Nations không ngăn cản ông đến mua xe bất chấp việc đã có những trải nghiệm không vui vẻ gì với loại súng này.

"Chúng từng nhắm vào tôi", Don Zeis, một cựu binh, nói. "Nhưng tôi cần một xe tải, đó là lý do tôi ở đây."

Người ta dùng một khẩu AK-47 để khuyến khích người khác dùng sản phẩm của mình, còn Chúa, Chúa chỉ biết dùng lòng nhân ái để giới thiệu con đường của Chúa, nhân ái cả với người đến bắt mình: "Một trong những kẻ theo Đức Giê-su liền vung tay tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai. Đức Giê-su bảo người ấy: "Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần!" (Mt 26,51-53)

10. Tha thứ là có sức mạnh

Trong một tiết học, giảng sư đề nghị các học viên trả lời câu hỏi: Hai vị trung úy cùng tuổi và học chung một khóa, giữa hai người đang có sự bất hòa, trung úy B chủ động làm hòa. Vậy ai là người có bản lãnh và cao thượng hơn? 90 phần trăm học viên trả lời: Trung úy B là người dũng cảm, 10 phần trăm học viên coi đó là hành động hèn nhát. Chúng ta nhận định thế nào?

Có người coi việc tha thứ cho kẻ thù là thái độ hèn nhát, nhưng sự thật thì những ai dám tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình, đó mới là người mạnh mẽ và có bản lãnh.

Nuôi lòng hận thù và tìm cách báo oán là lẽ thường tình, vì nó thỏa mãn tính tự ái và tự tôn nơi mỗi người. Nhưng chắc chắn sự hận thù sẽ làm tâm hồn của người cưu mang nó bất an. Chẳng những thế, hành động ấy sẽ phá vỡ những tương quan tốt đẹp giữa người với người, làm cho cuộc sống chung trở nên nặng nề, và trong rất nhiều trường hợp dẫn đến xung đột, thương tật và chết chóc. Như lửa đang cháy được đổ thêm dầu, hành động trả thù sẽ làm gia tăng oán hận.

11. Vẻ đẹp của tình yêu tha thứ

Trong Thế chiến thứ nhất, có một nữ hộ tá người Anh tên là Edith Cavell. Chị bị quân Đức bắt và bị buộc tội chứa chấp, chạy chữa, và nuôi một số lính Anh, Pháp tại nhà chị ở Bruxelles và giúp họ trốn sang Hòa Lan. Ngày 12.12.1915, chị bình tĩnh đứng trước đội lính hành hình của Đức như một nữ thần.

Buổi sáng ngày chịu hành hình, một mục sư người Anh bước vào phòng giam của chị, chị đã thốt ra câu nói mà người ta sau này khắc vào pho tượng đá của chị, câu nói chị để lại cho mọi người: “Bây giờ con mới biết, con phải bỏ hết oán hận, hết ý nghĩ chua chát với bất cứ ai, thì tâm hồn con mới được thư thái trước khi chết.”

Một trong những ngọn núi đẹp nhất Mỹ châu ở Canada đã được đặt bằng tên của chị: Edith Cavell.

Edith Cavell đã tìm gặp được hạnh phúc thật khi thoát khỏi sự điều khiển của cái tôi vị kỷ, mà để chính Chúa điều khiển cuộc đời mình, để Chúa thần linh hóa một chút bụi tro trong chị.

Đó cũng là công trình chúng ta bắt đầu hôm nay.

LỄ KÍNH THÁNH GIOAN - MÔN ĐỆ CHÚA YÊU

Lời Chúa: Ga 20, 2-8

Ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna chạy đến gặp Simon Phêrô và môn đệ kia mà Chúa Giêsu yêu, bà nói: "Người ta đã lấy xác Chúa khỏi mộ rồi, chúng tôi không biết họ để đâu."

Bấy giờ Phêrô ra đi với môn đệ kia đến mộ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông. Cúi nhìn vào, người môn đệ đó thấy tấm khăn liệm xác hãy còn, nhưng không vào. Bấy giờ Simon Phêrô theo sau cũng đến, và đi vào trong mộ, thấy khăn liệm xác còn đó, và khăn che mặt để trên phía đầu Người, không để chung với khăn liệm xác, nhưng đã cuốn riêng để vào một chỗ.

Bấy giờ môn đệ đã đến trước cũng vào; ông đã thấy và đã tin.

TRUYỆN KỂ

1. Hãy yêu thương nhau.

Chính thánh Hirônêmô đã kể lại câu chuyện về mấy lời cuối cùng của Gioan. Lúc ông hấp hối, các môn đệ hỏi ông còn gì để trối lại cho họ không. Ông bảo: “Hỡi các con bé bỏng của ta, hãy yêu mến lẫn nhau." Ông lặp đi lặp lại nhiều lần, họ lại hỏi ông phải đó là tất cả những gì ông muốn nói hay không, ông đáp: “Như thế là đủ, vì đó là mệnh lệnh của Chúa."

Gioan sống rất lâu, đến độ có tiếng đồn ông sẽ sống cho đến lúc Chúa Giêsu trở lại. Gioan sống để làm chứng nhân cho Chúa. Chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta trở thành chứng nhân cho Ngài.

2. Tin và yêu

Một cuộc đối thoại giữa hai người yêu nhau:

- Em có bằng lòng lấy anh không?

- Bằng lòng.

- Chúng ta chỉ mới quen nhau mấy tháng. Em chỉ nghe anh nói thôi chứ chưa có dịp “kiểm tra” lý lịch và quá khứ của anh. Sao em tin anh thế?

- Vì em yêu anh!

Tình yêu hỗ trợ cho niềm tin.

3. Tình yêu cần việc làm

Eusêbiô cho biết, ông bị đày sang đảo Patmos dưới thời trị vì của Domitianô. Eusêbiô đã thuật lại một câu chuyện độc đáo về Gioan mà ông được nghe Clêmentê kể lại. Khi Gioan làm Giám mục tại Tiểu Á, ông đến thăm một cộng đoàn gần Êphêsô. Nhìn thấy trong đám tín hữu có một thanh niên cao lớn, khôi ngô, ông quay sang vị giáo sĩ đang phụ trách cộng đoàn ấy và nói:- Tôi trao chàng thanh niên này cho ông lo lắng chăm sóc. Tôi yêu cầu cộng đoàn làm chứng là tôi đã giao cho ông.

Vị giáo sĩ liền đem chàng thanh niên này về nhà chăm sóc dạy dỗ cho đến ngày chàng được chịu Rửa tội gia nhập đạo. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, chàng thanh niên này bị bạn xấu lôi kéo vào con đường tội lỗi. Cuối cùng, anh ta đã trở thành lãnh chúa của một đảng cướp. Ít lâu sau Gioan trở lại thăm cộng đoàn, ông bảo vị giáo sĩ:

- Hãy trả lại cho tôi chàng thanh niên mà tôi và Chúa đã trao cho ông với cộng đoàn mà ông phụ trách.

Lúc đầu, vị giáo sĩ kia chẳng hiểu Gioan muốn nói gì.

Gioan nói tiếp: - Tôi hỏi về linh hồn của chàng thanh niên mà tôi đã giao phó cho ông đó.

Vị giáo sĩ đáp: - Than ôi, cậu ta đã chết rồi.

Gioan ngạc nhiên hỏi: - Chết rồi à?

Vị giáo sĩ tiếp:

- Cậu ta đã chết đối với Chúa. Cậu ta đã bỏ Chúa. Sau khi phạm tội trọng, cậu ta đã bỏ thành phố trốn lên núi, và bây giờ là một tướng cướp ở trên núi.

Gioan lập tức lên núi, ông cố tình để cho bọn cướp bắt. Chúng điệu ông đến trước mặt tên lãnh chúa của mình. Nhìn thấy Gioan, anh ta xấu hổ, bỏ chạy cốt ý để tránh mặt ông. Thế nhưng, mặc dầu đã cao tuổi, Gioan vẫn đuổi theo chàng ta. Ông kêu to:- Con ơi, con nỡ chạy trốn cha sao? Cha đã cao tuổi và yếu lắm rồi, hãy thương cha, con ơi! Đừng sợ! Con vẫn còn hi vọng để được cứu. Cha sẽ đứng với con trước mặt Chúa Giêsu Cứu Thế. Nếu cần, cha sẽ vui lòng chịu chết thay cho con như Ngài đã chịu chết thay cho cha. Hãy đứng lại, hãy đứng lại, hãy tin cha! Chính Chúa Cứu Thế đã sai cha đến cùng con đây. Tiếng gọi làm nát lòng chàng thanh niên. Anh ta dừng lại, vứt bỏ khí giới và khóc. Hai người xuống núi, chàng thanh niên được đưa trở về với Hội Thánh, trở lại cùng Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta thấy tình yêu thương và lòng can đảm của Gioan vẫn hành động.

4. Tình yêu có sức biến đổi

Trong tác phẩm “Hoàng Tử Bé” (Le Petit Prince), St. Exupéry đã mô tả mối quan hệ thân hữu như sau: Khi chưa thân, một người cũng giống như trăm nghìn người khác. Sau khi trở thành bạn thân thì người đó trở nên duy nhất trên đời. Chính thời gian hai người dành cho nhau tạo nên mối quan hệ quan trọng như thế mà người ta chỉ cảm nhận bằng trái tim chứ mắt chẳng thấy được.

Thật vậy, một khi tình yêu đã nảy nở giữa họ, họ dễ dàng nhận biết những tín hiệu của nhau và các ý nghĩa của chúng. Trong những năm sống với Chúa Giêsu gần gũi đến mức có thể mắt trông thấy, tai nghe được và tay chạm đến được, thánh Gioan đã cảm nghiệm sâu xa tình yêu Chúa dành cho và đã được biến đổi từ một người bộc trực (Lc 9,54) và tham vọng (Mc 10,35-40) trở nên “người môn đệ Chúa yêu,” nhạy bén nhận ra những dấu chỉ của Thầy ngay trong hoàn cảnh tưởng như tuyệt vọng.

Vì thế, khi thấy ngôi mộ trống với những băng vải và khăn liệm xếp gọn gàng bên cạnh, ông nhớ đến Lời Chúa báo trước và tin rằng Chúa đã phục sinh.

5. Chạy bởi lòng mến

Theo truyền thống, phong tục Việt Nam, thì khi có người thân qua đời, sau khi đã lo liệu việc chôn cất xong, khoảng hôm sau hay những ngày kế tiếp...tùy mỗi nơi, họ thường hay có tục ra nghĩa địa viếng mộ để bày tỏ niềm thương tiếc, nhớ nhung người đã khuất.

Ngày xưa tại đất nước Palestine cũng có phong tục đó. Tuy nhiên, họ để ba ngày mới ra viếng mộ. Vì vậy, chúng ta không lạ gì khi thấy sự kiện Maria Mađalêna ra viếng mộ Chúa từ tờ mờ sáng. Bà đến sớm là vì nóng lòng chờ đợi từng giây phút để được đến với Chúa.

Tuy nhiên, điều mà Maria Mađalêna ngỡ ngàng là thấy phiến đá lấp cửa mồ đã được lăn ra khỏi mộ...và khi nhìn vào thì không thấy xác Chúa đâu cả...Trong tâm trí của bà lúc này là: đã có ai đó lấy cắp xác Chúa...???

Sau đó, Maria Mađalêna vội về nhà báo tin cho các Tông đồ biết sự việc lạ lùng này...Gioan và Tông đồ trưởng Phêrô đã chạy đến mộ để phục kích tận mặt xem thực hư thế nào. Khi tới nơi, Tông đồ trưởng chỉ thấy ngỡ ngàng và chưa thể đoán được sự việc ra sao! Nhưng Tông đồ Gioan thì biết, ông đã thấy và đã tin, vì ngài nhớ lại lời Đức Giêsu đã loan báo trước đó là: “ngày thứ ba sẽ sống lại...."

Điều mà chúng ta cần khám phá nội dung tiềm ẩn hay chủ đạo trong bài Tin Mừng hôm nay chính là hai chữ: “Lòng mến." Vì yêu mến Chúa tha thiết, nên Maria Mađalêna đã đến mồ từ tảng sáng của ngày thứ nhất trong tuần. Vì yêu, nên Tông đồ Gioan cũng nhận ra Chúa đã sống lại một cách chắc chắn. Ngài cũng là người đầu tiên hiểu và tin vào việc này. Sau này chúng ta còn thấy Gioan đã nhận ra Chúa trước tiên trên bãi biển trước hết...

6. Gioan nói về tình yêu

Tất cả những gì Chúa Giêsu yêu cầu là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13,34)

Chúa gọi đó là điều răn mới, nhưng mấy từ “hãy yêu thương nhau” lại là những từ quá quen thuộc, bình thường, và cũ rích trong ngôn ngữ con người. Vậy thì cái mới Chúa muốn nói ở đây là điều chi thế? Cái mới ở đây là một chữ duy nhất… chữ NHƯ (như Thầy đã yêu thương anh em).

Đúng thế, đối với con người tình yêu có nhiều mức độ, và ở mức độ nào tình yêu vẫn là tình yêu; thế nhưng đối với Thiên Chúa, tình yêu là yêu không biên giới: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13) Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hình ảnh sống động cho tình yêu.

Một điều quan trọng phải biết, là Chúa không nói với con người như một lời khuyên, mà là một mệnh lệnh: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”

Đó là một mệnh lệnh vì đó là con đường duy nhất để biết Chúa, để tìm lại được chính mình: “Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta.” (1Ga 3,23)

Vì “ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1Ga 4,8)

Và cũng bởi đó mà ai cũng có thể chạm tay được vào hạnh phúc thiên đường, vốn được Chúa đặt thật gần với mọi người, hạnh phúc của trao tặng, hạnh phúc của cho đi, hạnh phúc được nên một với Thiên Chúa - Tình Yêu, hạnh phúc của Becca và Bill: “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4,16)

LỄ CÁC THÁNH ANH HÀI - HÀI NHI CHẾT VÌ CHÚA

Lời Chúa : Mt 2, 13-18

Khi các đạo sĩ ra đi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrođê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người.” Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrođê băng hà, hầu làm trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.”

Bấy giờ Hêrođê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.

TRUYỆN KỂ

1. Tàn sát các hài nhi

Lễ Giáng sinh trước tiên là lễ của Nhi đồng. Như Đức Gioan Phaolô II đã viết trong thư gửi các thiếu nhi trên thế giới nhân năm quốc tế gia đình: “Những gì đã xảy ra cho Hài nhi Giêsu ở Belem cũng xảy ra cho các trẻ em trên khắp thế giới. Có biết bao trẻ em đang là nạn nhân của đói khổ, của chiến tranh, đang bị cha mẹ bỏ rơi, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang đau khổ vì biết bao hình thức bạo động và gây hấn của người lớn.”

Để có một vài con số cụ thể, chúng ta chỉ cần lắng nghe báo cáo của tổ chức Nhi đồng quốc tế (UNICEF) về tình trạng trẻ em trên thế giới năm 1995 như sau: “Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đang có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì chiến tranh, từ 4 đến 5 triệu tật nguyền, hơn 5 triệu sống trong các trại tị nạn, trên 12 triệu sống cảnh không nhà không cửa.” Bản báo cáo ước tính cần phải có ít nhất 34 tỉ Mỹ kim mới có thể đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục cho các trẻ em trên khắp thế giới.

“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai.” Đây là quy luật mà ai cũng phải biết.

Tuy nhiên, có một sự thật đau buồn về tình trạng cuộc sống của các trẻ em hiện nay: theo thống kê của các tổ chức quốc tế, ngày nay có hàng triệu triệu trẻ em chết vì chiến tranh, tật nguyền; hay sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tại các trại tỵ nạn và nơi các đường phố, gầm cầu... Biết bao trẻ em thất học, không được đến trường. Tệ hơn nữa là có quá nhiều trẻ em chết dưới bàn tay của chính các bậc làm cha mẹ khi họ quyết định phá thai...!

Tất cả đều do sự chểnh mảng, thiếu quan tâm, vô nhân và chối bỏ quyền của các trẻ em nơi những nhà lãnh đạo, các tổ chức và ngay cả các bậc làm cha mẹ trong các gia đình...

Thảm trạng đau buồn hiện nay của thế giới về các trẻ em cũng chính là đại họa mà các thánh Anh Hài thời Đức Giêsu phải chịu dưới sự tàn độc, ích kỷ, ghen tương của vua Hêrôđê.

2. Con sâu trong tảng đá.

Một hôm, Đức Ala gọi một thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có bốn đứa con thơ.”

Thiên sứ ra đi. Ngài gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với bốn đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết như xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách biệt người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng ánh mắt van xin của sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng, sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đem về trời.

Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị sứ thần lại có vẻ buồn. Phải, vui làm sao được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con. Thấy sứ thần buồn, Đức Ala mới gọi đến và đưa vào giữa sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra.

Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì trong lòng tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên:

 “Ôi lạy Đấng Tối Cao, mầu nhiệm thay công việc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được bốn đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.” (Trích D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 307-308).

3. Luật phá thai ở thời nay

Vậy nhờ ơn phù trợ của Thiên Chúa, chúng ta cùng với Hội Thánh cất lời tung hô: “Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng, tuyên xưng Ngài là Đức Chúa. Lạy Chúa, đoàn Tử Đạo quang huy hùng dũng, máu đào đổ ra minh chứng về Ngài” (Tung Hô Tin Mừng).

Tuy nhiên, nhân loại ngày hôm nay, trong đó có không ít người Công Giáo, còn độc ác hơn vua Hêrôđê, cụ thể vào năm 2008, nước Mỹ tuyển cử tân Tổng thống, ông Obama ra ứng cử, ông này chủ trương cho phá thai, nghịch với giáo lý Hội Thánh Công Giáo! Hội Đồng Giám mục Mỹ kịch liệt lên tiếng phản đối trên các phương tiện truyền thông, và còn cảnh báo những người Công Giáo: Ai bỏ phiếu cho ông Obama, thì không xứng đáng rước Lễ! Thế mà có đến 61% người Công Giáo lại bỏ phiếu cho ông này, là tiếp tay ủng hộ luật cho phép phá thai của ông!

Năm 1961, ý thức hệ Tư bản và Xã hội chủ nghĩa gia tăng cực độ giữa dân tộc Đức, khiến họ đưa đến quyết định tôn trọng nhau: ai thích Cộng sản thì ở Đông Đức; còn ai ưa Tư bản thì sống ở Tây Đức. Nhưng làn sóng người ở Đông Đức tràn qua Tây Đức mỗi ngày một tăng, khiến họ phải xây bức tường chia đôi đất nước từ ngày 13-08-1961. Tường dài 700km, cao 8m, dầy 3m. Tiếc thay bức tường dựng lên lại càng tăng thêm sự thù ghét giữa đôi bên!

Nhưng sau 3 giờ, ông Gorbachov, Tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô gặp Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ông trở về nước tuyên bố giải tán đảng Cộng sản. Tức khắc bức tường ô nhục Bá Linh bị phá đổ đêm ngày 12 rạng ngày 13-11-1989. Đó là ngày giải phóng vui mừng nhất của nước Đức, vì toàn dân Đức ai cũng ôm ấp mơ ước cuộc giải phóng này gần nửa thế kỷ, nay trở thành sự thật. Trước ơn vui mừng lớn lao Chúa ban cho dân tộc Đức như thế, nhưng cũng vào thời điểm ấy, chính phủ Đức lại ra Luật cho phá thai! Nhiều trẻ vô tội bị chính cha mẹ giết, còn độc ác hơn vua Hêrôđê! Bởi đó, các Đức Giám mục Đức ra lệnh các nhà thờ Công Giáo không đổ chuông mừng ngày đất nước được giải phóng! Sự im lặng ấy biểu lộ những thai nhi không khóc lên được, đau đớn hơn bà Rakel đã đội mồ khóc thương con cháu bà bị lưu đày bên Babylon!

4. Thiên Chúa là ánh sáng

Nhà văn Do thái Shalom Asch, viết: “Chúa Giêsu là người xuất chúng nhất mọi thời. Không bậc thày nào- Do thái, Kitô giáo, Phật giáo, Hồi giáo,- vẫn là một bậc thày mà lời giảng dạy là cột chỉ đường cho thế gian. Những bậc thày khác có thể đặt nền tảng cho người Phương Đông, người Ả rập, hay người phương tây. Những lời nói và hành động của Chúa Giêsu có giá trị cho tất cả chúng ta. Ngài trở thành Ánh sáng thế gian. Tại sao một người Do thái như tôi lại không tự hào về điều đó,”

Những lời đầy gợi ý của Shalom Asch mời gọi tôi tự hỏi: Tôi làm việc và cầu nguyện ra sao khi tất cả mọi người bước theo Anh sáng thế gian và không còn dò dẫm đêm tối nữa?

Cả thế giới được bừng lên trong ánh quang Gíang sinh tuyệt vời làm sao! (Mary Austin)

5. Hêrôđê giữ luật

Việc giết chết các bé trai phản ánh tình trạng tâm bệnh của Hêrôđê. Ông đã giết chết cả các thành viên trong gia đình, nhưng lại ra sức giữ luật chay tịnh của người Do thái, như không ăn thịt heo chẳng hạn. Điều này khiến một hoàng đế La mã nói đùa: “Tôi thích là con heo của Hêrôđê hơn là làm con trai ông ta,” Một nhà sử học Do thái cho rằng vào những ngày cuối đời, Hêrôđê đã ra lệnh dẫn đến nhiều công dân ở các thị trấn Giuđê để giết chết. Đầu óc bệnh hoạn của ông nghĩ rằng nỗi đau đớn do cái chết của họ sẽ đem lại niềm vui cho ông ta lúc chết. Lệnh này đã không bao giờ được thi hành.

Tôi lý giải lòng nhân hậu của Thiên Chúa thế nào khi cho phép những ông vua tàn ác gây dau khổ cho quá nhiều người vô tội?

Chúa phán: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối các ngươi,” (Is 55,8)

6. Tình yêu vị kỷ của Herode

Như Giacôbê và Gioan được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh là “ những người nóng nảy” vua Hêrôđê cũng là người đầy tình cảm, có thể yêu thương và cam kết sâu xa. Nhưng đáng tiếc tình yêu của vua Hêrôđê là tình yêu vị kỷ, chứ không phải tình yêu vị tha. Kết quả là cuộc đời ông hoàn toàn khác so với Gioan và Giacôbê. Vua Hêrôđê được sếp vào số những khuôn mặt bi thảm của Kinh thánh.

Tình yêu và lời cam kết của tôi vị kỷ hay vị tha? Tôi có thể làm một việc gì cho điều đó?

Những người yêu nhau chẳng cần sợ đối thủ.

7. Ngược dòng bảo vệ Chúa

Sứ mạng của thánh cả Giuse làm cha nuôi Đấng Cứu Thế chứa đầy nan đề nghịch cảnh. Đứng trong hoàn cảnh của ngài, chắc hẳn chúng ta không khỏi hoài nghi. Đành rằng với lời giải thích của thiên sứ trong giấc mộng, Giuse đã mau mắn đón Maria về nhà làm vợ (Mt 1,20). Thế nhưng thật khó hiểu được tại sao Thiên Chúa lại để Con Một Ngài sinh ra trong cảnh nghèo nàn, hơn nữa, bị Hê-rô-đê tìm cách sát hại mà hầu như không có khả năng tự bảo vệ chính mình. Trong những hoàn cảnh hết sức éo le, phi lý như thế, thánh Giuse không hành động theo kiểu tính toán thường tình, buông xuôi “theo dòng.” Dù chỉ được báo tin trong giấc mộng nhưng ngài đã trỗi dậy trong đêm tối “đem Hài Nhi và Mẹ Người” trốn sang Ai-cập. Ngài đã dám “lội ngược dòng” để bảo vệ Hài Nhi Giêsu.

Những người Công giáo I-rắc bị nhóm khủng bố giết hại trong khi tham dự thánh lễ ngày 31/10 /2010 là một chứng từ chấp nhận “ngược dòng” để trung thành với niềm tin vào Chúa Giêsu, chứ không xu thời chối bỏ. Còn bạn, bạn có dám lội ngược dòng xu thế tục hoá, hưởng thụ của thời đại hôm nay để đi theo Chúa Giêsu, trung thành sống theo những giá trị Tin Mừng không?

Giá trị Tin Mừng nào đang bị các kitô hữu ngày nay lãng quên nhiều nhất? Bạn làm gì để làm khởi sắc lại những giá trị đó?

8. Trở nên bạn hữu

Trong tác phẩm “Hoàng tử và cậu bé nghèo”, nhà văn Mark Twain viết về tình bạn của hoàng tử Edward xứ Galles và một cậu bé nghèo. Một hôm hai cậu bé có ý nghĩ sẽ đổi vị trí của nhau và mọi rắc rối cũng nảy sinh từ đó. Trong khi cậu bé nghèo trong vai hoàng tử sắp được tấn phong làm vua, thì cậu bé hoàng tử trong bộ dạng rách rưới bị tống giam vì tội mạo nhận là hoàng tử. Thiên Chúa Nhập Thể trong thân phận con người để con người được làm Con Chúa, Ngài cũng để mình bị liên luỵ bởi lựa chọn đó. Nếu Hài nhi Giê-su có được giấc ngủ ngon, thì Ngài cũng để mình phải liên luỵ đến những hy sinh của Giu-se và Ma-ri-a, bởi lòng hào hiệp của những mục đồng và cả sự hy sinh của những Hài nhi ở Bê-lem.

Bạn nhận ra mình thật hạnh phúc khi được Vua Trời Đất trở nên “cùng hội cùng thuyền” với mình trong thân phận con người. Bạn có sẵn sàng để mình bị liên luỵ và chia sẻ với Ngài trong những đau khổ và hy sinh, để mong một ngày được sống hạnh phúc với Ngài không?

Điều bạn có thể làm để chia sẻ với những khó khăn của Hài Nhi Giêsu là gì? “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa,… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).

9. Tiếng khóc của thai nhi

Trong bộ truyện “Hán Sở Tranh Hùng” có thuật chuyện binh lính của Hạng Vương nghe khúc tiêu nỉ non ai oán của Trương Lương thì tiêu tan hết nhuệ khí chiến đấu, tan hàng bỏ trốn. Hạng Vương cô thế, lui tàn binh tới sông Ô Giang, cùng đường liền dùng gươm tự sát. Tiếng tiêu Trương Lương làm cho những chiến binh đang say men chém giết cũng phải mềm lòng. Còn tiếng thét kinh hoàng của các thơ nhi bị giết và tiếng khóc xé lòng của các bà mẹ đáng thương ở Bêlem lại không mảy may đánh động con tim Hêrôđê đã ra chai đá vì lòng ham mê quyền lực. Hài Nhi Giêsu ngay từ lúc chào đời đã bước vào giờ của Ngài, giờ của bóng đêm, của ác thần; giờ đó chỉ hoàn tất khi Ngài chiến thắng sự dữ bằng cái chết và phục sinh. Quả thật, “Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào vinh quang của Người sao?”

Dù người ta có dùng những “hệ thống hãm thanh” để biến tiếng khóc Ra-khen và tiếng thét của các thai nhi thời nay thành những tiếng rên uất nghẹn, thì vẫn không giấu được những hình ảnh và con số kinh hoàng của nạn phá thai. Dù có biện minh bằng những mục tiêu to lớn nào, có sử dụng những ngôn từ hoa mỹ nào đi nữa, phá thai vẫn là một tội ác đáng ghê tởm. Việt Nam đứng thứ ba về nạn phá thai trên thế giới. Bạn nghĩ gì và làm gì để tham gia vào sứ mạng “Bảo Vệ Sự Sống”?

NGÀY 29/12 - CỤ GIÀ SI-MÊ-ON CHỜ ĐỢI

Lời Chúa: Lc 2, 22-35

Khi mãn thời hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa", và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con."

Và lúc đó tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa."

Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ."

TRUYỆN KỂ

1. Lời cầu xin tốt đẹp.

Roy Cam Parisella, bị bại liệt phải ngồi xe lăn. Hằng ngày cô vẫn phải đến Trung Tâm Vật Lý Trị Liệu vốn là một cơ sở tôn giáo để được chăm sóc. Lần nào cô cũng thấy có một số người thường dừng lại trước một tấm bảng đồng được gắn ở tường ngay trong phòng tiếp nhận bệnh nhân. Một buổi chiều kia, cô cũng dừng xe lăn, tò mò nhìn lên và thấy cả một bài cầu nguyện được khắc ở trên tấm bảng đó. Cô đọc một cách hết sức chậm rãi. Bỗng cô cảm thấy một niềm phấn khởi trào dâng lên từ tận đáy tâm hồn bấy lâu nay đã tuyệt vọng vì âu sầu tủi nhục của cô.

Đây là lời cầu nguyện:

Lạy Chúa,

Con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt trong cuộc đời, thì Chúa lại làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời khiêm hạ,

Con cầu xin có sức khỏe để mong thực hiện những công trình lớn lao, thì Chúa lại bắt con chịu tàn tật và chỉ làm được những việc tốt lành nho nhỏ.

Con cầu xin được giàu sang để sống một cuộc đời sung sướng thoải mái, thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.

Con cầu xin được có uy quyền để mọi người phải kính nể ca ngợi con, thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.

Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời, thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.

Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn.

Nếu chỉ dừng lại ở đây thì quả cuộc đời là một bế tắc, nhưng Parisella đã biết nhìn xa hơn khi cô đọc thêm những lời cầu nguyện ở cuối bài. Những lời đó như thế này:

Nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin; thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.

Lạy Chúa,

Hóa ra, con lại là người có phúc hơn hết trên đời này. Bởi con đã nhận được vô vàn bao ơn phúc Chúa ban.

2. Khao khát gặp Chúa

Trong kho tàng văn chương Ấn giáo, có một câu chuyện sau đây:

Một đệ tử đến thưa vị linh sư của mình:

- Thưa thầy, con muốn gặp Chúa.

Vị linh sư chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.

Ngày hôm sau người môn sinh trở lại và bày tỏ cùng một ước muốn. Vị linh sư cũng chỉ mỉm cười và tiếp tục giữ thinh lặng.

Rồi một ngày đẹp trời, ông dẫn người đệ tử đến dòng sông. Thầy trò cùng dầm xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát. Bất thần vị linh sư túm lấy cổ anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để ngóc đầu lên khỏi mặt nước.

Bấy giờ vị linh sư mới hỏi anh:

- Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?

Không chút suy nghĩ, người đệ tử đáp ngay:

- Thưa, con cần không khí để thở.

Lúc bấy giờ vị linh sư mới giải thích:

- Con có cảm thấy ước ao được gặp Chúa như vậy không? Nếu con khao khát Chúa như vậy con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không có ước muốn ấy, thì cho dù có vận dụng hết cả tài năng và sức lực, con cũng sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài.

3. Niềm vui vì thấy ơn cứu độ

Ngày 5/11/08, Barack Obama đắc cử tổng thống Hoa Kỳ. Nhiều người Mỹ hân hoan, nhiều nước trên thế giới hy vọng. Họ đang kỳ vọng vị tổng thống tân cử này sẽ vực dậy không chỉ riêng nước Mỹ mà còn cả thế giới ra khỏi những khó khăn khủng hoảng. Về phần Hội Đồng Giám Mục thì lại lo âu vì chủ trương cho phép phá thai không giới hạn của Obama.

Tin Mừng hôm nay mời gọi ta có một lối ứng xử theo tinh thần đức tin trước những sự kiện đời thường: Ông già Simêon “vui vì được thấy ơn cứu độ.” Nhưng niềm vui của ông không theo kiểu thế tục: Để ơn cứu độ đó được thể hiện thì trẻ Giêsu sẽ là “dấu hiệu bị người đời chống báng,” và về phần Đức Maria, người tham gia gần gũi vào chương trình cứu độ đó, thì “một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”

Thường chúng ta hay lo lắng cho miếng cơm manh áo. Khi no đủ thì ta lại muốn ăn ngon mặc đẹp... Và niềm lo lắng cho nhu cầu vật chất, lòng khát khao danh vọng cứ cuốn hút ta khiến ta tâm hồn ta không còn chỗ cho Thiên Chúa nữa, không còn cảm nhận được niềm vui được thấy ơn cứu độ. Thực ra, ơn cứu độ đã được sắm sẵn cho bạn rồi. Nhưng, mời bạn xét xem, cái gì đang ngăn trở mình không cảm nhận được niềm vui ơn cứu độ ấy?

4. Kiên trì chờ đợi

Nathaniel Hawthorne chết, trên bàn của ông có dàn bài một vở kịch mà ông chưa có cơ hội để viết. Vở kịch tập trung vào một con người huyền bí được mọi người bàn luận và mơ ước, chờ đợi. Nhưng con người này không bao giờ đến.

Cựu ước cũng giống như vở kịch đó. Nó tập trung vào một người là Đấng Mêsia, Đấng toàn thân mong đợi và cứu thoát Israel.

Cũng như thời Cựu ước, một số người thời nay cũng chờ đợi Chúa Giêsu trở lại. Họ tự hỏi sự kiện đó ở gần tầm tay. Tôi suy nghĩ gì về điều đó?

Chúa Giêsu không tiết lộ ngày tận thế để chúng ta luôn tỉnh thức chờ đợi Ngài. (Thánh Augustinô)

5. Một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn bà

Một ngày nọ trong thế chiến thứ hai, một đội tuần tra hải quân Mỹ trên đảo Guam đã đổ ra và giết chết ba người lính Nhật. Theo thường lệ, họ lục lọi tìm kiếm lựu đạn và tài liệu quan trọng. Trong túi áo của một người chết là tấm ảnh, Mẹ Chúa Giêsu. Tấm ảnh ấy nằm trong túi áo trước ngực của người lính Nhật.

Từ thời Đức Maria đến nay, đã có biết bao người mẹ cảm nhận lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn do chiến tranh bạo lực gây ra. Tôi có thể chấp nhận chiến tranh và đau khổ mà nó mang lại như một điều không thể tránh không?

Nhân loại phải kết thúc chiến tranh hoặc chiến tranh sẽ kết thúc nhân loại. (John F. Kennedy)

6. Được gặp Chúa

Wilbur Hegger sợ dính dáng đến chức vụ linh mục ở nhà tù khi lần đầu tiên có ngài đề nghị với ông điều đó. Tuy nhiên, chuyến viếng thăm đầu tiên tại nhà tù không những xóa tan nỗi sợ hãi, mà còn mở cho ngài một thế giới của cuộc sống mới mà ngài rất hài lòng.

Wilbur nói: “Trước kia những chiều Chúa nhật đối với tôi chỉ có nghĩ là ngồi xem đá banh trên truyền hình, không còn gì khác nữa, nhưng giờ đây, thay vào đó chủ đề cho những buổi nói chuyện với các tù nhân là Chúa Giêsu cứu thế.” Vì hầu hết các tù nhân mà ngài thăm viếng đều lãnh án dài hạn, cho nên Wilbur dần dần trở lên quen thân và xem họ như những người bạn.

Tôi hài lòng thế nào với cuộc đời tôi? Phần đời nào tôi cảm thấy ít hài lòng nhất?

Giúp đỡ anh em là cách tiếp cận Thiên Chúa gần nhất. (Cicero)

7. Tấm gương chờ đợi

Một bà lão gặp vị linh mục và nói: Thưa Cha, con đã cầu nguyện rất nhiều, con chỉ mong thấy Chúa một lần là đủ cho con, nhưng Chúa chưa nhận lời.

Ước mong đơn sơ của bà thật sự gói trọn niềm hy vọng của người kitô hữu; bởi cùng đích của cuộc đời chúng ta là gặp gỡ và kết hợp trọn vẹn với Chúa. Mặt khác, lời cầu xin đó cũng khiến chúng ta giật mình, bởi nhiều khi chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, nhưng cuộc sống của chúng ta lại không nói lên niềm trông đợi Chúa đến.

Gương sống của cụ Simêon thật đáng để chúng ta noi theo: cụ chờ đợi Chúa không chỉ một vài “mùa Vọng” nhưng là suốt cuộc đời; cuộc đời công chính và sùng đạo, cụ để cho Chúa Thánh Thần hằng ngự và dẫn dắt; điều đặc biệt nữa đó là, cụ tin vào lời Thánh Thần linh báo.

Và đến cuối đời, cụ đã được phần thưởng xứng đáng là ẵm Chúa Hài Đồng. Cụ đã thấy ơn cứu độ và chỉ xin được an bình ra đi.

NGÀY 30/12 - BÀ TIÊN TRI ANNA

Lời Chúa: Lc 2, 36-40

Khi ấy, có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.

TRUYỆN KỂ

1. Lời Tiên Báo Về Chúa Hài Nhi

Vào một mùa Giáng Sinh nọ, trước giờ đi lễ, vị chủ nông trại đang ngồi thưởng thức nhạc Giáng Sinh, bỗng đâu cả đàn ngỗng của ông tụ lại trước sân nháo nhác tìm chỗ trú. Chúng vừa đói, vừa lạnh, lông cánh rối bời. Tất cả người làm đều đã nghỉ cả, người chủ cũng đều sắp đóng cửa để về thành phố dự Thánh Lễ. Bởi vậy ông bèn ra lùa đàn ngỗng về chuồng, nhưng chúng không biết ông nên dù cho gào thét khàn cả tiếng, chạy ngược chạy xuôi, đã rời cả đôi chân mà ông vẫn không đem được một con nào về chuồng.

Thấy vậy ông thầm ước với mình: "Ước gì tôi được làm ngỗng trong chốc lát, để tôi có thể dùng tiếng loài ngỗng mà nói cho chúng hiểu ước muốn của tôi và cho chúng biết đâu là chốn hiểm nguy, đâu là nơi an toàn." Bỗng chốc, ông đã thành một con ngỗng đứng giữa bầy như ước nguyện.

Có thể chúng ta sẽ là phi lý khi thấy người biến thành ngỗng. Thế nhưng, có một điều khác còn phi lý hơn nữa mà Giáo Hội đang mời gọi chúng ta chiêm ngắm, đó là hang đá Belem, nơi Thiên Chúa Vua Cả trời đất giành lấy thân phận làm người, sinh ra trong hang bò lừa máng cỏ. Ngài làm người để rồi Ngài sẽ dùng ngôn ngữ của loài người mà chỉ dạy cho con người lối về quê thật.

Trong mùa Giáng Sinh, mùa kỷ niệm một biến cố phi lý mà con người không thể hiểu thấu. Ước mong rằng mỗi người trong chúng ta biết bắt chước như bà Anna là sẵn sàng đón nhận những đau khổ, những phi lý về ơn cứu độ và nhất là luôn nhớ sứ mệnh tiên tri đã được trao ban từ ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để rồi ta có thể bắt chước thánh Phaolô mà nói được như Ngài: "Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Ðức Kitô." Amen.

2. Chọn viên ngọc quí.

Người ta kể rằng có một chàng thanh niên đến xin thọ giáo với một sư tổ về ngọc thạch. Sau khi đã chấp nhận người môn sinh, vị sư tổ trao cho chàng một viên ngọc thạch quí giá, và bảo chàng hãy nắm thật chặt lấy nó ở trong tay. Thế rồi ông nói thao thao với người môn sinh về triết lý nhân sinh, về thiên văn địa lý. Sau hơn một giờ đồng hồ, ông bảo người môn sinh trả lại ông viên ngọc thạch, rồi cho chàng về nhà.

Hôm sau, chàng thanh niên đó trở lại, và cái cảnh hôm trước lại tái diễn. Thế rồi ngày này qua ngày khác, tháng nọ qua tháng kia, không có một điều gì khác lạ.

Nhưng rồi một hôm vị sư tổ bảo chàng nhắm mắt lại, rồi trao cho chàng một viên đá thay vì một viên ngọc như mọi khi, và cũng bảo chàng nắm tay lại.

Vừa nắm bàn tay lại chàng thanh niên nói: - Thưa thầy, đây không phải là viên bảo ngọc.

Vị tổ sư về ngọc thạch reo lên: - Khá lắm, khá lắm, thế là con đã thành tài rồi đó.

Sống trong cuộc sống, chúng ta phải tập cho mình biết nhạy bén với những dấu chỉ dù nó thật nhỏ bé, chúng ta mới có thể nhận ra những điều kỳ diệu Chúa làm cho chúng ta.

3. Sống kết hiệp với Chúa như bà Anna

Bài Tin mừng hôm nay gợi lên cho ta một mẫu người thánh thiện nơi bà Anna. Tác giả Tin mừng theo thánh Luca gọi bà là một tiên tri, nhưng theo ý kiến các nhà chú giải thì bà chỉ là một người đơn sơ bé nhỏ thuộc về nhóm những người nghèo của Giavê, những kẻ ưu tiên được hưởng lời hứa và ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Bà chỉ xuất hiện một lần trong biến cố dâng Chúa vào Đền thờ. Dung mạo bà được mô tả bằng những chi tiết đơn sơ nhưng thật quan trọng: bà đã được 84 tuổi đời, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi Đền thờ, phụng sự Thiên Chúa ngày đêm trong kinh nguyện và trong chay tịnh. Thật khó mà sống được như thế nếu không cố gắng cộng tác với ơn Chúa.

Bà tin tưởng vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa sẽ thực hiện và cuối cùng đã được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc nơi Hài nhi Giêsu.

4. Tìm điều Chúa muốn

Nhiếp ảnh gia Davit Croket của hãng truyền hình KOMO, Seatle đã có mặt ở chân núi St. Helens khi nó nổ tung vào ngày 18-5-1980. Đavit hầu như bị chôn vùi dưới lớp mảnh vỡ. Mười giờ sau, khi bầu khí quang đãng, ông được một chiêc trực thăng phat hiện ra và đưa đến bệnh viện để cấp cứu Sau đó, ông viết: “Trong suốt mười giờ đó tôi thấy ngọn núi vỡ thành từng mảnh. Tôi thấy một khu rừng biến mất… Tôi thấy rằng chỉ một mình Thiên Chúa là bất biến. Tôi cảm nhận được rằng mình được phép được bắt đầu lại, bất cứ công việc khó khăn gì Ngài dành cho tôi,”

Tôi xác tín Thiên Chúa có một chương trình dành cho tôi như thế nào?

Tôi muốn được trường thọ. Sự trường thọ có ý nghĩa riêng của nó. Nhưng giờ đây tôi không lo lắng về điều đó. Tôi chỉ muốn thi hành thánh ý Thiên Chúa (Martin Luther King)

5. Hy vọng vững vàng

Trong cuốn tiểu thuyết “ Cội rễ”, James Michener dùng hình ảnh nên thơ này để phác họa xã hội Do thái trước khi Chúa Giêsu đến. Rabbi Asher đi dạo trong một vườn cây ăn trái, ông chợt phát hiện ra một cây ôliu già, lõi của nó bị thối rửa, chỉ còn lớp vỏ bên ngoài, nhung những gì xót lại vẫn còn liên hệ với rễ nhờ đó cây ôliu vẫn sống. Asher nghĩ rằng điều đó tóm tắt đầy đủ tình trạng của người Do thái: cốt lõi bên trong của họ đã thối rữa, nhưng những gì còn lại vẫn giữ mối liên hệ với Thiên Chúa, chính nhờ vậy người Do thái có thể tìm ra thánh ý Thiên Chúa và sinh được những hoa trái tốt.

Tôi có điều gì giống như xã hội Do thái trước khi Chúa Giêsu đến không?

Nói rằng một tình trạng hay một ai đó là vô vọng, tức là đóng sập cửa trước mặt Chúa. (Charles L. Allen)

6. Báu vật cho ai biết

Có hai người phụ nữ trong một tiệm bán đồ cổ. Một người đang nhìn vào một vài món nữ trang rẻ tiền. Người kia tiến đến và hỏi: “May mắn chứ!” Người thứ nhất trả lời: “Không! Chỉ là đổ tạp nhạp,” Bà ta đứng sang một bên để người bạn trông thấy. Ngay lập tức, người này phát hiện ra một Thánh giá cổ bằng bạc. Đó là một báu vật hiếm có.

Cũng như Anna, một phụ nữ cao niên thánh thiện đã thấy vinh quang của Con trẻ trong tay Đức Maria xuyên qua vẻ ngoài nghèo khó của thánh Giuse và Đức Maria, người phụ nữ trên cũng tìm thấy “báu vật” trong mớ đồ tạp nhạp. Những vật xung quanh có khiến tôi mù lòa không thấy được báu vật nơi con người không?

Chỉ khi học cách nhìn thế giới vô hình, chúng ta mới học được cách thực hiện những điều bất khả. (Frank Gaines)

7. Nhà truyền giáo đích thực

“Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe.” Đó là khuôn vàng thước ngọc của việc truyền giáo của Giáo Hội.

Bà An-na trong đoạn Phúc Âm hôm nay là người đã thực hiện vai trò truyền giáo của mình một cách thiết thực bằng chính cuộc sống của mình: bà đã can đảm chấp nhận một cuộc sống nghèo nàn, đơn sơ trong chay tịnh và cầu nguyện để trông chờ Đấng Cứu Thế.

Chắc chắn trong suốt thời gian sống ẩn dật, bà đã “nói với Chúa” rất nhiều về con người trong thời đại đó và về nỗi khát khao ơn cứu độ của họ. Được Chúa thương cho diện kiến Vị Cứu Tinh và được đụng chạm đến Người, bà đã không giữ lại cho riêng mình nhưng ngay lập tức “nói về Chúa”, công bố tình thương Chúa cho mọi người. Qua đó, sứ mạng của nhà truyền giáo được thực hiện một cách trọn vẹn, đầy đủ, đầy lòng tin và sự nhiệt thành.

Bà An-na là mẫu mực cho mọi ki-tô hữu trong cuộc sống và hành động trong việc loan truyền Lời Chúa.

8. Để nhận biết Đấng Cứu Thế

“Một Hài Nhi sinh hạ cho chúng ta, một trẻ thơ ban tặng cho chúng ta” (Is 9,5). Đấng Cứu Thế được các ngôn sứ loan báo, là món quà tặng quý báu nhất Thiên Chúa ban cho loài người, thế nhưng khi Ngài sinh ra làm người, Ngài lại bị từ chối ngay tại sinh quán của mình.

Trái lại, như một hạt cát không được nhận biết giữa sa mạc thế giới, Chúa Hài Nhi lại được nhận biết và được nói đến bởi những người đơn sơ nghèo hèn, trong đó là một goá phụ, một “nữ ngôn sứ”, bà Anna. Bà đã chọn sống một lối sống “không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa” (Lc 2,37). Phải chăng đó chính là những phẩm chất cần để có thể gặp gỡ, nhận biết, và để có thể “nói về Hài Nhi” cho anh chị em mình?

Ta không thể tìm gặp Chúa trong sự ồn ào náo động của những lo toan vật chất hay những đam mê trần tục, mà chỉ trong kinh nguyện hằng ngày, trong cuộc sống bình dị đơn sơ, để trong việc chu toàn những công việc bổn phận tầm thường hằng ngày, như hạt giống lớn dần, như nắm men từ từ làm dậy cả khối bột. Từ đó ta mới có thể nói về Hài Nhi một cách thuyết phục bằng chứng từ của cuộc sống.

9. Nên trưởng thành như con trẻ Giêsu

Các chuyên viên dinh dưỡng cảnh báo tình trạng trẻ em bị béo phì tăng nhanh tại các thành phố lớn như tại Sài Gòn tỷ lệ trẻ béo phì là 50%, nội thành Hà Nội là 41%. Đang khi ấy, trẻ lại thiếu trưởng thành về phương diện tâm lý do được cha mẹ quá nuông chiều. Rồi chắc chắn, có thể được đầu tư quá nhiều thời gian cho học văn hoá, mà thiếu sự quan tâm đến việc học giáo lý cũng như cho các kỹ năng cần thiết khác. Các bậc cha mẹ đâu biết mình đang tạo ra những trẻ thiếu quân bình, dễ bị thương tổn, nhất là có nguy cơ đánh mất niềm tin vào Chúa. Qua hình tượng trẻ Giê-su, Tin Mừng hôm nay gợi ý cho ta bốn phương diện cần thiết trong quá trình dưỡng dục một trẻ em:

- nuôi dưỡng sức khoẻ thể lý,

- trưởng thành nhân cách,

- phát triển trí tuệ, và

- lớn lên trong ân sủng Chúa.

“Bạn trưởng thành khi thế giới của bạn mở ra và bạn nhận thức rằng mình không phải là trung tâm của thế giới ấy” (M. Croan). Có những người lớn lên, già đi, nhưng không trưởng thành, vì họ chỉ loay hoay, quanh quẩn với thế giới, cuộc sống, sở thích, dự tính riêng của mình. Bạn thì sao?

NGÀY 31/12 - NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI

Lời Chúa: Ga 1, 1-18

Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.

Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.

Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi.” Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.

TRUYỆN KỂ

1. Ngôi Lời đã thành người

Ông Soren Kierkegaard, một triết gia người Đan Mạch, kể chuyện sau.

Một vị vua bỗng dưng đem lòng thương cô thôn nữ nghèo. Ông tin rằng mình có thể dùng quyền vua để cưới cô ấy làm vợ. Nhưng ông lại sợ cô lấy ông chỉ vì nể phục chứ không yêu. Như thế tương quan giữa hai người không được trọn vẹn.

Sau khi suy nghĩ, ông thấy chỉ có cách là thực sự từ bỏ ngai vàng, trở thành một anh nông dân nghèo, và bày tỏ tình yêu mình cho cô. Vị vua biết làm thế là liều lĩnh, vì ông có thể mất cả cô lẫn ngôi báu. Cô có thể chê chàng nông dân, hay chê quyết định dại dột của vị vua. Nhưng nhà vua vẫn dám liều, vì ông quá yêu cô thôn nữ, và ông muốn đây là một mối tình thực sự.

Câu chuyện cảm động trên đây đưa ta vào chuyện tình đã xảy ra giữa Ngôi Lời Thiên Chúa và nhân loại. Ngôi Lời còn cao trọng hơn vị vua kia bội phần.

Ngài là Thiên Chúa Con Một, dựng nên vạn vật (cc. 3. 18). Ngài là Đấng duy nhất thấy Thiên Chúa và ở trong lòng Thiên Chúa, nên chỉ Ngài mới có thể bày tỏ Thiên Chúa cho nhân loại (c. 18). Ngài tràn đầy ân sủng và sự thật, sự sống và ánh sáng (cc. 3. 14).

Tất cả những điều ấy là quà tặng của Ngôi Lời cho con người. Nhưng quà tặng lớn lao và bất ngờ nhất làm ta ngỡ ngàng, reo vui, đó là biến cố Ngôi Lời trở nên người phàm và ở giữa chúng ta (c. 14).

2. Ánh sáng cho nhân loại

Mỗi dịp cuối năm, tạp chí Time có thói quen chọn một nhân vật làm người nổi bật của năm. Người được chọn cho năm 1994 là Đức Gioan Phaolô II. Trong số ra cuối năm, tạp chí Time đã đưa ra lý do chọn lựa này như sau:

“Đức Giáo Hoàng không cảm thấy bối rối về lối sống đê hèn đang lan tràn khắp nơi. Cách đây 2 tuần, ngài đã giải thích với tạp chí Time rằng: cuốn sách bán chạy của ngài và đường lối ngoại giao không mấy được ưa thích của ngài đều có cùng một trọng tâm triết lý, đó là qui về sự thánh thiện của con người, và ngài nói thêm: “Giáo Hoàng phải là một sức mạnh tinh thần.” Trong một năm mà nhiều người than phiền về sự suy đồi của những giá trị luân lý hoặc bào chữa cho những hành động xấu, thì Đức Gioan Phaolô II đã cố gắng đề ra cái nhìn của ngài về cuộc sống tốt đẹp và thôi thúc thế giới sống theo cuộc sống đó. Chính vì sự can đảm đó, ngài được chọn làm người của năm.”

Nhận định trên của tạp chí Time về Đức Gioan Phaolô II hoàn toàn phù hợp với cái nhìn của ngài trong tác phẩm “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng.” Như tựa đề mà Đức thánh cha chọn cho tác phẩm này đã có thể gợi lên: Hy vọng là sứ điệp mà ngài muốn nhắn gửi cho cả nhân loại trong giai đoạn này. Xuyên suốt qua cuốn sách, ngài không ngừng lặp lại câu nói ngài đã gióng lên tại quảng trường Phêrô khi được bầu làm Giáo Hoàng: “Đừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô.” Thiết tưởng đó phải là ý tưởng hướng dẫn những suy tư của chúng ta trong ngày cuối năm này.

3. Thiên Chúa nhập cuộc.

Khi Thiên Chúa làm người thì sống như mọi người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi thôi. Chúng ta sống thế nào thì Người sống như vậy, hết sức hòa đồng. Câu truyện sau đây nói lên khía cạnh đó:

Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng nước bùn. Những khách khác thấy vậy cười nhạo ông. Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc.

Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là quần áo của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ nữa (Góp nhặt).

4. Ánh sáng và bóng tối

Một đêm kia, trên một đường phố vắng vẻ, Bóng Tối ngồi co ro, buồn bã. Từ một xó nọ loé lên một Tia Sáng, rất nhỏ và rất yếu, nhưng là một tia sáng, phát ra từ một cây nến nhỏ mà ai đó đã cắm ở đấy. Một người khách đi qua nhìn thấy cây nến nhỏ và nói:

- Sao mi lại chiếu sáng trong cái xó kẹt này? Thiếu gì chỗ khác, mi đến đó mà chiếu sáng thì sẽ hữu ích hơn nhiều.

- Tại sao hả, cây nến trả lời. Tôi chiếu sáng bởi vì tôi là cây nến. Tôi có chiếu sáng thì tôi mới là cây nến. Vả lại tôi chiếu sáng đâu phải chỉ để cho người ta thấy mà còn để cho tôi vui, vui vì được làm Tia sáng, vui vì được chiếu sáng.

Bóng Tối nghe thế rất bực bội. Nó nhào tới phủ lên Tia sáng mong làm cho Tia sáng bị tắt. Nhưng chẳng những Tia sáng không tắt, trái lại Bóng Tối còn bị rách nát ra.

“Ánh sáng chiếu trong bóng tối và bóng tối đã không tiêu diệt được ánh sáng”: Nói một cách triết lý, Tối chỉ là thiếu Sáng, cho nên khi nào Sáng đến thì Tối phải tan. Chỉ một ngọn nến nhỏ được đưa vào một gian phòng mênh mông cũng đủ đuổi bóng tối ra khỏi gian phòng. Suy rộng ra, Ác chỉ là thiếu Thiện, cho nên Ác không thể nào thắng Thiện, ngược lại Thiện thắng Ác là điều tất yếu. Ngôi Hai đã nhập thế và nhập thể, ai đón nhận Ngài vào lòng mình thì chắc chắn sẽ đẩy lùi bóng tối và sự ác khỏi lòng mình. Bởi thế, trong quyển sách “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng,” Đức Gioan Phaolô II luôn lặp đi lặp lại lời kêu gọi đầy lạc quan: “Đừng sợ. Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô. ”

5. Sự sống là ánh sáng cho nhân loại.

Nếu sự sống của mọi loài trên mặt đất phải cần đến ánh sáng mặt trời để tồn tại và phát triển thì Lời Chúa cũng cần cho sự sống đức tin như thế.

Một câu chuyện nhỏ từ Internet: Một hôm, tôi và con trai cùng trồng đậu. Vì thời tiết nóng bức, lũ chuột hoành hành, nên tôi vùi hạt đậu sâu xuống đất. Vài ngày sau, tôi dắt con trai ra xem. Khi bới đất lên, tôi thấy rất nhiều hạt đậu đã nảy mầm, phía trên mỗi hạt đậu nhú lên hai chiếc lá non màu vàng. Những sinh mệnh yếu ớt đang lớn lên từng giây từng phút trong khoảng trống dưới đất. Chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ ngoi lên khỏi mặt đất.

Con trai ngạc nhiên hỏi tôi:

- Mẹ ơi, những mầm cây này cũng có mắt hay sao mẹ?

Tôi trả lời:

- Chúng không có mắt đâu con.

Vậy tại sao chúng lại biết vươn lên khỏi mặt đất mà không đâm xuống dưới.

- Bởi vì chúng muốn tìm kiếm ánh sáng. Không có ánh sáng chúng sẽ chết.

- Mẹ ơi, nếu không có ánh sáng, con người chúng ta có chết không?

Con trai tôi lại hỏi tôi.

- Chắc chắn là thế rồi, nhưng tôi không dám trả lời như thế mà chỉ nói với nó:

- Con yên tâm đi, không bao giờ thiếu ánh sáng đâu.

Vâng! Ánh sáng không hề thiếu và ánh sáng không thể thiếu. Vì nếu thiếu ánh sáng, mọi loài sẽ không thế tồn tại trên cõi đời này.

Mẹ Têrêsa bảo: "Chúa Giêsu đã đến như là ánh sáng của thế gian"

6. Chúa Giêsu là ánh sáng cho thế gian

Mẹ Têrêsa bảo: "Chúa Giêsu đã đến như là ánh sáng của thế gian"

Và mẹ còn viết rất hay như sau: "Với tôi, Chúa Giêsu là tất cả: Chúa Giêsu là sức sống tôi muốn sống; Ngài là ánh sáng tôi muốn chiếu tỏa; Ngài là đường tôi đi về nhà Cha, Là tình yêu tôi muốn tỏ tình, Là niềm vui tôi muốn chia sẻ, Là hạt giống an bình, tôi gieo rắc. "

Lời cầu nguyện của Đức Hồng Y Roger Etchegaray:

Lạy Chúa, xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa và dạy con bước đi ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày. Xin truyền cho con sức mạnh của Người. Ứớc gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con tìm lại được sức trẻ để gieo trồng hàng ngàn cây xanh cho một thế giới mới.

Ước gì mồ hôi con pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu. Ước gì máu con hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn vì bất công và ích kỷ.

7. Thiên Chúa ở cùng chúng ta

Vào năm 1957, chiếc phi thuyền đầu tiên của con người đã được phóng vào không gian. Đó là chiếc phi thuyền mang tên Spounik do người Nga chế tạo. Sau khi chiếc phi thuyền này bay một vòng trong không gian, đã bay trở về trái đất an toàn. Một phi hành gia vô thần trong phi hành đoàn là ông Gagarin đã tuyên bố với mọi người:

- Tôi đã bay một vòng trong không gian, nhưng không nhìn thấy Thiên Chúa đâu cả!

Vào năm 1971, chiếc phi thuyền mang tên Apollo 11 của Hoa Kỳ cũng phóng vào không gian và đáp xuống mặt trăng. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử, con người đặt chân lên mặt trăng. Trong phi hành đoàn, có ông Amstrong, người được gọi là “Anh Hùng Không Gian” của Hoa Kỳ, đã dựng một biểu ngữ trích câu Kinh Thánh đầu tiên của Phúc Âm thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe:“Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa.”

Những phi hành gia của Nga vì không có niềm tin, nên đã không nhìn thấy Thiên Chúa và vì thế, họ đã không tiếp nhận Ngài.

Những phi hành gia người Mỹ, với sự khiêm tốn và niềm tin, đã tiếp nhận Ngài và đã làm một hành động tượng trưng là đặt Lời Thiên Chúa trên phần đất mà họ vừa đặt chân tới. Qua hành động đó, họ muốn công nhận sự hiện diện của Thiên Chúa ở khắp mọi nơi.

8. Ngôi Lời nhập thể

Có một người sống trên cung trăng đáp xuống trái đất, người đó lượm được một cục phấn, mà không biết nó là gì, liền đi hỏi một nhà giáo: “Đây là cục gì?” Nhà giáo nói: “Đây là phấn dùng viết bảng dạy học trò”; Người cung trăng lại cầm cục phấn đến hỏi người nhà nông: “Đây là cục gì?” Người nhà nông trả lời: “Đây là loại thạch cao, trồng cây không được”; Người cung trăng lại đến hỏi nhà làm tượng: “Đây là cục gì?” người làm tượng trả lời: “Đây là loại thạch cao, nhưng loại này tôi không dùng nắn tượng được”; Người hành tinh lại đi hỏi nhà khoa học: “Đây là cục gì?” Nhà khoa học trả lời: “Đây là kết tinh của nhiều phân tử canxi, mỗi phân tử có dương điện tử và âm điện tử, chạy quanh một trung hòa tử.”

Như thế, muốn tìm ý nghĩa của một cục phấn, mà bốn người nói khác nhau, nhưng không nghịch nhau, mà chỉ làm phong phú về ý nghĩa của cục phấn. Nếu người hành tinh lười biếng, không đi hỏi nhiều người, chỉ hỏi một người nông dân về cục phấn, thì người hành tinh biết quá ít, quá nông cạn về cục phấn! Nhưng nếu càng chịu khó đi hỏi nhiều người, thì càng giàu kiến thức về nó.

Ấy một cục phấn ý nghĩa còn phong phú đến thế, huống chi Lời Chúa còn phong phú ý nghĩa gấp bội. Chúng ta càng chịu khó nghe nhiều vị giáo sĩ giảng Lời Chúa, chúng ta càng hiểu biết Lời Chúa phong phú hơn!

9. Cắm lều ở giữa nhân loại

Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến "Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố" một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết như sau:

"Thưa Ông "dà" Noen, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn...

Con muốn được lên "chời" để ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên "chời" nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con "xung xướng.” Xin Ông mang cho bố con một chỗ làm và ít thức ăn...

Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy tuần lộc... Con gởi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.

Ký tên: Thad.

Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều người Do Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời lạnh, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy sẽ phải khóc vì không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.

Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Quả thực, Thiên Chúa không phải chỉ làm người giả hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta.

10. Chúa làm người để nói chuyện với con người

Thánh Phaolô viết: “Chúng ta không còn bị Lề Luật ràng buộc nữa… Như vậy, chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới, chứ không theo bản văn cũ của Lề Luật,” (Rm 7,6) Có người sẽ hỏi: “Nếu vậy, tại sao chúng ta cần lề luật?” Câu trả lời thật rõ ràng: Mặc dù nhận được Thánh Thần, chúng ta vẫn còn là tội nhân. Chẳng hạn, chúng ta không luôn lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần như chúng ta phải nghe. Khi điều này xảy ra, luật lệ thức tỉnh ta. Hoặc như “Ngày của các người mẹ” được coi như tiếng thức tỉnh khi chúng ta không lắng nghe tiếng tình yêu mời gọi, cũng vậy, lề luật được coi như tiếng thức tỉnh khi ta không lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần.

Điều gì ngăn cản tôi không nghe theo tiếng của Chúa Thánh Thần và của tình yêu trong đời tôi?

Nếu bạn muốn Thiên Chúa lắng nghe lời cầu nguyện của bạn, tại sao bạn không lắng nghe khi Ngài ngỏ lời với bạn

11. Ánh sao dẫn đường

Có một họa sĩ vẽ một bức tranh một con người cô độc đang chèo thuyền vượt biển vào ban đêm. Xa xa là một vì sao đơn độc. Ấn tượng bạn cảm nhận được khi xem bức họa này là: nếu con người kia lạc mất ánh sao trên trời, anh ta sẽ lạc lối. Những gì bức họa nói về con người đang chèo thuyền vượt biển trong đêm đen cũng có thể nói về chúng ta. Nếu một khi mất đi ánh sáng dẫn đường của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ hoàn toàn lạc lối.

Điều gì làm cho tôi gần như đánh mất ánh sáng của Chúa Giêsu? Tôi có thể nói gì với Ngài về điều này?

Chúa Giêsu là ánh sao dẫn đường trước tôi, là làn gió êm dịu sau tôi, là con đường bằng phẳng dưới chân tôi, là niềm hy vọng lóe lên trong tôi, là tất cả bây giờ và luôn mãi.

12. Ánh sáng giúp con người biết mình

Có một bài thơ Kitô giáo cổ xưa liên quan đến ngày tận thế. Bài thơ mô tả một cây thánh giá trên bầu trời. Từ cây thánh giá chiếu giãi một ánh sáng đỏ như máu. Điều lạ lùng là ánh sáng đó cho con người thấy họ là ai. Nó xuyện thấu vẻ bên ngoài của nhân vật nổi tiếng và cho thấy rõ tâm hồn của người ấy. Nó cũng xuyên qua bộ đồng phục của công nhân và cho thấy có gì trong tâm hồn người này.

Điểm nổi bật của bài thơ là ánh sáng của Chúa Kitô mặc khải cho mọi người biết họ thực sự là ai.

Nếu cuộc sống tôi cứ tiếp diễn như hiện tại, tôi có thấy thoải mái trong ánh sáng của Chúa Kitô vào ngày tận thế không? Tại sao?

Thực sự trong chúng ta có ba con người: Con người như ta tưởng mình là. Con người như người khác nghĩ thế. Và con người như Thiên Chúa biết rõ.

NGÀY 01/01 - ĐỨC MARIA MẸ THIÊN CHÚA

Lời Chúa: Lc 2, 16-21

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.

Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.

Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.

TRUYỆN KỂ

1. Mẹ của tôi.

Trong một bài giảng, vị linh mục đã nêu lên câu hỏi.

– Vậy Đức Maria là ai?

Mọi người đều thinh lặng không một ai đã trả lời. Ngài lại hỏi thêm một lần nữa:

– Vậy ai có thể nói cho tôi hay Đức Maria là ai?

Sau cùng một bà già đã trả lời:

– Thưa cha, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.

Vị linh mục nói:

– Đúng lắm, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, nhưng tôi muốn biết ngài còn là ai nữa?

Tiếp theo là những câu trả lời khác nhau:

– Mẹ là Nữ vương thiên đàng, là nơi ẩn náu của kẻ tội lỗi…

Vị linh mục mỉm cười và bảo:

– Đúng lắm, tất cả đều đúng nhưng chưa đủ, bởi vì Đức Maria còn là Mẹ tôi nữa.

Vâng, Đức Maria là Mẹ chúng ta. Trên thế gian, chúng ta không một ai đã yêu thương chúng ta, không một ai đã sẵn sàng lắng nghe chúng ta kêu cầu, cảm thông và giúp đỡ chúng ta trong mọi hoàn cảnh như Mẹ.

Hôm nay, ngày đầu năm dương lịch, chúng ta mừng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta phó thác năm mới này cho Mẹ để xin Me nâng đỡ chở che.

2. Nữ Vương Hoà Bình

Một bà mẹ có người con trai bỏ mình trong chiến tranh. Bà không thể nào quên được người con đó. Nỗi sầu thương cứ mãi mãi vương vấn tâm hồn bà. Bà luôn cầu nguyện để được gặp lại con, dù chỉ trong năm phút.

Một hôm, Chúa sai thiên thần báo cho bà chuẩn bị gặp lại con. Những giọt lệ bỗng biến thành niềm vui, bà thúc giục thiên thần cho bà gặp lại con ngay. Nhưng thiên thần bảo bà:

– Bà hãy bình tĩnh. Con bà đã là một người trưởng thành. Con bà đã chết 30 năm nay, bà muốn gặp nó vào tuổi nào: như một người lính chiến ngoài mặt trận, hoặc như một đứa bé chạy nhảy trên sân trường, hay như một em bé nép mình trong lòng bà?

Không do dự, bà muốn được gặp lại con như một đứa trẻ nhỏ đến xin lỗi bà vì đã không ngoan, một đứa bé yếu đuối, nước mắt chảy ràn rụa chạy đến và ngả vào lòng bà. Đó là hình ảnh mà bà không thể nào quên được về đứa con của bà.

Trong mùa Giáng Sinh, chúng ta có dịp chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ. Chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Giêsu mà quên Đức Maria bên cạnh Ngài. Chào đời như một hài nhi, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài cần có một người mẹ để được cưu mang, được sinh ra, được lớn lên như một con người.

Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa lễ Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Chủ đề của ngày Hoà Bình Thế Giới năm nay cũng đề cập đến vai trò của người phụ nữ, người mẹ: “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình."

3. Mẹ tất cả mọi người – Lm. Mark Link

Cách đây nhiều năm, Fulton Oursler là biên tập viên của một tạp chí nội địa được các độc giả hoan nghênh nhiệt liệt, câu chuyện đàng sau sự thành công của anh rất hấp dẫn. Nhưng câu chuyện anh tìm kiếm Thiên Chúa còn hấp dẫn hơn nữa.

Với tư cách một phóng viên cho tờ báo Baltimore American, đã dự những buổi họp của giáo phái Methodist, các hội nghị của gíao phái Baptist, và những buổi sinh hoạt ngoài trời. Anh cùng dự cả những buổi họp để chờ các vong hồn xuất hiện trong phòng tối. Anh nói: “vào tuổi 30, ngoài những chuyện ấy ra, tôi còn tự nhận mình là người theo thuyết bất khả tri (agnostic). Nhưng thay vì tìm được bình an, sự vô tín ngưỡng khiến anh cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn trống trải và bất hạnh. Sự trống trải bất hạnh ấy về sau lại biến thành một nỗi u uất gặm nhấm tâm hồn anh. Thế rồi một ngày kia, cơn khủng hoảng trầm trọng đó đã làm cho gia đình anh phải lo sợ. Anh cần được cứu giúp. Nhưng sự cứu giúp mà anh cần là một thứ cứu giúp mà bạn bè anh không thể làm được cho anh. Anh không biết cầu cứu ai, kể cả Thượng Đế, vì anh có tin vào Ngài đâu.

Tại New York, vào một ngày lộng gío, anh rảo bước trên đại lộ Thứ Năm. Tới nhà thờ chính toà, anh dừng lại, ngắm nhìn ngôi giáo đường và suy nghĩ. Anh đang tuyệt vọng. Mấy phút sau, anh định thần lại bước lên các bậc thang, vào bên trong nhà thờ và ngồi xuống, sau một vài phút tập trung tư tưởng, anh cúi đầu xuống và xin Thiên Chúa ban đức tin cho anh. Anh ngồi đó một lát rồi đứng dậy. Anh tới gian nhà nguyện của Đức Mẹ ở trong giáo đường. Anh bước vào trong, quì gối xuống, và cầu nguyện như sau:

“Mười phút nữa hay sớm hơn, tôi có thể thay đổi ý định, tôi có thể chế diễu tất cả những việc này và lại trở lại với sự sai lầm của tôi. Vì thế xin đừng chú ý đến tôi nữa. Vì trong giây phút ngắn ngủi này, tôi cảm thấy tâm hồn bình an. Đây là cố gắng lớn nhất của tôi, xin Ngài hãy khấng nhận và quên đi những gì khác. Và nếu Ngài thực sự có mặt tại đây xin hãy cứu giúp tôi."

Vào giây phút đó, anh nói, bắt đầu có một sự biến đổi kỳ lạ trong cuộc đời anh. Cuối cùng, sự biến đổi đó đã khiến anh trở nên một Kitô hữu có một niềm tin tưởng sâu xa.

4. Vai trò của người mẹ

Một người chồng trang trí căn phòng mới của ông và quyết định biến nó thành một nơi trưng bày các phần thưởng, những thành tích mà ông và hai người con trai chiếm được trong các cuộc tranh tài thể thao.

Khi đã trang trí đầy ắp hai bức tường trong phòng, ông hỏi bà vợ: “Bà không có gì để trưng bày sao?”

Ngày hôm sau, người vợ sao lại giấy khai sinh của hai đứa con, cho đóng khung thật đẹp và treo lên bức tường trang trí của người chồng.

Làm mẹ là ơn gọi và thiên chức đặc biệt Chúa ban cho Eva và mọi phụ nữ khi dựng nên loài người. Nhờ đó, họ được cộng tác vào công trình sáng tạo qua việc cưu mang và thông ban sự sống. Mỗi người con là một phúc lành của Thiên Chúa, niềm tự hào và hạnh phúc của người mẹ.

Bởi nguyên tội mà phúc lành ấy phải kèm theo nhiều đau đớn, cực nhọc: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con” (Stk 3,16); đặc biệt nơi Đức Maria, người được Chúa chọn làm Eva mới, với ơn gọi và thiên chức đặc biệt của Mẹ là cưu mang Đấng thông ban sự sống siêu nhiên: “Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12,1-2).

Ngay từ thuở ban đầu, cuộc cưu mang nhiệm lạ đó đã nằm trong lời hứa về Đấng Cứu Thế: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (Stk 3,15).

5. Mẹ thật của con

Karol Wojtyla, 7 tuổi, đứng khóc nức nở bên giường mẹ đang hấp hối! Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói: “Con đừng khóc, mẹ chỉ là vú nuôi con, khi Chúa rước vú này về với Chúa, thì người Mẹ thật của con là Đức Maria xuất hiện, sẽ đích thân chăm sóc con.”

Cậu bé đó chính là ĐTC Gioan Phaolô II, với khẩu hiệu giáo hoàng là “Tất cả thuộc về Mẹ” và cùng với Người Mẹ của Đức Kitô và của mọi người, ngài đã canh tân cả Hội Thánh.

Dưới chân thập giá, Đức Mẹ đã trở nên “Mẹ” của tôi, và luôn kiên trì đón đợi tôi như một người con. Tại sao tôi vẫn chưa chạy đến, trao cả cuộc sống mình cho Đức Mẹ?

6. Mang thai Chúa Giêsu

Một sinh viên vô danh đã sáng tác bài thơ như sau: Hôm nay, tôi thấy một cành huệ trắng vươn lên giữa ao tù, chẳng màng ai quan tâm đến vẻ đẹp tuyệt vời của mình. Khi ngồi đó chiêm ngắm nó âm thầm nở hoa, tôi nghĩ đến Mẹ Maria mang thai Chúa Giêsu. Mẹ không quan tâm xem có ai lưu ý đến vẻ đẹp tuyệt vời của mình. Nhưng với những ai lưu ý đến, Mẹ sẵn sàng chia sẻ những điều thầm kín. Vẻ đẹp ấy không đến từ Mẹ, nhưng từ sự sống Chúa Giêsu đang nở những cánh hoa thầm lặng trong lòng Mẹ.

Bài thơ của sinh viên mời gọi tôi tự hỏi: Tôi đã làm cách nào để sự sống của Chúa Giêsu được triển nở trong tôi, sự sống bắt đầu khi tôi được rửa tội?

Hãy thận trọng trong cách sống của bạn, bạn có thể là cuốn Kinh Thánh duy nhất mà một người nào đó đã đọc qua (W.J. Toms)

7. Vượt trên mọi logic

Cuốn tiểu thuyết “Tội nhân không vương tội tổ tông và Thiên Chúa băng giá” có một bức điện của Conroy gửi cho Thiên Chúa như sau: “Thiên Chúa kính yêu, hôm nay, một nhà diễn thuyết được mời đã chứng minh một cách logic rằng Ngài không hiện hữu,” Thiên Chúa trả lời: “Conroy, hãy yêu cầu giáo sư của con đựa ra lý do tại sao phó mát và bia lại có vị ngon khi dùng chung với nhau… Lôgic và thực tế không liên quan nhiều đến nhau,” Ý câu trả lời của Thiên Chúa là có một số điều vượt ngoài lý trí. Điều ta có thể làm là bắt trước Đức Maria như trong bài đọc hôm nay: suy đi nghĩ lại trong lòng.

Tôi có thấy tuyệt vời việc Thiên Chúa nhập thể làm người và ở giữa chúng ta không?

Chúng ta chết vào ngày đời ta không còn tỏa sáng và không được đổi mới, bởi một điều kì diệu có nguồn gốc siêu việt (Dad Hammarskjold)

8. Tình Chúa phản ánh trong tình mẹ

Nhà bình luận D.L. Stewart viết: “Những bà mẹ là những người cưu mang con trong chín tháng. Họ là những người phải học ngủ chập chờn, phải vất vả đổ mồ hôi trong lao động. Những người cha ngồi hút thuốc, còn những người mẹ phải mất hàng giờ để mớm cơm cho con. Những người cha ăn uống ở câu lạc bộ. Thánh Giuse không bao giờ ngồi hút thuốc hoặc ăn uống ở câu lạc bộ, nhưng bạn có thể tin rằng Ngài coi trọng những gì Đức Maria làm với tư cách một người mẹ.”

Chúng ta coi trọng người bạn đời và những gì họ làm như thế nào?

Người mẹ là đại diện Thiên Chúa trên môi miệng và trong tâm hồn trẻ nhỏ. (William Makepeare Thackeray)

9. Mẹ chúng ta

Có một linh mục được mời tới giảng phòng cho một khoá tĩnh tâm. Các cô gái nọ trao cho ngài một lá thư, ngài liền bỏ vào túi nhưng rồi quên béng đi. Sau khóa tĩnh tâm, ngài tìm thấy lá thư ấy.

Ngài mở ra và đọc thấy những dòng sau đây; “Con bị bệnh tâm thần và được điều trị suốt 8 tháng nay. Sự kiện này con chỉ cho vài người thân biết thôi.

Số là khi còn bé, con bị lâm vào một tâm trạng sợ hãi khủng khiếp vì bị người khác căm ghét, hành hạ, bạc đãi, nỗ lực lớn lao nhất của con hiện nay là thắng vượt và chuyển biến nỗi sợ hãi ấy. Con không cần nhắc đến từng chi tiết nhưng tựu trung nỗi sợ ấy là do nơi người mẹ của con… con có ác cảm với mọi khái niệm về người mẹ đến nỗi con quyết tâm khước từ tình yêu của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu.

Sau khi nghe bài giảng của cha trong tuần tĩnh tâm, con đi bộ ra ngoài, lòng cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Con cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng phó thác được… con muốn khóc to lên, nhưng suốt mấy tháng trời vẫn không khóc được… chắc cha cũng biết căn nhà nhỏ bé, tròn tròn gần cạnh nghĩa trang chứ? Con đã đến đó vì tò mò và con mở cửa bước vào.

Khi nhìn vào trong, lòng con cảm thấy sợ hãi. Ở đây có tượng Đức Mẹ Maria. Cảm giác đầu tiên của con là muốn giận dữ bỏ đi ngay, nhưng rồi có cái gì đó đã từ từ lôi kéo con đến quì dưới chân Ngài. Và con đã quì gối xuống vừa gục vào vạt áo dài của Ngài vừa khóc, sau đó, con cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng trong trắng, và mong ước, mình được là một đứa trẻ, một người con đầy tin tưởng và phó thác… hơn thế nữa, con còn cảm nhận được tình yêu của một người mẹ dành cho con khiến con nẩy sinh một ước muốn thực sự là tha thứ cho mẹ ruột của mình."

Câu chuyện cảm động trên gợi lên những hình ảnh tuyệt hảo cho chúng ta trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta mừng hôm nay.

10. Thinh lặng và lắng nghe

Một chàng thanh niên nọ có tính khoe khoang. Ngày kia sắm được một chiếc áo mới, từ sáng sớm anh ta đã mặc chiếc áo đó và đứng ở ngã ba đường. Kẻ qua, người lại rất đông, thế nhưng chẳng có ai chú ý đến và khen anh lấy một tiếng. Cuối cùng, có một người đàn ông đến gần anh và bảo: “Anh có thấy con bò của tôi bị lạc chạy qua đây không?" Được dịp có người hỏi đến mình, anh trả lời: “Tôi mặc chiếc áo này từ sáng đến giờ, mà chẳng thấy con bò nào chạy qua đây cả.”

Thái độ trên đây của người thanh niên trái hẳn với thái độ của Đức Maria, như bài Tin mừng hôm nay thuật lại: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Đức Maria đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người.

11. Công đồng E^phêsô

Đêm 22.06.443 tại thành Êphêsô có một cuộc rước đuốc vĩ đại, đoàn rước muôn người như một vừa đi diễu hành vừa tung hô vang trời: “Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Maria là Mẹ Thiên Chúa." Tại sao có cuộc rước đuốc này? Là vì Nettôriô, giám mục giáo chủ thành Côntăngtinốp chối Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, vì Đức Maria không sinh ra thần tính của Chúa Giêsu mà chỉ sinh ra nhân tính là một dụng cụ của thần tính, nghĩa là Đức Kitô chỉ là một người được phúc tiền định mặc lấy thiên tính, trở nên đền thờ của Ngôi Lời. Như vậy, Nettôriô đã phân tách Ngôi Lời ra khỏi Đức Kitô, và phân chia Ngôi Hai nhập thể thành hai ngôi vị riêng biệt, được lồng vào nhau, rồi ông chủ trương: chỉ nên gọi Đức Maria là Mẹ Đức Kitô chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa.

Trước chủ trương của Nettôriô, Công đồng chung được triệu tập tại Êphêsô để giải quyết vấn đề. 160 nghị phụ là các giám mục của Ai Cập, Palestine, Tiểu á và đại diện của Rôma là thánh Xirilô chủ toạ. Sau một ngày hội họp và tranh luận, công đồng đã cách chức Nettôriô và tuyên bố chủ trương của ông là sai lầm, là lạc thuyết, đồng thời Công đồng chấp nhận bản dự thảo của thánh Xirilô và tuyên bố: Đức Kitô tuy có hai bản tính nhưng chỉ là một ngôi, cho nên Đức Maria là Mẹ Đức Kitô thì cũng là Mẹ Thiên Chúa, Công đồng khẳng định dứt khoát: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.

12. Lễ đặt tên

Hôm nay cũng là bát nhật lễ Giáng sinh. Hội Thánh nhớ đến phong tục do thái: tám ngày sau khi được sinh ra, các bé trai do thái sẽ được cắt bì và đặt tên: “Khi Hài nhi được đủ 8 ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài nhi là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài nhi thành thai trong lòng mẹ” (Lc 2,21)

Danh Thánh Giêsu, theo nghĩa do thái là “Yavê là sự cứu độ." Hài nhi được đặt tên Giêsu. Còn chúng ta, khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, cũng được đóng ấn trong danh Đức Giêsu.

Ngày đầu năm, Hội Thánh nói lên khát vọng của mình: không phải chỉ những tín hữu mới mang danh thánh Giêsu; nhưng ước gì mọi người, cũng như muôn loài muôn vật cũng đều được đóng ấn trong Danh Thánh này. Lúc ấy ơn cứu độ mới được hoàn tất: “Người cho ta biết thiên ý nhiệm mầu: Thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một Thủ Lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,9-10)

13. Ghi nhớ và suy nghĩ trong lòng

Một người da đỏ cùng đi với một người da trắng trên đường. Người da đỏ bỗng vỗ vai người da trắng, hỏi

- Anh có nghe gì không?

Người da trắng hết sức lóng tai nghe, rồi đáp

- Tôi chẳng nghe gì cả.

- Có mà, tôi nghe tiếng một con dế gáy.

- Làm gì mà có con dế nào giữa đường phố nhộn nhịp như thế này? Mà cho dù có đi nữa thì làm sao anh nghe được tiếng nó giữa bao tiếng ồn ào của xe cộ và người qua kẻ lại?

Người da đỏ không thèm trả lời. Anh đi đến một bức tường bên vệ đường. Bức tường đã cũ. Nhiều dây leo chằng chịt trên đó. Anh vạch đám dây leo sang một bên. Một lỗ trống hiện ra, trong đó rõ ràng có một con dế đang gáy.

Người da trắng thán phục:

- Dân da đỏ các anh có lỗ tai thính hơn dân da trắng chúng tôi nhiều.

- Không phải thế đâu. Để tôi thử cái này cho anh xem.

Người da đỏ lấy trong túi ra một đồng tiền kẽm, thảy xuống mặt đường. Tiếng đồng tiền lăn leng keng khiến mọi người đi đường ngoái đầu nhìn lại. Liền đó người da đỏ giải thích:

- Tiếng của đồng tiền kẽm nhỏ hơn tiếng dế kêu rất nhiều. Thế mà mọi người da trắng đều nghe được. Còn tiếng con dế lớn hơn nhưng chỉ có tôi nghe được. Không phải ai thính tai hơn ai cả. Sự thực chính là chúng ta chỉ nghe được tiếng của những thứ chúng ta thường quan tâm để ý (Willi Hoffsemmer).

14. Tình thương của mẹ lạ lùng lắm

Luca Durtain có viết nên một huyền thoại này:

Một ngày đẹp trời nọ trên dương gian

Sứ thần Grabriel ngồi nhìn xuống quả địa cầu... Nét mặt ngài đang vui bỗng ngài chau mày lại. Ngài tự lẩm bẩm trong miệng:

- Thật là ghê tởm... Ghê tởm quá!

Vâng quả địa cầu đã trở nên ghê tởm, vì nó tràn ngập tội lỗi, chẳng khác gì thời ông Nôe.

Tên Grabriel có nghĩa là"cánh tay của Thiên Chúa." Ngài liền đến trước ngai vàng phủ phục trước tôn nhan Chúa và thưa:

- Lạy Chúa, xin cho phép con được mượn lưỡi gươm của đồng nghiệp Micae để gọt vỏ quả địa cầu đi, sâu chừng năm bảy dặm như người ta gọt vỏ một củ khoai. Như thế là có thể loại bỏ được hết mọi nhờm gớm nhân gian cho khỏi tôn nhan Chúa.

Chúa trả lời:

- Được lắm! Nhưng nhà ngươi nên nhớ: "Lưỡi gươm đã dùng trong vườn địa đàng ngày trước, bây giờ chỉ có quyền chém phá những gì có quyền chém phá thôi"

Được phép Chúa, sứ thần Grabriel vụt bay xuống trần gian, xăn tay áo, gọt quả địa cầu, bắt đầu từ Bắc cực đi tới...

Mọi sự đều cúi mình san sát trước lưỡi gươm thần. Không ai, không vật gì, từ tảng đá cứng rắn nhất cho đến những ngọn núi cao ngất trời... Tất cả đều cúi đầu vâng theo. Không ai, không có gì cưỡng lại được.

Nhưng rồi một hôm khi lưỡi gươm đi tới một ngôi làng nhỏ nằm ẩn khuất bên một sườn đồi, đột nhiên lưỡi gươm thần như đụng phải một vật gì cứng rắn lạ thường không thể nào đi qua nổi

- Có chuyện gì lạ ở đây chăng?

Và sực nhớ lại Lời Chúa đã dặn trước khi xuất hành, Grabriel xỏ gươm vào vỏ, hạ cánh tay xuống, bước vào trong ngôi nhà nhỏ kia xem có gì lạ chăng.

Ngài đã trông thấy gì ở trong đó?

Một chiếc nôi và bên cạnh một chiếc nôi ấy một người mẹ đang ngồi cặm cụi gọt vỏ khoai giống hệt như ngài đang gọt quả địa cầu.

Đó chính là chướng ngại ngăn cản gươm thần lại không cho đi tới.

Trước cảnh tượng ấy, Grabriel như đột nhiên tỉnh giấc mơ màng... Ngài vội vàng quì sấp mặt xuống đất, vòng hai tay lại:

- Phải rồi! Phải rồi! Hồi xửa hồi xưa đã có một lần ta phụng mệnh Thiên Chúa xuống trần gian, truyền tin hoan hỉ cho một thiếu phụ trong làng Nazareth, tại một căn nhà nhỏ hẹp giống như căn nhà này. Thật ta đang làm một việc hết sức là nông nổi ngông cuồng!

Sau đó Ngài ngẩng đầu lên và nói:

"Hỡi đồng nghiệp Micae, tôi xin hoàn trả lại ngài thanh gươm này. Tôi đã khám phá ra rằng: Ở trên quả địa cầu này ít nhất có hai tạo vật còn mạnh mẽ hơn cả gươm thần sắc bén của ngài. Đó là một đứa trẻ thơ và một bà mẹ hiền."

Vâng chính nhờ hai nhân vật ấy mà quả địa cầu mới đứng vững được cho đến ngày hôm nay.

15. Ngày cầu cho hòa bình

“Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi… và tám ngày sau được gọi tên là Giêsu” (Lc 2,16-21).

Với đoạn Tin Mừng trên đưa chúng ta về với người mẹ vừa mới sinh con là chính Đức Maria, Nữ Vương Bình An, sinh ra Chúa Giêsu là Thái Tử Hòa Bình. Vì thế, ngày đầu năm, Giáo hội khấn xin Đức Mẹ chuyển cầu cùng Thiên Chúa Cha ban cho thế giới được hòa bình nhân ngày sinh nhật của Con Chúa.

Món quà cao quí nhất là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Hoà bình điều mà thế giới hôm nay đang khao khát.

Khởi đi từ ngày 01 tháng Giêng năm 1968, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã thiết lập Ngày Thế Giờ Hòa Bình với Lễ Trọng Kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình lần thứ 65 năm 2023, có chủ đề: “Không ai có thể được cứu một mình: Cùng nhau chống lại COVID-19, cùng nhau dấn thân trên con đường hòa bình." Trong Sứ điệp, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bao gồm một đoạn nói về cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine, điều mà ngài mô tả là “một bước thụt lùi đối với toàn thể nhân loại." Ngài viết: “Vào chính thời điểm mà chúng ta dám hy vọng rằng những giờ phút đen tối nhất của đại dịch COVID-19 đã qua đi, thì một thảm họa khủng khiếp mới lại giáng xuống nhân loại. Chúng ta đã chứng kiến sự tấn công dữ dội của một tai họa khác: một cuộc chiến khác, ở một mức độ nào đó giống như cuộc chiến chống lại COVID-19, nhưng được thúc đẩy bởi những quyết định đáng trách của con người… Rõ ràng, đây không phải là thời kỳ hậu COVID mà chúng ta đã hy vọng hoặc mong đợi." Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lưu ý: “Mặc dù đã tìm ra vắc-xin cho COVID-19, nhưng các giải pháp phù hợp vẫn chưa được tìm thấy cho cuộc chiến” (x.PHANXICÔ, Sứ điệp Hòa Bình, 2022).

16. Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Trưa ngày 12 tháng 10 năm 1972, một chiếc phi cơ chở 45 giáo viên và học sinh đi từ Mông-tê-viu đến Săng-chi-a-gô nước Chi-Lê thi đấu thể thao đã bị rớt khi băng qua dãy núi Ăng-đét và vỡ ra nhiều mảnh. Có 28 học sinh còn sống sót. Khi màn đêm buông xuống, 28 học sinh còn sống sót kia ngồi tụm lại bên nhau trong một khoang máy bay. Cũng may, trên phi cơ vẫn còn một số đồ ăn như thịt nguội, bánh mì và rượu vang... và một chiếc rađiô cátxét. Nhờ chiếc rađiô này mà họ có thể theo dõi cuộc cứu hộ đang triển khai tại các quốc gia trong vùng.

Sau tám ngày, họ nghe được các đoàn cứu hộ báo cáo không thể tìm ra chiếc máy bay gặp nạn và không hy vọng hành khách nào còn sống sót. Thế là các nạn nhân hiểu rằng: họ có còn sống hay không là do quyết tâm của chính họ.

Ít ngày sau, thêm 12 người nữa theo nhau qua đời vì bệnh viêm màng phổi vì không chịu được giá rét khủng khiếp. Đoàn người còn lại 16 người. Bây giờ họ chỉ còn biết trông chờ phép lạ. Thế là cả 16 học sinh này quyết định họp nhau cầu nguyện vào mỗi tối. Vào khoảng 9 giờ tối, khi trăng bắt đầu mọc trên triền núi, thì mọi người ngồi quây quần đọc chung kinh Mân Côi.

Giờ kinh được tiếp tục bằng lời cầu tự phát và các bài thánh ca. Cuối cùng kết thúc bằng kinh Hãy Nhớ để nài xin Mẹ Chúa Trời thương cứu giúp. Những buổi cầu nguyện như thế trở thành nguồn động lực lớn lao giúp các học sinh hy vọng sẽ được cứu thoát.

Thấm thoát đã sang tuần lễ thứ tám. Thời tiết bắt đầu bớt băng giá. Hai cậu khỏe nhất trong bọn và có kinh nghiệm leo núi quyết định sẽ leo xuống núi cầu cứu. Cuộc hành trình của họ vô cùng khó khăn nguy hiểm. Cũng may họ tìm được một cuộn dây thừng bằng ny-lông và dùng làm dây an toàn để leo xuống vách núi đá trơn trượt. Chỉ cần bất cẩn một chút là cả hai sẽ lao xuống vực thẳm. Mọi người còn lại đều hợp ý cầu xin Mẹ Maria nâng đỡ cho hai bạn được an toàn. Chín ngày sau, hai cậu đã xuống được đến một trạm kiểm soát ở dưới chân núi, và vài tiếng đồng hồ sau, đã có hai chiếc trực thăng cứu hộ xuất hiện trên đỉnh núi cao để cứu mười bốn học sinh còn lại.

Nhờ sự thành tín kêu cầu Đức Maria, mà các học sinh này đã sống được tới 70 ngày trên đỉnh núi cao giá lạnh, đang khi không ai trong các thân nhân của họ dám hy vọng họ còn sống và có ngày trở về nhà. Suốt 70 ngày gian khổ trên núi, 16 cậu học sinh này đã cảm nghiệm được rằng: Đức Maria không những là Mẹ Thiên Chúa, mà Người còn là Mẹ của tất cả những ai thành tâm tin cậy cầu xin Ngài cầu bầu.

Lễ Thánh Gia (năm A)

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

Lễ Thánh Gia (năm B)

Lời Chúa: Lc 2, 22-40

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa.” Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con.

Và đây ở Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết trước khi thấy Đấng Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

"Lạy Chúa, bây giờ, Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa.”

Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"

Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Dung mạo Chúa Cứu Thế

Hoàng đế của một vương quốc hung vường vag thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.

Các nghệ nhân Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng.

Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.

Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ Ấn độ vẽ. Ông càng than phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc.

Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thất chân dung mình hiện ra từng nét.

Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.

Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng long mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời của Chúa.

Khi Đức Maria và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, và hiểu rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu Thế, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simeon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người.

2. Tai và lưỡi vào thiên đàng

Có một câu chuyện kể rằng: Một nông dân nghèo được vào thiên đàng, ông nhìn thấy người ta mang những vật rất kỳ lạ vào trong nhà bếp. Ông thắc mắc và lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?

Không phải. Đó là những cái tai của con người. Khi sống ở trần gian, tai giúp họ nghe những điều tốt lành, nhưng họ không làm điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có tai của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.

Một lát sau, người nông dân lại nhìn thấy người ta mang vào nhà bếp những vật kỳ lạ khác. Ông cũng lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?

Không phải. Đó là những cái lưỡi của con người. Khi sống trên đời, lưỡi khuyên bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ lại không sống; không làm những điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có lưỡi của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.

Gia đình nào cũng muốn được hạnh phúc. Gia đình nào cũng muốn thuận vợ thuận chồng để gia đình thăng tiến. Điều tiên quyết là mỗi người hãy để cho ý Chúa dẫn dắt. Hãy trở thành một khí cụ để thực hiện chương trình của Chúa. Hãy là những người không dừng lại ở lời nói lạy Chúa, lạy Chúa mà là những người luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.

3. Giáo dục thói quen

Chuyện kể về một người chuyên nuôi cá cảnh. Một hôm, trong kỳ hè, khi đang dạo chơi trước các quầy hàng dọc theo bờ biển, anh thấy một con cá ngũ sắc tuyệt đẹp trong một chậu thủy tinh ở quầy. Đó là một con cá nước mặn xinh xắn mà anh chưa từng thấy, anh quyết định mua về. Về đến nhà, anh ra sức chăm sóc nó và áp dụng những phương pháp tốt nhất của một nhà chuyên môn.

Trước hết, anh đặt cá vào chậu nước mặn, cá lội tung tăng trong môi trường quen thuộc. Thế nhưng, một tuần sau, với sáng kiến, anh thêm vào một ít nước ngọt, mỗi ngày một ít. Cứ thế, anh tăng dần nước ngọt cho đến khi chú cá quen hẳn với môi trường mới. Không dừng lại ở đó, anh tiếp tục luyện cá. Mỗi ngày, anh bắt đầu đổ vào chậu một ít bùn, và cứ thế, sau nhiều tuần, nhiều tháng, lượng bùn được tăng lên cho đến khi con cá quen hẳn với việc ngày ngày nằm trên mặt bùn đớp mồi như một loài bò sát. Chưa hết, anh tập cho cá ra khỏi chậu và lẽo đẽo theo anh như một con cún cưng. Anh đã thành công, vì mỗi lần anh đi đâu, con cá màu ngoan ngoãn theo sau. Cho đến một ngày kia, chuyện đã xảy ra khi anh có việc sang nhà một người bạn, có chú cá cùng đi. Lúc trở về, trời đổ mưa, anh phải chạy thật nhanh và quên mất chú cá. Sực nhớ, anh quay lại tìm, nhưng chẳng thấy đâu cho đến khi gặp một vũng nước trên đường, thì hỡi ôi, chú cá yêu quý của anh nằm chết trong đó vì nó không biết bơi.

Câu chuyện khiến chúng ta rùng mình sởn ốc khi nhớ đến trách nhiệm và bổn phận của một người làm cha làm mẹ trong việc giáo dục và làm gương sáng cho con cái. Vì “nửa cuộc đời còn lại của một con người được hình thành từ những thói quen có được từ nửa cuộc đời trước đó." Thói quen cầu nguyện, thói quen đạo đức, thói quen lễ phép, thói quen dùng thời giờ, thói quen học hành, thói quen dùng tiền…, nghĩa là giáo dục thế nào, kết quả thể ấy.

4. Dạy con cầu nguyện

Thống Tướng Douglas MacArthur, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ Quân Đội Philippines thập niên 1930, người đã để lại một câu nói bất hủ: “In war, there is no substitute for victory”, “Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng”; vậy mà trong tiểu sử của ông còn có một câu nói bất hủ hơn: “Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha… và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh oanh liệt ở chiến trận mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó những lời kinh thường đọc hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…."

Lễ Thánh Gia hôm nay là dịp để chúng ta tự vấn về việc cầu nguyện trong gia đình của mình. Cầu nguyện có phải là một phần sống chết của gia đình tôi không? Cụ thể hơn là chúng ta – cha mẹ, con trai, con gái – đã góp phần và làm gương sáng vào đời sống cầu nguyện trong gia đình thế nào?

Tướng Douglas Mac Arthur viết bài kinh này khi ở Philippines trong những ngày mở đầu cuộc chiến tranh tại Thái Bình Dương. Mặc dù đó là bài kinh ông cầu nguyện cho các con trai ông, nhưng nó cũng thích hợp cho các thiếu nữ. Xin mọi người hãy im lặng và cùng cầu nguyện với tôi:

“Lạy Chúa, xin hãy ban cho đứa con trai của con được đủ sức mạnh để biết được lúc nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó cảm thấy sợ hãi…Xin đừng để cho đứa con trai của con chỉ biết ước muốn mà không dám hành động…Xin Chúa đừng để nó đi vào con đường thích dễ dãi tiện nghi, nhưng hãy hướng dẫn nó đi vào con đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách.

“Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông cảm với những ai gục ngã.

“Xin hãy ban cho đứa con trai của con có một trái tim trong sạch, có một mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác, biết lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên qúa khứ.

“Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin Chúa hãy ban cho nó có đủ tính khôi hài để nó có thể luôn luôn nghiêm nghị nhưng không bao giờ nghiêm nghị một cách qúa đáng.

“Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng con đã không sống một cách vô ích."

5. Gia đình của nhân tài

Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông: “Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…."

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp cũng tâm sự: “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ tăng sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin."Có lẽ thế giới biết nhiều đến thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: “Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ."

Đức Pio XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: “Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao."

6. Mua một giờ của bố

Một cậu bé đón cha mình đi làm về và hỏi: “Bố ơi! bố đi làm được bao nhiêu tiền một giờ?" Ông bố rất ngạc nhiên và bảo: “Này con, ngay cả mẹ của con cũng chẳng biết, đừng quấy rầy bố vì bố đang mệt.” Cậu bé lại hỏi: “Bố cứ cho con biết, lương của bố mỗi giờ được bao nhiêu tiền?” Cuối cùng thì ông bố bảo rằng: “Mỗi giờ bố được hai mươi đồng." Cậu bé liền hỏi: “Vậy bố cho con mượn mười đồng." Ông bố tỏ vẻ giận và mắng con: “Thì ra đấy là lý do con muốn biết tiền lương của bố? Bây giờ đi ngủ đi và đừng quấy rầy bố nữa."

Đêm hôm ấy, ông bố nghĩ lại những điều đã nói với con mình và cảm thấy hối hận. Ông cho rằng có thể con mình đang cần tiền để mua món gì mà nó đang cần. Ông sang phòng của con mình và hỏi: “Con đã ngủ chưa?” Con ông đáp: “Con chưa ngủ." Ông bố đưa tiền và bảo: “Đây là tiền con hỏi xin lúc nãy” Nó vui vẻ cám ơn bố, rồi lấy thêm tiền trong gối ra và nói: “ Con đã có đủ rồi! hai mươi đồng. Bây giờ bố bán cho con một giờ của bố.”

Bài phúc âm hôm nay nhắn nhủ ông bố kể trên và tất cả chúng ta là hãy dành cho gia đình mình nhiều thì giờ hơn nữa.

7. Quyết định chuyện quan trọng

Có một chú rể nọ, trước ngày cưới, cùng với cô dâu đến xin lời khuyên của cha mẹ vợ trước khi về chung sống ăn ở với nhau. Cha mẹ vợ đã có tuổi, ống rất hạnh phúc với nhau trong 40 năm.

Nhìn vào gương sáng của cha mẹ, chàng rể xin các ngài dạy cho bài học phải làm sao để giữ hạnh phúc trong gia đình. Ông bố vợ mới dạy một bí quyết như sau: “Để giữ cho gia đình hạnh phúc, êm ấm, bố mẹ đã cố gắng giữ một nguyên tắc như sau: Trong gia đình, bất cứ chuyện gì quan trọng, bố quyết định hết!” Nghe vậy, chú rể khoái chí, thúc cùi chỏ vào cô dâu dặn dò: “Nghe rõ chưa em?”

“Những chuyện nhỏ, mẹ con quyết định!” Ông bố nói tiếp: “Nhưng trong 40 năm chung sống với mẹ của các con, bố chưa thấy có chuyện gì đáng kể là quan trọng cả!”

8. Không có thời giờ

Một linh mục đang kiểm điểm tình hình sống đạo trong giáo xứ. Ngài hỏi một gia đình:

– Chúng con có thường xuyên cầu nguyện chung trong gia đình không?

Người gia trưởng trả lời:

– Thưa Cha, chúng con bận việc quá, không có giờ đọc kinh cầu nguyện.

– Giả như con biết đứa con nào của con sẽ bị bệnh nếu chúng con không cầu nguyện, thì gia đình chúng con có cầu nguyện không?

– Ồ chắc chúng con sẽ cầu nguyện.

– Giả như con biết ngày nào gia đình chúng con lười biếng cầu nguyện thì một đứa con phải bị tai nạn. Các con có cùng cầu nguyện không?

– Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.

– Giả như ngày nào chúng con không đọc kinh cầu nguyện thì phạt năm chục ngàn. Chúng con có bỏ việc cầu nguyện không?

– Chắc chúng con không dám bỏ cầu nguyện. Nhưng thưa Cha, Cha hỏi như thế có ý gì?

– Vì con nói không có thời giờ cầu nguyện, tại con chưa xác tín rằng: nhờ lời cầu nguyện Chúa sẽ ban mọi ơn lành cho vợ cùng con cái con. Chúa sẽ cứu giúp gia đình con khỏi mọi gian nan thử thách. Nhất là con sẽ chu toàn bổ phận thờ phượng Chúa theo gương Thánh gia Thất.

9. Lời cầu nguyện rất hiệu nghiệm

Một đứa trẻ nhờ cha mẹ dạy và làm gương, nên luôn giữ thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày nọ em bị bệnh nặng phải vào nằm bệnh viện. Bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật mới hỏi bệnh. Trước khi tiêm thuốc mê để mổ, bác sĩ cho em biết: em sẽ ngủ một giấc thật lâu. Nghe noi đến ngủ, em xin bác sĩ chờ em một chút, để em cầu nguyện như thường lệ. Và em kết thúc lời nguyện bằng cầu:

– Lạy Chúa, xin cho con mau hết bệnh.

Sau đó em tự nằm xuống cho bác sĩ thi hành việc của ông… Khi thức dậy, câu hỏi đầu tiên của em là:

– Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không?

Bác sĩ nhìn em và cảm động nói:

– Cháu hãy để Chúa lo liệu… Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu rất hiệu nghiệm. Chúa đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không đến nhà thờ, không đọc kinh cầu nguyện, cũng chẳng bao giờ nhớ đến Chúa. Nhưng hôm nay khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động lòng bác. Sáng sớm hôm nay, bác đã đến nhà thờ xưng tội rước lễ và đọc kinh cầu nguyện.

10. Quà tặng

Đức Tổng Giám Mục Milan ở phía Bắc nước Ý có kể câu chuyện:

Vào dịp lễ Giáng Sinh có đông trẻ em, Chúa Giêsu đến với các em. Thấy Chúa, các em mừng quá, vỗ tay treo hò vang dội. Bỗng có một em xin Chúa tặng quà mừng Sinh Nhật của Chúa. Và tất cả các em khác đồng thanh hưởng ứng. Chúa Giê su có vẻ suy nghĩ lo lắng một lúc, vì dường như Người nghèo quá không có quà tặng. Rồi Người mỉm cười giang rộng hai tay ra ôm các trẻ. Nhưng các em vẫn chờ đợi quà. Một em nói với đứa bạn bên cạnh:

– Ngài không tặng quà cho mình đâu. Thật đúng như lời người ta nói: Tôn giáo không có ích gì, vì nó đâu có mang lại cho chúng ta món quà nào.

Nhưng em đó trả lời:

– Khi Chúa Giê su giang rộng hai tay ôm lấy chúng ta là Ngài ban tặng chính Ngài cho chúng ta. Chính Ngài là quà tặng cho chúng ta đó.

11. Những bài học của trẻ con

Nếu trẻ con sống với những lời phê phán, chúng học được thói hay lên án.

Nếu chúng sống với sự hận thù, chúng học được thói thích đánh nhau.

Nếu chúng sống với những lời chế nhạo, chúng học được thói nhút nhát.

Nếu chúng sống với sự chê bai, chúng học được mặc cảm tội lỗi

Nếu chúng sống với sự bao dung, chúng học được tính nhẫn nhục

Nếu chúng sống với sự khuyến khích, chúng học được lòng tự tin.

Nếu chúng sống với lời khen, chúng học được cách thưởng thức cái hay của người.

Nếu chúng sống với sự lương thiện, chúng học được tính công bình.

Nếu chúng sống với sự che chở an toàn, chúng học được lòng tin cậy.

Nếu chúng sống với sự chấp nhận, chúng học biết yêu thích chính mình.

Nếu chúng sống với tình thương, chúng học được cách tìm thấy Chúa trong cuộc đời. (Anon, "Children learn what they live")

12. Bà mẹ thánh thiện và đảm đang thành Luân Đôn

Đầu thế kỷ XX này, tại Luân Đôn, có một gia đình công nhân vừa nghèo khó lại vừa đông con: cả thảy 13 đứa! Bố của chúng phải đi làm việc suốt ngày ở xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và lo việc nội trợ. Dù đầu tắt mặt tối, bận bịu suốt ngày suốt đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay mặt chồng dạy dỗ con cái học giáo lý, tập luyện chúng có tinh thần đạo đức, khuyên chúng chịu khó học tập, lao động, và đặc biệt trưa nào rửa chén bát xong bà Vaughan cũng đến nhà thờ chầu Chúa một giờ.

Láng giềng ai cũng lấy làm lạ và hỏi bà: "Một bầy con 13 đứa, bận rộn sáng tối, mà sao trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể ?" Bà tươi cười bảo: "Thấy một bầy con lúc nhúc, ăn bữa mai chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng còn đến trước trường học, theo bạn bè rủ rê đi chơi hoặc ra phố phường xa hoa, do đó nhiều nguy hiểm, tôi càng thao thức hơn. Thành thử mỗi ngày dầu bận việc đến đâu, tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Chúa, sốt sắng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hằng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức."

Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan: trong 13 người con, một người làm Hồng Y Tổng Giám Mục giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ, còn 5 người ở thế gian lập gia đình lưu truyền nòi giống, sống cuộc đời đạo đức thánh thiện. (ĐHY NVT, Trên đường lữ hành)

13. Lý do mừng lễ.

Lễ Thánh gia được thiết lập vào cuối thế kỷ 19, tương đối mới. Đức Giáo hoàng Lêô XIII bấy giờ rất quan tâm đến các vấn đề xã hội. Người thấy nhân loại đang đi vào một nền văn minh mới. Lý trí và khoa học đòi quyền tự lập và tự chủ. Ảnh hưởng đạo đức bớt dần. Và trong phạm vi gia đình, người ta đã nói nhiều đến tự do, ly dị, cởi mở... Những phong trào “gia đình công giáo” có từ thế kỷ 16 ráo riết cổ động người ta noi gương Thánh gia. Đức Giáo hoàng Lêô XIII cũng như các vị kế tiếp muốn chúc phúc cho những phong trào này. Và lễ Thánh gia được thiết lập theo bối cảnh ấy.

Do đó, Giáo hội muốn cho chúng ta mừng lễ này là nhằm đề cao vai trò của gia đình và đưa ra một mẫu gương tuyệt hảo cho mọi người noi theo.

14. Mái ấm gia đình là gì ?

Mới đây một tờ báo ở London, thủ đô nước Anh, đã gửi câu hỏi “Mái ấm gia đình là gi,theo anh chị” tới 1000 người. Có 800 người đã trả lời, tập trung vào các ý tưởng sau đây:

. Mái ấm: một thế giới xung đột khép lại, một thế giới tình thương mở ra.

. Mái ấm: nơi chuyện nhỏ là quan trọng, chuyện quan trọng là chuyện nhỏ.

. Mái ấm: vương quốc của cha, thế giới của mẹ và thiên đàng của con cái.

. Mái ấm: nơi chúng ta cằn nhằn nhiều nhất nhưng được đối đãi tốt nhất.

. Mái ấm: trung tâm của tình thương mà mọi lời ước nguyện của con tim quyện vào đấy.

. Mái ấm: nơi dạ dầy chúng ta ăn 3 lần mỗi ngày và tâm hồn ăn ngàn lần mỗi ngày.

. Mái ấm: nơi duy nhất nơi trần gian mà mọi lỗi lầm và thất bại của con người được che đậy dưới lớp áo bác ái che đậy.(GM Arthur Tone, Góp nhặt, tr 125-126).

15. Hàn bá Du có hiếu.

Hàn bá Du ăn ở với mẹ rất có hiếu. Những khi có lỗi mẹ thường đánh đòn. Môt hôm Hàn bá Du phải đòn, khóc mãi. Mẹ thấy vậy hỏi:

- Mọi khi mẹ đánh con, con biết lỗi, con cam chịu ngay. Lần này sao con khóc dai như thế ?

Bá Du thưa:

- Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn mạnh khỏe. Lần này mẹ đánh con, con thấy không đau mấy, con biết sức mẹ đã yếu, cho nên con nghĩ, con thương mẹ mà con khóc.

Ôi! con ăn ở với mẹ, tuy khó nhọc, khổ sở cũng không dám oán. Như Bá Du trong truyện này, không những không oán mẹ, lại còn thương mẹ già yếu, tình con yêu mẹ thế mới là thắm thiết (Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, quyển 2, tr 18).

16. Gia đình là một kho tàng.

Ông George đã đến tuổi 70, ông không lập gia đình, ông là một thủy thủ, cả cuộc đời lênh đênh trên biển cả. Ông không có nhà riêng. Cháu trai ông tên là BILL rất thương bác George nên đã mời bác về sống với Bill, với vợ và 5 con của Bill. Đó là sự giúp đỡ lẫn nhau: bác George có nhà ở, còn gia đình của Bill có dịp làm những chuyến viễn du tưởng tượng quanh thế giới mỗi khi lắng nghe bác George kể lại kinh nghiệm của mình.

Đôi khi Bill cảm thấy nhàm chán và bất mãn với cuộc sống gia đình. Được rảo quanh thế giới không lo lắng, thảnh thơi vui sướng biết bao. Và Bill đã bày tỏ nỗi lòng cho bác.

Một chiều kia, bác George nhắc đến một nơi xa xăm. Bác có đánh dấu trên bản đồ một kho tàng chôn giấu. Bill ghi nhớ điều đó, nên sau khi bác George chết vài năm, Bill coi lại đồ đạc của bác và tìm thấy một bao thư đề tên Bill, trong đó có một tấm bản đồ. Tim đập mạnh, tay run run, Bill cố gắng tìm ra nơi cất giấu kho tàng. Sau cùng chàng cũng xác định được địa điểm: đó là căn nhà của chàng, nơi mà chàng đang đứng.

Bác George đã trối lại cho chàng một kho báu là ý thức rằng nhà của chàng, gia đình riêng của chàng là kho báu (Góp nhặt 4, tr 109).

17. Tình yêu cứu sống

Cổ tích vùng Rotal mạn Bắc nước Pháp có kể lại một câu chuyện sau đây:

Có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một người con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người ngủ say, một trận giông bão to lớn chưa từng thấy, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng đều lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh.

Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con. Nước càng lúc càng dâng cao, chẳng bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng mệt mỏi, bà mẹ cố giơ cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để đứa bé khỏi chết ngộp.

Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu được đứa bé khỏi chết. Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy cái đầu bé tí nhô khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả cha mẹ đứa bé. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.

18. Đạo đức và hạnh phúc trong gia đình

Trong cuốn bài giảng Chúa nhật của mình, Đức Cha Arthur Tonne có ghi lại kết quả của một cuộc điều tra xã hội tại Mỹ năm 1975 về vấn đề gia đình như sau:

Người ta lựa chọn một số gia đình rồi rồi xếp ra từng loại căn cứ vào những tiêu chuẩn sau đây:

* Không tham dự lễ Chúa nhật + Không cầu nguyện

* Có tham dự Thánh lễ Chúa nhật nhưng không cầu nguyện.

* Có tham dự Thánh lễ Chúa nhật + đọc Kinh Thánh và cầu nguyện chung với nhau.

Sau 3 năm người ta nhận được những kết quả sau đây:

- Đối với những cặp vợ chồng không bao giờ đi lễ, không cầu nguyện thì cứ 4 cặp thì có 1 cặp ly dị. Tỷ lệ 1/4. Khá cao!

- Đối với những cặp vợ chồng thường xuyên đi tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật nhưng không cầu nguyện chung với nhau thì cứ 57 cặp có một cặp ly dị. Tỉ lệ 1/57.

- Với những cặp vợ chồng thường xuyên tham dự thánh lễ Chúa nhật thường xuyên, thêm vào đó còn có thời giờ để đọc Thánh Kinh và cầu nguyện chung với nhau thì kết quả hết sức tốt đẹp. Cứ 500 cặp mới có một cặp ly dị. Tỉ lệ 1/500.

Vâng đó là kết quả của một cuộc điều tra xã hội.

Lễ Thánh Gia (năm C)

Lời Chúa: Lc 2, 41-52

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết.

Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết.

Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại.

Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con.”

Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói.

Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta.

TRUYỆN KỂ

1. Gương mẫu là bài học trên hết

Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế, nói: chỗ này không phải chỗ con ta ở. Rồi dọn nhà ra gần chợ.

Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước cách buôn bán đảo điên. Bà mẹ thấy thế, lại nói:

"Chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.

Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, về nhà cũng bất chước học tập lễ phép. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói: "Chỗ này là chỗ con ta ở đây.

Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ: "Người ta giết lợn làm gì thế. Bà mẹ nói đùa: "Để cho con ăn đấy.” Nói xong, bà nghĩ lại, hối rằng: "Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao!” Rồi bà đi mua thịt lợn, đem về cho con ăn thật.

Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng: "Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như mẹ đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy.” Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ công giáo dục quí báu của bà mẹ hay sao?

2. Nhà không có mái che

Một thanh niên Scốt-len tìm được một chân làm vườn trong một gia đình giàu có. Nhưng chỉ hai tuần sau, anh xin thôi việc. Một người bạn hỏi:

- Có phải công việc quá cực nhọc không?

- Không, công việc rất nhàn.

- Có phải lương quá ít không?

- Không, lương khá lắm.

- Hay anh không thích đồ ăn ở đó?

- Cũng không phải. Đồ ăn rất ngon.

- Vậy tại sao anh thôi việc?

- Vì nhà đó không có mái che.

Đối với người Scốtlen, thành ngữ “nhà không có mái che” nghĩa là gia đình không biết cầu nguyện. (Tonne).

Trong khi người Ấn Độ được đánh giá là giỏi triết lý, người Trung Hoa được đánh giá là giàu lễ nghĩa, thì người Do Thái được đánh giá là tinh thần tín ngưỡng cao. Nhờ đâu? Nhờ người cha Do Thái biết quan tâm đến việc đạo trong gia đình. Trong gia đình Do Thái, người cha chủ sự những buổi cầu nguyện, người cha lãnh trách nhiệm khai tâm tôn giáo cho con, người cha hãnh diện truyền lại cho con truyền thống đạo đức của ông bà tổ tiên.

3. Gia đình là bài truyền giáo có hiệu lực

Một nhóm người thiện chí bàn nhau cách phổ biến Phúc Âm. Có người đề nghị quảng cáo trên TV, người khác đề nghị dùng báo chí. Một thiếu nữ Châu Phi chia sẻ: Ở xứ tôi, khi muốn loan Phúc Âm cho một vùng nào đó thì chúng tôi gởi đến đấy một gia đình công giáo tốt để gia đình này sống giữa những người khác trong vùng. (Barclay)

4. Nghèo mà hạnh phúc

Vì nghèo không có vốn đầu tư kinh doanh, gia đình Nadarét phải lấy sức mình ra làm việc để sinh sống: thánh Giuse làm thợ mộc, Đức Maria làm nội trợ suốt ngày bận rộn với những việc nấu nướng, giặt giũ, may vá, quét dọn... Chúa Giêsu khi còn nhỏ thì phụ giúp cha mẹ, lớn lên nối nghiệp thánh Giuse làm nghề thợ mộc. Đây là một gia đình lao động, tay chân.

Lao động tay chân thì vất vả: đổ mồ hôi, tay chân chai sạm, quần quật suốt ngày...

Mặc dù quần quật suốt ngày nhưng cũng chỉ đủ ăn không dư giả. Trong Tin Mừng ta tìm thấy hai bằng chứng về tình trạng không dư dả của gia đình Nadarét: Khi đem con đầu lòng dâng vào Đền Thờ cùng với lễ vật theo luật định, những gia đình khác người thì dâng tiền, người thì dâng chiên cừu, còn gia đình của thánh Giuse chỉ dâng có một đôi chim câu là thứ lễ vật của những người nghèo. Khi đi Bêlem, hai ông bà không có tiền thuê nhà trọ nên đành phải trú chân trong hóc đá, chỗ làm nơi tạm trú cho súc vật. Gia đình này không dư dả.

Vì không có dư giả nên dĩ nhiên cũng có những lúc túng thiếu, những ngày lo âu vì miếng cơm manh áo.

Vì túng thiếu nên dĩ nhiên cũng không được người đời coi trọng mà còn bị khinh chê. Ta nhớ lúc Chúa Giêsu đã đi rao giảng mà vẫn còn có người nhận xét về Ngài bằng một giọng khinh chê "Con ông thợ mộc như thế mà là Đấng Cứu thế cái nỗi gì!"

Nhưng gia đình Nadarét lại khác tất cả các gia đình khác:

Khác ở chỗ tự ý chọn cuộc sống: lao động chân tay nghèo nàn, là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu có thể chọn sinh ra trong một gia đình giàu có nhưng Ngài đã chọn sinh ra trong một gia đình lao động nghèo nàn như thế.

Khác ở chỗ mặc dù nghèo nhưng những người trong gia đình này không lục đục với nhau như thường thấy trong các gia đình chúng ta: khi túng thiếu chúng ta sinh ra bực bội, gắt gỏng, gia đình hay cãi và xung đột với nhau.

Khác ở chỗ dù nghèo nhưng không gian tham, trộm cắp như thường thấy trong nhiều gia đình khác.

Tóm lại gia đình Nadarét dù nghèo, dù làm lụng vất vả nhưng rất hạnh phúc rất thánh thiện.

Gia đình Nadarét của thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu thật là

. một niềm hãnh diện cho các gia đình lao động nghèo nàn.

. một nguồn an ủi khích lệ cho các gia đình lao động nghèo nàn.

. Và là một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Nhìn vào nếp sống gia đình này ta có thể học được rất nhiều bài học quý giá.

5. Không phải khách

Một bé gái 5 tuổi. Sau khi làm dấu ăn cơm, được mẹ dậy nên em thường nói: "Lạy Chúa Giêsu, xin dùng cơm với gia đình chúng con!" Lần đó, em đột ngột ngó mẹ, nói:

- Mẹ ơi, con không muốn Chúa là khách nhà mình.

- Sao vậy con?

- Vì khách thỉnh thoảng mới đến. Con muốn Chúa ở luôn đây cơ!

6. Bận lắm!

Một thiếu niên phải ra trước vành móng ngựa vì tội làm bạc giả. Vị thẩm phán biết rõ gia đình em. Bố em là một luật gia nổi tiếng, từng viết nhiều bài báo nói về "Sự thật.” Vị thẩm phán hỏi:

- Cháu có nhớ bố mình không? Người bố mà cháu đã bôi nhọ thanh danh của ông.

- Có, cháu nhớ ông ấy rất rõ. Nhưng mỗi khi cháu muốn lại gần xin bố chỉ dạy, bố cháu thường mắng: "Nhóc con, cút đi, tao bận lắm!" Bố cháu thường dành hết thời giờ cho công việc, ít quan tâm đến cháu, nên giờ cháu mới ra thế này.

Vị luật gia thường viết về sự thật, nhưng lại quên mất sự thật lớn lao nhất là con mình. Thật là sai lầm.

7. Tài tử Galicopter và người vợ.

Một trong những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng nhất trong thập niên 50 là nam tài tử Galicopter. Ôâng nổi tiếng không những vì tài nghệ diễn xuất mà còn vì cuộc sống hôn nhân mẫu mực của ông. Vào khoảng cuối đời, quằn quại trong thể xác, ông đã nói về Rochi người vợ đã chung sống với ông trong gần 30 năm như sau:

“Rochi là một người đàn bà tuyệt vời. Nàng là một người vợ đã biết thích nghi với tính khí và công việc của tôi. Nàng cũng biết cảm thông với những lỗi lầm của tôi. Nhất là nàng đã biết ở cạnh tôi khi nàng có thể, mỗi khi tôi cần đến n àng. Nàng là người vợ đích thực.”

Những lời khen tặng trên đây của tài tử Galicopter là một khẳng định rằng: người nắm giữ hạnh phúc gia đình, người nắm vai chủ động trong việc xây dựng hạnh phúc hôn nhân chính là người vợ. Dĩ nhiên sự thành công của hôn nhân là do sự hợp tác của hai vợ chồng. Nhưng người vợ vẫn giữ vai trò chủ yếu: “Đàn ông dựng nhà, đàn bà xây tổ ấm”(Tục ngữ).

8. Nhà bác học Louis Pasteur.

Ngày 14.07.1883, hội đồng thành phố Dole quyết định đặt tấm đồng ghi danh trên cửa nhà mà Pasteur đã sinh ra. Hôm ấy, trong bài đáp từ cao thượng, nhà bác học trứ danh đã để lòng trào ra trên nỗi biết ơn cha mẹ:

‘Ôi ! hỡi cha con, mẹ con ! Ôi, hỡi những người thân yêu đã chết ! Các ngài đã sống bình dị quá trong căn nhà nhỏ bé này, con đã chịu ơn tất cả bởi các ngài. Những nhiệt tình của người, hỡi mẹ can đảm của con, mẹ đã chuyển nó cho con. Nếu con bao giờ cũng đã nối kết vinh quang khoa học vào vinh quang tổ quốc, chính là vì con đã thấm nhuầãn những cảm tình mà mẹ phấn khích ở trong con. Và còn người, hỡi cha thân yêu, mà đời sống cũng nặng nhọc như nghề nghiệp, cha đã tỏ cho con biết đức kiên nhẫn trong cố gắng lâu dài có thể làm được những gì… Con chúc tụng cả hai, hỡi cha mẹ thân yêu, cho cuộc sống con người, và xin để cho con hướng về các ngài cái vinh hạnh mà người ta hiến lên căn nhà này ngày hôm nay”

9. Chọn lựa trên hết

Hồi tháng 2-1988, một trận động đất lớn đã xảy ra tại Arménia thuộc liên bang Xô viết cũ làm cho nhiều người bị thiệt mạng. Trong trận động đất này có rất nhiều cảnh thương tâm. Tuy nhiên, câu chuyện sau đây đáng chúng ta lưu ý hơn cả.

Sau cơn động đất, cũng giống như hàng trăm ngàn người khác, có hai mẹ con bị vùi lấp dưới hàng trăm ngàn tấn đá và ciment. Nhưng may mắn là họ nằm lọt trong khoảng trống nhỏ chỉ vừa để cựa quậy mà thôi. Thực phẩm duy nhất của họ là một hũ mứt nhỏ. Đứa con gái kêu lên:

- Mẹ ơi! Con khát quá! Con muốn uống nước!

Tiếng kêu khát của đứa con gái nhỏ làm bà mẹ vừa đau lòng vừa lúng túng. Thế nhưng, tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo. Đó là bà lấy chính những giọt máu cuối cùng của mình cho con bú để có thể cầm cự được với tử thần. Lúc đó, bà mẹ đáng thương sờ soạng xung quanh mình vớ được miếng kiếng nhỏ. Bà cắt ngón tay trỏ của mình đút vào miệng và nói với con:

- Con mút đi!

Sau khi mút một hồi lâu, đứa con lại bảo:

- Mẹ cắt ngón tay nữa cho con bú đi!

Bà mẹ liền cắt một ngón tay nữa, nhưng vì trời quá lạnh nên bà không còn cảm thấy còn đau đớn gì. Sau khi được cứu sống bà mẹ thuật lại rằng: “Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn cho con tôi được sống.”

Vì con cái là vốn quí nhất, nên các thánh Giuse và Đức Mẹ sẵn sàng hi sinh tất cả, chỉ mong con mình được an toàn.

10. Người con hiếu thảo

Lịch sử thuật lại rằng, Tổng thống George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, là một người con luôn hiếu thảo đối với mẹ mình.

Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ.

Một hôm, thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viêng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông:

 - Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?

Vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời:

- Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất thời giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống.

Chẳng cần phải nói nhiều chúng ta cũng có thể thấy: Ðức Giêsu là một người con rất hiếu thảo. Tin Mừng tóm tắt cuộc đời thơ ấu của Chúa bằng một câu ngắn gọn: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Nazareth và hằng vâng phục các Ngài” (Lc 2,51).

11. Hạnh phúc theo sau

Chó con hỏi chó mẹ: Mẹ ơi hạnh phúc là gì? Chó mẹ bảo: Hạnh phúc là cái đuôi con đấy! Và thế là chó con quay lại tóm cái đuôi của mình, nhưng không tài nào tóm được. Chú ngồi xuống oà khóc và lại hỏi mẹ: Tại sao con không thể nào bắt được hạnh phúc hả mẹ? Chó mẹ mỉm cười và nói rằng: Con trai, tại sao con không tiến về phía trước và hạnh phúc sẽ theo sau con.

Vậy tại sao chúng ta cứ phải đi tìm hạnh phúc ở nơi đâu khác, khi mà hạnh phúc luôn đi theo mình, trong gia đình mình. Đừng tự hỏi làm sao chúng ta có thể tìm được sự an lạc, bình an và hạnh phúc trong đời sống gia đình? Hãy sống và cảm nhận hạnh phúc mà cha mẹ đã tặng ban cho ta, rồi đáp trả bằng sự chia sẻ cho anh em, cho con cái. Chúng ta hạnh phúc vì được sống bên những người mà mình yêu thương.

12. Gia đình cần cầu nguyện

Chuyện kể về một người chuyên nuôi cá cảnh. Một hôm, trong kỳ hè, khi đang dạo chơi trước các quầy hàng dọc theo bờ biển, anh thấy một con cá ngũ sắc tuyệt đẹp trong một chậu thủy tinh ở quầy. Đó là một con cá nước mặn xinh xắn mà anh chưa từng thấy, anh quyết định mua về. Về đến nhà, anh ra sức chăm sóc nó và áp dụng những phương pháp tốt nhất của một nhà chuyên môn.

Trước hết, anh đặt cá vào chậu nước mặn, cá lội tung tăng trong môi trường quen thuộc. Thế nhưng, một tuần sau, với sáng kiến, anh thêm vào một ít nước ngọt, mỗi ngày một ít. Cứ thế, anh tăng dần nước ngọt cho đến khi chú cá quen hẳn với môi trường mới. Không dừng lại ở đó, anh tiếp tục luyện cá. Mỗi ngày, anh bắt đầu đổ vào chậu một ít bùn, và cứ thế, sau nhiều tháng, lượng bùn được tăng lên cho đến khi con cá quen hẳn với việc ngày ngày nằm trên mặt bùn đớp mồi như một loài bò sát. Chưa hết, anh tập cho cá ra khỏi chậu và lẽo đẽo theo anh như một con cún cưng. Anh đã thành công, vì mỗi lần anh đi đâu, con cá màu ngoan ngoãn theo sau. Cho đến một ngày kia, chuyện đã xảy ra khi anh có việc sang nhà bạn, có chú cá cùng đi. Lúc trở về, trời đổ mưa, anh phải chạy thật nhanh và quên mất chú cá. Sực nhớ, anh quay lại tìm, nhưng chẳng thấy đâu cho đến khi gặp một vũng nước trên đường, thì hỡi ôi, chú cá yêu quý của anh nằm chết trong đó vì nó không biết bơi.

Câu chuyện khiến chúng ta rùng mình sởn ốc khi nhớ đến trách nhiệm và bổn phận của một người làm cha làm mẹ trong việc giáo dục và làm gương sáng cho con cái. Vì "nửa cuộc đời còn lại của một con người được hình thành từ những thói quen có được từ nửa cuộc đời trước đó.” Thói quen cầu nguyện, thói quen đạo đức, thói quen lễ phép, thói quen dùng thời giờ, thói quen học hành, thói quen dùng tiền..., nghĩa là giáo dục thế nào, kết quả thể ấy.

Muốn được như thế, gia đình chúng ta phải là một gia đình mà Thiên Chúa phải chiếm địa vị tối thượng tuyệt đối trong bậc thang các giá trị. "Không ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa, Chúa trên hết, Chúa trước hết.” Bởi lẽ, gia đình được dựng xây và phát xuất từ gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Gia đình phải là một gia đình cầu nguyện. Nếu Thiên Chúa không chiếm địa vị độc tôn tối thượng, mọi trật tự sẽ đảo lộn.

13. Niềm tự hào của Douglas MacArthur

Hình thức đáng quý của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu nguyện chung: kinh nguyện gia đình. Kinh nghiệm cho thấy, các gia đình bỏ kinh, bỏ cơm chung... là dấu hiệu cho thấy sự rạn nứt. Có hình ảnh nào dễ thương hơn khi mọi người được lắng nghe Lời Chúa trong những giây phút này. Hãy để Chúa Thánh Thần dạy dỗ mỗi khi đêm về nhiều hơn thay vì cả nhà ngồi chầu trước con quái vật một mắt để nghe con người dạy bảo.

Thống Tướng Douglas MacArthur, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ Quân Đội Philippines thập niên 1930, người đã để lại một câu nói bất hủ: "In war, there is no substitute for victory", "Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng.” Vậy mà trong tiểu sử của ông còn có một câu nói bất hủ hơn: "Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha...và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh ở trận chiến mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó những lời kinh thường đọc hằng ngày: "Lạy Cha chúng con ở trên trời....”

14. Vai trò quan trọng của gia đình trong đời sống đức tin

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hằng nhắc nhở về sự thánh thiêng của gia đình khi Ngài gọi gia đình là nền tảng của Giáo Hội. Đức Thánh Cha Phaolô VI gọi gia đình là Cung Thánh của Giáo Hội, là trường học đầu tiên của con cái mà cha mẹ là thầy cô.

Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận cũng từng viết: "Chủng Viện thứ nhất, Đệ Tử Viện thứ nhất, trường Sư Phạm thứ nhất là Gia Đình Công Giáo. Không vị giám đốc tài ba nào, hay chuyên môn đến đâu có thể làm thay cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội Thánh và xã hội cũng rung rinh sụp đổ.”

Từ mái ấm gia đình, cha mẹ con cái siêng năng tham dự Thánh Lễ, chuyên chăm Kinh Nguyện tại gia, biết dùng Lời Chúa làm ánh sáng soi đường chỉ lối, luôn sống hoà thuận yêu thương nhau, thì "Đây là phương thế cụ thể và hữu hiệu nhất để anh chị em góp phần vào công cuộc Tân Phúc Âm hoá mà Chúa Giêsu đã trao phó cho Giáo Hội và từng người chúng ta.”

Trong Năm Đức Tin, HĐGMVN mời gọi mỗi gia đình hãy theo gương Thánh Gia: "Ngày nay, dù phải đối diện với nhiều lo toan trong cuộc sống, xin anh chị em cố gắng duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Công Giáo.”

15. Được cứu nhờ yêu thương và hiệp nhất

Cổ tích vùng Rotal mạn Bắc nước Pháp có kể lại một câu chuyện sau đây:

Có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một người con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người ngủ say, một trận giông bão to lớn chưa từng thấy, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng đều lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh. Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con.

Nước càng lúc càng dâng cao, chẳng bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng mệt mỏi, bà mẹ cố giơ cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu được đứa bé khỏi chết.

Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy cái đầu bé tí nhô khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả cha mẹ đứa bé. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.

16. Tâm sự xa gia đình

Là người ai trong chúng ta cũng có một gia đình. Gia đình là chỗ chúng ta tựa nương. Gia đình là thành trì vững chãi cho cuộc đời chúng ta. Gia đình mang lại cho chúng ta niềm vui, tiếng cười. Gia đình là chiếc nôi êm ái cho cuộc đời chúng ta. Thế nên, khi xa gia đình, chúng ta vẫn luôn cảm thấy mất mát, trống vắng trong cõi lòng.

Có một lời bộc bạch của một người con vừa chập chững bước chân vào đời đã tâm sự:

“Em nghĩ tới mẹ em lúc em đi học về, lúc em đói bụng. Nghĩ hồi trước về nhà, đi học về, có mẹ nấu đồ ăn, có cơm sẵn cho mình ăn. Bây giờ, đi học về, ngồi gặm bánh mì thui thủi một mình hay nấu mì gói.

Em nhớ mẹ trong lúc đi làm, khi bị người ta nói này nói kia. Mình nghĩ lúc ở nhà, ba mẹ la mình thì mình giận, nghĩ là không thương mình. Rồi bây giờ, đi ra ngoài đi làm, người ta khó khăn với mình thì mình cũng phải chịu thôi, không nói lại được. Nên nghĩ lại thấy thương nhớ cha mẹ.”

Lời tâm tình này cũng là tâm sự của nhiều bạn trẻ - những chú chim non vừa bay ra khỏi tổ, tự một thân một bóng phải vật lộn, chống chọi lại mọi thứ để tồn tại trong khoảng không gian bao la vô tận mà trước đây bầu trời xanh trong với những ước mơ bay bổng từng thu hút và đầy quyến rũ để các chú chim luôn khao khát mau được bay ra khỏi tổ một cách tự do, độc lập.

Chính vì thế mà có nhiều bạn trẻ khi va vấp những khó khăn trong cuộc sống mới giật mình xót xa:

“Có đôi lúc,

Mải mê quay với dòng đời ồn ã

Những đô hội thị thành

Những phương trời lạ

Chợi giật mình tỉnh giấc nhớ mẹ cha.”

17. Chữ Nhẫn trong cuộc sống

Trước đây, gia đình Trương Công Nghệ đời nhà Đường là cửu đại đồng đường (chín đời ở chung một nhà).

Đường Cao Tông đến nhà ông ta hỏi có bí quyết gì, Trương Công Nghệ liền xin giấy viết liền một trăm chữ "Nhẫn.” Một gia đình có nhân khẩu quá đông, cùng chung sống dưới một mái nhà, nếu không có được sự nhẫn nhịn thì khó mà hòa hợp được.

Đạo lý ấy cũng đúng trong một đất nước. Người có thể nhẫn nhịn nhau vì gia đình như vậy thì cũng thể biết cách nhẫn nhịn, ứng xử khéo léo ngoài xã hội. Nhẫn nhịn chính là cột chống đỡ cho tinh thần đua tranh.

Nếu lúc nào cùng nghĩ đến sự nhẫn nhịn thì thắng không kiêu, bại không nản, có thế tiến, có thể lui theo ý muốn mình.

18. Làn gió thế tục tác hại cho gia đình

Bác sĩ Benjamin Spack, trong cuốn sách "Nghệ thuật làm cha mẹ", một trong những cuốn sách bán chạy nhất (best beller) ở nước Mỷ đã phân tích tình trạng sa sút gia đạo với các nguyên nhân như sau: (x. Tuần báo CG và Dt số 1134 trang 20-21)

1. Vì thích độc lập, thích sống riêng rẽ, nên các gia đình trẻ mất sự hổ trợ, mất bầu khí đùm bọc yêu thương của cha mẹ, anh chị em.

2. Cuộc sống sinh kế, nghề nghiệp thiếu ổn định khiến cho các gia đình hay thay đổi chỗ ở làm mất tình làng nghĩa xóm (bà con xa không bằng láng giềng gần).

3. Cũng do kế mưu sinh mà cả cha lẫn mẹ đều bôn ba chuyện cơm áo gạo tiền một cách tất bật và thế là thiếu thời giờ dành cho nhau và dành cho con cái.

4. Nạn ly hôn ngày càng phổ biến làm ảnh hưởng rất tai hại trên con cái, trên sự thánh thiêng của đời hôn nhân gia đình. Đây là một sự thật khó chối cãi.

5. Óc thượng tôn của cải, lấy vật chất làm thước đo giá trị đã làm cho con người thiếu niềm tin vào các giá trị tinh thần mà đạo hiếu là một trong những số phận hẩm hiu ấy.

Chúa Nhật tiếp ngay sau lễ Giáng Sinh, Giáo hội liền mời gọi chúng ta hướng cái nhìn vào Gia đình Thánh: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Hẳn nhiên Giáo hội ý thức tầm quan trọng của gia đình vốn được ví là tế bào của xã hội. Không gì hơn hãy nhìn vào Ba Đấng của Thánh gia để học cách củng cố gia đạo, xây dựng cái nền tảng của xã hội đúng như thánh ý Chúa tự ban đầu buổi sáng tạo, khi Người dựng nên loài người có nam có nữ và cho họ chung sống thành gia đình (x. St 1,27-28).

19. Bí quyết gia đình hạnh phúc

Một đôi vợ chồng người Anh sống ở Herefort đã được nhận giấy chứng nhận từ sách Guinness thế giới về hôn nhân bền vững nhất thế giới. Đó là cụ ông Percy 105 tuổi và cụ bà Florence Arrowsmith 100 tuồi.

Vào ngày 1/6/2005, hai cụ kỷ niệm 80 năm ngày cưới. Cụ bà Arrowsmith hóm hỉnh nói: “Chúng tôi rất hạnh phúc khi gắn bó với nhau suốt 80 năm. Điều quan trọng nhất đến giờ chúng tôi vẫn yêu nhau… Từ năm 1925 đến nay, tôi cảm thấy thất vọng, nếu ngày nào ổng không nói với tôi những lời âu yếm.”

Trả lời về bí quyết hôn nhân bền vững của mình, cụ bà Arrowsmith cho biết: ”Chúng tôi ít khi cãi nhau, đôi bên không bao giờ ngại nói lời xin lỗi.” (Theo BBC & Telegraph)

20. Gieo giống nào ăn trái đó

Có câu chuyện kể rằng trong gia đình nọ, ngày kia đứa con thấy cha nó gọt cái gáo dừa mới hỏi cha nó gọt làm chi. Lặng nhìn đứa con hồi lâu ông ta trả lời: "Để cho ông nội mày ăn cơm. Vì lúc này ông nội mày làm bể chén hoài, phí quá!” Đứa con suy nghĩ và không nói gì. Vài ngày sau đó, nó cũng đem gáo dừa khác ra gọt. Tưởng là con cũng đồng tình với mình, người cha hí hởn hỏi: "Bộ mày tính giúp tao lo cho ông nội mày hả?” Đứa con trả lời: "Đâu có, cái này con để dành cho cha. Khi nào cha như ông nội con sẽ cho cha xài.” Nghe xong câu trả lời người cha tái mặt...

Như vậy, công ơn cha mẹ không biết làm sao ta có có thể đáp đền cho cân xứng. Dù rằng ta có thành tài cách mấy đi nữa mà không có lòng hiếu thảo cha mẹ thì cũng kể bằng không. Hơn nữa, thái độ của ta với cha mẹ như thế nào thì con cháu sẽ nhìn vào đó để cư xử với ta như vậy.

21. Cái khó để làm cha mẹ

Erma Bombeck là một nhà viết nhật ký. Bài viết của cô đã được đăng tải trên 900 tờ báo khắp nước Mỹ. Cũng giống như những nhà bình luận, cô nhận được rất nhiều lá thư của các độc giả.

Đây là đoạn trích thư của một người mẹ: "Cho dù là tòa đã kết án đứa con trai của tôi, nhưng tôi thì vẫn không. Nó là đứa con của tôi, làm sao mà tôi có thể kết án nó chứ? Tôi cầu nguyện cho nó; tôi khóc thương nó; tôi khuyến khích nó. Và trên hết, tôi yêu thương nó. "

Đây là một ví dụ khác, dựa trên lá thư của một em bé 12 tuổi. Em viết: "Tôi là một bà mẹ thay thế. Khi người mẹ của tôi làm việc tại nhà hàng, thì tôi phải trông coi ba người em của tôi. Tôi phải lo vệ sinh cho chúng nó. Tôi lau nước mũi cho chúng. Tôi cho chúng ăn. Tôi đưa chúng vô giường ngủ. Tôi làm tất cả mọi việc mà người mẹ thật của tôi làm. Tuy nhiên, thay vì cám ơn tôi, các em của tôi đã ghét tôi. Một đôi lúc, tôi mong được chết đi. Tôi đã có ý định bỏ nhà ra đi, nhưng tôi không biết đi đâu và sẽ làm gì. Khi tôi lớn lên, tôi không muốn làm một người mẹ, bởi vì đó là một cái nghề tệ nhất trên trái đất này. " (Based on Erma Bombeck, Motherhood: The Second Oldest Profession).

Hai ví dụ ở trên đều đưa đến một điểm giống nhau, đó là cho dù làm bậc cha mẹ hoặc làm bậc con cái trong gia đình đều không phải là dễ. Một đôi lúc, nó thật là nhức nhối.

22. Người con hiếu thảo

Sách Cổ học tinh hoa kể truyện Hàn Bá Du ăn ở với mẹ rất có hiếu. Những khi có lỗi mẹ thường đánh đòn. Một hôm Bá Du phải đòn, khóc mãi. Mẹ thấy vậy hỏi: “Mọi khi mẹ đánh, con biết lỗi, con cam chịu ngay. Lần này sao con khóc dai thế?”

Bá Du trả lời: “Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn mạnh khoẻ. Lần này mẹ đánh con, con không thấy đau mấy, con biết sức mẹ đã yếu, cho nên con nghĩ, con thương mẹ mà con khóc.”

Đánh đòn, rồi kêu khóc… mới nghe cứ tưởng như chuyện tệ nạn xã hội, chuyện của giáo dục lỗi thời, nhưng những lời nói chuyện giữa hai mẹ con Hàn Bá Du làm sáng lên những điều không thể thiếu nơi con người trưởng thành, những giá trị đặc trưng và trổi vượt trong đời sống xã hội, là sự thật, lòng nhân và công lý.

23. Bó hoa tặng mẹ

Một thanh niên dừng xe lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện nhân sinh nhật mẹ. Mẹ anh đang sống cách chỗ anh ở và làm việc khoảng 300 km. Khi vừa bước ra khỏi xe hơi, anh thấy một bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè.

Anh lại gần và hỏi thăm. Cô bé nức nở: “cháu định mua một đoá hoa hồng tặng mẹ cháu, nhưng cháu chỉ có 75 xu trong khi giá một bông đến 2 đôla…” Anh mỉm cười bảo em bé: “Nào, đến đây, chú sẽ mua cho cháu một bông!”

Anh vào cửa tiệm đặt mua cho em một đoá hoa hồng và cũng không quên đặt một bó hồng để gửi cho mẹ anh theo đường bưu điện. Xong xuôi, anh hỏi cô bé có cần đi nhờ xe về nhà không, em vui mừng nhìn anh và trả lời: “Dạ, chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu nhé…”

Rồi em bé chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang không có hàng rào, nằm ở ngoại ô. Xe vừa dừng lại, em bé chỉ vào một phần mộ vừa mới đắp ở ngoài rìa nghĩa trang và nói: “Đây là nhà của mẹ cháu đấy chú ạ!” Em tiến lại, cúi xuống ân cần đặt đoá hoa hồng lên mộ…

Tức thì, anh quay lại tiệm bán hoa, huỷ bỏ dịch vụ gửi hoa bằng bưu điện lúc nãy, mua một bó hồng thật đẹp. Suốt đêm hôm ấy, anh đã lái xe một mạch 300 cây số về nhà mẹ anh để trao tận tay bà bó hoa…

24. Chúa ở đâu trong gia đình tôi

Một ngày kia, đám yêu tinh họp nhau lại để tìm cách phá hoại cuộc sống của loài người. Con đầu đàn lên tiếng: “Ta sẽ trọng thưởng cho đứa nào đánh cắp hạnh phúc của con người và tìm được một chỗ giấu mà không ai tìm ra được. Các ngươi tính sao?”

Một con lên tiếng: “Hãy đem hạnh phúc giấu trên đỉnh núi cao nhất trên Trái đất này, chắc con người sẽ không thể tìm ra.” Con đầu đàn lắc đầu: “Rồi cũng sẽ có ngày họ chinh phục đỉnh núi cao nhất ấy.”

“Vậy hãy giấu dưới đáy đại dương sâu thẳm …”, con khác nói.

“Với những phương tiện ngày càng hiện đại, chẳng mấy chốc họ cũng thám hiểm đến đáy đại dương sâu thẳm”, con đầu đàn lắc đầu.

 “Hay ta giấu ở một hành tinh khác vậy”, một tiểu yêu đề nghị.

“Làm vậy chẳng giấu được họ, vì họ đang tìm cách khám phá vũ trụ và các hành tinh khác”, con đầu đàn ngao ngán trả lời.

“Này này…, một nữ yêu tinh chậm rãi nói, người ta tìm kiếm hạnh phúc khắp mọi nơi; nhìn thấy hạnh phúc nơi người khác nhưng thường không thấy hạnh phúc chính ở bản thân mình. Vậy ta hãy giấu hạnh phúc trong chính cuộc sống họ, họ sẽ chẳng tìm thấy được đâu....”

Cả đám yêu tinh reo lên và quyết định làm theo lời đề nghị trên.

25. Bức tranh đẹp nhất trần gian

Một hoạ sĩ suốt đời ước mơ vẽ một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi vị giáo sĩ về điều đẹp nhất. Vị giáo sĩ trả lời: “Tôi nghĩ điều đẹp nhất trần gian là niềm tin vì niềm tin nâng cao giá trị con người.”

Hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với cô gái và được trả lời: “Tình yêu là điều đẹp nhất trần gian, bởi tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào, mang đến nụ cười cho kẻ khóc than, làm cho điều bé nhỏ trở nên cao trọng, cuộc sống nhàm chán biết bao nếu không có tình yêu.”

Cuối cùng hoạ sĩ gặp một người lính mới về từ trận mạc. Được hỏi, người lính trả lời: “Hoà bình là cái đẹp nhất trần gian, ở đâu có hoà bình là ở đó có cái đẹp.”

Và hoạ sĩ đã tự hỏi mình: “Làm sao tôi có thể vẽ cùng lúc niềm tin, hoà bình và tình yêu?.”

Khi trở về nhà, ông nhận ra niềm tin trong ánh mắt các con, tình yêu trong cái hôn của người vợ. Chính những điều đó làm tâm hồn ông ngập tràn hạnh phúc và bình an. Hoạ sĩ đã hiểu thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là “Gia đình”

26. Sợi chỉ đỏ tình yêu

Vào tháng 9 năm 2006, tờ nhật báo Bild am Sonntag, xuất bản tại Đức đã quả quyết: năm 1920, cha mẹ của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô 16 gặp gỡ nhau nhờ mục “Tìm Bạn Bốn Phương” trên một tờ báo vùng Bavaria, nước Đức. Nhật báo này đã tìm được hai mẩu tin nhắn của thân phụ Đức Giáo Hoàng là ông Joseph Ratzinger với nội dung như sau: “Một công chức bình thường, Công Giáo, độc thân, 43 tuổi, tìm một thiếu nữ Công Giáo biết nội trợ và vá may chút đỉnh để đi đến hôn nhân.” Mấy tháng sau, một cô gái làm nghề cấp dưỡng tên Maria Peintner đã trả lời mẩu tin nhắn. Họ đã tìm hiểu nhau và kết hôn vào ngày 9/11/1920. Hai ông bà sinh được 3 người con: Maria, qua đời năm 1991; Georg, một linh mục đã 82 tuổi và Joseph, trở thành đương kim Giáo Hoàng (Theo AP, Reuters).

Tuy nên vợ nên chồng chỉ bằng mục “Tìm Bạn Bốn Phương”, nhưng đôi vợ chồng ấy đã xây dựng được một gia đình hạnh phúc và đạo đức. Họ đã dâng hiến cả hai người con trai cho Thiên Chúa: Một làm Linh mục, một làm Giáo Hoàng. Quả thật, gia đình của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô là một gia đình gương mẫu.

27. Những nấc thang tình yêu

Mới đây, tại Trung Quốc, một câu chuyện tình được bầu chọn là câu chuyện tình tuyệt vời nhất năm 2006. Câu chuyện đó như sau: Cách đây nửa thế kỷ, chàng trai tên Liu Guojiang đã yêu một quả phụ lớn hơn mình 10 tuổi tên Xu Chaoqing. Bị gia đình và mọi người phản đối, hai người đã đưa nhau lên một hang núi để chung sống.

Từ đó, chàng Liu đã bắt đầu đục 6000 bậc thang trên núi làm lối để hai người đi. Bây giờ ông cụ Liu đã 70 tuổi, bà cụ Xu đã 80 tuổi. Nhưng 6000 bậc thang vẫn còn được dùng để con cháu đi lại. Người ta gọi đó là “những nấc thang tình yêu” (Báo Thanh Niên, số ra ngày 13/11/2006).

28. Người mẹ kiểu mẫu

Vào năm 1997, có một người phụ nữ nằm xuống làm rung động cả thế giới. Đó là mẹ Têrêsa Calcutta, người đã nhận được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979. Rất nhiều người coi mẹ là một phụ nữ vĩ đại nhất trong thế kỷ 20. Bởi vì ai cũng đồng ý rằng: sở dĩ mẹ Têrêsa trở thành người vĩ đại nhất, chỉ vì mẹ đã dành hết cả cuộc đời để yêu thương và phục vụ những người đau khổ.

Mẹ Têrêsa có được tinh thần phục vụ như thế, là nhờ được giáo dục bởi một người mẹ vĩ đại, vì ngay khi cô Têrêsa còn đi học, lần nào mẹ cũng cho con tiền để tiêu riêng và mẹ còn ân cần dặn con: “Mẹ cho con tiền để con ăn bánh, uống nước. Nhưng con chỉ được xài một nửa thôi, nửa kia còn lại con hãy chia sẻ cho các bạn nghèo con gặp.”

Ngờ đâu lối giáo dục của người mẹ vĩ đại này, đã tạo nên một Têrêsa mà cả thế giới tôn phong là mẹ vĩ đại, và nhiều cường quốc đã xin mẹ làm công dân danh dự.

28. Tâm sự của thánh Giáo hoàng Gioan 23

Lời tâm sự của Đức Giáo hoàng Gioan thứ 23 đã viết thư cho cha mẹ của ngài, lúc ngài tròn 50 tuổi:

Gia đình là “trung tâm ánh sáng” đem ngọn lửa hồng chiếu soi kẻ khác. Ngày nào mọi gia đình là “trung tâm ánh sáng”, thì thế giới này sẽ là một đại gia đình đầy ánh sáng, đầy hy vọng.

Chủng viện thứ nhất, đệ tử thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình Công giáo biết say mê Lời Chúa và tham dự Thánh lễ mỗi ngày, không có vị giám đốc tài ba chuyên môn nào có thể thay thế cha mẹ được. Nếu gia đình không giáo dục con cái bằng những ngôn ngữ Lời Chúa và yêu Thánh lễ mỗi ngày, thì tương lai của Hội Thánh và xã hội nhân loại cũng bị rung rinh sụp đổ!

Đức Giáo hoàng Gioan 23 khi còn làm Hồng y, có lần ngài về thăm mẹ và khoe với mẹ chiếc nhẫn Giám mục của mình, bà mẹ không chịu thua, giơ tay ra cho con xem cái nhẫn mỏng tanh trên ngón tay của bà và hãnh diện nói với con: “Nếu không có chiếc nhẫn cưới này, thì con cũng không thể có chiếc nhẫn Tổng Giám mục ấy”, Đức Giáo hoàng thưa với mẹ: “Thưa mẹ, hôm nay con được 50 tuổi, Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội Thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn hồi còn được ngồi bên cha mẹ.”

29. Cha mẹ thương con

Năm 1972, thời chiến tranh ở Việt Nam diễn ra rất ác liệt giữa hai chế độ Cộng sản và Cộng hòa, vùng đất quanh nhà thờ Chánh tòa Nha Trang bị oanh kích, dân chúng khắp vùng tuốn về nơi đây để lánh nạn. Tình trạng đông dân lại thiếu lương thực, Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận lúc đó đang coi sóc Giáo phận Nha Trang, ngài bay vào Sài-gòn xin tiếp viện lương thực cho dân. Khi ngài ra phi trường Tân Sơn Nhất để trở về Nha Trang, thình lình một phụ nữ chạy lại ôm chân Đức Cha, vừa khóc vừa van xin:

- Xin ông cho tôi đi theo ra Nha Trang, vì tôi có ba đứa con, tôi đã đưa vào Sài-gòn hai cháu, còn một cháu nữa tôi phải ra tìm nó!

Đức Cha gắt lên;

- Bà khùng hả, bom đạn trút xuống như mưa, thoát được nơi đó là có phúc, bà lại còn muốn gieo mình cho tử thần?

Nhưng người đàn bà cứ níu lấy áo Đức Cha van nài:

- Thưa ông, nếu tôi không đi tìm con tôi, thì tôi không thể sống được!

Trông bà qúa mệt mỏi như muốn xỉu, nhưng bà vẫn cứ bám chặt lấy Đức Cha, cuối cùng ngài cũng đành chấp nhận cho bà lên trực thăng.

Mấy hôm sau, Đức Cha đi phát bánh mì cho dân tị nạn, ai ai cũng tranh giành đến lấy bánh, trừ có một người phụ nữ ngồi bất động ở góc chân tháp, tay đang ôm chặt một cái gói vào lòng. Đức Cha tiến gần hỏi:

- Chị đã có bánh chưa?

Chị không trả lời, gương mặt thất sắc, đôi mắt vô hồn cứ nhìn vào khoảng không, Đức Cha lại hỏi:

- Chắc chị lấy được nhiều bánh lắm hả? Đưa tôi xem!

Nghe thế, chị lại càng ôm chặt cái gói vào lòng hơn nữa, Đức Cha phải nhờ người dùng sức mạnh mới lấy được cái gói xem là cái gì? Nhưng khi vừa mở ra, chị bỗng òa lên khóc, vì đó là xác đứa bé đã chết mấy ngày rồi! Tình thương của người mẹ dành cho con như thế, làm sao con có thể đáp đền!

Một lần kia, tôi ghé thăm một gia đình, người cha làm nghề chạy xích lô, đến giờ cơm, vợ và con cứ tíu líu mời: “Mời ba vào dùng cơm”, nhưng ông vẫn loay hoay sửa cái ghế, lúc sau ông nói: “Mẹ và các con cứ ăn trước đi, ba đang dở tay, chút nữa sẽ ăn sau.” Thấy thế tôi nói với ông: “Giờ cơm trong gia đình là lúc mọi người xum họp, thân thương nhất, ông bỏ đó vào dùng với vợ con đi.” Ông nói nhỏ với tôi: “Thưa cha, hôm nay con đạp xích lô trúng mánh, nên mua được mấy ký gạo ngon cho vợ con. Mọi ngày cơm không được như thế, con muốn vợ và các con ăn trước, còn con ăn sau!” Nghe vậy tôi rất đỗi ngạc nhiên và cảm phục tình người cha dành cho vợ con, chắc chắn những đứa con không hiểu được tâm tình ấy, làm sao chúng đáp đền!

30. Muối men cho gia đình công giáo

Để làm men muối cho các gia đình Ki-tô giáo, Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, trong ngày Chúa nhật Chúa Chiên Lành năm 1994 đã phong thánh cho bà Calnorimora!

Bà Cal-no-ri-mo-ra sinh ngày 21 tháng 11 năm 1774, tại Ro-ma, bà thuộc gia đình giàu có, và được cha mẹ giáo dục Đức Tin rất chu đáo. Năm 22 tuổi, bà lập gia đình với một luật sư, và đã có với chồng hai cô con gái. Vài năm sau đó, bà phát hiện ra chồng ngoại tình, hay lấy trộm tiền của vợ đi nuôi bồ nhí! Bà đã khuyên lơn nhiều lần, nhưng bù lại bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn, và ông càng thường xuyên đến ở với vợ bé hơn! Bà phải một mình làm việc cần cù nuôi hai con gái. Năm 1801, bà mắc một căn bệnh hiểm nghèo lúc mới 27 tuổi, nhưng Chúa đã cho bà được bình phục, sau đó bà gia nhập tu hội đời thuộc Dòng Chúa Ba Ngôi. Nhà bà biến thành nơi cầu nguyện cho những người đau khổ. Hằng ngày bà đều xin mọi người cầu nguyện cho chồng bà biết sám hối trở về đường ngay nẻo chính, và bà cũng giúp đỡ nhiều người về đời sống vật chất cũng như tinh thần.

Ngày 05 tháng 02 năm 1825 Chúa đã cất bà ra khỏi thế gian, hưởng dương 51 tuổi. Ông chồng lúc này mới thấy thương vợ thương con mãnh liệt, ông sám hối và trở về phục tang vợ, nhiều người thấy ông, ai cũng chế nhạo: “Nước mắt cá sấu!” Ông cam phận chịu đựng để một phần nào đền tội mình! Sau khi an táng vợ xong, ông trù liệu tiền bạc cho hai con chính thức và các con ngoại hôn, rồi ông đã xin gia nhập Dòng Chúa Ba Ngôi, và trở thành Linh mục sống rất gương mẫu.

Rõ ràng bà Calnorimora đã được kêu gọi nên thánh từ một người chồng bất trung! Và chồng bà đã trở nên một Linh mục thánh thiện nhờ người vợ sống niềm tin! Đó là của ăn nuôi linh hồn vợ chồng đã cho nhau, nhờ ơn thánh của Đức Ki-tô Giê-su mà có.

31. Hy sinh cho con cái

Có câu nói "Một người mẹ có thể chăm sóc cho 10 đứa con. Nhưng 10 đứa con không chăm sóc nổi một người mẹ.” Chúng ta hãy suy nghĩ xem câu nói này đúng không.

Một con chim mẹ có một con chim con. Chim mẹ thương yêu chim con vô cùng. Mùa đông đến, các loài chim phải rời xứ lạnh để bay đến những xứ ấm áp hơn. Chim mẹ biết chim con còn yếu không bay xa nổi nên cõng con trên lưng. Ban đầu chim mẹ còn khoẻ nên bay khá nhanh. Nhung sau một đoạn đường dài, chim mẹ mệt và cảm thấy đứa con trên lưng mình ngày càng nặng, nhưng vẫn cố bay.

Tuy nhiên một ngày kia chim mẹ đuối sức nên đành phải đáp xuống nghỉ. Trong lúc nghỉ ngơi, chim mẹ hỏi chim con: "Con ơi, hãy nói thật cho mẹ nghe nhé. Sau nay khi mẹ đã già, không còn sức bay về phía nam ngang qua những đại dương bao la thì con có cõng mẹ trên lưng như mẹ đang làm cho con bây giờ không?" Chim con trả lời: "Con e rằng không mẹ ạ!” Chim mẹ ngạc nhiên hỏi tiếp: "Sao vậy?” Chim con lại đáp: "Vì khi đó, con phải cõng con của con.”