Lời Chúa tuần 21 thường niên _ câu truyện minh họa

 

LỜI CHÚA TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA


CNTN 21A - CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

CNTN 21B - LỜI BAN SỰ SỐNG

CNTN 21C -

THỨ HAI - KHỐN CHO CÁC NGƯƠI

THỨ BA -

THỨ TƯ - MỒ MẢ TÔ VÔI

THỨ NĂM - TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG

THỨ SÁU - CHỜ ĐỢI CHÚA GIÊSU

THỨ BẢY - TRUNG TÍN VÀ SÁNG KIẾN

LỄ THÁNH MONICA - CHÚA ĐỘNG LÒNG THƯƠNG

LỄ THÁNH GIOAN TẨY GIẢ BỊ TRẢM QUYẾT - CÁI CHẾT CỦA MỘT TIÊN TRI

 

CNTN 21A - CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

Lời Chúa: Mt 16, 13-20

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó." Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"

Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở." Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.

Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại.

Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu." Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người."

TRUYỆN KỂ

1. Con chẳng hiểu biết

Hội thánh là chính Chúa Giêsu tiếp tục sống giữa chúng ta. Qua các thời đại, cũng có những người lớn tiếng hô hào rằng: Hội thánh đã đến ngày tận số! Nhưng Hội thánh vẫn còn tiếp tục qua 2000 năm nay và vẫn còn tiếp tục. Chúng ta hãy nghe một số phát biểu:

Năm 305, hoàng đế Dioclesianô ra lệnh đúc những kim tiền với dòng chữ: Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt.

Năm 1758, Voltaire nói tiên tri: hai mươi năm nữa đạo Công giáo sẽ hết đời.

Năm 1850, P. Proudhon quả quyết: các người đạo đức hãy lo giấy thông hành trước đi. Mười năm nữa sẽ không còn vị linh mục nào để xức dầu cho đâu.

Và năm 1904, Combes tuyên bố: ba tháng nữa bọn giáo sĩ phản động sẽ bị tiêu diệt.

Đời nào cũng có những người cao hứng muốn làm nhà tiên tri để phê phán về số mạng của Hội thánh. Nhưn bây giờ họ ở đâu? Họ đã chết. Hội thánh vẫn còn sống, sống mạnh, sống mãi.

Thánh Augustinô nói:”Họ nhìn thấy Hội thánh, họ nói: Hội thánh sẽ chết, giáo dân đã đến ngày tận số. Nhưng tôi thấy họ chết mỗi ngày mà Hội thánh vẫn tồn tại để rao giảng quyền lực của Thiên Chúa cho các thế hệ nối tiếp nhau."

2. Ý Chúa nhiệm mầu

Hội thánh là chính Chúa Giêsu tiếp tục sống giữa chúng ta. Qua các thời đại, cũng có những người lớn tiếng hô hào rằng: Hội thánh đã đến ngày tận số! Nhưng Hội thánh vẫn còn tiếp tục qua 2000 năm nay và vẫn còn tiếp tục. Chúng ta hãy nghe một số phát biểu:

Năm 305, hoàng đế Dioclesianô ra lệnh đúc những kim tiền với dòng chữ: Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt.

Năm 1758, Voltaire nói tiên tri: hai mươi năm nữa đạo Công giáo sẽ hết đời.

Năm 1850, P. Proudhon quả quyết: các người đạo đức hãy lo giấy thông hành trước đi. Mười năm nữa sẽ không còn vị linh mục nào để xức dầu cho đâu.

Và năm 1904, Combes tuyên bố: ba tháng nữa bọn giáo sĩ phản động sẽ bị tiêu diệt.

Đời nào cũng có những người cao hứng muốn làm nhà tiên tri để phê phán về số mạng của Hội thánh. Nhưn bây giờ họ ở đâu? Họ đã chết. Hội thánh vẫn còn sống, sống mạnh, sống mãi.

Thánh Augustinô nói:”Họ nhìn thấy Hội thánh, họ nói: Hội thánh sẽ chết, giáo dân đã đến ngày tận số. Nhưng tôi thấy họ chết mỗi ngày mà Hội thánh vẫn tồn tại để rao giảng quyền lực của Thiên Chúa cho các thế hệ nối tiếp nhau."

3. Viên đá đầu tiên

Cho đến năm 1896, vùng Cayenne ở Saint Ouen không bao giờ thấy bóng chiếc áo dòng đen. Nhưng một ngày trong năm đó, một vị Linh mục cả gan xâm nhập vào vùng ấy. Một người thấy vậy liền ném đá vào đầu Linh mục. Vị Linh mục cúi xuống nhặt lấy viên đá đầy máu đỏ.

- Xin cảm ơn ông, đây là viên đá đầu tiên của một đền thờ tôi muốn xây ở đây.

Và sự thật viên đá đó là viên đá đầu tiên của đền thờ Mân côi được xây ở đó.

Nước Chúa trên mặt đất này là Hội thánh, cũng bắt đầu trong nhỏ hèn, trong bạc đãi như vậy. Hội thánh vẫn phát triển trong âm thầm và đau khổ.

4. Làm gì cho Chúa

Trong tiểu sử của thánh Charles de Foucauld kể rằng: sau khi từ Ma-rốc trở về, anh say sưa kể lại cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm đầy kỳ thú của anh qua những khu rừng Phi châu, người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái chưa đầy 10 tuổi. Khi anh vừa kể xong, bất ngờ cô bé hỏi: "Thưa cậu, cháu thấy cậu làm được nhiều việc rất hay, thế cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?" Câu hỏi ấy như một luồng điện giật làm Charles de Foucauld bất động. Từ bao lâu nay chưa ai đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế: anh đã làm được gì cho Chúa Giêsu? Anh lục soát tâm hồn mình, anh chỉ thấy một lỗ hổng không đáy, anh đã phí phạm tất cả thời giờ và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi trụy lạc và những danh vọng thấp hèn, mắt anh bỗng mở ra để thấy nỗi khốn khổ, nghèo hèn của mình.

Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một linh mục. Anh vào dòng khổ tu, ít lâu sau, anh xin đến Na-da-rét để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu. Một ngày kia, khi đang cầu nguyện sốt sắng trong phòng, bỗng anh nghe thấy từ căn nhà bên cạnh tiếng rên rỉ của một người Hồi giáo, nhớ lại gương bác ái của Chúa Giêsu, anh tự hỏi: tôi có thể giam mình cầu nguyện trong phòng trong lúc có những anh chị em chung quanh đang khốn khổ thất vọng chăng? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ, trở thành người anh em của họ, nhất là của những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn. Những năm cuối đời, anh sống giữa sa mạc Sa-ha-ra, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống cho những người cùng khổ, và chia sẻ đến giọt máu cuối cùng khi phát súng oan nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục anh giữa lúc anh đang cầu nguyện.

5. Mẩu chuyện về Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II:

Cách đây ít lâu, một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II như sau: Khi còn là sinh viên Ba-lan đi du học tại Rô-ma, một hôm khi cùng các bạn sinh viên đến thăm linh mục đáng kính là cha Pi-ô được tiếng là rất đạo đức thánh thiện, đã từng được Chúa Giêsu hiện ra ban năm dấu thánh trên mình giống như Người. Vừa gặp mặt cậu sinh viên, cha Pi-ô đã ôm chầm lấy cậu và nói tiên tri rằng: “Một ngày kia, con sẽ làm Giáo hoàng, và đời của con sẽ gặp nhiều trắc trở, bị đau khổ và còn chịu đổ máu mình ra vì Chúa nữa." Bấy giờ cậu sinh viên trả lời: “Con không sợ sau này sẽ bị đổ máu, vì làm sao con có thể trở thành Giáo hoàng được!" Nhưng thánh ý Chúa quả thật nhiệm mầu: Hồng y Vốt-ti-la người Ba-lan sau này đã được bầu làm Giáo hoàng, nhận danh hiệu là Gio-an Phao-lô Đệ Nhị. Về sau ngài đã bị đổ máu trong cuộc mưu sát bất thành vào năm 1981 tại quảng trường thánh Phêrô. Hơn 20 năm sau, hãng thông tấn Apcom của Ý và nhật báo Ba-lan Rzeczpospolita đã đưa tin: Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã từng viết một bức thư (trước đó chưa được công bố), cho M. Ag-ca, kẻ đã bắn ngài trọng thương vào năm 1981. Linh mục S Dziwisz thư ký riêng của Đức thánh Giáo hoàng đã xác nhận sự tồn tại của lá thư trên và cho biết nó đã không được gửi đến người nhận. Bức thư được viết không lâu sau vụ ám sát. Trong thư, Đức Gio-an Phao-lô II đã hỏi Ag-ca người Thổ Nhĩ Kỳ rằng: Tại sao hắn lại muốn giết ngài, trong khi cả hai cùng tôn thờ Chúa? Theo tờ Rzeczpospolita, lúc đầu vị thánh Giáo hoàng đã định gửi bức thư này. Nhưng sau đó ngài lại thôi không gửi đi nữa, và thay vào đó, đến năm 1983 ngài đã đền gặp trực tiếp kẻ đã muốn lấy mạng ngài tại một nhà tù ở Ý, và đã sẵn sàng tha thứ cho hắn ta. Đến năm 2000, Ag-ca đã bị dẫn độ về Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đã thụ án gần 20 năm ở Ý. Đức Gio-an Phao-lô II là vị Giáo hoàng thứ 264 kể từ Tông đồ Phêrô là Giáo hoàng đầu tiên. Hiện nay Đức Phan-xi-cô lên thay thế Đức Bê-nê-đích-tô 16 và là vị Giáo Hòang thứ 266 kể từ thánh Phêrô Tông đồ. Ngoài ra vào ngày 27/04/2014 vừa qua, Đức cố Giáo hòang Gio-an Phao-lô II đã được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô phong Thánh chung với thánh Giáo hoàng Gio-an 23 tại đền thánh Phêrô ở Rô-ma vào ngày Chúa Nhật II PS là lễ kính Lòng Chúa Thương Xót.

6. Hội Thánh xây trên nền đá đức tin của Phêrô Luôn trường tồn:

Qua nhiều thế kỷ từ ngày thành lầp đến nay, Hội thánh do Chúa Giêsu thiết lập đã trải qua nhiều nguy cơ có thể sụp đổ, nhưng Hội thánh vẫn trường tồn nhờ được xây trên nền đá vững chắc là đức tin của Phêrô vào Chúa Giêsu như sau:

Dưới thời Hoàng đế Di-o-cle-si-a-nô, Đế quốc Rô-ma quyết tâm tiêu diệt Hội thánh của Chúa Kitô. Năm 305, Di-o-cle-si-a-nô đã ra lệnh đúc những đồng tiền bằng kim loại trên đó có dòng chữ: “Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt." Nhưng rồi sau đó Hội Thánh đã vượt qua cơn bách hại của đế quốc và không ngừng phát triển đi khắp thế gian.

Đến thời kỳ Trung cổ tại Âu châu, nhiều nhà trí thức vô thần đã hè nhau đánh đổ đức tin của các tín hữu. Năm 1758, Vol-tai-re đã dám tuyên bố: “Chỉ hai mươi năm nữa thôi là đạo Công giáo sẽ hết thời." Rồi năm 1850, P. Prou-dhon lại lên tiếng thách thức: “Lũ tín hữu mê tín các ngươi hãy mau lo giấy thông hành ngay đi. Vì chỉ mươi năm nữa thôi, sẽ không còn một linh mục nào còn sống sót để xức dầu cho các người!” Đến năm 1904, Com-bes cũng tuyên bố: “Chỉ ba tháng nữa là bọn giáo sĩ phản động sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt!"

Quả thật, thời nào cũng có những người thù ghét đạo công giáo và tiên báo về ngày tàn của Hội thánh này. Nhưng đến nay không ai trong bọn họ còn sống sót, đang khi Hội thánh vẫn trường tốn và ngày một phát triển. Thánh Au-gus-ti-nô có lần đã phát biểu: ”Những kẻ thù ghét đạo Chúa nhìn Hội thánh và nói: Hội thánh sắp chết, bọn giáo dân đã đến ngày tận số! Nhưng tôi thấy bọn người đó đều chết đi mỗi ngày, trong khi Hội thánh vẫn luôn tồn tại để rao giảng quyền năng của Thiên Chúa cho các thế hệ nối tiếp nhau mãi."

7. Khi tình yêu bị coi thường

Vào tháng 11 năm 1994, một câu chuyện làm rung động cả Nước Mỹ đó là chuyện cô Susan Smith, một bà mẹ trẻ sống ở thành phố Union, tiểu bang South Carolina, đã giết hai đứa con nhỏ để không mất tình nhân. Trước một thảm cảnh gia đình quá đau thương như thế, nhiều người chỉ biết lắc đầu hỏi: Tại sao một người mẹ có thể giết chết con của mình một cách tàn nhẫn như thế!

Nhìn lại cuộc đời của cô Susan Smith, người ta thấy rằng cô đã bước vào hôn nhân một cách vội vàng, khi chính cô cũng như người chồng trẻ đều chưa sẵn sàng. Hôn nhân của hai người không được xây dựng trên một nền tảng vững chắc nên đã sụp đổ mau chóng. Không những thế, khi ngã vào tình yêu lần thứ hai, cô Susan Smith cũng không biết rõ những yếu tố cần thiết để xây dựng một hôn nhân vững bền nên cô đã sẵn sàng làm bất cứ điều gì cô nghĩ là cần phải làm để nắm giữ tình yêu đó. Kết quả là, khi thấy người yêu tỏ vẻ không thích trẻ con, cô Susan Smith đã giả vờ bị tai nạn để hai đứa con nhỏ chết chìm dưới sông.

8. Viên đá bị loại bỏ

Một câu chuyện có thật được một Cha trong Dòng kể lại sau khi đi Tây về kể lại là có an viện nọ ở bên Pháp. Chẳng hiểu sao mà du khách đến đan viện thấy cảnh trong tu viện buồn tẻ và u uất đến thế! Thấy cảnh tượng như thế ai cũng buồn nản. Đan Viện Trưởng bắt đầu cải tổ lại đời sống trong đan viện bằng cách lấy lại đời sống thiêng liêng, đời sống đạo đức, cầu nguyện thì tình hình bắt đầu thay đổi. Từ ngày ấy các vị ẩn sĩ thay đổi đời sống, họ yêu thương nhau hơn và chính tình yêu của họ đã lan toả đến tất cả những người đến thăm đan viện.

Lý do chính để đánh mất đi cái bầu khí yêu thương hiệp nhất trong đan viện đó chính là vì các đan sĩ đã không còn bám vào Chúa nữa. Khi và chỉ khi người ta đánh mất Chúa, đánh mất đá tảng thật của mình thì mới đâm ra đố kỵ, hơn thua, tranh giành, chà đạp, nói hành nói xấu nhau. Nếu có Chúa thật ở trong mỗi đan sĩ của đan viện thì chắc có lẽ không xảy ra tình trạng bi đát trước kia.

Ngày nay đan viện ấy khá nổi tiếng với nhiều du khách khi đặt chân đến thăm viếng đan viện. Đan viện ấy không phải nổi tiếng vì sầm uất, vì hoành tráng nhưng đan viện ấy nổi tiếng vì đã có một đời sống mật thiết gắn kết với Chúa.

9. Các con cho Thầy là ai--Lm. Đam. Nguyễn Ngọc Long

Tạp chí Reader’s Digest - Das Best số tháng 4/1999 trang 116 đăng kết quả Bản thăm dò ý kiến của người dân Đức về Đức Tin vào Thiên Chúa:

50 phần trăm người được hỏi ý kiến vào lứa tuổi từ 14 đến 39 tin vào sự sống vĩnh cửu mai sau; trái lại chỉ 38 phần trăm người vào lứa tuổi 60 còn tin vào điều này.

70 phần trăm đều cho rằng xã hội bây giờ không tin vào Thiên Chúa nữa. 78 phần trăm những người trẻ thuộc thế hệ từ 14 đến 29 tuổi cảm thấy đời sống tôn giáo càng ngày càng biến mất trong đời sống; và họ cho là tình trạng này xảy đến quá sớm...

Hội Thanh Thiếu Niên Công giáo thuộc Giáo phận Munich thăm dò ý kiến 1200 bạn trẻ về vai trò Chúa Giêsu trong đời sống tinh thần của họ... Phần đông cho biết Chúa Giêsu Kitô không còn chiếm địa vị trung tâm đời sống tinh thần họ nữa! Bản đúc kết đi kết luận: Trong đời sống tôn giáo của người trẻ ngày nay, niềm tin Kitô giáo không còn hấp dẫn hay gây nhiều ảnh hưởng nơi họ. Chúa Giêsu dần dần ít được nhắc tới trong các buổi thuyết trình, hay nếu có cũng chỉ được nêu ra như một nhân vật lịch sử.

Như thế có thể nói hình ảnh về Thiên Chúa, về Chúa Giêsu, trung tâm điểm của niềm tin Kitô giáo không còn ăn rễ sâu nơi tâm thức con người, ít là nơi những người trẻ tương lai của xã hội, Giáo hội nữa!

Vậy đâu là ý nghĩa câu hỏi của Thầy Giêsu năm xưa cho chúng ta ngày nay: “Các con cho Thầy là ai?”

Ông Phêrô xưa kia nhân danh anh em môn đệ trả lời Thầy mình: “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”

10. Chúa Giêsu là ai trong cuộc sống tôi?--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang

Một nhà lãnh đạo Trung Hoa theo Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi nhà lãnh đạo Trung Hoa rằng: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn có Kitô giáo?” Ông đáp: “Có ba lý do. Thứ nhất, Khổng Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn sư. Thứ hai, Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống. Thứ ba, Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế là vị thẩm phán." Đó là những lý do và cũng là lời tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế được lưu truyền trong suốt lịch sử Giáo hội, khởi đầu từ các Tông đồ.

11. Người ta bảo Thầy là ai?

Nếu chúng ta còn nhớ cách đây không lâu ở Mỹ này, nhà văn Dan Brown viết cuốn sách Da Vinci code, nó trở thành cuốn sách bestseller, được đóng thành phim, và được phổ biến khắp thế giới, trở thành «hiện tượng Da Vinci code» và làm nhiều người công giáo bị sốc. Bởi vì trong đó Dan Brown giới thiệu một Đức Giêsu hoàn toàn khác biệt với Đức Giêsu ở trong kinh thánh. Ngài là một người bình thường như mọi người, đã có gia đình, có vợ có con và giòng giống của ngài vẫn tồn tại cho đến hôm nay. Và Giáo hội chỉ là một tổ chức chính trị và quyền lực hoàn toàn nhân loại. Nhiều người công giáo bị sốc và lung lay đức tin và có người đã nói rằng: mấy chục năm theo đạo, tôi đã bị lừa... bây giờ người ta find out ra thì mới biết Chúa Giêsu chỉ là một người đàn ông bình thường... v.v.v.

Tôi nhắc lại sự kiện đó để chúng ta thấy rằng: Câu hỏi của Chúa Giêsu với các tông đồ hôm nay vẫn còn mang tính thời sự: Người ta bảo Thầy là ai?

12. Tôi đâu rồi?

Một anh lính giải một nhà sư bị tù lên tỉnh. Anh ta có tính hay quên, nên vừa đi vừa lẩm bẩm, kiểm lại người và đồ đạc cho khỏi quên: "Khăn gói đây, dù đây, gông đây, lệnh toà đây, sư đây, mình đây. Khăn gói đây, dù đây, gông đây, lệnh toà đây, sư đây, mình đây..." Nhà sư biết đây là "dân thứ thiệt",nên tìm cách đánh lừa. Sư rủ anh lính vào quán uống rượu, nhậu thịt chó một bữa say mèm. Trong khi anh lăn quay ra ngủ, sư lấy dao cạo trọc đầu anh lính, tháo gông đeo vào cổ anh ta, rồi trốn mất. Khi tỉnh dậy, theo thói quen, anh lính kiểm lại hết mọi sự, miệng lẩm bẩm: "Khăn gói đây, dù đây, lệnh tòa đây, gông đây..." Đến đó anh giật mình thét lên:

- Còn nhà sư đâu mất tiêu rồi.

Anh ta cuống quít vo đầu, thấy đầu trọc lóc nên mừng rỡ la lên:

- Nhà sư đây rồi!

Anh ta chợt sực nhớ lại điều gì nên than thở:

- Quái lạ! Còn mình đâu mất rồi mà không thấy đâu?

Người lính đãng trí đã không nhớ mình là ai. Tuy nhiên trong đời sống, có nhiều lần chúng ta thật sự không nhớ mình là ai trong hành động, trong những việc chúng ta làm.

13. Vâng phục Giáo hội

Giám Mục Fénelon là Tổng Giám Mục danh tiếng của giáo phận Cambrai nước Pháp vào đầu thế kỷ XVIII. Ngài được mọi người thán phục và kính nể vì ngài đạo đức và thông thái. Ngài sáng tác cuốn sách thiêng liêng rất hay, nhan đề “Cắt nghĩa các câu châm ngôn của Các Thánh.” Ngày kia, khi sắp lên tòa giảng để giảng một bài quan trọng trước một cử toạ đông người đang thán phục, ngài được tin Đức Giáo Hoàng Inôsentê XII đã lên án cuốn sách của ngài và cấm lưu hành. Đến giờ giảng, ngài vẫn bình tĩnh bước lên tòa giảng, nhưng không phải để giảng bài ngài dọn, mà để giảng một bài về sự tuân phục đối với Giáo-Hội. Ngài nói: “Đức Thánh Cha đã lên án cuốn sách của cha. Cha xin hoàn toàn tuân phục quyền bính Giáo Hội cho đến chết để làm gương cho anh em.” Và để tỏ lòng tuân phục công khai một cách khiêm nhượng, ngài cho khắc cảnh thiên thần đang dày đạp dưới đất những tác phẩm bị Giáo Hội lên án, trong đó có cuốn sách của ngài, nhan đề “Cắt nghĩa các câu châm ngôn của Các Thánh.”

14. Điều kiện để biết Chúa

Một giáo sự đại học đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Sau nhiều năm và nhiều dặm đường, cuối cùng ông tới gặp một vị ẩn sĩ xin chỉ giáo. Vị ẩn sĩ dẫn ông vào lều, và mời ông dùng trà. Vị ẩn sĩ rót đầy tách trà, và tiếp tục rót làm nước tràn xuống cả sàn nhà. Ông giáo sư chăm chú nhìn nước chảy cho tới khi không thể chịu đựng thêm được nữa, ông nói: "Dừng lại! Đầy rồi, không thể thêm nữa." Vị ẩn sĩ trả lời: "Như tách nước trà này, lòng ông đầy những tư tưởng, quan niệm, thành kiến... Nếu lòng ông trước hết không trống rỗng, làm sao tôi có thể giúp gì cho ông?" Con Thiên Chúa và tinh thần thế gian không thế sống chung hoà bình. Nếu lòng con người còn mang nặng tinh thần thế gian thì ơn Thiên Chúa đau có chỗ đứng.

15. Biết Chúa là ai

Thánh Micae Hồ Đình Hy (1808-1857), làm quan dưới thời vua Tự Đức, chức Thái Bộc, hàng tam phẩm, lo việc dệt vải lụa cho cả nước. Ông là quan thanh liêm, rất có uy tín. Năm 1856, quân Pháp đánh phá cảng Đà Nẵng, ông bị bắt, bị kết án tử hình. Ông bị điệu qua các đường phố Huế trong ba ngày. Lính vừa đánh đập vừa rao lên: "Hồ Đình Hy, tên tả đạo, đứa ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình, vì thế sẽ bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? Tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?"

16. Câu hỏi đều tiên và thiết yếu

Nước Lỗ có một cái Đỉnh rất quí. Nước Tề bắt phải đem dâng. Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang.

Vua Tề bảo: “ Phải có Nhạc Chính Tử đem đỉnh sang thì ta mới tin.”

Vua Lỗ gọi Nhạc Chính Tử đến bảo đi. Nhạc Chính Tử hỏi: “Sao không đưa cái đỉnh thật?”

Vua Lỗ nói: “Ta quí cái đỉnh đó lắm.”

Nhạc Chính Tử thưa: “Nhà Vua quí cái đỉnh ấy thế nào, thì tôi cũng quí cái đức "Tín" của tôi như thế ấy.”

Sau Vua Lỗ phải đưa đỉnh thật. Nhạc Chính Tử mới chịu đi.

Lớn hơn cái đỉnh là chữ tín của Nhạc Chính Tử, lớn hơn chữ tín của Nhạc Chính Tử phải là quyết định tin theo Đức Kitô của tôi. Vì đó là một quyết định xuyên suốt cuộc sống tôi, như đòi hỏi của Đức Kitô: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 10,38-39)

Vì thế “Đức Kitô là ai” phải là câu hỏi đầu tiên và không thể thiếu được cho các tông đồ trên đường theo Đức Kitô.

17. Điều thiết yếu

Svetaketu là một nhà hiền triết nổi tiếng của Ấn độ. Một hoàn cảnh đặc biệt đã giúp ông tiếp cận được với sự khôn ngoan.

Khi lên bảy ông được cha gửi đi học ở Vedas. Ngay từ nhỏ ông đã tỏ ra trổi vượt các bạn nhờ khả năng tiếp thu và trí thông minh đặc biệt của mình. Thế nên vừa đến tuổi trưởng thành ông đã được coi như một chuyên gia vĩ đại nhất về Kinh Điển.

Thế nhưng một hôm về nhà, Svetaketu đã nghe từ người cha ông những câu hỏi có sức biến đổi cả cuộc đời ông: “Có phải con đã học được đúng điều mà không cần phải học gì khác? Có phải con đã khám phá được điều mà nhờ đó mọi nỗi đau khổ sẽ không còn? Có phải con đã nắm hiểu được điều mà không ai có thể dạy cũng chẳng ai có thể học được?”

“Thưa cha, không.” Svetaketu trả lời.

“Này con, vậy thì tất cả những gì con học được suốt ngần ấy năm đều vô nghĩa.”, người cha tâm tình nghiêm túc với cậu con trai.

ĐTC Bênêđíctô 16, trong cuốn “Đức Giêsu thành Nazareth”, đã nói về sự khôn ngoan đó: “Cuối cùng con người cần đến một điều trong đó chứa chất tất cả; nhưng con người phải học để nhận ra điều họ thực sự cần thiết và thực sự khao khát ngang qua những ước muốn và mong chờ chóng qua. Họ cần đến Thiên Chúa. Và chúng ta có thể thấy, sau tất cả những lời nói tượng hình vẫn còn một điều sót lại: Đức Giêsu ban cho chúng ta “sự sống”, chỉ vì Người ban Thiên Chúa cho chúng ta.”

18. Bước trong ánh sáng

Cây trong rừng cùng lớn lên bên nhau, mỗi khi có luồng gió mạnh, cành lá chúng đung đưa chạm vào nhau, nhưng chẳng bao giờ chúng tìm biết cây bên cạnh thuộc loại gì và đang sống ra sao? Vì cỏ cây là loài vô tri vô giác.

Có vị thầy hỏi đệ tử:

- Làm thế nào để phân biệt ngày và đêm?

Người môn đệ thưa:

- Đêm đã qua và ngày mới khởi đầu, khi có thể nhìn rõ cụm bông giấy trước nhà.

Thầy nói:

- Chưa chính xác.

- Đó là lúc con nhìn thấy hai người từ đàng xa và phân biệt được ai là đàn ông, ai là phụ nữ.

Thầy khích lệ:

- Có còn cách nào khác nữa không?

Thấy học trò lúng túng, thầy nói:

- Gọi là ngày, khi con nhìn một người và nhận ra người ấy là anh em của con.

Thánh Gioan tông đồ viết: “Ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng.” (1 Ga 2,11) Khi nhìn ra tha nhân là anh em, chúng ta đang bước đi trong ánh sáng để đến gần Thiên Chúa.

CNTN 21B - LỜI BAN SỰ SỐNG

Lời Chúa: Ga 6, 61-70

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: "Điều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin.”

Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho.”

Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?"

Simon Phêrô thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa.”

TRUYỆN KỂ

1. Hãy làm điều bạn có thể

John là một người thanh niên, chàng lần lần rời xa Giáo Hội. Chàng không đi lễ nữa, không chịu các bí tích. Trong thế chiến thứ hai, khi chàng đăng ký nhập ngũ, sự lo âu của mẹ chàng tăng thêm: Nếu chàng bị chết thì sao? Linh hồn chàng sẽ ra sao? Khi chàng chuẩn bị lên đường. Mẹ chàng nói với chàng: “John ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một việc.” John hỏi: “Cái gì đó, mẹ?” “Mẹ muốn con đọc ít nhất mỗi ngày 1 lần kinh Kính Mừng. Hãy đọc, bất kể con bận hay con mệt tới mức nào.” Một chút do dự, John đã hứa.

Trải qua năm, tháng. Những bức thơ của John thưa dần. Một ngày kia một bức thơ của cha tuyên úy cho hay John bị thương nặng và chàng đã xin chịu các phép bí tích. May mắn, John bình phục. Trong bức thơ đầu về nhà, chàng viết: “Mẹ ơi, cám ơn mẹ đã bảo con làm lời hứa ấy. Con đã giữ. Mỗi lần có dịp con đi lễ và rước lễ.”

2. Bỏ Thầy con biết theo ai?

Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:

Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.

Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).

Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.

3. Ðức tin "nghĩa địa"

Một món đồ còn mới thì được gọi là đồ "gin", còn một món đồ đã có người xài trước rồi bán lại thì được gọi là đồ nghĩa địa (tiếng anh gọi là second-hand). Có một người kia một hôm bị rơi vào một tâm trạng vô cùng chán chường vì chợt nhận ra rằng đức tin của anh chỉ là một đức tin "nghĩa địa.”

Anh vừa sinh ra thì đã được rửa tội. Lớn lên một chút anh đến nhà thờ học giáo lý và lần lượt được Rước lễ, Thêm sức và các bí tích khác. Hàng tuần anh đến nhà thờ tham dự Thánh lễ và nghe giảng. Ở nhà anh được cha mẹ và ông bà dạy dỗ cặn kẽ về cách sống đạo. Từ trước tới nay anh vẫn an tâm trong đức tin êm đềm như thế. Nhưng hôm đó anh chợt nhận ra rằng tất cả nội dung đức tin ấy đều là của người khác. Anh nghĩ rằng đức tin của anh giống như chiếc áo cũ mà người anh mặc chật nên chuyển lại cho người em. Một thứ đồ second-hand.

Anh nghĩ rằng bây giờ mình đã trưởng thành, mình phải suy nghĩ về đức tin để có những xác tín của riêng mình; mình cần có những cơ hội thử thách để có những chọn lựa của riêng mình.

Cơn khủng hoảng đức tin của người thanh niên trên hẳn là ray rứt lắm, nhưng thực rất cần thiết. Sinh ra trong đức tin thì chưa đủ, cần phải sinh lại trong đức tin nữa. Có một đức tin "nghĩa địa" cũng chưa đủ, mà cần có đức tin do chính mình xác tín. Chỉ có một đức tin do chính mình xác tín mới có thể giúp ta chọn cho mình một lập trường khi đứng trước những tình thế phải chọn lựa. Như thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn chọn Ðức Giêsu đang khi nhiều người khác bỏ Chúa mà đi: "Lạy Thầy, bỏ thầy thì con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có những lời hằng sống" (Viết theo Flor McCarthy)

4. Chúng con cũng bỏ Thầy mà đi chăng?

Cách đây không lâu vào ngày 6 tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang Mã Sơn Xét (Massachusettes) của Hoa Kỳ gây nên một cảnh tượng hết sức đau lòng. Hai vợ chồng ông Ðặng Danh Mừng (Dana Raymond) và bà Giang thị Dương (Jeanne Ardizoni) đưa nhau ra toà để ly dị, mà cả hai đều không chịu nuôi hai con của họ, khiến cuối cùng toà phải xử cho hai đứa con vào viện mồ côi! Khi toà phán quyết, người ta nghe tiếng khóc nức nở của hai đứa bé tội nghiệp. Thế mà hai bố mẹ vẫn dửng dưng! Cảnh sát được lệnh toà "bắt" hai đứa bé lên xe chở tới viện mồ côi. Chúng vùng vẫy kêu "Cha", kêu "Mẹ", nhưng cha và mẹ đều không buồn ngó ngàng tới hai đứa con của mình!

5. Chúng ta chọn Đức Giêsu.

Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng: Chúng con phải lựa chọn. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là: Giờ đây tôi mới khởi sự. Mỗi ngày chúng ta phải khởi đầu với sự lựa chọn.

Mà sự lựa chọn căn bản và quan trọng nhất của cuộc sống là chọn Đấng chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải chọn Chúa là thần tượng vì Ngài là một vị thần siêu việt, tuyệt đối đáng tôn thờ. Ta không được bắt chước dân Do thái xưa thờ con bò vàng thay vì Ngài. Chính Đức Giêsu cũng khuyên: ”Không ai có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6, 24).

Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình, ta không thể tiếp cận với Ngài, ta cần phải có một thần tượng nào gần chúng ta hơn, vị thần ấy đã nói: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha” và Đấng ấy đã nói: ”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6).

Có một người suốt 2000 năm đã được bao nhiêu người hâm mộ tin theo, thậm chí còn nhận lấy cái chết để tỏ ra trung thành với vị thần ấy !

Vị thần đó là ai?

Đó là Đức Giêsu Kitô.

6. Sống là chọn lựa

Ở đô thị Jaffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là khu đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lữ một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngoài theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ:

Một nhà hai chủ không hoà,

Hai vua một nuớc ắt là không yên.

Chọn lựa tự do, nhưng chọn lựa lại là giới hạn. Khi đã có một chọn lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình. Chính Đức Giêsu khi chọn con đường cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận thân phận giới hạn con người, và cả cái chết nhục nhã trên thập giá như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2: ”Đức Kitô yêu thương Hội thánh, và phó mình vì Hội thánh, để thánh hóa Hội thánh,... ngõ hầu bầy tỏ cho mình một Hội thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo..., nhưng thánh thiện và tinh tuyền.”

7. Chọn thập giá

Vua Charles một lần kêu hoàng tử đến và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (Triều thiên), Vua nói:

- Con chọn cái nào?

Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.

Vua cha hỏi:

- Sao con lại chọn thanh kiếm?

Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp:

- Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện kia.

Chúng ta đã quen với khẩu hiệu: ”Per crucem ad lucem”: qua thập giá để tới vinh quang. Bước theo Chúa là phải đi vào con đường khổ giá, phải qua cửa hẹp, nhưng chính con đường hẹp hòi khắc khổ lại đem đến vinh quang. Theo gương hoàng tử, chúng ta cũng phải nhờ thanh kiếm đau khổ để có thể chiếm được triều thiên vinh phúc muôn đời, thánh giá phải đi trước triều thiên

Xả thân nếu muốn theo Thầy,

Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo. (Mt 16,24)

8. Tin là chọn lựa

Sống ở đời, ai cũng có niềm tin, và bởi thế, có nhiều thứ niềm tin khác nhau, chẳng hạn các vận đông viên thể thao tin ở sức mạnh của bắp thịt và sự dẻo dai của họ. Các chính trị gia đặt tất cả niềm tin nơi đảng phái của họ. Những người hoạt động theo một ý thức hệ cũng tin tưởng ở sự toàn thắng của lý tưởng mà họ đang theo đuổi...

Ngay trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cũng bị bắt buộc phải có niềm tin, chẳng hạn: đau bệnh, chúng ta tìm đến thầy thuốc, chúng ta đặt niềm tin nơi khả năng và thiện chí của thầy thuốc. Đi mua hàng, chúng ta cũng phải tin tưởng nơi người bán hàng. Giao tiếp với nhau, chúng ta cũng phải tin tưởng nhau...Đối với chúng ta, những người Kitô hữu, chúng ta không những có niềm tin vào cuộc sống mà chúng ta còn có đức tin nữa. Làm sao có được đức tin? Triết gia Pát-can nói: "Nếu bạn muốn có đức tin, bạn hãy quỳ gối xuống và cầu nguyện.”

Mẹ Têrêxa cũng nói như thế. Người ta kể rằng: một lần kia, Mẹ Têrêxa nói với một phóng viên báo chí: "Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.” Người ấy hỏi: "Tôi phải làm gì để có đức tin?” Mẹ Têrêxa đáp: "Ông hãy cầu nguyện.” Người ấy nói: "Tôi không biết và không thể cầu nguyện.” Mẹ Têrêxa nói: "Tôi sẽ cầu nguyện cho ông, phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh. Một nụ cười có thể đánh động người khác. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống.”

9. Sống phải có chọn lựa

Chúng ta đang sống cho cái gì? Chúng ta đang đi về đâu? Tương lai của chúng ta là gì?

Nếu chúng ta chỉ lo nghĩ đến tiền bạc, của cải, lợi lộc trần gian mà thôi, chúng ta sẽ thất vọng. Chính Chúa nói: “Xác thịt chẳng có ích gì.”Vì nó sẽ tan biến trong giây lát. “Chỉ có Thần Khí mới làm cho sống” Thần Khí mới mở mắt chúng ta vào chân trời của Chúa: “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.” Ngài mời gọi chúng ta vượt lên trên thế giới vật chất để tìm được những thực tại thiêng liêng, mang lại cho chúng ta sự sống đích thực.

Câu chuyện người đàn bà Samari bên bờ giếng Giacob cũng là một bài học cho chúng ta thấy vũ trụ vật chất chỉ là phương tiện để nhờ đó, chúng ta đạt đến những thực tại thiêng liêng, đạt đến mục đích tối hậu mà chúng ta phải hướng đến.

Từ một miếng nước vật chất đơn thường, Ngài dẫn bà ấy đến nguồn nước trường sinh. Ngài cũng muốn hướng đám dân đang theo Ngài từ bánh trần gian đến bánh hằng sống, nhưng họ không muốn hiểu. Cả những môn đệ cũng không tin và rút lui. Cha trên trời mới có thể đưa họ đến với Ngài khi họ chấp nhận tìm kiếm.

Mọi người đều đả đảo Ngài chỉ còn Nhóm Mười Hai đang ngơ ngác chưa biết nên rút lui hay ở lại.

Ngài hỏi: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”

10. Chọn lựa đòi phải từ bỏ

Lời của Chúa là nghịch lý luôn hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy. Thánh giáo phụ Grêgoriô thành Nysse đã quảng diễn nghịch lý đức tin này khi Ngài viết: “Hành trình đức tin của chúng ta đến với Chúa giống như chúng ta đang dấn bước tìm đến một khoảng tối đầy ánh sáng.” Ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết, ân sủng và tội lỗi.... là những cặp phàm trù tương phản và đối kháng nhau ẩn chứa nơi nghịch lý của Lời, cũng như trong nghịch lý của mầu nhiệm Đức Giêsu.

Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta phải liều lĩnh dấn bước vào bóng tối để tiến đến ánh sáng, phải chấp nhận đi qua Thập giá và cái chết để tiến nhận sự sống và vinh quang. Đối diện trước nghịch lý này, chúng ta sẽ phải chạm mặt với những cám dỗ muốn thoái lui và không muốn chấp nhận điều nghịch thường đó.Vì thế, chúng ta cần phải canh tân lòng trung thành mỗi ngày. Đức tin không phải chỉ đón nhận một lần là xong. Thánh Phaolô cũng đã căn dặn giáo đoàn Rôma: “ Những người có đức tin vững mạnh phải nâng đỡ những người yếu đuối không có niềm tin vững mạnh” (Rm 15,1).

Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã từng cảnh báo chúng ta về ba nguy cơ gây xói mòn đức tin và làm suy giảm căn tính đích thực nơi mọi Kitô hữu, đó là sống theo chủ nghĩa duy vật (materialism), sống theo chủ nghĩa hưởng thụ (consumerism) và sống theo chủ nghĩa tục hóa (secularism). Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng (in primacy).

Điều này ai cũng biết trên lý thuyết, nhưng trong thực tế, chúng ta lại hay sống theo kiểu khác. Khi chúng ta thượng tôn tiền bạc, đặt tiền bạc làm thước đo mọi giá trị theo kiểu sống duy vật, thì đó chính là một sự phản bội.

11. Trung thành theo Chúa

Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?

Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!

Viên sĩ quan rút súng ra dí vào đầu linh mục: Nếu ông không chịu nói là ông không tin gì cả, tôi sẽ nổ súng.

Tưởng chừng như trước cái chết, con người sẽ phải khuất phục mọi sự. Nhưng không, linh mục vẫn thanh thản trả lời: Tôi tin chứ!

Viên sĩ quan buông súng xuống, ôm chầm lấy người linh mục. Ông reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi. Đây là người tôi tìm kiếm. Vâng, thưa cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin Chúa Giêsu.

12. Chỉ chú tâm vào Chúa Giêsu

Một chiếc tàu đánh cá Liên Xô được đưa vào sửa chữa bên cạnh chiếc tàu tuần dương Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Một thủy thủ người Nga tên Simas Kudirka lén lút đến tàu Mỹ xin được tỵ nạn chính trị. Các viên chức Mỹ từ chối. Và người thủy thủ nầy đã bị giao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, và bị cầm tù.

Trong lúc bị thử thách như thế, Kudirka buồn sầu tuyệt vọng, không còn muốn sống nữa. Một tù nhân khác thấy anh chán nản quá như thế thì dạy cho anh những vầng thơ của thi sĩ Ruydyard Kipling, để giúp anh lấy lại tinh thần và can đảm đương đầu với thử thách gian lao, cương quyết làm lại cuộc đời. Trong những vần thơ đó có câu, “Nếu nhìn thấy toàn bộ sự nghiệp đời mình tan vỡ, và con vẫn bình tâm tin tưởng xây dựng lại, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con, và con sẽ là con người đích thực.”

13. Theo Chúa là sống nhờ Người

Một vị khổ tu sống rất nhiệm nhặt, hằng ngày ông ra sức chiến đấu chống lại tình dục và mọi thói hư tật xấu. Có thể nói suốt đời ông luôn chống trả các chước cám dỗ của ma quỷ xác thịt thế gian là ba kẻ thù của tín hữu Chúa.

Đến tuổi già, ông phải nhắm mắt lìa đời như mọi người. Cái chết của ông khiến mọi người thương tiếc, nhưng cũng an ủi vì tin chắc rằng ông sẽ được Chúa thưởng. Và một đệ tử của ông không chịu nổi sự ra đi của ông nên cũng ngã bệnh và chết theo ông.

Bên kia thế giới, người đệ tử nầy chứng kiến cảnh tượng rất hài lòng. Anh thấy bên cạnh thầy đáng kính có người đàn bà tuyệt vời. Anh tin thầy mình đã được Chúa thưởng xứng đáng, vì những chay tịnh và việc kiên tâm chống lại các chước cám dỗ lúc còn sống. Anh mon men đến gần thầy chúc mừng:

- Thưa Thầy, thật Chúa là Đấng công minh chính trực. Người đã thưởng công Thầy xứng với công lao Thầy đã lập lúc còn sống ở thế gian.

Thế nhưng anh ngạc nhiên thấy thầy không lộ chút vui mừng nào, mà còn buồn bả thốt lên:

- Đây không phải là thiên đàng. Ta chưa được thưởng. Và người đàn bà nầy cũng bị trầm luân như ta.

Câu chuyện trên đây do nhà tu đức học người Ấn độ là cha Anthony de Mello kể. Ý cha muốn nói sự thánh thiện không hệ ở lối sống khắc khổ bề ngoài. Đạo chúng ta cốt yếu là một Con Người. Con Người đó chính là Chúa Giêsu. Đó là sức sống và là sức sống muôn đời cho những ai tin theo Người.

14. Một vụ thảm sát tại nhà trường

Cách đây ít lâu, một vụ thảm sát ở tiểu ban Côlôrađô Hoa kỳ không những làm người Mỹ, mà còn làm cho cả thế giới phải sửng sốt bàng hoàng. Bàng hoàng vì đây không phải là vụ thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà trong mấy năm qua, các vụ bạo động tại trường học đã từng xảy ra nhiều lần. Riêng trong vụ này, hai cậu học sinh trung học đã có thể tính toán trước các chi tiết về diễn tiến của vụ thảm sát này.

Một điều tồi tệ hơn nữa là thái độ của hai tên sát nhân: Trước khi bị bắt, hai tên này đã dùng súng tiểu liên điên cuồng bóp cò, nhắm vào các thầy cô giáo trong lớp và các bạn học sinh cùng trường. Bọn chúng đã tỏ ra lạnh lùng, dửng dưng trước thảm trạng chết chóc do chúng gây ra.

Trong bức thư chung Mùa Chay năm 1994, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã lên tiếng báo động về một nền văn hoá bạo động kích dục, được khuyến khích bằng các phương tiện truyền thông như các phim ảnh đồi trụy kích động bạo lực, được trình chiếu trên các kênh truyền hình, các băng đĩa và sách báo khiêu dâm bày bán công khai tại các nơi công cộng mà giới thanh thiếu niên dễ dàng mua ở bất cứ nơi nào trên đất Mỹ.

Quả thật, nhân loại ngày nay đang đứng trước nguy cơ diệt vong, khi họ chọn lựa phương pháp một cuộc chiến tranh bạo động vì thiếu lòng khoan dung tha thứ. Thay vì phải ngồi vào bàn hội nghị để thương thảo bình tĩnh ôn hoà, thì người ta lại thích sử dụng bạo lực để giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp về tài sản, đất đai... do sự khác biệt nhau về trình độ văn hoá, về sắc tộc, màu da, giai cấp hay tôn giáo...

15. Tin không phải là kiến thức

Một người vô tín ngưỡng dừng chân ở một nông trại bên Hòa Lan, anh lớn giọng với ông chủ trại:

- Chẳng bao giờ tôi tin điều gì tôi không hiểu.

Ông chủ nông trại nói:

- Điều này khó đấy. Này nhé, thí dụ trong trại này, cậu có thấy đống cỏ không? Ngựa của tôi ăn cỏ, lớn lên lông nó mọc khắp mình. Con cừu ăn cỏ, thế là nó có len. Con ngỗng của tôi ăn cỏ, cả mình nó đầy lông vũ. Cậu có hiểu tại sao không nào?

Thực vậy, cho dù thông minh uyên bác đến mấy, người ta cũng không thể hiểu rõ toàn bộ những hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên. Một số kiến thức khoa học, chúng ta cũng chỉ nghe nói lại chứ đâu phải ta đích thân thí nghiệm và biết cặn kẽ chính xác. Vậy mà chúng ta vẫn tin. Chúng ta tin có vi trùng, tin trái đất tròn, tin nước gồm hai thành phần khí hợp lại…

16. Một quyết định quan trọng cho thời khóa biểu

Những quyết định hằng ngày là một phần của đời sống: như mặc đồ thế nào, ăn cái gì và khi nào thì đi ngủ. Với những vấn đề này, những quyết định của chúng ta thì thường thay đổi nhưng có một số quyết định mà bản tính của chúng kéo dài mãi đến đời đời. Những chọn lựa căn bản mà chúng ta đã làm bằng chính ý chí tự do của chúng ta, một thí dụ tuyệt hảo cho vấn đề này đó là quyết định kết hôn. Hôn nhân là một Giao Ước vĩnh viễn, một quan hệ tình yêu và trung thành giữa một người nam và một người nữ, để họ trở nên một.

Thiên Chúa đã mời gọi dân của Người trong Cựu Ước trở thành bạn tình của Người, bằng một Giao Ước mang hình thức của hôn nhân thiêng liêng. Giosuê là một người lãnh đạo của dân Thiên Chúa sau cái chết của Môisê, đã hiểu được tầm quan trọng của Giao Ước này. Ông đã thách thức dân chúng: “Nếu các ngươi không hài lòng phục vụ Chúa thì hãy quyết định trong ngày hôm nay, các người sẽ phục vụ ai, còn tôi và người nhà của tôi sẽ phục vụ Thiên Chúa” Giosuê đã làm một quyết định với chính mình.

17. Thử thách để làm người

Một chiếc tàu đánh cá Xô Viết được đưa vào sửa chữa bên cạnh tàu tuần dương hạm của Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Các quan chức Mỹ-Xô cùng ngồi trên chiếc tàu Nga bàn luận sôi nổi về kỹ thuật đánh cá. Câu chuyện và mối liên hệ của họ thật tốt đẹp cho đến một đêm nọ một thuỷ thủ người Nga tên là Kudirka lẻn ra khỏi tàu Xô Viết, nhảy xuống biển và bơi qua tàu Mỹ, năn nỉ xin được tị nạn chính trị.

Thế nhưng, vị chỉ huy tàu Mỹ đã từ chối. Quyết định này về sau đã bị các thượng cấp quở trách. Chàng thuỷ thủ bị trao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, và bị giam vào ngục. Thời gian ở tù chàng đã nhiều lần tuyệt vọng, nhưng nhờ người bạn đã dạy cho chàng một bài thơ, chính những vần thơ này đã giúp chàng đương đầu với hiện tại và hy vọng tiến đến tương lai.

Bài thơ ấy như thế này: Nếu giành được chiến thắng hay gặp phải thất bại mà con vẫn xử sự như nhau. Nếu sự thật con nói ra bị vu khống là gian dối mà con vẫn tỏ ra bình thản. Nếu toàn bộ sự nghiệp đời con tan vỡ, mà con vẫn kiên trì xây dựng lại. Phải, nếu con làm được như thế, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con. Và hơn thế nữa, hỡi con, con sẽ là một con người đích thực.

18. Dứt khoát theo Chúa.

Sau khi rao giảng về Bí tích Thánh Thể, dân chúng và ngay cả một số đông môn đệ đã lấy làm chướng tai gai mắt và khó nghe, nên đã lìa bỏ Chúa. Thấy vậy, Chúa bèn quay về với nhóm Mười Hai. Ngài đòi các ông phải có thái độ và lập trường dứt khoát, Ngài hỏi các ông:

- Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?

Và như thế chúng ta đã thấy, Phêrô thay mặt cho tất cả anh em trong nhóm đã thưa lên cùng Chúa:

- Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.

Hẳn chúng ta còn nhớ, một lần khác, khi thầy trò tới địa hạt xứ Cêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:

- Người ta bảo con người là ai?

Các ông đã lượm lặt dư luận đó đây và thưa lên cùng Chúa:

- Người thì bảo là Êlia, người thì bảo là Giêrêmia, người thì bảo là một tiên tri nào đó và kẻ khác lại nói là Gioan tẩy giả.

Có lẽ lúc bấy giờ, Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đặt một câu hỏi nòng cốt, đòi các ông phải bày tỏ lập trường:

- Còn các con, các con bảo Thầy là ai?

Và Phêrô cũng thay mặt cho anh em trong nhóm tuyên xưng đức tin:

- Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.

Xuyên qua những lời giảng dạy, Chúa Giêsu bao giờ cũng đòi hỏi nơi những người muốn bước theo Ngài một thái độ dứt khoát, một lập trừờng rõ rệt. Ngài bảo:

- Ai yêu thương cha mẹ, vợ con, tiền bạc nhà cửa hơn Ta, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta. Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì nếu yêu chủ này thì sẽ ghét chủ kia, cũng vậy không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.

Sở dĩ như vậy là vì tinh thần của Chúa thì trái với tinh thần của thế gian như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là theo trót cả tâm hồn, chứ không thể trung lập, lửng lơ, đi nước đôi và bắt cá hai tay.

19. Dứt khoát theo Chúa triệt để

Ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem và ông nói với họ:

- Hôm nay các ngươi hãy lựa chọn, một là thờ phượng Đức Giavê, hai là thờ phượng các thần của dân ngoại. Riêng phần tôi và gia đình, chúng tôi nhất quyết chỉ thờ phượng một mình Đức Giavê mà thôi.

Bấy giờ dân chúng trả lời rằng:

- Không hề có chuyện chúng tôi lìa bỏ Đức Giavê mà tôn thờ những thần dân ngoại. Đức Giavê là Thiên Chúa của chúng tôi, chính Ngài đã dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, đã làm những việc kỳ diệu trước mặt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt những con đường chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi chỉ phụng thờ Đức Giavê vì chỉ mình Ngài là Thiên Chúa chúng tôi.

Có lẽ giờ đây Chúa Giêsu cũng nhìn mỗi người chúng ta và muốn chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát.

20. Không rửa bàn tay

Chúa Giêsu nhìn mỗi người chúng ta và muốn chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát. Thế nhưng, có lẽ chúng ta đã phải cúi mặt xuống, bởi vì mặc dù mang tiếng là người có đạo, là kẻ đã tin theo Chúa, nhưng cuộc đời chúng ta vẫn còn chồng chất quá nhiều tội lỗi, bản thân chúng ta vẫn thường xuyên nhượng bộ cho những cám dỗ, những khuynh hướng xấu xa. Chúng ta vừa muốn phụng thờ Chúa, vừa muốn phụng thờ ma quỷ. Vừa muốn bước theo Chúa lại vừa muốn phạm tội.

Chúng ta giống như người tân tòng khi được ghìm xuống nước để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì ông cứ giơ một bàn tay lên cao. Vị linh mục bèn hỏi tại sao, thì ông trả lời:

- Con muốn tin theo Chúa thật đấy, nhưng lại muốn dành bàn tay này cho tội lỗi, để khi bàn tay này ăn trộm ăn cắp, gây gỗ đánh lộn thì nó không thuộc về Chúa.

Hãy có một thái độ và một lập trường dứt khoát. Hãy dâng hiến cho Chúa trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác bởi vì nếu chúng ta nói rằng mình yêu mến Chúa, mà còn giữ lại một xó góc con tim cho tội lỗi, dù là một xó góc nhỏ bé nhất, thì đó là một dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa.

21. Sức mạnh của phép Thánh Thể

Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan tên là Ma-ranh, xuất sắc, lừng danh, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng, chính ông cũng rất hy vọng như thế. Nhưng Ma-ranh là người Công giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin ơn trung thành với lời hứa ngày chịu phép Rửa tội.

Khi ấy, một trong các đại tướng Rôma chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền mời Ma-ranh đến vui vẻ nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không chịu để một người Công giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài nói cho biết ngài có phải là người Công giáo không?” Ma-ranh quả quyết: “Thưa, đúng thế, tôi là người Công giáo.” Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không ngài phải chết.” Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: “Này ông Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông.”

Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng nói: “Con thề trung thành với Chúa, con xin trung thành.” Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng.” Và ngày hôm đó, Ma-ranh đã đổ máu vì đức tin Công giáo.

Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Síp-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy.”

Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu? Nhờ rước Mình thánh Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau: “Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết.”

22. Chết cho thế gian để sống cho Chúa

Trong một xưởng thợ, người ta bàn tán và cho rằng tôn giáo, nhất là Thiên Chúa giáo làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải và làm sai lạc phán đoán.Một anh công nhân nghe thế bèn góp ý:

- Đúng thế, đạo Chúa và lời Ngài đã làm cho tôi mất đi tất cả.

Mọi người ngạc nhiên, sững sờ đưa mắt nhìn anh. Anh nói tiếp:

- Các bạn có biết không, tôi là người rượu chè be bét, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi chừa bỏ được rượu. Tôi là người thích cờ bạc, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi xa tránh được tật này. Xưa kia gia đình tôi luôn cãi vã xô xát nhau, nhưng đạo Chúa và lời Ngài, làm tôi mất đi cái địa ngục ấy và đem vào đó một bầu khí cảm thông và hạnh phúc. Và còn nhiều thứ khác nữa, đạo Chúa và lời Ngài đã làm mất đi nơi tôi và gia đình tôi. Các bạn hãy thực hành lời Ngài và sống đức tin của mình chắc chắn, các bạn sẽ không bao giờ phải hối hận đâu.

23. Tình yêu là chung thủy, chung thủy sinh bình an

Có một người chồng kia quá đau khổ và tuyệt vọng khi phát hiện người vợ thiếu lòng chung thủy. Anh định bơi thật xa ra biển và buông xuôi hai tay cho dòng nước cuốn trôi vào lòng biển cả, để rũ sạch nợ đời.

Nhưng khi tới bờ biển, anh bỗng nhìn thấy có cái gì lấp lánh trên mặt cát, dưới những cơn sóng dập vùi. Anh lượm nó lên và nhận ra đó là cái vỏ sò thật mỏng manh. Anh tự hỏi: “Giữa sóng gió dập dồn như thế, tại sao cái vỏ sò vẫn nguyên vẹn mà không vỡ vụn?” Anh suy nghĩ và hiểu ra: cái vỏ sò ở giữa sóng gió xô lấp, quay cuồng mà vẫn bình yên vì nó nằm tĩnh lặng ở đáy nước. Trong phong ba bão tố của gia đình, người ta cũng sẽ không bị tiêu diệt, khi tìm thấy chỗ ẩn nấp trong sự tĩnh lặng của tâm hồn. Anh tìm được bình an và trở về nhà, tha thứ cho vợ và hai vợ chồng lại sống hạnh phúc bên nhau.

24. Tưởng là thiên đàng

Có một thanh niên rất bảnh trai, sau khi chết được đưa đến một nơi có đủ mọi thú vui để hưởng thụ, một nơi cả đời anh hằng ao ước. Ở đó, anh lấy làm sung sướng vì được thoả chí toại lòng.

Thế nhưng cũng đến một ngày anh thấy chán ngán, cảm thấy cần phải làm một việc gì đó thay vì cứ ở không mà vui chơi hưởng thụ mãi. Anh yêu cầu với người gác cửa, và được nghe giải thích: “Xin lỗi bạn, ở đây bạn có thể thụ hưởng tất cả nhưng không phải làm gì hết, mà cũng chẳng có việc gì để làm, để phục vụ người khác đâu.”

Anh thanh niên tỏ ra bực bội: “Nếu vậy thì thà cho tôi xuống địa ngục còn hơn!” Nghe thế, người giữ cửa khoái trá bật cười ha hả: “Ôi chàng trai ngốc nghếch, thế bạn nghĩ bạn đang ở đâu nhỉ? Bạn tưởng bạn đang ở thiên đàng đấy à?”

Anh chàng giật mình tỉnh dậy, người đầm đìa mồ hôi…

Thật may! Đó chỉ là một giấc mơ.

25. Tận hiến mới hạnh phúc

ĐHY Cardjin, vị sáng lập phong trào Thanh lao công, đã kể rằng ngài sinh ra và lớn lên trong một gia đình rất nghèo. Năm 13 tuổi, vào một buổi tối, ngài rón rén xin cha cho ngài được tiếp tục đi học trong năm học tới. Người cha im lặng hồi lâu rồi trả lời: “Con ơi, ở tuổi con, ba đã phải đi làm rồi, nay thì ba đã già, sức đã cạn rồi, có lẽ con phải…”

Hiểu ý cha, nhưng ngài vẫn tiếp tục nài nỉ: “Ba ơi, con nghĩ là Chúa đã gọi con, con muốn trở thành linh mục!”

Vừa nghe biết ý định cậu con trai muốn đi tu, nước mắt người cha từ từ lăn dài trên đôi má gầy còm. Phải một lúc lâu sau đó, ông mới nghẹn ngào nói được: “Ba má đã hy sinh quá nhiều, nhưng để được một người con hiến dâng cho Chúa thì ba má sẽ lại tiếp tục hy sinh.”

26. Theo Chúa

Tôi nổi giận thì Thầy lại bảo: Hãy nhịn nhục và thứ tha.

Tôi run sợ thì Thầy lại bảo: Hãy can đảm.

Tôi hoài nghi thì Thầy lại bảo: Hãy tín thác.

Tôi bồn chồn không ngơi thì Thầy lại bảo: Hãy tĩnh lặng đi.

Tôi thích đi con đường riêng mình thì Thầy lại bảo: Hãy theo Ta.

Tôi muốn lập kế hoạch riêng cho mình thì Thầy lại bảo: Hãy quên đi.

Tôi nhắm tìm của cải vật chất thì Thầy lại bảo: Hãy bỏ lại đằng sau.

Tôi muốn được bảo đảm ở đời này thì Thầy bảo: Phần Ta, Ta chẳng hứa hẹn gì đâu.

Tôi thích sống cuộc đời riêng của mình thì Thầy bảo: Hãy từ bỏ chính mình đi.

Tôi nghĩ rằng mình tốt lành thì Thầy bảo: Tốt lành thôi thì chưa đủ đâu con.

Tôi thích làm ông chủ thì Thầy bảo: Hãy quỳ xuống mà phục vụ lẫn nhau.

Tôi muốn ra lệnh cho người khác thì Thầy bảo: Thôi, hãy vâng lời đi.

Tôi đi kiếm tìm tri thức thì Thầy bảo: Hãy tin.

Tôi thích sự rõ ràng thì

Thầy lại dạy tôi bằng ngụ ngôn.

Tôi thích thi ca mơ mộng thì

Thầy lại nói toàn chuyện hiện thực.

Tôi yêu sự yên tĩnh của mình thì

Thầy lại muốn tôi bị quấy rầy.

Tôi thích bạo lực thì Thầy lại bảo: Bình an ở cùng các con.

Tôi rút gươm ra thì Thầy bảo: Vứt nó ngay lập tức.

Tôi nghĩ chuyện trả thù thì Thầy bảo: Đưa má bên kia cho người ta đánh luôn đi con.

Tôi nói về một trật tự thì Thầy bảo: Ta đến đem gươm giáo.

Tôi căm ghét thì Thầy bảo: Thôi, hãy yêu thương cả kẻ thù nhé.

Tôi muốn gieo sự hòa hợp thì Thầy nói: Ta đem lửa xuống thế gian.

Tôi muốn làm người lớn thì Thầy nói: Hãy trở nên trẻ nhỏ.

Tôi muốn ẩn thân, Thầy bảo: Ánh sáng thì phải chiếu rọi.

Tôi đi tìm chỗ nhất trong hội đường,

Thầy lại bảo: Xuống chỗ chót hết mà ngồi.

Tôi thích được quan tâm,

Thầy nói: Đóng cửa lại mà cầu nguyện.

Không, tôi không thể hiểu nổi ông Thầy Giêsu này,

Ông khiêu khích tôi, ông làm tôi bối rối.

Cũng giống như nhiều học trò khác, tôi rất muốn đi theo Thầy Giêsu này,

Thế nhưng, khổ quá, chắc là phải đi tìm ông thầy khác thì sẽ khá hơn,

Ít đòi hỏi hơn và lại có nhiều quyền lợi hơn.

Nhưng cuối cùng, tôi đã cảm nhận như anh trưởng Phêrô đã thốt lên: "Tôi không biết ai khác lại có được Lời ban Sự Sống đời đời như Thầy Giêsu của tôi." Amen.

Khuyết danh,

27. Nhập vai

Bộ phim Lady sings the Blues mô tả câu chuyện cuộc đời ca sĩ Billie Holliday. Diana Ross dành nhiều tháng chuẩn bị cho vai Billie. Cô đọc rất nhiều tài liệu về cuộc đời của Billie và lắng nghe hàng giờ những bài hát của Billie. Diana nói: “Tôi đã hứa sẽ thực hiện tốt công việc. Tôi cố gắng hết sức để tìm hiểu về Billie.”

Lời hứa của Diana làm sống lại hình ảnh Billie trên màn ảnh là kiểu mẫu cho lời hứa của tôi làm cho Chúa Giêsu sống dậy trong thế giới này. Nó mời gọi tôi tự hỏi: Tôi có trung thành tin tưởng vào Chúa Giêsu như Diana đối với Billie hoặc như Nhóm Mười Hai đối với Chúa Giêsu không?

Đừng bao giờ bỏ đi lòng trung thành và tín nghĩa. Hãy mang nó bên mình và ghi khắc nó trong tim (Cn 3,3)

CNTN 21C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ HAI - KHỐN CHO CÁC NGƯƠI

Lời Chúa: Mt 23, 13-22

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa, để tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì không có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?

"Vậy ai lấy bàn thờ mà thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề, thì lấy cả đền thờ và Ðấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề, thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Ðấng ngự trên ngai toà ấy mà thề."

TRUYỆN KỂ

1. Khốn cho các ngươi

Khi nói khốn cho, Ngài không có ý nguyền rủa hay kết án ai, cho bằng nói lên sự đau xót, thậm chí giận dữ đến độ trách phạt.

“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! khốn cho ngươi, hỡi Bétsaiđa!” Đức Giêsu đã nói như thế với các thành phố từ chối Ngài (Mt 11, 21).

“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người, thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26, 24). Đây không phải là một lời chúc dữ cho Giuđa, hay kết án anh phải đời đời hư mất. Đúng hơn đây diễn tả một tiếc nuối xót xa về tội của người môn đệ.

Vào thời thánh Mátthêu viết sách Tin Mừng, từ sau năm 70, có một sự xung đột nghiêm trọng giữa các Kitô hữu gốc Do Thái với những nhà lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ.

Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh sự căng thẳng đó. Các vị kinh sư và những người pharisêu đầy quyền lực không muốn đồng bào của mình tin vào một ông Giêsu bị đóng đinh. Ai tin sẽ bị trục xuất khỏi hội đường (x. Ga 9, 22). Như thế họ đã khóa cửa Nước Trời để chẳng ai vào được, kể cả họ (c. 13).

Các vị kinh sư và nhóm Pharisêu hăng say trong việc truyền giáo. Họ muốn làm cho dân ngoại trở thành Dân Chúa. Tiếc thay, sau khi đã vào đạo rồi, những người tân tòng này có thể trở nên cứng nhắc vì nệ luật, và rơi vào thói giả hình.

Họ “trở thành con cái của hỏa ngục gấp đôi các ông” (c. 15). Đức Giêsu cũng tố cáo sự phân biệt quá chi li về giá trị những lời thề. Đối với Ngài, thề nhân danh Đền thờ hay vàng trong Đền thờ, nhân danh bàn thờ hay lễ vật trên bàn thờ (cc. 16-20), thì cũng chẳng khác gì thề nhân danh chính Thiên Chúa (cc. 21-22).

Tất cả lời thề đều phải được giữ như nhau, đều ràng buộc như nhau. Những lời tố giác của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo vẫn đặt câu hỏi cho chúng ta thời nay. Làm sao để tôn giáo mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa, chứ không khép lại hay gây cản trở? Làm sao để người tân tòng thực sự trở thành con cái Nước Trời? Làm sao để chúng ta khỏi sa vào những chi li thái quá của luật lệ?

2. Lắng Nghe Tiếng Nói Của Lương Tri

Những lời "khốn cho các ngươi" được lập lại nhiều lần tương ứng với những điều chướng tai gai mắt cũng là những tội của các kinh sư và biệt phái. Họ đã cố tình làm những điều phi lý, khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào, nuốt hết tài sản của các bà góa, rảo khắp các biển cả đất liền rủ cho được một người theo đạo, nhưng khi họ theo rồi thì lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục hơn. Chúa Giêsu đã gọi các kinh sư và biệt phái là những người sống mù quáng. Ðiều đáng nói ở đây là các kinh sư và biệt phái cố tình chia lìa trong lỗi lầm của mình, họ thích danh vọng và chạy theo những bả vinh hoa, vì vậy họ cố gắng tìm mọi cách để đạt đến nó bằng bất cứ cách nào. Có thể nói đây là những người chủ trương lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Cứu cánh của họ đã không công minh, chính trực và phương tiện lại còn đê hèn hơn, nên họ đã lợi dụng những dân đen, là những người thấp cổ bé họng, không có khả năng tự bảo vệ mình.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói của lương tri, là lời của Chúa muốn dạy chúng ta cách cụ thể trong từng trường hợp của đời sống ta.

3. Lời rao giảng phải đi đôi với hành động

Mahatma Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, ông đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân.

Lúc còn là sinh viên, ông say mê đọc Kinh Thánh và có ý định gia nhập đạo Công Giáo vì ông thấy giáo lý của Đức Giêsu về “đạo yêu thương” quá tuyệt vời! Nhưng vào một lần, ông đi đến nhà thờ của người da trắng để dự lễ, ngay lập tức, ông bị ngăn lại và được mời đến nhà thờ của người da đen, vì nơi đây không phải là nhà thờ của người da đen. Mahatma Gandhi ra về trong thất vọng. Kể từ đó, ông không bao giờ đến nhà thờ và quyết liệt từ bỏ ý định trở thành người Công Giáo vì hành động phản yêu thương của những người da trắng.

4. Giải thích lề luật theo ý mình

Ta có thể nhận thấy Chúa Giêsu lên án 5 cung cách đạo đức giả nơi người luật sĩ như sau: một là không muốn ai tiếp cận chân lý (c.13); hai là biến các tân tòng thành con cái hỏa ngục, qui về mình hơn là về Chúa (c.15); ba là an tâm tự tại với một số đồ dâng cúng mà bỏ qua những điều cần phải tuân giữ cho đẹp lòng Chúa (cc 16-19); bốn là nộp mọi thứ thuế, nhưng lại bỏ qua những điều quan trọng hơn là công lý, lòng nhân lành và thành tín (cc.23-24); năm là chú trọng nghi thức thanh tẩy bên ngoài, mà bên trong đầy chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ (cc.25-26).

Sở dĩ các luật sĩ có những cung cách đạo đức giả đáng ghét này vì họ muốn trục lợi vật chất, thích phô trương thanh thế, tôn thờ mình thay vì thật sự thờ phượng Chúa. Họ biết thế, nhưng họ không muốn làm theo điều mình lẽ ra phải làm, mà vẫn khư khư ôm chặt cái lợi về mình nên bị Chúa quở trách là giả hình, giả hiệu.

5. Nhà tu hành bất đắc dĩ.

Trong kho tàng truyện cổ của Ấn độ, có câu chuyện này: Một nhà phú hộ kia có một hồ cá rất lớn. Ông cho thả rất nhiều cá ở đó. Một đêm kia có một tên ngư phủ nghèo lén vào trong hồ cá của ông để thả lưới tính bắt trộm cá. Thế nhưng, chưa kịp kéo lưới thì người giầu đã phát hiện ra có người đang tính bắt trộm cá của ông. Ông cho gia nhân của ông bổ đi khắp nơi, quanh cái hồ mênh mông của mình để tìm cho bằng được tên trộm.

Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả.

Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó, y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.

Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm đâu mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình suy tư và cầu nguyện.

Chỉ một ngày hôm sau, tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng, có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.

Thế là thiện nam tín nữ từ các ngả đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp đổ tràn lan chung quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.

Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.

Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây cũng có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng tự sơn vẽ cho mình một chiếc áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình.

6. Mẹ cũng hư

Sau khi li hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ

- Sao mẹ đuổi bố?

- Tại bố hư.

Để nó khỏi vặn vẹo lôi thôi, người mẹ mua cho nó cái bánh. Thằng anh từ đâu phóng tới bẻ của em một miếng bánh bỏ ngay vào mồm. Con bé khóc thét bắt đền. Người mẹ dỗ:

- Anh con hư quá. Nhưng thôi nín đi con, bỏ qua cho anh một lần đi.

Đứa bé phụng phịu:

- Thế mẹ có bỏ qua cho bố đâu?

Người mẹ nhìn xa xăm:

- … Ừ, mẹ cũng hư…

7. Chọn lựa của Đức Cha hồi nhỏ

Đức cố Giám mục Bartholomeo Nguyễn Sơn Lâm thú nhận: Khi tôi còn là cậu giúp lễ trong nhà xứ, vì tuổi trẻ ham chơi hơn thích học, nhiều lần bị cha Sở mắng và đánh đòn chí tử, nhưng đâu rồi cũng vào đó!

 Lần kia, đến giờ cơm, cha Sở dắt tôi vào một căn phòng, giữa phòng có một bát phân, một bát cơm, ngài nghiêm giọng nói: “Chọn bát nào ăn, tùy con!” Rồi ngài bỏ tôi đó và đóng cửa phòng lại. Tôi quá nhục nên từ đó tôi đã cố gắng học. Thời gian sau ngài gởi tôi vào Chủng Viện và Chúa đã thương nâng tôi lên và cho tôi được tham dự vào hàng tư tế hơn lòng tôi mong ước!

8. Biến niềm tin thành hành động

George Smith, 17 tuổi, tình nguyện làm huấn luyện viên và gia sư ở một trung tâm trẻ tại Detroit. Đôi khi anh luyện một số bài tập để cho các học sinh thấy bài tập quan trọng thế nào trong việc học. Một trong những đứa trẻ nói về George như sau: “Anh ấy là một giáo viên, và có lẽ còn hơn thế nữa, vì anh ấy rất dễ gần gũi.”

Tôi biến niềm tin thành hành động như thế nào? Người cùng làm việc với tôi có thể nói về tôi như đứa trẻ nói về George không?

Tôi mong một ngày mà tình anh em không cần được danh dự trước công chúng… (Daniel D.Mich)

9. Đời sống kết hợp với Chúa

Alexis Carrel là một bác sĩ người Pháp đã làm việc nhiều ở Mỹ, và đã đoạt giải Nobel vì những đóng góp cho ngành y khoa. Sau một thời gian ở trong tình trạng hoài nghi tôn giáo, Carrel đã có một biến chuyển sâu sắc. Ông trở nên một con người cầu nguyện. Ông nói: “Rất nhiều người xem cầu nguyện như một nơi ẩn náu cho kẻ yếu đuối hoặc như một lời thỉnh cầu cho những nhu cầu vật chất tầm thường. Nhưng hiểu một cách chính xác thì cầu nguyện là một hoạt động trưởng thành không thể thiếu cho sự phát triển hoàn toàn nhân cách.”

Bằng cách nào tôi thấy lời cầu nguyện tác động đến sự phát triển nhân cách của tôi?

Khi cầu nguyện, chúng ta liên kết với nguồn năng lực vô tận vận hành vũ trụ này. Chúng ta xin được chia một phần năng lực này theo nhu cầu của chúng ta. (Alexix Carrel)

10. Luật của tình yêu

Chúa Giêsu có một sức mãnh liệt riêng như chúng ta có thể thấy trong bài đọc hôm nay. Một số nhà lãnh đạo Do Thái đã biến tôn giáo thành những luật lệ nghiêm nhặt. Tệ hơn nữa, họ còn buộc nó vào cổ những con người đơn sơ, thất học. Chúa Giêsu lên án những nhà lãnh đạo này. Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ, cũng không phải là sáng kiến của một Thiên Chúa độc ác. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.

Thánh Augustinô nói: “Hãy yêu mến Thiên Chúa và làm điều bạn muốn.” Thánh nhân muốn nói lên điều gì quan trọng?

Khi tôi chết, Thiên Chúa không cân đo dầu óc tôi để xem tôi thông minh thế nào. Nhưng Ngài sẽ cân đo trái tim tôi để xem tôi yêu thương ra sao?

11. Lời nói và việc làm

Nước Trời chỉ dành cho những người biết kết hợp giữa lời nói và việc làm: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

Thánh nữ Mônica là người biết kết hợp giữa lời nói và việc làm. Thánh nữ đã hy sinh cầu nguyện đêm ngày cho con mình là Âu-tinh bỏ đường lầm lạc trở về với Chúa và trở thành vị thánh lớn của giáo hội. Bạn cũng được mời gọi sống chứng nhân bằng những việc làm cụ thể giúp đỡ người khác, chứ không chỉ dừng lại ở việc đọc kinh đi lễ. Bạn góp phần thăng tiến gia đình, hội đoàn, những người nghèo khổ…, dẫn đưa họ đến với Chúa là nguồn hạnh phúc thật.

 “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,18).

THỨ BA -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ TƯ - MỒ MẢ TÔ VÔI

Lời Chúa: Mt 23, 27-32

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác.

Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính, và các ngươi nói rằng: "Nếu chúng tôi sống thời cha ông chúng tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu các tiên tri." Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi."

TRUYỆN KỂ

1. Có vẻ công chính

Ở xứ Paléttin, các ngôi mộ thường được quét vôi màu trắng, để người Do-thái dễ nhận ra và tránh xa. Đặc biệt trước lễ Vượt qua, mộ được quét vôi lại, vì có đông đảo khách hành hương tuốn về quê dự lễ.

Ai bất cẩn đụng vào mộ là bị trở nên ô uế trong bảy ngày (Ds 19, 16). Đối với người Do-thái, ngôi mộ là điều nên tránh, vì bên trong đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô nhơ (c. 27), tuy bên ngoài có vẻ sạch sẽ tốt đẹp.

2. Đừng giả dối

Tại các khu đô thị lớn, chúng ta vẫn thấy có những nghĩa trang nằm ngay tại những trung tâm của các thành phố. Những nhà hữu trách đã tìm mọi cách, dù tốn công, tốn của để quy hoạch và biến nó thành công viên nghĩa trang, trông rất tráng lệ!

Những mồ mả ở đây được thiết kế nhiều mẫu khác nhau, trông thật bắt mắt. Đến nỗi người dân trung quanh có thể vào đó để đi dạo.

Việc làm đẹp những ngôi mộ cho người quá cố quả là điều đáng trân quý. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là: bên trong các ngôi mộ đó, dù là của người nghèo hay giàu; có chức quyền hay là thường dân; trẻ em hay người già, tất cả đều chỉ là một nắm xương ghê rợn mà thôi!

Trong đời sống đạo hiện nay, cũng có nhiều khi chúng ta tìm mọi cách để che đậy những chuyện xấu xa, khuyết điểm, lỗi lầm để tự cho mình là người đạo đức hơn người. Điều khó hiểu là chúng ta an tâm để sẵn sàng lên án kẻ khác vì những thiếu xót của họ mà không hề suy nghĩ hay áy náy gì đến lỗi lầm của mình! Hơn nữa, nhiều khi quá giỏi che đậy, nên không ai biết đến những khuyết điểm của mình, vì vậy, chúng ta lại an tâm và “bình chân như vại” để tiếp tục lún sâu vào con đường tội lỗi tiếp theo.

Nhưng xin nhớ rằng: chúng ta có thể che giấu bằng những biện pháp tinh vi, xảo quyệt để che mắt người đời, nhưng với Chúa, Ngài biết hết và biết rõ ràng từng lỗi lầm của chúng ta.

3. Đạo đức giả hình

Ngày xưa, ở Hàng Châu, có một người đi buôn cam. Anh ta khéo để dành cam lâu ngày mà không ủng. Lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng, trông tốt đẹp như vàng ngọc. Đem ra chợ bán, thiên hạ tranh nhau mua. Ai thấy cam như vậy mà chẳng thèm? Lưu Cơ cũng tới mua một quả. Đem về nhà bóc ra, thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Ông liền ra chợ lại, tìm gặp người bán cam trách móc: “Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi tân khách, hay là chỉ để làm cho choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ? Tệ thật! Anh giả dối lắm."

Người buôn cam mỉm cười nói: “Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì người ta mua. Chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng phải riêng gì một mình tôi. Ông thật không nghĩ cho đến nơi. Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng, trông ra dáng quan lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Ngô Khởi, Tô Tẫn không? Người đội mũ cao, đóng đai dài, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có được giỏi như Cao Dao, Y Doãn không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu. Quan lại tham nhũng không biết trừng trị. Pháp độ hỏng không biết sửa đổi. Ngồi không ăn lương, chẳng biết xấu hổ… Thế mà lúc ra ngoài công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của lạ, oai vệ, hách dịch vô cùng!

Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng ngọc, mà bề trong lại chẳng hôi thối, và xác xơ, như bông nát là gì? Sao ông không chịu xét những hạng người như thế, mà lại đi xét quả cam của tôi?”

4. Gương sống đạo thực sự

Giữa khu rừng âm u có tu sĩ nổi tiếng thánh thiện và có nhân đức hiền lành, dịu dàng lạ lùng. Một người ngạo ngược nghe nói tu sĩ hiền lành lạ lùng như vậy, y không tin và nói: tất cả những cái đó chỉ là giả tạo và tôi sẽ làm cho cái màn giả hình đó phải rơi xuống.

Hôm sau, từ sáng sớm tinh sương, y đã lên đường đến chỗ ẩn sĩ ở. Nhà tu hành có nuôi một con chó, để ban đêm nếu có thú vật nào đến để phá hoại rau cỏ thì nó sủa đánh thức chủ dậy. Hôm đó khi thấy người lạ đến, con chó con chạy ra sủa. Ẩn sĩ ở trong nhà bước ra chào và đón tiếp vị khách lạ. Nhưng như để chọc giận thánh nhân, người hung ngược kia nắm ngay lấy con chó mà quật chết. Thấy vậy, ẩn sĩ quỳ xuống dưới chân kẻ bạo tàn và nói:

- Bạn ơi, chính tôi đã nuôi con chó này, và tôi rất tiếc vì nó đã làm cho bạn nổi giận.

Tức bực vì chưa đạt được tới mục đích của mình, kẻ bạo ngược trong thấy trong vườn có những cây rau và hoa đẹp chính tay ẩn sĩ đã trồng, lại xông vào đập phá và quăng vất lung tung, nhưng ẩn sĩ vẫn thản nhiên nhìn xem và không hề tỏ dấu gì tức giận.

Thấy vẫn chưa được việc gì, y càng điên tiết, trèo lên nóc nhà, dỡ mái quăng rui mè và xô đổ cả tường vách, mãi cho đến khi mỏi tay mới thôi. Song nhà tu hành vẫn bình tĩnh và đưa con mắt yêu thương nhìn y. Thấy y mệt nhọc, mồ hôi nhễ nhai, đoán rằng, y cần phải uống nước, tu sĩ xách lọ đi ra giếng, múc nước mát về mời y uống.

Trước cử chỉ thánh thiện và nét mặt điềm đạm lạ thường ấy, chàng hung bạo mà trái tim mãi đến nay vẫn trơ như đá, bắt đầu cảm thấy hổ thẹn và hối tiếc. Y rất cảm phục nhân đức của người tu hành và đến xin lỗi:

- Thưa cha, xin cha tha thứ cho những việc điên rồ con vừa mới làm, bây giờ con nhìn thấy có Chúa ở trong cha, và con đây thật là một đứa con tội lỗi và bạo ngược. Cha đã lấy sự lành mà báo sự dữ: chỉ có Chúa mới khiến được lòng người ta ra như thế mà thôi.

Từ đó, kẻ vô nhân đạo kia bắt đầu cải tà qui chính, rồi xin ở lại làm đầy tớ nhà tu hành để được sống gần tu sĩ, cũng như để bắt chước nhân đức của ngài.

5. Bí quyết để được yêu mến, tín nhiệm

Một bà già tốt lành, hơn 40 năm sinh sống bằng nghề giặt ủi tầm thường, nhưng lại được mọi người quí mến, tín nhiệm. Khi được hỏi bí quyết, bà đáp: “Tôi có một qui luật sống là không mách lẻo chuyện nhà này cho nhà khác nghe." (Góp nhặt)

Mỗi người đều mang hai túi: một ở trước ngực và một ở sau lưng, và cả hai nhét đầy lầm lỗi.

Tuy nhiên, túi trước đựng lỗi của người hàng xóm và túi sau đựng lỗi của mình. Vì thế, người ta thường mù quáng với khuyết điểm của mình và luôn sáng mắt với khuyết điểm của anh em.

6. Ảo tưởng về mình

Văn sĩ Pháp Alexandre Piront qua đời năm 1773 thường có thói quen đi dạo trong khu vườn Boulogne, giữa thủ đô Paris. Một ngày nọ, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá tựa vào một bức tường. Chỉ một lát sau, ông ngạc nhiên vô cùng, vì ông thấy trong đám đông những người đi dạo, có một vài người đi đến gần ông ngả nón chào. Cũng có một vài người còn bái cả gối nữa. Nhà văn đã mỉm cười đáp lại những cảm tình khách qua đường dành cho ông. Ông không ngờ là ông được nhiều người mộ mến như thế. Ông mong sao có một số bạn bè trong văn đàn chứng kiến được cảnh tượng này, để thấy vinh quang mà ông đã đạt được.

Nhà văn đang say sưa với bả vinh hoa, thì chợt trong đám người bái chào đó, có một bà lão để lộ thái độ khác thường. Cũng giống như mọi người, bà lão này cúi đầu chào rồi tiến tới gần ghế đá, bà thầm thì nói những gì trong miệng mà nhà văn không hiểu được, rồi ngước mắt nhìn lên cao. Ngạc nhiên trước cử chỉ khác thường của bà lão, nhà văn cũng đưa mắt nhìn lên phía trên bức tường. Lúc bấy giờ ông mới khám phá ra rằng: trên đầu ông có một tượng Thánh Giá. Thì ra những người đi dạo khi đi đến đó đã dừng lại không phải để tỏ lòng mộ mến đối với ông, mà chính là tỏ lòng cung kính đối với Chúa Giêsu trên Thập Giá. Hổ thẹn vì khám phá này, Alexandre Piront đứng dậy bỏ đi nơi khác.

7. Biệt phái Phaolô

Ông Phaolô cũng là một Biệt phái trong giới bị Đức Giêsu chúc dữ lối sống đạo giả hình. Nhất là giả hình trước mặt Đức Giêsu là kẻ làm việc đạo đức, mà không cần phải tin và kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, nhưng khi Phaolô thuộc về Chúa Giêsu, hoạt động của ông đã bắt chước Ngài: với 33 năm tuổi đời, Ngài dành 30 năm lao động tay chân trong xưởng mộc tại Nazareth. Vào tuổi 30 Ngài dốc hết năng lực vào việc rao giảng Tin Mừng, vì thế mà Ngài phải mất mạng sống! Quả thật, ông Phaolô đã thể hiện đời sống lao động bằng tay chân, song song nhiệt tình loan báo Tin Mừng, như thư ông viết gởi giáo đoàn Thessalonica: “Hẳn anh em còn nhớ nỗi khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em. Chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con. Vì khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu” (1Tx 2,9-13: Bài đọc năm lẻ).

Sống như ông Phaolô mới được Chúa cho tâm hồn thanh thỏa, mà cất tiếng cầu nguyện: “Lạy Chúa, Ngài đã dò xét con và Ngài biết rõ” (Tv 139/138,1: ĐC năm lẻ). Và trong thư thứ hai, ông viết nhằm khuyên giáo đoàn Thessalonica: “Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền cho anh em phải xa lánh mọi người anh em sống vô kỷ luật. Chính anh em thừa biết là anh em phải bắt chước chúng tôi thế nào. Khi ở giữa anh em, chúng tôi đã không sống vô kỷ luật. Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em.Thật vậy, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn!

8. Thói giả dối

Luôn xa tránh thói gian tà, Quyết sống thật thà, nên thánh từ nay.

Giả nhân, giả nghĩa, giả danh

Giả tình, giả bạn, giả hình khắp nơi

Đời bao thứ giả, Chúa ơi !

Khó mà phân biệt rạch ròi thực - hư

Đã đành đời giả sớm khuya

Đạo mà cũng có người ưa giả hình

Lạy Thiên Chúa, Đấng công bình !

Xin thương xét xử phân minh mọi điều

Giêsu, lạy Chúa, đến mau

Loại quân "gian trá", triệt tiêu lũ tồi

Xin thương hoán cải lòng người

Biết luôn hoàn thiện như lời Giêsu

Luôn xa tránh thói gian tà

Quyết sống thật thà, nên thánh từ nay

Lạy Chúa Giêsu

Chúa là nguồn mạch chân thật và thiện hảo. Xin thanh luyện lòng trí chúng con nên trong sạch và ngay chính, để cuộc sống chúng con là một chừng từ sống động giúp người khác nhân biết Chúa. Tạ ơn Chúa – Amen

9. Lời sự thật

Richard Wurnbrand bị cầm tù 14 năm. Ông hồi tưởng lại lúc một tù nhân tên là Avram đến. Anh ta bị thương và phần cơ thể anh ta đều dính bùn. Khi viên cai ngục đi khỏi, Avram sờ dưới lớp bùn lấy ra một cuốn sách nhỏ và bắt đầu đọc. Chẳng bao lâu, anh ta nhận ra những tù nhân khác luôn để ý quan sát, nhưng họ không thấy cuốn sách. Thì ra đó là cuốn Kinh Thánh nhỏ Avram cố ý giấu nó dưới lớp bùn trên phần thân thể lúc anh bị bắt. Từ ngày đó, cuốn sách quí báu này được chuyền tay nhiều người. Các tù nhân học thuộc lòng và thảo luận với nhau mỗi ngày.

Việc suy gẫm hằng ngày có tác động gì đến việc quí trọng Kinh Thánh nơi tôi?

Kinh Thánh không chỉ là một quyển sách, nó là một sức mạnh sống động. (Napoleon Bonnaparte)

10. Giá trị trong đời thường

Nhà truyền giáo Robert Cahill viết về người dân Banladesh: “Những người này khao khát công việc… Mojibur, một thanh niên trẻ mà khát vọng duy nhất trong đời anh là có thể chu cấp cho người mẹ góa và bốn đứa em. Anh đã làm công việc hằng tuần là chuyển những thúng đất trên đầu dưới ánh mặt trời gay gắt với số lương 65 xu mỗi ngày. Dù chỉ là công việc tạm thời, nhưng nó cũng đem lại phấn khởi và khích lệ gia đình anh ta…”

Tôi có thái độ gì đối với công việc? Đâu là mối liên hệ giữa công việc và ơn gọi kitô hữu của tôi?

Tôi lớn lên như môn đệ của khoa học…

Bây giờ tôi đã sống và nghiệm được thành quả của chủ nghĩa duy vật khoa học.

Tôi đã thấy sự ra đi của giới thợ thuyền và sự xuống cấp về phẩm hạnh của con người như là kết quả của quá trình phân công lao động. (Charles Lindbergh)

11. Cố gắng gây ấn tượng

Người Do Thái thời xưa chôn người chết trong những nấm mồ trên mặt đất. Những nấm mồ này bên ngoài được tô vôi rất đẹp, nhưng bên trong lại đầy thịt thối rữa, Chúa Giêsu dung hình ảnh này để cho thấy bức tranh về các kinh sư và người biệt phái. Bên ngoài xem ra họ tốt lành, thánh thiện nhưng thực ra, bên trong, họ chẳng tốt lành cũng chẳng thánh thiện gì.

Đâu là hành động bên ngoài không phản ánh niềm tin bên trong của tôi? Khi nào thì điều này trở nên tồi tệ?

Khi ta cố gắng gây ấn tượng thì đó chính là ấn tượng ta gây nên.

12. Trau chuốt bên trong

Nhờ sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ làm hàng giả hàng nhái ngày càng tinh vi. Chưa bao giờ người tiêu dùng nơm nớp lo sợ vì mua phải hàng dỏm như hiện nay: nhìn bên ngoài thì giống hệt như hàng thật, hàng chính hãng, nhưng mua về xài chưa được mấy bữa thì đã rơi vào cảnh ‘bỏ thì thương, vương thì tội’. Tình trạng đó cũng song hành trong đời sống đạo. Một khi chuộng cái mã bên ngoài hơn là trau chuốt nét đẹp bên trong, người ta sẽ tạo cho mình một vỏ bọc đạo đức và tự hài lòng về vỏ bọc ấy. Lúc đó, “chất” Tin Mừng chỉ đọng lại ở những việc đạo đức hình thức chứ không thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống. Như thế phải chăng tình trạng giả dối trong xã hội vừa nói trên đây không phải là hậu quả tất yếu của sự giả dối trong đời sống tâm linh, đời sống đức tin hay sao?

Chúng ta thường chuẩn bị một bộ cánh tươm tất cho những ngày đại lễ: quần áo, giầy dép! Và cả những nghi lễ hoành tráng! Nhưng kết quả sau đó là gì? Cuộc sống chẳng khá hơn, con người vẫn cứ cũ mèm! Mời bạn đổi mới con người cũ bằng cách loại bỏ tính hư tật xấu là những thứ “ô uế” bên trong, và “chuốt” lại tâm hồn mình bằng một cuộc sống thánh thiện thực sự.

Chọn một nhân đức của vị thánh mình yêu thích để bắt chước.

13. Điều Chúa coi trọng

Người ta vẫn thường nhắc nhở: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” nhưng chúng ta vẫn bị quyến rũ mạnh mẽ bởi cái dáng vẻ bên ngoài. Chính vì thế trước những chiêu quảng cáo tinh vi, các khách hàng là “thượng đế” dễ dàng mềm lòng tưởng rằng chất lượng sản phẩm tất nhiên đi đôi với mẫu mã đẹp hoặc tin như đinh đóng cột rằng khi dùng những sản phẩm này hoặc dịch vụ nọ mình sẽ đẹp hơn, thông minh hơn, “đẳng cấp” hơn… Tình trạng “mập mờ đánh lận con đen” ấy càng dễ xảy ra trong đời sống tâm linh: Có biết bao người “ngoài miệng thì niệm nam mô, trong lòng thì chứa một bồ dao găm” và Thánh Vịnh cũng điểm mặt: “Miệng thì chúc phúc cầu an, mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời” (Tv 62,5b). Chúa khiển trách họ nặng nề và gọi họ là những “nấm mồ tô vôi” bên ngoài đẹp đẽ mà trong thì đủ mọi thứ ô uế.

Liệu Chúa Giêsu có đang nhìn bạn và nói: “ngươi cũng giống như một nấm mồ tô vôi” không? Bạn hãy xét lại những công việc đạo đức, từ thiện của bạn có đang thiếu sức sống vì chỉ mang tính hình thức mà không có tấm lòng không?

Các hoạt động trong giáo xứ bạn có chú ý đến chiều sâu cầu nguyện, lòng bác ái hay chỉ có hình thức hoành tráng bên ngoài?

THỨ NĂM - TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG

Lời Chúa: Mt 24, 42-51

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.

"Vậy các con nghĩ ai là đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ? Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ nó đến thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người ấy lên coi sóc tất cả gia sản ông. Nhưng nếu đầy tớ ấy xấu, nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", rồi nó đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa: chủ đầy tớ ấy trở về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ xé xác nó ra, và cho nó chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng."

TRUYỆN KỂ

1. Hãy sẵn sàng

Châm ngôn của hướng đạo sinh là Sắp Sẵn, nghĩa là hãy sẵn sàng. Không rõ ông tổ của phong trào hướng đạo có được gợi hứng từ bài Tin Mừng hôm nay không.

Nhưng hãy sẵn sàng đúng là châm ngôn của mọi Kitô hữu, từ những Kitô hữu sống ở thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ 21 và cho đến tận thế.

Hãy sẵn sàng vì từng Kitô hữu cũng như cả Kitô giáo vẫn luôn ở trạng thái chờ Chúa Kitô trở lại.

2. Giờ chết bất ngờ

Thánh Tôma More có người bạn sang trọng nhưng đạo đức lơ là. Ngài khuyên ông ta ăn năn trở về với Chúa nhưng ông cứ nói: “Khi sắp chết, tôi sẽ nói: “Lạy Chúa, xin tha cho con và tôi sẽ được tha thứ."

Ngày kia, khi hai người đang cưỡi hai con ngựa đi ngang qua cầu Luân Đôn, thánh Tôma More thấy con ngựa của ông bạn hất ông ta vào thành cầu, làm cho đầu ông bị dập, lúc đó, thánh Tôma More nghe ông bạn thốt ra lời: “Đồ quỷ!”, và chết tươi ngay.

Cái chết thường xảy đến rất thình lình. Ta không kịp sửa soạn gì đâu. Và nếu ai đã được sửa soạn, thì đó là một ơn Chúa ban rất quý!

3. Tỉnh thức

Những tai hoạ xảy ra liên tiếp gần đây khiến người ta phải bàng hoàng bởi sự tàn khốc và bất ngờ. Trận lũ lụt và sạt lở đất vào ngày 8/7/2020 tại miền tây Nhật Bản làm hơn 200 người chết, hay sự cố vỡ đập thuỷ điện Attapeu ở Lào vào ngày 23/7/2018, với hơn 5 tỷ mét khối nước nhấn chìm hạ lưu Sanamsay làm hàng trăm người chết và mất tích, hàng ngàn người lâm cảnh màn trời chiếu đất.

Những biến cố này khiến chúng ta liên tưởng đến câu chuyện nạn lụt đại hồng thuỷ trong Kinh thánh. Đó là lời nhắc nhở về ngày Chúa đến lúc bất ngờ, và mỗi người phải luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng, để chờ đón như người đầy tớ thức tỉnh làm việc và đợi chủ về. Tỉnh thức là luôn sống trong ân sủng, tránh xa những đam mê tội lỗi, luôn tìm kiếm và thực thi ý Chúa trên cuộc đời mình

4. Đừng ảo tưởng mình còn sống lâu

Có một câu chuyện ngụ ngôn về ba con quỷ học việc, chúng đến trần gian để tập sự. Chúng trình bày với Satan là tướng quỷ về những kế hoạch cám dỗ loài người.

Tên quỷ thứ nhất nói: “Tôi sẽ bảo với loài người là không có Thiên Chúa." Satan nói: “Mày sẽ thất bại, vì càng ngày người ta càng tin có Thiên Chúa."

Tên quỷ thứ hai nói: “Tôi sẽ bảo với họ là không có địa ngục." Satan bảo: “Mày sẽ không lừa dối ai được bằng cách đó, vì loài người vẫn biết có một địa ngục dành cho tội nhân."

Tên quỷ thứ ba nói: “Tôi sẽ bảo với loài người đừng có vội vã làm gì, còn nhiều thời giờ, cứ vui chơi cho thoải mái đi." Satan nói: “Hay, hay lắm, mày sẽ làm hại được vô số người bằng cách đó."

Đúng vậy, ảo tưởng nguy hiểm nhất là ảo tưởng mình còn nhiều thời giờ.

5. Tội tắc trách

Một ngôi trường bị nổ. Cả trăm học sinh và giáo viên thiệt mạng. Nhiều gia đình chết 2 hay 3 em. Chính quyền địa phương bí mật sai người đến điều tra nguyên nhân vụ nổ. Trong một cuộc dò hỏi, vợ một công nhân xây dựng ngôi trường đó nói: trước khi thảm kịch xảy ra, chồng bà đã biết là việc xây đường ống dẫn khí đốt ở đó có vấn đề.

- Cái gì? Chồng bà biết rõ việc đặt đường ống dẫn khí có vấn đề?

- Đúng vậy.

- Thế chồng bà có báo cho ai biết việc đó không?

- Không.

- Vậy chồng bà phải chịu trách nhiệm về sự cố đó, chồng bà cũng là một tội phạm.

6. Lầm tưởng là an toàn

Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi được đưa đi thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên ông đã giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Người ta cho anh biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hoả hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Chẳng bao lâu cuộc hoả hoạn được dập tắt. Trở về làng, ông đã báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: người thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu: khi có hoả hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hoả hoạn xảy đến trong làng, mọi người đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa vô tình cứ thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng thất vọng của mọi người.

Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại, một người dân thành thị giải thích: Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt ngọn lửa ư? Không phải thế. Người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.

Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi.

7. Sống cho ai?

Vua Henry thứ 4 của nước Pháp âm thầm đi dạo trong viện bảo tàng Louvre. Nhà vua bắt chuyện với một thanh niên, trông bộ điệu của anh ta giống như một người giúp việc cho một vương công quyền thế nào đó. Nhà vua hỏi:

- Anh đang giúp việc cho ai thế?

Không biết người hỏi mình là vua, nên người thanh niên đã ngẩng mặt kiêu hãnh đáp:

- Tôi sinh ra không thể phục vụ cho bất cứ người nào, nhưng cho chính bản thân tôi.

Nhà vua tiếp lời:

- Nếu vậy, chắc chắn anh đang phục vụ một người ngu xuẩn.

Bất bình, người thanh niên toan kiếm chuyện gây sự, nhưng anh đã nhận ra người đối diện mình chính là vua Henry. Kinh ngạc, sửng sờ khiến anh đứng trơ như bức tượng. Không để người thanh niên phản ứng, nhà vua vỗ vai anh vừa quay gót vừa nói:

- Nếu anh đảo ngược câu nói đó lại sẽ tốt hơn: “Tôi sinh ra không để phục vụ cho chính bản thân tôi, nhưng để cho bất cứ người nào."

Lời Chúa hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta điều chỉnh lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta. Đâu là suy nghĩ, thái độ của chúng ta đối với của cải, quyền bính và danh vọng? Đâu là niềm vui đích thực trong cuộc sống mỗi ngày.

8. Con tiếp tục đá banh

Cậu bé Gioan Beckman đang đá banh với các bạn, cha Bề trên gọi đội banh lại và hỏi:

- Nếu chỉ một giờ nữa tận thế đến, chúng con phải làm gì?

Cả đội banh nhao nhao:

- Con về xin lỗi mẹ, vì hôm nay con đi đá banh mà chưa thuộc bài Giáo Lý trong tuần.

- Xin cha ngồi tòa giải tội cho con, vì con đã bỏ Xưng Tội Rước Lễ hai năm.

- Con vào Nhà Thờ quỳ trước Mình Thánh Chúa cầu nguyện.….

Chỉ có cậu Gioan Beckman thưa:

- Con cứ tiếp tục đá banh, vì thời khóa biểu sinh hoạt trong ngày: có giờ con học bài, có giờ con dự Lễ, có giờ con phụ việc nhà, có giờ ăn, giờ ngủ, và bây giờ là giờ giải trí của con, nên con cứ đá cho đến khi Chúa đến.

Như thế, Gioan Beckman luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Chúa.

9. Còn lâu mới chết

Một cuộc Đại hội của các tướng quỷ, chúng tìm phương cách để tóm linh hồn người ta. Các tướng quỷ đưa ra nhiều sáng kiến: Cứ xúi người ta là không có Chúa; cứ rỉ tai bảo người ta không có Hỏa ngục, nếu nghe nói có Hỏa ngục là dọa đó thôi; cứ xúi nó “chat” tìm bạn bốn phương, nó tìm được người tình đẹp ngoại đạo, nó sẽ mê người tình,chứ không mê Chúa; cứ cho nó nhiều tiền của,của cải sẽ lấp mắt nó không thấy Chúa. Như thế chắc chắn nó sẽ trở thành kẻ vô thần.

Tất cả những ý kiến trên có quỷ ủng hộ, có quỷ chống đối, một tướng quỷ sau cùng đưa ý kiến: Cứ rỉ tai chúng nó: còn lâu mới chết, cứ thỏa mãn các đam mê xác thịt cho sướng, gần đến giờ chết, chắc chắn có người đi tìm Linh mục đến Xức Dầu, lúc ấy dù không xưng tội được, thì tội cũng được tha hết , thẳng cánh bay về với Chúa. Ý kiến này toàn thể Đại hội quỷ vỗ tay tán thưởng, đồng thanh nói: Diệu kế, diệu kế!

Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận nói: “Người Công Giáo có tất cả các phương tiện cứu độ, mà bao nhiêu năm không biến đổi nếp sống vươn lên, đó là một trọng tội."

10. Yêu thương là tỉnh thức

Scott Ipswitch 15 tuổi, đã viết một bài báo khi biết được rằng cậu bị bệnh bạch cầu thập tử nhất sinh. Sau nhiều tuần ở bệnh viện, cậu được phép trả về nhà. Cậu viết: “Tôi nhớ trên con đường về nhà, dường như cỏ cây, chim chóc, và ngay cả mặt trời cũng đón chào tôi. Lần đầu tiên sau nhiều tháng, tôi thực sự hạnh phúc.” Nhận xét về tình yêu, Scott viết: “Khi bạn bị đau ốm, bạn cần một ai đó cầm tay để truyền hơi ấm tình yêu của họ sang bạn.”

Tôi biết gì về nhu cầu biểu lộ tình yêu đặc biệt đối với bệnh nhân, nhất là các trẻ em? Ai là người tôi phải biểu lộ tình yêu này?

Yêu thương người khác là chạm được Thiên Chúa.

11. Giá trị của một phút chậm

Ba tên quỉ tập sự chuẩn bị lên mặt đất để học nghề một cách thực tế. Thầy dạy chúng hỏi từng tên: “Mi định dùng chiến thuật nào làm cho người ta phạm tội?” Tên thứ nhất trả lời: “Con định dùng lối tiếp cận cổ điển khi bảo người ta rằng, ‘chẳng có Chúa nào cả, cứ phạm tội đi.’ Tên thứ hai nói: “Con sẽ dùng lối tiếp cận tài trí khi bảo họ, ‘chẳng có hỏa ngục nào cả, vậy cứ phạm tội đi.” Tên thứ ba nói: “Con sẽ dùng lối tiếp cận tinh vi hơn khi bảo người ta, ‘chẳng có gì phải vội, cứ phạm tội, rồi hối cải và sau đó nên tốt cũng được.”

Điều gì tôi phải thay đổi nhưng vẫn còn trì hoãn?

Một đạo sư Do Thái nói với môn sinh: “Mọi sự đều có thể dạy chúng ta một điều gì đó.” Môn sinh hỏi: “Thế xe lửa có thể dạy chúng ta điều gì?” vị đạo sư trả lời: “Chỉ chậm một phút thôi cũng đủ làm chúng ta lỡ mọi sự.”

12. Con mắt thứ ba

Ở giải World Cup 2010 vừa qua, bàn thắng của đội tuyển Anh trong trận đấu với đội tuyển Đức quá hiển nhiên nhưng không được công nhận. Một tờ báo bình luận việc này: “Tất cả mọi người đều thấy trừ trọng tài.” Ông không có ác ý nhưng rất có thể ông bị che khuất không thấy được điều mình phải thấy. Trong đời sống thiêng liêng, nhiều lần Chúa đến với ta nhưng chúng ta không nhận ra Ngài. Có những vật cản từ bên ngoài nhưng nhiều khi do con mắt nội tâm chúng ta đã ra mù tối. Phải có con mắt thứ ba, con mắt luôn tỉnh thức để nhìn thấy Chúa và nhận ra con người đích thật của mình.

Một vài thành công nho nhỏ, một vài lời khen tặng có thể làm tôi ảo tưởng về mình để tôi cứ cho mình luôn luôn đúng. Sự phân định thiêng liêng giúp chúng ta nhìn đời sống với cái nhìn tỉnh thức, cái nhìn trong sáng của Chúa. Nó giúp ta nhìn mình cách khách quan thanh thản, biết kiểm điểm đời sống, sám hối, sửa đổi để thăng tiến.

Nhiều lầm lỗi nơi ta, người khác thấy chúng ta không thấy. Phải chăng cái tôi quá lớn đã che khuất tầm nhìn, giam hãm tôi trong vỏ ốc của mình và khiến mọi người xa lánh, không thể nào cộng tác với tôi?

THỨ SÁU - CHỜ ĐỢI CHÚA GIÊSU

Lời Chúa: Mt 25, 1-13

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.

"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả." Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn." Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi." Nhưng người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi." Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào."

TRUYỆN KỂ

1. Chú rể đến lúc nửa đêm

Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết. Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình. Vụ chìm tàu du lịch Dìn Ký tại Bình Dương hồi cuối tháng 5/2011 vừa qua nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết. Cái chết đến khi mọi người đang vui vẻ chúc mừng nhau trong bữa tiệc mừng sinh nhật của cháu bé 3 tuổi. 16 người chết vì bị kẹt lại trong chiếc tàu du lịch bị mưa to gió lớn đánh chìm.

Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Ðiện Biên Phủ (tháng 10/1996), nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết. Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ, lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật. Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.

2. Một phút là tất cả

Thầy Rabbi dạy các học trò của mình phải luôn nhớ rằng mỗi một điều xảy ra đều có thể dạy cho chúng ta đôi điều gì đó. Một học trò hỏi lại:

- Thưa thầy, một chuyến xe lửa đi qua thì có thể dạy chúng ta điều gì?

Thầy bảo:

- Nó dạy ta rằng chỉ trong một phút giây, chúng ta có thể sẽ đánh mất tất cả.

3. Sợ bị lừa

“Dưới cái nắng 12 giờ trưa, tôi hối hả đi bộ từ trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ra Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Trên đường, một cô bé chừng 16 - 17 tuổi kéo tôi lại với bịch tăm tre nhỏ xíu và nói: “Đây là sản phẩm của các em khuyết tật trường Chu Văn An, mời chị mua ủng hộ." Chẳng cần suy nghĩ, tôi khoát tay từ chối và vội bước đi, tự nhủ: “Mình lạ gì mấy trò này nữa, chủ yếu là xin tiền chứ mua bán gì." Tôi đã không ít lần bị lừa ở phòng trọ, cũng như được bạn bè cảnh báo về mấy người “giả mạo” này.

Nhưng, tôi cũng cố ngoái lại nhìn xem cô bé đó còn ở đó không? Nắng giữa trưa, tôi bịt hai lớp khăn che mặt vẫn còn thấy rát, vậy mà cô bé tiếp tục đứng đầu trần và mời một bạn sinh viên khác và người ấy đã mua. Tôi thấy mình xấu hổ. Tôi nhớ thầy tôi từng nói: “Biết có thể bị lừa vì những người giả bộ bị móc túi, lỡ đường để xin tiền nhưng thầy vẫn cho. Biết đâu gặp người cần giúp đỡ, có vậy lòng mình mới thanh thản…." Tôi định quay lại mua cho cô bé bịch tăm nhưng lại ngại, đành tiếp tục đi, lòng suy nghĩ bứt rứt. Chắc cô bé là học sinh tình nguyện hay đang là tình nguyện viên cho mái trường ấy.

Vậy mà tôi vô cảm... (Theo Tuổi Trẻ Online).

4. Một ngày hay một đời

“Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ còn sống đúng một ngày nữa thôi?” Đó là chính câu hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường và có kết quả:

20% được hỏi liền trả lời: “Chúng tôi sẽ dùng thời gian còn lại để uống say sưa, hút ma túy và vui chơi cho thoả thích."

Cuối cùng có một nữ sinh 18 tuổi trả lời: “Tôi sẽ dành thời gian còn lại để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng để đến gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một đời sống hạnh phúc và đầy đủ."

Chúa đến bất chợt, hôm nay, ngày mai hay một ngày gần đây. Vậy chúng ta phải làm gì để chuẩn bị cho giờ đó? Hay chúng ta chỉ mãi sống trong nếp sống cũ? Hãy canh thức để đón chờ ngày Chúa đến gọi ta.

5. Ra đi trắng tay

Nước Hy Lạp có vị vua tên là Philipphê thân sinh ra Alexandre…

Một hôm, sự chết đã tìm đến với ông. Ông không muốn đi với nó, nhưng nó không cho phép ông từ chối. Đến lúc đó ông nghĩ đến những vinh hoa phú quý trên đời. Tới lúc này ông mới thấy chúng chỉ là hư không. Đời người thật ngắn ngủi. Ông cho gọi người nhà đến mà trăn trối rằng: “Sau khi tôi chết đi, hãy khoét hai cái lỗ ở hai bên quan tài. Rồi khi để tôi vào đó, hãy để cho hai bàn tay của tôi xỏ qua hai lỗ đó mà chìa ra ngoài, rồi đưa quan tài tôi đi vòng qua các đường phố để thức tỉnh và kêu gọi mọi người để họ biết rằng, tôi đã tay trắng mà đến trần thế này, rồi cũng trắng tay mà ra đi. Tất cả những vinh hoa phú quý, hoàng cung mỹ nữ, vàng bạc châu báu, danh thơm tiếng tốt, một chút nhỏ cũng không mang theo được."

6. Thiên quốc ở đâu?

Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là ông thánh nhỏ.

Ngày nọ, đang lúc ông đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một thiên thần hiện ra và nói:

- Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến.

Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:

- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?

Nghe nói xong, thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ thiên thần.

Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:

- Đây ngài xem, cỏ dại mọc đầy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không.

Cũng như lần trước, thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.

Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì thiên thần hiện ra; lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:

- Lạy Chúa, xin sai thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài

Lời cầu nguyện vừa dứt, thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:

- Lần này, nếu thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc.

Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:

- Này ông thánh nhỏ ơi! Sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?

7. Đức khiết tịnh là dấu chỉ Nước Trời

Sắc Lệnh Về Chức Vụ Và Đời Sống Linh Mục số 16, Hội Thánh dạy: "Sự tiết dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời đã được Chúa Kitô khuyến khích, mà qua các thời đại và ngay cả ngày nay vẫn được một số đông Kitô hữu sẵn lòng chấp nhận và tuân giữ một cách đáng khâm phục, thì hiện thời vẫn luôn được Hội Thánh hết sức quý trọng trong đời sống Linh mục. Thực vậy nó là dấu chứng và đồng thời là niềm khích lệ đức bác ái mục vụ và là nguồn mạch đặc biệt làm phát sinh đời sống thiêng liêng phong phú trên thế giới. Bậc độc thân có rất nhiều thuận lợi cho chức Linh mục. Thật vậy, sứ mệnh toàn diện của Linh mục là tận hiến để phục vụ một nhân loại mới, mà Chúa Kitô, Đấng chiến thắng sự chết đã phục hồi trong thế gian nhờ Thánh Thần Người và là một nhân loại đã được sinh ra "không bởi khí huyết, không bởi ý muốn xác thịt, không bởi ý muốn của nam nhân, nhưng bởi Thiên Chúa" (Ga 1,13). Nhờ đức trinh khiết hay bậc độc thân vì Nước Trời, các Linh mục được thánh hiến cho Chúa Kitô với một lý do mới mẻ và tuyệt hảo được kết hợp cách dễ dàng hơn với Người bằng một trái tim không chia sẻ, tận hiến cách tự do hơn trong Người và nhờ Người để phục vụ Thiên Chúa và loài người, sẵn sàng hơn trong việc phục vụ Nước Chúa và việc tái sinh siêu nhiên; như thế các ngài càng thích đáng lãnh nhận một cách bao quát hơn chức vụ làm cha trong Chúa Kitô. Chính nhờ đó, các ngài tuyên bố trước mặt mọi người rằng mình muốn tận hiến trọn vẹn cho công việc đã được trao phó, nghĩa là muốn đính ước các tín hữu với một người bạn độc nhất, và hiến dâng họ cho Chúa Kitô như một trinh nữ thanh khiết (2Cr 11,2). Ngoài ra các ngài còn trở nên dấu chỉ sống động về thế giới mai sau, mà ngày nay đã hiện diện qua Đức Tin và Đức Ái, trong đó các con cái sự sống lại không còn dựng vợ gả chồng nữa (x Lc 20, 35-36)."

8. Hôn lễ ngày xưa

Những tiệc cưới ngày xưa thường kéo dài nhiều ngày. Đỉnh cao của tiệc cưới là lúc chú rể đến nhà cô dâu và được các phù dâu chào đón vui vẻ. văn chương cổ điển nói rằng đôi khi chú rể hoãn lại và chờ tới lúc nửa đêm mới đến để làm cho những cô phù dâu mất cảnh giác. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để dậy người ta về lần đến cuối cùng của Ngài: Nhiều người sẽ mất cảnh giác do bởi họ đã không chuẩn bị.

Nếu Chúa Giêsu đến trong lúc này, tôi có thể mất cảnh giác và không được chuẩn bị ở mặt nào?

“Vĩnh cửu là đại dương, thời gian là con sóng.” (Maurice Maeterlinck)

9. Sự điên rồ của Thiên Chúa

Những giáo sư chủng viện của thánh Vianney luôn xem Ngài như một người tối dạ. Họ luôn thúc ép ngài trong việc học hành. Khi thánh nhân đến xứ đạo đầu tiên, vị linh mục đã miễn cưỡng để cho ngài giảng giải. nhưng vị giám mục có cái nhìn sâu sắc hơn khi thuyên chuyển ngài làm cha sở một họ đạo nhỏ tại ngôi làng mang tên Ars. Ngài đã làm nên một việc lạ lùng: Từ khắp nước Pháp, dân chúng tuốn đến nghe ngài giảng và lãnh bí tích giải tội. Năm 1925, Gioan Vianney được phong hiển thánh và được đặt làm bổn mạng các cha xứ.

Linh mục nào có ảnh hưởng sâu sắc đến tôi? Tại sao?

“Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối và tư tưởng của Ta cũng cao hơn đường lối và tư tưởng các ngươi bấy nhiêu.” (Is 55,9)

10. Tiếng lương tâm

Trong cuốn “Biện hộ về đời sống”, John Henry Newman viết về lương tâm con người: “Lương tâm khen tặng, khiển trách, hứa hẹn, đe dọa, biểu thị tương lai và là nhân chứng cho những gì không thể thấy được. Lương tâm còn hơn cả cái tôi. Bản thân con người không có quyền lực gì đối với nó… Con người có thể từ chối nó, nhưng nó vẫn có đó. Chính sự hiện hữu của nó đưa ta ra khỏi chính mình… Lương tâm là tiếng nói của con người.”

Lương tâm là món quà quí giá nhất Thiên Chúa ban tặng để giúp ta đặt sự thánh thiện. Tôi có tin tưởng vào việc tham khảo lương tâm trước khi thực hiện một quyết định quan trọng không?

“Kẻ nào khước từ tiếng nói lương tâm, người đó đốt cháy tương lai ra tro.” (Ngạn ngữ Trung Quốc)

11. Sống thế nào chết thế ấy

Chuyện kể rằng tại chùa Tô Châu bên Trung Quốc, có một nhà sư tên là Viên Thủ Trung. Ông là một nhà chân tu. Nhà sư thường đặt trên bàn làm việc của mình một chiếc quan tài nhỏ làm bằng gỗ. Khi có người thắc mắc, hỏi về chiếc quan tài này, nhà sư trả lời: “Người ta sống tất nhiên sẽ có lúc phải chết. Mà chết rồi sẽ được đặt vào nằm trong cái hòm này. Tôi thực lấy làm lạ: người đời ai cũng chỉ biết đi tìm phú quí, công danh, tài sắc... mà chẳng hề nghĩ đến cái chết. Phần tôi, mỗi khi có điều gì không vừa ý, tôi liền ngồi vào bàn và nhìn ngắm chiếc quan tài một hồi lâu, sau đó tôi cảm thấy tâm hồn mình được bình an.”

 “Người ta sống tất có lúc phải chết.” Sống xứng đáng với những gì mình được ban cho ở đời này và có sự chuẩn bị tốt nhất cho đời sau của mình. Đó là sống trong sự “tỉnh thức”, là sự khôn ngoan trong Tin Mừng. Chúng ta được mời gọi luôn sống “tỉnh thức”, là chu toàn các bổn phận và tìm kiếm thi hành thánh ý Chúa trong những công việc làm hằng ngày, ngay từ bây giờ.

Điều gì đang làm bạn quá âu lo, khiến bạn thiếu sót những bổn phận lẽ ra bạn phải làm. Bạn đã sẵn sàng cho sự thay đổi đó như thế nào?

12. Khôn - dại và dại - khôn

“Thiên hạ đua nhau nói dại-khôn, ” nhưng không phải ai cũng đồng ý với nhau thế nào là khôn, thế nào là dại. Theo Trần Tế Xương thì cái khôn của nghề cờ bạc là khôn-dại, còn cái dại chốn văn chương lại là dại-khôn. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm tự nhận mình là dại khi “tìm nơi vắng vẻ” nhưng lại ngầm ý rằng làm như ông mới đúng là khôn thật. Trong dụ ngôn mười người trinh nữ, Chúa Giê-su cho biết tiêu chí xác định để ai dại ai khôn: khôn là những cô biết chuẩn bị dầu đầy đủ cho ngọn đèn của họ luôn cháy sáng; còn những cô dại chỉ làm có một nửa: mang đèn mà không mang theo dầu! Người khôn là người biết canh thức, sẵn sàng chờ đợi ngày giờ Chúa đến; còn kẻ dại là người vô tâm, bình chân như vại trước những cảnh báo của Ngài.

Ngọn đèn đức tin của bạn được cháy sáng nhờ từng giọt dầu được liên tục thấm vào mỗi ngày. Đó là giọt dầu yêu mến, giọt dầu cầu nguyện, giọt dầu phục vụ, giọt dầu hy sinh, giọt dầu Tám Mối Phúc Thật. Người khôn là người biết hằng ngày châm những giọt dầu ấy cho đèn đức tin để ngọn đèn đó luôn cháy sáng khi Chúa đến với mình ngày hôm nay cũng như ngày cuối đời.

13. Hãy noi gương tôi như tôi noi gương Đức Kitô

Chiến dịch bắt đạo tháng 12 năm 1859 đã gom nhiều chức sắc trong các giáo xứ, và riêng ở Huế, tập trung mọi tín hữu trên 50 tuổi vào trại giam, do đó khu vực giam cha Hoan còn có nhiều anh em giáo hữu. Nhờ có tài xã giao lịch thiệp, cha Hoan đã dành được thiện cảm của toán lính canh ngục. Cha có thể dễ dàng đến các phòng giam trong trại để thăm viếng các tín hữu. Trong suốt 5 tháng bị giam, cha Hoan dành rất nhiều thời giờ để giải tội, và khích lệ các giáo hữu. Nhận được Mình Thánh Chúa đưa vào, cha rước lễ và chia sẻ cho anh em.

Ngày 25 tháng 5, bản án của triều đình truyền phải xử thánh Hoan ra tới Đồng Hới.

Tối hôm ấy cha thức thật khuya để ủy lạo bạn hữu và giải tội cho một số người. Sáng sớm hôm sau, 26.5.1861 tù nhân ở các phòng khác cũng được phép đến gặp và từ giã cha. Cha nói:

“Thưa anh em, tôi dám xin mượn lời Thánh Phalô để nói với anh em rằng: anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Kitô.”

Cha con vui vẻ hàn huyên cho đến khi có lệnh ra pháp trường. Cha đứng thẳng lên, cổ vẫn mang gông nặng, hiên ngang bước theo viên cai ngục.

Ra đến cửa, cha gặp ông trùm Phượng, hai toán lính nhập làm một, hai lính cầm hai bản án đi trước. Đến pháp trường, hai vị quỳ trên chiếu đã trải sẵn. Quan hỏi hai chứng nhân có cần trói vào cột không, cha trả lời: “Khỏi cần, tôi sẽ quỳ yên không nhúc nhích. Nếu tôi không tự nguyện chết, tôi đã chẳng đến đây, xin cho vài phút để cầu nguyện.”

Cha ngẩng mặt lên trời, tạ ơn Chúa, giơ tay ra giải tội cho ông Phượng và ra dấu đã sẵn sàng để lý hình thi hành nhiệm vụ.

Thấy thái độ dũng cảm của cha, biết cha vô tội, nên lý hình đã chỉ định phải nhờ một lý hình khác không quen tay: Do đó Cha bị chém tới nhát thứ ba, đầu mới rơi xuống.

14. Kiên nhẫn chờ đợi và gặp được Chúa

Paul Tournier, bác sĩ tâm thần người Thụy Sĩ đã đánh dấu cuộc hoán cải của ông bằng việc dành trọn một giờ để cầu nguyện. Đây xem ra là một kinh nghiệm thử thách và khô khan. Nhưng khi một giờ trôi qua, có một cái gì đó thúc đẩy ông cầu nguyện lâu hơn một chút. Ông đã làm và cuối cùng được cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa và điều này đã thay đổi cuộc đời ông. Ông cảm thấy sợ khi nghĩ được rằng mình đã gần như mất đi cơ hội đó.

Đôi khi tôi có khuynh hướng rút vắn hoặc kéo dài giờ cầu nguyện khi xem ra đó là một thử thách và khô khan không?

Người chậm giận hơn trang hào kiệt,

Người tự chủ hơn kẻ chiếm được thành. (Cn16,32)

15. Nỗi sợ cô đơn

Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1200 người tại 20 thành phố khác nhau về việc chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt ra là: “Nếu bạn chỉ còn một ngày cuối cùng để sống, bạn sẽ làm gì?" Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy:

* 57% phụ nữ được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng đó với gia đình.

* 42% các ông được hỏi cho biết họ cũng muốn sống ngày cuối cùng đó với gia đình.

* 32% các ông các bà đều muốn được sống với gia đình mình trong những giờ phúc cuối đời.

* chỉ có 12% các bà và 26% các ông thích ở một mình hoặc cùng với bạn bè trong ngày cuối cùng của cuộc sống.

16. Đèn phải sáng

Một người Hinđu đang hấp hối được Mẹ Têrêxa chăm sóc. Ông ta cầm lấy cây thánh giá Mẹ đeo nơi cổ và hỏi: “Cái gì đây?”

 “Đó là một biểu tượng nhắc tôi nhớ đến Thiên Chúa của tôi”, Mẹ trả lời. Người đàn ông đã nói cách cả quyết với chút hơi sức còn lại của mình: “Vậy thì Thiên Chúa của bà cũng là Thiên Chúa của tôi."

Những hoạt động âm thầm mà chân tình của Mẹ Têrêxa loan báo Tin Mừng nhiều hơn là bằng lời nói. Một trong những mưu chước thâm độc của ma quỉ là làm cho người ta yên tâm về hạnh phúc đời đời với danh hiệu Kitô hữu hơn là với đời sống Kitô hữu, như năm cô trinh nữ vẫn yên tâm cầm đèn mà không để ý đèn đó còn sáng hay tắt rồi.

Đèn không sáng thì còn gì là đèn. Kitô hữu không đức mến thì còn gì là Kitô hữu: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13)

17. Truyền giáo bằng sự hiện diện

Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các bạn trẻ thuộc Giáo phận Viviers của Pháp, trong buổi gặp gỡ sáng thứ Bảy 14/5/2022, “đặt nền móng đời sống Kitô theo tinh thần của Charles de Foucauld với những từ khoá: Tin Mừng, Thánh Thể và loan báo Tin Mừng. Bởi vì chính từ đây, Kitô hữu sẽ có một chương trình cuộc sống tại trường học của Chúa Kitô”.

Trong bài nói chuyện, trước hết, Đức Thánh Cha bày tỏ niềm vui được chào đón các bạn trẻ đến từ Giáo phận nơi có hai chân phước sẽ được phong thánh vào Chúa Nhật hôm sau: nữ tu Marie Rivier, sáng lập dòng các Nữ tu Đức Mẹ Dâng Mình; và Charles de Foucauld.

Ngài mong muốn các bạn trẻ học nơi Charles de Foucauld cách có được kinh nghiệm về Chúa, điều đã dẫn đưa chân phước đến việc loan báo Tin Mừng bằng sự hiện diện. Hình thức truyền giáo này phù hợp với nguyện vọng của người được Chúa yêu thương và người được Chúa kêu gọi thực hiện làm một điều gì đó vốn không đạt được cách nhanh chóng và có kết quả ngay lập tức.

THỨ BẢY - TRUNG TÍN VÀ SÁNG KIẾN

Lời Chúa: Mt 25, 14-30

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng mỗi người, đoạn ông ra đi.

Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Cũng vậy, người lãnh hai nén cũng làm lợi ra hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình.

Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác." Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi."

Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc, đây tôi đã làm lợi được hai nén khác." Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi."

"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo và thu nơi không phát, nên tôi khiếp sợ đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại ông." Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng."

TRUYỆN KỂ

1. Miễn là có sinh lời

Ông cố của vị linh mục vừa qua đời. Có rất nhiều người đến viếng thăm với hoa, nến và nhiều kinh nguyện khác. Một em bé đến nói với vị linh mục: “Thưa cha, con không có hoa, nến, cũng không thuộc nhiều kinh. Con chỉ đọc cho ông cố một kinh Lạy Cha mà thôi." Vị linh mục trìu mến trả lời: “Con đừng lo. Lời kinh đơn sơ của con cũng có giá trị cao quí như các kinh nguyện của những người khác."

Đức Giêsu cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã trao cho mỗi người những nén bạc, tức là những tài năng, kẻ nhiều người ít. Điều Đức Giêsu muốn nhắn gửi, đó là mỗi người phải sử dụng những “nén bạc” là những tài năng Chúa ban, để “sinh lời” cho Chúa. Phần “lời” này không hệ tại ở số lượng nén bạc được gia tăng, mà phụ thuộc tấm lòng của chính chúng ta. Chúng ta có siêng năng làm việc để phát huy tài năng hay không, hay chúng ta lười biếng như đầy tớ vô dụng đã đem chôn bạc xuống đất?

2. Biết làm sinh lợi cho Chúa.

Sau khi đến thăm gia đình của người bạn học vừa mất, cô bé trở về nhà.

Vẻ mặt giận dữ, cha cô bé hỏi:

- Tại sao con đến nhà người ta vào lúc này?

Cô bé trả lời:

- Con đến để yên ủi mẹ bạn ấy.

- Nhưng con thì làm được gì?

- Ba ơi, con chẳng làm được gì, vì thế con ngồi vào lòng mẹ bạn ấy.

Lúc đó cô bé chỉ biết khóc, nhưng đã an ủi lòng “người mẹ."

3. Không có gì khó bằng lòng không muốn

A.R.Wells có thuật lại câu chuyện này: Có một trang chủ làm chủ một trang trại lớn. Một bữa kia ông giao cho bảy người thợ cưa, mỗi người phải cưa cho ông một khúc cây.

- Người thứ nhất nói: Khúc cây của tôi còn tươi quá, e lưỡi cưa sẽ mắc trong đó. Tôi chờ cho tới khi nó khô thì mới cưa. Thế là anh đi nghỉ.

- Người thứ hai: Lưỡi cưa của tôi cùn quá rồi. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi một lưỡi cưa sắc bén hơn rồi tôi cưa. Và anh cũng đi nghỉ.

- Người thứ ba: Khúc cây này cong bên này cong bên kia. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi khúc khác thẳng hơn. Anh cũng đi nghỉ.

- Người thứ tư: Khúc cây của tôi quá cứng, cứng gấp hai lần loại cây thường. Tôi chờ có khúc khác mềm hơn. Anh cũng đi nghỉ.

- Người thứ năm: Hôm nay trời nóng quá. Đợi ngày nào mát trời hãy cưa. Và anh cũng nghỉ.

- Người thứ sáu: Hôm nay tôi nhức đầu. Đợi tới khi nào khỏi, tôi mới cưa. Và anh cũng nghỉ.

- Người thứ bảy cũng nhận một khúc cây còn tươi, nó cũng cong bên này cong bên kia, thịt cũng rất cứng, lưỡi cưa của anh cũng cùn, trời hôm đó cũng nóng và hôm đó anh cũng nhức đầu. Nhưng anh đi mài lưỡi cưa và bắt tay vào việc. Nhờ lưỡi cưa đã được mài sắc, khúc cây đã được cưa xong, do trời nóng và do làm việc, anh làm việc đổ mồ hôi ra và hết nhức đầu. Anh sung sướng vì hoàn thành công tác được giao. Hôm sau anh xin ông chủ cho anh một khúc cây khác để cưa nữa.

Nếu được phép áp dụng Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay thì chắc là ông chủ sẽ nói với người đầy tớ cuối cùng rằng: "Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh" (Mt 25,23).

4. Chúa cần cả người hèn kém làm vinh danh Ngài.

Trong lịch sử các Thánh, nhiều vị được Chúa trao số vốn nhỏ bé lại làm vinh hiển Chúa nhất. Đan cử:

- Thánh Maria Madalena, một người bị kết án là phụ nữ tội lỗi khét tiếng vì, bị bảy quỷ thống trị, thế nhưng khi bà được Đức Giêsu trừ bảy quỷ cho, từ bấy giờ bà hiến dâng tất cả tài sản cho việc truyền giáo, và trở thành người đầu tiên loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho thế giới (x. Lc 8, 1-3; Ga 20, 18).

- Thánh Gioan Maria Vianey có trí khôn tầm thường, không đủ điểm trong các môn Thần học ở Đại Chủng Viện, nên đã bị Cha Giám đốc sa thải! Nhưng nhờ cha Sở bảo lãnh, Gioan Vianey được trở lại Chủng Viện, và ngài đã trở nên một vị Linh mục thánh thiện, nhiệt tình, gương mẫu, xứng đáng là Bổn mạng các cha Sở!

- Thánh nữ Catharina, vì hoàn cảnh gia cảnh nghèo nên thất học, thế mà nhờ bà biết cầu nguyện cho Hội Thánh đang gặp sóng gió, bà đã thành công làm cho ba Giáo hoàng đang tranh ngôi vị vào những năm 1378-1417, một ở Roma, một ở Bỉ, một ở Pháp từ chức để bầu lại Thủ Lãnh Hội Thánh, thủ đô đặt ở Roma. Vì công đức ấy mà Hội Thánh tôn vinh bà làm Thánh Tiến sĩ. Bởi thế, thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã chọn sự yếu đuối để bêu nhuốc hạng khôn ngoan và mạnh mẽ, những gì thế gian cho là ti tiện không đáng kể, Thiên Chúa lại cho những điều không không để hủy diệt điều có ra không, hầu không có xác phàm nào dám vênh vang trước mặt Chúa” (1Cr 1, 27-29).

5. Tôi ở nhà tôi xây

Người thợ xây nọ đã làm việc rất chuyên cần và hữu hiệu trong nhiều năm cho một hãng thầu xây dựng. Một ngày kia, ông ngỏ ý với hãng muốn xin nghỉ việc về hưu để vui thú với gia đình.

Hãng thầu rất tiếc khi thiếu đi một người thợ giỏi đã tận tụy nhiều năm. Hãng đề nghị ông cố gắng ở lại giúp hãng xây một căn nhà trước khi thôi việc. Ông ta nhận lời.

Vì biết mình sẽ giải nghệ, cùng với sự miễn cưỡng, ông ta làm việc một cách tắc trách qua quít, xây dựng căn nhà với những vật liệu tầm thường, kém chọn lọc, miễn có một bề ngoài đẹp đẽ mà thôi.

Mấy tháng sau, căn nhà đã hoàn thành. Người chủ hãng mời ông đến, trao cho ông chiếc chìa khóa của ngôi nhà và nói: “Ông đã gắn bó và làm việc rất tận tụy với hãng trong nhiều năm, để tưởng thưởng về sự đóng góp của ông cho sự thịnh vượng của hãng, chúng tôi xin tặng ông ngôi nhà vừa xây xong!”

Thật là bàng hoàng! Nếu người thợ biết mình sẽ xây cất căn nhà cho chính mình thì hẳn ông ta đã làm việc cẩn thận hơn và chọn lựa những vật liệu có phẩm chất hơn. Sự làm việc tắc trách chỉ có mình ông biết và nay thì ông phải sống với căn nhà mà ông biết rõ là kém phẩm chất như thế nào.

6. Mỗi người quyết định con đường mình đi

Thi sĩ người Anh William Dunkerley cũng được biết dưới bút danh John Oxenham. Một trong những bài thơ được viết dưới bút danh này thật hấp dẫn. Bài thơ như sau: “Mỗi người đều có con đường rộng mở. Tâm hồn cao thượng theo đường cao. Tâm hồn tầm thường theo con đường thấp giữa đồng bằng sương gió. Số còn lại thì trôi nổi đây đó. Nhưng mỗi người đều có con đường riêng cho mình và phải quyết định con đường để theo.”

Bài thơ của Oxenham và lời thánh Phaolô mời gọi tôi tự hỏi: “Đâu là con đường tôi định theo? Tại sao?

Một số người chết vì bom đạn. một số khác chết vì lửa nóng. Nhưng hầu hết chết dần chết mòn vì thiếu quan tâm đến nhau.

7. Chẳng có gì là nhỏ bé

Tờ Detroit News đăng câu truyện về John Cannon, người đã mất ngôi nhà mùa hè mới ở vùng quê Canada chỉ vì không có tiền để gọi điện thoại. Ngọn lửa đã thiêu rụi ngôi nhà của ông trước khi ông liên lạc được điện thoại. Ông đã nhảy vào xe và lái xe đến trạm điện thoại công cộng trên đường. Trong lúc hốt hoảng, ông không đem theo một đồng cắc nào. Câu truyện này chứng tỏ rằng trong một số công việc, một xu cũng đáng giá hơn cả ngàn đôla. Có những lúc sự đánh giá này thật đúng trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.

Đâu là sứ điệp mà câu truyện của Cannon và lời của thánh Phaolô gợi lên cho tôi?

“Đôi khi tôi thấy hậu quả nghiêm trọng đến từ những gì nhỏ bé. Tôi bị cuốn theo dòng suy nghĩ: Chẳng có gì là nhỏ bé cả” (Bruce Barton)

8. Trung thành trong điều nhỏ mọn

Một bé gái trở về nhà sau khi thăm viếng gia đình của một người bạn cùng lốp bị chết đột ngột. Cha cô bực mình nói: “Tại sao con đến đó lúc này?” Cô bé trả lời: “Để an ủi mẹ của người bạn.” Người cha nói: “Nhưng con thì có thể làm được gì chứ?” Cô bé đáp: “Chẳng làm được gì cả, vì vậy con ngồi trong lòng bà ta và cùng khóc với bà ta.”

Câu truyện trên đây và dụ ngôn của Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: Ở mức độ nào tôi ngừng công việc làm cho Nước Chúa phát triển, chỉ vì cảm thấy mình chẳng làm được bao nhiêu?

“Điều lớn lao chính là trung thành trong những cái nhỏ mọn.” (Thánh Gioan Kim Khẩu)

9. Được giao ít mà trung thành

Booker T. Washington là một nô lệ da đen người Mỹ. Năm 16 tuổi, cậu đã đi bộ 800 cây số từ nơi cậu phục dịch đến trường Hampton ở bang Virginia. Đến nơi, cậu được cho biết là các lớp học đều đã chật người. Không chút nản chí, cậu nhận làm những công việc thấp hèn ở trường, như quét sàn, dọn giường. Cậu làm việc một cách chu đáo đến độ ban giáo sư đã tìm cho cậu một phòng với tư cách là một sinh viên. Cậu học hành tiến bộ, trở thành một giáo sư nổi tiếng và đã thành lập trường Tuskegee ở Alabana.

Tôi đã thực hiện tốt một vài công việc nhỏ mọn nào trước khi được giao cho những việc lớn hơn?

Đừng để những gì bạn không làm cản trở những gì bạn có thể làm. (John Wooden)

10. Sinh lợi từ vốn tự có

Và tôi, trong cuộc sống, tôi cũng biết cười để trao tặng “nụ cười hồng” cho mọi người. Một miếng trầu tôi tiêm cho ngoại Tách cà phê tôi pha cho bố mỗi sáng Một chiếc áo dài tôi thêu cho mẹ Và chiếc nơ hồng bắt bím cho chị

Những bài học hay tôi mang đến với trẻ thơ Tôi đã làm tất cả hết khả năng và nhiệt huyết của mình. Tôi vui vì đã góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm hương vị.

Lạy Chúa! Xin giúp con biết sinh lợi những nén bạc Chúa trao, biết trung thành với bổn phận hằng ngày (Hosana).

11. Sống giây phút hiện tại

Lạy Chúa Giêsu, con thường thấy mình không có thì giờ, nhưng đồng thời cũng thấy mình lãng phí bao thời gian quý báu. Nhiều khi con tự hỏi mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.

Xin cho con biết quý trọng từng giây phút đang trôi qua mà con không sao giữ lại được. Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian, để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa. Xin cho con luôn làm việc như Chúa: hăng say, tận tụy và vui tươi, vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.

Vì quá khứ thì đã qua, và tương lai thì chưa đến, nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại. Xin cho con thấy Chúa lúc này đang ở đây bên con, và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài bằng những hành động cụ thể. Con xin hiến dâng Chúa giây phút này như một hy lễ, với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.

Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại để hiện tại đưa con vào vĩnh cửu của Chúa. Amen. (Rabboni).

LỄ THÁNH MONICA - CHÚA ĐỘNG LÒNG THƯƠNG

Lời Chúa: Lc 7, 11-17

Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Đừng khóc nữa.” Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy.” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.

Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người.” Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.

TRUYỆN KỂ

1. Không muốn đến nhà thờ

“Chúa Giêsu tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và phán: ‘Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy.’ Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói..” (Lc 7,14-15).

Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ, Chúa Nhật nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì trên gường. Tin và Sơn phóng xe đi chơi. Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này có ai gọi mình thì phải?

Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ, Bài giảng dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim hoạt hình trên Tivi, hay mở máy hát nghe nhạc, hoặc gọi điện thoại “tám” với bạn bè còn thích hơn. Này rõ ràng có ai gọi mình mà!

Lạy Chúa, con chỉ nghe toàn những tiếng nhu cầu của bản thân. Còn tiếng gọi của Chúa sao mơ màng quá, khó nghe quá. Chúa đã gọi người thanh niên chỗi dậy từ cõi chết, xin Ngài cũng gọi con từ những đam mê bất chính của con. (Hosanna)

 2. Cuộc đời thánh Monica

Chúng ta chỉ biết Thánh Mônica qua quyển Tự Thuật của người con là Thánh Augustino.

Bà sinh khoảng năm 332 ở Tagaste miền bắc Châu Phi, là con trong một gia đình có đạo. Lúc 18 tuổi, bà phải kết hôn với một người ngoại tên là Patricius theo ý của gia đình và sau đó sinh được 3 người con: người con cả là Augustinô. Bà luôn theo dõi sự phát triển của con với niềm vui lẫn âu lo.

Bà đã phải khóc lóc vì thấy nơi người con của bà có những dấu hiệu sai lạc về luân lý và tinh thần. Dầu vậy bà luôn luôn lấy tình thương khuyên nhủ con. Sau một thời gian quá dài nhưng chưa chinh phục được người con của mình, bà đã được một vị Giám mục, nói chính xác là thánh Ambrosiô, đã an ủi bà: "Không lẽ một người con đã làm cho bà rơi biết bao nhiêu nước mắt, lại phải hư mãi sao?”

Như vậy là chúng ta thấy không những bà đã lo lắng cho chồng để ông được trở lại đạo một năm trước khi ông qua đời, khoảng năm 371. Rồi sau khi chồng mất, bà đã từ Roma theo người con cả Augustino lên tận Milan nơi ông dạy học để ở nơi đây Bà được chứng kiến cảnh con của mình từ bỏ lạc giáo trở về với Chúa, chịu rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh năm 387 dưới sự hướng dẫn và dìu dắt của Giám Mục Ambrôsiô. Sau khi trở lại, Augustinô, em và mẹ đã quyết định trở về Tagaste.

Mùa thu năm 387 cả ba mẹ con từ bỏ Rôma, lên đường về Châu Phi. Chúng ta hãy nghe chính Augustinô thuật lại những giờ sau hết của mẹ mình trên dương thế: "Con không nhớ rõ con đã trả lời làm sao. Nhưng phỏng năm ngày sau, hay hơn một chút, mẹ con ngã bệnh sốt rét. Đang khi nằm bệnh, thì ngày nọ ngài bất tỉnh, không còn nhận ra những người chung quanh. Chúng con chạy tới thì ngài tỉnh lại ngay, nhìn con và em con đang đứng đó; ngài có vẻ tìm kiếm cái gì đó và bảo chúng con” “Mẹ ở đâu thế này?”

Rồi thấy chúng con buồn sầu và lo sợ, ngài nói: "Các con hãy nhớ chôn mẹ ở nơi đây!' Con thinh lặng và kìm hãm nước mắt. Nhưng em con nói mấy lời tỏ ý ước ao thấy ngài được chết tại quê nhà hơn là ở tha hương. Nghe thấy vậy, ngài tỏ vẻ không bằng lòng. Ngài quắc mắt nhìn em con, vì nó đã có những tư tưởng như vậy, rồi nhìn con mà nói: "Con xem, nó nói như vậy đó!” Đoạn ngài bảo hai chúng con: "Các con chôn xác này ở đâu cũng được; các con đừng quá lo về việc đó. Mẹ chỉ xin các con một điều, là bất cứ các con ở đâu, các con hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa.” Sau khi cố gắng nói được điều đó rồi, mẹ con ở lặng và cơn bệnh gia tăng, làm cho ngài càng đau đớn. Vậy, sau khi thụ bệnh được 9 ngày, thì linh hồn thánh thiện và đạo đức đó đã lìa khỏi xác: ngài được 56 tuổi còn con được 33 tuổi" đúng tuổi sống trên đời của Chúa Giêsu.

Augustinô đã chôn cất mẹ tại Ostia.

Sau này khi nhớ về cái chết của Mẹ mình Augustinô đã viết: "Con mất mẹ cách đột ngột, nhưng con cảm thấy an ủi khi dâng cho Chúa nước mắt con khóc mẹ. Con dâng nước mắt ấy cầu nguyện cho mẹ con. Nếu ai đoán xét con, phạm tội vì khóc thương một bà mẹ chết đi và tạm thời mắt con không còn trông thấy được nữa, thì con xin họ nhớ rằng chính bà đã khóc than biết bao năm trường để mắt bà được trông thấy con sống lại với Chúa, xin họ đừng nhạo cười con, nhưng xin họ cũng khóc lóc vì tội lỗi con đã phạm trước mặt Chúa. Chúa là cha của tất cả anh chị em chúng con trong Đức Kitô.

Ngày nay xác bà được dời về thánh đường kính Thánh Augustinô tại Rôma.

3. Tự sửa mình trước

Ông Comolet Sue, nhà giáo dục danh tiếng, đã điều tra và kể lại trong bản báo cáo về Hội Hôn nhân Thiên Chúa giáo ở Pháp câu truyện này:

Có lần ông gặp một bà góa. Các con bà giữ đạo sốt sắng và thành công một cách vinh quang trên đường đời. Ông hỏi bà:- Bà đã làm gì trong công việc giáo dục con cái bà? Bà đã dìu dắt con bà một cách thực tế như thế nào trong cuộc đời? Bà đã một mình làm tròn sự nghiệp phức tạp ấy!

Bà trả lời cách gọn gàng, giản dị: - Tôi không biết.

Ông gặng hỏi: - Bà giấu đấy chứ? Các con trai bà đã làm cách nào để tạo được những địa vị danh giá mà đồng thời vẫn là tín đồ đáng nể phục? Các con bà hình như rất bằng lòng với cuộc sống của mình. Có bao bà phải thất vọng không...?

Bà mỉm cười và hỏi: - Ông có tin tưởng Thiên Chúa không?

- Chắc là Thiên Chúa cai trị sóng gió, nhưng nếu bà không biết lo liệu thì thuyền cứ chìm.

- Lo liệu phòng ngừa là phải cầu nguyện cho nhiều.

- Không đủ, thưa bà. Bởi chắc không phải lúc nào bà cũng chắp tay quỳ gối trong nhà thờ?

Bị hỏi dồn, bà nói thiệt: - Ngày chồng tôi chết, để lại cho tôi mười đứa con nhỏ, đứa lớn chưa đầy 15 tuổi. Tiền của eo hẹp, nên tôi phải quả quyết... Trước hết là... Là xét lại lương tâm, khi xét mình tôi đã nhận thấy cần phải tu chỉnh, cải tạo đời sống mình cho tốt hơn, thêm nhiều đức tính tốt hơn nữa. Tôi làm ngay... và cứ thế mà tiến...

- Có thế thôi sao? Bà còn làm gì hơn nữa cho con bà?

- Không có gì khác cả, thưa ông. Tôi tự sửa mình và chính Chúa đã đào tạo chúng nó.

Ngạn ngữ của người Roma có câu: “Không ai có thể cho cái mình không có.” Bà Monica thánh thiện cho nên sự thánh thiện của bà đã tràn qua người con.

4. Thánh Monica qua lời kể của thánh Augustino

Thánh Augustinô kể về mẹ mình: “Mẹ tôi là một người đằm thắm, dịu dàng; bà là một người cầu nguyện và đạo đức thực sự. Bố tôi coi thường mẹ tôi, luôn chế giễu, chẳng bao giờ tỏ được một tình cảm dịu dàng yêu thương nào với vợ mình. Thế nhưng, ngay cả những lúc ông nóng giận, ngay cả những lúc ông muốn tỏ thái độ vũ phu lỗ mãng của một người đàn ông, thì ông… nhìn bà và ông sợ; hay nói cách khác, ông sợ kính bà.” Người ta nói: “Đức trọng thì quỉ thần kinh.” Vì cái đức trọng của Mônica mà ông chồng không dám nặng tay hành động vũ phu trên Mônica. Một điều thật diệu kỳ.

– Augustinô cũng kể về bà nội, tức mẹ chồng của Mônica. Mẹ chồng Mônica, khi thấy chồng chế diễu Mônica, bà không nương tay, còn đổ thêm dầu vào lửa, nói những lời chì chiết. Mônica ứng xử thế nào trong hoàn cảnh cay cực này? Bà cư xử dịu dàng. Mỗi lần mẹ chồng nói điều gì không phải, bà không bao giờ tỏ một thái độ nghịch lại, mà luôn luôn dùng một thái độ biết lắng nghe cách trang trọng. Bà để đấy, rồi khi có dịp bà dùng hành động và ngôn ngữ của đức bác ái, và ngôn ngữ bác ái ấy đã chạm tới trái tim của bà mẹ chồng. Lại một điều đẹp diệu kỳ nữa. Đức trọng, giờ là đức bác ái.

– Còn chính Augustinô con bà thì sao? Khi Augustinô lớn lên, nó học tính của bố. “Cha nào con nấy.” Có lần Mônica nói với Augustinô: “Nếu con không đổi tính nết, mẹ sẽ đuổi con ra khỏi nhà.” Và bà đã quyết định đuổi. Nhưng được cha linh hướng khuyên: “Đứa con của nước mắt thì sẽ không bao giờ bị hư mất”, Mônica đã nén lòng, rút lại quyết định. Và sau này bà nói đó là một quyết định khôn ngoan. Ở đây là đức nhẫn nại, chịu đựng.

– Augustinô còn cố tình bỏ đi xa, thoát ra khỏi tầm tay của mẹ mình, nhưng bà không vì vậy mà chịu thua. – Chúa đến một lúc nào đó, và cho bà thấy phần thưởng của mình. Người mẹ chồng khi thấy đứa con dâu đã để lại cho cuộc đời mình biết bao điều tích cực hơn là tiêu cực, cuối cùng trước khi chết, đã gọi người con dâu: “Mônica, mẹ cám ơn con vì con đã đem đến cho mẹ niềm tin.” Và bà đã xin với Mônica để được rửa tội trước khi chết.

– Chồng bà, trước khi lâm bạo bệnh, đã nhận ra tình yêu đằm thắm, dịu dàng, nhẫn nhục của vợ suốt 17 năm trường dù ông đã gây cho bà bao đau khổ và cả ô nhục, ông đã hối lỗi. Thế là trước khi chết, ông xin được quay trở lại, và bà có mặt ở ngay bên giường bệnh để được thấy chồng mình trở thành công giáo.

– Đau khổ nhất là đứa con Augustinô. Đã 30 năm khóc cho con, nhưng là khóc trong niềm hy vọng của ngày hôm nay, chứ không trong ngậm đắng nuốt cay của ngày hôm qua để giận hờn, thất vọng. Bà cộng tác với ơn Chúa để rong ruổi theo con, sang tới Rôma, đến tận Milan. Bà chạy theo đứa con của mình và cuối cùng bà chinh phục được Augustinô. Augustinô được rửa tội đêm Vọng Phục Sinh năm 387, lúc khoảng 33 tuổi. Lúc bấy giờ bà đã 56 tuổi.

– Lâm trọng bệnh, bà nói với Augustinô: “Mẹ chẳng còn trông mong gì trên đời này nữa. Trước đây, lý do duy nhất khiến mẹ ước mong được nán lại thêm một chút trong cuộc sống này là để nhìn thấy con thành một Kitô hữu trong Hội Thánh công giáo trước khi mẹ nhắm mắt lìa đời. Thiên Chúa đã ban cho mẹ quá lòng mẹ mong ước. Mẹ còn đang được thấy con khinh chê hạnh phúc trần gian mà làm tôi tớ phụng sự Người. Bây giờ mẹ ở đây làm gì nữa?…Mẹ chỉ còn xin con một điều là dù ở đâu, hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa.”

5. Chúa ở đâu trong cuộc đời

“Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ sống đúng một ngày nữa thôi?” Đó chính là câu hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường, và có kết quả:

20% được hỏi liền trả lời: Chúng tôi sẽ dùng thời giờ còn lại, để uống say sưa, hút ma tuý, để vui chơi cho thoả thích. Cuối cùng một nữ sinh 18 tuổi trả lời rằng: Tôi sẽ dùng thời gian còn lại, để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng, để gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một đời sống hạnh phúc và đầy đủ.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức về giờ của từng cá nhân mình phải ra trước toà Chúa. Đó là lúc được phân định dứt khoát và vĩnh viễn, nên không còn cơ hội để lựa chọn về phần rỗi của mình nữa. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, bởi sự lỡ làng trong công ăn việc làm chúng ta có thể bắt đầu lại và có thể sửa chữa được. Nhưng sự lỡ làng trong giờ cuối cùng của cuộc đời sẽ không còn cơ hội để làm lại và lúc đó sẽ hư mất đời đời.

6. Lòng thương xót

Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin tha thiết với hoàng đế Napoléon cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý.

Nhưng bà mẹ năn nỉ:

- Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.

Hoàng đế Napoléon trả lời:

- Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót.

Bà mẹ nói:

- Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.

Hoàng đế Napoléon đáp:

- Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó.

Và ông sai thả người thanh niên đó ra

7. Lời cầu nguyện và nước mắt có giá trị

Thánh nữ Monica sinh năm 332 trong một gia đình đạo hạnh làng Sucara bên Phi Châu. Với bầu khí đạo đức, Monica sớm trở thành một cô bé ngoan ngoãn và sốt sắng: mỗi bữa ăn cô thường dành một phần cho người nghèo và những lúc nhàn rỗi thường tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện.

Năm 22 tuổi, Monica vâng lời cha mẹ kết hôn với Patricius thuộc dòng dõi qúy phái, nhưng tính tình ngang tàng, độc ác và tuổi lại gấp đôi. Dù rất khổ tâm nhưng Monica vẫn vui vẻ vâng lời cha mẹ với hy vọng sẽ cứu được một linh hồn. Quả vậy, nhờ lời cầu nguyện và đức kiên nhẫn, Monica đã cải hóa được người chồng và mấy năm sau sinh được ba người con mà Augustinô là con đầu lòng. Dù sống trong một gia đình ngoại đạo, nhưng Monica đã chu toàn sứ mệnh làm mẹ, luôn giáo dục con cái biết yêu mến Chúa, yêu người. Bà luôn yêu thương con cái, nhất là đối với Augustinô. Nhưng càng lớn, Augustinô càng biểu lộ các tính hư tật xấu. Ỷ vào trí thông minh, Augustinô đâm lười biếng. Bị sửa phạt, Augustinô bèn lừa dối, lường gạt cha mẹ, thầy dạy, rồi từ đó ham mê lạc thú, ăn chơi, kiêu căng và ham hố danh vọng. Nhất là từ khi chàng được gửi đi học ở tỉnh thì những làn sóng tội lỗi lại tràn ngập tâm hồn. Rồi chàng lại theo bè rối Manikê chống lại đức tin. Còn gì đau khổ hơn cho Monica khi thấy người con yêu quý của mình ngày càng bước sâu vào con đường tội lỗi. Nhưng tin vào tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa, bà lại càng kiên tâm cầu nguyện và làm các việc lành.

Lời cầu nguyện và nước mắt của Monica đã được Chúa chấp nhận. Sau những thất bại, Augustinô đã tìm đường trở lại cùng Thiên Chúa. Monica vui mừng dâng lời tạ ơn. Thánh nữ cùng tĩnh tâm với Augustinô ở Cassicicum và có mặt trong lễ rửa tội của con. Ðêm Phục Sinh năm 387, Augustinô đã được lãnh bí tích Rửa Tội do thánh Giám Mục Ambrosiô. Lòng tràn ngập vui sướng, hai mẹ con cùng trở về Phi Châu. Tại Ostia, thánh nữ chia sẻ với con mình sự hoan lạc trong tâm hồn mà thánh Augustinô ghi lại trong cuốn IX “bộ tự thuật.” Thánh Monica đã nói như sau:

- Con ơi, phần mẹ, mẹ không còn thấy vui sướng vì bất cứ điều gì ở đời này nữa. Mẹ không hiểu sẽ phải làm gì và tại sao lại còn sống ở đây. Niềm hy vọng của mẹ trên thế gian này đã được hoàn thành. Chỉ có một điều mẹ ao ước là được thấy con trở thành người công giỏo trước khi mẹ lìa đời. Thiên Chúa cho mẹ được toại nguyện và hơn nữa đã cho mẹ thấy con chán ghét hạnh phúc trần gian và hiến thân phụng sự Ngài. Mẹ còn làm gì nữa đây?

Chẳng bao lâu sau đó, thánh nữ mang bệnh và chết bình an trong Chúa năm 387, tại Ostia, khi đó thánh nữ đã 56 tuổi.

Xác thánh nữ được mai táng ở Otti. Năm 1430, Ðức Thánh Cha Martinô truyền đem về nhà thờ Thánh Augustinô ở Rôma.

8. Gương sáng của thánh Monica

Cuộc đời và gương sáng của thánh nhân cho chúng ta thấy rằng: ngài đã “làm những chuyện bình thường cách phi thường.” Tại sao vậy?

Trước tiên: là chu toàn bổn phận. Chu toàn bổn phận cách trung thành, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác thì quả là anh hùng. Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao trong ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, thánh nhân đã hết lòng quý trọng, yêu thương và trung thủy với chồng. Làm mẹ, thánh nhân hết mực yêu thương, hy sinh cho con cái. Tận tụy giáo dưỡng con cái nên người. Khi không được như ý của mình, ngài vẫn không bỏ cuộc. Thánh nhân đã cầu nguyện và hy sinh liên lỷ cho con. Nhờ đó mà ngài đã cải hóa được Augustinô trở về với Chúa và phục vụ Giáo Hội.

Thứ đến: là cảm hóa bằng gương sáng. Khi bị ngược đãi bởi mẹ chồng và chồng, thánh nhân đã nêu cao gương khiêm nhường, yêu thương và tha thứ. Sẵn lòng thông cảm cho tính khí của mẹ và chồng. Yêu thương, phục vụ, khiêm nhường và tha thứ là lựa chọn của thánh nhân trong những lúc khó khăn và gặp chuyện chẳng lành.

Thứ ba: là mẫu gương cầu nguyện và hy sinh. Thánh nhân đã kết hợp với Chúa cách liên lỷ và hoàn toàn phó thác nơi Ngài.

Cuộc đời của ngài với những biến cố vui buồn, thành công hay thất bại đều kết hợp với Chúa. Ngài luôn phó thác mọi sự trong sự an bài của Thiên Chúa.

Thứ tư: là sự kiên trì và trung thành. Kiên trì trong cầu nguyện. Trung thành trong niềm tin, dù nhiều khi phải quặn đau.

Quả thật, cả cuộc đời của thánh nhân đã để lại cho chúng ta gương sáng tuyệt vời nơi những người vợ, người mẹ và cho hết mọi người.

9. Mẹ là thiên thần

Có một đứa bé sắp chào đời. Nó bèn hỏi Thượng Đế: Họ nói ngày mai Người sẽ đưa con xuống trần gian, nhưng làm sao con sống nổi ở đó khi mà con quá nhỏ bé và bất lực như thế này?

Thượng Đế đáp: Trong số những thiên thần, ta đã chọn cho con một người. Thiên thần của con sẽ đợi con và săn sóc con chu đáo.

Đứa bé lại nài nỉ: Nhưng này con không phải làm việc gì ngoài ca hát và vui cười hạnh phúc chứ? Thượng Đế đáp: Thiên thần của con sẽ hát cho con nghe và cũng sẽ tươi cười với con mỗi ngày. Con sẽ cảm nhận được tình thương của người dành cho con và con sẽ thấy rất hạnh phúc.

Đứa bé lại hỏi: Và làm sao con có thể hiểu được khi họ nói chuyện với con bằng một ngôn ngữ mà con chưa hề biết đến?

Thượng Đế trả lời: Thiên thần của con sẽ nói với con bằng những ngôn từ nhẹ nhàng và đẹp đẽ nhất mà con chưa từng được nghe, đồng thời với sự nhẫn nại và cẩn trọng, thiên thần của con sẽ dạy con biết nói.

- Con nghe nói chốn trần gian lắm kẻ xấu xa. Ai sẽ bảo vệ con?

- Thiên thần của con sẽ hộ trì con ngay cả khi điều đó đe dọa đến tính mạng của người.

- Nhưng con sẽ rất buồn vì không còn được nhìn thấy Ngài nữa.

- Thiên thần của con sẽ luôn nói với con về Ta, và dạy con cách thức quay về với Ta dù rằng Ta luôn cận kề con.

Vào giây phút đó, ở nơi thiên đường ngâp tràn an lạc nhưng người ta vẫn có thể nghe thấy những tiếng gọi vang vọng từ cõi thế, và đứa bé vội vàng hỏi Thượng Đế:

- Thưa Ngài, nếu con phải đi ngay bây giờ, xin hãy cho con biết tên thiên thần hộ mạng của con.

- Tên của người không quan trọng, con chỉ đơn giản gọi người là "Mẹ.”

10. Tình yêu tiếp sức

Mạng lưới truyền hình kể câu chuyện về một cậu bé người Mêxicô, 12 tuổi, tên là Alfredo. Cậu mất cả gia đình trong một trận hỏa hoạn và khuôn mặt cậu bị biến dạng một cách khủng khiếp. Chẳng có ai tiếp nhận Alfredo đến nỗi cuối cùng cậu phải sống lang thang trên đường phố. Một hôm, tình cờ cậu gặp một trại mồ côi, cậu tìm lối vào và tại đây cậu đã được thu nhận. Tối hôm đó, trại mồ côi tổ chức buổi chúc mừng Alfredo. Giữa tiệc vui, máy quay phim ghi hình khuôn mặt Alfredo. Lần đầu tiên, kể từ vụ hỏa hoạn, khuôn mặt đó đã ánh lên nụ cười tươi tắn. Một Alfredo tưởng như đã chết nay được tái sinh trong cuộc sống mới. Một lần nữa, cậu lại có một gia đình.

Tôi có biết nhạy cảm đối với những con người bất hạnh không? Hiện nay ai là người như thế trong đời tôi?

Chúng ta có thể vẫn sống, dù nhịn ăn 40 ngày hoặc thiếu không khí trong 8 phút. Nhưng chúng ta chỉ sống được một giây, nếu không có hy vọng (Hal Lindsay).

11. Chúa tác sinh

Những phép lạ của Chúa Giêsu là những viên pháo thăng thiên của lịch sử. Đó là “những dấu chỉ” không thể sai lầm về một ngày mới đã tỏa rạng trên mặt đất này. Chúa Giêsu mở mắt người mù. Đằng sau phép lạ có một ý nghĩ sâu sắc hơn, tức là dấu chỉ về việc ta mở mắt ra trước một ngày mới. Chúa Giêsu làm cho kẻ chết sống lại. Đằng sau phép lạ này cũng có một ý nghĩa sâu xa khác, đó là dấu chỉ vế việc ta mở rộng chính mình cho quyền năng Chúa và để Ngài đưa ta từ sự chết đến sự sống.

Cái gì đã ngăn cản tôi mở đôi mắt và mở rộng chính con người tôi để đón nhận ý nghĩa sâu xa và sứ điệp chứa đựng trong phép lạ của Chúa Giêsu?

Công cuộc khám phá thực sự không phải là tìm thấy những vùng đất mới, nhưng là nhìn thấy bằng cái nhìn mới (Marcel Proust).

12. Thần chết

Một vị ẩn sĩ nọ, ngày kia lạc vào một hang động. Tại đây ông đã khám phá ra một kho tàng với không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Nhưng ông đã vội vã ra khỏi hang, vừa chạy vừa la thất thanh : "Tôi đã thấy thần chết.”

Tình cờ ba tên cướp đi ngang qua đó, nghe tiếng kêu của vị ẩn sĩ, họ dừng lại hỏi chuyện.

Muốn chứng tỏ mình là những người không biết sợ là gì, ba tên cướp yêu cầu đưa họ đến gặp thần chết. Vị ẩn sĩ dẫn họ vào hang động và chỉ vào kho tàng. Mắt họ sáng lên và lập tức ba tên cướp tống cổ vị tu hành ra khỏi hang.

Nhưng kho tàng quá lớn, họ không thể mang ra tất cả trong một ngày. Sau một hồi bàn cãi ba tên cướp đồng ý để một người ra phố mua sắm lương thực. Hai người còn lại ngồi đó canh giữ kho báu.

Người được sai đi chợ nghĩ thầm trong bụng : "Ta sẽ ăn uống no nê, sau đó bỏ thuốc độc vào thức ăn. Hai tên khốn nạn sẽ chết và tạ sẽ chiếm trọn kho tàng.”

Hai tên ngồi canh giữ kho báu cũng bàn với nhau : "Chúng ta sẽ giết hắn. Và như thế phần của mỗi người chúng ta sẽ nhiều hơn.”

Khi kẻ mang lương thực về đến hang động : họ liền giết hắn và nuốt trọn thức ăn có thuốc độc. Thế là cả ba đã cùng nhau đi gặp thần chết như lời vị ẩn sĩ tiên báo.

13. Trách nhiệm với sự sống

Một Rabbi do thái tên là Nahman vừa có đứa con trai bị chết. Các rabbi bạn ông đến an ủi nhưng chẳng thể nào làm cho ông hết đau lòng. Cuối cùng Rabbi Moses kể cho ông nghe câu chuyện sau đây :

Một ông vua kia giao cho một người đầy tớ giữ một báu vật. Anh này ngày nào cũng than : "Khốn thân tôi ! Biết tới chừng nào nhà vua mới lấy lại báu vật này để tôi không còn phải gánh vác trách nhiệm to lớn này nữa.”

Rồi Rabbi Moses áp dụng : Bạn cũng đã được giao trách nhiệm gìn giữ một báu vật là đứa con rất tốt lành của bạn. Nay nó đã được cất khỏi thế gian này mà không bị sự dữ nào làm hoen ố. Vậy bạn phải vui mừng vì đã chu toàn trách nhiệm mà Vua các vua đã giao cho ông chứ !

Câu chuyện và lời khuyên của Rabbi Moses đã làm vơi đi nỗi buồn ủa Rabbi Nahman.

14. Giá trị của sự sống vĩnh cửu

Linh mục thừa sai Paul Belliveau ở Maryknoll cai quản một trong những giáo xứ đặc biệt nhất thế giới. Giáo xứ này gồm khoảng 11 ngàn người tỵ nạn Salvador sống trong một trại tập trung ở Honduras.

Đa số họ là phụ nữ, trẻ em và người già. Họ giống như những tù nhân bị giam lỏng, bởi vì chung quanh trại, đám lính luôn canh chừng không cho họ trốn chạy đi tìm tự do ở nơi khác chẳng hạn như ở Mỹ.

Đây là hai đoạn trích từ một quyển nhật ký mà Linh mục Belliveau còn giữ lại. Đoạn thứ nhất được ghi lại vào một ngày Chúa Nhật, nội dung như sau: Tôi để ý thấy nhiều dân tỵ nạn cứ dán mắt vào những tấm ván hở để nhìn ra phía ngoài nhà nguyện khi có 18 người lính gác Honduras đi ngang qua trại. Tôi cảm thấy hình như họ rất sợ hãi. Biết bao nhiêu lần chính mắt họ đã từng nhìn thấy những toán lính vũ trang như thể tiến vào giết chóc và tiêu diệt làng mạc của họ tại El Salvador. Tôi đã phải trấn an họ trước khi chúng tôi tiếp tục Thánh lễ.

Đoạn thứ hai đề ngày thứ ba, nội dung như sau: Khi đến khu trại số 5, tôi thấy có nhiều phụ nữ đang đọc kinh trong nhà nguyện. Tôi bước vào và ngồi xuống. Khoảng 80 phụ nữ đang gẫm Đàng Thánh Giá. Mỗi một chặng ngắm họ đều so sánh nỗi đau đớn của Chúa Giêsu với khổ đau mà dân tỵ nạn đang gánh chịu. Hai người phụ nữ kể cho tôi rằng họ đã đặt tên cho nhóm của mình là ‘Nhóm các bà mẹ mất con vì bạo lực ở El Salvador’. Trong khi nói chuyện với đám phụ nữ, Linh mục Belliveau nhìn thấy nơi khuôn mặt họ nỗi đau đớn mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi khuôn mặt bà góa thành Naim. Cha hết lòng ao ước phải chi cha có thể làm cho những người con đã chết của họ sống lại giống như Chúa Giêsu đã làm cho con trai của bà góa nọ. Nhưng tiếc thay Belliveau không phải là Chúa Giêsu.

Nhưng rồi vị Linh mục chợt nhận thấy một điều gì đó. Cha nhận ra rằng lúc này đây, Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện thực sự trong nguyện đường này giống như Chúa đã từng hiện diện nơi làng Naim hơn 2000 năm về trước; và hơn thế nữa, Chúa Giêsu vẫn đang thực hiện nơi nhà nguyện bé nhỏ này phép lạ còn vĩ đại hơn phép lạ tại Naim nữa; Vì nhờ lời cầu xin của các phụ nữ góa bụa này, Chúa Giêsu không phải chỉ phục sinh đám con cái họ về mặt thể lý, vì điều này cũng sẽ chỉ kéo dài nhiều lắm là 30-40 năm, trái lại, Ngài ban cho lũ con ấy cuộc sống vĩnh cửu, như lời Ngài đã phán: Đây là ý Chúa Cha: Hễ ai thấy Chúa Con và tin vào Ngài sẽ được sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày tận thế (Ga 6,40). Và bỗng dưng, Linh mục Belliveau nhận ra rằng phép lạ Chúa Giêsu thực hiện cho các tín hữu còn vĩ đại hơn nhiều so với phép lạ Ngài đã làm cho con trai bà góa thành Naim.

15. Phép màu

Một cô bé tám tuổi nghe cha mẹ mình nói chuyện về đứa em trai nhỏ. Cô bé chỉ hiểu rằng em mình đang bị bệnh rất nặng và gia đình cô không còn tiền. Chỉ có một cuộc phẫu thuật rất tốn kém mới cứu sống được em trai cô bé, và cha mẹ em không tìm ra người nào quảng đại để có thể vay tiền. Do đó, gia đình em sẽ phải dọn đến ở một căn nhà nhỏ hơn vì họ không đủ khả năng tiếp tục ở căn nhà hiện tại sau khi trả tiền bác sĩ.

Cô bé nghe bố nói với mẹ bằng giọng thì thầm tuyệt vọng:

- Chỉ có phép màu mới cứu sống được Andrew.

Thế là cô bé vào phòng mình, kéo ra một con heo đất được giấu kỹ trong tủ. Em dốc hết đống tiền lẻ và đếm cẩn thận.

Rồi cô bé lẻn ra ngoài bằng cửa sau để đến tiệm thuốc gần đó. Em đặt toàn bộ số tiền mình có lên quầy.

Người bán thuốc hỏi:

- Cháu cần gì?

Cô bé trả lời:

- Em trai của cháu bệnh rất nặng và cháu muốn mua phép màu.

- Cháu bảo sao? - Người bán thuốc hỏi lại.

- Em cháu tên Andrew. Nó bị một căn bệnh gì đó trong đầu mà bố cháu nói chỉ có phép màu mới cứu được nó. Phép màu giá bao nhiêu ạ?

- Ở đây không bán phép màu, cháu à. Chú rất tiếc - Người bán thuốc nở nụ cười buồn và tỏ vẻ cảm thông với cô bé.

- Cháu có tiền trả mà. Nếu không đủ, cháu sẽ cố tìm thêm. Chỉ cần cho cháu biết giá bao nhiêu?

Trong cửa hàng còn có một vị khách ăn mặc thanh lịch. Sau khi nghe câu chuyện, ông cúi xuống hỏi cô bé:

- Em cháu cần loại phép màu gì?

- Cháu cũng không biết nữa. - Cô bé trả lời, rớm rớm nước mắt. - Nhưng em cháu rất cần phép màu đó. Nó bị bệnh nặng lắm, mẹ cháu nói rằng nó cần được phẫu thuật và hình như phải có thêm loại phép màu gì đó nữa mới cứu được em cháu. Cháu đã lấy ra toàn bộ số tiền để dành của mình để đi tìm mua phép màu đó.

- Cháu có bao nhiêu? - Vị khách hỏi.

Cô bé trả lời vừa đủ nghe:

- Một đô-la mười một xu.

Người đàn ông mỉm cười:

- Ồ! Vừa đủ cho cái giá của phép màu.

Một tay ông cầm tiền của cô bé, tay kia ông nắm tay em và nói:

- Dẫn bác về nhà cháu nhé. Bác muốn gặp em trai và cha mẹ cháu. Để xem bác có loại phép màu mà em cháu cần không.

Người đàn ông thanh lịch đó là Bác sĩ Carlton Armstrong, một phẫu thuật gia thần kinh tài năng. Ca mổ được hoàn thành mà không mất tiền, và không lâu sau Andrew đã có thể về nhà, khỏe mạnh.

Mẹ cô bé thì thầm:

- Mọi chuyện diễn ra kỳ lạ như có một phép màu. Thật không thể tương tượng nổi. Thật là vô giá!

Cô bé mỉm cười. Em biết chính xác phép màu giá bao nhiêu. Một đô la mười một xu, cộng với niềm tin chân thành của một đứa trẻ, và lòng tốt của người bác sĩ.

Vâng! Niềm tin, sự chân thành và lòng trắc ẩn của con người có thể khiến phép màu xảy ra!

16. Cái giếng cũ

 Ðây là một cái giếng mà nước rất trong sạch và dịu mát làm cho ai uống vào cũng cảm thấy khoan khoái. Một điều đặc biệt nữa là chưa bao giờ giếng này cạn nước cho dù mùa hè có nắng hạn đến đâu đi nữa. Chủ nhân của cái giếng này là một bác nông dân nghèo.

 Nhưng đến một lúc mà hệ thống điện nước chuyển đến nông thôn, thì cái giếng của bác xem ra cũng trở thành vô dụng. Căn nhà của bác cũng được sửa chữa lại, hệ thống dẫn nước cũng được thiết lập. Không ai buồn nghĩ đến chuyện phải vất vả để kéo nước từ cái giếng đó nữa. Thế là cái giếng bị đóng lại.

 Bẵng đi nhiều năm trời. Một ngày nọ vì tò mò, người nhà của bác nông dân mở cái giếng cũ ra xem, thì lạ thay, giếng nước đã bị khô cạn. Bác nông dân không thể hiểu tại sao cái giếng nước trong lành của mình đã trở thành khô cạn. Mãi về sau, ông mới khám phá ra nguyên do: cái giếng cũ của ông vốn được bao nhiêu mạch nhỏ tiếp tế, càng múc nước thì nước càng tuôn chảy vào giếng. Nay đã nhiều năm qua, nước giếng không còn được múc lên nữa cho nên các mạch nước bị bít kín và phần nước còn sót lại trong đáy giếng cũng dần bị bốc hơi và khô cạn.

 Câu chuyện về cái giếng cũ trên đây có thể là một dụ ngôn về suối nước không bao giờ khô cạn mà Thiên Chúa đã mở ra qua cái chết của Chúa Giêsu Kitô. Cái chết của Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của một cuộc đời hướng về tha nhân, tiêu hao vì tha nhân, dốc cạn vì tha nhân. Ðó cũng là chân lý về cuộc đời. Càng trao ban, càng dốc cạn, càng được múc lấy. Càng tiêu hao, càng mất chính mình thì con người càng trở nên phong phú, con người càng trở nên chính mình. Giếng nước càng được múc thì càng trở nên dồi dào. Con người càng trao ban thì cũng càng trở nên phong phú hơn.

17. Thương cảm

Các Phúc Âm cho thấy rõ ràng rằng sự thương cảm là một động lực đằng sau công việc chữa lành của Đức Giêsu.

Walter Payton là một trong những cầu thủ nổi tiếng của đội dã cầu Chicago Bears. Ở Chicago, ông thường được gọi là “Sweetness” và cũng là một trong những cầu thủ giỏi nhất chơi cho đội Bears.

Về phương diện cá tính cũng như nghề nghiệp, ông xứng đáng với cái tên “Sweetness.”

Ông mất sớm, và sau khi từ trần không lâu, một bà trước đây ở Chicago gửi một lá thư cho tờ Dallas Morning News. Bà kể khi tham dự một cuộc triển lãm xe hơi ở Chicago, ông Walter Payton đang đứng trên một cái bục, ký tên lưu niệm.

Một bé trai, khoảng 12 tuổi, đưa cho người giúp việc một trái banh dã cầu mà em đã đem theo từ nhà để được ông Payton ký tên vào đó.

Ông Payton ký tên, ném trái banh xuống cho bé trai này, và tiếp tục ký tên lưu niệm. Ông không thấy rằng một thiếu niên cao lớn khác đã chụp lấy trái banh này và lẻn ra khỏi đám đông. Em bé trai ôm mặt khóc.

Một phụ nữ đứng cạnh đó đã len qua đám đông để lưu ý người giúp việc về sự kiện xảy ra. Ông này đã nói lại cho ông Payton biết về sự việc và ông Payton đã gọi em bé trai đến.

Ông hỏi tên và địa chỉ của em và cho biết ông sẽ gửi cho em một trái dã cầu có chữ ký của ông.

Người phụ nữ viết thư cho tờ báo đó nói:

Tôi chưa bao giờ được thấy nước mắt trở thành một nụ cười tươi rói sau khi em bắt tay ông Payton.

Bà kết luận: Tôi tin rằng ông Payton không chỉ là “Mr. Sweetness” ở ngoài sân banh, nhưng còn trong mọi khía cạnh của cuộc đời ngắn ngủi của ông. (Lorraine Rukavina, Carrollton, Texas)

18. Chiếc áo từ nhân

Marie Paranov, một bá tước phu nhân người Nga, đang trên đường đi Menton, bên Ðức để chữa bệnh lao phổi. Ngồi một mình trong toa xe lửa bà cảm thấy cô đơn lạc lõng. Người lão bộc Ivan cùng đi, chỉ đến toa của bà thăm hỏi và chờ lệnh của bà ở mỗi lần xe ngừng lại tại trạm nghỉ mà thôi.

Ðêm xuống dần trong khi tàu vẫn chạy nhanh, phu nhân cảm thấy khó ngủ nên bà mở ví ra trút hết những đồng tiền vàng trên lòng bàn tay và bắt đầu đếm, vì chồng bà đã cho bà một số tiền để hộ thân. Bỗng, bà cảm thấy một luồng gió lạnh tạt vào. Ngẩng lên, bà bắt gặp một người đàn ông cao lớn, ăn mặc chỉnh tề lịch sự và bị thương ở tay đi vào toa xe của bà. Ông ta đóng cửa lại và nhìn bà với đôi mắt đen nhánh. Bà run sợ quá đến nỗi những đồng tiền vàng rơi xuống sàn tàu. Người lạ mặt nhìn những đồng tiền vàng ấy và cúi xuống nhặt lên. Thừa cơ hội, bá tước phu nhân đứng dậy chạy ra phía cửa sổ định nhảy xuống tàu. Biết ý định của bà, ông ta nắm giữ bà lại và xin bà ngồi xuống rồi nói:

- Thưa bà, hãy nghe tôi. Tôi không phải là tên gian phi, tôi nhặt tiền này để trả lại cho bà. Tôi sẽ chết nếu bà không giúp tôi qua khỏi biên giới. Khoảng một giờ sau tôi phải có mặt ở trạm cuối cùng của nước Nga, mười phút sau đó tôi phải có mặt ở một nước khác. Nếu bà không cứu giúp tôi, tôi sẽ bị bắt, tôi không thể giải thích tại sao, nhưng xin bà hãy tin tôi. Tôi không sát nhân, không trộm cắp, không làm điều gì sai quấy. Tôi lấy danh dự thề với bà, xin bà hãy cứu giúp tôi.

Bà bá tước phu nhân lặng thinh, lấy lại bình tĩnh dần dần, còn ông ta thì ngồi bất động mắt nhìn về phía trước. Thỉnh thoảng, bà liếc nhìn ông thật nhanh. Tàu lướt chạy nhanh trong đêm tối rồi dừng lại ở một trạm nghỉ. Người nô bộc Ivan đến cửa toa để nhận lệnh của bà. Bà nhìn người bạn đồng hành xa lạ rồi nói với lão nô bộc:

- Ivan, ta không cần ngươi theo ta đến Menton nữa, hãy lấy tiền này mà mua vé trở lại Saint Peterbourg. Cảm ơn lão đã giúp ta, hãy cho ta cái áo khoác, cái mũ và cái giấy thông hành của lão.

Người nô bộc không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nhưng theo lệnh của chủ, ông lột mũ, cởi áo khoác và trao giấy thông hành cho bà rồi ra đi. Bá tước phu nhân nói với người khách lạ:

- Hãy mặc áo, đội mũ vào. Bây giờ ông là Ivan, người nô bộc của tôi. Tôi chỉ cần điều kiện duy nhất là việc gì tôi làm cho ông, ông không được nói gì cả. Tôi không muốn bất cứ điều gì ngay cả khi ông chỉ nói với tôi một tiếng cám ơn.

Người khách lạ gật đầu, không nói một câu, im lặng làm theo ý bà. Chẳng bao lâu, tàu dừng lại lần nữa, nhiều cảnh sát đi vào toa. Bá tước phu nhân kiêu hãnh nói với họ:

- Tôi là bá tước phu nhân Paranov ở Saint Peterbourg, và đây là người đầy tớ Ivan của tôi.

Bà đưa cho viên sĩ quan coi giấy thông hành. Xem xong, họ trả lại bà. Trong đêm đó, hai người đều im lặng. Sáng hôm sau, tàu ngừng tại Menton. Ðây là trạm cuối cùng. Hai người chào từ giã nhau mà không nói với nhau một lời.

Tất cả những diễn biến trong chuyến tàu đêm ấy đã phát xuất từ trái tim đầy từ bi và nhân hậu của bá tước phu nhân. Chiếc áo khoác của người nô bộc Ivan đã trở thành chiếc áo từ nhân khoác lên một người cần lòng bao dung cứu giúp. Chiếc áo từ nhân ấy đã trở thành chiếc áo an toàn cho một người cần vượt biên giới. Trước một người van nài lòng thương xót, chiếc áo nô bộc đã trở thành chiếc áo từ nhân.

LỄ THÁNH GIOAN TẨY GIẢ BỊ TRẢM QUYẾT - CÁI CHẾT CỦA MỘT TIÊN TRI

Lời Chúa: Mc 6, 17-29

Khi ấy, Hêrôđê đã sai đi bắt Gioan và giam ông trong ngục: nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình." Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe.

Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muốn gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho."

Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gio-an Tẩy Giả." Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa." Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ.

Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.

TRUYỆN KỂ

1. Một học sinh can đảm

Một học sinh Nhật là Kitô hữu duy nhất trong một ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật." Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì. Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Kitô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cảm ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm gì”

2. Thánh tử đạo vô danh

Ngày 27/04/1945, quân Đức Quốc Xã thất trận, phải rút quân ở Italia về biên giới nước Áo. Trên đường rút quân, họ đã bắn phá nhiều làng mạc để trả thù quân kháng chiến Italia đã cố tình tìm cách cản trở đường rút rui của họ. Trong tình cảnh này, Linh mục Decande, một Cha sở nhân lành vì muốn cứu dân làng Fiatsa gần thành phố Vêrôna khỏi bị quân Đức tàn sát, đã đích thân đến gặp viên quan chỉ huy đoàn quân Đức để van nài ông đừng bắt giết và tàn sát dân làng vô tội. Bị quẫn trí vì sự thất trận.Viên sỹ quan giận dữ ra lệnh bắt giam Cha Sở. Ông quát lên với Ngài:

- Mày phải bị xử bắn và chết thay cho những tên kháng chiến phá hoại mà chúng tao không bắt được. Mày phải đền tội thay cho những kẻ khác!

Nói rồi, viên sỹ quan ra lệnh cho toán quân hành quyết sẵn sàng. Vị Linh mục bị trói, đứng bất động chờ loạt đạn của tiểu đội hành quyết. Bỗng nhiên từ hàng quân đang chĩa súng vào ngài đợi lệnh để nổ súng, một quân nhân bước ra khỏi hàng, tiến đến trước mặt ngài và nghiêm chỉnh chào. Rồi anh quay lại nói với vị chỉ huy của mình:

- Tôi là tín hữu Công Giáo, không bao giờ tôi lại bắn vào vị Linh mục của Chúa.

Viên sỹ quan tái mặt. Ông ra lệnh trói luôn người lính can đảm kia bên cạnh vị Linh mục. Một vài phút sau đó, một loạt đạn nổ vang, hai thây người ngã gục, toán lính kéo hai xác người vùi xuống một hố bom gần đó. Dân làng Fiatsa không biết người lính Đức Công Giáo đó tên là gì, họ chỉ tìm thấy trên thi hài anh một xâu chuỗi mân côi.

3. Lương tâm con người

Văn hào Chateaubriand của Pháp vào thế kỷ 19 đã viết về lương tâm con người như sau: “Con sư tử sau khi giết và ăn thịt con mồi có thể nằm lăn ra ngủ, nhưng con người không thể ngủ yên sau khi giết hại một người đồng loại của mình."

Thi hào Victor Hugo trong bài thơ “Lương tâm” đã mô tả tâm trạng vô cùng đau thương của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Cho dẫu Cain có đi đâu, cho dẫu ông có đào một huyệt sâu trong lòng đất để trú ẩn, ánh mắt lương tâm cũng không bao giờ buông tha cho ông."

4. Không biết tội của mình

Tại một xứ Hồi giáo nọ, có người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ vì ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ từ tội liền xin nhà vua:

- Tâu bệ hạ, xin cho thần được chồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không truyền lại cho hậu thế được.

Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn chồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:

- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không trồng được.

Nhà vua tin lời, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:

- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần cảm thấy không đủ điều kiện trồng hạt táo này.

Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.

Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:

- Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ tôi.

Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xao trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.

5. Lừa dối lương tâm

Dương Chấn, người đất Quan Tây đời nhà Hán, làm quan Thái Úy, tính tình thanh liêm, chánh trực. Khi đang làm Thứ Sử, ông có tiến dẫn Vương Mật làm Lệnh Doãn huyện Xương Ấp.

Một hôm, trời tối đi ngang qua Xương Ấp, Dương Chấn nghỉ lại đó một đêm. Vương Mật lén đem 10 lượng vàng đến để đền ơn thuở trước. Dương Chấn thấy vậy, trách Vương Mật:

- Ta biết tài ngươi, mà ngươi không biết được lòng ta.

Vương Mật cố năn nỉ:

- Đêm hôm khuya khoắt, không có một ai hay biết, ngài sợ gì?

Dương Chấn nghiệm mặt đáp:

- Sáng thì có trời đất biết, tối thì có quỷ thần soi biết, trong có ta biết, ngoài có ngươi biết. Chỗ hay biết có nhiều như vậy, sao ngươi gọi là không ai biết?

6. Lương tâm chân chính

Nhóm nhạc Lê Minh Bằng (1959), cho ra đời Đêm Nguyện Cầu – nhạc phẩm đầu tay của nhóm – được mở đầu với những ca từ như sau:

“Hãy lắng tiếng nói vang trong tâm hồn mình, người ơi

Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối…”

 Làm đánh động lương tâm nhiều người yêu hòa bình; chán ghét chiến tranh hận thù… trong những năm đất nước còn chiến tranh tương tàn.

Hôm nay, Giáo hội tưởng nhớ cái chết bi thương của một vị thánh đã dám bày tỏ lương tâm chân chính của mình để bảo vệ chân lý; can đảm chấp nhận trảm quyết để nói lên sự thật; và đã nên chứng nhân anh hùng cho Tin Mừng Cứu Độ…

Lời Chúa Tuần 21 Thường Niên
Thường niên VGS CPS Ngoại lịch