LỜI CHÚA TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN
GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG
CNTN 21A - CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI
CNTN 21C – CỬA HẸP VÀ ƠN CỨU ĐỘ
THỨ NĂM - TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG
THỨ BẢY - TRUNG TÍN VÀ SÁNG KIẾN
LỄ THÁNH MONICA - CHÚA ĐỘNG LÒNG THƯƠNG
LỄ THÁNH GIOAN TẨY GIẢ BỊ TRẢM QUYẾT - CÁI CHẾT
CỦA MỘT TIÊN TRI
CNTN 21A - CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI
Lời Chúa: Mt 16, 13-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt
thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người
là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là
Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó." Chúa Giêsu nói
với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy
là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi
Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải
cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con
là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng
được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất,
trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở."
Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ
cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi
các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại.
Phêrô kéo Người lại mà can gián
Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải
như vậy đâu." Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy
lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự
thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người."
TRUYỆN KỂ
1. Con chẳng hiểu biết
Hội thánh là chính Chúa Giêsu tiếp
tục sống giữa chúng ta. Qua các thời đại, cũng có những người lớn tiếng hô hào
rằng: Hội thánh đã đến ngày tận số! Nhưng Hội thánh vẫn còn tiếp tục qua 2000
năm nay và vẫn còn tiếp tục. Chúng ta hãy nghe một số phát biểu:
Năm 305, hoàng đế Dioclesianô ra
lệnh đúc những kim tiền với dòng chữ: Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt.
Năm 1758, Voltaire nói tiên tri:
hai mươi năm nữa đạo Công giáo sẽ hết đời.
Năm 1850, P. Proudhon quả quyết:
các người đạo đức hãy lo giấy thông hành trước đi. Mười năm nữa sẽ không còn vị
linh mục nào để xức dầu cho đâu.
Và năm 1904, Combes tuyên bố: ba
tháng nữa bọn giáo sĩ phản động sẽ bị tiêu diệt.
Đời nào cũng có những người cao
hứng muốn làm nhà tiên tri để phê phán về số mạng của Hội thánh. Nhưn bây giờ họ
ở đâu? Họ đã chết. Hội thánh vẫn còn sống, sống mạnh, sống mãi.
Thánh Augustinô nói: ”Họ nhìn thấy
Hội thánh, họ nói: Hội thánh sẽ chết, giáo dân đã đến ngày tận số. Nhưng tôi thấy
họ chết mỗi ngày mà Hội thánh vẫn tồn tại để rao giảng quyền lực của Thiên Chúa
cho các thế hệ nối tiếp nhau."
2. Ý Chúa nhiệm mầu
Hội thánh là chính Chúa Giêsu tiếp
tục sống giữa chúng ta. Qua các thời đại, cũng có những người lớn tiếng hô hào
rằng: Hội thánh đã đến ngày tận số! Nhưng Hội thánh vẫn còn tiếp tục qua 2000
năm nay và vẫn còn tiếp tục. Chúng ta hãy nghe một số phát biểu:
Năm 305, hoàng đế Dioclesianô ra
lệnh đúc những kim tiền với dòng chữ: Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt.
Năm 1758, Voltaire nói tiên tri:
hai mươi năm nữa đạo Công giáo sẽ hết đời.
Năm 1850, P. Proudhon quả quyết:
các người đạo đức hãy lo giấy thông hành trước đi. Mười năm nữa sẽ không còn vị
linh mục nào để xức dầu cho đâu.
Và năm 1904, Combes tuyên bố: ba
tháng nữa bọn giáo sĩ phản động sẽ bị tiêu diệt.
Đời nào cũng có những người cao
hứng muốn làm nhà tiên tri để phê phán về số mạng của Hội thánh. Nhưn bây giờ họ
ở đâu? Họ đã chết. Hội thánh vẫn còn sống, sống mạnh, sống mãi.
Thánh Augustinô nói: ”Họ nhìn thấy
Hội thánh, họ nói: Hội thánh sẽ chết, giáo dân đã đến ngày tận số. Nhưng tôi thấy
họ chết mỗi ngày mà Hội thánh vẫn tồn tại để rao giảng quyền lực của Thiên Chúa
cho các thế hệ nối tiếp nhau."
3.
Viên đá đầu tiên
Cho đến năm 1896, vùng Cayenne ở
Saint Ouen không bao giờ thấy bóng chiếc áo dòng đen. Nhưng một ngày trong năm
đó, một vị Linh mục cả gan xâm nhập vào vùng ấy. Một người thấy vậy liền ném đá
vào đầu Linh mục. Vị Linh mục cúi xuống nhặt lấy viên đá đầy máu đỏ.
- Xin cảm ơn ông, đây là viên đá
đầu tiên của một đền thờ tôi muốn xây ở đây.
Và sự thật viên đá đó là viên đá
đầu tiên của đền thờ Mân côi được xây ở đó.
Nước Chúa trên mặt đất này là Hội
thánh, cũng bắt đầu trong nhỏ hèn, trong bạc đãi như vậy. Hội thánh vẫn phát
triển trong âm thầm và đau khổ.
4. Làm gì cho Chúa
Trong tiểu sử của thánh Charles
de Foucauld kể rằng: sau khi từ Ma-rốc trở về, anh say sưa kể lại cho gia đình
nghe những cuộc thám hiểm đầy kỳ thú của anh qua những khu rừng Phi châu, người
chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái chưa đầy 10 tuổi. Khi
anh vừa kể xong, bất ngờ cô bé hỏi: "Thưa cậu, cháu thấy cậu làm được nhiều
việc rất hay, thế cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?" Câu hỏi ấy như
một luồng điện giật làm Charles de Foucauld bất động. Từ bao lâu nay chưa ai đã
khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế: anh đã làm được gì cho Chúa Giêsu? Anh lục
soát tâm hồn mình, anh chỉ thấy một lỗ hổng không đáy, anh đã phí phạm tất cả
thời giờ và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi trụy lạc và những danh vọng
thấp hèn, mắt anh bỗng mở ra để thấy nỗi khốn khổ, nghèo hèn của mình.
Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội
với một linh mục. Anh vào dòng khổ tu, ít lâu sau, anh xin đến Na-da-rét để sống
trọn vẹn cho Chúa Giêsu. Một ngày kia, khi đang cầu nguyện sốt sắng trong
phòng, bỗng anh nghe thấy từ căn nhà bên cạnh tiếng rên rỉ của một người Hồi
giáo, nhớ lại gương bác ái của Chúa Giêsu, anh tự hỏi: tôi có thể giam mình cầu
nguyện trong phòng trong lúc có những anh chị em chung quanh đang khốn khổ thất
vọng chăng? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ, trở thành người anh em của
họ, nhất là của những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn. Những năm cuối đời,
anh sống giữa sa mạc Sa-ha-ra, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống cho những người cùng
khổ, và chia sẻ đến giọt máu cuối cùng khi phát súng oan nghiệt của kẻ sát nhân
bắn gục anh giữa lúc anh đang cầu nguyện.
5. Mẩu chuyện về Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II:
Cách đây ít lâu, một tờ báo Ý đã
tiết lộ một tin quan trọng về thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II như sau: Khi
còn là sinh viên Ba-lan đi du học tại Rô-ma, một hôm khi cùng các bạn sinh viên
đến thăm linh mục đáng kính là cha Pi-ô được tiếng là rất đạo đức thánh thiện,
đã từng được Chúa Giêsu hiện ra ban năm dấu thánh trên mình giống như Người. Vừa
gặp mặt cậu sinh viên, cha Pi-ô đã ôm chầm lấy cậu và nói tiên tri rằng: “Một
ngày kia, con sẽ làm Giáo hoàng, và đời của con sẽ gặp nhiều trắc trở, bị đau
khổ và còn chịu đổ máu mình ra vì Chúa nữa." Bấy giờ cậu sinh viên trả lời:
“Con không sợ sau này sẽ bị đổ máu, vì làm sao con có thể trở thành Giáo hoàng
được!" Nhưng thánh ý Chúa quả thật nhiệm mầu: Hồng y Vốt-ti-la người
Ba-lan sau này đã được bầu làm Giáo hoàng, nhận danh hiệu là Gio-an Phao-lô Đệ
Nhị. Về sau ngài đã bị đổ máu trong cuộc mưu sát bất thành vào năm 1981 tại quảng
trường thánh Phêrô. Hơn 20 năm sau, hãng thông tấn Apcom của Ý và nhật báo
Ba-lan Rzeczpospolita đã đưa tin: Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã từng
viết một bức thư (trước đó chưa được công bố), cho M. Ag-ca, kẻ đã bắn ngài trọng
thương vào năm 1981. Linh mục S Dziwisz thư ký riêng của Đức thánh Giáo hoàng
đã xác nhận sự tồn tại của lá thư trên và cho biết nó đã không được gửi đến người
nhận. Bức thư được viết không lâu sau vụ ám sát. Trong thư, Đức Gio-an Phao-lô
II đã hỏi Ag-ca người Thổ Nhĩ Kỳ rằng: Tại sao hắn lại muốn giết ngài, trong
khi cả hai cùng tôn thờ Chúa? Theo tờ Rzeczpospolita, lúc đầu vị thánh Giáo
hoàng đã định gửi bức thư này. Nhưng sau đó ngài lại thôi không gửi đi nữa, và
thay vào đó, đến năm 1983 ngài đã đền gặp trực tiếp kẻ đã muốn lấy mạng ngài tại
một nhà tù ở Ý, và đã sẵn sàng tha thứ cho hắn ta. Đến năm 2000, Ag-ca đã bị dẫn
độ về Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đã thụ án gần 20 năm ở Ý. Đức Gio-an Phao-lô II là vị
Giáo hoàng thứ 264 kể từ Tông đồ Phêrô là Giáo hoàng đầu tiên. Hiện nay Đức
Phan-xi-cô lên thay thế Đức Bê-nê-đích-tô 16 và là vị Giáo Hòang thứ 266 kể từ
thánh Phêrô Tông đồ. Ngoài ra vào ngày 27/04/2014 vừa qua, Đức cố Giáo hòang
Gio-an Phao-lô II đã được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô phong Thánh chung với thánh
Giáo hoàng Gio-an 23 tại đền thánh Phêrô ở Rô-ma vào ngày Chúa Nhật II PS là lễ
kính Lòng Chúa Thương Xót.
6. Hội Thánh xây trên nền
đá đức tin của Phêrô Luôn trường tồn:
Qua nhiều thế kỷ từ ngày thành lầp
đến nay, Hội thánh do Chúa Giêsu thiết lập đã trải qua nhiều nguy cơ có thể sụp
đổ, nhưng Hội thánh vẫn trường tồn nhờ được xây trên nền đá vững chắc là đức
tin của Phêrô vào Chúa Giêsu như sau:
Dưới thời Hoàng đế
Di-o-cle-si-a-nô, Đế quốc Rô-ma quyết tâm tiêu diệt Hội thánh của Chúa Kitô.
Năm 305, Di-o-cle-si-a-nô đã ra lệnh đúc những đồng tiền bằng kim loại trên đó
có dòng chữ: “Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt." Nhưng rồi sau đó Hội
Thánh đã vượt qua cơn bách hại của đế quốc và không ngừng phát triển đi khắp thế
gian.
Đến thời kỳ Trung cổ tại Âu
châu, nhiều nhà trí thức vô thần đã hè nhau đánh đổ đức tin của các tín hữu.
Năm 1758, Vol-tai-re đã dám tuyên bố: “Chỉ hai mươi năm nữa thôi là đạo Công
giáo sẽ hết thời." Rồi năm 1850, P. Prou-dhon lại lên tiếng thách thức: “Lũ
tín hữu mê tín các ngươi hãy mau lo giấy thông hành ngay đi. Vì chỉ mươi năm nữa
thôi, sẽ không còn một linh mục nào còn sống sót để xức dầu cho các người!” Đến
năm 1904, Com-bes cũng tuyên bố: “Chỉ ba tháng nữa là bọn giáo sĩ phản động sẽ
hoàn toàn bị tiêu diệt!"
Quả thật, thời nào cũng có những
người thù ghét đạo công giáo và tiên báo về ngày tàn của Hội thánh này. Nhưng đến
nay không ai trong bọn họ còn sống sót, đang khi Hội thánh vẫn trường tốn và
ngày một phát triển. Thánh Au-gus-ti-nô có lần đã phát biểu: ”Những kẻ thù ghét
đạo Chúa nhìn Hội thánh và nói: Hội thánh sắp chết, bọn giáo dân đã đến ngày tận
số! Nhưng tôi thấy bọn người đó đều chết đi mỗi ngày, trong khi Hội thánh vẫn
luôn tồn tại để rao giảng quyền năng của Thiên Chúa cho các thế hệ nối tiếp
nhau mãi."
7. Khi tình yêu bị coi
thường
Vào tháng 11 năm 1994, một câu
chuyện làm rung động cả Nước Mỹ đó là chuyện cô Susan Smith, một bà mẹ trẻ sống
ở thành phố Union, tiểu bang South Carolina, đã giết hai đứa con nhỏ để không mất
tình nhân. Trước một thảm cảnh gia đình quá đau thương như thế, nhiều người chỉ
biết lắc đầu hỏi: Tại sao một người mẹ có thể giết chết con của mình một cách
tàn nhẫn như thế!
Nhìn lại cuộc đời của cô Susan
Smith, người ta thấy rằng cô đã bước vào hôn nhân một cách vội vàng, khi chính
cô cũng như người chồng trẻ đều chưa sẵn sàng. Hôn nhân của hai người không được
xây dựng trên một nền tảng vững chắc nên đã sụp đổ mau chóng. Không những thế,
khi ngã vào tình yêu lần thứ hai, cô Susan Smith cũng không biết rõ những yếu tố
cần thiết để xây dựng một hôn nhân vững bền nên cô đã sẵn sàng làm bất cứ điều
gì cô nghĩ là cần phải làm để nắm giữ tình yêu đó. Kết quả là, khi thấy người
yêu tỏ vẻ không thích trẻ con, cô Susan Smith đã giả vờ bị tai nạn để hai đứa
con nhỏ chết chìm dưới sông.
8. Viên đá bị loại bỏ
Một câu chuyện có thật được một
Cha trong Dòng kể lại sau khi đi Tây về kể lại là có an viện nọ ở bên Pháp. Chẳng
hiểu sao mà du khách đến đan viện thấy cảnh trong tu viện buồn tẻ và u uất đến
thế! Thấy cảnh tượng như thế ai cũng buồn nản. Đan Viện Trưởng bắt đầu cải tổ lại
đời sống trong đan viện bằng cách lấy lại đời sống thiêng liêng, đời sống đạo đức,
cầu nguyện thì tình hình bắt đầu thay đổi. Từ ngày ấy các vị ẩn sĩ thay đổi đời
sống, họ yêu thương nhau hơn và chính tình yêu của họ đã lan toả đến tất cả những
người đến thăm đan viện.
Lý do chính để đánh mất đi cái bầu
khí yêu thương hiệp nhất trong đan viện đó chính là vì các đan sĩ đã không còn
bám vào Chúa nữa. Khi và chỉ khi người ta đánh mất Chúa, đánh mất đá tảng thật
của mình thì mới đâm ra đố kỵ, hơn thua, tranh giành, chà đạp, nói hành nói xấu
nhau. Nếu có Chúa thật ở trong mỗi đan sĩ của đan viện thì chắc có lẽ không xảy
ra tình trạng bi đát trước kia.
Ngày nay đan viện ấy khá nổi tiếng
với nhiều du khách khi đặt chân đến thăm viếng đan viện. Đan viện ấy không phải
nổi tiếng vì sầm uất, vì hoành tráng nhưng đan viện ấy nổi tiếng vì đã có một đời
sống mật thiết gắn kết với Chúa.
9. Các con cho Thầy là
ai--Lm. Đam. Nguyễn Ngọc Long
Tạp chí Reader’s Digest - Das
Best số tháng 4/1999 trang 116 đăng kết quả Bản thăm dò ý kiến của người dân Đức
về Đức Tin vào Thiên Chúa:
50 phần trăm người được hỏi ý kiến
vào lứa tuổi từ 14 đến 39 tin vào sự sống vĩnh cửu mai sau; trái lại chỉ 38 phần
trăm người vào lứa tuổi 60 còn tin vào điều này.
70 phần trăm đều cho rằng xã hội
bây giờ không tin vào Thiên Chúa nữa. 78 phần trăm những người trẻ thuộc thế hệ
từ 14 đến 29 tuổi cảm thấy đời sống tôn giáo càng ngày càng biến mất trong đời
sống; và họ cho là tình trạng này xảy đến quá sớm...
Hội Thanh Thiếu Niên Công giáo
thuộc Giáo phận Munich thăm dò ý kiến 1200 bạn trẻ về vai trò Chúa Giêsu trong
đời sống tinh thần của họ... Phần đông cho biết Chúa Giêsu Kitô không còn chiếm
địa vị trung tâm đời sống tinh thần họ nữa! Bản đúc kết đi kết luận: Trong đời
sống tôn giáo của người trẻ ngày nay, niềm tin Kitô giáo không còn hấp dẫn hay
gây nhiều ảnh hưởng nơi họ. Chúa Giêsu dần dần ít được nhắc tới trong các buổi
thuyết trình, hay nếu có cũng chỉ được nêu ra như một nhân vật lịch sử.
Như thế có thể nói hình ảnh về Thiên
Chúa, về Chúa Giêsu, trung tâm điểm của niềm tin Kitô giáo không còn ăn rễ sâu
nơi tâm thức con người, ít là nơi những người trẻ tương lai của xã hội, Giáo hội
nữa!
Vậy đâu là ý nghĩa câu hỏi của
Thầy Giêsu năm xưa cho chúng ta ngày nay: “Các con cho Thầy là ai?”
Ông Phêrô xưa kia nhân danh anh
em môn đệ trả lời Thầy mình: “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”
10. Chúa Giêsu là ai
trong cuộc sống tôi?--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
Một nhà lãnh đạo Trung Hoa theo
Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một
sinh viên hỏi nhà lãnh đạo Trung Hoa rằng: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà
còn muốn có Kitô giáo?” Ông đáp: “Có ba lý do. Thứ nhất, Khổng Tử là một vị tôn
sư, còn Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn
sư. Thứ hai, Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu
Thế đang sống. Thứ ba, Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết
Đức Kitô là Đấng Cứu Thế là vị thẩm phán." Đó là những lý do và cũng là lời
tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế được lưu truyền trong suốt
lịch sử Giáo hội, khởi đầu từ các Tông đồ.
11. Người ta bảo Thầy là
ai?
Nếu chúng ta còn nhớ cách đây
không lâu ở Mỹ này, nhà văn Dan Brown viết cuốn sách Da Vinci code, nó trở
thành cuốn sách bestseller, được đóng thành phim, và được phổ biến khắp thế giới,
trở thành «hiện tượng Da Vinci code» và làm nhiều người công giáo bị sốc. Bởi
vì trong đó Dan Brown giới thiệu một Đức Giêsu hoàn toàn khác biệt với Đức
Giêsu ở trong kinh thánh. Ngài là một người bình thường như mọi người, đã có
gia đình, có vợ có con và giòng giống của ngài vẫn tồn tại cho đến hôm nay. Và
Giáo hội chỉ là một tổ chức chính trị và quyền lực hoàn toàn nhân loại. Nhiều
người công giáo bị sốc và lung lay đức tin và có người đã nói rằng: mấy chục
năm theo đạo, tôi đã bị lừa... bây giờ người ta find out ra thì mới biết Chúa
Giêsu chỉ là một người đàn ông bình thường... v.v.v.
Tôi nhắc lại sự kiện đó để chúng
ta thấy rằng: Câu hỏi của Chúa Giêsu với các tông đồ hôm nay vẫn còn mang tính
thời sự: Người ta bảo Thầy là ai?
12. Tôi đâu rồi?
Một anh lính giải một nhà sư bị
tù lên tỉnh. Anh ta có tính hay quên, nên vừa đi vừa lẩm bẩm, kiểm lại người và
đồ đạc cho khỏi quên: "Khăn gói đây, dù đây, gông đây, lệnh toà đây, sư
đây, mình đây. Khăn gói đây, dù đây, gông đây, lệnh toà đây, sư đây, mình
đây..." Nhà sư biết đây là "dân thứ thiệt",nên tìm cách đánh lừa.
Sư rủ anh lính vào quán uống rượu, nhậu thịt chó một bữa say mèm. Trong khi anh
lăn quay ra ngủ, sư lấy dao cạo trọc đầu anh lính, tháo gông đeo vào cổ anh ta,
rồi trốn mất. Khi tỉnh dậy, theo thói quen, anh lính kiểm lại hết mọi sự, miệng
lẩm bẩm: "Khăn gói đây, dù đây, lệnh tòa đây, gông đây..." Đến đó anh
giật mình thét lên:
- Còn nhà sư đâu mất tiêu rồi.
Anh ta cuống quít vo đầu, thấy đầu
trọc lóc nên mừng rỡ la lên:
- Nhà sư đây rồi!
Anh ta chợt sực nhớ lại điều gì
nên than thở:
- Quái lạ! Còn mình đâu mất rồi
mà không thấy đâu?
Người lính đãng trí đã không nhớ
mình là ai. Tuy nhiên trong đời sống, có nhiều lần chúng ta thật sự không nhớ
mình là ai trong hành động, trong những việc chúng ta làm.
13. Vâng phục Giáo hội
Giám Mục Fénelon là Tổng Giám Mục
danh tiếng của giáo phận Cambrai nước Pháp vào đầu thế kỷ XVIII. Ngài được mọi
người thán phục và kính nể vì ngài đạo đức và thông thái. Ngài sáng tác cuốn
sách thiêng liêng rất hay, nhan đề “Cắt nghĩa các câu châm ngôn của Các Thánh.”
Ngày kia, khi sắp lên tòa giảng để giảng một bài quan trọng trước một cử toạ
đông người đang thán phục, ngài được tin Đức Giáo Hoàng Inôsentê XII đã lên án
cuốn sách của ngài và cấm lưu hành. Đến giờ giảng, ngài vẫn bình tĩnh bước lên
tòa giảng, nhưng không phải để giảng bài ngài dọn, mà để giảng một bài về sự
tuân phục đối với Giáo-Hội. Ngài nói: “Đức Thánh Cha đã lên án cuốn sách của
cha. Cha xin hoàn toàn tuân phục quyền bính Giáo Hội cho đến chết để làm gương
cho anh em.” Và để tỏ lòng tuân phục công khai một cách khiêm nhượng, ngài cho
khắc cảnh thiên thần đang dày đạp dưới đất những tác phẩm bị Giáo Hội lên án,
trong đó có cuốn sách của ngài, nhan đề “Cắt nghĩa các câu châm ngôn của Các
Thánh.”
14. Điều kiện để biết
Chúa
Một giáo sự đại học đi tìm ý
nghĩa cuộc sống. Sau nhiều năm và nhiều dặm đường, cuối cùng ông tới gặp một vị
ẩn sĩ xin chỉ giáo. Vị ẩn sĩ dẫn ông vào lều, và mời ông dùng trà. Vị ẩn sĩ rót
đầy tách trà, và tiếp tục rót làm nước tràn xuống cả sàn nhà. Ông giáo sư chăm
chú nhìn nước chảy cho tới khi không thể chịu đựng thêm được nữa, ông nói: "Dừng
lại! Đầy rồi, không thể thêm nữa." Vị ẩn sĩ trả lời: "Như tách nước
trà này, lòng ông đầy những tư tưởng, quan niệm, thành kiến... Nếu lòng ông trước
hết không trống rỗng, làm sao tôi có thể giúp gì cho ông?" Con Thiên Chúa
và tinh thần thế gian không thế sống chung hoà bình. Nếu lòng con người còn
mang nặng tinh thần thế gian thì ơn Thiên Chúa đau có chỗ đứng.
15. Biết Chúa là ai
Thánh Micae Hồ Đình Hy (1808-1857), làm quan dưới thời
vua Tự Đức, chức Thái Bộc, hàng tam phẩm, lo việc dệt vải lụa cho cả nước. Ông
là quan thanh liêm, rất có uy tín. Năm 1856, quân Pháp đánh phá cảng Đà Nẵng,
ông bị bắt, bị kết án tử hình. Ông bị điệu qua các đường phố Huế trong ba ngày.
Lính vừa đánh đập vừa rao lên: "Hồ Đình Hy, tên tả đạo, đứa ngỗ nghịch, bất
hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình, vì thế sẽ bị kết án tử hình. Bọn
Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó đúng hay sai, không cần
biết. Gia Tô của nó ở đâu? Tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?"
16. Câu hỏi đều tiên và
thiết yếu
Nước Lỗ có một cái Đỉnh rất quí.
Nước Tề bắt phải đem dâng. Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang.
Vua Tề bảo: “ Phải có Nhạc Chính
Tử đem đỉnh sang thì ta mới tin.”
Vua Lỗ gọi Nhạc Chính Tử đến bảo
đi. Nhạc Chính Tử hỏi: “Sao không đưa cái đỉnh thật?”
Vua Lỗ nói: “Ta quí cái đỉnh đó
lắm.”
Nhạc Chính Tử thưa: “Nhà Vua quí
cái đỉnh ấy thế nào, thì tôi cũng quí cái đức "Tín" của tôi như thế ấy.”
Sau Vua Lỗ phải đưa đỉnh thật.
Nhạc Chính Tử mới chịu đi.
Lớn hơn cái đỉnh là chữ tín của
Nhạc Chính Tử, lớn hơn chữ tín của Nhạc Chính Tử phải là quyết định tin theo Đức
Kitô của tôi. Vì đó là một quyết định xuyên suốt cuộc sống tôi, như đòi hỏi của
Đức Kitô: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai
giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì
sẽ tìm thấy được.” (Mt 10,38-39)
Vì thế “Đức Kitô là ai” phải là
câu hỏi đầu tiên và không thể thiếu được cho các tông đồ trên đường theo Đức
Kitô.
17. Điều thiết yếu
Svetaketu là một nhà hiền triết
nổi tiếng của Ấn độ. Một hoàn cảnh đặc biệt đã giúp ông tiếp cận được với sự
khôn ngoan.
Khi lên bảy ông được cha gửi đi
học ở Vedas. Ngay từ nhỏ ông đã tỏ ra trổi vượt các bạn nhờ khả năng tiếp thu
và trí thông minh đặc biệt của mình. Thế nên vừa đến tuổi trưởng thành ông đã
được coi như một chuyên gia vĩ đại nhất về Kinh Điển.
Thế nhưng một hôm về nhà,
Svetaketu đã nghe từ người cha ông những câu hỏi có sức biến đổi cả cuộc đời
ông: “Có phải con đã học được đúng điều mà không cần phải học gì khác? Có phải
con đã khám phá được điều mà nhờ đó mọi nỗi đau khổ sẽ không còn? Có phải con
đã nắm hiểu được điều mà không ai có thể dạy cũng chẳng ai có thể học được?”
“Thưa cha, không.” Svetaketu trả
lời.
“Này con, vậy thì tất cả những
gì con học được suốt ngần ấy năm đều vô nghĩa.”, người cha tâm tình nghiêm túc
với cậu con trai.
ĐTC Bênêđíctô 16, trong cuốn “Đức
Giêsu thành Nazareth”, đã nói về sự khôn ngoan đó: “Cuối cùng con người cần đến
một điều trong đó chứa chất tất cả; nhưng con người phải học để nhận ra điều họ
thực sự cần thiết và thực sự khao khát ngang qua những ước muốn và mong chờ
chóng qua. Họ cần đến Thiên Chúa. Và chúng ta có thể thấy, sau tất cả những lời
nói tượng hình vẫn còn một điều sót lại: Đức Giêsu ban cho chúng ta “sự sống”,
chỉ vì Người ban Thiên Chúa cho chúng ta.”
18. Bước trong ánh sáng
Cây trong rừng cùng lớn lên bên
nhau, mỗi khi có luồng gió mạnh, cành lá chúng đung đưa chạm vào nhau, nhưng chẳng
bao giờ chúng tìm biết cây bên cạnh thuộc loại gì và đang sống ra sao? Vì cỏ
cây là loài vô tri vô giác.
Có vị thầy hỏi đệ tử:
- Làm thế nào để phân biệt ngày
và đêm?
Người môn đệ thưa:
- Đêm đã qua và ngày mới khởi đầu,
khi có thể nhìn rõ cụm bông giấy trước nhà.
Thầy nói:
- Chưa chính xác.
- Đó là lúc con nhìn thấy hai
người từ đàng xa và phân biệt được ai là đàn ông, ai là phụ nữ.
Thầy khích lệ:
- Có còn cách nào khác nữa
không?
Thấy học trò lúng túng, thầy nói:
- Gọi là ngày, khi con nhìn một
người và nhận ra người ấy là anh em của con.
Thánh Gioan tông đồ viết: “Ai
ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình
đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng.” (1 Ga 2,11) Khi nhìn
ra tha nhân là anh em, chúng ta đang bước đi trong ánh sáng để đến gần Thiên
Chúa.
CNTN 21B - LỜI BAN SỰ SỐNG
Lời Chúa: Ga 6, 61-70
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa
Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" Tự biết rằng
các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: "Điều đó làm
các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao?
Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với
các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin.”
Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai
là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo
các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho.”
Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút
lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả
các con, các con có muốn bỏ đi không?"
Simon Phêrô thưa Người: "Lạy
Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần
chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên
Chúa.”
TRUYỆN KỂ
1. Hãy làm điều bạn có
thể
John là một người thanh niên,
chàng lần lần rời xa Giáo Hội. Chàng không đi lễ nữa, không chịu các bí tích.
Trong thế chiến thứ hai, khi chàng đăng ký nhập ngũ, sự lo âu của mẹ chàng tăng
thêm: Nếu chàng bị chết thì sao? Linh hồn chàng sẽ ra sao? Khi chàng chuẩn bị
lên đường. Mẹ chàng nói với chàng: “John ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một việc.”
John hỏi: “Cái gì đó, mẹ?” “Mẹ muốn con đọc ít nhất mỗi ngày 1 lần kinh Kính Mừng.
Hãy đọc, bất kể con bận hay con mệt tới mức nào.” Một chút do dự, John đã hứa.
Trải qua năm, tháng. Những bức
thơ của John thưa dần. Một ngày kia một bức thơ của cha tuyên úy cho hay John bị
thương nặng và chàng đã xin chịu các phép bí tích. May mắn, John bình phục.
Trong bức thơ đầu về nhà, chàng viết: “Mẹ ơi, cám ơn mẹ đã bảo con làm lời hứa ấy.
Con đã giữ. Mỗi lần có dịp con đi lễ và rước lễ.”
2. Bỏ Thầy con biết theo
ai?
Trong cuốn Eucharistic Miracles
của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:
Năm 700, tại tu viện Thánh
Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu
nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được
lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi
là phép lạ Lanciano.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép,
bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng
đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi
là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã
cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người,
thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện
đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng
của cả thế giới.
3. Ðức tin "nghĩa địa"
Một món đồ còn mới thì được gọi
là đồ "gin", còn một món đồ đã có người xài trước rồi bán lại thì được
gọi là đồ nghĩa địa (tiếng anh gọi là second-hand). Có một người kia một hôm bị
rơi vào một tâm trạng vô cùng chán chường vì chợt nhận ra rằng đức tin của anh
chỉ là một đức tin "nghĩa địa.”
Anh vừa sinh ra thì đã được rửa
tội. Lớn lên một chút anh đến nhà thờ học giáo lý và lần lượt được Rước lễ,
Thêm sức và các bí tích khác. Hàng tuần anh đến nhà thờ tham dự Thánh lễ và
nghe giảng. Ở nhà anh được cha mẹ và ông bà dạy dỗ cặn kẽ về cách sống đạo. Từ
trước tới nay anh vẫn an tâm trong đức tin êm đềm như thế. Nhưng hôm đó anh chợt
nhận ra rằng tất cả nội dung đức tin ấy đều là của người khác. Anh nghĩ rằng đức
tin của anh giống như chiếc áo cũ mà người anh mặc chật nên chuyển lại cho người
em. Một thứ đồ second-hand.
Anh nghĩ rằng bây giờ mình đã
trưởng thành, mình phải suy nghĩ về đức tin để có những xác tín của riêng mình;
mình cần có những cơ hội thử thách để có những chọn lựa của riêng mình.
Cơn khủng hoảng đức tin của người
thanh niên trên hẳn là ray rứt lắm, nhưng thực rất cần thiết. Sinh ra trong đức
tin thì chưa đủ, cần phải sinh lại trong đức tin nữa. Có một đức tin
"nghĩa địa" cũng chưa đủ, mà cần có đức tin do chính mình xác tín. Chỉ
có một đức tin do chính mình xác tín mới có thể giúp ta chọn cho mình một lập
trường khi đứng trước những tình thế phải chọn lựa. Như thánh Phêrô trong bài
Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn chọn Ðức Giêsu đang khi nhiều người khác bỏ Chúa
mà đi: "Lạy Thầy, bỏ thầy thì con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có những
lời hằng sống" (Viết theo Flor McCarthy)
4. Chúng con cũng bỏ Thầy
mà đi chăng?
Cách đây không lâu vào ngày 6
tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang Mã Sơn Xét
(Massachusettes) của Hoa Kỳ gây nên một cảnh tượng hết sức đau lòng. Hai vợ chồng
ông Ðặng Danh Mừng (Dana Raymond) và bà Giang thị Dương (Jeanne Ardizoni) đưa
nhau ra toà để ly dị, mà cả hai đều không chịu nuôi hai con của họ, khiến cuối
cùng toà phải xử cho hai đứa con vào viện mồ côi! Khi toà phán quyết, người ta
nghe tiếng khóc nức nở của hai đứa bé tội nghiệp. Thế mà hai bố mẹ vẫn dửng
dưng! Cảnh sát được lệnh toà "bắt" hai đứa bé lên xe chở tới viện mồ
côi. Chúng vùng vẫy kêu "Cha", kêu "Mẹ", nhưng cha và mẹ đều
không buồn ngó ngàng tới hai đứa con của mình!
5. Chúng ta chọn Đức
Giêsu.
Đức Gioan Phaolô II thường
khuyên những người đến với Ngài rằng: Chúng con phải lựa chọn. Chọn là một quyết
định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp
tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ.
Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là: Giờ đây tôi mới khởi sự. Mỗi ngày chúng ta phải
khởi đầu với sự lựa chọn.
Mà sự lựa chọn căn bản và quan
trọng nhất của cuộc sống là chọn Đấng chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải chọn Chúa
là thần tượng vì Ngài là một vị thần siêu việt, tuyệt đối đáng tôn thờ. Ta
không được bắt chước dân Do thái xưa thờ con bò vàng thay vì Ngài. Chính Đức
Giêsu cũng khuyên: ”Không ai có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể vừa
làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6, 24).
Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô
hình, ta không thể tiếp cận với Ngài, ta cần phải có một thần tượng nào gần
chúng ta hơn, vị thần ấy đã nói: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha” và Đấng ấy đã nói: ”Thầy
là đường, là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6).
Có một người suốt 2000 năm đã được
bao nhiêu người hâm mộ tin theo, thậm chí còn nhận lấy cái chết để tỏ ra trung
thành với vị thần ấy !
Vị thần đó là ai?
Đó là Đức Giêsu Kitô.
6. Sống là chọn lựa
Ở đô thị Jaffa xứ Palestina, có
một khu đất gọi là khu đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng
lữ một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng
thì chảy vào khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngoài theo hướng kia thì
chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng
ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ:
Một nhà hai chủ không hoà,
Hai vua một nuớc ắt là không
yên.
Chọn lựa tự do, nhưng chọn lựa lại
là giới hạn. Khi đã có một chọn lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình.
Chính Đức Giêsu khi chọn con đường cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận
thân phận giới hạn con người, và cả cái chết nhục nhã trên thập giá như lời
thánh Phaolô trong bài đọc 2: ”Đức Kitô yêu thương Hội thánh, và phó mình vì Hội
thánh, để thánh hóa Hội thánh,... ngõ hầu bầy tỏ cho mình một Hội thánh vinh
quang, không vết nhơ, không nhăn nheo..., nhưng thánh thiện và tinh tuyền.”
7. Chọn thập giá
Vua Charles một lần kêu hoàng tử
đến và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện
(Triều thiên), Vua nói:
- Con chọn cái nào?
Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy
thanh kiếm.
Vua cha hỏi:
- Sao con lại chọn thanh kiếm?
Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào
vương miện đáp:
- Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được
vương miện kia.
Chúng ta đã quen với khẩu hiệu: ”Per
crucem ad lucem”: qua thập giá để tới vinh quang. Bước theo Chúa là phải đi vào
con đường khổ giá, phải qua cửa hẹp, nhưng chính con đường hẹp hòi khắc khổ lại
đem đến vinh quang. Theo gương hoàng tử, chúng ta cũng phải nhờ thanh kiếm đau
khổ để có thể chiếm được triều thiên vinh phúc muôn đời, thánh giá phải đi trước
triều thiên
Xả thân nếu muốn theo Thầy,
Vác cây khổ giá hằng ngày mà
theo. (Mt 16,24)
8. Tin là chọn lựa
Sống ở đời, ai cũng có niềm tin,
và bởi thế, có nhiều thứ niềm tin khác nhau, chẳng hạn các vận đông viên thể
thao tin ở sức mạnh của bắp thịt và sự dẻo dai của họ. Các chính trị gia đặt tất
cả niềm tin nơi đảng phái của họ. Những người hoạt động theo một ý thức hệ cũng
tin tưởng ở sự toàn thắng của lý tưởng mà họ đang theo đuổi...
Ngay trong cuộc sống thường
ngày, chúng ta cũng bị bắt buộc phải có niềm tin, chẳng hạn: đau bệnh, chúng ta
tìm đến thầy thuốc, chúng ta đặt niềm tin nơi khả năng và thiện chí của thầy
thuốc. Đi mua hàng, chúng ta cũng phải tin tưởng nơi người bán hàng. Giao tiếp
với nhau, chúng ta cũng phải tin tưởng nhau...Đối với chúng ta, những người
Kitô hữu, chúng ta không những có niềm tin vào cuộc sống mà chúng ta còn có đức
tin nữa. Làm sao có được đức tin? Triết gia Pát-can nói: "Nếu bạn muốn có
đức tin, bạn hãy quỳ gối xuống và cầu nguyện.”
Mẹ Têrêxa cũng nói như thế. Người
ta kể rằng: một lần kia, Mẹ Têrêxa nói với một phóng viên báo chí: "Tôi
nghĩ rằng ông nên có đức tin.” Người ấy hỏi: "Tôi phải làm gì để có đức
tin?” Mẹ Têrêxa đáp: "Ông hãy cầu nguyện.” Người ấy nói: "Tôi không
biết và không thể cầu nguyện.” Mẹ Têrêxa nói: "Tôi sẽ cầu nguyện cho ông,
phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh. Một nụ cười có
thể đánh động người khác. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên
Chúa trong cuộc sống.”
9. Sống phải có chọn lựa
Chúng ta đang sống cho cái
gì? Chúng ta đang đi về đâu? Tương lai của chúng ta là gì?
Nếu chúng ta chỉ lo nghĩ
đến tiền bạc, của cải, lợi lộc trần gian mà thôi, chúng ta sẽ thất
vọng. Chính Chúa nói: “Xác thịt chẳng có ích gì.”Vì nó sẽ tan
biến trong giây lát. “Chỉ có Thần Khí mới làm cho sống” Thần Khí mới
mở mắt chúng ta vào chân trời của Chúa: “Lời Thầy nói với anh em là
thần khí và là sự sống.” Ngài mời gọi chúng ta vượt lên trên thế
giới vật chất để tìm được những thực tại thiêng liêng, mang lại cho
chúng ta sự sống đích thực.
Câu chuyện người đàn bà
Samari bên bờ giếng Giacob cũng là một bài học cho chúng ta thấy vũ
trụ vật chất chỉ là phương tiện để nhờ đó, chúng ta đạt đến những
thực tại thiêng liêng, đạt đến mục đích tối hậu mà chúng ta phải
hướng đến.
Từ một miếng nước vật chất
đơn thường, Ngài dẫn bà ấy đến nguồn nước trường sinh. Ngài cũng
muốn hướng đám dân đang theo Ngài từ bánh trần gian đến bánh hằng
sống, nhưng họ không muốn hiểu. Cả những môn đệ cũng không tin và rút
lui. Cha trên trời mới có thể đưa họ đến với Ngài khi họ chấp nhận
tìm kiếm.
Mọi người đều đả đảo Ngài
chỉ còn Nhóm Mười Hai đang ngơ ngác chưa biết nên rút lui hay ở lại.
Ngài hỏi: “Cả anh em nữa,
anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”
10. Chọn lựa đòi phải từ
bỏ
Lời của Chúa là nghịch lý luôn
hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy. Thánh giáo phụ Grêgoriô thành Nysse đã quảng diễn
nghịch lý đức tin này khi Ngài viết: “Hành trình đức tin của chúng ta đến với
Chúa giống như chúng ta đang dấn bước tìm đến một khoảng tối đầy ánh sáng.” Ánh
sáng và bóng tối, sự sống và sự chết, ân sủng và tội lỗi.... là những cặp phàm
trù tương phản và đối kháng nhau ẩn chứa nơi nghịch lý của Lời, cũng như trong
nghịch lý của mầu nhiệm Đức Giêsu.
Trong cuộc hành trình đức tin,
chúng ta phải liều lĩnh dấn bước vào bóng tối để tiến đến ánh sáng, phải chấp
nhận đi qua Thập giá và cái chết để tiến nhận sự sống và vinh quang. Đối diện
trước nghịch lý này, chúng ta sẽ phải chạm mặt với những cám dỗ muốn thoái lui
và không muốn chấp nhận điều nghịch thường đó.Vì thế, chúng ta cần phải canh
tân lòng trung thành mỗi ngày. Đức tin không phải chỉ đón nhận một lần là xong.
Thánh Phaolô cũng đã căn dặn giáo đoàn Rôma: “ Những người có đức tin vững mạnh
phải nâng đỡ những người yếu đuối không có niềm tin vững mạnh” (Rm 15,1).
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô II cũng đã từng cảnh báo chúng ta về ba nguy cơ gây xói mòn đức tin và
làm suy giảm căn tính đích thực nơi mọi Kitô hữu, đó là sống theo chủ nghĩa duy
vật (materialism), sống theo chủ nghĩa hưởng thụ (consumerism) và sống theo chủ
nghĩa tục hóa (secularism). Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải đặt Thiên Chúa
vào chỗ tối thượng (in primacy).
Điều này ai cũng biết trên lý
thuyết, nhưng trong thực tế, chúng ta lại hay sống theo kiểu khác. Khi chúng ta
thượng tôn tiền bạc, đặt tiền bạc làm thước đo mọi giá trị theo kiểu sống duy vật,
thì đó chính là một sự phản bội.
11. Trung thành theo
Chúa
Cha Maurice Zundel đã kể một câu
chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và
viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và
tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói
cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn
giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?
Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan rút súng ra dí vào
đầu linh mục: Nếu ông không chịu nói là ông không tin gì cả, tôi sẽ nổ súng.
Tưởng chừng như trước cái chết,
con người sẽ phải khuất phục mọi sự. Nhưng không, linh mục vẫn thanh thản trả lời:
Tôi tin chứ!
Viên sĩ quan buông súng xuống,
ôm chầm lấy người linh mục. Ông reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi.
Đây là người tôi tìm kiếm. Vâng, thưa cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin
Chúa Giêsu.
12. Chỉ chú tâm vào Chúa
Giêsu
Một chiếc tàu đánh cá Liên Xô được
đưa vào sửa chữa bên cạnh chiếc tàu tuần dương Hoa Kỳ tại bờ biển New England.
Một thủy thủ người Nga tên Simas Kudirka lén lút đến tàu Mỹ xin được tỵ nạn
chính trị. Các viên chức Mỹ từ chối. Và người thủy thủ nầy đã bị giao lại cho
nhà cầm quyền Xô Viết, và bị cầm tù.
Trong lúc bị thử thách như thế,
Kudirka buồn sầu tuyệt vọng, không còn muốn sống nữa. Một tù nhân khác thấy anh
chán nản quá như thế thì dạy cho anh những vầng thơ của thi sĩ Ruydyard
Kipling, để giúp anh lấy lại tinh thần và can đảm đương đầu với thử thách gian
lao, cương quyết làm lại cuộc đời. Trong những vần thơ đó có câu, “Nếu nhìn thấy
toàn bộ sự nghiệp đời mình tan vỡ, và con vẫn bình tâm tin tưởng xây dựng lại,
thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con, và con sẽ là con người đích thực.”
13. Theo Chúa là sống nhờ
Người
Một vị khổ tu sống rất nhiệm nhặt,
hằng ngày ông ra sức chiến đấu chống lại tình dục và mọi thói hư tật xấu. Có thể
nói suốt đời ông luôn chống trả các chước cám dỗ của ma quỷ xác thịt thế gian
là ba kẻ thù của tín hữu Chúa.
Đến tuổi già, ông phải nhắm mắt
lìa đời như mọi người. Cái chết của ông khiến mọi người thương tiếc, nhưng cũng
an ủi vì tin chắc rằng ông sẽ được Chúa thưởng. Và một đệ tử của ông không chịu
nổi sự ra đi của ông nên cũng ngã bệnh và chết theo ông.
Bên kia thế giới, người đệ tử nầy
chứng kiến cảnh tượng rất hài lòng. Anh thấy bên cạnh thầy đáng kính có người
đàn bà tuyệt vời. Anh tin thầy mình đã được Chúa thưởng xứng đáng, vì những
chay tịnh và việc kiên tâm chống lại các chước cám dỗ lúc còn sống. Anh mon men
đến gần thầy chúc mừng:
- Thưa Thầy, thật Chúa là Đấng
công minh chính trực. Người đã thưởng công Thầy xứng với công lao Thầy đã lập
lúc còn sống ở thế gian.
Thế nhưng anh ngạc nhiên thấy thầy
không lộ chút vui mừng nào, mà còn buồn bả thốt lên:
- Đây không phải là thiên đàng.
Ta chưa được thưởng. Và người đàn bà nầy cũng bị trầm luân như ta.
Câu chuyện trên đây do nhà tu đức
học người Ấn độ là cha Anthony de Mello kể. Ý cha muốn nói sự thánh thiện không
hệ ở lối sống khắc khổ bề ngoài. Đạo chúng ta cốt yếu là một Con Người. Con Người
đó chính là Chúa Giêsu. Đó là sức sống và là sức sống muôn đời cho những ai tin
theo Người.
14. Một vụ thảm sát tại
nhà trường
Cách đây ít lâu, một vụ thảm sát
ở tiểu ban Côlôrađô Hoa kỳ không những làm người Mỹ, mà còn làm cho cả thế giới
phải sửng sốt bàng hoàng. Bàng hoàng vì đây không phải là vụ thảm sát đầu tiên
xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà trong mấy năm qua, các vụ bạo động tại
trường học đã từng xảy ra nhiều lần. Riêng trong vụ này, hai cậu học sinh trung
học đã có thể tính toán trước các chi tiết về diễn tiến của vụ thảm sát này.
Một điều tồi tệ hơn nữa là thái
độ của hai tên sát nhân: Trước khi bị bắt, hai tên này đã dùng súng tiểu liên
điên cuồng bóp cò, nhắm vào các thầy cô giáo trong lớp và các bạn học sinh cùng
trường. Bọn chúng đã tỏ ra lạnh lùng, dửng dưng trước thảm trạng chết chóc do
chúng gây ra.
Trong bức thư chung Mùa Chay năm
1994, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã lên tiếng báo động về một nền văn hoá bạo động
kích dục, được khuyến khích bằng các phương tiện truyền thông như các phim ảnh
đồi trụy kích động bạo lực, được trình chiếu trên các kênh truyền hình, các
băng đĩa và sách báo khiêu dâm bày bán công khai tại các nơi công cộng mà giới
thanh thiếu niên dễ dàng mua ở bất cứ nơi nào trên đất Mỹ.
Quả thật, nhân loại ngày nay
đang đứng trước nguy cơ diệt vong, khi họ chọn lựa phương pháp một cuộc chiến
tranh bạo động vì thiếu lòng khoan dung tha thứ. Thay vì phải ngồi vào bàn hội
nghị để thương thảo bình tĩnh ôn hoà, thì người ta lại thích sử dụng bạo lực để
giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp về tài sản, đất đai... do sự khác biệt
nhau về trình độ văn hoá, về sắc tộc, màu da, giai cấp hay tôn giáo...
15. Tin không phải là kiến
thức
Một người vô tín ngưỡng dừng
chân ở một nông trại bên Hòa Lan, anh lớn giọng với ông chủ trại:
- Chẳng bao giờ tôi tin điều gì
tôi không hiểu.
Ông chủ nông trại nói:
- Điều này khó đấy. Này nhé, thí
dụ trong trại này, cậu có thấy đống cỏ không? Ngựa của tôi ăn cỏ, lớn lên lông
nó mọc khắp mình. Con cừu ăn cỏ, thế là nó có len. Con ngỗng của tôi ăn cỏ, cả
mình nó đầy lông vũ. Cậu có hiểu tại sao không nào?
Thực vậy, cho dù thông minh uyên
bác đến mấy, người ta cũng không thể hiểu rõ toàn bộ những hiện tượng xảy ra
trong thiên nhiên. Một số kiến thức khoa học, chúng ta cũng chỉ nghe nói lại chứ
đâu phải ta đích thân thí nghiệm và biết cặn kẽ chính xác. Vậy mà chúng ta vẫn
tin. Chúng ta tin có vi trùng, tin trái đất tròn, tin nước gồm hai thành phần
khí hợp lại…
16. Một quyết định quan
trọng cho thời khóa biểu
Những quyết định hằng ngày là một
phần của đời sống: như mặc đồ thế nào, ăn cái gì và khi nào thì đi ngủ. Với những
vấn đề này, những quyết định của chúng ta thì thường thay đổi nhưng có một số
quyết định mà bản tính của chúng kéo dài mãi đến đời đời. Những chọn lựa căn bản
mà chúng ta đã làm bằng chính ý chí tự do của chúng ta, một thí dụ tuyệt hảo
cho vấn đề này đó là quyết định kết hôn. Hôn nhân là một Giao Ước vĩnh viễn, một
quan hệ tình yêu và trung thành giữa một người nam và một người nữ, để họ trở
nên một.
Thiên Chúa đã mời gọi dân của
Người trong Cựu Ước trở thành bạn tình của Người, bằng một Giao Ước mang hình
thức của hôn nhân thiêng liêng. Giosuê là một người lãnh đạo của dân Thiên Chúa
sau cái chết của Môisê, đã hiểu được tầm quan trọng của Giao Ước này. Ông đã
thách thức dân chúng: “Nếu các ngươi không hài lòng phục vụ Chúa thì hãy quyết
định trong ngày hôm nay, các người sẽ phục vụ ai, còn tôi và người nhà của tôi
sẽ phục vụ Thiên Chúa” Giosuê đã làm một quyết định với chính mình.
17. Thử thách để làm người
Một chiếc tàu đánh cá Xô Viết được
đưa vào sửa chữa bên cạnh tàu tuần dương hạm của Hoa Kỳ tại bờ biển New
England. Các quan chức Mỹ-Xô cùng ngồi trên chiếc tàu Nga bàn luận sôi nổi về kỹ
thuật đánh cá. Câu chuyện và mối liên hệ của họ thật tốt đẹp cho đến một đêm nọ
một thuỷ thủ người Nga tên là Kudirka lẻn ra khỏi tàu Xô Viết, nhảy xuống biển
và bơi qua tàu Mỹ, năn nỉ xin được tị nạn chính trị.
Thế nhưng, vị chỉ huy tàu Mỹ đã
từ chối. Quyết định này về sau đã bị các thượng cấp quở trách. Chàng thuỷ thủ bị
trao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, và bị giam vào ngục. Thời gian ở tù chàng
đã nhiều lần tuyệt vọng, nhưng nhờ người bạn đã dạy cho chàng một bài thơ,
chính những vần thơ này đã giúp chàng đương đầu với hiện tại và hy vọng tiến đến
tương lai.
Bài thơ ấy như thế này: Nếu
giành được chiến thắng hay gặp phải thất bại mà con vẫn xử sự như nhau. Nếu sự
thật con nói ra bị vu khống là gian dối mà con vẫn tỏ ra bình thản. Nếu toàn bộ
sự nghiệp đời con tan vỡ, mà con vẫn kiên trì xây dựng lại. Phải, nếu con làm
được như thế, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con. Và hơn thế nữa, hỡi
con, con sẽ là một con người đích thực.
18. Dứt khoát theo Chúa.
Sau khi rao giảng về Bí tích
Thánh Thể, dân chúng và ngay cả một số đông môn đệ đã lấy làm chướng tai gai mắt
và khó nghe, nên đã lìa bỏ Chúa. Thấy vậy, Chúa bèn quay về với nhóm Mười Hai.
Ngài đòi các ông phải có thái độ và lập trường dứt khoát, Ngài hỏi các ông:
- Còn chúng con, chúng con có muốn
bỏ Thầy mà đi hay không?
Và như thế chúng ta đã thấy,
Phêrô thay mặt cho tất cả anh em trong nhóm đã thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết
theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, một lần
khác, khi thầy trò tới địa hạt xứ Cêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn
đệ:
- Người ta bảo con người là ai?
Các ông đã lượm lặt dư luận đó
đây và thưa lên cùng Chúa:
- Người thì bảo là Êlia, người
thì bảo là Giêrêmia, người thì bảo là một tiên tri nào đó và kẻ khác lại nói là
Gioan tẩy giả.
Có lẽ lúc bấy giờ, Chúa Giêsu đã
nhìn các ông và đặt một câu hỏi nòng cốt, đòi các ông phải bày tỏ lập trường:
- Còn các con, các con bảo Thầy
là ai?
Và Phêrô cũng thay mặt cho anh
em trong nhóm tuyên xưng đức tin:
- Thầy là Đức Kitô Con Thiên
Chúa hằng sống.
Xuyên qua những lời giảng dạy,
Chúa Giêsu bao giờ cũng đòi hỏi nơi những người muốn bước theo Ngài một thái độ
dứt khoát, một lập trừờng rõ rệt. Ngài bảo:
- Ai yêu thương cha mẹ, vợ con,
tiền bạc nhà cửa hơn Ta, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta. Không ai có thể làm
tôi hai chủ, vì nếu yêu chủ này thì sẽ ghét chủ kia, cũng vậy không thể làm tôi
vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá
mình hằng ngày mà theo Ta.
Sở dĩ như vậy là vì tinh thần của
Chúa thì trái với tinh thần của thế gian như lửa với nước, như ánh sáng và bóng
tối. Theo Chúa là theo trót cả tâm hồn, chứ không thể trung lập, lửng lơ, đi nước
đôi và bắt cá hai tay.
19. Dứt khoát theo Chúa
triệt để
Ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả
các chi tộc lại ở Sikem và ông nói với họ:
- Hôm nay các ngươi hãy lựa chọn,
một là thờ phượng Đức Giavê, hai là thờ phượng các thần của dân ngoại. Riêng phần
tôi và gia đình, chúng tôi nhất quyết chỉ thờ phượng một mình Đức Giavê mà
thôi.
Bấy giờ dân chúng trả lời rằng:
- Không hề có chuyện chúng tôi
lìa bỏ Đức Giavê mà tôn thờ những thần dân ngoại. Đức Giavê là Thiên Chúa của
chúng tôi, chính Ngài đã dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, đã làm những việc kỳ
diệu trước mặt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt những con đường chúng tôi
đã đi qua. Chúng tôi chỉ phụng thờ Đức Giavê vì chỉ mình Ngài là Thiên Chúa
chúng tôi.
Có lẽ giờ đây Chúa Giêsu cũng
nhìn mỗi người chúng ta và muốn chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát.
20. Không rửa bàn tay
Chúa Giêsu nhìn mỗi người chúng
ta và muốn chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát. Thế nhưng, có lẽ chúng ta đã
phải cúi mặt xuống, bởi vì mặc dù mang tiếng là người có đạo, là kẻ đã tin theo
Chúa, nhưng cuộc đời chúng ta vẫn còn chồng chất quá nhiều tội lỗi, bản thân
chúng ta vẫn thường xuyên nhượng bộ cho những cám dỗ, những khuynh hướng xấu
xa. Chúng ta vừa muốn phụng thờ Chúa, vừa muốn phụng thờ ma quỷ. Vừa muốn bước
theo Chúa lại vừa muốn phạm tội.
Chúng ta giống như người tân
tòng khi được ghìm xuống nước để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì ông cứ giơ một
bàn tay lên cao. Vị linh mục bèn hỏi tại sao, thì ông trả lời:
- Con muốn tin theo Chúa thật đấy,
nhưng lại muốn dành bàn tay này cho tội lỗi, để khi bàn tay này ăn trộm ăn cắp,
gây gỗ đánh lộn thì nó không thuộc về Chúa.
Hãy có một thái độ và một lập
trường dứt khoát. Hãy dâng hiến cho Chúa trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác bởi vì
nếu chúng ta nói rằng mình yêu mến Chúa, mà còn giữ lại một xó góc con tim cho
tội lỗi, dù là một xó góc nhỏ bé nhất, thì đó là một dấu chỉ chắc chắn nhất chứng
tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa.
21. Sức mạnh của phép
Thánh Thể
Thời vua Ga-liên bách hại đạo,
trong quân đội Rôma có một sĩ quan tên là Ma-ranh, xuất sắc, lừng danh, bách
chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng, chính ông cũng
rất hy vọng như thế. Nhưng Ma-ranh là người Công giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin
ơn trung thành với lời hứa ngày chịu phép Rửa tội.
Khi ấy, một trong các đại tướng
Rôma chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền mời Ma-ranh đến vui vẻ nói: “Tôi vừa
được lệnh nhà vua gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền
tổng chỉ huy cho ngài, nhưng nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không
chịu để một người Công giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài
nói cho biết ngài có phải là người Công giáo không?” Ma-ranh quả quyết: “Thưa,
đúng thế, tôi là người Công giáo.” Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho
ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không
ngài phải chết.” Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện.
Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi
ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút
thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói:
“Này ông Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại
ngày rửa tội, rồi tùy ý ông.”
Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng
nói: “Con thề trung thành với Chúa, con xin trung thành.” Vị giám mục âu yếm
nhìn Ma-ranh nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời
con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng.” Và ngày hôm đó, Ma-ranh đã đổ máu vì
đức tin Công giáo.
Trong những thế kỷ đầu của Giáo
hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là
lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Síp-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình
Thánh Chúa gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy.”
Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta
cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu? Nhờ rước Mình thánh
Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau: “Không được để
cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy
làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết.”
22. Chết cho thế gian để
sống cho Chúa
Trong một xưởng thợ, người ta
bàn tán và cho rằng tôn giáo, nhất là Thiên Chúa giáo làm mê muội trí khôn, bức
hiếp lẽ phải và làm sai lạc phán đoán.Một anh công nhân nghe thế bèn góp ý:
- Đúng thế, đạo Chúa và lời Ngài
đã làm cho tôi mất đi tất cả.
Mọi người ngạc nhiên, sững sờ
đưa mắt nhìn anh. Anh nói tiếp:
- Các bạn có biết không, tôi là
người rượu chè be bét, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi chừa bỏ được rượu.
Tôi là người thích cờ bạc, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi xa tránh được tật
này. Xưa kia gia đình tôi luôn cãi vã xô xát nhau, nhưng đạo Chúa và lời Ngài,
làm tôi mất đi cái địa ngục ấy và đem vào đó một bầu khí cảm thông và hạnh
phúc. Và còn nhiều thứ khác nữa, đạo Chúa và lời Ngài đã làm mất đi nơi tôi và
gia đình tôi. Các bạn hãy thực hành lời Ngài và sống đức tin của mình chắc chắn,
các bạn sẽ không bao giờ phải hối hận đâu.
23. Tình yêu là chung thủy,
chung thủy sinh bình an
Có một người chồng kia quá đau
khổ và tuyệt vọng khi phát hiện người vợ thiếu lòng chung thủy. Anh định bơi thật
xa ra biển và buông xuôi hai tay cho dòng nước cuốn trôi vào lòng biển cả, để
rũ sạch nợ đời.
Nhưng khi tới bờ biển, anh bỗng
nhìn thấy có cái gì lấp lánh trên mặt cát, dưới những cơn sóng dập vùi. Anh lượm
nó lên và nhận ra đó là cái vỏ sò thật mỏng manh. Anh tự hỏi: “Giữa sóng gió dập
dồn như thế, tại sao cái vỏ sò vẫn nguyên vẹn mà không vỡ vụn?” Anh suy nghĩ và
hiểu ra: cái vỏ sò ở giữa sóng gió xô lấp, quay cuồng mà vẫn bình yên vì nó nằm
tĩnh lặng ở đáy nước. Trong phong ba bão tố của gia đình, người ta cũng sẽ
không bị tiêu diệt, khi tìm thấy chỗ ẩn nấp trong sự tĩnh lặng của tâm hồn. Anh
tìm được bình an và trở về nhà, tha thứ cho vợ và hai vợ chồng lại sống hạnh
phúc bên nhau.
24. Tưởng là thiên đàng
Có một thanh niên rất bảnh trai,
sau khi chết được đưa đến một nơi có đủ mọi thú vui để hưởng thụ, một nơi cả đời
anh hằng ao ước. Ở đó, anh lấy làm sung sướng vì được thoả chí toại lòng.
Thế nhưng cũng đến một ngày anh
thấy chán ngán, cảm thấy cần phải làm một việc gì đó thay vì cứ ở không mà vui
chơi hưởng thụ mãi. Anh yêu cầu với người gác cửa, và được nghe giải thích: “Xin
lỗi bạn, ở đây bạn có thể thụ hưởng tất cả nhưng không phải làm gì hết, mà cũng
chẳng có việc gì để làm, để phục vụ người khác đâu.”
Anh thanh niên tỏ ra bực bội: “Nếu
vậy thì thà cho tôi xuống địa ngục còn hơn!” Nghe thế, người giữ cửa khoái trá
bật cười ha hả: “Ôi chàng trai ngốc nghếch, thế bạn nghĩ bạn đang ở đâu nhỉ? Bạn
tưởng bạn đang ở thiên đàng đấy à?”
Anh chàng giật mình tỉnh dậy,
người đầm đìa mồ hôi…
Thật may! Đó chỉ là một giấc mơ.
25. Tận hiến mới hạnh
phúc
ĐHY Cardjin, vị sáng lập phong
trào Thanh lao công, đã kể rằng ngài sinh ra và lớn lên trong một gia đình rất
nghèo. Năm 13 tuổi, vào một buổi tối, ngài rón rén xin cha cho ngài được tiếp tục
đi học trong năm học tới. Người cha im lặng hồi lâu rồi trả lời: “Con ơi, ở tuổi
con, ba đã phải đi làm rồi, nay thì ba đã già, sức đã cạn rồi, có lẽ con phải…”
Hiểu ý cha, nhưng ngài vẫn tiếp
tục nài nỉ: “Ba ơi, con nghĩ là Chúa đã gọi con, con muốn trở thành linh mục!”
Vừa nghe biết ý định cậu con
trai muốn đi tu, nước mắt người cha từ từ lăn dài trên đôi má gầy còm. Phải một
lúc lâu sau đó, ông mới nghẹn ngào nói được: “Ba má đã hy sinh quá nhiều, nhưng
để được một người con hiến dâng cho Chúa thì ba má sẽ lại tiếp tục hy sinh.”
26. Theo Chúa
Tôi nổi giận thì Thầy lại bảo: Hãy
nhịn nhục và thứ tha.
Tôi run sợ thì Thầy lại bảo: Hãy
can đảm.
Tôi hoài nghi thì Thầy lại bảo: Hãy
tín thác.
Tôi bồn chồn không ngơi thì Thầy
lại bảo: Hãy tĩnh lặng đi.
Tôi thích đi con đường riêng
mình thì Thầy lại bảo: Hãy theo Ta.
Tôi muốn lập kế hoạch riêng cho
mình thì Thầy lại bảo: Hãy quên đi.
Tôi nhắm tìm của cải vật chất
thì Thầy lại bảo: Hãy bỏ lại đằng sau.
Tôi muốn được bảo đảm ở đời này
thì Thầy bảo: Phần Ta, Ta chẳng hứa hẹn gì đâu.
Tôi thích sống cuộc đời riêng của
mình thì Thầy bảo: Hãy từ bỏ chính mình đi.
Tôi nghĩ rằng mình tốt lành thì
Thầy bảo: Tốt lành thôi thì chưa đủ đâu con.
Tôi thích làm ông chủ thì Thầy bảo:
Hãy quỳ xuống mà phục vụ lẫn nhau.
Tôi muốn ra lệnh cho người khác
thì Thầy bảo: Thôi, hãy vâng lời đi.
Tôi đi kiếm tìm tri thức thì Thầy
bảo: Hãy tin.
Tôi thích sự rõ ràng thì
Thầy lại dạy tôi bằng ngụ ngôn.
Tôi thích thi ca mơ mộng thì
Thầy lại nói toàn chuyện hiện thực.
Tôi yêu sự yên tĩnh của mình thì
Thầy lại muốn tôi bị quấy rầy.
Tôi thích bạo lực thì Thầy lại bảo:
Bình an ở cùng các con.
Tôi rút gươm ra thì Thầy bảo: Vứt
nó ngay lập tức.
Tôi nghĩ chuyện trả thù thì Thầy
bảo: Đưa má bên kia cho người ta đánh luôn đi con.
Tôi nói về một trật tự thì Thầy
bảo: Ta đến đem gươm giáo.
Tôi căm ghét thì Thầy bảo: Thôi,
hãy yêu thương cả kẻ thù nhé.
Tôi muốn gieo sự hòa hợp thì Thầy
nói: Ta đem lửa xuống thế gian.
Tôi muốn làm người lớn thì Thầy
nói: Hãy trở nên trẻ nhỏ.
Tôi muốn ẩn thân, Thầy bảo: Ánh
sáng thì phải chiếu rọi.
Tôi đi tìm chỗ nhất trong hội đường,
Thầy lại bảo: Xuống chỗ chót hết
mà ngồi.
Tôi thích được quan tâm,
Thầy nói: Đóng cửa lại mà cầu
nguyện.
Không, tôi không thể hiểu nổi
ông Thầy Giêsu này,
Ông khiêu khích tôi, ông làm tôi
bối rối.
Cũng giống như nhiều học trò
khác, tôi rất muốn đi theo Thầy Giêsu này,
Thế nhưng, khổ quá, chắc là phải
đi tìm ông thầy khác thì sẽ khá hơn,
Ít đòi hỏi hơn và lại có nhiều
quyền lợi hơn.
Nhưng cuối cùng, tôi đã cảm nhận
như anh trưởng Phêrô đã thốt lên: "Tôi không biết ai khác lại có được Lời
ban Sự Sống đời đời như Thầy Giêsu của tôi." Amen.
Khuyết danh,
27. Nhập vai
Bộ phim Lady sings the Blues mô
tả câu chuyện cuộc đời ca sĩ Billie Holliday. Diana Ross dành nhiều tháng chuẩn
bị cho vai Billie. Cô đọc rất nhiều tài liệu về cuộc đời của Billie và lắng
nghe hàng giờ những bài hát của Billie. Diana nói: “Tôi đã hứa sẽ thực hiện tốt
công việc. Tôi cố gắng hết sức để tìm hiểu về Billie.”
Lời hứa của Diana làm sống lại
hình ảnh Billie trên màn ảnh là kiểu mẫu cho lời hứa của tôi làm cho Chúa Giêsu
sống dậy trong thế giới này. Nó mời gọi tôi tự hỏi: Tôi có trung thành tin tưởng
vào Chúa Giêsu như Diana đối với Billie hoặc như Nhóm Mười Hai đối với Chúa
Giêsu không?
Đừng bao giờ bỏ đi lòng trung
thành và tín nghĩa. Hãy mang nó bên mình và ghi khắc nó trong tim (Cn 3,3)
CNTN 21C – CỬA HẸP VÀ ƠN CỨU
ĐỘ
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về
Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ
được cứu độ?"
Nhưng
Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo
các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được.
Khi
chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng:
'Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi'. Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không
biết các ngươi từ đâu tới'.
Bấy
giờ các ngươi mới nói rằng: 'Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng
dạy giữa các công trường chúng tôi'.
Nhưng
chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những
kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'.
Khi
các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước
Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến
răng.
Và
người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa.
Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ
nên sau hết.”
TRUYỆN KỂ
1. Ai được cứu độ?
Trước thời Đức Giêsu độ 700 năm,
vua Sennakêrit nước Assyrie (Iraq ngày nay) gửi sứ giả đem thư đến đe dọa vua
Êzêkia nước Do Thái, nếu không đầu hàng, sẽ bị tiêu diệt như bao nhiêu nước khác.
Sennakêrit nói với Êzêkia: “Ngươi đừng để Thiên Chúa của ngươi lừa dối ngươi rằng:
Giêrusalem sẽ không bị phó nộp vào tay ta. Ngươi đã nghe tất cả thiên hạ đã bị
tiêu diệt cùng với thần của chúng. Còn ngươi, ngươi thoát được khỏi tay ta ư?”
Vua Êzêkia đã đặt lá thư đe dọa
đó trước mặt Thiên Chúa và cầu khẩn: Lạy Chúa, chỉ có mình Chúa là Thiên Chúa
trên mọi nước trần gian, chính Người đã làm nên trời đất… Lạy Chúa, xin nghe những
lời Sennakêrit mạ lị Chúa hằng sống … xin cứu chúng tôi khỏi tay nó, để mọi nước
trên trần gian nhận biết chỉ mình Chúa là Thiên Chúa thật mà thôi” (2V. 19,
10-19. 35; xem thêm 18, 17-36)
Thế rồi Vua cùng toàn thể triều
đình mặc áo nhặm, cầu nguyện, hãm mình và sai quan đến nhờ ngôn sứ Isaia cầu
xin Chúa soi sáng. Isaia được Chúa cho biết: “Đừng sợ những lời lộng ngôn đó.
Ta sẽ cho nó ngã gục, nó sẽ bị gươm đâm ở chính nhà nó” (2V. 19, 5-7). Khi
Sennakêrit đem quân đến bao vây và xiết chặt Giêrusalem như “con chim bị nhốt
trong lồng” và xẩy ra ban đêm, Thần sứ Chúa đến sát phạt 185.000 quân của
Sennakêrit. Ông phải rút về Ninivê và đang thờ lạy tà thần trong nhà ông. Các
con ông đã lấy gươm đâm ông chết (2V. 19, 35-36).
Thế là thành đô Giêrusalem và cả
nước Giuda được cứu thoát.
2. Đừng ảo tưởng.
Có một ông khách bộ hành phải đi
qua một cái làng để đến một nơi mà ông ta không biết đích xác còn bao xa nữa
thì mới tới được. Dọc đường ông ta gặp một bác tiều phu, liền dừng lại hỏi xem
thử khoảng bao lâu nữa thì tới nơi mình muốn tới. Bác tiều phu nhìn ông khách rồi
đáp ngay: ”Tôi không biết.” Nghe thế, ông khách vội bước đi và nghĩ rằng người
nhà quê đó không biết thật, chứ không phải khó tính khó nết. Nhưng khi vừa mới
đi được vài bước thì bác tiều phu gọi với theo: ”Này ông ơi, ông đi độ 15 phút
nữa thì tới nơi đó.” Ngạc nhiên, ông khách quay trở lại hỏi bác tiều phu: ”Tại
sao khi nãy hỏi bác, bác trả lời không biết”? Bác tiều phu thông cảm đáp: ”Lúc
ông hỏi tôi, ông chưa hành động nên chưa thấy bước đi của ông dài hay ngắn, mau
hay chậm thì làm sao tôi có thể trả lời cho ông rõ ràng được”?
Như vậy, ta đi tới đích được hay
không, sớm hay muộn là do nơi hành động của ta. Cũng thế, thành công hay thất bại
trong cuộc đời là hệ tại nơi việc làm của ta như thế nào. Do đó, có một điều hết
sức tai hại mà ta phải luôn cảnh giác đề phòng là đừng quá tin tưởng vào những
suy đoán chủ quan, những ảo tưởng siêu thực để rồi thiếu cố gắng tích cực,
không chịu khó hành động cụ thể, sẽ rước lấy nhiều hậu quả khôn lường.
3. Khoái lạc trong một
đêm.
Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ
cho nhau nghe ước muốn có một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo
dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ: ”Nếu cô vợ chịu ngủ
với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng
khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận.
Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ
(,,,)
Con đường dễ dãi là con đường dẫn
tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những
cố gắng và kiên nhẫn lâu dài.
4. Quê trời là đích điểm
Người ta nói về hai người leo
núi nổi tiếng đã chết trên ngọn Everest rằng: “Khi người ta thấy họ lần cuối
cùng thì họ vẫn hăng hái tiến lên đỉnh núi.” Người ta ghi khắc vào bia mộ một
hướng dẫn viên leo núi Alpes chết ở sườn núi rằng: ”Chàng chết lúc đang lên.”
Con đường Kitô hữu phải đi là con đường đi lên,tiến lên, tiến mãi.
Tổng thống Washington có khuyên
một câu thật chí lý: ”Không nên chỉ đánh giá thành công qua địa vị mà con người
đạt được trong cuộc sống, nên đánh giá sự thành công qua những trở ngại mà người
đó khắc phục được.”
Cuộc đời có biết bao lôi cuốn
cam go, nhưng chỉ khi can đảm, không thỏa hiện hay nhân nhượng với kẻ thù, người
ta mới có thể nói được như thánh Phaolô: ”Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống
chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều
thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công,
sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết
mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện” (2Tm 4,6-8).
Con đường chiến đấu khác nào một
cuộc leo núi mà đỉnh chót không bao giờ đạt được ở trần gian này.
5. Thử thách giúp nên
người
Ở một số bộ lạc da đỏ, có tục lệ
sau đây: khi một trẻ trai đến tuổi thành niên, người cha của nó sẽ dẫn nó vào rừng,
giao cho nó một cây giáo, sau đó người cha rút lui để lại nó một mình trong rừng
suốt đêm hôm ấy. Trong đêm đó, nó sẽ phải một mình ở trong rừng, đối diện với
nhiều nỗi sợ hãi: sợ cô đơn, sợ bóng tối, sợ thú dữ... Nếu nó hèn nhát đòi theo
cha về nhà thì nó vẫn bị coi là trẻ con. Nhưng nếu nó chịu đựng được tất cả và
sáng hôm sau rời khỏi khu rừng trở về với gia đình thì nó được chính thức công
nhận là người một trưởng thành.
Nếu nói theo bài Tin Mừng hôm
nay thì cái đêm khó khăn trong rừng ấy là cái "cửa hẹp"; còn nếu nói
theo bài đọc II thì đó là "thử thách.” Có qua thử thách hay cửa hẹp đó thì
chàng thiếu niên mới trở thành người.
Tại sao gian nan cực khổ giúp ta
nên người?
- Vì nó thanh luyện tâm hồn
- Vì nó rèn luyện đức tính
- Và vì nó sinh nhiều hoa trái tốt
Chẳng những giúp ra nên người,
gian nan cực khổ còn giúp ta nên người kitô hữu tốt:
- Sở dĩ Chúa cho phép gian nan cực
khổ xảy đến với ta là vì Chúa biết nó có thể làm ích cho chúng ta. Nói ngược lại,
nếu nó chỉ có hại thì Chúa đã không cho nó xảy đến với ta.
- Nó khiến ta tìm đến Chúa
- Nó giúp ta cảm nghiệm được quyền
phép Chúa
- Nó giúp ta cảm nhận được tình
thương của Chúa
- Và nó khiến ta biết thương xót
những người gặp hoàn cảnh gian nan cực khổ như ta.
6. Vật liệu xây nhà
Một buổi sáng náo nhiệt, người
đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa
thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào.
Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ,
thì bà sung sướng nghĩ thầm: "Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt
đẹp như thế! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng
nào!" Và bà ta xoa tay vui sướng.
Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh
Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:
- Đó là nhà của bà.
Người nhà giàu hốt hoảng, choáng
váng đầu óc:
- Nhà của tôi đó thật sao?
Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được?
Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc,
trả lời giữa hai cái nháy mắt:
- Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi
lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy thôi!
7. Phản ứng tự nhiên cho
biết tâm hồn
Một nữ tu già ngồi sau một chiếc
xe đạp, rồi có một chiếc xe hơi trên đó có một số cán bộ chạy lướt qua. Chiếc
he hơi lái hơi ẩu nên chạm chiếc xe đạp làm cho bà sơ già té ngửa xuống, dập đầu
xuống đường. Những cán bộ trên xe hơi vội vả xuống đỡ bà dậy.
Mặc dầu đau lắm nhưng bà cố gắng
nói "Không sao đâu các con, xin Chúa chúc lành cho các con.” Câu nói đột
ngột đó làm cho các ông cán bộ kia vừa tức cười vừa nghĩ ngợi: tức cười vì các
ông ấy đâu có tin Chúa mà cần tới phúc lành của Chúa, nhưng các ông phải nghĩ
ngợi vì phản ứng đầy bác ái và đầy đức tin của bà sơ: chỉ có kẻ nào quá quen với
tha thứ và lúc nào cũng luôn nhớ tới Chúa mới có thể thốt ra một câu như vậy.”
Và sau đó những ông cán bộ ấy hay tới lui chăm sóc và thăm viếng vị nữ tu ấy,
lòng rất mến phục.
Đó là những phản ứng, phản ứng
thì lẹ làng, bất ngờ nhưng rất trung thực. Trước một tình huống xảy ra, trong
lòng mình thế nào thì mình sẽ phản ứng đúng như vậy. Người nào chỉ có đạo trên
danh nghĩa nhưng không quen sống theo Lời Chúa thì không thể nào có được phản ứng
mang tính chất Kitô giáo đích thực. Như thế, thước đo của lòng đạo chúng ta
chính là những phản ứng của chúng ta.
8. Chọn thanh kiếm
Vua Sác-lơ thứ năm, một lần kia
gọi hoàng tử đến và cho hoàng tử được lựa chọn. Trên bàn, vua đặt một thanh kiếm
và một triều thiên, vua nói: “Con chọn cái nào?” Suy nghĩ một lúc, hoàng tử cầm
lấy thanh kiếm. Vua cha hỏi: “Sao con lại chọn thanh kiềm?” Hoàng tử cầm thanh
kiếm chỉ vào triều thiên đáp: “Thưa cha, nhờ thanh kiếm này con sẽ được triều
thiên kia.” Chúng ta cũng thế, nhờ thanh kiếm đi vào lối hẹp, tức là cố gắng vượt
qua gian khổ, khó khăn, thử thách, chúng ta sẽ chiếm được triều thiên nước trời.
Bài Tin Mừng hôm nay nêu lên cho
chúng ta một sứ điệp, một lời mời gọi: “Hãy phấn đấu để được cứu độ.” Phải phấn
đấu, vì đường dẫn đến nước trời không thể và không phải là con đường dễ dãi mà
đa số con người thích chọn, nhưng là lối hẹp. Chính Chúa Giêsu đã chọn lối hẹp,
và tất cả những ai muốn theo Ngài, muốn được cứu độ cũng phải chọn lối hẹp.
9. Không có chỗ cho người
tự phụ
Ở trang trong của một nhật báo
xuất bản tại Manila, người ta đã đọc được câu chuyện vui sau đây:
Trước cửa Thiên đàng, linh hồn một
nông dân xuất hiện xin Thánh Phêrô cho vào hưởng nhan Thiên Chúa. Thánh Phêrô
nghiêm nghị hỏi:
- “Con đã sống như thế nào trên
trần gian mà giờ đây con muốn vào Thiên đàng?”
Linh hồn người nông dân trả lời
với hết lòng chân thật:
- “Dạ, thưa Thánh Phêrô, 70 năm
qua trên trần gian con đã cần cù làm ăn, tuân giữ mọi điều luật Chúa dạy, không
bao giờ phạm tội làm mất lòng Chúa. Con muốn vào Thiên đàng để được hưởng nhan
thánh Chúa đời đời.”
Thánh Phêrô nghiêm nghị trả lời:
- “Con đợi ta xem lại các bản
phúc trình mà thiên thần bản mệnh của con đã gởi về.” Trong giây phút im lặng,
với vẻ mặt nghiêm nghị, Thánh Phêrô lần mở ra kiểm soát thật kỹ những phúc
trình về cuộc đời của người nông dân. Quả thực, đúng như lời ông khai báo.
Thánh Phêrô không tìm thấy bất cứ sai lỗi nào trong các bản phúc trình ấy cả.
Sau giây phút suy nghĩ thêm, thánh nhân nghiêm nghị thêm, thánh nhân nghiêm nghị
trả lời cho linh hồn người nông dân:
- “Con không đủ điều kiện để vào
Thiên đàng.” Thánh Phêrô ôn tồn giải thích lý do: “Con có biết không, trên
Thiên đàng nầy, kể cả chính bản thân ta đây nữa, tất cả mọi linh hồn vào đây đều
là những linh hồn tội lỗi, đã làm phiền lòng Chúa Giêsu rất nhiều, nhưng đã sám
hối ăn năn, được Chúa thứ tha, rồi mới vào đây được. Còn con thì thật là khác
thường. Con suốt đời không phạm tội gì cả. Vậy con không đủ điều kiện để vào
Thiên đàng. Ta cho con trở lại trần gian sống thêm ít năm nữa xem sao để con có
điều kiện mà trở lại đây vào Thiên đàng.”
10. Mưu ma chước quỷ
Quỉ vương mở cuộc họp bàn với
đông đảo mọi thành phần quỉ để làm sao lôi kéo được nhiều người xuống hỏa ngục.
Các tên quỉ đưa ra nhiều mưu chước, cuối cùng có một thằng quỉ già nói:
"Hãy rỉ vào tai con người là: Đừng có gấp, cứ từ từ, còn kịp chán, hãy ăn
chơi phạm tội đi, không có mất linh hồn đâu mà sợ! Gần chết hãy ăn năn trở lại
cũng còn kịp!”
Quỉ vương vỗ tay khen hay và
thúc dục các quỉ hãy đi cám dỗ người ta bằng mưu chước này.
11. Cửa hẹp là gì?
Xin được lấy lại cảnh tương phản
về bộ phim “Cánh cửa mở rộng” nói trong mở đề để gọi Cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói ở
đây là “Cửa mở rộng.” Mở rộng tức là mở luôn luôn, mở cho mọi người. Cửa hẹp không
phải là nơi để hạn chế: hạn chế thời gian (mở buổi sáng, đóng buổi chiều; hạn
chế con số (1 tỉ rưỡi thôi nhé!); hạn chế tầng lớp (người nghèo mới được
vào)... Không phải! Cửa hẹp là cửa mở rộng. Ai muốn vào cũng được. Vào giờ nào
cũng được. Điều kiện duy nhất của nó là vì nó hẹp, nên muốn vào phải bỏ lại những
hành trang cồng kềnh.
- Những hành trang cồng kềnh đó,
là tội lỗi của chúng ta. Ta không bỏ lại ta không vào được cửa hẹp.
- Những hành trang cồng kềnh đó,
là những thú vui trần gian. Ta không biết từ bỏ, ta không lách qua được cửa hẹp.
- Những hành trang cồng kềnh đó,
là lòng tham danh lợi lộc. Ta không từ bỏ, ta không chui lọt qua khung cửa hẹp.
- Những hành trang cồng kềnh đó,
là những mối thù nặng nhẹ với anh chị em trong nhà hay ngoài mái ấm gia đình.
Ta không từ bỏ, khi đi qua cửa hẹp, sẽ bị vướng mắc, như chiếc áo rộng dính vào
ốc này vít kia của cánh cửa hẹp, khiến ta không thể dễ dàng đi qua được trơn
tru.
Có hai người lính trẻ đang nói
chuyện với nhau về việc tin theo Chúa Kitô. Một người nói: “Tôi không thể nói hết
cho anh biết, tin theo Chúa Kitô thì quí giá biết ngần nào.” Người kia đáp:
“Tôi cũng nghĩ đến đó, nhưng tôi thấy tin theo Ngài thì phải từ bỏ nhiều quá.
Quả thật tôi đang tính toán đây.” Một sĩ quan đi ngang, nghe vậy, đặt tay trên
vai người lính trẻ vừa nói câu trên, mà rằng: “Anh ơi, anh tính giá của sự tin
theo Chúa Kitô sao? Thế anh có bao giờ tính giá phải trả khi không tin Chúa
Giêsu không?…
Thánh Phaolô đã tính giúp chúng
ta trong Pl 3, 8-9: “Tôi coi tất cả mọi sự là thua lỗ, bất lợi cả, trước cái lợi
tuyệt vời là được biết Đức Giêsu, Chúa tôi, vì Người tôi đành mất hết và tôi
coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.”
12. Tầu kéo hay thuyền
buồm?--Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: "Mỗi người chúng ta
phải tự quyết định xem mình là loại Kitô Hữu tầu kéo, thuyền buồm hay bè trôi
sông"
Một thanh niên viết thư cho một
linh mục. Anh nói vị linh mục có thể tự do xử dụng lá thư của anh. Ngoại trừ một
vài sửa đổi, sau đây là nguyên văn lá thư anh viết:
"Con là một trong những tay
bơi lội có hạng ở Gia Nã Đại. Một ngày kia, con để chúng bạn lôi con vào đường
ma tuý.
"Con bị nghiện, và không
lâu sau đó, sức khỏe tâm trí, thể xác và tinh thần đều xuống dốc cách thảm hại...
Đời con đảo lộn tất cả. Con trở nên cô đơn và lo sợ khủng khiếp. Con không thể
nói chuyện được với ai.
"Tệ hơn nữa, con vẫn mắc nợ
các tay đầu nậu trên $3,000. Con nghĩ, cách duy nhất để thoát khỏi là tự tử, do
đó con về nhà và viết lá thư sau:
"Cha mẹ yêu dấu,
"'Con xin lỗi đã làm cha mẹ
đau lòng... Xin cha mẹ đừng buồn. Nếu con sống, con sẽ gây thêm nhiều đau buồn
hơn là điều con vừa mới thi hành... Con thương cha mẹ và cả gia đình.
"Con uống rượu để khỏi sợ
hãi khi chuẩn bị kết liễu cuộc đời. Và rồi, vào giây phút sau cùng, điều gì đó
đã khiến con ngừng lại. Con lấy điện thoại và gọi cho trung tâm giúp đỡ khủng
hoảng.
"Lúc bấy giờ con không biết
là mẹ con cầu nguyện cho con một cách cuồng nhiệt. Một vài ngày sau, con nhập
viện cai trừ ma tuý. Không bao lâu con phục hồi sức khỏe thể xác cũng như tâm
thần.
"Chính lúc bấy giờ con mới
bắt đầu đọc Kinh Thánh. Càng đọc con càng cảm thấy bình an và niềm vui. Điều đó
khiến con càng tin tưởng vào Chúa hơn nữa.
"Trong khi đó, con càng
khao khát được biết Chúa Giêsu hơn.
"Thật buồn cười. Con từng
quỳ gối cầu nguyện tối thiểu trên mười lần-để xin Chúa đến trong đời con--trước
khi con nhận ra rằng Người đã ở trong cuộc đời con từ lúc nào...
"Tất cả những điều này xảy
ra cách đây chừng năm năm. Kể từ đó, Thiên Chúa đã chúc phúc nhiều cho con. Con
dạy học trong một trường Công Giáo và tích cực hoạt động trong giáo xứ...
"Con cũng cố gắng mở lòng
mình hơn nữa để đón nhận lòng thương xót và tình yêu của Chúa là Cha chúng ta.
Kính chào Cha
13. Thiên đàng là gì?
Samurai là một hiệp sĩ hung bạo.
Ông đến hỏi một thiền sư, “Yêu cầu ông cho tôi biết thiên đàng hỏa ngục là gì?”
Vị thiền sư nhìn thấy con người thô bạo của anh thì nói, “Ta không thể dạy cho
ngươi biết thiên đàng hỏa ngục là gì, vì ngươi hung bạo quá. Ngươi làm nhục cho
hàng ngũ hiệp sĩ của ngươi.”
Nghe vị thiền sư nói thế, chàng
hiệp sĩ bừng bừng sát khí, rút gươm định chém đầu ông ta. Nhưng vị thiền sư đưa
tay cản lại và nói, “Hỏa ngục là thế đó!”
Nhận được bài học thực tế của
nhà sư, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và thương cảm trào dâng trong
tâm hồn y. Y hiểu rằng vị thiền sư hy sinh cả mạng sống để dạy cho y bài học về
hỏa ngục. Y từ từ xỏ gươm vào vỏ, rồi quỳ gối trước mặt thiền sư với tất cả tấm
lòng thành tâm sám hối. Vị thiền sư đưa tay đỡ y dậy, nhìn vào con người y và bảo,
“Thiên đàng là thế đó.”
14. Chìa khóa Thiên đàng
Có ông vua giàu có quyền thế.
Sau khi đã chinh phục các quốc gia láng giềng và những gì vua ưa thích, vua
cũng chưa lấy làm mãn nguyện. Vua ước mong tìm được chìa khóa mở cửa thiên
đàng. Vua sai các quan tướng đi tìm kiếm khắp nơi, nhưng chỉ tốn của uổng công
vô ích. Sau cùng nhà vua quyết định đích thân đi tìm. Ngày nào vua cũng lặn lội,
dầm mưa dãi nắng tìm kiếm. Đến một hôm, vua cỡi ngựa đến trước một bức tường
cao, cổng sắt kiên cố. Trước cổng có thiên thần canh gác cẩn mật. Vua liền xuống
ngựa, đến với thiên thần trình thật, “Tôi không thể an tâm nhắm mắt, nếu không
tìm được chìa khóa mở cửa thiên đàng. Xin thiên thần thương giúp tôi.”
Thiên thần cười nói, “Thực ra
trên đời này, có rất nhiều thứ chìa khóa mở được cửa thiên đàng. Có thể nó ở
ngay dưới chân vua. Muốn tìm được, nhà vua phải bền tâm chịu khó tìm kiếm.”
Nghe nói thế, nhà vua cố gắng chịu
khó tìm kiếm, nhưng tìm mãi không được. Bỗng ngày kia đang lúc đi trong rừng,
nhà vua vấp phải một cây nhỏ bé sắp tàn héo bên vệ đường. Vua liền nhổ cây sắp
chết đó đem về hoàng cung, tự tay trồng lấy và chăm sóc hằng ngày. Các quan thấy
thế thì ngạc nhiên nói với vua, “Sao hoàng thượng bận tâm đến một cây nhỏ bé
héo tàn đến thế? Chắc gì nó sống được? Và dù nó có sống đi nữa, thì với tuổi của
hoàng thượng, hy vọng gì được nghỉ dưới bóng nó, hoặc hưởng được bông trái của
nó?”
Nhà vua thản nhiên trả lời, “Tuy
trẩm không còn sống để hưởng, nhưng một ngày nào đó, sẽ có người được nhờ bóng
mát của nó, được thưởng thức hoa trái thơm ngon của nó là đủ cho trẩm cảm nhận
được hạnh phúc rồi.” Vừa nói xong, nhà vua liền thấy ngay trước mặt chiếc chìa
khóa mở cửa thiên đàng.
15. Xây dựng thiên đàng
Một bà quý tộc tên là Elizabeth
đang quỳ cầu nguyện trong nhà thờ, bỗng nghe như có tiếng Chúa nói, “Con hãy
xây nhà cho Ta cư ngụ.” Tin chắc đây là lời Chúa bảo mình, bà mướn thợ xây ngay
một nhà nguyện. Nhưng xây xong, bà cũng còn nghe như tiếng Chúa bảo như thế mỗi
lần bà cầu nguyện. Bà nghĩ chắc Chúa cho là nhà nguyện này nhỏ quá, không xứng
đáng làm nơi Chúa ngự. Có thể Người muốn bà xây một nhà nguyện lớn hơn, đẹp
hơn, xứng đáng cho Người hơn, vì Chúa biết sự giàu có Người ban cho bà dư thừa
để xây dựng nhà nguyện lớn hơn.
Thế là bà Elizabeth đi tìm mua một
miếng đất rộng lớn, thuê thợ xây một nhà nguyện lớn hơn, trang hoàng lộng lẫy
nguy nga. Bà nghĩ lần này chắc Chúa phải hài lòng lắm, vì trong vùng không có
ngôi đền thờ nào rộng lớn, đồ sộ, đẹp đẽ hơn nữa. Nhưng lạ thay, khi cầu nguyện,
bà vẫn còn nghe như có tiếng Chúa nói với bà, và lần này Chúa nói một cách khẩn
thiết nài nỉ hơn, “Con hãy xây nhà cho Ta cư ngụ.”
Bà ngạc nhiên quá nên hỏi Chúa,
“Con đã xây cho Chúa một ngôi nhà lộng lẫy nhất vùng này. Sao Chúa còn bảo con
xây nhà cho Chúa ngự nữa? Hay là Chúa muốn con xây dựng một Vương Cung Thánh Đướng
lớn nhất và đẹp nhất nước này?”
Tiếng Chúa thì thầm trả lời,
“Con hãy nhìn qua bên kia cửa sổ. Con thấy gì ở bên đó?” “Con thấy một gia đình
nghèo khổ đang trú ngụ dưới một bóng cây cổ thụ, nhưng việc đó có can hệ gì đến
Chúa?”
“Có chứ! Cha không nhờ con xây
nhà cho Cha, mà xây nhà cho gia đình nghèo khổ đó. Và đó chính là con xây nhà
cho Cha và cũng là xây nhà cho con trên thiên đàng.”
16. Cửa hẹp ở Dubai
Lo ngại tình trạng béo phì ngày
càng gia tăng tại Dubai, chính quyền thành phố vùng Vịnh giàu có này, quyết định
thực hiện sáng kiến đặc biệt, là “đổi trọng lượng lấy vàng.”
Theo đó, mỗi kg mà một người dân
"quá khổ" giảm được sẽ tương ứng với giải thưởng 1 gram vàng, theo mức
giá ở Dubai là 30 bảng (tương đương 963.000 VNĐ). Tuy nhiên để được nhận giải
thưởng, trong vòng 30 ngày, mỗi người đó phải giảm được ít nhất 2 kg.
Chương trình sẽ bắt đầu vào ngày
19-7- 2013. Đây là kế hoạch mới nhất để khuyến khích lối sống lành mạnh tại
UAE. Gần đây, chính quyền các địa phương tại UAE liên tục cảnh báo người dân về
chứng béo phì gia tăng, do chế độ ăn thức ăn nhanh và ít tập thể dục của người
dân nước này.
Chương trình còn có 3 giải thưởng
thông qua rút thăm may mắn, dành cho những người giảm cân hiệu quả nhất, với mỗi
giải thưởng là 1 đồng xu vàng trị giá 3.600 bảng (116 triệu VNĐ) (Linh San,
NLĐ, theo Guardian)
Trong khi chính quyền thành phố
Dubai đang tích cực kêu gọi tiết giảm ăn uống, giảm cân, tránh béo phì, được
thưởng vàng, thì Tin Mừng Thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu khẩn thiết kêu gọi mọi
người chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào tham dự bàn Tiệc Thiên Quốc.
17. Nhịn ăn để tự cứu
mình
Một con chồn sống cạnh vườn nho.
Mùa nho về, chồn tìm mọi cách để vào bên trong, vì biết rằng: khi đã vào vườn
nho rồi, thì tha hồ hưởng thụ... Nó bò dọc bức tường tìm lối vào. Vận may cũng
đến, chồn tìm được một lỗ nhỏ vừa đủ để chui qua. Vào bên trong, nó tận hưởng
cuộc sống nhàn hạ, ăn uống thỏa thuê.
Rồi mùa thu hoạch nho cũng đã tới.
Mỗi ngày, người ta vào vườn hái nho, có cả những chú chó săn cũng được đưa vào
để săn lũ chuột, chồn phá hoại. Nó nhận thấy bất ổn và nguy hiểm cận kề, tìm đến
lỗ trước đây thoát ra.
Không xong rồi, thân xác mập ú,
quá khổ, trong khi lỗ hổng lại quá nhỏ hẹp! Nó buồn bã, thất vọng, than van: tại
mình quá lo ăn uống, hưởng thụ, mới nên nông nỗi này!
Nó quyết định “giảm cân”, cho dù
phải chiến đấu với sự thèm muốn, đói khát! Thật may cho nó, ngày hôm sau, người
ta lùng sục những khóm nho cuối cùng, thì đêm hôm trước, chồn cũng gồng mình
chui qua từ lỗ hổng ra ngoài an toàn! Nó hú hồn thoát được kiếp nạn, nhưng điều
quan trọng hơn là bài học nhớ đời: từ nay phải cẩn trọng, sống tiết độ, tỉnh thức,
để luôn có thể “qua” cửa hẹp, mà “vào” nơi hạnh phúc và bình an.
18. Phải chiến đấu
Câu trả lời của Đức Kitô gây ngạc
nhiên không nhỏ. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu í nghĩa cánh cửa hẹp.
Thứ nhất, cửa thì luôn nhỏ hơn cổng.
Cửa mà lớn hơn cổng sẽ trở thành dị hình, cấm địa, ngăn cản người ra vào.
Thứ hai, vì là cửa hẹp nên việc
ra vào không dễ dàng. Muốn ra vào cửa hẹp phải khắc chế, loại bỏ 'mỡ béo' không
cần thiết ngăn cản ta lọt qua cửa. Loại bỏ bất cứ gì ngăn cản ta vào nước trời,
những gì không mang lợi ích cho người và cho mình.
Thứ ba, vì là cửa hẹp mỗi lần chỉ
một người đi lọt và phải cố gắng mới có thể đi lọt vì thế không thể kết đảng, lập
bè, tạo phái để cùng tiến vào.
Thứ tư, cửa đó không phải mở
vĩnh viễn mà đến một ngày giờ nhất định không ai biết trước cửa đó sẽ đóng. Một
khi cửa đóng không ai có quyền mở trừ người giữ cổng. Ở đây chúng ta cũng dành
vài hàng cho chữ đóng. Chữ đóng đây có lẽ ít nhắc đến cửa đóng, then gài nhưng
nhấn mạnh đến tâm hồn đóng kín của người muốn qua cửa. Đóng kín tâm hồn không
đón nhận lời mời qua cửa hẹp. Đóng kín tâm hồn để người đó phán đoán sai sự thật
cho rằng cửa đó mở thường trực vĩnh viễn và người đó bất cứ khi nào muốn có thể
ra vào tuỳ í.
Thứ năm, cửa hẹp không phải nói
đến vật chất tạo cửa mà nói đến con người giữ cửa. Người vừa là cửa vừa là người
giữ cửa là chính Đức Kitô khi Ngài tuyên bố rõ:
Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào
thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.
19. Trả lời YES hay NO
Đức Kitô hôm nay không trả lời
bao nhiêu người được cứu, nhưng Người chỉ cho chúng ta làm sao để được cứu độ:
"Các ngươi hãy cố gắng vào qua hẹp.” Người đang nói tới sự cộng tác của
con người. Đó là nét dễ thương của Thiên Chúa chúng ta, Người không làm hết,
không "bao sân" mà Người mời gọi chúng ta cộng tác với Người để cứu độ
mình. Nếu Người làm hết thì không còn công trạng của chúng ta nữa.
Muốn thi đậu thì phải ôn luyện kỹ
càng. Muốn chơi bóng rổ giỏi thì phải tập luyện mỗi ngày. Muốn tránh cao mỡ và
cao máu thì phải kiêng dầu mỡ và muối. Muốn có thân hình đẹp, gầy như sương mai
thì phải "diet.” Cũng vậy, muốn vào thiên đàng thì phải làm gì? Phải
"diet", vì phải "qua của hẹp"! Mập thù lù làm sao mà vào được!
(just kidding)
"Vào của hẹp" là nói
NO với những cám dỗ của những phim ảnh đồi trụy, những cuộc tình trộm vụng, nói
NO với những cách kiếm tiền phi đạo đức và nhân bản. Nói NO với những thái độ tự
cao tự đại, gây chia sẽ bè phái...
"Vào của hẹp" là nói
YES với những giá trị của Tim mừng, sống thật thà và trong sạch, sống bác ái,
giúp đỡ tha nhân nhất những người nghèo khổ. Mẹ Terêxa Calcuta nói rằng:
"Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên lòng bác ái. Bác ái là thẻ căn cước đích
thực cho phép chúng ta bước qua cửa hẹp vào Thiên Đàng.”
"Vào cửa hẹp" là để
cho Chúa "quở trách... sửa dạy...và đánh đòn" (Dt 12:5-6) mình khi
chúng ta sai lỗi. Chúa thương mới cho "cho roi cho vọt" đó.
Và khi chúng ta nói Yes như thế
với Chúa là chúng ta đang đi vào cửa hẹp, cửa dẫn chúng ta tới hạnh phúc, tới
ơn cứu độ, tới Thiên Chúa là hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Hạnh phúc đó,
thiên đàng đó đã bắt đầu từ ngày hôm nay rồi. Amen.
20. Hãy cố gắng vào qua
cửa hẹp
Trong chuyện ngụ ngôn của
Lafontaine có kể lại câu chuyện chạy đua của thỏ và rùa. Con thỏ rất nhanh
chân, còn rùa thì bước đi không thể so bì được với ai. Thế mà kết cuộc rùa đã
thắng thỏ. Rùa biết thân phận mình, nên cố hết sức, tận dụng hết khả năng của
mình để vượt chặng đường qui định. Rùa vẫn biết khả năng thắng cuộc rất mong
manh.
Nhưng chính sự cần cù vượt khó:
vượt qua sự mệt nhọc, vượt qua khả năng giới hạn của bản thân, vượt qua sự chê
cười của đối phương. Chính những cố gắng đó đã đưa rùa đến chiến thắng.
Còn thỏ, quá ỷ lại vào tài năng
bản thân, nên cứ lo rong chơi thoải mái, tìm của ăn để thưởng thức. No nê rồi
mà thỏ vẫn còn nhìn thấy rùa đang lê từng bước chân nặng nề chưa đi đến đâu. Thỏ
mỉm cười ung dung đánh một giấc ngon lành. Khi chợt tỉnh dậy, thỏ không còn
nhìn thấy rùa đâu nữa. Thỏ bèn tăng tốc, vận dụng hết khả năng mình có, khi
nhìn thấy bóng dáng rùa từ xa, thì không còn kịp nữa, rùa đã đến nơi. Thỏ đành
ôm hận mà quay trở về với thất bại.
Có tài năng, nhưng quá ỷ lại,
không biết vận dụng, không biết cố gắng, thì cũng trở nên vô dụng. Còn biết cố
gắng vượt khó, sẽ thành công.
21. Trọng hơn huy chương
vàng
Trong cuộc thi Olympic tổ chức
vào năm 1924, vận động viên điền kinh E-ríc Lít-đen (Eric Liddel), người Cốt-len
đã giành được hai huy chương vàng ở cự ly 200m và 400m. Còn một giải cự ly 100m
được tổ chức vào ngày Chúa nhật, ai cũng nắm chắc anh E-ríc Lít-đen là người sẽ
đeo vòng nguyệt quế ở cuộc thi này, vì ngoài anh không còn đối thủ nào sáng giá
hơn.
Nhưng E-ríc Lít-đen đã từ chối dự
thi, vì hôm đó là ngày Chúa nhật, ngày lễ nghỉ, anh cần đi dự Lễ, nên anh bỏ
thi. Bởi lẽ Điều răn mới thứ I của Hội Thánh dạy: Dự lễ và kiêng việc xác ngày
Chúa nhật. Giáo lý Công Đồng Vat. II còn nhấn mạnh hơn về ý nghĩa ngày của
Chúa: “Ngày Chúa nhật là ngày lễ nguyên thủy phải được đề cao và in sâu vào
lòng đạo đức của các tín hữu, để ngày ấy trở nên ngày vui mừng và ngày nghỉ việc.
Bởi vì ngày Chúa nhật là nền tảng
và trung tâm của cả năm Phụng Vụ” (Hiến Chế Phụng Vụ số 106). Do đó huy chương
vàng đối với anh không thể sánh bằng việc anh đi tham dự Thánh Lễ, anh đã đi
qua cửa hẹp dẫn đến sự sống.
22. Chúa muốn điều gì?
Một hôm Alexandre Đại Đế bắt gặp
Diogène đang chú ý xem xét một đống xương người. Hoàng đế hỏi:
- Khanh tìm kiếm cái gì thế?
- Một thứ mà thần chưa tìm ra được,
triết gia trả lời.
- Cái gì vậy?
- Thần đang cố nhìn cho ra sự
khác biệt giữa xương của cha thần và xương các nô lệ.
Chỉ với một câu đơn giản mà
Diogène đã vạch ra cho mọi người thấy cái phi lý trong các tranh chấp giữa nhân
loại. Xương người chết chẳng có gì khác biệt với nhau giữa quí tộc và thường
dân, Công giáo và Tin lành, Ả rập, Do thái và Hồi giáo. Vậy sao người sống lại
tranh chấp với nhau? Họ muốn điều gì, Chúa muốn điều gì?
23. Chọn lựa của tôi?
Khuất Nguyên làm quan đại phu
cho đời Hoài Vương nước Sở, bị kẻ sàm báng mà bị đuổi đi nơi khác, bỏ không
dùng nữa (phóng khí). Ông dùng câu chuyện với ông lão đánh cá mà tỏ bày tâm sự:
Mặt mũi tiều tuỵ, hình dung khô
héo, Khuất Nguyên vừa đi vừa hát trên bờ đầm. Có lão đánh cá trông thấy hỏi rằng:
- Ông có phải là Tam Lư đại phu
đó không? Sao mà đến nỗi khốn khổ như vậy?
Khuất Nguyên nói:
- Cả đời đục cả, một mình ta trong;
mọi người say cả, một mình ta tỉnh; bởi vậy cho nên ta phải phóng khí.
Ông lão đánh cá nói:
- Thánh nhân không câu nệ việc
gì, lại hay tùy thời. Có phải cả đời đục cả, sao không khuấy thêm bùn, vỗ thêm
sóng cho đục một thể; loài người say cả, sao ông không ăn cả men húp cả bã cho
say một thể? Việc gì mà phải lo xa, nghĩ sâu, để cho đến nỗi phải phóng khí?
Khuất Nguyên nói:
- Tôi nghe mới gội đầu tất phải
chải mũ, mới tắm ra tất phải thay áo; có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch
mà để cho vật dơ bẩn dính vào mình được? Chẳng thà nhảy xuống sông Tương, vùi
xác vào trong bụng cá, chớ sao đang trắng lôm lốp, lại chịu để dây bụi dơ.
Đâu là chọn lựa của tôi giữa
dòng đời khúc đục khúc trong, lúc tỉnh lúc say?
24. Bước theo Chúa Giêsu
Truyện cổ Phật Giáo kể: Hòa
thượng Xả Lai nhất tâm muốn thành tiên, một đêm nọ, ông mơ thấy tiên cảnh, lại
còn được Phật Tổ dạy: “Muốn đi vào tiên cảnh thì phải: Trên thân không mang
gì và trong bụng cũng không có gì, đi nửa đường cũng không được xin cơm kẻ khác
mà ăn.” Xả Lai đem giấc mơ này nói với sư huynh là Giám Lai, Giám Lai tự nguyện
cùng đi với ông. Họ rời khỏi chùa và nhắm hướng tiên cảnh trong giấc mơ mà đi.
Trên đường đi, Giám Lai không chịu được cơn đói, nên xin bánh chiên dòn của
người ta để ăn, Xả Lai vẫn cứ chịu cơn đói mà đi nên mệt lả người, Giám Lai
không nỡ nên cõng ông ta, nhưng Xá Lai nhớ lại lời của Phật Tổ nên không
chịu, dứt khoát để bụng đói và cố gắng tự bước tới.
Cuối cùng, hai người cũng đi đến
nơi hang động của tiên cảnh. Xả Lai bước nhanh vào trong động lấy sức thở một
hơi dài, lập tức toàn thân nhẹ nhàng bay bổng lên không. Khi ông ta quay đầu
nhìn lại thì thấy Giám Lai đã biến thành một tượng đá.
Phật Tổ đòi thân không mang
gì và bụng đói mới được vào chốn Bồng Lai tiên cảnh. Đức Giêsu lại
đòi phải đi qua cửa hẹp mới được vào Nước Thiên Chúa. Để đến được
cõi phúc muôn đời mà phải tuân thủ những đòi hỏi quá khó khăn như
vậy thì mấy ai tới được?
Cần nhìn vào con người và
cuộc đời của Đức Giêsu để hiểu và học cách thức đi qua cửa hẹp mà
Người đã dạy chúng ta.
25. Chọn lựa của Thomas
More
Thánh Tôma More, nguyên chưởng
ấn triều đình Henri, VIII, bị tống ngục, vì thánh nhân cương quyết
không chịu tuyên thệ chống lại Giáo Hội La Mã. Để giữ vững đức tin,
Ngài đã sẵn sàng vui lòng từ bỏ con đường thênh thang, danh vọng của
Ngài, để đi vào con đường hẹp, đường tù tội, đường tử hình, để rồi
sau đó Ngài bước vào cuộc đời vinh quang bất diệt.
Ngày 17 tháng 4 năm 1534, từ
ngục Tower, thánh nhân đã gửi cho con gái ngài là Margarita bức thư
rất cảm động sau đây:
Margarita con ơi, mặc dầu ba
biết rằng cuộc đời quá khứ của ba xấu xa, chỉ đáng Chúa bỏ rơi,
nhưng ba vẫn luôn trông cậy vào lòng nhân từ vô biên của người, và hy
vọng thật vững vàng. Cho đến nay ơn thánh của người ban sức mạnh cho
cha, để thà mất mọi sự, của cải, hoa lợi, và cả đến sự sống, còn
hơn là thề trái với lương tâm. Ơn Người cũng hướng dẫn tâm hồn Hoàng
Đế xử khoan hồng với ba, nên cho đến nay, ba chỉ mất tự do thôi, (và
như vậy Hoàng Đế làm ích cho ba, hơn mọi danh giá, của cải chồng
chất trước đây. Vì lẽ ở đây, ba được tiến bộ về phần hồn, và ba hy
vọng sẽ được tiến bộ mãi mãi). Thế nên ba vẫn không ngớt trông cậy
vào ơn Chúa, để hoặc là ơn Người sẽ hướng dẫn tâm hồn Đức Vua, hầu
ngài sẽ không bắt ba chịu cực khổ hơn, hoặc là ơn Người sẽ ban cho
ba, luôn đủ sức chịu bất cứ sự gì (một cách cam đảm và vui vẻ).
Sự nhẫn nhục của ba kết
hợp với công nghiệp của cuộc khổ nạn ghê sợ của Chúa (và cuộc khổ
nạn này vượt xa mọi khổ đau của ngàn trùng về giá trị, cũng như về
phẩm chất), thì làm giảm bớt hình phạt của ba đáng chịu trong luyện
ngục, và nhờ lòng rộng rãi của Chúa, cũng thêm phần thưởng ba trên
trời.
Con thân mến, ba không mất
lòng tin vào lòng nhân từ của Chúa, cả khi ba yếu đuối, mỏng giòn.
Hơn nữa, giả như ba có sợ hãi và kinh hoàng đến nỗi thấy như sẽ sa
ngã, thì ba sẽ nhớ lại truyện thánh Phêrô đã yếu đức tin, nên vừa
có chút gió, đã như suýt chìm, và ba sẽ cư xử như thánh nhân: ba sẽ
cầu cứu Chúa Kitô: Lạy Chúa, xin cứu con. Như vậy, ba hy vọng người
sẽ giơ tay giữ lấy ba, và không để ba đắm chìm …
Con yêu quý, con hãy vững tâm
và đừng lo lắng về bất cứ sự gì xảy ra cho ba ở đời này. Chẳng có
gì xảy ra mà Chúa không muốn. Mà Chúa đã muốn gì thì điều đó, dù
có vẻ không may cho ta, cũng vẫn là điều tốt hơn hết.
(The English Works of sir T.
More London 1557)
26. Biết Chúa
Năm 1941, Thế Chiến Thứ Hai, có
một linh mục bị giam trong trại tập trung của Đức Quốc Xã. Cũng như bao người
khác, bị ngược đãi, hành hạ tàn ác. Tuy vậy Cha vẫn luôn tìm cách giúp đỡ các bạn
tù, giữa bao đau khổ. Đặc biệt với một cậu bé trước đây lớn lên nơi đầu đường
xó chợ, ngang bướng, quậy phá, Cha từng bước tìm cách gần gũi, chuyện trò, giúp
đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã hoán cải được tâm hồn chai đá của cậu, nhưng
Cha vẫn thấy chưa phải là lúc để nói với cậu về Thiên Chúa.
Một hôm, khi được tin mình phải
chuyển đến trại Auschwitz, một trại tập trung đồng nghĩa với án tử hình, cha cố
giữ bình tĩnh khi chia tay từng người. Khi đến trước cậu bé kể trên, vì rất muốn
em được biết Chúa, tin và theo Chúa, nên Cha nhỏ nhẹ hỏi:
- Cháu thân yêu của bác, cháu có
muốn tin vào Giêsu không?
- Nhưng thưa bác, Giêsu là ai để
cháu có thể tin?” Cậu bé thật thà hỏi lại.
Biết mình không còn thời gian để
cắt nghĩa Thánh Kinh và giáo lý, Cha thinh lặng ngẫm nghĩ một chút rồi buột miệng
trả lời:
- Người đó giống như bác!
Cậu bé đăm đăm nhìn ngài rồi trả
lời: “Vậy thì cháu tin!”, và sau thế chiến, cậu đã trở nên một tân tòng đạo hạnh.
Thế giới hôm nay cần đến cái biết
ban ơn cứu độ, là ‘biết’ Chúa qua con đường hẹp của luật bác ái. “Ai không yêu
thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1Ga 4,8)
27. Những gì Phạm Duy
đưa vào cõi chết
Trước khi qua đời, nhạc sĩ Phạm
Duy đã hát cùng với ca sĩ Khánh Ly nhạc phẩm do chính ông sáng tác "Những
gì sẽ đem theo vào cõi chết":
“Rồi mai đây tôi sẽ chết
Trên đường về nơi cõi hết,
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì
đây?
Rồi mai đây tôi hóa kiếp
Trong lòng còn bao luyến tiếc
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì
đây?
Tôi không đem theo với tôi được
tiền tài
Tôi không đem theo với tôi được
gái đẹp hay ruợu nồng
Tôi không đem theo với tôi được
lầu vàng hay gác tía,
Tôi không đem theo với tôi được
mộng giàu sang phú quý,
Tôi xin đem theo với tôi một nụ
cười không nghi ngại,
Tôi xin đem theo với tôi đôi mắt
trẻ thơ đẹp ngời,
Em giương to đôi mắt, soi vào cuộc
đời đang bước tới,
Tương lai vui hay tối thui cũng
là nhờ anh lớn thôi!
Tôi không đem theo với tôi được
quyền hành trong giai đoạn,
Tôi không đem theo với tôi được
giới hạn tiếng anh hùng,
Tôi không đem theo với tôi được
tượng đồng bia đá trắng,
Tôi không đem theo với tôi được
tuổi vàng trong cõi sống.
Tôi không đem theo với tôi được
nhiều điều tôi mong đợi
Tôi không đem theo với tôi danh
với lợi ra ngoài đời,
Tôi không đem theo với tôi được
cả buồn vui mấy nỗi
Tôi không đem theo với tôi, và để
lại cho thế giới…
Rồi mai đây tôi sẽ chết
Trên đường về nơi cõi Niết,
Tôi sẽ không đem với tôi những
gì đâu!
Rồi mai đây tôi hóa kiếp
Trong lòng mừng không hối tiếc
Tôi sẽ không đem với tôi những
gì đâu!
Mỗi ngày chúng ta chỉ có 24 giờ
để sống và mỗi ngày trôi qua, cuộc đời chúng ta ngắn đi 24 giờ đồng hồ. Cho dù
có sợ chết, có tìm mọi cách để sống mãi, chúng ta cũng vẫn không qua khỏi quy
luật tự nhiên của Tạo Hóa đó là “Sinh-Lão-Bệnh-Tử.” Vậy chúng ta phải làm gì với
những thì giờ còn lại trên thế gian này?
28. Ra đi với hai bàn
tay trắng
Khi sắp chết, Alexander Đại Đế
cho triệu tập các quan trong triều đình đến để truyền đạt ba ý nguyện cuối cùng
của mình:
1 - Quan tài của ngài phải được khiêng đi bởi chính
các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất của thời đó.
2 - Tất cả các báu vật của ngài (vàng, bạc, châu
báu...) phải được rải dọc theo con đường dẫn đến ngôi mộ của ngài.
3 - Đôi bàn tay của ngài phải được để lắc lư, đong
đưa trên không, thò ra khỏi quan tài để cho mọi người đều thấy.
Một vị cận thần rất ngạc nhiên về
những yêu cầu kỳ lạ này, đã hỏi Alexander lý do tại sao ngài lại muốn như thế.
Alexander giải thích như sau:
1 - Ta muốn chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất phải
khiêng quan tài của ta để cho mọi người thấy rằng một khi phải đối mặt với cái
chết, thì chính họ (là những người tài giỏi nhất) cũng không có tài nào để cứu
chữa.
2 - Ta muốn châu báu của ta được vung vãi trên mặt đất
để cho mọi người thấy rằng của cải, tài sản mà ta gom góp được ở trên thế gian
này, sẽ mãi mãi ở lại trên thế gian này một khi ta nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi
đời.
3 - Ta muốn bàn tay của ta đong đưa trên không, để
cho mọi người thấy rằng chúng ta đến với thế giới này với hai bàn tay trắng và
khi rời khỏi thế giới này chúng ta cũng chỉ có hai bàn tay trắng.
THỨ HAI - KHỐN CHO CÁC NGƯƠI
Lời Chúa: Mt 23, 13-22
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn
cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa
nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các
ngươi cũng chẳng để cho vào.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những
luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của
các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những
luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa, để
tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các
ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những
kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì không có
giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu
ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng hơn?
Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng ai lấy
của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của
lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?
"Vậy ai lấy bàn thờ mà thề,
thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề,
thì lấy cả đền thờ và Ðấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề,
thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Ðấng ngự trên ngai toà ấy mà thề."
TRUYỆN KỂ
1. Khốn cho các ngươi
Khi nói khốn cho, Ngài không có
ý nguyền rủa hay kết án ai, cho bằng nói lên sự đau xót, thậm chí giận dữ đến độ
trách phạt.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin!
khốn cho ngươi, hỡi Bétsaiđa!” Đức Giêsu đã nói như thế với các thành phố từ chối
Ngài (Mt 11, 21).
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người,
thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26, 24). Đây không phải là một lời chúc dữ cho
Giuđa, hay kết án anh phải đời đời hư mất. Đúng hơn đây diễn tả một tiếc nuối
xót xa về tội của người môn đệ.
Vào thời thánh Mátthêu viết sách
Tin Mừng, từ sau năm 70, có một sự xung đột nghiêm trọng giữa các Kitô hữu gốc
Do Thái với những nhà lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh sự
căng thẳng đó. Các vị kinh sư và những người pharisêu đầy quyền lực không muốn
đồng bào của mình tin vào một ông Giêsu bị đóng đinh. Ai tin sẽ bị trục xuất khỏi
hội đường (x. Ga 9, 22). Như thế họ đã khóa cửa Nước Trời để chẳng ai vào được,
kể cả họ (c. 13).
Các vị kinh sư và nhóm Pharisêu
hăng say trong việc truyền giáo. Họ muốn làm cho dân ngoại trở thành Dân Chúa.
Tiếc thay, sau khi đã vào đạo rồi, những người tân tòng này có thể trở nên cứng
nhắc vì nệ luật, và rơi vào thói giả hình.
Họ “trở thành con cái của hỏa ngục
gấp đôi các ông” (c. 15). Đức Giêsu cũng tố cáo sự phân biệt quá chi li về giá
trị những lời thề. Đối với Ngài, thề nhân danh Đền thờ hay vàng trong Đền thờ,
nhân danh bàn thờ hay lễ vật trên bàn thờ (cc. 16-20), thì cũng chẳng khác gì
thề nhân danh chính Thiên Chúa (cc. 21-22).
Tất cả lời thề đều phải được giữ
như nhau, đều ràng buộc như nhau. Những lời tố giác của Đức Giêsu đối với giới
lãnh đạo Do Thái giáo vẫn đặt câu hỏi cho chúng ta thời nay. Làm sao để tôn
giáo mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa, chứ không khép lại hay gây cản
trở? Làm sao để người tân tòng thực sự trở thành con cái Nước Trời? Làm sao để
chúng ta khỏi sa vào những chi li thái quá của luật lệ?
2. Lắng Nghe Tiếng Nói Của
Lương Tri
Những lời "khốn cho các
ngươi" được lập lại nhiều lần tương ứng với những điều chướng tai gai mắt
cũng là những tội của các kinh sư và biệt phái. Họ đã cố tình làm những điều
phi lý, khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào, nuốt hết tài sản của các bà
góa, rảo khắp các biển cả đất liền rủ cho được một người theo đạo, nhưng khi họ
theo rồi thì lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục hơn. Chúa Giêsu đã gọi các kinh
sư và biệt phái là những người sống mù quáng. Ðiều đáng nói ở đây là các kinh
sư và biệt phái cố tình chia lìa trong lỗi lầm của mình, họ thích danh vọng và
chạy theo những bả vinh hoa, vì vậy họ cố gắng tìm mọi cách để đạt đến nó bằng
bất cứ cách nào. Có thể nói đây là những người chủ trương lấy cứu cánh biện
minh cho phương tiện. Cứu cánh của họ đã không công minh, chính trực và phương
tiện lại còn đê hèn hơn, nên họ đã lợi dụng những dân đen, là những người thấp
cổ bé họng, không có khả năng tự bảo vệ mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng
ta hãy lắng nghe tiếng nói của lương tri, là lời của Chúa muốn dạy chúng ta
cách cụ thể trong từng trường hợp của đời sống ta.
3. Lời rao giảng phải đi
đôi với hành động
Mahatma Gandhi là anh hùng dân tộc
Ấn Độ, ông đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và
giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân.
Lúc còn là sinh viên, ông say mê
đọc Kinh Thánh và có ý định gia nhập đạo Công Giáo vì ông thấy giáo lý của Đức
Giêsu về “đạo yêu thương” quá tuyệt vời! Nhưng vào một lần, ông đi đến nhà thờ
của người da trắng để dự lễ, ngay lập tức, ông bị ngăn lại và được mời đến nhà
thờ của người da đen, vì nơi đây không phải là nhà thờ của người da đen.
Mahatma Gandhi ra về trong thất vọng. Kể từ đó, ông không bao giờ đến nhà thờ
và quyết liệt từ bỏ ý định trở thành người Công Giáo vì hành động phản yêu
thương của những người da trắng.
4. Giải thích lề luật
theo ý mình
Ta có thể nhận thấy Chúa Giêsu
lên án 5 cung cách đạo đức giả nơi người luật sĩ như sau: một là không muốn ai
tiếp cận chân lý (c.13); hai là biến các tân tòng thành con cái hỏa ngục, qui về
mình hơn là về Chúa (c.15); ba là an tâm tự tại với một số đồ dâng cúng mà bỏ
qua những điều cần phải tuân giữ cho đẹp lòng Chúa (cc 16-19); bốn là nộp mọi
thứ thuế, nhưng lại bỏ qua những điều quan trọng hơn là công lý, lòng nhân lành
và thành tín (cc.23-24); năm là chú trọng nghi thức thanh tẩy bên ngoài, mà bên
trong đầy chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ (cc.25-26).
Sở dĩ các luật sĩ có những cung
cách đạo đức giả đáng ghét này vì họ muốn trục lợi vật chất, thích phô trương
thanh thế, tôn thờ mình thay vì thật sự thờ phượng Chúa. Họ biết thế, nhưng họ
không muốn làm theo điều mình lẽ ra phải làm, mà vẫn khư khư ôm chặt cái lợi về
mình nên bị Chúa quở trách là giả hình, giả hiệu.
5. Nhà tu hành bất đắc
dĩ.
Trong kho tàng truyện cổ của Ấn
độ, có câu chuyện này: Một nhà phú hộ kia có một hồ cá rất lớn. Ông cho thả rất
nhiều cá ở đó. Một đêm kia có một tên ngư phủ nghèo lén vào trong hồ cá của ông
để thả lưới tính bắt trộm cá. Thế nhưng, chưa kịp kéo lưới thì người giầu đã
phát hiện ra có người đang tính bắt trộm cá của ông. Ông cho gia nhân của ông bổ
đi khắp nơi, quanh cái hồ mênh mông của mình để tìm cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp
nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả.
Trong khi đó thì anh ngư phủ
nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó, y hệt một
nhà hiền triết hay một đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia
nhân không thấy kẻ trộm đâu mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm
mình suy tư và cầu nguyện.
Chỉ một ngày hôm sau, tiếng đồn
đã vang đi khắp nơi rằng, có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của
nhà phú hộ.
Thế là thiện nam tín nữ từ các
ngả đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả,
kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp đổ tràn lan chung quanh nhà tu
hành bất đắc dĩ.
Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng:
thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ
như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự
tiếp tế của dân làng.
Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở
thành vị tu hành trên đây cũng có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối
với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng tự sơn vẽ cho mình một chiếc
áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình.
6. Mẹ cũng hư
Sau khi li hôn, người chồng dọn
đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ
- Sao mẹ đuổi bố?
- Tại bố hư.
Để nó khỏi vặn vẹo lôi thôi, người
mẹ mua cho nó cái bánh. Thằng anh từ đâu phóng tới bẻ của em một miếng bánh bỏ
ngay vào mồm. Con bé khóc thét bắt đền. Người mẹ dỗ:
- Anh con hư quá. Nhưng thôi nín
đi con, bỏ qua cho anh một lần đi.
Đứa bé phụng phịu:
- Thế mẹ có bỏ qua cho bố đâu?
Người mẹ nhìn xa xăm:
- … Ừ, mẹ cũng hư…
7. Chọn lựa của Đức Cha
hồi nhỏ
Đức cố Giám mục Bartholomeo Nguyễn
Sơn Lâm thú nhận: Khi tôi còn là cậu giúp lễ trong nhà xứ, vì tuổi trẻ ham chơi
hơn thích học, nhiều lần bị cha Sở mắng và đánh đòn chí tử, nhưng đâu rồi cũng
vào đó!
Lần kia, đến giờ cơm, cha Sở dắt tôi vào một
căn phòng, giữa phòng có một bát phân, một bát cơm, ngài nghiêm giọng nói: “Chọn
bát nào ăn, tùy con!” Rồi ngài bỏ tôi đó và đóng cửa phòng lại. Tôi quá nhục
nên từ đó tôi đã cố gắng học. Thời gian sau ngài gởi tôi vào Chủng Viện và Chúa
đã thương nâng tôi lên và cho tôi được tham dự vào hàng tư tế hơn lòng tôi mong
ước!
8. Biến niềm tin thành
hành động
George Smith, 17 tuổi, tình nguyện
làm huấn luyện viên và gia sư ở một trung tâm trẻ tại Detroit. Đôi khi anh luyện
một số bài tập để cho các học sinh thấy bài tập quan trọng thế nào trong việc học.
Một trong những đứa trẻ nói về George như sau: “Anh ấy là một giáo viên, và có
lẽ còn hơn thế nữa, vì anh ấy rất dễ gần gũi.”
Tôi biến niềm tin thành hành động
như thế nào? Người cùng làm việc với tôi có thể nói về tôi như đứa trẻ nói về
George không?
Tôi mong một ngày mà tình anh em
không cần được danh dự trước công chúng… (Daniel D.Mich)
9. Đời sống kết hợp với
Chúa
Alexis Carrel là một bác sĩ người
Pháp đã làm việc nhiều ở Mỹ, và đã đoạt giải Nobel vì những đóng góp cho ngành
y khoa. Sau một thời gian ở trong tình trạng hoài nghi tôn giáo, Carrel đã có một
biến chuyển sâu sắc. Ông trở nên một con người cầu nguyện. Ông nói: “Rất nhiều
người xem cầu nguyện như một nơi ẩn náu cho kẻ yếu đuối hoặc như một lời thỉnh
cầu cho những nhu cầu vật chất tầm thường. Nhưng hiểu một cách chính xác thì cầu
nguyện là một hoạt động trưởng thành không thể thiếu cho sự phát triển hoàn
toàn nhân cách.”
Bằng cách nào tôi thấy lời cầu
nguyện tác động đến sự phát triển nhân cách của tôi?
Khi cầu nguyện, chúng ta liên kết
với nguồn năng lực vô tận vận hành vũ trụ này. Chúng ta xin được chia một phần
năng lực này theo nhu cầu của chúng ta. (Alexix Carrel)
10. Luật của tình yêu
Chúa Giêsu có một sức mãnh liệt
riêng như chúng ta có thể thấy trong bài đọc hôm nay. Một số nhà lãnh đạo Do
Thái đã biến tôn giáo thành những luật lệ nghiêm nhặt. Tệ hơn nữa, họ còn buộc
nó vào cổ những con người đơn sơ, thất học. Chúa Giêsu lên án những nhà lãnh đạo
này. Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ, cũng không phải là sáng kiến của một
Thiên Chúa độc ác. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên
Chúa nhân từ.
Thánh Augustinô nói: “Hãy yêu mến
Thiên Chúa và làm điều bạn muốn.” Thánh nhân muốn nói lên điều gì quan trọng?
Khi tôi chết, Thiên Chúa không
cân đo dầu óc tôi để xem tôi thông minh thế nào. Nhưng Ngài sẽ cân đo trái tim
tôi để xem tôi yêu thương ra sao?
11.
Lời nói và việc làm
Nước Trời chỉ dành cho những người
biết kết hợp giữa lời nói và việc làm: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy
Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn
của Cha Thầy mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Thánh nữ Mônica là người biết kết
hợp giữa lời nói và việc làm. Thánh nữ đã hy sinh cầu nguyện đêm ngày cho con
mình là Âu-tinh bỏ đường lầm lạc trở về với Chúa và trở thành vị thánh lớn của
giáo hội. Bạn cũng được mời gọi sống chứng nhân bằng những việc làm cụ thể giúp
đỡ người khác, chứ không chỉ dừng lại ở việc đọc kinh đi lễ. Bạn góp phần thăng
tiến gia đình, hội đoàn, những người nghèo khổ…, dẫn đưa họ đến với Chúa là nguồn
hạnh phúc thật.
“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng
ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật
và bằng việc làm” (1Ga 3,18).
THỨ BA -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ TƯ - MỒ MẢ TÔ VÔI
Lời Chúa: Mt 23, 27-32
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn
cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như
mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi
thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công
chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác.
Khốn cho các ngươi, hỡi những luật
sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ
mả những người công chính, và các ngươi nói rằng: "Nếu chúng tôi sống thời
cha ông chúng tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu
các tiên tri." Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những
kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các
ngươi."
TRUYỆN KỂ
1. Có vẻ công chính
Ở xứ Paléttin, các ngôi mộ thường
được quét vôi màu trắng, để người Do-thái dễ nhận ra và tránh xa. Đặc biệt trước
lễ Vượt qua, mộ được quét vôi lại, vì có đông đảo khách hành hương tuốn về quê
dự lễ.
Ai bất cẩn đụng vào mộ là bị trở
nên ô uế trong bảy ngày (Ds 19, 16). Đối với người Do-thái, ngôi mộ là điều nên
tránh, vì bên trong đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô nhơ (c. 27), tuy bên
ngoài có vẻ sạch sẽ tốt đẹp.
2. Đừng giả dối
Tại các khu đô thị lớn, chúng ta
vẫn thấy có những nghĩa trang nằm ngay tại những trung tâm của các thành phố.
Những nhà hữu trách đã tìm mọi cách, dù tốn công, tốn của để quy hoạch và biến
nó thành công viên nghĩa trang, trông rất tráng lệ!
Những mồ mả ở đây được thiết kế
nhiều mẫu khác nhau, trông thật bắt mắt. Đến nỗi người dân trung quanh có thể
vào đó để đi dạo.
Việc làm đẹp những ngôi mộ cho
người quá cố quả là điều đáng trân quý. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là:
bên trong các ngôi mộ đó, dù là của người nghèo hay giàu; có chức quyền hay là
thường dân; trẻ em hay người già, tất cả đều chỉ là một nắm xương ghê rợn mà
thôi!
Trong đời sống đạo hiện nay,
cũng có nhiều khi chúng ta tìm mọi cách để che đậy những chuyện xấu xa, khuyết
điểm, lỗi lầm để tự cho mình là người đạo đức hơn người. Điều khó hiểu là chúng
ta an tâm để sẵn sàng lên án kẻ khác vì những thiếu xót của họ mà không hề suy
nghĩ hay áy náy gì đến lỗi lầm của mình! Hơn nữa, nhiều khi quá giỏi che đậy,
nên không ai biết đến những khuyết điểm của mình, vì vậy, chúng ta lại an tâm
và “bình chân như vại” để tiếp tục lún sâu vào con đường tội lỗi tiếp theo.
Nhưng xin nhớ rằng: chúng ta có
thể che giấu bằng những biện pháp tinh vi, xảo quyệt để che mắt người đời,
nhưng với Chúa, Ngài biết hết và biết rõ ràng từng lỗi lầm của chúng ta.
3. Đạo đức giả hình
Ngày xưa, ở Hàng Châu, có một
người đi buôn cam. Anh ta khéo để dành cam lâu ngày mà không ủng. Lâu ngày mà vỏ
vẫn đỏ hồng, trông tốt đẹp như vàng ngọc. Đem ra chợ bán, thiên hạ tranh nhau
mua. Ai thấy cam như vậy mà chẳng thèm? Lưu Cơ cũng tới mua một quả. Đem về nhà
bóc ra, thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Ông liền
ra chợ lại, tìm gặp người bán cam trách móc: “Anh bán cam cho người ta để làm
của cúng lễ, đãi tân khách, hay là chỉ để làm cho choáng mắt bên ngoài, đánh lừa
thiên hạ? Tệ thật! Anh giả dối lắm."
Người buôn cam mỉm cười nói: “Tôi
làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì người ta mua. Chẳng
ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng phải
riêng gì một mình tôi. Ông thật không nghĩ cho đến nơi. Này thử xem, người đeo
hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng, trông ra dáng quan lắm. Kỳ thực họ có giỏi được
như Ngô Khởi, Tô Tẫn không? Người đội mũ cao, đóng đai dài, trông ra dáng quan
văn lắm. Kỳ thực họ có được giỏi như Cao Dao, Y Doãn không? Giặc nổi lên không
biết dẹp, dân khổ không biết cứu. Quan lại tham nhũng không biết trừng trị.
Pháp độ hỏng không biết sửa đổi. Ngồi không ăn lương, chẳng biết xấu hổ… Thế mà
lúc ra ngoài công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của lạ, oai vệ, hách dịch
vô cùng!
Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng
ngọc, mà bề trong lại chẳng hôi thối, và xác xơ, như bông nát là gì? Sao ông
không chịu xét những hạng người như thế, mà lại đi xét quả cam của tôi?”
4. Gương sống đạo thực sự
Giữa khu rừng âm u có tu sĩ nổi
tiếng thánh thiện và có nhân đức hiền lành, dịu dàng lạ lùng. Một người ngạo
ngược nghe nói tu sĩ hiền lành lạ lùng như vậy, y không tin và nói: tất cả những
cái đó chỉ là giả tạo và tôi sẽ làm cho cái màn giả hình đó phải rơi xuống.
Hôm sau, từ sáng sớm tinh sương,
y đã lên đường đến chỗ ẩn sĩ ở. Nhà tu hành có nuôi một con chó, để ban đêm nếu
có thú vật nào đến để phá hoại rau cỏ thì nó sủa đánh thức chủ dậy. Hôm đó khi
thấy người lạ đến, con chó con chạy ra sủa. Ẩn sĩ ở trong nhà bước ra chào và
đón tiếp vị khách lạ. Nhưng như để chọc giận thánh nhân, người hung ngược kia nắm
ngay lấy con chó mà quật chết. Thấy vậy, ẩn sĩ quỳ xuống dưới chân kẻ bạo tàn
và nói:
- Bạn ơi, chính tôi đã nuôi con
chó này, và tôi rất tiếc vì nó đã làm cho bạn nổi giận.
Tức bực vì chưa đạt được tới mục
đích của mình, kẻ bạo ngược trong thấy trong vườn có những cây rau và hoa đẹp
chính tay ẩn sĩ đã trồng, lại xông vào đập phá và quăng vất lung tung, nhưng ẩn
sĩ vẫn thản nhiên nhìn xem và không hề tỏ dấu gì tức giận.
Thấy vẫn chưa được việc gì, y
càng điên tiết, trèo lên nóc nhà, dỡ mái quăng rui mè và xô đổ cả tường vách,
mãi cho đến khi mỏi tay mới thôi. Song nhà tu hành vẫn bình tĩnh và đưa con mắt
yêu thương nhìn y. Thấy y mệt nhọc, mồ hôi nhễ nhai, đoán rằng, y cần phải uống
nước, tu sĩ xách lọ đi ra giếng, múc nước mát về mời y uống.
Trước cử chỉ thánh thiện và nét
mặt điềm đạm lạ thường ấy, chàng hung bạo mà trái tim mãi đến nay vẫn trơ như
đá, bắt đầu cảm thấy hổ thẹn và hối tiếc. Y rất cảm phục nhân đức của người tu
hành và đến xin lỗi:
- Thưa cha, xin cha tha thứ cho
những việc điên rồ con vừa mới làm, bây giờ con nhìn thấy có Chúa ở trong cha,
và con đây thật là một đứa con tội lỗi và bạo ngược. Cha đã lấy sự lành mà báo
sự dữ: chỉ có Chúa mới khiến được lòng người ta ra như thế mà thôi.
Từ đó, kẻ vô nhân đạo kia bắt đầu
cải tà qui chính, rồi xin ở lại làm đầy tớ nhà tu hành để được sống gần tu sĩ,
cũng như để bắt chước nhân đức của ngài.
5. Bí quyết để được yêu
mến, tín nhiệm
Một bà già tốt lành, hơn 40 năm
sinh sống bằng nghề giặt ủi tầm thường, nhưng lại được mọi người quí mến, tín
nhiệm. Khi được hỏi bí quyết, bà đáp: “Tôi có một qui luật sống là không mách lẻo
chuyện nhà này cho nhà khác nghe." (Góp nhặt)
Mỗi người đều mang hai túi: một ở
trước ngực và một ở sau lưng, và cả hai nhét đầy lầm lỗi.
Tuy nhiên, túi trước đựng lỗi của
người hàng xóm và túi sau đựng lỗi của mình. Vì thế, người ta thường mù quáng với
khuyết điểm của mình và luôn sáng mắt với khuyết điểm của anh em.
6. Ảo tưởng về mình
Văn sĩ Pháp Alexandre Piront qua
đời năm 1773 thường có thói quen đi dạo trong khu vườn Boulogne, giữa thủ đô
Paris. Một ngày nọ, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá tựa vào một bức tường. Chỉ một
lát sau, ông ngạc nhiên vô cùng, vì ông thấy trong đám đông những người đi dạo,
có một vài người đi đến gần ông ngả nón chào. Cũng có một vài người còn bái cả
gối nữa. Nhà văn đã mỉm cười đáp lại những cảm tình khách qua đường dành cho
ông. Ông không ngờ là ông được nhiều người mộ mến như thế. Ông mong sao có một
số bạn bè trong văn đàn chứng kiến được cảnh tượng này, để thấy vinh quang mà
ông đã đạt được.
Nhà văn đang say sưa với bả vinh
hoa, thì chợt trong đám người bái chào đó, có một bà lão để lộ thái độ khác thường.
Cũng giống như mọi người, bà lão này cúi đầu chào rồi tiến tới gần ghế đá, bà
thầm thì nói những gì trong miệng mà nhà văn không hiểu được, rồi ngước mắt
nhìn lên cao. Ngạc nhiên trước cử chỉ khác thường của bà lão, nhà văn cũng đưa
mắt nhìn lên phía trên bức tường. Lúc bấy giờ ông mới khám phá ra rằng: trên đầu
ông có một tượng Thánh Giá. Thì ra những người đi dạo khi đi đến đó đã dừng lại
không phải để tỏ lòng mộ mến đối với ông, mà chính là tỏ lòng cung kính đối với
Chúa Giêsu trên Thập Giá. Hổ thẹn vì khám phá này, Alexandre Piront đứng dậy bỏ
đi nơi khác.
7. Biệt phái Phaolô
Ông Phaolô cũng là một Biệt phái
trong giới bị Đức Giêsu chúc dữ lối sống đạo giả hình. Nhất là giả hình trước mặt
Đức Giêsu là kẻ làm việc đạo đức, mà không cần phải tin và kết hợp mật thiết với
Chúa Giêsu, nhưng khi Phaolô thuộc về Chúa Giêsu, hoạt động của ông đã bắt chước
Ngài: với 33 năm tuổi đời, Ngài dành 30 năm lao động tay chân trong xưởng mộc tại
Nazareth. Vào tuổi 30 Ngài dốc hết năng lực vào việc rao giảng Tin Mừng, vì thế
mà Ngài phải mất mạng sống! Quả thật, ông Phaolô đã thể hiện đời sống lao động
bằng tay chân, song song nhiệt tình loan báo Tin Mừng, như thư ông viết gởi
giáo đoàn Thessalonica: “Hẳn anh em còn nhớ nỗi khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm
ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh
em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em. Chúng
tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con. Vì khi chúng tôi nói
cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người
phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động
nơi anh em là những tín hữu” (1Tx 2,9-13: Bài đọc năm lẻ).
Sống như ông Phaolô mới được
Chúa cho tâm hồn thanh thỏa, mà cất tiếng cầu nguyện: “Lạy Chúa, Ngài đã dò xét
con và Ngài biết rõ” (Tv 139/138,1: ĐC năm lẻ). Và trong thư thứ hai, ông viết
nhằm khuyên giáo đoàn Thessalonica: “Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi
truyền cho anh em phải xa lánh mọi người anh em sống vô kỷ luật. Chính anh em
thừa biết là anh em phải bắt chước chúng tôi thế nào. Khi ở giữa anh em, chúng
tôi đã không sống vô kỷ luật. Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày
đã làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh
em.Thật vậy, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu
làm thì cũng đừng ăn!
8. Thói giả dối
Luôn xa tránh thói gian tà, Quyết
sống thật thà, nên thánh từ nay.
Giả nhân, giả nghĩa, giả danh
Giả tình, giả bạn, giả hình khắp
nơi
Đời bao thứ giả, Chúa ơi !
Khó mà phân biệt rạch ròi thực -
hư
Đã đành đời giả sớm khuya
Đạo mà cũng có người ưa giả hình
Lạy Thiên Chúa, Đấng công bình !
Xin thương xét xử phân minh mọi
điều
Giêsu, lạy Chúa, đến mau
Loại quân "gian trá",
triệt tiêu lũ tồi
Xin thương hoán cải lòng người
Biết luôn hoàn thiện như lời
Giêsu
Luôn xa tránh thói gian tà
Quyết sống thật thà, nên thánh từ
nay
Lạy Chúa Giêsu
Chúa là nguồn mạch chân thật và
thiện hảo. Xin thanh luyện lòng trí chúng con nên trong sạch và ngay chính, để
cuộc sống chúng con là một chừng từ sống động giúp người khác nhân biết Chúa. Tạ
ơn Chúa – Amen
9. Lời sự thật
Richard Wurnbrand bị cầm tù 14
năm. Ông hồi tưởng lại lúc một tù nhân tên là Avram đến. Anh ta bị thương và phần
cơ thể anh ta đều dính bùn. Khi viên cai ngục đi khỏi, Avram sờ dưới lớp bùn lấy
ra một cuốn sách nhỏ và bắt đầu đọc. Chẳng bao lâu, anh ta nhận ra những tù
nhân khác luôn để ý quan sát, nhưng họ không thấy cuốn sách. Thì ra đó là cuốn
Kinh Thánh nhỏ Avram cố ý giấu nó dưới lớp bùn trên phần thân thể lúc anh bị bắt.
Từ ngày đó, cuốn sách quí báu này được chuyền tay nhiều người. Các tù nhân học
thuộc lòng và thảo luận với nhau mỗi ngày.
Việc suy gẫm hằng ngày có tác động
gì đến việc quí trọng Kinh Thánh nơi tôi?
Kinh Thánh không chỉ là một quyển
sách, nó là một sức mạnh sống động. (Napoleon Bonnaparte)
10. Giá trị trong đời
thường
Nhà truyền giáo Robert Cahill viết
về người dân Banladesh: “Những người này khao khát công việc… Mojibur, một
thanh niên trẻ mà khát vọng duy nhất trong đời anh là có thể chu cấp cho người
mẹ góa và bốn đứa em. Anh đã làm công việc hằng tuần là chuyển những thúng đất
trên đầu dưới ánh mặt trời gay gắt với số lương 65 xu mỗi ngày. Dù chỉ là công
việc tạm thời, nhưng nó cũng đem lại phấn khởi và khích lệ gia đình anh ta…”
Tôi có thái độ gì đối với công
việc? Đâu là mối liên hệ giữa công việc và ơn gọi kitô hữu của tôi?
Tôi lớn lên như môn đệ của khoa
học…
Bây giờ tôi đã sống và nghiệm được
thành quả của chủ nghĩa duy vật khoa học.
Tôi đã thấy sự ra đi của giới thợ
thuyền và sự xuống cấp về phẩm hạnh của con người như là kết quả của quá trình
phân công lao động. (Charles Lindbergh)
11. Cố gắng gây ấn tượng
Người Do Thái thời xưa chôn người
chết trong những nấm mồ trên mặt đất. Những nấm mồ này bên ngoài được tô vôi rất
đẹp, nhưng bên trong lại đầy thịt thối rữa, Chúa Giêsu dung hình ảnh này để cho
thấy bức tranh về các kinh sư và người biệt phái. Bên ngoài xem ra họ tốt lành,
thánh thiện nhưng thực ra, bên trong, họ chẳng tốt lành cũng chẳng thánh thiện
gì.
Đâu là hành động bên ngoài không
phản ánh niềm tin bên trong của tôi? Khi nào thì điều này trở nên tồi tệ?
Khi ta cố gắng gây ấn tượng thì
đó chính là ấn tượng ta gây nên.
12. Trau chuốt bên trong
Nhờ sự phát triển của kỹ thuật,
công nghệ làm hàng giả hàng nhái ngày càng tinh vi. Chưa bao giờ người tiêu
dùng nơm nớp lo sợ vì mua phải hàng dỏm như hiện nay: nhìn bên ngoài thì giống
hệt như hàng thật, hàng chính hãng, nhưng mua về xài chưa được mấy bữa thì đã
rơi vào cảnh ‘bỏ thì thương, vương thì tội’. Tình trạng đó cũng song hành trong
đời sống đạo. Một khi chuộng cái mã bên ngoài hơn là trau chuốt nét đẹp bên
trong, người ta sẽ tạo cho mình một vỏ bọc đạo đức và tự hài lòng về vỏ bọc ấy.
Lúc đó, “chất” Tin Mừng chỉ đọng lại ở những việc đạo đức hình thức chứ không
thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống. Như thế phải chăng tình trạng giả dối
trong xã hội vừa nói trên đây không phải là hậu quả tất yếu của sự giả dối
trong đời sống tâm linh, đời sống đức tin hay sao?
Chúng ta thường chuẩn bị một bộ
cánh tươm tất cho những ngày đại lễ: quần áo, giầy dép! Và cả những nghi lễ
hoành tráng! Nhưng kết quả sau đó là gì? Cuộc sống chẳng khá hơn, con người vẫn
cứ cũ mèm! Mời bạn đổi mới con người cũ bằng cách loại bỏ tính hư tật xấu là những
thứ “ô uế” bên trong, và “chuốt” lại tâm hồn mình bằng một cuộc sống thánh thiện
thực sự.
Chọn một nhân đức của vị thánh
mình yêu thích để bắt chước.
13. Điều Chúa coi trọng
Người ta vẫn thường nhắc nhở: “Tốt
gỗ hơn tốt nước sơn” nhưng chúng ta vẫn bị quyến rũ mạnh mẽ bởi cái dáng vẻ bên
ngoài. Chính vì thế trước những chiêu quảng cáo tinh vi, các khách hàng là “thượng
đế” dễ dàng mềm lòng tưởng rằng chất lượng sản phẩm tất nhiên đi đôi với mẫu mã
đẹp hoặc tin như đinh đóng cột rằng khi dùng những sản phẩm này hoặc dịch vụ nọ
mình sẽ đẹp hơn, thông minh hơn, “đẳng cấp” hơn… Tình trạng “mập mờ đánh lận
con đen” ấy càng dễ xảy ra trong đời sống tâm linh: Có biết bao người “ngoài miệng
thì niệm nam mô, trong lòng thì chứa một bồ dao găm” và Thánh Vịnh cũng điểm mặt:
“Miệng thì chúc phúc cầu an, mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời” (Tv
62,5b). Chúa khiển trách họ nặng nề và gọi họ là những “nấm mồ tô vôi” bên
ngoài đẹp đẽ mà trong thì đủ mọi thứ ô uế.
Liệu Chúa Giêsu có đang nhìn bạn
và nói: “ngươi cũng giống như một nấm mồ tô vôi” không? Bạn hãy xét lại những
công việc đạo đức, từ thiện của bạn có đang thiếu sức sống vì chỉ mang tính
hình thức mà không có tấm lòng không?
Các hoạt động trong giáo xứ bạn
có chú ý đến chiều sâu cầu nguyện, lòng bác ái hay chỉ có hình thức hoành tráng
bên ngoài?
THỨ NĂM - TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG
Lời Chúa: Mt 24, 42-51
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ
đến. Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến,
hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các
con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.
"Vậy các con nghĩ ai là đầy
tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cứ giờ mà
phân phát lương thực cho họ? Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ nó đến thấy nó đang
làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người ấy lên coi sóc tất cả gia
sản ông. Nhưng nếu đầy tớ ấy xấu, nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn",
rồi nó đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa: chủ đầy tớ ấy
trở về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ xé xác nó ra, và
cho nó chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến
răng."
TRUYỆN KỂ
1. Hãy sẵn sàng
Châm ngôn của hướng đạo sinh là
Sắp Sẵn, nghĩa là hãy sẵn sàng. Không rõ ông tổ của phong trào hướng đạo có được
gợi hứng từ bài Tin Mừng hôm nay không.
Nhưng hãy sẵn sàng đúng là châm
ngôn của mọi Kitô hữu, từ những Kitô hữu sống ở thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ 21
và cho đến tận thế.
Hãy sẵn sàng vì từng Kitô hữu
cũng như cả Kitô giáo vẫn luôn ở trạng thái chờ Chúa Kitô trở lại.
2. Giờ chết bất ngờ
Thánh Tôma More có người bạn
sang trọng nhưng đạo đức lơ là. Ngài khuyên ông ta ăn năn trở về với Chúa nhưng
ông cứ nói: “Khi sắp chết, tôi sẽ nói: “Lạy Chúa, xin tha cho con và tôi sẽ được
tha thứ."
Ngày kia, khi hai người đang cưỡi
hai con ngựa đi ngang qua cầu Luân Đôn, thánh Tôma More thấy con ngựa của ông bạn
hất ông ta vào thành cầu, làm cho đầu ông bị dập, lúc đó, thánh Tôma More nghe
ông bạn thốt ra lời: “Đồ quỷ!”, và chết tươi ngay.
Cái chết thường xảy đến rất
thình lình. Ta không kịp sửa soạn gì đâu. Và nếu ai đã được sửa soạn, thì đó là
một ơn Chúa ban rất quý!
3. Tỉnh thức
Những tai hoạ xảy ra liên tiếp gần
đây khiến người ta phải bàng hoàng bởi sự tàn khốc và bất ngờ. Trận lũ lụt và sạt
lở đất vào ngày 8/7/2020 tại miền tây Nhật Bản làm hơn 200 người chết, hay sự cố
vỡ đập thuỷ điện Attapeu ở Lào vào ngày 23/7/2018, với hơn 5 tỷ mét khối nước
nhấn chìm hạ lưu Sanamsay làm hàng trăm người chết và mất tích, hàng ngàn người
lâm cảnh màn trời chiếu đất.
Những biến cố này khiến chúng ta
liên tưởng đến câu chuyện nạn lụt đại hồng thuỷ trong Kinh thánh. Đó là lời nhắc
nhở về ngày Chúa đến lúc bất ngờ, và mỗi người phải luôn biết tỉnh thức và sẵn
sàng, để chờ đón như người đầy tớ thức tỉnh làm việc và đợi chủ về. Tỉnh thức
là luôn sống trong ân sủng, tránh xa những đam mê tội lỗi, luôn tìm kiếm và thực
thi ý Chúa trên cuộc đời mình
4. Đừng ảo tưởng mình
còn sống lâu
Có một câu chuyện ngụ ngôn về ba
con quỷ học việc, chúng đến trần gian để tập sự. Chúng trình bày với Satan là
tướng quỷ về những kế hoạch cám dỗ loài người.
Tên quỷ thứ nhất nói: “Tôi sẽ bảo
với loài người là không có Thiên Chúa." Satan nói: “Mày sẽ thất bại, vì
càng ngày người ta càng tin có Thiên Chúa."
Tên quỷ thứ hai nói: “Tôi sẽ bảo
với họ là không có địa ngục." Satan bảo: “Mày sẽ không lừa dối ai được bằng
cách đó, vì loài người vẫn biết có một địa ngục dành cho tội nhân."
Tên quỷ thứ ba nói: “Tôi sẽ bảo
với loài người đừng có vội vã làm gì, còn nhiều thời giờ, cứ vui chơi cho thoải
mái đi." Satan nói: “Hay, hay lắm, mày sẽ làm hại được vô số người bằng
cách đó."
Đúng vậy, ảo tưởng nguy hiểm nhất
là ảo tưởng mình còn nhiều thời giờ.
5. Tội tắc trách
Một ngôi trường bị nổ. Cả trăm học
sinh và giáo viên thiệt mạng. Nhiều gia đình chết 2 hay 3 em. Chính quyền địa
phương bí mật sai người đến điều tra nguyên nhân vụ nổ. Trong một cuộc dò hỏi,
vợ một công nhân xây dựng ngôi trường đó nói: trước khi thảm kịch xảy ra, chồng
bà đã biết là việc xây đường ống dẫn khí đốt ở đó có vấn đề.
- Cái gì? Chồng bà biết rõ việc
đặt đường ống dẫn khí có vấn đề?
- Đúng vậy.
- Thế chồng bà có báo cho ai biết
việc đó không?
- Không.
- Vậy chồng bà phải chịu trách
nhiệm về sự cố đó, chồng bà cũng là một tội phạm.
6. Lầm tưởng là an toàn
Một người dân thuộc một bộ lạc
miền núi được đưa đi thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên ông đã giật mình thức
giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Người ta cho anh biết đó là tiếng trống
báo động về một cuộc hoả hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Chẳng bao lâu cuộc hoả
hoạn được dập tắt. Trở về làng, ông đã báo cáo với các chức sắc trong làng như
sau: người thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu: khi có hoả hoạn,
người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe thế,
các chức sắc liền sai người đi mua đủ loại trống phát cho dân làng. Không bao
lâu sau đó, hoả hoạn xảy đến trong làng, mọi người đều đem trống ra khua inh ỏi
vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa vô tình cứ
thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng thất vọng của
mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được
nghe kể lại, một người dân thành thị giải thích: Các người tưởng tiếng trống có
thể dập tắt ngọn lửa ư? Không phải thế. Người ta đánh trống để đánh thức dân
chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy chứ không phải ngồi đó mà chờ
ngọn lửa tắt đâu.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa
Giêsu nói đến sự tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh
tay mà chờ đợi.
7. Sống cho ai?
Vua Henry thứ 4 của nước Pháp âm
thầm đi dạo trong viện bảo tàng Louvre. Nhà vua bắt chuyện với một thanh niên,
trông bộ điệu của anh ta giống như một người giúp việc cho một vương công quyền
thế nào đó. Nhà vua hỏi:
- Anh đang giúp việc cho ai thế?
Không biết người hỏi mình là
vua, nên người thanh niên đã ngẩng mặt kiêu hãnh đáp:
- Tôi sinh ra không thể phục vụ
cho bất cứ người nào, nhưng cho chính bản thân tôi.
Nhà vua tiếp lời:
- Nếu vậy, chắc chắn anh đang phục
vụ một người ngu xuẩn.
Bất bình, người thanh niên toan
kiếm chuyện gây sự, nhưng anh đã nhận ra người đối diện mình chính là vua
Henry. Kinh ngạc, sửng sờ khiến anh đứng trơ như bức tượng. Không để người
thanh niên phản ứng, nhà vua vỗ vai anh vừa quay gót vừa nói:
- Nếu anh đảo ngược câu nói đó lại
sẽ tốt hơn: “Tôi sinh ra không để phục vụ cho chính bản thân tôi, nhưng để cho
bất cứ người nào."
Lời Chúa hôm nay một lần nữa mời
gọi chúng ta điều chỉnh lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta. Đâu là
suy nghĩ, thái độ của chúng ta đối với của cải, quyền bính và danh vọng? Đâu là
niềm vui đích thực trong cuộc sống mỗi ngày.
8. Con tiếp tục đá banh
Cậu bé Gioan Beckman đang đá
banh với các bạn, cha Bề trên gọi đội banh lại và hỏi:
- Nếu chỉ một giờ nữa tận thế đến,
chúng con phải làm gì?
Cả đội banh nhao nhao:
- Con về xin lỗi mẹ, vì hôm nay
con đi đá banh mà chưa thuộc bài Giáo Lý trong tuần.
- Xin cha ngồi tòa giải tội cho
con, vì con đã bỏ Xưng Tội Rước Lễ hai năm.
- Con vào Nhà Thờ quỳ trước Mình
Thánh Chúa cầu nguyện.….
Chỉ có cậu Gioan Beckman thưa:
- Con cứ tiếp tục đá banh, vì thời
khóa biểu sinh hoạt trong ngày: có giờ con học bài, có giờ con dự Lễ, có giờ
con phụ việc nhà, có giờ ăn, giờ ngủ, và bây giờ là giờ giải trí của con, nên
con cứ đá cho đến khi Chúa đến.
Như thế, Gioan Beckman luôn sống
trong tư thế sẵn sàng đón Chúa.
9. Còn lâu mới chết
Một cuộc Đại hội của các tướng
quỷ, chúng tìm phương cách để tóm linh hồn người ta. Các tướng quỷ đưa ra nhiều
sáng kiến: Cứ xúi người ta là không có Chúa; cứ rỉ tai bảo người ta không có Hỏa
ngục, nếu nghe nói có Hỏa ngục là dọa đó thôi; cứ xúi nó “chat” tìm bạn bốn
phương, nó tìm được người tình đẹp ngoại đạo, nó sẽ mê người tình,chứ không mê
Chúa; cứ cho nó nhiều tiền của,của cải sẽ lấp mắt nó không thấy Chúa. Như thế
chắc chắn nó sẽ trở thành kẻ vô thần.
Tất cả những ý kiến trên có quỷ ủng
hộ, có quỷ chống đối, một tướng quỷ sau cùng đưa ý kiến: Cứ rỉ tai chúng nó: còn
lâu mới chết, cứ thỏa mãn các đam mê xác thịt cho sướng, gần đến giờ chết, chắc
chắn có người đi tìm Linh mục đến Xức Dầu, lúc ấy dù không xưng tội được, thì tội
cũng được tha hết , thẳng cánh bay về với Chúa. Ý kiến này toàn thể Đại hội quỷ
vỗ tay tán thưởng, đồng thanh nói: Diệu kế, diệu kế!
Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Thuận nói: “Người Công Giáo có tất cả các phương tiện cứu độ, mà bao
nhiêu năm không biến đổi nếp sống vươn lên, đó là một trọng tội."
10. Yêu thương là tỉnh
thức
Scott Ipswitch 15 tuổi, đã viết
một bài báo khi biết được rằng cậu bị bệnh bạch cầu thập tử nhất sinh. Sau nhiều
tuần ở bệnh viện, cậu được phép trả về nhà. Cậu viết: “Tôi nhớ trên con đường về
nhà, dường như cỏ cây, chim chóc, và ngay cả mặt trời cũng đón chào tôi. Lần đầu
tiên sau nhiều tháng, tôi thực sự hạnh phúc.” Nhận xét về tình yêu, Scott viết:
“Khi bạn bị đau ốm, bạn cần một ai đó cầm tay để truyền hơi ấm tình yêu của họ
sang bạn.”
Tôi biết gì về nhu cầu biểu lộ
tình yêu đặc biệt đối với bệnh nhân, nhất là các trẻ em? Ai là người tôi phải
biểu lộ tình yêu này?
Yêu thương người khác là chạm được
Thiên Chúa.
11. Giá trị của một phút
chậm
Ba tên quỉ tập sự chuẩn bị lên mặt
đất để học nghề một cách thực tế. Thầy dạy chúng hỏi từng tên: “Mi định dùng
chiến thuật nào làm cho người ta phạm tội?” Tên thứ nhất trả lời: “Con định
dùng lối tiếp cận cổ điển khi bảo người ta rằng, ‘chẳng có Chúa nào cả, cứ phạm
tội đi.’ Tên thứ hai nói: “Con sẽ dùng lối tiếp cận tài trí khi bảo họ, ‘chẳng
có hỏa ngục nào cả, vậy cứ phạm tội đi.” Tên thứ ba nói: “Con sẽ dùng lối tiếp
cận tinh vi hơn khi bảo người ta, ‘chẳng có gì phải vội, cứ phạm tội, rồi hối cải
và sau đó nên tốt cũng được.”
Điều gì tôi phải thay đổi nhưng
vẫn còn trì hoãn?
Một đạo sư Do Thái nói với môn
sinh: “Mọi sự đều có thể dạy chúng ta một điều gì đó.” Môn sinh hỏi: “Thế xe lửa
có thể dạy chúng ta điều gì?” vị đạo sư trả lời: “Chỉ chậm một phút thôi cũng đủ
làm chúng ta lỡ mọi sự.”
12. Con mắt thứ ba
Ở giải World Cup 2010 vừa qua,
bàn thắng của đội tuyển Anh trong trận đấu với đội tuyển Đức quá hiển nhiên
nhưng không được công nhận. Một tờ báo bình luận việc này: “Tất cả mọi người đều
thấy trừ trọng tài.” Ông không có ác ý nhưng rất có thể ông bị che khuất không
thấy được điều mình phải thấy. Trong đời sống thiêng liêng, nhiều lần Chúa đến
với ta nhưng chúng ta không nhận ra Ngài. Có những vật cản từ bên ngoài nhưng
nhiều khi do con mắt nội tâm chúng ta đã ra mù tối. Phải có con mắt thứ ba, con
mắt luôn tỉnh thức để nhìn thấy Chúa và nhận ra con người đích thật của mình.
Một vài thành công nho nhỏ, một
vài lời khen tặng có thể làm tôi ảo tưởng về mình để tôi cứ cho mình luôn luôn
đúng. Sự phân định thiêng liêng giúp chúng ta nhìn đời sống với cái nhìn tỉnh
thức, cái nhìn trong sáng của Chúa. Nó giúp ta nhìn mình cách khách quan thanh
thản, biết kiểm điểm đời sống, sám hối, sửa đổi để thăng tiến.
Nhiều lầm lỗi nơi ta, người khác
thấy chúng ta không thấy. Phải chăng cái tôi quá lớn đã che khuất tầm nhìn,
giam hãm tôi trong vỏ ốc của mình và khiến mọi người xa lánh, không thể nào cộng
tác với tôi?
THỨ SÁU - CHỜ ĐỢI CHÚA GIÊSU
Lời Chúa: Mt 25, 1-13
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón
chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại
mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu
đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.
"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa,
chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn
của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho
chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả." Các cô khôn ngoan đáp lại
rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua
thì hơn." Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn
sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh
nữ kia cũng đến và nói: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi." Nhưng
người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi." Vậy
hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào."
TRUYỆN KỂ
1. Chú rể đến lúc nửa
đêm
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là
để chết. Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình. Vụ chìm tàu du
lịch Dìn Ký tại Bình Dương hồi cuối tháng 5/2011 vừa qua nhắc cho ta về sự bất
ngờ của cái chết. Cái chết đến khi mọi người đang vui vẻ chúc mừng nhau trong bữa
tiệc mừng sinh nhật của cháu bé 3 tuổi. 16 người chết vì bị kẹt lại trong chiếc
tàu du lịch bị mưa to gió lớn đánh chìm.
Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường
Ðiện Biên Phủ (tháng 10/1996), nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết. Cái chết
đến khi mọi người đang say ngủ, lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.
Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
2. Một phút là tất cả
Thầy Rabbi dạy các học trò của
mình phải luôn nhớ rằng mỗi một điều xảy ra đều có thể dạy cho chúng ta đôi điều
gì đó. Một học trò hỏi lại:
- Thưa thầy, một chuyến xe lửa
đi qua thì có thể dạy chúng ta điều gì?
Thầy bảo:
- Nó dạy ta rằng chỉ trong một
phút giây, chúng ta có thể sẽ đánh mất tất cả.
3. Sợ bị lừa
“Dưới cái nắng 12 giờ trưa, tôi
hối hả đi bộ từ trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ra Thư viện Trung
tâm Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Trên đường, một cô bé chừng 16 - 17
tuổi kéo tôi lại với bịch tăm tre nhỏ xíu và nói: “Đây là sản phẩm của các em
khuyết tật trường Chu Văn An, mời chị mua ủng hộ." Chẳng cần suy nghĩ, tôi
khoát tay từ chối và vội bước đi, tự nhủ: “Mình lạ gì mấy trò này nữa, chủ yếu
là xin tiền chứ mua bán gì." Tôi đã không ít lần bị lừa ở phòng trọ, cũng
như được bạn bè cảnh báo về mấy người “giả mạo” này.
Nhưng, tôi cũng cố ngoái lại
nhìn xem cô bé đó còn ở đó không? Nắng giữa trưa, tôi bịt hai lớp khăn che mặt
vẫn còn thấy rát, vậy mà cô bé tiếp tục đứng đầu trần và mời một bạn sinh viên
khác và người ấy đã mua. Tôi thấy mình xấu hổ. Tôi nhớ thầy tôi từng nói: “Biết
có thể bị lừa vì những người giả bộ bị móc túi, lỡ đường để xin tiền nhưng thầy
vẫn cho. Biết đâu gặp người cần giúp đỡ, có vậy lòng mình mới thanh thản…."
Tôi định quay lại mua cho cô bé bịch tăm nhưng lại ngại, đành tiếp tục đi, lòng
suy nghĩ bứt rứt. Chắc cô bé là học sinh tình nguyện hay đang là tình nguyện
viên cho mái trường ấy.
Vậy mà tôi vô cảm... (Theo Tuổi
Trẻ Online).
4. Một ngày hay một đời
“Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn
chỉ còn sống đúng một ngày nữa thôi?” Đó là chính câu hỏi của một nhà giáo đã đặt
cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường và có kết quả:
20% được hỏi liền trả lời: “Chúng
tôi sẽ dùng thời gian còn lại để uống say sưa, hút ma túy và vui chơi cho thoả thích."
Cuối cùng có một nữ sinh 18 tuổi
trả lời: “Tôi sẽ dành thời gian còn lại để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi.
Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng để đến gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một
đời sống hạnh phúc và đầy đủ."
Chúa đến bất chợt, hôm nay, ngày
mai hay một ngày gần đây. Vậy chúng ta phải làm gì để chuẩn bị cho giờ đó? Hay
chúng ta chỉ mãi sống trong nếp sống cũ? Hãy canh thức để đón chờ ngày Chúa đến
gọi ta.
5. Ra đi trắng tay
Nước Hy Lạp có vị vua tên là
Philipphê thân sinh ra Alexandre…
Một hôm, sự chết đã tìm đến với
ông. Ông không muốn đi với nó, nhưng nó không cho phép ông từ chối. Đến lúc đó
ông nghĩ đến những vinh hoa phú quý trên đời. Tới lúc này ông mới thấy chúng chỉ
là hư không. Đời người thật ngắn ngủi. Ông cho gọi người nhà đến mà trăn trối rằng:
“Sau khi tôi chết đi, hãy khoét hai cái lỗ ở hai bên quan tài. Rồi khi để tôi
vào đó, hãy để cho hai bàn tay của tôi xỏ qua hai lỗ đó mà chìa ra ngoài, rồi
đưa quan tài tôi đi vòng qua các đường phố để thức tỉnh và kêu gọi mọi người để
họ biết rằng, tôi đã tay trắng mà đến trần thế này, rồi cũng trắng tay mà ra
đi. Tất cả những vinh hoa phú quý, hoàng cung mỹ nữ, vàng bạc châu báu, danh
thơm tiếng tốt, một chút nhỏ cũng không mang theo được."
6. Thiên quốc ở đâu?
Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh
phúc và an vui trong bốn bức tường của tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc
đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là ông
thánh nhỏ.
Ngày nọ, đang lúc ông đang bắt
tay vào rửa chén dĩa, thì một thiên thần hiện ra và nói:
- Thiên Chúa sai ta đến là để
báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến.
Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ
trả lời:
- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến
tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn
tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người
có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?
Nghe nói xong, thiên thần biến
đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ
thiên thần.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc
vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của
thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:
- Đây ngài xem, cỏ dại mọc đầy
vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ
không.
Cũng như lần trước, thiên thần
chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ
đang chăm sóc các bệnh nhân, thì thiên thần hiện ra; lần này vị tu sĩ không nói
một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến
đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của
mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu
nguyện:
- Lạy Chúa, xin sai thiên thần
Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài
Lời cầu nguyện vừa dứt, thiên thần
Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:
- Lần này, nếu thiên thần mang
tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc.
Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả
âu yếm và nói:
- Này ông thánh nhỏ ơi! Sao còn
mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?
7. Đức khiết tịnh là dấu
chỉ Nước Trời
Sắc Lệnh Về Chức Vụ Và Đời Sống
Linh Mục số 16, Hội Thánh dạy: "Sự tiết dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước
Trời đã được Chúa Kitô khuyến khích, mà qua các thời đại và ngay cả ngày nay vẫn
được một số đông Kitô hữu sẵn lòng chấp nhận và tuân giữ một cách đáng khâm phục,
thì hiện thời vẫn luôn được Hội Thánh hết sức quý trọng trong đời sống Linh mục.
Thực vậy nó là dấu chứng và đồng thời là niềm khích lệ đức bác ái mục vụ và là
nguồn mạch đặc biệt làm phát sinh đời sống thiêng liêng phong phú trên thế giới.
Bậc độc thân có rất nhiều thuận lợi cho chức Linh mục. Thật vậy, sứ mệnh toàn
diện của Linh mục là tận hiến để phục vụ một nhân loại mới, mà Chúa Kitô, Đấng chiến
thắng sự chết đã phục hồi trong thế gian nhờ Thánh Thần Người và là một nhân loại
đã được sinh ra "không bởi khí huyết, không bởi ý muốn xác thịt, không bởi
ý muốn của nam nhân, nhưng bởi Thiên Chúa" (Ga 1,13). Nhờ đức trinh khiết
hay bậc độc thân vì Nước Trời, các Linh mục được thánh hiến cho Chúa Kitô với một
lý do mới mẻ và tuyệt hảo được kết hợp cách dễ dàng hơn với Người bằng một trái
tim không chia sẻ, tận hiến cách tự do hơn trong Người và nhờ Người để phục vụ
Thiên Chúa và loài người, sẵn sàng hơn trong việc phục vụ Nước Chúa và việc tái
sinh siêu nhiên; như thế các ngài càng thích đáng lãnh nhận một cách bao quát
hơn chức vụ làm cha trong Chúa Kitô. Chính nhờ đó, các ngài tuyên bố trước mặt
mọi người rằng mình muốn tận hiến trọn vẹn cho công việc đã được trao phó,
nghĩa là muốn đính ước các tín hữu với một người bạn độc nhất, và hiến dâng họ
cho Chúa Kitô như một trinh nữ thanh khiết (2Cr 11,2). Ngoài ra các ngài còn trở
nên dấu chỉ sống động về thế giới mai sau, mà ngày nay đã hiện diện qua Đức Tin
và Đức Ái, trong đó các con cái sự sống lại không còn dựng vợ gả chồng nữa (x
Lc 20, 35-36)."
8. Hôn lễ ngày xưa
Những tiệc cưới ngày xưa thường
kéo dài nhiều ngày. Đỉnh cao của tiệc cưới là lúc chú rể đến nhà cô dâu và được
các phù dâu chào đón vui vẻ. văn chương cổ điển nói rằng đôi khi chú rể hoãn lại
và chờ tới lúc nửa đêm mới đến để làm cho những cô phù dâu mất cảnh giác. Chúa
Giêsu dùng hình ảnh này để dậy người ta về lần đến cuối cùng của Ngài: Nhiều
người sẽ mất cảnh giác do bởi họ đã không chuẩn bị.
Nếu Chúa Giêsu đến trong lúc
này, tôi có thể mất cảnh giác và không được chuẩn bị ở mặt nào?
“Vĩnh cửu là đại dương, thời
gian là con sóng.” (Maurice Maeterlinck)
9. Sự điên rồ của Thiên
Chúa
Những giáo sư chủng viện của
thánh Vianney luôn xem Ngài như một người tối dạ. Họ luôn thúc ép ngài trong việc
học hành. Khi thánh nhân đến xứ đạo đầu tiên, vị linh mục đã miễn cưỡng để cho
ngài giảng giải. nhưng vị giám mục có cái nhìn sâu sắc hơn khi thuyên chuyển
ngài làm cha sở một họ đạo nhỏ tại ngôi làng mang tên Ars. Ngài đã làm nên một
việc lạ lùng: Từ khắp nước Pháp, dân chúng tuốn đến nghe ngài giảng và lãnh bí
tích giải tội. Năm 1925, Gioan Vianney được phong hiển thánh và được đặt làm bổn
mạng các cha xứ.
Linh mục nào có ảnh hưởng sâu sắc
đến tôi? Tại sao?
“Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì
đường lối và tư tưởng của Ta cũng cao hơn đường lối và tư tưởng các ngươi bấy
nhiêu.” (Is 55,9)
10. Tiếng lương tâm
Trong cuốn “Biện hộ về đời sống”,
John Henry Newman viết về lương tâm con người: “Lương tâm khen tặng, khiển
trách, hứa hẹn, đe dọa, biểu thị tương lai và là nhân chứng cho những gì không
thể thấy được. Lương tâm còn hơn cả cái tôi. Bản thân con người không có quyền
lực gì đối với nó… Con người có thể từ chối nó, nhưng nó vẫn có đó. Chính sự hiện
hữu của nó đưa ta ra khỏi chính mình… Lương tâm là tiếng nói của con người.”
Lương tâm là món quà quí giá nhất
Thiên Chúa ban tặng để giúp ta đặt sự thánh thiện. Tôi có tin tưởng vào việc
tham khảo lương tâm trước khi thực hiện một quyết định quan trọng không?
“Kẻ nào khước từ tiếng nói lương
tâm, người đó đốt cháy tương lai ra tro.” (Ngạn ngữ Trung Quốc)
11. Sống thế nào chết thế
ấy
Chuyện kể rằng tại chùa Tô Châu
bên Trung Quốc, có một nhà sư tên là Viên Thủ Trung. Ông là một nhà chân tu.
Nhà sư thường đặt trên bàn làm việc của mình một chiếc quan tài nhỏ làm bằng gỗ.
Khi có người thắc mắc, hỏi về chiếc quan tài này, nhà sư trả lời: “Người ta sống
tất nhiên sẽ có lúc phải chết. Mà chết rồi sẽ được đặt vào nằm trong cái hòm
này. Tôi thực lấy làm lạ: người đời ai cũng chỉ biết đi tìm phú quí, công danh,
tài sắc... mà chẳng hề nghĩ đến cái chết. Phần tôi, mỗi khi có điều gì không vừa
ý, tôi liền ngồi vào bàn và nhìn ngắm chiếc quan tài một hồi lâu, sau đó tôi cảm
thấy tâm hồn mình được bình an.”
“Người ta sống tất có lúc phải chết.” Sống xứng
đáng với những gì mình được ban cho ở đời này và có sự chuẩn bị tốt nhất cho đời
sau của mình. Đó là sống trong sự “tỉnh thức”, là sự khôn ngoan trong Tin Mừng.
Chúng ta được mời gọi luôn sống “tỉnh thức”, là chu toàn các bổn phận và tìm kiếm
thi hành thánh ý Chúa trong những công việc làm hằng ngày, ngay từ bây giờ.
Điều gì đang làm bạn quá âu lo,
khiến bạn thiếu sót những bổn phận lẽ ra bạn phải làm. Bạn đã sẵn sàng cho sự
thay đổi đó như thế nào?
12. Khôn - dại và dại -
khôn
“Thiên hạ đua nhau nói dại-khôn,
” nhưng không phải ai cũng đồng ý với nhau thế nào là khôn, thế nào là dại.
Theo Trần Tế Xương thì cái khôn của nghề cờ bạc là khôn-dại, còn cái dại chốn
văn chương lại là dại-khôn. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm tự nhận mình là dại khi “tìm
nơi vắng vẻ” nhưng lại ngầm ý rằng làm như ông mới đúng là khôn thật. Trong dụ
ngôn mười người trinh nữ, Chúa Giê-su cho biết tiêu chí xác định để ai dại ai
khôn: khôn là những cô biết chuẩn bị dầu đầy đủ cho ngọn đèn của họ luôn cháy
sáng; còn những cô dại chỉ làm có một nửa: mang đèn mà không mang theo dầu! Người
khôn là người biết canh thức, sẵn sàng chờ đợi ngày giờ Chúa đến; còn kẻ dại là
người vô tâm, bình chân như vại trước những cảnh báo của Ngài.
Ngọn đèn đức tin của bạn được
cháy sáng nhờ từng giọt dầu được liên tục thấm vào mỗi ngày. Đó là giọt dầu yêu
mến, giọt dầu cầu nguyện, giọt dầu phục vụ, giọt dầu hy sinh, giọt dầu Tám Mối
Phúc Thật. Người khôn là người biết hằng ngày châm những giọt dầu ấy cho đèn đức
tin để ngọn đèn đó luôn cháy sáng khi Chúa đến với mình ngày hôm nay cũng như
ngày cuối đời.
13. Hãy noi gương tôi
như tôi noi gương Đức Kitô
Chiến dịch bắt đạo tháng 12 năm
1859 đã gom nhiều chức sắc trong các giáo xứ, và riêng ở Huế, tập trung mọi tín
hữu trên 50 tuổi vào trại giam, do đó khu vực giam cha Hoan còn có nhiều anh em
giáo hữu. Nhờ có tài xã giao lịch thiệp, cha Hoan đã dành được thiện cảm của
toán lính canh ngục. Cha có thể dễ dàng đến các phòng giam trong trại để thăm
viếng các tín hữu. Trong suốt 5 tháng bị giam, cha Hoan dành rất nhiều thời giờ
để giải tội, và khích lệ các giáo hữu. Nhận được Mình Thánh Chúa đưa vào, cha
rước lễ và chia sẻ cho anh em.
Ngày 25 tháng 5, bản án của triều
đình truyền phải xử thánh Hoan ra tới Đồng Hới.
Tối hôm ấy cha thức thật khuya để
ủy lạo bạn hữu và giải tội cho một số người. Sáng sớm hôm sau, 26.5.1861 tù
nhân ở các phòng khác cũng được phép đến gặp và từ giã cha. Cha nói:
“Thưa anh em, tôi dám xin mượn lời
Thánh Phalô để nói với anh em rằng: anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi
gương Đức Kitô.”
Cha con vui vẻ hàn huyên cho đến
khi có lệnh ra pháp trường. Cha đứng thẳng lên, cổ vẫn mang gông nặng, hiên
ngang bước theo viên cai ngục.
Ra đến cửa, cha gặp ông trùm Phượng,
hai toán lính nhập làm một, hai lính cầm hai bản án đi trước. Đến pháp trường,
hai vị quỳ trên chiếu đã trải sẵn. Quan hỏi hai chứng nhân có cần trói vào cột
không, cha trả lời: “Khỏi cần, tôi sẽ quỳ yên không nhúc nhích. Nếu tôi không tự
nguyện chết, tôi đã chẳng đến đây, xin cho vài phút để cầu nguyện.”
Cha ngẩng mặt lên trời, tạ ơn
Chúa, giơ tay ra giải tội cho ông Phượng và ra dấu đã sẵn sàng để lý hình thi
hành nhiệm vụ.
Thấy thái độ dũng cảm của cha,
biết cha vô tội, nên lý hình đã chỉ định phải nhờ một lý hình khác không quen
tay: Do đó Cha bị chém tới nhát thứ ba, đầu mới rơi xuống.
14. Kiên nhẫn chờ đợi và
gặp được Chúa
Paul Tournier, bác sĩ tâm thần
người Thụy Sĩ đã đánh dấu cuộc hoán cải của ông bằng việc dành trọn một giờ để
cầu nguyện. Đây xem ra là một kinh nghiệm thử thách và khô khan. Nhưng khi một
giờ trôi qua, có một cái gì đó thúc đẩy ông cầu nguyện lâu hơn một chút. Ông đã
làm và cuối cùng được cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa và điều này
đã thay đổi cuộc đời ông. Ông cảm thấy sợ khi nghĩ được rằng mình đã gần như mất
đi cơ hội đó.
Đôi khi tôi có khuynh hướng rút
vắn hoặc kéo dài giờ cầu nguyện khi xem ra đó là một thử thách và khô khan
không?
Người chậm giận hơn trang hào kiệt,
Người tự chủ hơn kẻ chiếm được
thành. (Cn16,32)
15. Nỗi sợ cô đơn
Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta
đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1200 người tại 20 thành phố khác nhau về việc
chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt ra là: “Nếu bạn chỉ còn một ngày cuối cùng để sống,
bạn sẽ làm gì?" Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy:
* 57% phụ nữ được hỏi cho biết họ
sẽ sống ngày cuối cùng đó với gia đình.
* 42% các ông được hỏi cho biết
họ cũng muốn sống ngày cuối cùng đó với gia đình.
* 32% các ông các bà đều muốn được
sống với gia đình mình trong những giờ phúc cuối đời.
* chỉ có 12% các bà và 26% các
ông thích ở một mình hoặc cùng với bạn bè trong ngày cuối cùng của cuộc sống.
16. Đèn phải sáng
Một người Hinđu đang hấp hối được
Mẹ Têrêxa chăm sóc. Ông ta cầm lấy cây thánh giá Mẹ đeo nơi cổ và hỏi: “Cái gì
đây?”
“Đó là một biểu tượng nhắc tôi nhớ đến Thiên
Chúa của tôi”, Mẹ trả lời. Người đàn ông đã nói cách cả quyết với chút hơi sức
còn lại của mình: “Vậy thì Thiên Chúa của bà cũng là Thiên Chúa của tôi."
Những hoạt động âm thầm mà chân
tình của Mẹ Têrêxa loan báo Tin Mừng nhiều hơn là bằng lời nói. Một trong những
mưu chước thâm độc của ma quỉ là làm cho người ta yên tâm về hạnh phúc đời đời
với danh hiệu Kitô hữu hơn là với đời sống Kitô hữu, như năm cô trinh nữ vẫn
yên tâm cầm đèn mà không để ý đèn đó còn sáng hay tắt rồi.
Đèn không sáng thì còn gì là
đèn. Kitô hữu không đức mến thì còn gì là Kitô hữu: “Vậy anh em hãy tỉnh thức,
vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13)
17. Truyền giáo bằng sự
hiện diện
Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi
các bạn trẻ thuộc Giáo phận Viviers của Pháp, trong buổi gặp gỡ sáng thứ Bảy
14/5/2022, “đặt nền móng đời sống Kitô theo tinh thần của Charles de Foucauld với
những từ khoá: Tin
Mừng, Thánh Thể và loan báo Tin Mừng. Bởi
vì chính từ đây, Kitô hữu sẽ có một chương trình cuộc sống tại trường học của
Chúa Kitô.”
Trong bài nói chuyện, trước hết,
Đức Thánh Cha bày tỏ niềm vui được chào đón các bạn trẻ đến từ Giáo phận nơi có
hai chân phước sẽ được phong thánh vào Chúa Nhật hôm sau: nữ tu Marie Rivier,
sáng lập dòng các Nữ tu Đức Mẹ Dâng Mình; và Charles de Foucauld.
Ngài mong muốn các bạn trẻ học
nơi Charles de Foucauld cách có được kinh nghiệm về Chúa, điều đã dẫn đưa chân
phước đến việc loan báo Tin Mừng bằng sự hiện diện. Hình thức truyền giáo này
phù hợp với nguyện vọng của người được Chúa yêu thương và người được Chúa kêu gọi
thực hiện làm một điều gì đó vốn không đạt được cách nhanh chóng và có kết quả
ngay lập tức.
THỨ BẢY - TRUNG TÍN VÀ SÁNG KIẾN
Lời Chúa: Mt 25, 14-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ
đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia
hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng mỗi người, đoạn ông ra đi.
Người lãnh năm nén bạc, ra đi và
dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Cũng vậy, người lãnh hai nén
cũng làm lợi ra hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu
tiền của chủ mình.
Sau một thời gian lâu dài, ông
chủ các đầy tớ trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang
theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm nén bạc,
đây tôi làm lợi được năm nén khác." Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy
tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi
làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi."
Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến
và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc, đây tôi đã làm lợi được
hai nén khác." Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và
trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc
lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi."
"Còn người lãnh một nén bạc
đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo
và thu nơi không phát, nên tôi khiếp sợ đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất.
Đây của ông, xin trả lại ông." Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy
tớ hư thân và biếng nhác, ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không
phát: vậy lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về,
ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho
người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có,
thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy
ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng."
TRUYỆN KỂ
1. Miễn là có sinh lời
Ông
cố của vị linh mục vừa qua đời. Có rất nhiều người đến viếng thăm với hoa, nến
và nhiều kinh nguyện khác. Một em bé đến nói với vị linh mục: “Thưa cha, con
không có hoa, nến, cũng không thuộc nhiều kinh. Con chỉ đọc cho ông cố một kinh
Lạy Cha mà thôi." Vị linh mục trìu mến trả lời: “Con đừng lo. Lời kinh đơn
sơ của con cũng có giá trị cao quí như các kinh nguyện của những người
khác."
Đức
Giêsu cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã trao cho mỗi người những nén bạc, tức
là những tài năng, kẻ nhiều người ít. Điều Đức Giêsu muốn nhắn gửi, đó là mỗi
người phải sử dụng những “nén bạc” là những tài năng Chúa ban, để “sinh lời”
cho Chúa. Phần “lời” này không hệ tại ở số lượng nén bạc được gia tăng, mà phụ
thuộc tấm lòng của chính chúng ta. Chúng ta có siêng năng làm việc để phát huy
tài năng hay không, hay chúng ta lười biếng như đầy tớ vô dụng đã đem chôn bạc
xuống đất?
2.
Biết làm sinh lợi cho Chúa.
Sau
khi đến thăm gia đình của người bạn học vừa mất, cô bé trở về nhà.
Vẻ
mặt giận dữ, cha cô bé hỏi:
- Tại
sao con đến nhà người ta vào lúc này?
Cô
bé trả lời:
-
Con đến để yên ủi mẹ bạn ấy.
-
Nhưng con thì làm được gì?
-
Ba ơi, con chẳng làm được gì, vì thế con ngồi vào lòng mẹ bạn ấy.
Lúc
đó cô bé chỉ biết khóc, nhưng đã an ủi lòng “người mẹ."
3.
Không có gì khó bằng lòng không muốn
A.R.Wells
có thuật lại câu chuyện này: Có một trang chủ làm chủ một trang trại lớn. Một bữa
kia ông giao cho bảy người thợ cưa, mỗi người phải cưa cho ông một khúc cây.
-
Người thứ nhất nói: Khúc cây của tôi còn tươi quá, e lưỡi cưa sẽ mắc trong đó.
Tôi chờ cho tới khi nó khô thì mới cưa. Thế là anh đi nghỉ.
-
Người thứ hai: Lưỡi cưa của tôi cùn quá rồi. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi một lưỡi
cưa sắc bén hơn rồi tôi cưa. Và anh cũng đi nghỉ.
-
Người thứ ba: Khúc cây này cong bên này cong bên kia. Tôi chờ ông chủ đổi cho
tôi khúc khác thẳng hơn. Anh cũng đi nghỉ.
-
Người thứ tư: Khúc cây của tôi quá cứng, cứng gấp hai lần loại cây thường. Tôi
chờ có khúc khác mềm hơn. Anh cũng đi nghỉ.
-
Người thứ năm: Hôm nay trời nóng quá. Đợi ngày nào mát trời hãy cưa. Và anh
cũng nghỉ.
-
Người thứ sáu: Hôm nay tôi nhức đầu. Đợi tới khi nào khỏi, tôi mới cưa. Và anh
cũng nghỉ.
-
Người thứ bảy cũng nhận một khúc cây còn tươi, nó cũng cong bên này cong bên
kia, thịt cũng rất cứng, lưỡi cưa của anh cũng cùn, trời hôm đó cũng nóng và
hôm đó anh cũng nhức đầu. Nhưng anh đi mài lưỡi cưa và bắt tay vào việc. Nhờ lưỡi
cưa đã được mài sắc, khúc cây đã được cưa xong, do trời nóng và do làm việc,
anh làm việc đổ mồ hôi ra và hết nhức đầu. Anh sung sướng vì hoàn thành công
tác được giao. Hôm sau anh xin ông chủ cho anh một khúc cây khác để cưa nữa.
Nếu
được phép áp dụng Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay thì chắc là ông chủ sẽ
nói với người đầy tớ cuối cùng rằng: "Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi
và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi
việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh" (Mt 25,23).
4.
Chúa cần cả người hèn kém làm vinh danh Ngài.
Trong
lịch sử các Thánh, nhiều vị được Chúa trao số vốn nhỏ bé lại làm vinh hiển Chúa
nhất. Đan cử:
-
Thánh Maria Madalena, một người bị kết án là phụ nữ tội lỗi khét tiếng vì, bị bảy
quỷ thống trị, thế nhưng khi bà được Đức Giêsu trừ bảy quỷ cho, từ bấy giờ bà
hiến dâng tất cả tài sản cho việc truyền giáo, và trở thành người đầu tiên loan
báo Tin Mừng Phục Sinh cho thế giới (x. Lc 8, 1-3; Ga 20, 18).
-
Thánh Gioan Maria Vianey có trí khôn tầm thường, không đủ điểm trong các môn Thần
học ở Đại Chủng Viện, nên đã bị Cha Giám đốc sa thải! Nhưng nhờ cha Sở bảo
lãnh, Gioan Vianey được trở lại Chủng Viện, và ngài đã trở nên một vị Linh mục
thánh thiện, nhiệt tình, gương mẫu, xứng đáng là Bổn mạng các cha Sở!
-
Thánh nữ Catharina, vì hoàn cảnh gia cảnh nghèo nên thất học, thế mà nhờ bà biết
cầu nguyện cho Hội Thánh đang gặp sóng gió, bà đã thành công làm cho ba Giáo
hoàng đang tranh ngôi vị vào những năm 1378-1417, một ở Roma, một ở Bỉ, một ở
Pháp từ chức để bầu lại Thủ Lãnh Hội Thánh, thủ đô đặt ở Roma. Vì công đức ấy
mà Hội Thánh tôn vinh bà làm Thánh Tiến sĩ. Bởi thế, thánh Phaolô nói: “Thiên
Chúa đã chọn sự yếu đuối để bêu nhuốc hạng khôn ngoan và mạnh mẽ, những gì thế
gian cho là ti tiện không đáng kể, Thiên Chúa lại cho những điều không không để
hủy diệt điều có ra không, hầu không có xác phàm nào dám vênh vang trước mặt
Chúa” (1Cr 1, 27-29).
5.
Tôi ở nhà tôi xây
Người
thợ xây nọ đã làm việc rất chuyên cần và hữu hiệu trong nhiều năm cho một hãng
thầu xây dựng. Một ngày kia, ông ngỏ ý với hãng muốn xin nghỉ việc về hưu để
vui thú với gia đình.
Hãng
thầu rất tiếc khi thiếu đi một người thợ giỏi đã tận tụy nhiều năm. Hãng đề nghị
ông cố gắng ở lại giúp hãng xây một căn nhà trước khi thôi việc. Ông ta nhận lời.
Vì
biết mình sẽ giải nghệ, cùng với sự miễn cưỡng, ông ta làm việc một cách tắc
trách qua quít, xây dựng căn nhà với những vật liệu tầm thường, kém chọn lọc,
miễn có một bề ngoài đẹp đẽ mà thôi.
Mấy
tháng sau, căn nhà đã hoàn thành. Người chủ hãng mời ông đến, trao cho ông chiếc
chìa khóa của ngôi nhà và nói: “Ông đã gắn bó và làm việc rất tận tụy với hãng
trong nhiều năm, để tưởng thưởng về sự đóng góp của ông cho sự thịnh vượng của
hãng, chúng tôi xin tặng ông ngôi nhà vừa xây xong!”
Thật
là bàng hoàng! Nếu người thợ biết mình sẽ xây cất căn nhà cho chính mình thì hẳn
ông ta đã làm việc cẩn thận hơn và chọn lựa những vật liệu có phẩm chất hơn. Sự
làm việc tắc trách chỉ có mình ông biết và nay thì ông phải sống với căn nhà mà
ông biết rõ là kém phẩm chất như thế nào.
6.
Mỗi người quyết định con đường mình đi
Thi
sĩ người Anh William Dunkerley cũng được biết dưới bút danh John Oxenham. Một
trong những bài thơ được viết dưới bút danh này thật hấp dẫn. Bài thơ như sau: “Mỗi
người đều có con đường rộng mở. Tâm hồn cao thượng theo đường cao. Tâm hồn tầm
thường theo con đường thấp giữa đồng bằng sương gió. Số còn lại thì trôi nổi
đây đó. Nhưng mỗi người đều có con đường riêng cho mình và phải quyết định con
đường để theo.”
Bài
thơ của Oxenham và lời thánh Phaolô mời gọi tôi tự hỏi: “Đâu là con đường tôi định
theo? Tại sao?
Một
số người chết vì bom đạn. một số khác chết vì lửa nóng. Nhưng hầu hết chết dần
chết mòn vì thiếu quan tâm đến nhau.
7.
Chẳng có gì là nhỏ bé
Tờ
Detroit News đăng câu truyện về John Cannon, người đã mất ngôi nhà mùa hè mới ở
vùng quê Canada chỉ vì không có tiền để gọi điện thoại. Ngọn lửa đã thiêu rụi
ngôi nhà của ông trước khi ông liên lạc được điện thoại. Ông đã nhảy vào xe và
lái xe đến trạm điện thoại công cộng trên đường. Trong lúc hốt hoảng, ông không
đem theo một đồng cắc nào. Câu truyện này chứng tỏ rằng trong một số công việc,
một xu cũng đáng giá hơn cả ngàn đôla. Có những lúc sự đánh giá này thật đúng
trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Đâu
là sứ điệp mà câu truyện của Cannon và lời của thánh Phaolô gợi lên cho tôi?
“Đôi
khi tôi thấy hậu quả nghiêm trọng đến từ những gì nhỏ bé. Tôi bị cuốn theo dòng
suy nghĩ: Chẳng có gì là nhỏ bé cả” (Bruce Barton)
8.
Trung thành trong điều nhỏ mọn
Một
bé gái trở về nhà sau khi thăm viếng gia đình của một người bạn cùng lốp bị chết
đột ngột. Cha cô bực mình nói: “Tại sao con đến đó lúc này?” Cô bé trả lời: “Để
an ủi mẹ của người bạn.” Người cha nói: “Nhưng con thì có thể làm được gì chứ?”
Cô bé đáp: “Chẳng làm được gì cả, vì vậy con ngồi trong lòng bà ta và cùng khóc
với bà ta.”
Câu
truyện trên đây và dụ ngôn của Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: Ở mức độ nào tôi
ngừng công việc làm cho Nước Chúa phát triển, chỉ vì cảm thấy mình chẳng làm được
bao nhiêu?
“Điều
lớn lao chính là trung thành trong những cái nhỏ mọn.” (Thánh Gioan Kim Khẩu)
9.
Được giao ít mà trung thành
Booker
T. Washington là một nô lệ da đen người Mỹ. Năm 16 tuổi, cậu đã đi bộ 800 cây số
từ nơi cậu phục dịch đến trường Hampton ở bang Virginia. Đến nơi, cậu được cho
biết là các lớp học đều đã chật người. Không chút nản chí, cậu nhận làm những
công việc thấp hèn ở trường, như quét sàn, dọn giường. Cậu làm việc một cách
chu đáo đến độ ban giáo sư đã tìm cho cậu một phòng với tư cách là một sinh
viên. Cậu học hành tiến bộ, trở thành một giáo sư nổi tiếng và đã thành lập trường
Tuskegee ở Alabana.
Tôi
đã thực hiện tốt một vài công việc nhỏ mọn nào trước khi được giao cho những việc
lớn hơn?
Đừng
để những gì bạn không làm cản trở những gì bạn có thể làm. (John Wooden)
10.
Sinh lợi từ vốn tự có
Và
tôi, trong cuộc sống, tôi cũng biết cười để trao tặng “nụ cười hồng” cho mọi
người. Một miếng trầu tôi tiêm cho ngoại Tách cà phê tôi pha cho bố mỗi sáng Một
chiếc áo dài tôi thêu cho mẹ Và chiếc nơ hồng bắt bím cho chị
Những
bài học hay tôi mang đến với trẻ thơ Tôi đã làm tất cả hết khả năng và nhiệt
huyết của mình. Tôi vui vì đã góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm hương vị.
Lạy
Chúa! Xin giúp con biết sinh lợi những nén bạc Chúa trao, biết trung thành với
bổn phận hằng ngày (Hosana).
11.
Sống giây phút hiện tại
Lạy
Chúa Giêsu, con thường thấy mình không có thì giờ, nhưng đồng thời cũng thấy
mình lãng phí bao thời gian quý báu. Nhiều khi con tự hỏi mình thực sự làm việc
bao nhiêu giờ mỗi ngày.
Xin
cho con biết quý trọng từng giây phút đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian, để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa. Xin
cho con luôn làm việc như Chúa: hăng say, tận tụy và vui tươi, vâng phục, có
phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì
quá khứ thì đã qua, và tương lai thì chưa đến, nên xin dạy con biết trân trọng
giây phút hiện tại. Xin cho con thấy Chúa lúc này đang ở đây bên con, và đang mời
gọi con đáp lại tiếng của Ngài bằng những hành động cụ thể. Con xin hiến dâng
Chúa giây phút này như một hy lễ, với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
Ước
gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại để hiện tại đưa con vào vĩnh cửu của
Chúa. Amen. (Rabboni).
LỄ THÁNH MONICA - CHÚA
ĐỘNG LÒNG THƯƠNG
Lời
Chúa: Lc 7, 11-17
Khi
ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng
đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn
người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác
với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Đừng khóc
nữa.” Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại.
Bấy giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy.”
Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi
người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất
hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người.” Và việc này đã loan
truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
TRUYỆN
KỂ
1.
Không muốn đến nhà thờ
“Chúa
Giêsu tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và phán: ‘Hỡi thanh niên, Ta truyền
cho ngươi hãy chỗi dậy.’ Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói..” (Lc
7,14-15).
Bữa
nay mình không muốn đến nhà thờ, Chúa Nhật nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì
trên gường. Tin và Sơn phóng xe đi chơi. Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này
có ai gọi mình thì phải?
Bữa
nay mình không muốn đến nhà thờ, Bài giảng dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim
hoạt hình trên Tivi, hay mở máy hát nghe nhạc, hoặc gọi điện thoại “tám” với bạn
bè còn thích hơn. Này rõ ràng có ai gọi mình mà!
Lạy
Chúa, con chỉ nghe toàn những tiếng nhu cầu của bản thân. Còn tiếng gọi của
Chúa sao mơ màng quá, khó nghe quá. Chúa đã gọi người thanh niên chỗi dậy từ
cõi chết, xin Ngài cũng gọi con từ những đam mê bất chính của con. (Hosanna)
2. Cuộc đời thánh Monica
Chúng
ta chỉ biết Thánh Mônica qua quyển Tự Thuật của người con là Thánh Augustino.
Bà
sinh khoảng năm 332 ở Tagaste miền bắc Châu Phi, là con trong một gia đình có đạo.
Lúc 18 tuổi, bà phải kết hôn với một người ngoại tên là Patricius theo ý của
gia đình và sau đó sinh được 3 người con: người con cả là Augustinô. Bà luôn
theo dõi sự phát triển của con với niềm vui lẫn âu lo.
Bà
đã phải khóc lóc vì thấy nơi người con của bà có những dấu hiệu sai lạc về luân
lý và tinh thần. Dầu vậy bà luôn luôn lấy tình thương khuyên nhủ con. Sau một
thời gian quá dài nhưng chưa chinh phục được người con của mình, bà đã được một
vị Giám mục, nói chính xác là thánh Ambrosiô, đã an ủi bà: "Không lẽ một
người con đã làm cho bà rơi biết bao nhiêu nước mắt, lại phải hư mãi sao?”
Như
vậy là chúng ta thấy không những bà đã lo lắng cho chồng để ông được trở lại đạo
một năm trước khi ông qua đời, khoảng năm 371. Rồi sau khi chồng mất, bà đã từ
Roma theo người con cả Augustino lên tận Milan nơi ông dạy học để ở nơi đây Bà
được chứng kiến cảnh con của mình từ bỏ lạc giáo trở về với Chúa, chịu rửa tội
vào đêm Vọng Phục Sinh năm 387 dưới sự hướng dẫn và dìu dắt của Giám Mục
Ambrôsiô. Sau khi trở lại, Augustinô, em và mẹ đã quyết định trở về Tagaste.
Mùa
thu năm 387 cả ba mẹ con từ bỏ Rôma, lên đường về Châu Phi. Chúng ta hãy nghe
chính Augustinô thuật lại những giờ sau hết của mẹ mình trên dương thế: "Con
không nhớ rõ con đã trả lời làm sao. Nhưng phỏng năm ngày sau, hay hơn một
chút, mẹ con ngã bệnh sốt rét. Đang khi nằm bệnh, thì ngày nọ ngài bất tỉnh,
không còn nhận ra những người chung quanh. Chúng con chạy tới thì ngài tỉnh lại
ngay, nhìn con và em con đang đứng đó; ngài có vẻ tìm kiếm cái gì đó và bảo
chúng con” “Mẹ ở đâu thế này?”
Rồi
thấy chúng con buồn sầu và lo sợ, ngài nói: "Các con hãy nhớ chôn mẹ ở nơi
đây!' Con thinh lặng và kìm hãm nước mắt. Nhưng em con nói mấy lời tỏ ý ước ao
thấy ngài được chết tại quê nhà hơn là ở tha hương. Nghe thấy vậy, ngài tỏ vẻ
không bằng lòng. Ngài quắc mắt nhìn em con, vì nó đã có những tư tưởng như vậy,
rồi nhìn con mà nói: "Con xem, nó nói như vậy đó!” Đoạn ngài bảo hai chúng
con: "Các con chôn xác này ở đâu cũng được; các con đừng quá lo về việc
đó. Mẹ chỉ xin các con một điều, là bất cứ các con ở đâu, các con hãy nhớ đến mẹ
trước bàn thờ Chúa.” Sau khi cố gắng nói được điều đó rồi, mẹ con ở lặng và cơn
bệnh gia tăng, làm cho ngài càng đau đớn. Vậy, sau khi thụ bệnh được 9 ngày,
thì linh hồn thánh thiện và đạo đức đó đã lìa khỏi xác: ngài được 56 tuổi còn
con được 33 tuổi" đúng tuổi sống trên đời của Chúa Giêsu.
Augustinô
đã chôn cất mẹ tại Ostia.
Sau
này khi nhớ về cái chết của Mẹ mình Augustinô đã viết: "Con mất mẹ cách đột
ngột, nhưng con cảm thấy an ủi khi dâng cho Chúa nước mắt con khóc mẹ. Con dâng
nước mắt ấy cầu nguyện cho mẹ con. Nếu ai đoán xét con, phạm tội vì khóc thương
một bà mẹ chết đi và tạm thời mắt con không còn trông thấy được nữa, thì con
xin họ nhớ rằng chính bà đã khóc than biết bao năm trường để mắt bà được trông
thấy con sống lại với Chúa, xin họ đừng nhạo cười con, nhưng xin họ cũng khóc
lóc vì tội lỗi con đã phạm trước mặt Chúa. Chúa là cha của tất cả anh chị em
chúng con trong Đức Kitô.
Ngày
nay xác bà được dời về thánh đường kính Thánh Augustinô tại Rôma.
3.
Tự sửa mình trước
Ông
Comolet Sue, nhà giáo dục danh tiếng, đã điều tra và kể lại trong bản báo cáo về
Hội Hôn nhân Thiên Chúa giáo ở Pháp câu truyện này:
Có
lần ông gặp một bà góa. Các con bà giữ đạo sốt sắng và thành công một cách vinh
quang trên đường đời. Ông hỏi bà: - Bà đã làm gì trong công việc giáo dục con
cái bà? Bà đã dìu dắt con bà một cách thực tế như thế nào trong cuộc đời? Bà đã
một mình làm tròn sự nghiệp phức tạp ấy!
Bà
trả lời cách gọn gàng, giản dị: - Tôi không biết.
Ông
gặng hỏi: - Bà giấu đấy chứ? Các con trai bà đã làm cách nào để tạo được những
địa vị danh giá mà đồng thời vẫn là tín đồ đáng nể phục? Các con bà hình như rất
bằng lòng với cuộc sống của mình. Có bao bà phải thất vọng không...?
Bà
mỉm cười và hỏi: - Ông có tin tưởng Thiên Chúa không?
-
Chắc là Thiên Chúa cai trị sóng gió, nhưng nếu bà không biết lo liệu thì thuyền
cứ chìm.
-
Lo liệu phòng ngừa là phải cầu nguyện cho nhiều.
-
Không đủ, thưa bà. Bởi chắc không phải lúc nào bà cũng chắp tay quỳ gối trong
nhà thờ?
Bị
hỏi dồn, bà nói thiệt: - Ngày chồng tôi chết, để lại cho tôi mười đứa con nhỏ,
đứa lớn chưa đầy 15 tuổi. Tiền của eo hẹp, nên tôi phải quả quyết... Trước hết
là... Là xét lại lương tâm, khi xét mình tôi đã nhận thấy cần phải tu chỉnh, cải
tạo đời sống mình cho tốt hơn, thêm nhiều đức tính tốt hơn nữa. Tôi làm ngay...
và cứ thế mà tiến...
-
Có thế thôi sao? Bà còn làm gì hơn nữa cho con bà?
- Không
có gì khác cả, thưa ông. Tôi tự sửa mình và chính Chúa đã đào tạo chúng nó.
Ngạn
ngữ của người Roma có câu: “Không ai có thể cho cái mình không có.” Bà Monica
thánh thiện cho nên sự thánh thiện của bà đã tràn qua người con.
4.
Thánh Monica qua lời kể của thánh Augustino
Thánh
Augustinô kể về mẹ mình: “Mẹ tôi là một người đằm thắm, dịu dàng; bà là một người
cầu nguyện và đạo đức thực sự. Bố tôi coi thường mẹ tôi, luôn chế giễu, chẳng
bao giờ tỏ được một tình cảm dịu dàng yêu thương nào với vợ mình. Thế nhưng,
ngay cả những lúc ông nóng giận, ngay cả những lúc ông muốn tỏ thái độ vũ phu lỗ
mãng của một người đàn ông, thì ông… nhìn bà và ông sợ; hay nói cách khác, ông
sợ kính bà.” Người ta nói: “Đức trọng thì quỉ thần kinh.” Vì cái đức trọng của
Mônica mà ông chồng không dám nặng tay hành động vũ phu trên Mônica. Một điều
thật diệu kỳ.
–
Augustinô cũng kể về bà nội, tức mẹ chồng của Mônica. Mẹ chồng Mônica, khi thấy
chồng chế diễu Mônica, bà không nương tay, còn đổ thêm dầu vào lửa, nói những lời
chì chiết. Mônica ứng xử thế nào trong hoàn cảnh cay cực này? Bà cư xử dịu
dàng. Mỗi lần mẹ chồng nói điều gì không phải, bà không bao giờ tỏ một thái độ
nghịch lại, mà luôn luôn dùng một thái độ biết lắng nghe cách trang trọng. Bà để
đấy, rồi khi có dịp bà dùng hành động và ngôn ngữ của đức bác ái, và ngôn ngữ
bác ái ấy đã chạm tới trái tim của bà mẹ chồng. Lại một điều đẹp diệu kỳ nữa. Đức
trọng, giờ là đức bác ái.
–
Còn chính Augustinô con bà thì sao? Khi Augustinô lớn lên, nó học tính của bố.
“Cha nào con nấy.” Có lần Mônica nói với Augustinô: “Nếu con không đổi tính nết,
mẹ sẽ đuổi con ra khỏi nhà.” Và bà đã quyết định đuổi. Nhưng được cha linh hướng
khuyên: “Đứa con của nước mắt thì sẽ không bao giờ bị hư mất”, Mônica đã nén
lòng, rút lại quyết định. Và sau này bà nói đó là một quyết định khôn ngoan. Ở
đây là đức nhẫn nại, chịu đựng.
–
Augustinô còn cố tình bỏ đi xa, thoát ra khỏi tầm tay của mẹ mình, nhưng bà
không vì vậy mà chịu thua. – Chúa đến một lúc nào đó, và cho bà thấy phần thưởng
của mình. Người mẹ chồng khi thấy đứa con dâu đã để lại cho cuộc đời mình biết
bao điều tích cực hơn là tiêu cực, cuối cùng trước khi chết, đã gọi người con
dâu: “Mônica, mẹ cám ơn con vì con đã đem đến cho mẹ niềm tin.” Và bà đã xin với
Mônica để được rửa tội trước khi chết.
–
Chồng bà, trước khi lâm bạo bệnh, đã nhận ra tình yêu đằm thắm, dịu dàng, nhẫn
nhục của vợ suốt 17 năm trường dù ông đã gây cho bà bao đau khổ và cả ô nhục,
ông đã hối lỗi. Thế là trước khi chết, ông xin được quay trở lại, và bà có mặt ở
ngay bên giường bệnh để được thấy chồng mình trở thành công giáo.
–
Đau khổ nhất là đứa con Augustinô. Đã 30 năm khóc cho con, nhưng là khóc trong
niềm hy vọng của ngày hôm nay, chứ không trong ngậm đắng nuốt cay của ngày hôm
qua để giận hờn, thất vọng. Bà cộng tác với ơn Chúa để rong ruổi theo con, sang
tới Rôma, đến tận Milan. Bà chạy theo đứa con của mình và cuối cùng bà chinh phục
được Augustinô. Augustinô được rửa tội đêm Vọng Phục Sinh năm 387, lúc khoảng
33 tuổi. Lúc bấy giờ bà đã 56 tuổi.
–
Lâm trọng bệnh, bà nói với Augustinô: “Mẹ chẳng còn trông mong gì trên đời này
nữa. Trước đây, lý do duy nhất khiến mẹ ước mong được nán lại thêm một chút
trong cuộc sống này là để nhìn thấy con thành một Kitô hữu trong Hội Thánh công
giáo trước khi mẹ nhắm mắt lìa đời. Thiên Chúa đã ban cho mẹ quá lòng mẹ mong ước.
Mẹ còn đang được thấy con khinh chê hạnh phúc trần gian mà làm tôi tớ phụng sự
Người. Bây giờ mẹ ở đây làm gì nữa?…Mẹ chỉ còn xin con một điều là dù ở đâu,
hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa.”
5.
Chúa ở đâu trong cuộc đời
“Bạn
sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ sống đúng một ngày nữa thôi?” Đó chính là câu
hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường, và có kết
quả:
20%
được hỏi liền trả lời: Chúng tôi sẽ dùng thời giờ còn lại, để uống say sưa, hút
ma tuý, để vui chơi cho thoả thích. Cuối cùng một nữ sinh 18 tuổi trả lời rằng:
Tôi sẽ dùng thời gian còn lại, để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ
dành buổi tối cuối cùng, để gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một đời sống
hạnh phúc và đầy đủ.
Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức về giờ của từng cá nhân mình phải ra trước
toà Chúa. Đó là lúc được phân định dứt khoát và vĩnh viễn, nên không còn cơ hội
để lựa chọn về phần rỗi của mình nữa. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn
sàng, bởi sự lỡ làng trong công ăn việc làm chúng ta có thể bắt đầu lại và có
thể sửa chữa được. Nhưng sự lỡ làng trong giờ cuối cùng của cuộc đời sẽ không
còn cơ hội để làm lại và lúc đó sẽ hư mất đời đời.
6.
Lòng thương xót
Ngày
kia, có một phụ nữ đến van xin tha thiết với hoàng đế Napoléon cho con trai của
bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ rệt. Công lý đòi buộc
anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý.
Nhưng
bà mẹ năn nỉ:
-
Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
Hoàng
đế Napoléon trả lời:
-
Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót.
Bà
mẹ nói:
-
Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
Hoàng
đế Napoléon đáp:
-
Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó.
Và
ông sai thả người thanh niên đó ra
7.
Lời cầu nguyện và nước mắt có giá trị
Thánh
nữ Monica sinh năm 332 trong một gia đình đạo hạnh làng Sucara bên Phi Châu. Với
bầu khí đạo đức, Monica sớm trở thành một cô bé ngoan ngoãn và sốt sắng: mỗi bữa
ăn cô thường dành một phần cho người nghèo và những lúc nhàn rỗi thường tìm nơi
vắng vẻ để cầu nguyện.
Năm
22 tuổi, Monica vâng lời cha mẹ kết hôn với Patricius thuộc dòng dõi qúy phái,
nhưng tính tình ngang tàng, độc ác và tuổi lại gấp đôi. Dù rất khổ tâm nhưng
Monica vẫn vui vẻ vâng lời cha mẹ với hy vọng sẽ cứu được một linh hồn. Quả vậy,
nhờ lời cầu nguyện và đức kiên nhẫn, Monica đã cải hóa được người chồng và mấy
năm sau sinh được ba người con mà Augustinô là con đầu lòng. Dù sống trong một
gia đình ngoại đạo, nhưng Monica đã chu toàn sứ mệnh làm mẹ, luôn giáo dục con
cái biết yêu mến Chúa, yêu người. Bà luôn yêu thương con cái, nhất là đối với
Augustinô. Nhưng càng lớn, Augustinô càng biểu lộ các tính hư tật xấu. Ỷ vào
trí thông minh, Augustinô đâm lười biếng. Bị sửa phạt, Augustinô bèn lừa dối,
lường gạt cha mẹ, thầy dạy, rồi từ đó ham mê lạc thú, ăn chơi, kiêu căng và ham
hố danh vọng. Nhất là từ khi chàng được gửi đi học ở tỉnh thì những làn sóng tội
lỗi lại tràn ngập tâm hồn. Rồi chàng lại theo bè rối Manikê chống lại đức tin.
Còn gì đau khổ hơn cho Monica khi thấy người con yêu quý của mình ngày càng bước
sâu vào con đường tội lỗi. Nhưng tin vào tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa,
bà lại càng kiên tâm cầu nguyện và làm các việc lành.
Lời
cầu nguyện và nước mắt của Monica đã được Chúa chấp nhận. Sau những thất bại,
Augustinô đã tìm đường trở lại cùng Thiên Chúa. Monica vui mừng dâng lời tạ ơn.
Thánh nữ cùng tĩnh tâm với Augustinô ở Cassicicum và có mặt trong lễ rửa tội của
con. Ðêm Phục Sinh năm 387, Augustinô đã được lãnh bí tích Rửa Tội do thánh
Giám Mục Ambrosiô. Lòng tràn ngập vui sướng, hai mẹ con cùng trở về Phi Châu. Tại
Ostia, thánh nữ chia sẻ với con mình sự hoan lạc trong tâm hồn mà thánh
Augustinô ghi lại trong cuốn IX “bộ tự thuật.” Thánh Monica đã nói như sau:
-
Con ơi, phần mẹ, mẹ không còn thấy vui sướng vì bất cứ điều gì ở đời này nữa. Mẹ
không hiểu sẽ phải làm gì và tại sao lại còn sống ở đây. Niềm hy vọng của mẹ
trên thế gian này đã được hoàn thành. Chỉ có một điều mẹ ao ước là được thấy
con trở thành người công giỏo trước khi mẹ lìa đời. Thiên Chúa cho mẹ được toại
nguyện và hơn nữa đã cho mẹ thấy con chán ghét hạnh phúc trần gian và hiến thân
phụng sự Ngài. Mẹ còn làm gì nữa đây?
Chẳng
bao lâu sau đó, thánh nữ mang bệnh và chết bình an trong Chúa năm 387, tại
Ostia, khi đó thánh nữ đã 56 tuổi.
Xác
thánh nữ được mai táng ở Otti. Năm 1430, Ðức Thánh Cha Martinô truyền đem về
nhà thờ Thánh Augustinô ở Rôma.
8.
Gương sáng của thánh Monica
Cuộc
đời và gương sáng của thánh nhân cho chúng ta thấy rằng: ngài đã “làm những
chuyện bình thường cách phi thường.” Tại sao vậy?
Trước
tiên: là chu toàn bổn phận. Chu toàn bổn phận cách trung thành, ngày này qua
ngày khác, năm này qua năm khác thì quả là anh hùng. Ngài đã hoàn thành sứ mạng
Chúa trao trong ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, thánh nhân đã hết lòng quý trọng,
yêu thương và trung thủy với chồng. Làm mẹ, thánh nhân hết mực yêu thương, hy
sinh cho con cái. Tận tụy giáo dưỡng con cái nên người. Khi không được như ý của
mình, ngài vẫn không bỏ cuộc. Thánh nhân đã cầu nguyện và hy sinh liên lỷ cho
con. Nhờ đó mà ngài đã cải hóa được Augustinô trở về với Chúa và phục vụ Giáo Hội.
Thứ
đến: là cảm hóa bằng gương sáng. Khi bị ngược đãi bởi mẹ chồng và chồng, thánh
nhân đã nêu cao gương khiêm nhường, yêu thương và tha thứ. Sẵn lòng thông cảm
cho tính khí của mẹ và chồng. Yêu thương, phục vụ, khiêm nhường và tha thứ là lựa
chọn của thánh nhân trong những lúc khó khăn và gặp chuyện chẳng lành.
Thứ
ba: là mẫu gương cầu nguyện và hy sinh. Thánh nhân đã kết hợp với Chúa cách liên
lỷ và hoàn toàn phó thác nơi Ngài.
Cuộc
đời của ngài với những biến cố vui buồn, thành công hay thất bại đều kết hợp với
Chúa. Ngài luôn phó thác mọi sự trong sự an bài của Thiên Chúa.
Thứ
tư: là sự kiên trì và trung thành. Kiên trì trong cầu nguyện. Trung thành trong
niềm tin, dù nhiều khi phải quặn đau.
Quả
thật, cả cuộc đời của thánh nhân đã để lại cho chúng ta gương sáng tuyệt vời
nơi những người vợ, người mẹ và cho hết mọi người.
9.
Mẹ là thiên thần
Có
một đứa bé sắp chào đời. Nó bèn hỏi Thượng Đế: Họ nói ngày mai Người sẽ đưa con
xuống trần gian, nhưng làm sao con sống nổi ở đó khi mà con quá nhỏ bé và bất lực
như thế này?
Thượng
Đế đáp: Trong số những thiên thần, ta đã chọn cho con một người. Thiên thần của
con sẽ đợi con và săn sóc con chu đáo.
Đứa
bé lại nài nỉ: Nhưng này con không phải làm việc gì ngoài ca hát và vui cười hạnh
phúc chứ? Thượng Đế đáp: Thiên thần của con sẽ hát cho con nghe và cũng sẽ tươi
cười với con mỗi ngày. Con sẽ cảm nhận được tình thương của người dành cho con
và con sẽ thấy rất hạnh phúc.
Đứa
bé lại hỏi: Và làm sao con có thể hiểu được khi họ nói chuyện với con bằng một
ngôn ngữ mà con chưa hề biết đến?
Thượng
Đế trả lời: Thiên thần của con sẽ nói với con bằng những ngôn từ nhẹ nhàng và đẹp
đẽ nhất mà con chưa từng được nghe, đồng thời với sự nhẫn nại và cẩn trọng,
thiên thần của con sẽ dạy con biết nói.
-
Con nghe nói chốn trần gian lắm kẻ xấu xa. Ai sẽ bảo vệ con?
-
Thiên thần của con sẽ hộ trì con ngay cả khi điều đó đe dọa đến tính mạng của
người.
-
Nhưng con sẽ rất buồn vì không còn được nhìn thấy Ngài nữa.
-
Thiên thần của con sẽ luôn nói với con về Ta, và dạy con cách thức quay về với
Ta dù rằng Ta luôn cận kề con.
Vào
giây phút đó, ở nơi thiên đường ngâp tràn an lạc nhưng người ta vẫn có thể nghe
thấy những tiếng gọi vang vọng từ cõi thế, và đứa bé vội vàng hỏi Thượng Đế:
-
Thưa Ngài, nếu con phải đi ngay bây giờ, xin hãy cho con biết tên thiên thần hộ
mạng của con.
-
Tên của người không quan trọng, con chỉ đơn giản gọi người là "Mẹ.”
10.
Tình yêu tiếp sức
Mạng
lưới truyền hình kể câu chuyện về một cậu bé người Mêxicô, 12 tuổi, tên là
Alfredo. Cậu mất cả gia đình trong một trận hỏa hoạn và khuôn mặt cậu bị biến dạng
một cách khủng khiếp. Chẳng có ai tiếp nhận Alfredo đến nỗi cuối cùng cậu phải
sống lang thang trên đường phố. Một hôm, tình cờ cậu gặp một trại mồ côi, cậu
tìm lối vào và tại đây cậu đã được thu nhận. Tối hôm đó, trại mồ côi tổ chức buổi
chúc mừng Alfredo. Giữa tiệc vui, máy quay phim ghi hình khuôn mặt Alfredo. Lần
đầu tiên, kể từ vụ hỏa hoạn, khuôn mặt đó đã ánh lên nụ cười tươi tắn. Một
Alfredo tưởng như đã chết nay được tái sinh trong cuộc sống mới. Một lần nữa, cậu
lại có một gia đình.
Tôi
có biết nhạy cảm đối với những con người bất hạnh không? Hiện nay ai là người
như thế trong đời tôi?
Chúng
ta có thể vẫn sống, dù nhịn ăn 40 ngày hoặc thiếu không khí trong 8 phút. Nhưng
chúng ta chỉ sống được một giây, nếu không có hy vọng (Hal Lindsay).
11.
Chúa tác sinh
Những
phép lạ của Chúa Giêsu là những viên pháo thăng thiên của lịch sử. Đó là “những
dấu chỉ” không thể sai lầm về một ngày mới đã tỏa rạng trên mặt đất này. Chúa
Giêsu mở mắt người mù. Đằng sau phép lạ có một ý nghĩ sâu sắc hơn, tức là dấu
chỉ về việc ta mở mắt ra trước một ngày mới. Chúa Giêsu làm cho kẻ chết sống lại.
Đằng sau phép lạ này cũng có một ý nghĩa sâu xa khác, đó là dấu chỉ vế việc ta
mở rộng chính mình cho quyền năng Chúa và để Ngài đưa ta từ sự chết đến sự sống.
Cái
gì đã ngăn cản tôi mở đôi mắt và mở rộng chính con người tôi để đón nhận ý
nghĩa sâu xa và sứ điệp chứa đựng trong phép lạ của Chúa Giêsu?
Công
cuộc khám phá thực sự không phải là tìm thấy những vùng đất mới, nhưng là nhìn
thấy bằng cái nhìn mới (Marcel Proust).
12.
Thần chết
Một
vị ẩn sĩ nọ, ngày kia lạc vào một hang động. Tại đây ông đã khám phá ra một kho
tàng với không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Nhưng ông đã vội vã ra khỏi
hang, vừa chạy vừa la thất thanh : "Tôi đã thấy thần chết.”
Tình
cờ ba tên cướp đi ngang qua đó, nghe tiếng kêu của vị ẩn sĩ, họ dừng lại hỏi
chuyện.
Muốn
chứng tỏ mình là những người không biết sợ là gì, ba tên cướp yêu cầu đưa họ đến
gặp thần chết. Vị ẩn sĩ dẫn họ vào hang động và chỉ vào kho tàng. Mắt họ sáng
lên và lập tức ba tên cướp tống cổ vị tu hành ra khỏi hang.
Nhưng
kho tàng quá lớn, họ không thể mang ra tất cả trong một ngày. Sau một hồi bàn
cãi ba tên cướp đồng ý để một người ra phố mua sắm lương thực. Hai người còn lại
ngồi đó canh giữ kho báu.
Người
được sai đi chợ nghĩ thầm trong bụng : "Ta sẽ ăn uống no nê, sau đó bỏ thuốc
độc vào thức ăn. Hai tên khốn nạn sẽ chết và tạ sẽ chiếm trọn kho tàng.”
Hai
tên ngồi canh giữ kho báu cũng bàn với nhau : "Chúng ta sẽ giết hắn. Và
như thế phần của mỗi người chúng ta sẽ nhiều hơn.”
Khi
kẻ mang lương thực về đến hang động : họ liền giết hắn và nuốt trọn thức ăn có
thuốc độc. Thế là cả ba đã cùng nhau đi gặp thần chết như lời vị ẩn sĩ tiên
báo.
13.
Trách nhiệm với sự sống
Một
Rabbi do thái tên là Nahman vừa có đứa con trai bị chết. Các rabbi bạn ông đến
an ủi nhưng chẳng thể nào làm cho ông hết đau lòng. Cuối cùng Rabbi Moses kể
cho ông nghe câu chuyện sau đây :
Một
ông vua kia giao cho một người đầy tớ giữ một báu vật. Anh này ngày nào cũng
than : "Khốn thân tôi ! Biết tới chừng nào nhà vua mới lấy lại báu vật này
để tôi không còn phải gánh vác trách nhiệm to lớn này nữa.”
Rồi
Rabbi Moses áp dụng : Bạn cũng đã được giao trách nhiệm gìn giữ một báu vật là
đứa con rất tốt lành của bạn. Nay nó đã được cất khỏi thế gian này mà không bị
sự dữ nào làm hoen ố. Vậy bạn phải vui mừng vì đã chu toàn trách nhiệm mà Vua
các vua đã giao cho ông chứ !
Câu
chuyện và lời khuyên của Rabbi Moses đã làm vơi đi nỗi buồn ủa Rabbi Nahman.
14.
Giá trị của sự sống vĩnh cửu
Linh
mục thừa sai Paul Belliveau ở Maryknoll cai quản một trong những giáo xứ đặc biệt
nhất thế giới. Giáo xứ này gồm khoảng 11 ngàn người tỵ nạn Salvador sống trong
một trại tập trung ở Honduras.
Đa
số họ là phụ nữ, trẻ em và người già. Họ giống như những tù nhân bị giam lỏng,
bởi vì chung quanh trại, đám lính luôn canh chừng không cho họ trốn chạy đi tìm
tự do ở nơi khác chẳng hạn như ở Mỹ.
Đây
là hai đoạn trích từ một quyển nhật ký mà Linh mục Belliveau còn giữ lại. Đoạn
thứ nhất được ghi lại vào một ngày Chúa Nhật, nội dung như sau: Tôi để ý thấy
nhiều dân tỵ nạn cứ dán mắt vào những tấm ván hở để nhìn ra phía ngoài nhà nguyện
khi có 18 người lính gác Honduras đi ngang qua trại. Tôi cảm thấy hình như họ rất
sợ hãi. Biết bao nhiêu lần chính mắt họ đã từng nhìn thấy những toán lính vũ
trang như thể tiến vào giết chóc và tiêu diệt làng mạc của họ tại El Salvador.
Tôi đã phải trấn an họ trước khi chúng tôi tiếp tục Thánh lễ.
Đoạn
thứ hai đề ngày thứ ba, nội dung như sau: Khi đến khu trại số 5, tôi thấy có
nhiều phụ nữ đang đọc kinh trong nhà nguyện. Tôi bước vào và ngồi xuống. Khoảng
80 phụ nữ đang gẫm Đàng Thánh Giá. Mỗi một chặng ngắm họ đều so sánh nỗi đau đớn
của Chúa Giêsu với khổ đau mà dân tỵ nạn đang gánh chịu. Hai người phụ nữ kể
cho tôi rằng họ đã đặt tên cho nhóm của mình là ‘Nhóm các bà mẹ mất con vì bạo
lực ở El Salvador’. Trong khi nói chuyện với đám phụ nữ, Linh mục Belliveau
nhìn thấy nơi khuôn mặt họ nỗi đau đớn mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi khuôn mặt
bà góa thành Naim. Cha hết lòng ao ước phải chi cha có thể làm cho những người
con đã chết của họ sống lại giống như Chúa Giêsu đã làm cho con trai của bà góa
nọ. Nhưng tiếc thay Belliveau không phải là Chúa Giêsu.
Nhưng
rồi vị Linh mục chợt nhận thấy một điều gì đó. Cha nhận ra rằng lúc này đây,
Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện thực sự trong nguyện đường này giống như Chúa đã
từng hiện diện nơi làng Naim hơn 2000 năm về trước; và hơn thế nữa, Chúa Giêsu
vẫn đang thực hiện nơi nhà nguyện bé nhỏ này phép lạ còn vĩ đại hơn phép lạ tại
Naim nữa; Vì nhờ lời cầu xin của các phụ nữ góa bụa này, Chúa Giêsu không phải
chỉ phục sinh đám con cái họ về mặt thể lý, vì điều này cũng sẽ chỉ kéo dài nhiều
lắm là 30-40 năm, trái lại, Ngài ban cho lũ con ấy cuộc sống vĩnh cửu, như lời
Ngài đã phán: Đây là ý Chúa Cha: Hễ ai thấy Chúa Con và tin vào Ngài sẽ được sự
sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày tận thế (Ga 6,40). Và bỗng dưng,
Linh mục Belliveau nhận ra rằng phép lạ Chúa Giêsu thực hiện cho các tín hữu
còn vĩ đại hơn nhiều so với phép lạ Ngài đã làm cho con trai bà góa thành Naim.
15.
Phép màu
Một
cô bé tám tuổi nghe cha mẹ mình nói chuyện về đứa em trai nhỏ. Cô bé chỉ hiểu rằng
em mình đang bị bệnh rất nặng và gia đình cô không còn tiền. Chỉ có một cuộc phẫu
thuật rất tốn kém mới cứu sống được em trai cô bé, và cha mẹ em không tìm ra
người nào quảng đại để có thể vay tiền. Do đó, gia đình em sẽ phải dọn đến ở một
căn nhà nhỏ hơn vì họ không đủ khả năng tiếp tục ở căn nhà hiện tại sau khi trả
tiền bác sĩ.
Cô
bé nghe bố nói với mẹ bằng giọng thì thầm tuyệt vọng:
-
Chỉ có phép màu mới cứu sống được Andrew.
Thế
là cô bé vào phòng mình, kéo ra một con heo đất được giấu kỹ trong tủ. Em dốc hết
đống tiền lẻ và đếm cẩn thận.
Rồi
cô bé lẻn ra ngoài bằng cửa sau để đến tiệm thuốc gần đó. Em đặt toàn bộ số tiền
mình có lên quầy.
Người
bán thuốc hỏi:
-
Cháu cần gì?
Cô
bé trả lời:
-
Em trai của cháu bệnh rất nặng và cháu muốn mua phép màu.
-
Cháu bảo sao? - Người bán thuốc hỏi lại.
-
Em cháu tên Andrew. Nó bị một căn bệnh gì đó trong đầu mà bố cháu nói chỉ có
phép màu mới cứu được nó. Phép màu giá bao nhiêu ạ?
- Ở
đây không bán phép màu, cháu à. Chú rất tiếc - Người bán thuốc nở nụ cười buồn
và tỏ vẻ cảm thông với cô bé.
-
Cháu có tiền trả mà. Nếu không đủ, cháu sẽ cố tìm thêm. Chỉ cần cho cháu biết
giá bao nhiêu?
Trong
cửa hàng còn có một vị khách ăn mặc thanh lịch. Sau khi nghe câu chuyện, ông
cúi xuống hỏi cô bé:
-
Em cháu cần loại phép màu gì?
-
Cháu cũng không biết nữa. - Cô bé trả lời, rớm rớm nước mắt. - Nhưng em cháu rất
cần phép màu đó. Nó bị bệnh nặng lắm, mẹ cháu nói rằng nó cần được phẫu thuật
và hình như phải có thêm loại phép màu gì đó nữa mới cứu được em cháu. Cháu đã
lấy ra toàn bộ số tiền để dành của mình để đi tìm mua phép màu đó.
-
Cháu có bao nhiêu? - Vị khách hỏi.
Cô
bé trả lời vừa đủ nghe:
- Một
đô-la mười một xu.
Người
đàn ông mỉm cười:
- Ồ!
Vừa đủ cho cái giá của phép màu.
Một
tay ông cầm tiền của cô bé, tay kia ông nắm tay em và nói:
- Dẫn
bác về nhà cháu nhé. Bác muốn gặp em trai và cha mẹ cháu. Để xem bác có loại
phép màu mà em cháu cần không.
Người
đàn ông thanh lịch đó là Bác sĩ Carlton Armstrong, một phẫu thuật gia thần kinh
tài năng. Ca mổ được hoàn thành mà không mất tiền, và không lâu sau Andrew đã
có thể về nhà, khỏe mạnh.
Mẹ
cô bé thì thầm:
- Mọi
chuyện diễn ra kỳ lạ như có một phép màu. Thật không thể tương tượng nổi. Thật
là vô giá!
Cô
bé mỉm cười. Em biết chính xác phép màu giá bao nhiêu. Một đô la mười một xu, cộng
với niềm tin chân thành của một đứa trẻ, và lòng tốt của người bác sĩ.
Vâng!
Niềm tin, sự chân thành và lòng trắc ẩn của con người có thể khiến phép màu xảy
ra!
16.
Cái giếng cũ
Ðây là một cái giếng mà nước rất trong sạch và
dịu mát làm cho ai uống vào cũng cảm thấy khoan khoái. Một điều đặc biệt nữa là
chưa bao giờ giếng này cạn nước cho dù mùa hè có nắng hạn đến đâu đi nữa. Chủ
nhân của cái giếng này là một bác nông dân nghèo.
Nhưng đến một lúc mà hệ thống điện nước chuyển
đến nông thôn, thì cái giếng của bác xem ra cũng trở thành vô dụng. Căn nhà của
bác cũng được sửa chữa lại, hệ thống dẫn nước cũng được thiết lập. Không ai buồn
nghĩ đến chuyện phải vất vả để kéo nước từ cái giếng đó nữa. Thế là cái giếng bị
đóng lại.
Bẵng đi nhiều năm trời. Một ngày nọ vì tò mò,
người nhà của bác nông dân mở cái giếng cũ ra xem, thì lạ thay, giếng nước đã bị
khô cạn. Bác nông dân không thể hiểu tại sao cái giếng nước trong lành của mình
đã trở thành khô cạn. Mãi về sau, ông mới khám phá ra nguyên do: cái giếng cũ của
ông vốn được bao nhiêu mạch nhỏ tiếp tế, càng múc nước thì nước càng tuôn chảy
vào giếng. Nay đã nhiều năm qua, nước giếng không còn được múc lên nữa cho nên
các mạch nước bị bít kín và phần nước còn sót lại trong đáy giếng cũng dần bị bốc
hơi và khô cạn.
Câu chuyện về cái giếng cũ trên đây có thể là
một dụ ngôn về suối nước không bao giờ khô cạn mà Thiên Chúa đã mở ra qua cái
chết của Chúa Giêsu Kitô. Cái chết của Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của một cuộc đời
hướng về tha nhân, tiêu hao vì tha nhân, dốc cạn vì tha nhân. Ðó cũng là chân
lý về cuộc đời. Càng trao ban, càng dốc cạn, càng được múc lấy. Càng tiêu hao,
càng mất chính mình thì con người càng trở nên phong phú, con người càng trở
nên chính mình. Giếng nước càng được múc thì càng trở nên dồi dào. Con người
càng trao ban thì cũng càng trở nên phong phú hơn.
17.
Thương cảm
Các
Phúc Âm cho thấy rõ ràng rằng sự thương cảm là một động lực đằng sau công việc
chữa lành của Đức Giêsu.
Walter
Payton là một trong những cầu thủ nổi tiếng của đội dã cầu Chicago Bears. Ở
Chicago, ông thường được gọi là “Sweetness” và cũng là một trong những cầu thủ
giỏi nhất chơi cho đội Bears.
Về
phương diện cá tính cũng như nghề nghiệp, ông xứng đáng với cái tên
“Sweetness.”
Ông
mất sớm, và sau khi từ trần không lâu, một bà trước đây ở Chicago gửi một lá
thư cho tờ Dallas Morning News. Bà kể khi tham dự một cuộc triển lãm xe hơi ở
Chicago, ông Walter Payton đang đứng trên một cái bục, ký tên lưu niệm.
Một
bé trai, khoảng 12 tuổi, đưa cho người giúp việc một trái banh dã cầu mà em đã
đem theo từ nhà để được ông Payton ký tên vào đó.
Ông
Payton ký tên, ném trái banh xuống cho bé trai này, và tiếp tục ký tên lưu niệm.
Ông không thấy rằng một thiếu niên cao lớn khác đã chụp lấy trái banh này và lẻn
ra khỏi đám đông. Em bé trai ôm mặt khóc.
Một
phụ nữ đứng cạnh đó đã len qua đám đông để lưu ý người giúp việc về sự kiện xảy
ra. Ông này đã nói lại cho ông Payton biết về sự việc và ông Payton đã gọi em
bé trai đến.
Ông
hỏi tên và địa chỉ của em và cho biết ông sẽ gửi cho em một trái dã cầu có chữ
ký của ông.
Người
phụ nữ viết thư cho tờ báo đó nói:
Tôi
chưa bao giờ được thấy nước mắt trở thành một nụ cười tươi rói sau khi em bắt
tay ông Payton.
Bà
kết luận: Tôi tin rằng ông Payton không chỉ là “Mr. Sweetness” ở ngoài sân
banh, nhưng còn trong mọi khía cạnh của cuộc đời ngắn ngủi của ông. (Lorraine
Rukavina, Carrollton, Texas)
18.
Chiếc áo từ nhân
Marie
Paranov, một bá tước phu nhân người Nga, đang trên đường đi Menton, bên Ðức để
chữa bệnh lao phổi. Ngồi một mình trong toa xe lửa bà cảm thấy cô đơn lạc lõng.
Người lão bộc Ivan cùng đi, chỉ đến toa của bà thăm hỏi và chờ lệnh của bà ở mỗi
lần xe ngừng lại tại trạm nghỉ mà thôi.
Ðêm
xuống dần trong khi tàu vẫn chạy nhanh, phu nhân cảm thấy khó ngủ nên bà mở ví ra
trút hết những đồng tiền vàng trên lòng bàn tay và bắt đầu đếm, vì chồng bà đã
cho bà một số tiền để hộ thân. Bỗng, bà cảm thấy một luồng gió lạnh tạt vào. Ngẩng
lên, bà bắt gặp một người đàn ông cao lớn, ăn mặc chỉnh tề lịch sự và bị thương
ở tay đi vào toa xe của bà. Ông ta đóng cửa lại và nhìn bà với đôi mắt đen
nhánh. Bà run sợ quá đến nỗi những đồng tiền vàng rơi xuống sàn tàu. Người lạ mặt
nhìn những đồng tiền vàng ấy và cúi xuống nhặt lên. Thừa cơ hội, bá tước phu
nhân đứng dậy chạy ra phía cửa sổ định nhảy xuống tàu. Biết ý định của bà, ông
ta nắm giữ bà lại và xin bà ngồi xuống rồi nói:
-
Thưa bà, hãy nghe tôi. Tôi không phải là tên gian phi, tôi nhặt tiền này để trả
lại cho bà. Tôi sẽ chết nếu bà không giúp tôi qua khỏi biên giới. Khoảng một giờ
sau tôi phải có mặt ở trạm cuối cùng của nước Nga, mười phút sau đó tôi phải có
mặt ở một nước khác. Nếu bà không cứu giúp tôi, tôi sẽ bị bắt, tôi không thể giải
thích tại sao, nhưng xin bà hãy tin tôi. Tôi không sát nhân, không trộm cắp,
không làm điều gì sai quấy. Tôi lấy danh dự thề với bà, xin bà hãy cứu giúp
tôi.
Bà
bá tước phu nhân lặng thinh, lấy lại bình tĩnh dần dần, còn ông ta thì ngồi bất
động mắt nhìn về phía trước. Thỉnh thoảng, bà liếc nhìn ông thật nhanh. Tàu lướt
chạy nhanh trong đêm tối rồi dừng lại ở một trạm nghỉ. Người nô bộc Ivan đến cửa
toa để nhận lệnh của bà. Bà nhìn người bạn đồng hành xa lạ rồi nói với lão nô bộc:
-
Ivan, ta không cần ngươi theo ta đến Menton nữa, hãy lấy tiền này mà mua vé trở
lại Saint Peterbourg. Cảm ơn lão đã giúp ta, hãy cho ta cái áo khoác, cái mũ và
cái giấy thông hành của lão.
Người
nô bộc không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nhưng theo lệnh của chủ, ông lột mũ, cởi
áo khoác và trao giấy thông hành cho bà rồi ra đi. Bá tước phu nhân nói với người
khách lạ:
- Hãy
mặc áo, đội mũ vào. Bây giờ ông là Ivan, người nô bộc của tôi. Tôi chỉ cần điều
kiện duy nhất là việc gì tôi làm cho ông, ông không được nói gì cả. Tôi không
muốn bất cứ điều gì ngay cả khi ông chỉ nói với tôi một tiếng cám ơn.
Người
khách lạ gật đầu, không nói một câu, im lặng làm theo ý bà. Chẳng bao lâu, tàu
dừng lại lần nữa, nhiều cảnh sát đi vào toa. Bá tước phu nhân kiêu hãnh nói với
họ:
-
Tôi là bá tước phu nhân Paranov ở Saint Peterbourg, và đây là người đầy tớ Ivan
của tôi.
Bà
đưa cho viên sĩ quan coi giấy thông hành. Xem xong, họ trả lại bà. Trong đêm
đó, hai người đều im lặng. Sáng hôm sau, tàu ngừng tại Menton. Ðây là trạm cuối
cùng. Hai người chào từ giã nhau mà không nói với nhau một lời.
Tất
cả những diễn biến trong chuyến tàu đêm ấy đã phát xuất từ trái tim đầy từ bi
và nhân hậu của bá tước phu nhân. Chiếc áo khoác của người nô bộc Ivan đã trở
thành chiếc áo từ nhân khoác lên một người cần lòng bao dung cứu giúp. Chiếc áo
từ nhân ấy đã trở thành chiếc áo an toàn cho một người cần vượt biên giới. Trước
một người van nài lòng thương xót, chiếc áo nô bộc đã trở thành chiếc áo từ
nhân.
LỄ THÁNH GIOAN TẨY
GIẢ BỊ TRẢM QUYẾT - CÁI CHẾT CỦA MỘT TIÊN TRI
Lời
Chúa: Mc 6, 17-29
Khi
ấy, Hêrôđê đã sai đi bắt Gioan và giam ông trong ngục: nguyên do tại Hêrôđia, vợ
của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan bảo Hêrôđê: "Nhà vua
không được phép chiếm lấy vợ anh mình." Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn
giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người
chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân,
nhưng lại vui lòng nghe.
Dịp
thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần
trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng
Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền
nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muốn gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua
thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho."
Cô
ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gio-an Tẩy Giả."
Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu
Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa." Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các
quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị
vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu
Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ.
Nghe
tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.
TRUYỆN
KỂ
1.
Một học sinh can đảm
Một
học sinh Nhật là Kitô hữu duy nhất trong một ngôi trường có 150 học sinh. Trước
mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến
tố cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật." Nghe thấy thế, thầy cho
gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì. Em thẳng thắn nói rằng em chỉ
cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước
mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Kitô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra
cho mọi người biết. Giờ thì cảm ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm
gì”
2.
Thánh tử đạo vô danh
Ngày
27/04/1945, quân Đức Quốc Xã thất trận, phải rút quân ở Italia về biên giới nước
Áo. Trên đường rút quân, họ đã bắn phá nhiều làng mạc để trả thù quân kháng chiến
Italia đã cố tình tìm cách cản trở đường rút rui của họ. Trong tình cảnh này,
Linh mục Decande, một Cha sở nhân lành vì muốn cứu dân làng Fiatsa gần thành phố
Vêrôna khỏi bị quân Đức tàn sát, đã đích thân đến gặp viên quan chỉ huy đoàn
quân Đức để van nài ông đừng bắt giết và tàn sát dân làng vô tội. Bị quẫn trí
vì sự thất trận.Viên sỹ quan giận dữ ra lệnh bắt giam Cha Sở. Ông quát lên với
Ngài:
-
Mày phải bị xử bắn và chết thay cho những tên kháng chiến phá hoại mà chúng tao
không bắt được. Mày phải đền tội thay cho những kẻ khác!
Nói
rồi, viên sỹ quan ra lệnh cho toán quân hành quyết sẵn sàng. Vị Linh mục bị
trói, đứng bất động chờ loạt đạn của tiểu đội hành quyết. Bỗng nhiên từ hàng
quân đang chĩa súng vào ngài đợi lệnh để nổ súng, một quân nhân bước ra khỏi
hàng, tiến đến trước mặt ngài và nghiêm chỉnh chào. Rồi anh quay lại nói với vị
chỉ huy của mình:
-
Tôi là tín hữu Công Giáo, không bao giờ tôi lại bắn vào vị Linh mục của Chúa.
Viên
sỹ quan tái mặt. Ông ra lệnh trói luôn người lính can đảm kia bên cạnh vị Linh
mục. Một vài phút sau đó, một loạt đạn nổ vang, hai thây người ngã gục, toán
lính kéo hai xác người vùi xuống một hố bom gần đó. Dân làng Fiatsa không biết
người lính Đức Công Giáo đó tên là gì, họ chỉ tìm thấy trên thi hài anh một xâu
chuỗi mân côi.
3.
Lương tâm con người
Văn
hào Chateaubriand của Pháp vào thế kỷ 19 đã viết về lương tâm con người như sau:
“Con sư tử sau khi giết và ăn thịt con mồi có thể nằm lăn ra ngủ, nhưng con người
không thể ngủ yên sau khi giết hại một người đồng loại của mình."
Thi
hào Victor Hugo trong bài thơ “Lương tâm” đã mô tả tâm trạng vô cùng đau thương
của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Cho dẫu Cain có đi đâu, cho dẫu ông
có đào một huyệt sâu trong lòng đất để trú ẩn, ánh mắt lương tâm cũng không bao
giờ buông tha cho ông."
4.
Không biết tội của mình
Tại
một xứ Hồi giáo nọ, có người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ vì ăn trộm thức ăn
của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép
xin một ân huệ. Kẻ từ tội liền xin nhà vua:
-
Tâu bệ hạ, xin cho thần được chồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống
sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần
đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ
không truyền lại cho hậu thế được.
Nhà
vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn chồng táo.
Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và
nói:
-
Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này.
Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không trồng được.
Nhà
vua tin lời, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:
-
Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu thần cũng đã có lần lấy của người khác.
Thần cảm thấy không đủ điều kiện trồng hạt táo này.
Nhà
vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ
kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan
thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần
gian tham trong chuyện tiền bạc.
Bấy
giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:
-
Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các
ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của
người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác
ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ tôi.
Nghe
thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xao trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh
phóng thích người ăn trộm.
5.
Lừa dối lương tâm
Dương
Chấn, người đất Quan Tây đời nhà Hán, làm quan Thái Úy, tính tình thanh liêm,
chánh trực. Khi đang làm Thứ Sử, ông có tiến dẫn Vương Mật làm Lệnh Doãn huyện
Xương Ấp.
Một
hôm, trời tối đi ngang qua Xương Ấp, Dương Chấn nghỉ lại đó một đêm. Vương Mật
lén đem 10 lượng vàng đến để đền ơn thuở trước. Dương Chấn thấy vậy, trách
Vương Mật:
-
Ta biết tài ngươi, mà ngươi không biết được lòng ta.
Vương
Mật cố năn nỉ:
-
Đêm hôm khuya khoắt, không có một ai hay biết, ngài sợ gì?
Dương
Chấn nghiệm mặt đáp:
-
Sáng thì có trời đất biết, tối thì có quỷ thần soi biết, trong có ta biết,
ngoài có ngươi biết. Chỗ hay biết có nhiều như vậy, sao ngươi gọi là không ai
biết?
6.
Lương tâm chân chính
Nhóm
nhạc Lê Minh Bằng (1959), cho ra đời Đêm Nguyện Cầu – nhạc phẩm đầu tay của
nhóm – được mở đầu với những ca từ như sau:
“Hãy
lắng tiếng nói vang trong tâm hồn mình, người ơi
Con
tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối…”
Làm đánh động lương tâm nhiều người yêu hòa
bình; chán ghét chiến tranh hận thù… trong những năm đất nước còn chiến tranh
tương tàn.
Hôm
nay, Giáo hội tưởng nhớ cái chết bi thương của một vị thánh đã dám bày tỏ lương
tâm chân chính của mình để bảo vệ chân lý; can đảm chấp nhận trảm quyết để nói
lên sự thật; và đã nên chứng nhân anh hùng cho Tin Mừng Cứu Độ…
Lời Chúa Tuần 21 Thường Niên
Thường niên VGS CPS Ngoại lịch